CAO ĐÀI TỪ ĐIỂN

 

Danh mục vần CH

CHA

·         Cha - Thầy

 

CHÁC

·         Chác

·         Chác buộc

·         Chác tiếng bua danh

 

CHÁNH (CHÍNH)

·         Chánh

·         Chánh Chủ khảo

·         Chánh chuyên (Chính chuyên)

·         Chánh danh (Chính danh)

·         Chánh đại quang minh

·         Chánh đạo - Chánh giáo

·         Chánh đẳng Chánh giác

·         Chánh điện

·         Chánh lý

·         Chánh môn

·         Chánh Ngọ - Chánh Tý

·         Chánh ngoạt

·         Chánh nhứt

·         Chánh niệm (Xem: Vọng niệm, vần V)

·         Chánh Phối Sư

·         Chánh quả

·         Chánh tà

·         Chánh tâm - Chơn tâm

·         Chánh tế - Phụ tế

·         Chánh thể

·         Chánh tín (Xem: Mê tín, vần M)

·         Chánh trị & Ðạo

·         Chánh Trị Ðạo

·         Chánh Trị Sự - Phó Trị Sự - Thông sự

·         Chánh truyền

·         Chánh tự

·         Chánh văn

·         Chánh vị

 

CHÀY

·         Chày kình

 

CHÂM

·         Châm

·         Châm chế

·         Châm chước

·         Châm tửu

 

CHÂN

·         Chân (Xem: Chơn)

 

CHẤN

·         Chấn động

·         Chấn hưng

 

CHẨN

·         Chẩn bần

 

CHẤP

·         Chấp

·         Chấp bút

·         Chấp mê

·         Chấp ngã

·         Chấp sự giả các tư kỳ sự

·         Chấp thủ

·         Chấp trách

·         Chấp trung quán nhứt

 

CHÂU (CHU)

·         Châu

·         Châu cấp

·         Châu Công

·         Châu đạo

·         Châu Mãi Thần

·         Châu nhi phục thỉ

·         Châu thành Thánh địa

·         Châu toàn

·         Châu tri - Thông tri

 

CHẾ

·         Chế biến

·         Chế ngự

 

CHI

·         Chi

·         Chi chi hữu sanh

·         Chi lan

·         Chi phái

 

CHÍ

·         Chí

·         Chí chơn

·         Chí công

·         Chí cực chí tôn

·         Chí đức

·         Chí linh

·         Chí phàm

·         Chí sĩ

·         Chí tâm qui mạng lễ

·         Chí thành

·         Chí thiện

·         Chí Tôn

 

CHÍCH

·         Chích

·         Chích cánh

·         Chích lẻ

 

CHIÊM

·         Chiêm nghiệm

·         Chiêm ngưỡng

 

CHIẾN

·         Chiến sĩ trận vong

 

CHIẾT

·         Chiết

·         Chiết khảm điền ly (Xem chữ Bát Quái, vần B)

·         Chiết trung

·         Chiết tự

 

CHIÊU

·         Chiêu

·         Chiêu hồn

·         Chiêu phước họa

·         Chiêu tài tấn bảo

 

CHIẾU

·         Chiếu

·         Chiếu chỉ

·         Chiếu diệu

·         Chiếu giám

·         Chiếu y

 

CHÍN

·         Chín Cô

·         Chín lớp

·         Chín Trời mười Phật

 

CHỈN

·         Chỉn có

 

CHINH

·         Chinh lòng

 

CHÍNH

·         Chính (Xem: Chánh)

 

CHỈNH

·         Chỉnh

·         Chỉnh sát cúng phẩm

·         Chỉnh Tiên hoa

·         Chỉnh túc y quan

 

CHƠN (CHÂN)

·         Chơn

·         Chơn hồn

·         Chơn linh - Chơn thần

·         Chơn lý

·         Chơn mạng

·         Chơn mây

·         Chơn ngã

·         Chơn ngôn

·         Chơn nhơn

·         Chơn nữ

·         Chơn pháp

·         Chơn pháp bí truyền

·         Chơn Phật

·         Chơn Quân

·         Chơn tâm

·         Chơn thân

·         Chơn thiệt nghĩa

·         Chơn trị

·         Chơn truyền

·         Chơn tu

·         Chơn tục

 

CHU

·         Chu (Xem: Châu)

 

CHÚ

·         Chú giải

·         Chú Vãng Sanh (Xem: Vãng Sanh Thần Chú, vần V)

 

CHỦ

·         Chủ

·         Chủ nghĩa

·         Chủ quan - Khách quan

·         Chủ quản

·         Chủ tể

·         Chủ tọa

·         Chủ trung

·         Chủ trương

·         Chủ trưởng Chức sắc

·         Chủ trưởng Bàn Cai quản Phước Thiện

·         Chủ tướng

·         Chủ ý

 

CHÙA

·         Chùa chiền

·         Chùa Gò Kén (Xem: Từ Lâm Tự, vần T)

 

CHUẨN

·         Chuẩn

·         Chuẩn Ðề Bồ Tát

·         Chuẩn nhận

·         Chuẩn phê

·         Chuẩn thằng

·         Chuẩn y

 

CHÚC

·         Chúc thọ

 

CHUNG

·         Chung

·         Chung cửu

·         Chung đỉnh

·         Chung hiến lễ

·         Chung ly biệt - Chung ly hận

·         Chung niên

·         Chung phong

·         Chung qui

·         Chung thân

·         Chung tình

 

CHÚNG

·         Chúng

·         Chúng nam

·         Chúng sanh

·         Chúng sơn

 

CHUYÊN

·         Chuyên luyện

·         Chuyên quyền

 

CHUYỂN

·         Chuyển

·         Chuyển đọa vi thăng

·         Chuyển kiếp

·         Chuyển luân

·         Chuyển pháp

·         Chuyển thân tái thế

·         Chuyển thế

 

CHƯ

·         Chư

·         Chư ác mạc tác

·         Chư hiền

·         Chư linh

·         Chư nhu

·         Chư sơn

 

CHỨC

·         Chức

·         Chức cẩm hồi văn

·         Chức sắc Thiên phong

·         Chức trách trọng hậu

·         Chức việc

 

CHƯNG

·         Chưng

 

CHỨNG

·         Chứng

·         Chứng chiếu

·         Chứng đàn

·         Chứng hôn

·         Chứng minh

·         Chứng quả

·         Chứng sự

·         Chứng thật - Chứng kiến - Vi chứng

·         Chứng tri

 

CHUỚC

·         Chước

·         Chước mầu

·         Chước sâu kế độc

·         Chước tửu

·         Chước tửu quỳnh

 

CHƯỞNG

·         Chưởng

·         Chưởng âm

·         Chưởng Ấn

·         Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

·         Chưởng giáo

·         Chưởng Pháp

·         Chưởng qua đắc qua, chưởng đậu đắc đậu

·         Chưởng quản

·         Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố

 

 

 

 

CHA

Cha - Thầy

A: Divine Father - Supreme Master.

P: Père Divin - Maiâtre Suprême.

CHA và THẦY là hai tiếng rất thân thiết mà các tín đồ Ðạo Cao Ðài thường dùng để gọi Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

Mỗi người chúng ta đều có Tam thể xác thân:

·         Thể xác bằng xương thịt do cha mẹ phàm trần sanh ra.

·         Chơn thần tức là xác thân thiêng liêng do Ðức Phật Mẫu tạo ra. Do đó, chúng ta gọi Ðức Phật Mẫu là Ðại Từ Mẫu, tức là Ðức Mẹ thiêng liêng.

·         Chơn linh hay linh hồn là điểm linh quang do Ðức Chí Tôn chiết ra từ khối Ðại Linh quang ban cho mỗi người để điều khiển chơn thần và thể xác. Do đó, chúng ta gọi Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ, là Ðấng Cha thiêng liêng.

Vậy, mỗi người chúng ta, ngoài cha mẹ phàm trần, chúng ta còn có hai Ðấng CHA MẸ chung thiêng liêng là Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu.

Khi Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy Ðạo, mở ÐÐTKPÐ, Ðức Chí Tôn xưng mình là Thầy và gọi các tín đồ là môn đệ.

Như vậy, Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế, vừa là CHA, vừa là THẦY của chúng ta và của toàn nhơn loại.

Ðức Phạm Hộ Pháp rất thắc mắc về điều nầy, nên mới đem ra hỏi Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo):

- Le PÈRE et le MAÎTRE sont différents. Pourquoi notre PÈRE prend-il aussi le titre de MAÎTRE?

(CHA và THẦY khác nhau. Tại sao Ðại Từ Phụ của chúng ta lấy danh xưng là Thầy?)

Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ trả lời bằng thơ Pháp văn, chép ra sau đây:

Il est même temps Père et Maître,

Parce que c'est de LUI, vient tout notre être.

Il nourrit notre corps de ce qui est sain,

Et fabrique notre esprit de ce qui est divin.

En LUI, tout est Science et Sagesse,

Le progrès de l'âme est son oeuvre sans cesse.

Les viles matières sont joyaux à ses yeux,

De vils esprits, Il en fait des Dieux.

Sa loi est Amour, sa puissance est Justice.

Il ne connaiât que la vertu et non le vice.

PÈRE: Il donne à ses enfants sa Vitalité,

MAÎTRE: Il leur lègue sa propre Divinité.

Nghĩa là:

Ngài trong cùng một lúc là CHA và THẦY,

Bởi vì chính Ngài sanh ra tất cả con người chúng ta.

Ngài nuôi dưỡng thân thể chúng ta bằng vật lành mạnh,

Và tạo ra linh hồn chúng ta bằng phép thiêng liêng.

Nơi Ngài, tất cả là thông thái và trí huệ,

Sự tiến hóa của linh hồn là công nghiệp của Ngài không ngừng.

Những vật chất hèn mọn là châu báu trước mắt Ngài,

Những linh hồn hèn hạ, Ngài biến chúng thành Thần Thánh.

Luật của Ngài là Bác ái, quyền của Ngài là Công chánh.

Ngài chỉ biết đạo đức và không biết thói xấu.

CHA: Ngài ban cho các con Sanh khí của Ngài.

THẦY: Ngài di tặng cho họ cái Thiên tánh riêng của Ngài.

Ðức Phạm Hộ Pháp diễn dịch ra thơ như sau:

Người cũng vẫn Cha, Thầy luôn một,

Cả chơn linh, hài cốt tay Người.

Nuôi hình dùng vật tốt tươi,

Tạo hồn lấy phép tột vời Chí Linh.

Nơi Người vốn quang minh cách trí,

Tấn hóa hồn phép quí không ngưng.

Vật hèn trước mắt thành trân,

Hồn hèn Người lại dành phần Phật, Tiên.

Luật thương yêu, quyền là ngay chánh,

Gần thiện căn, xa lánh phàm tâm.

Làm Cha nuôi nấng ân cần,

Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Tiên.

ÐÐTKPÐ: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

 

CHÁC

CHÁC

CHÁC: Chuốc lấy, rước lấy.
Td: Chác buộc, Chác tiếng.

 

Chác buộc

A: To search for.

P: S'attirer.

Chác: Chuốc lấy, rước lấy. Buộc: cột cho chặt.

Chác buộc là mang lấy đem cột vào người, nên luôn luôn bị ràng buộc, không còn được ung dung thơ thới.

TNHT: Chung đỉnh mảng tranh giành, lợi danh thường chác buộc, kiếp phù sanh không mấy lát,...

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chác tiếng bua danh

A: To seek glory.

P: Convoiter la gloire.

Chác: Chuốc lấy, rước lấy. Tiếng: tiếng tăm. Bua: đồng nghĩa với Chác. Danh: danh tiếng.

Chác tiếng bua danh là cầu lấy danh tiếng.

TÐ ÐPHP: Làm gương xấu cho kẻ chác tiếng bua danh, gây phe đảng, lập riêng tư làm nên thế lực.

TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

 

CHÁNH (CHÍNH)

CHÁNH

1.    CHÁNH: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy.
Td: Chánh danh, Chánh đạo.

2.    CHÁNH: Ðứng đầu, lớn nhứt.
Td: Chánh điện, Chánh môn.

3.    CHÁNH: Việc chánh trị, việc tổ chức trị an trong nước.
Td: Chánh kiến, Chánh trị.

 

Chánh Chủ khảo

正主考

A: The principal examiner.

P: L'examinateur principal.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Chủ: người có nhiệm vụ cốt yếu. Khảo: cuộc thi tuyển chọn người tài giỏi.

Chánh Chủ khảo là người đứng đầu trong công cuộc tổ chức thi tuyển và chấm thi đậu rớt để tuyển chọn người tài giỏi.

Thời ÐÐTKPÐ, Ðức Chí Tôn lập ra một Trường thi công quả cho chúng sanh đắc đạo. Ðức Chí Tôn giao cho Ðức Phật Di-Lạc làm Chánh Chủ khảo, tuyển đức lọc công, chấm phong người xứng đáng vào những phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Cuộc thi lớn lao nầy dành cho toàn cả nhơn loại, gọi là cuộc Phán Xét Cuối Cùng hay Ðại Hội Long Hoa, để sau đó lập đời Thượng nguơn Thánh đức.

KÐT: Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị.

Ðây là cuộc thi chung kết trong suốt một chặn đường tiến hóa dài của nhơn loại, để rồi 700 ngàn năm sau nữa mới có một kỳ thi tương tự, chấm dứt nhiệm vụ phổ độ của ÐÐTKPÐ.

Tại sao Ðức Chí Tôn không làm Chánh Chủ khảo mà lại giao cho Ðức Di-Lạc Vương Phật?

Bởi vì Ðức Chí Tôn đã làm Thầy, làm Cha, mở Ðạo lo việc giáo hóa nhơn sanh, rèn luyện môn đệ chờ đến ngày thi cử để chứng tỏ tài năng. Nếu Thầy mà lại làm Giám khảo chấm thi học trò của mình thì người ta sẽ nghi ngờ ông Thầy tư vị học trò mình, làm mất lẽ công bình chăng? Vì Thầy bao giờ cũng muốn học trò mình thi đậu càng nhiều càng tốt.

Cho nên để khỏi ai dị nghị, và đúng lẽ công bình thì Thầy không làm Giám khảo mà giao nhiệm vụ nầy cho một vị khác, là Ðức Phật Di-Lạc.

Cũng như thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật Thích Ca mở đạo Phật giáo hóa các môn đồ, thì Ðức Phật A-Di-Ðà làm Chánh Chủ khảo chấm thi đậu rớt. Hai môn thi chánh của cuộc thi thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ là Công quảLuyện đạo. Phải thi đậu cả hai môn nầy thì mới đắc thành Tiên, Phật.

Nhưng đến thời ÐÐTKPÐ, Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, nên Ðức Chí Tôn miễn cho môn thi Luyện đạo, chỉ còn một môn thi Công quả. Thí sinh nào có đầy đủ công quả thì đắc đạo. Do đó, Ðức Phật Di-Lạc phải thiết lập Bộ Công quả để căn cứ vào đó mà chấm thi đậu rớt.

KTTg: Bộ Công Di-Lạc Tam Kỳ độ sanh.

ÐÐTKPÐ: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

KÐT: Kinh Ðại Tường.

KTTg: Kinh Tiểu Tường.

 

Chánh chuyên (Chính chuyên)

正專

A: Faithful, constant (woman).

P: Fidèle, constant (femme).

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Chuyên: chỉ chú ý một việc.

Chánh chuyên hay Chính chuyên là chỉ người phụ nữ đức hạnh, lòng dạ cứng cỏi không thay đổi.

Bài thài hiến lễ Cửu Nương:

Chính chuyên buồn chẳng trọn đời.

 

Chánh danh (Chính danh)

正名

A: The true name.

P: Le vrai nom.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Danh: tên.

Chánh danh hay Chính danh là cái tên gọi phải đúng theo cái nghĩa của nó.

Chính danh là một phần quan trọng trong học thuyết của Nho giáo do Ðức Khổng Tử đề ra. Ðó là một nguyên tắc về chánh trị có mục đích ổn định trật tự xã hội, làm cho đời loạn trở nên đời bình trị.

Chính danh, ví như gọi là vua thì phải làm đúng bổn phận của một ông vua, gọi là quan thì phải làm đúng bổn phận của một ông quan, nghĩa là làm đúng theo ý nghĩa của tên gọi; trái lại, như làm quan Hàn Lâm mà không biết chữ, làm Thừa phái mà không biết việc, như vậy là bất chính danh.

"Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành." Nghĩa là: Danh không chánh thì lời nói không xuôi, lời nói không xuôi thì việc không kết quả. Cho nên, người quân tử danh có chánh thì khá nói được, nói được thì ắt làm được. Bởi vậy người quântử không bao giờ dám cẩu thả lời nói.

Tôn chỉ Chánh danh của Ðức Khổng Tử được Ngài phô diễn rõ rệt trong sách Xuân Thu của Ngài.

Ngài làm sách Xuân Thu là để bày tỏ cái ý nghĩa của sự Chánh danh định phận, khiến cho sự ngôn luận có tiêu chuẩn rõ ràng, chỉ rõ kẻ gian người ngay, kẻ nịnh người trung. Danh đã chánh thì việc gì đều có nghĩa của việc ấy, những tà thuyết không làm mờ tối chơn lý. Danh phận đã được định rõ thì người nào có địa vị và bổn phận chánh đáng của người ấy: Trên ra trên, dưới rằng dưới, trật tự phân minh, vua ra vua, tôi ra tôi, vua lấy lễ sai khiến bề tôi, bề tôi lấy lòng trung mà thờ vua.

Trong sách Luận Ngữ có chép như sau:

Một hôm Tử Lộ hỏi Ðức Khổng Tử:

- Nếu vua nước Vệ nhờ thầy sửa việc chánh trị thì thầy làm việc gì trước?

Ðức Khổng Tử đáp:

- Tất phải sửa danh cho chánh trước hết.

- Sửa danh cho chánh để làm gì?

- Anh quê mùa lắm! Người quân tử chưa biết điều gì thì đừng vội nói. Danh không chánh thì nói không xuôi, nói không xuôi thì việc không thành, việc không thành thì lễ nhạc không hưng, lễ nhạc không hưng thì hình phạt không đúng, hình phạt không đúng thì dân không biết xử trí ra sao cho khỏi bị hình phạt. Cho nên, người quân tử, danh mà chánh thì tất nói được, nói được tất làm được.

Về sau, Tuân Tử cũng cho sự Chính danh là cần thiết. Tuân Tử có viết một chương về Chính danh phát huy được nhiều điều mới, nhưng ông thiên về mặt hình pháp, còn Ðức Khổng Tử thì thiên về mặt đạo đức.

Một nước thạnh trị thì trong nước, vua phải ra vua, quan phải ra quan, cha phải ra cha, con phải ra con, thầy phải ra thầy. Làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ trong gia đình phải tròn trách nhiệm của mình thì con cái mới cảm phục và vâng lời, gia đình mới có trật tự và nề nếp, mới thuận hòa và hạnh phúc.

Gia đình là căn bản của xã hội. Nếu giữ được gia đình yên ổn thì xã hội mới trật tự phân minh. Như vậy, Chính danh là căn bản trong việc chánh trị của người xưa.

 

Chánh đại quang minh

正大光明

A: Upright and clear.

P: Droit et clair.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Ðại: lớn. Quang: sáng. Minh: sáng tỏ.

Chánh đại quang minh là ngay thẳng, rộng lớn, sáng tỏ.

Ðó là đức tánh căn bản của người tu, mọi việc đều phải sáng tỏ, không làm điều gì mờ ám hay khuất lấp, trái đạo lý.

 

Chánh đạo - Chánh giáo

正道 - 正敎

A: Right way, Orthodoxy.

P: Bonne voie, Orthodoxie.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Ðạo: con đường để cho các bậc Thánh Tiên bị đọa trần do theo mà trở về cựu vị. Ðạo cũng là con đường để nhơn sanh đi theo mà lánh khỏi luân hồi. Trong nghĩa nầy, Ðạo là tôn giáo. Chánh đạo đồng nghĩa Chánh giáo.

Chánh đạo hay Chánh giáo là một nên tôn giáo chơn chánh, dẫn dắt người tu mau đến chỗ đắc đạo.

Chánh đạo, cũng gọi là Chánh giáo, đối lại là Tà đạo hay Tà giáo, dẫn dắt người tu vào nẻo quanh co, đưa đến chỗ sai lầm hư hỏng, uổng công tu hành.

TNHT: Lại nữa, trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà làm ra phàm giáo. Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chánh đẳng Chánh giác

正等正覺

A: State of one who have the knowledge of all.

P: État de celui qui a la connaissance de tout.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Ðẳng: thứ bực. Giác: biết rõ chơn lý.

Chánh đẳng là bực chơn chánh. Chánh giác là giác ngộ chơn chánh, giác ngộ hoàn toàn.

Chánh đẳng Chánh giác là tiếng dịch nghĩa câu tiếng Phạn: Samyak Sambodhi, phiên âm ra là: Tam-diệu Tam-bồ-đề, nghĩa là ngôi vị cao nhất của bậc giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn, đó là ngôi vị Phật.

 

Chánh điện

正殿

A: The principal palace.

P: Le palais principal.

Chánh: Ðứng đầu, lớn nhứt. Ðiện: toà nhà lớn.

Chánh điện là tòa nhà lớn, đẹp đẽ và trang nghiêm, để làm nơi thờ Ðức Chí Tôn và các Ðấng thiêng liêng.

Nơi Tòa Thánh hay Thánh Thất, Chánh điện còn được gọi là Bửu điện, tức là Bát Quái Ðài, có đặt Thiên Nhãn và long vị của các Ðấng thiêng liêng để thờ phượng.

Phần trước của Chánh điện được gọi là Ðiện tiền.

 

Chánh lý

正理

A: The reason.

P: La raison.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Lý: lẽ phải.

Chánh lý là lẽ phải đúng đắn.

TNHT: Thầy đến chuyển đạo lập lại vô vi, các con coi thử bên nào chánh lý: Hữu hình thì bị diệt đặng, chớ vô vi chẳng thế nào diệt đặng.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chánh môn

正門

A: The portal.

P: Le portail.

Chánh: Ðứng đầu, lớn nhứt. Môn: cửa.

Chánh môn là cửa lớn nhứt so với 12 cửa ra vào Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh.

Chánh môn ở ngay hướng phía trước Tòa Thánh, nơi khởi đầu của một đại lộ bề ngang 60 thước chạy thẳng về hướng Tây, nên cũng gọi là đại lộ Chánh môn.

Khi trước, Ðức Phạm Hộ Pháp có chỉ dẫn Ban Kiến Trúc của Ðạo vẽ họa đồ Chánh môn: Bề cao 36 thước, bề ngang 60 thước, cổng cổ kính tam quan, trên nóc đắp mái ngói có để cổ pháp Tam giáo.

Khi Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước làm Quyền Chưởng quản HTÐ, Ngài hợp tác với Tỉnh Trưởng tỉnh Tây Ninh lúc đó là Thiếu Tướng Lê Văn Tất để lo xây cất Chánh môn. Một số vị cho rằng họa đồ Chánh môn của Ban Kiến Trúc vẽ theo lịnh của Ðức Hộ Pháp thì Chánh môn cao tới 36 thước, như vậy thì cao quá, không thích hợp nên đề nghị Ty Kiến Thiết Tây Ninh vẽ họa đồ khác. Ty Kiến Thiết vẽ họa đồ Chánh môn chỉ cao 9 thước, ngang 54 thước, trên nóc đắp 2 rồng phò cổ pháp. Họa đồ nầy được Ngài Bảo Thế chấp thuận.

Ngài Bảo Thế ra lịnh cho Ban Kiến Trúc bổ công thợ đến xây dựng, nhưng ông Tổng Giám Ban Kiến Trúc lúc đó là ông Lê Văn Thế không đồng ý xây dựng theo họa đồ do Ty Kiến Thiết Tây Ninh vẽ, vì không đúng theo lời dạy của Ðức Phạm Hộ Pháp, nên không chịu bổ công thợ đến làm. Ngài Bảo Thế bắt lỗi, ra lịnh cho ông Chưởng quản CQPT thâu quyền chức Tổng Giám của ông Lê Văn Thế và cử ông Phó Tổng Giám Trần Văn Lành lên thay, làm Tổng Giám cai quản Ban Kiến Trúc, vì ông Lành chịu phục lịnh của Ngài Bảo Thế. (Xem tiếp vụ nầy nơi chữ: Kiến Trúc, vần K, Q,2)

Ngày 10-7-1965 (âl 12-6-Ất Tỵ), Ngài Bảo Thế ra lịnh tổ chức lễ đặt viên gạch đầu tiên xây Chánh môn theo họa đồ của Ty Kiến Thiết Tây Ninh.

Ông Tân Tổng Giám Ban Kiến Trúc Trần Văn Lành bổ công thợ đến xây dựng Chánh môn cho đến khi hoàn tất.

Ðại lộ Chánh môn: là con đường lớn khởi đầu từ Chánh môn đi thẳng về hướng Tây, mở ra đến khi gặp quốc lộ. Ðại lộ nầy có bề ngang 60 thước, bằng bề ngang Chánh môn.

Lễ khởi công mở Ðại lộ Chánh môn ngày 25-3-Giáp Dần (dl 17-4-1974), Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Ðức nhắc lại bài thi của Ðức Phạm Hộ Pháp sáng tác hồi năm Mậu Tý (1948) nói về Ðại lộ Chánh môn:

Ðại đồng thiên hạ đó đi đây,

Tiện mối lưu thông mở lộ nầy.

Trước mặt Cao Ðài xuyên đất Việt,

Sau lưng tháp ngọc tận Trời Tây.

Ngang bằng mặt rộng hai bên rảnh,

Lưng thẳng thân to một lối ngay.

Trên lộ dưới thuyền du khách ngoạn,

Ðường về tầm Ðạo, động Thiên Thai.

PHẠM HỘ PHÁP.

HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

CQPT: Cơ Quan Phước Thiện.

 

Chánh Ngọ - Chánh Tý

正午 - 正子

A: Midday - Midnight.

P: Plein midi - Plein minuit.

Chánh: Ðứng đầu, lớn nhứt. Ngọ là giờ Ngọ, tức là từ 12 giờ đến 14 giờ. là giờ Tý, tức là từ 0 giờ đến 2 giờ khuya.

Chánh Ngọ là đầu giờ Ngọ, tức là lúc 12 giờ trưa.

Chánh Tý là đầu giờ Tý, tức là lúc 0 giờ, thường nói là lúc 12 giờ khuya. (Xem thêm chi tiết nơi chữ Âm lịch, vần Â)

 

Chánh ngoạt

正月

A: The first month of the lunar year.

P: Le premier mois de l'année lunaire.

Chánh: Ðứng đầu, lớn nhứt. Ngoạt: còn đọc là nguyệt: tháng.

Chánh ngoạt hay Chính nguyệt là tháng đầu năm âm lịch, tức là tháng Giêng âm lịch.

 

Chánh nhứt

正一

A: The first man.

P: Le premier homme.

Chánh: Ðứng đầu, lớn nhứt. Nhứt: một.

Chánh nhứt là người số một đứng đầu.

TG: Tiên Thiên Chánh Nhứt, Thái Thượng Ðạo Quân.

TG: Tiên Giáo, Kinh Tiên Giáo.

 

Chánh niệm

(Xem: Vng nim, vn V)

 

Chánh Phối Sư

正配師

A: The Principal Archbishop.

P: L'Archevêque Principal.

Chánh: Ðứng đầu, lớn nhứt. Phối Sư: phẩm Chức sắc CTÐ đối phẩm với Thiên Thánh của BQÐ.

Chánh Phối Sư là người đứng đầu các vị Phối Sư.

Theo Pháp Chánh Truyền, phẩm Chánh Phối Sư không do công cử, mà do Ðức Giáo Tông lựa chọn một vị trong 12 Phối Sư của mỗi phái lên làm Chánh Phối Sư cầm đầu 11 vị Phối Sư còn lại.

CTÐ có 3 phái: Thái, Thượng, Ngọc, nên có 3 Chánh Phối Sư: Thái Chánh Phối Sư, Thượng Chánh Phối Sư, Ngọc Chánh Phối Sư.

Quyền hành và Ðạo phục của 3 Chánh Phối Sư được ghi rõ trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải.

BQÐ: Bát Quái Ðài.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

 

Chánh quả

正果

A: The highest result.

P: Le résultat plus élevé.

Chánh: Ðứng đầu, lớn nhứt. Quả: cái kết quả.

Chánh quả là cái kết quả cao nhất của sự tu hành mà người tu chứng đắc được. Ðó là ngôi vị Phật.

TNHT: Ngày thành Chánh quả có bao lâu.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chánh tà

正邪

A: True and false, Orthodoxy and Heresy.

P: Vrai et faux, Orthodoxie et Hérésie.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Tà: cong quẹo, không ngay thẳng.

Chánh tà có nghĩa đen là ngay thẳng và cong quẹo.

Ðây là hai phần đối kháng nhau như nước với lửa, như Âm với Dương, như Ðịa ngục với Thiên đàng, như Phật với Ma, luôn luôn hiện hữu trong CKVT, tạo thành hai thế lực lôi cuốn theo hai chiều ngược nhau để thúc đẩy sự tiến hóa của vạn linh.

Ðức Chí Tôn giải thích chánh tà trong 4 câu thi sau đây:

TNHT:

Lẽ Chánh tự nhiên có lẽ Tà,

Chánh Tà hai lẽ đoán sao ra.

Sao ra Tiên Phật, người trần tục,

Trần tục muốn thành phải đến Ta.

Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ dạy về Tà Chánh như sau:

TNHT: "Tà Chánh, Cười.... Bần đạo nói thiệt, cũng chưa dám định đoạt. Trong cái rủi thường có sự may, trong cái may vẫn khép cầm sự rủi, khó lường được, điều cần là nên làm mà thôi.

Nếu luận Tà Chánh thì chưa một ai dám còn mang mắt phàm xưng tụng mình là Chánh. Cái Tà vì Thiên thơ sử dụng, Tà vì cơ thử thách của Tam Giáo Tòa, Tà vì những quỉ xác ma hồn lẫn lộn của quỉ vương để làm cho công phu lỡ dở. Mỗi cái Tà có duyên cớ ấy, ngày sau đều có sự biến đổi thiêng liêng hoặc có một kết quả.

Ngày chung qui chỉ đem về Thầy một chữ TÂM và những công nghiệp đã gây thành cho sanh chúng.

Tà Chánh là do cái Tâm của mình mà thôi. Người theo một mối đạo Chánh mà tâm Tà thì cũng là Tà. Ngược lại, nếu rủi lầm theo đạo Tà mà tâm vẫn Chánh thì vẫn là Chánh."

TÐ ÐPHP: "Triết lý nào giúp cho nhơn loại bảo trọng cơ quan tạo đoan bền bỉ vững chắc thì nó là Chánh. Triết lý nào xúi giục làm cho vạn vật tàn sát nhau, diệt hóa, tức nhiên Triết lý ấy là Tà."

Tóm lại, chúng ta có thể tóm tắt để rút ra định nghĩa Tà Chánh như sau:

■ Chánh là những việc nào giúp cho sự tiến hóa của người và vạn vật được tốt đẹp, hay bảo tồn sự tiến hóa ấy. Những việc ấy cũng được gọi là Thiện.

■ Tà là những việc làm trái lại, tức là những việc làm nào có hại cho sự tiến hóa hay đi ngược lại sự tiến hóa của người và vật trong CKVT. Ðó là sự diệt hóa. Những việc làm diệt hóa đó còn được gọi là Ác.

Ðó là quan niệm triết lý về Tà Chánh và Thiện Ác của Ðạo Cao Ðài.

CKVT: Càn Khôn Vũ Trụ.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

 

Chánh tâm - Chơn tâm

正心 - 眞心

A: The true heart.

P: Le vrai coeur.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Tâm: cái tâm của con người, nghĩa thông thường là lòng dạ. Chơn: thật.

Chánh tâm là cái tâm ngay thẳng, không tà vạy, đó cũng chính là cái tâm chơn thật, nên thường nói là Tâm chơn chánh.

Cho nên, Chánh tâm đồng nghĩa Chơn tâm.

Chánh tâm là một trong Bát điều mục của Nho giáo, dạy về cách tu thân để trở thành người quân tử. Bát điều mục là: Cách vật, Trí tri, Thành ý, Chánh tâm, Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ.

Trong sách Ðại Học, chương Chánh tâm có viết:

"Tâm có điều tức giận thì không thể chánh, có điều sợ hãi thì không thể chánh, có điều ham mê thì không thể chánh, có điều lo buồn thì không thể chánh."

Như vậy, muốn Chánh tâm thì phải giữ cho tâm được quân bình, yên ổn, trong sạch. Nếu tâm không chánh thì sẽ muốn những điều không đáng muốn, ưa những điều không đáng ưa, yêu và ghét không đúng đối tượng, không hợp cách thức, không theo độ lượng. Con người như thế là hư hỏng sai lầm. Vì thế, ta cần phải giữ cái tâm cho chơn chánh luôn luôn, để cho ngôn ngữ và hành vi được đúng đắn, hợp đạo lý.

 

Chánh tế - Phụ tế

正祭 - 附祭

A: Principal funeral ceremony. - Secondary funeral ceremony.

P: Principale cérémonie funèbre. - Secondaire cérémonie funèbre.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Tế: dâng cúng phẩm vật cho người chết. Phụ: phụ thuộc, không phải phần chánh.

Chánh tế là phần tế lễ chánh thức trong Tang lễ, long trọng với đầy đủ nghi tiết.

Phụ tế là phần tế lễ phụ thuộc trong Tang lễ, không quan trọng bằng Chánh tế, nối tiếp theo phần Chánh tế, với nghi thức châm chế cho đơn giản.

Phần Chánh tế do Tang chủ đứng tế, có lễ sĩ đăng điện dâng cúng phẩm. Phần phụ tế để cho những bà con thân tộc đứng tế, không có lễ sĩ đăng điện.

 

Chánh thể

政體

A: Form of government.

P: Forme de gouvernement.

Chánh: Việc chánh trị, việc tổ chức trị an trong nước. Thể: hình thể, hình thức tổ chức.

Chánh thể của Ðạo là hình thức tổ chức các cơ quan cầm quyền nền Ðạo.

Chánh thể của Ðạo được xác định bởi Pháp Chánh Truyền và Tân Luật của Ðạo.

TNHT: Nhưng mà buộc phải lập chánh thể, có lớn có nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng đảo.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chánh tín

(Xem: Mê tín, vần M)

 

Chánh trị & Ðạo

政治 &

A: Politics and religion.

P: Politique et religion.

Chánh: Việc chánh trị, việc tổ chức trị an trong nước. Trị: sắp đặt, sửa sang công việc. Ðạo: tôn giáo.

Chánh trị là sắp đặt và sửa sang các công việc trong một tổ chức lớn cho được ổn định và tiến triển tốt đẹp.

Quốc gia nào cũng có hai phần: Ðời và Ðạo, cho nên có Chánh trị Ðời và Chánh trị Ðạo. Nhưng thông thường khi nói đến Chánh trị là nói Chánh trị Ðời.

Vậy Chánh trị Ðời hay Chánh trị là gì? Có nhiều nghĩa:

■ Chánh trị là những vấn đề tổ chức và điều khiển bộ máy cai trị của nhà nước.

■ Chánh trị là những hoạt động của một tầng lớp dân chúng hay của một nhóm người, của một đảng phái, nhằm đấu tranh với chánh quyền đang cai trị để giành lấy quyền lãnh đạo và cai trị quốc gia.

■ Chánh trị là những hoạt động đấu tranh có tính cách quần chúng để chống lại đường lối cai trị của chánh quyền bằng những phương thức hợp pháp, dựa vào cơ quan dân cử.

Người làm chánh trị thì chỉ biết mục tiêu tranh đấu và cứu cánh là then chốt. Họ chỉ biết trung thành với đường lối và quyền lợi của đảng phái hay phe nhóm của họ. Tất cả phương tiện để đạt được mục tiêu cứu cánh đó đều tốt và cần thiết, dù những phương tiện đó chánh đáng hay tà mị cũng đều được sử dụng triệt để.

Bởi vậy, chánh trị và đạo đức (tức là tôn giáo chơn chánh) không bao giờ đi đôi với nhau. Người ta thường nói: Người làm chánh trị phải có mặt dầy, lòng đen.

Ðức Chí Tôn giáng cơ nhiều lần dạy về sự khác biệt giữa Chánh trị và Ðạo, xin trích ra như sau:

TNHT:

■ " Trung, mặc kệ nó. Chúng nghi các con lo quốc sự (chánh trị). Thầy vì các con xin lắm, mới ép lòng chịu vậy, chớ Chánh trị với Ðạo chẳng buổi nào liên hiệp cùng nhau. Thầy nói ít, các con hiểu nhiều."

■ "Thầy tưởng các con đã hiểu vì cớ nào Chánh phủ Lang sa (Pháp) nghi ngờ như vậy, vì các con chẳng tỏ ra rằng: Ðạo là Ðạo, còn Chánh trị là Chánh trị, các con chỉ vì Ðạo là phận sự của các con, các con cũng chỉ biết Ðạo mà thôi.

Các con cũng nên bạo gan mà nói trước mặt Vạn quốc cùng chánh phủ rằng: Các con là người Ðạo, chỉ biết giúp đỡ nhơn sanh, dạy dỗ nhơn sanh, chớ chẳng biết Chánh trị là gì, dầu ai buộc các con cam đoan thì Thầy tưởng các con cũng không ái ngại."

■ "Trong Ðạo, duy có một điều làm cho chánh phủ không vừa lòng là mỗi nước muốn cho phân cách nhau, mà Ðạo thì lại hiệp, các con cũng nên nói với người Lang sa rằng:

Nhờ Ðạo mà các sắc dân được yêu nhau, mến nhau, lấy sự yêu mến mà buộc tình người thì quyền hành kia mới bền vững."

Ðức Thượng Sanh Cao Hoài Sang có phát biểu:

"Trị nước thì có nhà cầm quyền quốc gia, trị Ðạo thì có các nhà bỉnh cán tôn giáo. Tôn giáo không trị nước được, cũng như Chánh quyền không thể điều khiển Ðạo giáo được. Thế thì hô hào làm gì!

Không thể xen Chánh trị vào Tôn giáo, cũng như không thể xen Tôn giáo vào Chánh trị. Nếu đi sai nguyên tắc đó thì chắc chắn là nắm thất bại trong tay, và có hô hào hoặc không chịu lên tiếng đều do ý niệm riêng biệt của Ðạo giáo, người thức thời vụ phải biết rõ." (Nguyệt san ThôngTin số 112, trang 16)

Chức sắc Cao Ðài được tham gia làm Chánh trị không?

Trả lời: Không, dứt khoát là không, vì luật pháp của Ðạo Cao Ðài tuy không ghi rõ là nghiêm cấm Chức sắc làm chánh trị, nhưng lại nói rõ rằng:

·         Buộc Chức sắc phải phế đời hành Ðạo,

·         Nghiêm cấm Chức sắc mượn danh Ðạo tạo danh đời,

·         Nghiêm cấm Chức sắc lợi dụng danh Ðạo làm điều bất chánh.

Như thế là rõ ràng là luật pháp của Ðạo Cao Ðài cấm hẳn Chức sắc làm chánh trị.

Những điều luật trên, xin chép rõ ra sau đây:

1) Theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ 5 của Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Phạm Hộ Pháp: Ðiều thứ nhứt: Buộc cả Chức sắc đã thọ phong phải phế đời hành Ðạo.

(Ðã phế bỏ việc đời rồi thì đâu còn làm chánh trị được).

2) Theo Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938):

- Nếu như một ai còn đương quyền đời mà muốn vào hàng phẩm Chức việc thì phải từ bỏ quyền đời đặng để trọn tâm lo tròn trách nhiệm Ðạo.

3) Trong Thập hình của Ðức Lý Giáo Tông:

* Ðệ nhị hình: Chư Chức sắc Thiên phong không tùng mạng lịnh của Hội Thánh:

·         Thuyên bổ không đi.

·         Không trọn phế đời hành đạo.

·         Bỏ bê phận sự.

Những vị nào phạm vào các điều trên đây thì bị khép vào tội thứ hai trong Thập hình của Ðức Lý Giáo Tông, nghĩa là giáng cấp tới hàng tín đồ hay là buộc hành đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang Nam quốc như Ai Lao, Tần quốc.

* Ðệ tam hình:

·         Làm nhơ danh Ðạo.

·         Mượn danh Ðạo tạo danh đời.

·         Lợi dụng danh Ðạo làm điều bất chánh.

Những vị nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ ba trong Thập hình của Ðức Lý Giáo Tông, nghĩa là giáng cấp từ đương quyền xuống tới hai hay là một cấp.

Do đó, một vị Chức sắc của Ðạo Cao Ðài, nếu lấy danh nghĩa Chức sắc mà đi làm chánh trị, dù dưới bất cứ hình thức nào, đều là một trong tội đối với luật pháp của Ðạo.

Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, nếu một Chức sắc muốn làm chánh trị, như tham gia vào các chức vụ trong chánh quyền đời hay ở cơ quan dân cử lập pháp, buộc vị Chức sắc ấy phải làm đơn xin giao phẩm tước Chức sắc lại cho Hội Thánh, rồi mới được tham gia vào chánh quyền đời với tư cách là một tín đồ bình thường và là một công dân của quốc gia.

Sau khi hết hoạt động chánh trị, muốn trở lại tu hành, vị đó phải làm đơn xin Hội Thánh cho phục hồi phẩm vị Chức sắc cũ, và lúc đó Hội Thánh sẽ định đoạt.

Tôn giáo là siêu chánh trị:

"Những người trong cửa Ðạo từ lâu không dám bàn đến hai tiếng CHÁNH TRỊ, vì quan niệm rằng chánh trị là có lập phe đảng, có tranh bá đồ vương, có giựt giành quyền thế. Tại hiểu như vậy nên không dám nghĩ và bàn đến hai tiếng ấy.

Thật nghĩa của nó là cao cả biết bao!

Ðịnh nghĩa: CHÁNH là chánh trực, quang minh, ngay thẳng, đúng đắn, có nhân nghĩa đạo đức và háo sinh. TRỊ là an ninh, bảo tồn trật tự, hòa thuận dưới trên.

Trên thế gian nầy, nhơn loại vì còn những quốc gia trong vòng loạn lạc triền miên, danh từ Chánh trị bị lạm dụng vì người chấp hành không đúng nghĩa của nó. Bởi đó mà danh từ ấy không được đề cập trong cửa tôn giáo hay đạo giáo.

Ngày nay cũng như từ bao giờ, những phần tử tốt, tu hành chơn chánh trong cửa Ðạo, hằng hoàn thiện hóa từ nội tâm đến ngoại thể con người cho đúng với hai chữ đạo đức. Ðó là phần vụ Tu Thân. Còn phần lập công bồi đức là việc tế nhơn độ thế. Làm những công việc xã hội từ thiện, lấy lý Ðạo lồng vào việc làm để tỉnh thức kẻ tội lỗi hung ác trở lại đường thiện lương thuần mỹ, giáo dân vi thiện.

Ðộ được một người vào cửa thiện là giảm đi một phần tử xấu của quốc gia. Ðộ được một người biết làm công việc giáo dân vi thiện là đã bớt đi hằng trăm phần tử xấu của quốc gia.

Nếu độ được trăm ngàn muôn triệu người như vậy thì một quốc gia sẽ giảm đi rất nhiều khám đường và sẽ chuyển những cơ sở ấy lại thành Giáo Ðường.

Như vậy, không phải Ðạo đức là Siêu Chánh trị hay sao?

Nếu mỗi người thương nhau trong tình Ðạo hữu, trong tình anh chị em cùng một Cha chung Thượng Ðế, lo dìu dẫn nhau, bảo trợ nhau, dạy dỗ nhau như người cùng ruột thịt thì xã hội quốc gia đương nhiên an bình, dân tình được lạc nghiệp.

Việc làm ấy trong quyền pháp ÐÐTKPÐ đã ấn định rõ ràng từ buổi sơ khai Ðại Ðạo.

Nếu cấp thừa hành đứng đắn nghiêm chỉnh phổ độ chúng sanh càng đông thì quốc gia xã hội sớm thanh bình thạnh trị. Ðược thạnh trị nhờ chữ CHÁNH: Chánh tâm, Chánh trực, Chánh tín, từ lớn chí nhỏ, từ quan chí dân, từ kẻ sĩ phu tới hàng cùng đinh mà được Chánh thì lo gì không thạnh trị an ninh, quốc gia cường thịnh, xã hội thanh bình.

Ðó không phải Ðạo đức là Siêu Chánh trị hay sao?

Người làm đạo đức là làm Chánh trị trong tình thương yêu, giáo dục và bảo tồn.

Dầu mang sắc thái riêng biệt của mỗi tôn giáo, mỗi tổ chức hành đạo có khác nhau, nhưng cái cứu cánh căn bản của nó là tế nhân lợi vật, giáo dân vi thiện, để đem lại xã hội thanh bình, quốc gia thạnh trị trong tình thương.

Người lãnh đạo xem dân như con đẻ, dân xem người lãnh đạo như cha sanh. Bổn phận, nhiệm vụ và quyền lợi tương thân tương trợ trong đường lối Chánh tâm, Chánh trực. Ðó là đạo làm người ở thế gian. Ðừng hiểu rằng vào Ðạo là trốn tất cả sự đời, mà phải hiểu vào đạo có hai phần: Một phần về tâm linh, một phần về nhơn sanh thế đạo. Nếu đóng cửa độc thiện kỳ thân thì Thượng Ðế cũng không mở Ðạo mà làm gì.

Giữa thời buổi loạn ly cũng là giữa lúc phân Chánh biệt Tà, phân thanh lóng trược, cũng là buổi sàng sảy thanh lọc.

Bao nhiêu căn duyên nghiệp quả mới hưởng được buổi lập đời Thượng nguơn Thánh đức. Ðừng vì ngoại cảnh để mất phong độ cốt cách của người tu hành.

Nếu đạo đức không đem lại sự an bình thạnh trị thì Thượng Ðế cũng không mở Ðạo làm chi!" (Trích trong Thánh giáo Sưu tập)

ÐÐTKPÐ: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

 

Chánh Trị Ðạo

政治道

A: The religious politics.

P: La politique religieuse.

Chánh: Việc chánh trị, việc tổ chức trị an trong nước. Trị: sắp đặt và sửa sang công việc cho tiến triển tốt đẹp. Ðạo: tôn giáo.

Chánh trị Ðạo là một tổ chức cầm quyền cai trị trong Ðạo, có nhiệm vụ hướng dẫn các tín đồ đi đúng theo con đường đạo đức để đạt đến hạnh phúc và bảo tồn sanh chúng.

Chánh trị Ðạo khác hẳn Chánh trị Ðời, tức là khác hẳn Chánh trị của xã hội quốc gia, vì Chánh trị Ðạo chỉ thuần túy về đạo đức tu hành mà thôi.

TÐ ÐPHP: "Bần đạo nói quyết một điều là Chánh trị Ðạo mà có dính một chút quyền đời thì dị hợm xấu xa lắm vậy! Bởi tinh thần không chịu vật chất, vật chất không hề hòa thuận với tinh thần. Trường quan lại của nền Chánh giáo của Ðức Chí Tôn khác hơn đời, chúng ta chỉ lấy đạo đức nhơn nghĩa làm quyền, còn ngoài kia họ lấy quyền lực cưỡng bức, hai cái so nhau khác hẳn.

Trong cửa Ðạo, nếu chẳng biết quyền mình là gì, lại bắt chước đồ theo tâm lý thiên hạ, cưỡng bức vô đạo đức, vô nhơn tình, thì quả nhiên sái hẳn. Quyền của chúng ta là chỉ lấy đạo đức tinh thần của tổ phụ ta để lại trong 4000 năm làm huệ kiếm để bảo trọng quốc hồn của nòi giống mới trúng, còn ngoài ra dùng phương pháp khác là sai lầm."

Khi Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung đăng Tiên vào năm 1934, do lịnh Ngọc Hư Cung, Ðức Lý Giáo Tông giao quyền Giáo Tông tại thế cho Ðức Phạm Hộ Pháp, Ðức Ngài nắm quyền Thống nhứt, Chưởng quản Nhị hữu hình Ðài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng, Ðức Ngài lo củng cố nền Ðạo đang rã rời vì sự phá khuấy của Ban Chỉnh Ðạo BếnTre, bằng cách tổ chức lại nền Ðạo thành 4 cơ quan theo Ðạo luật Mậu Dần (1938), gọi là 4 cơ quan Chánh Trị Ðạo của Ðạo Cao Ðài, kể ra:

I. Hành Chánh Ðạo:

Hành Chánh Ðạo là cơ quan để thi hành các luật lịnh của Hội Thánh, hoặc của chúng sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn phê chuẩn, nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y luật pháp mà đi trên con đường đạo đức cho đặng thong dong, hòa bình, trật tự, hạnh phúc, tức là thực hành cả khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng.

Cầm đầu cơ quan Hành Chánh Ðạo là 3 vị Ðầu Sư Nam và vị Nữ Ðầu Sư thuộc CTÐ.

II. Phổ Tế:

Phổ Tế là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm Ðạo.

Cầm đầu cơ quan Phổ Tế là một Chức sắc CTÐ làm Chủ Trưởng.

III. Phước Thiện:

Phước Thiện là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, hoặc giúp tay cho bên Hành Chánh thi hành luật pháp cho đặng dễ dàng trọn vẹn. (Xem chi tiết nơi chữ: Phước Thiện, vần P)

Cầm đầu CQPT là 2 vị Chưởngquản Phước Thiện Nam và Nữ phái.

IV. Tòa Ðạo: (Bộ Pháp Chánh)

Tòa Ðạo hay Bộ Pháp Chánh là cơ quan bảo thủ chơn truyền, giữ gìn luật pháp Ðạo, chăm nom chư Chức sắc, Chức việc và Ðạo hữu thi hành phận sự, che chở kẻ yếu tha, binh vực những người cô thế, hoặc tiếp cả sự uất ức bất công của toàn sanh chúng, tức là giữ nét công bình trên mặt Ðạo, lại cũng là một cơ quan giúp cho Hành Chánh, Phước Thiện và Phổ Tế thêm oai quyền mạnh mẽ tôn nghiêm đặc sắc.

Tóm lại là lập phương bảo toàn sanh chúng khỏi điều thống thiết đau khổ với nét oai nghiêm của Chức sắc đương quyền hành chánh. (Xem chi tiết nơi chữ: Bộ Pháp Chánh)

Cầm đầu Bộ Pháp Chánh là một vị Thời Quân chi Pháp, Chưởng quản Bộ Pháp Chánh.

Mỗi năm vào ngày Lễ Vía Ðức Chí Tôn, mùng 9 tháng Giêng, tất cả các Chức sắc Thiên phong Nam Nữ có trách nhiệm trong nền Chánh Trị Ðạo phải hội nhóm tại Tòa Thánh đặng chia ra quan sát Tờ Vi bằng của Quyền Vạn Linh ước vọng, cùng tầm phương pháp thực hành cho nên mặt Ðạo.

Sau khi 4 cơ quan của nền Chánh Trị Ðạo hiệp nhau lập luật và quyết định phương pháp thực thành thì buộc Hội Thánh phải thi hành y theo, tức nhiên nó sẽ thành luật, bởi vì theo Thiên ý của Ðức Chí Tôn là để trọn quyền cho chúng sanh tự lập luật mà tu, nên các nguyện ước của Quyền Vạn linh cầu nài và Quyền Chí Tôn công nhận nhập thành với Tân Luật gọi là Luật Hội Thánh.

Trong kỳ hạn 6 tháng, Hội Thánh sẽ phái một Ban Thanh Tra đi xem xét các hành động của 4 cơ quan Chánh Trị Ðạo cho đặng am hiểu để tầm phương hay giúp Hội Thánh chấn chỉnh lại cho đặc sắc. (Trích Ðạo Luật Mậu Dần 1938).

TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

CQPT: Cơ Quan Phước Thiện.

 

Chánh Trị Sự - Phó Trị Sự - Thông sự

正治事 - 副治事 - 通事

Chánh: Việc chánh trị, việc tổ chức trị an trong nước. Phó: bực thứ, đứng dưới bực Chánh. Sự: việc. Thông: suốt qua, truyền đạt.

Chánh Trị Sự là phẩm Chức việc do Ðức Lý Giáo Tông lập ra để làm đầu một Hương đạo, gọi là Ðầu Hương đạo, có phận sự coi về hành chánh và luật pháp trong một Hương đạo.

Hương đạo là một tập thể các tín đồ cư ngụ trong một xã hay một làng. Một Hương đạo được chia làm nhiều Ấp đạo.

Phó Trị Sự là phẩm Chức việc do Ðức Lý Giáo Tông lập ra để giúp việc cho Chánh Trị Sự và làm đầu một Ấp đạo về phương diện hành chánh.

Thông sự là phẩm Chức việc do Ðức Phạm Hộ Pháp lập ra để coi về Luật pháp trong một Ấp đạo.

Với nhiệm vụ đặc biệt của mỗi vị Chức việc trong Hương đạo, nên PCT gọi:

Chánh Trị Sự là Ðầu Sư Em, vì nắm cả hai quyền: Hành Chánh và Luật pháp trong một Hương đạo. Còn Ðầu Sư thì nắm cả hai quyền Hành chánh và Luật pháp của cả CTÐ.

Phó Trị Sự là Giáo Tông Em, vì chỉ nắm quyền Hành chánh trong một Ấp đạo. Còn Ðức Giáo Tông thì nắm quyền Hành chánh của cả nền ÐÐTKPÐ. Nhiệm vụ của Phó Trị Sự và Ðức Giáo Tông thì giống nhau nhưng phạm vi quyền hạn lớn nhỏ thì khác nhau.

Thông Sự là Hộ Pháp Em, vì chỉ nắm quyền về Luật pháp trong một Ấp đạo. Còn Ðức Hộ Pháp thì nắm quyền về Luật pháp của cả nền Ðạo của Ðức Chí Tôn. Nhiệm vụ thì giống nhau, nhưng phạm vi quyền hạn lớn nhỏ thì khác nhau.

Trong một Hương đạo, chỉ có một vị Chánh Trị Sự làm Ðầu Hương đạo, nhưng có nhiều Phó Trị Sự và nhiều Thông Sự tùy theo Hương đạo ấy có bao nhiêu Ấp đạo.

Các vị Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự trong một Hương đạo được gọi chung là Chức việc Bàn Trị Sự Hương đạo.

Ðối với Hội Thánh ở Trung ương thì gọi là Hội Thánh Anh, còn các Chức việc Bàn Trị Sự ở Hương đạo được gọi là Hội Thánh Em. Hội Thánh Anh cai quản toàn đạo, còn Hội Thánh Em chỉ cai quản một Hương đạo mà thôi.

Hội Thánh Anh chỉ có một ở trung ương, nhưng Hội Thánh Em thì có rất nhiều, hằng vạn hằng ức ở khắp các địa phương trong nước và cả thế giới. Hội Thánh Em làm nền tảng cho Hội Thánh Anh ở trung ương. Cho nên, dầu Hội Thánh Anh có bị hoàn cảnh làm cho mất đi mà Hội Thánh Em ở các địa phương còn thì nền Ðạo vẫn còn.

·         Quyền hành, Bổn phận, Luật công cử, quyền sửa trị của Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự: Xem: Bàn Trị Sự, vần B.

·         Ðạo phục của Nam Nữ Chức việc Bàn Trị Sự: Xem Pháp Chánh Truyền Chú giải.

Luật Cầu phong:

Chiếu theo Thánh giáo của Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, Chánh Trị Sự có 5 năm công nghiệp đầy đủ với chức trách của mình, có Tờ Kiết chứng công nghiệp, Tờ Tánh hạnh, trường trai, đạo đức, đủ tư cách và phải độ đặng 300 người nhập môn (chẳng kể số Ðạo hữu của Cựu Chánh Trị Sự đã độ đặng) thì mới đem vào sổ cầu phong thăng thưởng lên phẩm Lễ Sanh. Việc Cầu phong nầy phải đưa ra Quyền Vạn linh định đoạt.

Khi đắc phong rồi, phải học Ðạo nơi Hạnh Ðường Tòa Thánh, và phải đi tập sự một thời gian, chừng nào đủ tài đức cầm quyền hành chánh thì mới đặng bổ làm Ðầu Tộc Ðạo.

PCT: Pháp Chánh Truyền.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

 

Chánh truyền

正傳

A: The true doctrine.

P: La vraie doctrine.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Truyền: trao lại.

Chánh truyền là Giáo lý chơn chánh được truyền lại.

TNHT: Từ trước Ta giáng sanh lập Phật giáo gần sáu ngàn năm thì Phật đạo chánh truyền gần thay đổi.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chánh tự

正字

A: The official writing.

P: L'écriture officielle.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Tự: chữ viết.

Chánh tự là chữ viết chánh thức dùng để chép kinh sách và dạy Ðạo.

Phật giáo dùng chữ Phạn để chép Tam Tạng Kinh của Phật giáo, nên chữ Phạn là chánh tự của Phật giáo.

Ngày nay, Ðức Chí Tôn chọn VN để mở ÐÐTKPÐ, nên Ðức Chí Tôn chọn chữ quốc ngữ của VN làm chánh tự để truyền đạo, chép các kinh sách của Ðạo, và giảng giải đạo lý.

Vả lại, chữ VN có một ưu điểm mà không một thứ chữ viết nào trên thế giới có thể so sánh được, bởi vì lẽ nó là tiếng đơn âm, và viết theo mẫu tự La-tinh, nên rất dễ học và rất tiện dụng. Nó thể hiện sự hòa hợp tuyệt diệu giữa hai nền văn hóa Ðông phương và Tây phương, nên rất đáng được Ðức Chí Tôn chọn làm chánh tự để mở Ðạo Cao Ðài cho toàn thế giới.

Thánh giáo của Ðức Chí Tôn ngày 29-7-Bính Dần (1926), chép trong Ðạo Sử của Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu, có đoạn Ðức Chí Tôn nói với Hòa Thượng Như Nhãn như sau:

"Như Nhãn hiền đồ! Thầy không muốn nói với con bằng Hớn ngôn, vì tiếng An Nam từ đây Thầy cho là Chánh tự đặng lập Ðạo của Thầy nên buộc phải nói rõ với con."

ÐÐTKPÐ: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

 

Chánh văn

正文

A: The legitimate literature.

P: La littérature légitime.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Văn: văn chương.

Chánh văn là văn chương chánh đáng, đúng cách.

KNH: Soi tường chơn lý, chỉ rành chánh văn.

KNH: Kinh Nhập Hội.

 

Chánh vị

正位

A: The official dignity.

P: La dignité officielle.

Chánh: Ngay thẳng, đúng đắn, không tà vạy. Vị: phẩm vị, địa vị.

Chánh vị là phẩm vị chánh thức được Hội Thánh nhìn nhận.

Hiến pháp HTÐ qui định rằng: phẩm Luật Sự do khoa mục tuyển chọn, tức là phải trải qua một kỳ thi tuyển. Sau khi đậu rồi, phải học Ðạo và tập sự trong một thời gian là một năm thì Hội Thánh HTÐ mới nhìn nhận vào hàng Luật Sự chánh vị.

Chánh vị còn có nghĩa là phẩm vị thiệt thọ, không phải quyền tạm.

Các phẩm vị Chức sắc cao cấp CTÐ như Chánh Phối Sư, Ðầu Sư, thường được Ðức Lý Giáo Tông phong làm Quyền, rồi sau khi hành sự được vài năm mới được đưa vào hàng chánh vị.

Thí dụ như: Quyền Thượng Chánh Phối Sư, Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, như vậy là chưa được vào chánh vị. Khi được vào chánh vị rồi thì không có chữ Quyền phía trước, chỉ gọi là Thượng Chánh Phối Sư hay Ngọc Chánh Phối Sư.

Trường hợp Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung:

Quyền hành Giáo Tông được phân ra làm hai: Quyền hành thiêng liêng và quyền hành tại thế. Quyền hành Giáo Tông thiêng liêng vẫn do Ðức Lý Thái Bạch nắm giữ, Ðức Lý giao quyền Giáo Tông tại thế cho Ngài Lê Văn Trung, nên toàn đạo gọi Ngài là Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.

HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

 

CHÀY

Chày kình

A: The bell-stick.

P: Le pilon gravé la forme de baleine.

Chày: khúc gỗ dài dùng để dộng hay giã. Kình: cá kình, một loại với cá ông ở biển.

Chày kình là cái chày bằng gỗ mà ở đầu có chạm hình cá kình, dùng để dộng chuông nơi Thánh Thất hay Ðiện Thờ.

Tương truyền, thuở xưa nơi bờ biển có một loại thú tên là con bồ lao, nó rất sợ cá kình, vì cá kình thường bơi vào bờ để đánh bồ lao. Mỗi khi bồ lao bị cá kình đánh thì nó hét vang lên, tiếng kêu rất lớn.

Vì thế, người xưa thường đúc đỉnh chuông có hình hai con bồ lao, tạo thành hai cái quai để treo chuông, còn cái chày gỗ thì chạm hình con cá kình. Người ta tin rằng khi chày kình dộng vào chuông bồ lao thì nó phát ra tiếng chuông thật to.

Do đó, tiếng chày kình là chỉ tiếng chuông chùa, hay chỉ việc tụng kinh gõ chuông gõ mõ tu hành.

Thơ của Chu Mạnh Trinh:

Thoảng bên tai một tiếng chày kình,

Khách tang hải giựt mình trong giấc mộng.

TNHT: Cân vàng khôn lấy nện chày kình.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

CHÂM

CHÂM

CHÂM: Rót rượu, thêm vào.
Td: Châm chế, Châm chước.

 

Châm chế

斟制

A: To attenuate, to tolerate.

P: Atténuer, tolérer.

Châm: Rót rượu, thêm vào. Chế: ngăn cấm, bớt ra.

Châm chế có nghĩa đen là thêm vô hay bớt ra cho vừa.

Nghĩa thường dùng: - Giảm nhẹ bớt yêu cầu. - Chiếu cố mà tha thứ.

TNHT: Còn sự tự hối của mỗi đứa, sau nầy ra sao thì tăng tội phước, cũng vì đó là châm chế.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Châm chước

斟酌

A: To simplify.

P: Simplifier.

Châm: Rót rượu, thêm vào. Chước: rót rượu, liệu lường cho thỏa đáng.

Châm chước là người nầy rót rượu mời người kia, người kia lại rót rượu mời lại người nầy.

Như thế là đều hòa cho hai bên. Ðó là nghĩa đen.

Nghĩa thường dùng là: Thêm bớt hai bên sao cho vừa phải với nhau.

Nghi châm chước: là nghi thức tế lễ có bớt đi một số lớn tiết mục để cho đơn giản và ít mất thời gian.

Trong Tang lễ, khi phụ tế thì dùng nghi châm chước.

 

Châm tửu

斟酒

A: To pour the wine.

P: Verser de vin.

Châm: Rót rượu, thêm vào. Tửu: rượu.

Châm tửu là rót rượu.

Ðây là câu xướng của lễ sĩ trong nghi thức tế lễ. Khi lễ sĩ xướng: "Châm tửu" thì người chấp sự rót rượu vào ly trên bàn thờ, để làm lễ dâng rượu.

 

CHÂN

CHÂN

(Xem: Chơn)

 

CHẤN

Chấn động

震動

A: To shake.

P: Ébranler.

Chấn: vang động cả lên. Ðộng: chuyển động.

Chấn động là vang động lừng lẫy cả lên.

TNHT: Những bậc Tiền Thánh báo tin ngày Giáng sinh chấn động của Chúa Cứu Thế Jésus.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chấn hưng

振興

A: To ameliorate.

P: Améliorer.

Chấn: sắp đặt lại cho hoàn chỉnh hơn. Hưng: thịnh vượng.

Chấn hưng là sắp đặt lại cho hoàn chỉnh và thịnh vượng hơn.

TNHT: Vì vậy là Thầy muốn cho mỗi đứa đều để lòng lo liệu chấn hưng nền Thánh giáo.

Phật giáo Chấn hưng: Lúc sơ khai nền Ðạo, vào giữa năm Bính Dần (1926), nhà cầm quyền Pháp hỏi quí vị tiền khai đây là mối Ðạo gì? Quí vị ấy chưa dám nói đây là Ðạo Cao Ðài, là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, vì những từ ngữ nầy còn mới mẻ quá, chỉ nói vắn tắt với nhà cầm quyền Pháp, đây là Phật giáo chấn hưng hay Phật giáo canh tân (Bouddhisme renové).

Thật vậy, Ðạo Cao Ðài không những chấn hưng Phật giáo mà chấn hưng cả Tứ giáo nữa: Ðó là chấn hưng Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo và Thánh giáo Gia Tô.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

CHẨN

Chẩn bần

賑貧

A: To relieve the poors.

P: Assister les pauvres.

Chẩn: đem cho, cứu giúp. Bần: nghèo.

Chẩn bần là đem tiền bạc, vật thực, thuốc men đến giúp đỡ người nghèo khổ.

KSH: Thí tiền thí bạc chẩn bần.

KSH: Kinh Sám Hối.

 

CHẤP

CHẤP

CHẤP: có hai nghĩa tùy trường hợp:

1.    CHẤP: Cầm giữ.
Td: Chấp bút, Chấp sự.

2.    CHẤP: Câu nệ, để ý ghi nhớ lỗi lầm của người.
Td: Chấp ngã, Chấp trách.

 

Chấp bút

執筆

A: To hold pencil for realization of a spiritistic seance.

P: Tenir le crayon pour réaliser une séance spirite.

Chấp: Cầm giữ. Bút: cây viết.

Chấp bút là đồng tử tay cầm cây viết (thường là viết chì) đặt trên tờ giấy trắng, chờ một Ðấng thiêng liêng giáng điển vào cánh tay cầm bút để tay viết ra chữ trên tờ giấy.

Chấp bút là một hình thức thông công với các Ðấng thiêng liêng, nhưng chỉ cần một đồng tử, nên thường được dùng trong trường hợp khẩn cấp và cần giữ bí mật.

Ðồng tử ngồi chấp bút phải là người có đạo hạnh thanh cao, trường chay, tuyệt dục để chơn thần được tinh tấn, thân thể và y phục phải sạch sẽ, nghiêm trang, tay cầm bút phải xông hương khử trược, tâm phải tịnh, ý tưởng phải trong sạch, không không. Khi ngồi chấp bút, phải ngồi ngay ngắn, nghiêm trang.

Ðức Chí Tôn dạy như sau:

TNHT: "Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho thần của con bất định một lát cho thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết, ấy là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt mới thấu đáo Càn Khôn, tinh thông vạn vật đặng."

"Kẻ phò cơ, chấp bút cũng như tướng soái của Thầy để truyền Ðạo cho thiên hạ. Các con đừng tưởng việc bút cơ là việc tầm thường."

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chấp mê

執迷

A: To be obstinate in blinding.

P: S'obstiner dans l'obscurcissement.

Chấp: Câu nệ, để ý ghi nhớ lỗi lầm của người. Mê: mê muội, không tỉnh.

Chấp mê là cố chấp một cách mê muội, đã lầm lạc mà không biết lại cố chấp nó.

Chấp mê bất ngộ: Cố chấp trong mê muội thì không bao giờ có thể giác ngộ được.

 

Chấp ngã

執我

A: The egotism.

P: L'égotisme.

Chấp: Câu nệ, để ý ghi nhớ lỗi lầm của người. Ngã: cái ta của mỗi người.

Chấp ngã là cố chấp cái ta của mình, cho rằng chỉ có mình là hiểu biết đúng, cái hiểu của người khác thì sai, chỉ có mình là tài giỏi hơn hết.

Sự chấp ngã đưa đến Ngã mạn, kiêu căng, tự tôn tự đại.

Vì chấp ngã nên không thấy được cái dở, cái xấu của mình để sửa đổi và tiến bộ; cũng không thấy được cái hay của người khác mà học hỏi bắt chước.

Chấp ngã thì mê muội, không tiến hóa, và bị mọi người xa lánh, dễ đi đến chỗ thất bại trong mọi hoạt động.

 

Chấp sự giả các tư kỳ sự

執事者各司其事

A: Each officer in charge according to one's affair.

P: Que ceux qui ont un rôle prennent place.

Chấp: Cầm giữ. Sự: việc. Giả: người. Các: mỗi người. Tư: coi giữ. Kỳ: cái ấy.

Chấp sự giả: Người chấp sự, tức là người được phân công giữ một công việc trong một đàn cúng tế.

Chấp sự giả các tư kỳ sự là người được phân công phần việc nào thì đến giữ phần việc ấy.

Ðây là câu xướng của lễ sĩ trong nghi tiết cúng đại đàn nơi Báo Ân Từ, Ðiện Thờ Phật Mẫu hay Thánh Thất. Khi lễ sĩ xướng câu nầy, những vị có trách nhiệm trong đàn cúng phải đứng tại vị trí phận sự của mình, dự bị sẵn sàng để thi hành nhiệm vụ, không được để cho sơ thất mà mang tội với các Ðấng thiêng liêng.

 

Chấp thủ

執手

Chấp: Cầm giữ. Thủ: tay, cầm bằng tay.

Chấp thủ là nói tắt thành ngữ: Thủ cơ chấp bút, nghĩa là phò cơ và chấp bút.

Ðó là hai cách thông công với các Ðấng Thiêng liêng.

TNHT: Thủ cơ hay là chấp bút, phải để cho thần, tâm tịnh mà xuất chơn thần ra khỏi phách đặng đến hầu Thầy nghe dạy. Khi chấp thủ thì tay tuân theo chơn thần nói lại mà viết ra, mường tượng như con đặt để, con hiểu đặng vậy.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chấp trách

執責

A: To hold a grudge.

P: Garder rancune.

Chấp: Câu nệ, để ý ghi nhớ lỗi lầm của người. Trách: quở phạt.

Chấp trách là vịn vào một lý do về việc làm sai trái để trách phạt.

TNHT: Thầy chẳng buổi nào chấp trách các con, bởi lòng thương yêu hơn chấp trách rất nhiều, sợ là sợ cho các con mất đức với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chấp trung quán nhứt

執中貫一

A: To maintain the Happy-Medium and an enfilade alone.

P: Tenir le Juste-Milieu et une seule enfilade.

Chấp: Cầm giữ. Trung: chính giữa, mức trung bình. Quán: một xâu xuyên suốt. Nhứt: một.

Chấp trung là giữ cái mức giữa, không thái quá mà cũng không bất cập. Ấy là cái đạo Trung Dung của Ðức Khổng Tử.

(Xem chi tiết nơi chữ: Trung Dung, vần Tr).

Quán nhứt là một dây chuỗi mà xâu được nhiều thứ, ý nói chỉ lấy một lẽ mà suốt cả mọi việc. (Xem chi tiết nơi chữ: Nhứt dĩ quán chi, vần Nh).

Thường nói: Chấp trung quán nhứt và Doãn chấp quyết trung.

■ Chấp trung quán nhứt: là giữ đạo Trung Dung một xâu xuyên suốt từ đầu đến cuối.

Ðức Khổng Tử nói: "Ngô đạo nhứt dĩ quán chi" (吾道一以貫之) nghĩa là: Ðạo của ta suốt từ đầu đến cuối chỉ có một lý mà thôi.

Câu nói ấy tóm hết cái Ðạo của Ngài, làm cho cái thống hệ nhứt thể rất sáng tỏ. Ðạo Nhứt quán ấy còn được gọi là Trung Thứ hay Nhân Nghĩa, cũng do Ðạo Nhân mà ra cả.

■ Doãn chấp quyết trung: (允執厥中) là hãy tin giữ lấy cái đạo Trung.

Ông Chu Hy viết: Xem trong kinh, Doãn chấp quyết trung là lời của vua Nghiêu dặn lại vua Thuấn.

Sau đó, khi vua Thuấn truyền ngôi lại cho vua Võ, vua Thuấn dặn lại vua Võ: "Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhứt, doãn chấp quyết trung (人心惟危,道心惟微,惟精惟一,允執厥中) nghĩa là: Cái tâm của người thì hiểm nghèo, cái tâm của đạo thì kín nhiệm, phải giữ cái tâm của mình cho tinh thuần và chuyên nhứt, thì mới giữ được cái đạo Trung.

Lời nói của vua Nghiêu rất mực thay! Ðến khi vua Thuấn dặn lại vua Võ lại thêm ba lời nữa để cho ý nghĩa càng thêm sáng tỏ, như thế là đầy đủ và tỏ rõ lắm vậy.

Người ta thường nói cái hư linh tri giác của cái Tâm chỉ là một, thế mà lại chia ra: Nhân tâm và Ðạo tâm, hai cái đó khác nhau, ấy là vì muốn giữ cái công chánh của tính Trời phú bẩm. Do đó, Nhân tâm thì hiểm nghèo, không yên ổn và thường nghiêng về Nhân dục; còn Ðạo tâm thì kín nhiệm, khó thấy được, nhưng lúc nào cũng tồn tại. Cái Ðạo tâm đó khi hiển lộ thì nó là Phật tánh, tức là cái tánh bổn thiện của con người.

Con người ai cũng có Nhân tâm và Ðạo tâm, hai cái ấy xen lẫn nhau chỉ trong gang tấc. Dầu bậc thượng trí hay bậc hạ ngu đều có hai cái tâm ấy như nhau.

Do đó, phải "tinh" để xét hai cái tâm ấy đừng cho lẫn lộn, phải "nhứt" để giữ cái công chánh của bổn tâm, đừng để nó xa lìa, rồi theo thế mà làm, không gián đoạn thì Ðạo tâm sẽ thường làm chủ được mình, buộc Nhân tâm phải tùng phục, ắt là hiểm nghèo trở thành yên ổn, mọi việc làm đều khỏi sai lầm vì thái quá hay vì bất cập, tức là giữ được đạo Trung.

Những điều của ông Chu Hy nêu ra như đã nói ở trên, không những là yếu chỉ của đạo Trung Dung, mà cũng là cái gốc trong phép tu dưỡng của con người muôn thuở.

Ðây là chỗ gặp nhau của Tam Giáo. Chỉ có một lý mà mỗi tôn giáo đều dùng những từ ngữ riêng của tôn giáo mình mà diễn tả, nên khi thoạt thấy thì tưởng là khác nhau.

Con người nơi cõi trần, dù ở bực thấp hay bực cao, mỗi người cũng đều có một Nhân tâm và Ðạo tâm (Thiên tâm). Trong Nhân tâm ấy có một điểm Ðạo tâm, nếu điểm Ðạo tâm ấy lu lờ thì Nhân tâm sẽ lấn lướt, con người ấy sẽ đi vào đường ác, chịu trong vòng vay trả mà phải luân hồi. Nếu điểm Ðạo tâm sáng tỏ, Nhân tâm phải phục tùng theo thì con người ấy sẽ càng lúc càng thiện lương chơn chánh, càng tiến hóa, sớm được trở về cùng Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

 

CHÂU (CHU)

CHÂU

1.    CHÂU: Ðến nơi đến chốn, họ Châu (Chu).
Td: Châu cấp, Châu toàn, Châu Công.

2.    CHÂU: Một khu vực hành chánh.
Td: Châu đạo, Châu thành.

3.    CHÂU: Vòng quanh, đi vòng quanh.
Td: Châu tri.

 

Châu cấp

周給

A: To aid, help.

P: Aider, secourir.

Châu: Ðến nơi đến chốn, họ Châu (Chu). Cấp: giúp cho, phát cho.

Châu cấp hay Chu cấp là đem tiền bạc giúp cho đầy đủ, giúp tới nơi tới chốn để đủ sống.

ÐLMD: Mở thêm giáo viên Nam Nữ và định phần châu cấp mỗi tháng.

ÐLMD: Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938).

 

Châu Công

周公

Châu: Ðến nơi đến chốn, họ Châu (Chu). Công: tước Công, đứng đầu 5 tước của triều đình. Năm tước ấy là: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.

Châu Công hay Chu Công là Công tước họ Châu, là Ông Châu Công Ðán, con thứ ba của vua Châu Văn Vương, em ruột của Châu Võ Vương, chú ruột của Châu Thành Vương.

Khi vua Văn Vương băng, truyền ngôi lại cho Võ Vương thì Châu Công Ðán giúp anh sắp đặt các việc chánh trị, chiêu đãi người hiền, đặt ra lễ nhạc.

Châu Công xem xét gương hưng vong của các đời trước như: Ðường, Ngu, Hạ, Thương, thấy rằng chỉ do chư Hầu bất phục mà ra. Do đó, Châu Công đem những đất đai đã chiếm được phong cấp cho các tù trưởng cũ, còn các nơi trọng yếu thì phong cho các công thần, hoặc phong cho người trong dòng họ để khống chế các chư Hầu cũ và cũng là làm hàng rào bảo vệ triều đình.

Các chư Hầu mới cũ đều theo đất phong lớn nhỏ mà hưởng các tước: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Ðất phong của Công và Hầu là 100 dặm vuông, đất phong của tước Bá là 70 dặm vuông, đất phong của tước Tử là 50 dặm vuông. Người được đất phong dưới 50 dặm vuông thì gọi là Phụ dung.

Châu Công đặt ra Lễ Nhạc, nghi thức nơi triều đình, trật tự trong gia tộc, các việc đều được qui định chặt chẽ.

Nông nghiệp được đặt theo phép Tỉnh điền. Một khoảng đất rộng chừng năm sáu trăm mẫu được chia thành 9 khu vực theo hình chữ Tỉnh (), 8 gia đình chia nhau ở 8 khu chung quanh, và phải chung sức nhau cày cấy khu trung tâm để lấy lúa nộp cho triều đình.

Châu Công chế ra xe chỉ Nam để đưa sứ giả nước Việt về nước, không bị lạc đường.

Công Công có một công trình văn học lớn là tiếp nối vua cha (Châu Văn Vương) chuyên tâm nghiên cứu Kinh Dịch. Vua Văn Vương mới viết ra Thoán Từ để giải nghĩa 64 quẻ của Kinh Dịch do vua Phục Hy truyền lại, Ông Châu Công Ðán viết thêm Hào Từ để giải thích các hào trong mỗi quẻ của 64 quẻ. Tổng cộng có 384 hào: 64 quẻ x 6 hào = 384 hào.

Khi Võ Vương băng, con là Tụng lên nối ngôi lấy hiệu là Thành Vương. Thành Vương còn nhỏ tuổi nên Châu Công giữ chức Nhiếp Chánh, trông coi mọi việc trong nước. Có bọn bầy tôi cũ của vua Trụ phao ngôn rằng Châu Công sẽ phế Thành Vương để cướp ngôi vua. Thành Vương nghe biết nhưng không trị tội kẻ phao ngôn ly gián phá hoại, mà Thành Vương lại có ý nghi ngờ. Châu Công liền xin trả chức Nhiếp Chánh rồi lui về sống ở ấp riêng, soạn tập thơ Xuy Hiền gởi lên vua Thành Vương bày tỏ lòng trung nghĩa. Vua Thành Vương cảm động, biết Châu Công là người trung nghĩa nên đi rước Châu Công trở lại triều đình làm Nhiếp Chánh như trước.

Châu Công Ðán nhiếp chính được 7 năm rồi giao chánh quyền lại cho vua Thành Vương, vì lúc đó Thành Vương đã trưởng thành tự mình quản lý được việc nước.

Em của Châu Công là Quản Thúc có ý đồ không tốt, nhiều lần gièm siễm, nói xấu Châu Công với vua Thành Vương, sau đó liên kết với Võ Canh và Tam Giám, bề tôi cũ của vua Trụ, nổi lên làm phản. Một vài chư Hầu ở phía đông cũng hưởng ứng theo. Châu Công kéo binh đông chinh, bắt được Quản Thúc và Võ Canh giết đi, bình định được giặc, lại sai con là Bá Cầm đánh dẹp các chư Hầu làm phản như Hoài Di, Từ Nhung ở huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Ðông ngày nay. Sau khi dẹp xong loạn, nơi đây lập thành nước Lỗ và phong đất nầy cho Bá Cầm, con của Châu Công Ðán.

Châu Công là một nhà chánh trị tài giỏi, mà cũng là một nhà bác học, lại rất kính trọng hiền sĩ. Lúc tắm gội hay khi ăn cơm mà nghe hiền sĩ đến viếng thăm, liền nhả cơm ra, vội bới tóc sửa áo ra tiếp khách.

Vợ của Châu Công là một mệnh phụ đứng bực nhứt của triều đình, nổi tiếng là người đức hạnh và gương mẫu, giúp đỡ chồng, lo lắng công việc gia đình hoàn hảo, lại lo việc canh cửi, làm gương tiết kiệm tốt cho dân.

Châu Công Ðán là người có nhiều tài đức, làm cho nền văn hóa của xã hội thời đầu nhà Châu rất rực rỡ và phồn thịnh.

Các chế độ, tộc chế, các lễ nhạc do Châu Công Ðán đặt ra có ảnh hưởng rất lớn lao đến chính trị và xã hội của Trung quốc, ảnh hưởng lên các nước lân bang theo văn hóa Trung quốc suốt hơn hai ngàn năm sau đó.

TNHT: Chẳng khác nào khi trước, nhơn đạo chưa mở thì đã có Châu Công truyền trước.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Châu đạo

州道

A: The religious province. 

P: La province religieuse.

Châu: Một khu vực hành chánh. Ðạo: tôn giáo.

Châu đạo là một tỉnh đạo, tức là gồm các tín đồ cư ngụ trong một tỉnh.

Như vậy, một Châu đạo có nhiều Tộc đạo, và nhiều Châu đạo họp thành một Trấn đạo.

Ðứng đầu Châu đạo là một vị Khâm Châu đạo, phẩm Giáo Hữu, do Hội Thánh bổ nhiệm đến hành đạo.

 

Châu Mãi Thần

周買臣

Nơi bao lơn trước Tòa Thánh có một bức tranh ghi lại sự tích của Châu Mãi Thần (hay Chu Mãi Thần), tượng trưng cho Sĩ, một trong tứ dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) thời trước.

Châu Mãi Thần, người đất Cối Kê, đời nhà Hán, nhà rất nghèo, nhưng rất ham đọc sách. Thuở hàn vi, chàng phải đi đốn củi rừng đem bán để sanh sống, thường treo sách nơi đầu gánh, vừa đi vừa đọc.

Vợ của Châu Mãi Thần không thể chịu nổi cảnh nghèo túng mãi như vậy được nên đòi thôi chồng, để đi lấy chồng khác khá giả hơn mà nương nhờ tấm thân.

Châu Mãi Thần khuyên vợ:

- Năm nay tôi 49 tuổi rồi, qua năm 50 tuổi, tôi biết tôi thế nào cũng lập được công danh. Bấy lâu nay, chúng ta sống trong cảnh cơ cực cũng đã quen rồi, nay nàng ráng chờ tôi một năm nữa thì nàng sẽ hưởng được phú quí.

Người vợ liền trả lời:

- Ðến chừng Ông làm quan thì tôi đã chết đói rồi.

Thế là vợ của Châu Mãi Thần nhứt quyết bỏ chồng, nàng đi lấy một anh nông dân khá giả trong làng.

Châu Mãi Thần rất đau buồn. Chàng lại càng quyết tâm học tập hơn nữa, bất luận ngày đêm, cuốn sách đều kế bên mình.

Năm sau, Châu Mãi Thần được Nghiêm Trợ tiến cử lên vua Hán Võ Ðế, được vua thâu dụng, phong chức Trung Ðại Phu. Lúc bấy giờ xảy ra giặc giã ở vùng Ðông Việt. Hán Võ Ðế sai Châu Mãi Thần lo chuẩn bị khí giới, thuyền bè, để cho binh sĩ đi dẹp giặc. Sau đó, Châu Mãi Thần được thăng chức làm Thái Thú Cối Kê.

Cối Kê là quê hương của họ Châu. Khi Châu Mãi Thần đến nhậm chức Thái Thú Cối Kê, quân dân địa phương phải ra nghênh đón. Tới nơi, bỗng thấy người vợ cũ chạy đến đón trước đầu ngựa, xin Châu Mãi Thần bỏ qua chuyện lầm lỗi xưa của nàng, cho nàng trở lại làm vợ chàng.

Châu Mãi Thần bèn lấy một bát nước đầy, đổ xuống đất trước đầu ngựa, rồi bảo người vợ cũ:

- Nếu nàng hốt nước lại cho đầy bát như trước thì tôi sẽ đem nàng về với tôi như trước.

Bát nước đã đổ, làm sao hốt lại cho đầy. Bởi vậy, người vợ biết ý Châu Mãi Thần đã quyết nên hổ thẹn bỏ đi.

Tuy vậy, để đáp đền tình nghĩa vợ chồng ngày trước, Mãi Thần cấp cho người vợ cũ và chàng nông dân một ngôi nhà và một số tiền đủ để sống suốt đời. Nhưng người vợ cũ cảm thấy quá xấu hổ, nên treo cổ tự tử. Người nông dân đem xác nàng táng bên bờ ao gần đường lộ.

Người đời có khắc một bài thơ 4 câu trên cái bia đặt trước mộ nàng để làm gương cho phụ nữ đời sau:

Thanh thảo trì biên mộ nhứt khu,

Thiên niên mai cốt bất mai tu.

Ðinh ninh ký ngữ nhơn gian phụ,

Tự cổ tào khang đáo bạch đầu.

Tạm dịch:

Một nấm mộ xanh cạnh vũng bờ,

Ngàn năm chôn xác chẳng chôn nhơ.

Ðinh ninh nhắn gởi đoàn nhi nữ,

Từ cổ vợ chồng trọn tóc tơ.

Từ điển tích về Châu Mãi Thần, trong văn chương, người ta rút ra hai thành ngữ:

- Mã tiền bát thủy: Trước ngựa chén nước.

- Phúc thủy nan thu: Nước đổ khó hốt lại.

Hai thành ngữ nầy dùng để chỉ người vợ phụ bạc chồng lúc chồng còn hàn vi chưa gặp thời, và người chồng nhứt định không cho người vợ trở lại khi được vinh hiển.

 

Châu nhi phục thỉ

週而復始

A: To circulate and return to the beginning.

P: Circuler et retourner au début.

Châu: Vòng quanh, đi vòng quanh. Nhi: mà, tiếng dùng để chuyển ý. Phục: trở lại. Thỉ: bắt đầu, mối khởi đầu.

Châu nhi phục thỉ là đi giáp một vòng thì trở lại mối đầu và cứ thế tiếp tục, đúng một chu kỳ thì trở lại.

Ý nói: Việc đời cứ biến chuyển xoay vần và tái diễn.

TÐ ÐPHP: Ðền Thánh hoàn thành là triệu chứng châu nhi phục thỉ, từ đây sắp vô cùng, vạn linh sanh chúng sẽ được hưởng muôn điều hạnh phúc.

TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

 

Châu thành Thánh địa

州城聖地

A: The city of Holy land.

P: La ville de la Terre Sainte.

Châu Thành Thánh Ðịa là một vùng ngoại ô rộng lớn của Tòa Thánh Tây Ninh, rộng 20 383 mẫu, tức là 203 cây số vuông (theo tài liệu trong sách 40 năm lược sử ÐÐTKPÐ của Hoài Nhân), do các tín đồ Cao Ðài từ khắp nơi trong nước về Thánh Ðịa khai phá lập nghiệp sanh sống. Dân số vùng Thánh Ðịa càng ngày càng đông, do sự sanh sản gia tăng và nhứt là thu hút các nơi do sự phát triển kinh tế mau lẹ của vùng nầy.

Theo Bảng Thống Kê trước năm 1974, Châu Thành Thánh Ðịa có tất cả 18 Phận đạo, từ Phận đạo Ðệ nhứt đến Phận đạo Thập bát. Các Phận đạo nầy được phân ra làm 3 khu vực theo hướng Bắc Nam:

·         Châu Thành Bắc có 6 Phận đạo: 6, 10, 11, 12, 13, 18.

·         Châu Thành Nam có 6 Phận đạo: 5, 8, 9, 14, 15, 16.

·         Châu Thành Trung có 6 Phận đạo: 1, 2, 3, 4, 7, 17.

Ðến năm 1974 thì số Phận đạo là 19, và năm 1975 thì số Phận đạo là 20.

Theo Bảng Thống Kê năm 1974 báo cáo trong Hội Nhơn Sanh năm Giáp Dần (1974), Châu Thành Thánh Ðịa có:

·         Số Phận đạo: 19

·         Số Hương đạo: 198

·         Số nóc gia: 29 874

·         Nhân số: 170 000 người.

·         Số lộ đất: 608 con đường.

Số Hương đạo và Phận đạo càng lúc càng tăng vì số tín đồ Cao Ðài qui tụ về Thánh Ðịa càng ngày càng đông.

Mỗi Phận đạo có chừng 10 Hương đạo.

Mỗi Hương đạo có 3 Ấp đạo, mỗi Ấp đạo có 36 nóc gia.

Mỗi Ấp đạo chia ra làm 3 Liên gia, mỗi Liên gia có 12 nóc gia, lập thành Thập nhị Liên gia Bảo.

Ðứng đầu Châu Thành Thánh Ðịa là một vị Khâm Thành, phẩm Giáo Sư, do Hội Thánh bổ nhiệm.

Dưới vị Khâm Thành có 3 vị Phó Khâm Thành, phẩm Giáo Hữu, mỗi vị phụ trách một khu vực:

·         Phó Khâm Thành Bắc.

·         Phó Khâm Thành Trung.

·         Phó Khâm Thành Nam.

Ðứng đầu Phận đạo là vị Ðầu Phận đạo, phẩm Lễ Sanh.

Ðó là sự tổ chức về Hành Chánh Ðạo trong Châu Thành Thánh Ðịa bên CTÐ.

Ðối với CQPT, hệ thống tổ chức trong Châu Thành Thánh Ðịa cũng tương tự như trên, nhưng các chức vụ thì gọi khác đi một chút để tránh sự trùng lập giữa Hành Chánh và PT: như gọi Quản Châu Thành Thánh Ðịa, Phó Quản Châu Thành Bắc,... ..., rồi Quản Phận đạo, với phẩm cấp Chức sắc tương đương đối phẩm với CTÐ.

ÐÐTKPÐ: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

CQPT: Cơ Quan Phước Thiện.

 

Châu toàn

周全

A: To aid perfectly.

P: Aider complètement.

Châu: Ðến nơi đến chốn, họ Châu (Chu). Toàn: trọn vẹn.

Châu toàn hay Chu toàn là giúp đỡ một cách trọn vẹn.

KTKTQV: Xin châu toàn đường hạnh môn sinh.

KTKTQV: Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị.

 

Châu tri - Thông tri

週知 - 通知

A: The circular.

P: La circulaire.

Châu: Vòng quanh, đi vòng quanh. Thông: thông suốt, hiểu thấu. Tri: biết.

Về từ ngữ, Châu tri và Thông tri đồng nghĩa, nhưng về phương diện Hành Chánh Ðạo, hai từ nầy khác nhau một chút:

Châu tri là văn kiện có mục đích phổ biến rộng rãi một vấn đề của đạo để cho toàn Chức sắc, Chức việc và Ðạo hữu nam nữ hiểu rõ, do cấp Thượng Thống Cửu viện ký tên.

Thông tri là văn kiện có mục đích giải thích pháp lý một vấn đề của đạo để cho toàn Chức sắc, Chức việc và Ðạo hữu nam nữ hiểu rõ, do cấp Thượng Thống Cửu Viện ký tên.

 

CHẾ

Chế biến

制變

A: To transform. 

P: Transformer.

Chế: làm ra, đặt ra. Biến: thay đổi.

Chế biến là thay đổi để làm ra cái mới theo ý mình.

CG PCT: Chẳng đặng cải mạng lịnh, tự mình chế biến, nhứt nhứt đợi lịnh Ðầu Sư.

CG PCT: Chú Giải Pháp Chánh Truyền.

 

Chế ngự

制御

A: To dominate.

P: Dominer.

Chế: ngăn chận. Ngự: cai trị.

Chế ngự là ngăn chận và cai trị, bắt buộc phải tuân theo.

TNHT: Ấy là Trời đang chế ngự số mạng của các con.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

CHI

CHI

1.    CHI: Ngành, nhánh.
Td: Chi phái.

2.    CHI: Mt th c thơm.
Td: Chi lan.

 

Chi chi hữu sanh

支支有生

A: All the living beings.

P: Tous les êtres vivants.

Chi chi: tất cả những thứ gì. Hữu sanh: có sự sống.

Chi chi hữu sanh là tất cả những thứ gì có sự sống, tức là tất cả các loài sinh vật.

TNHT: Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà ra, hễ có sự sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chi lan

芝蘭

A: Lily and orchid.

P: Lys et orchidée.

Chi: Một thứ cỏ thơm.  Lan: cây lan có hoa đẹp và rất thơm.

Chi lan là cỏ chi và cỏ lan, có hoa đẹp và tiết ra mùi thơm nhẹ nhàng, hòa hợp với nhau.

■ Theo sách Khổng Tử Gia Ngữ: Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất. Nghĩa là: Ở với người lành như vào nhà có cỏ chi cỏ lan.

Do đó, chi lan là để chỉ người hiền đức, người tốt hay tình bạn cao quí.

■ Theo Tấn thư, Tạ An thường khuyên răn con cái trong nhà. Con là Tạ Huyền thưa rằng: Tỷ như chi lan ngọc thụ, dục sử kỳ sinh ư đình giai nhĩ. Nghĩa là: Cũng ước như cây chi cây lan là những cây quí được mọc trước thềm nhà.

Do đó, chi lan cũng chỉ con hiền cháu quí.

TNHT:

Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,

Chẳng để mùi gần chẳng biết hương.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chi phái

支派

A: The sects of Caodaism.

P: Les sectes du Caodaïsme.

Chi: Ngành, nhánh. Phái: phe nhóm gồm nhiều người.

Chi phái là những chi nhánh do những Chức sắc của Ðạo Cao Ðài Tòa Thánh Tây Ninh tách riêng tự lập ra, không còn chịu hệ thống của Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh nữa.

Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn Thượng Ðế lập nên, được chánh thức làm Lễ Khai Ðạo vào ngày 15-10-Bính Dần (1926).

Sau đó, một số Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài không tùng phục Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh, nên tách riêng ra, lập cơ bút riêng, phong thưởng Chức sắc riêng, tạo thành những Chi phái của Ðạo Cao Ðài.

Từ năm 1928 đến năm 1934, có 5 Chi phái được lập ra có hoạt động đáng kể, nhưng vì muốn được con số 12 Chi phái, nên người ta kể thêm những nhóm nhỏ lẻ tẻ mà đúng ra không thể gọi là Chi phái.

Năm Chi phái có hoạt động đáng kể lúc đầu là:

1.    Chiếu Minh (1927)

2.    Cầu Kho (1930)

3.    Minh Chơn Lý (1931)

4.    Tiên Thiên (1932)

5.    Ban Chỉnh Ðạo Bến Tre (1934).

Rồi từ 5 Chi phái nầy lại nảy sanh nhiều Chi phái khác nữa, như: từ Minh Chơn Lý nảy ra Minh Chơn Ðạo, từ Chi phái Chiếu Minh Vô Vi nảy ra Chiếu Minh Ðàn, Chiếu Minh Long Châu, vv... Chúng ta sẽ khảo sát kỹ ở phần sau.

Từ trước tới nay, ít tín đồ Cao Ðài muốn thảo luận vấn đề nầy một cách công khai và cởi mở, vì lẽ: người chủ trương lập Chi phái thì đứng núp sau lưng các Ðàn cơ và biện minh trách móc; người không chủ trương thì hoang mang hoặc không dám bàn, sợ phạm thượng mang tội .

Người tín đồ thì chẳng hiểu bề trong, nên chỉ biết đi theo Chức sắc lãnh đạo ở địa phương mình. Thành phần tín đồ trí thức hiểu biết thì đâm ra khó chịu, tủi thẹn, rồi xa Ðạo, hoặc rút về tu tại gia, không muốn tham gia vào việc Ðạo.

Còn Hội Thánh thì không muốn phơi bày việc không tốt của Hội Thánh cho tín đồ biết vì sợ người ngoài biết được mà khinh rẻ cười chê, và làm suy giảm tín ngưỡng, nên mong mỏi những Chức sắc lập Chi phái hồi tâm, thương Thầy mến Ðạo mà trở về cùng Hội Thánh, hoặc được sự hộ trì của các Ðấng thiêng liêng để vấn đề được dàn xếp ổn thỏa êm đẹp.

Sự chia rẽ trầm trọng trong nội bộ của Ðạo Cao Ðài sau ngày Khai Ðạo dẫn đến sự phân chia Ðạo Cao Ðài thành nhiều Chi phái, đã làm cho biết bao thế hệ tín đồ Cao Ðài có nhiệt tâm thương Thầy mến Ðạo phải ngậm ngùi đau khổ, hổ thẹn; nhưng chúng ta không nên vì đó mà ém nhẹm đi, cần phải phơi bày ra để phân tích tìm hiểu, rút kinh nghiệm, để từ đây đến mãi về sau, không còn đi vào vết xe đã đổ trước nữa.

 

KHẢO CỨU VỀ CHI PHÁI

I.  Tiên tri sự phân chia Chi phái

II.  Nguyên nhân phân chia Chi phái

III.  Hậu quả việc phân chia Chi phái

IV. Các Chi phái của Ðạo Cao Ðài

Tổng kết số lượng Chi phái

A. Những Chi phái buổi đầu

B. Những Chi phái lúc sau

C. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái

D. Nhóm đặc biệt: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam

V.  Vấn đề qui hiệp các Chi phái Cao Ðài

A. Các phong trào thống nhứt Chi phái

B. Tại sao các Chi phái không thống nhứt được?

VI. Phần Phụ: Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái

1. Ngài Ngô Văn Chiêu

2. Ông Vương Quan Kỳ (1880-1940)

3. Phối Sư Thái Ca Thanh phái Minh Chơn Lý

4. Hai vị lãnh đạo phái Bến Tre:

·         NGUYỄN NGỌC TƯƠNG (1881- 1951)

·         LÊ BÁ TRANG (1879-1936)

5. Ông Nguyễn Bửu Tài phái Tiên Thiên

6. Nhóm Tịch Cốc tập bay

7. Ông Cao Triều Phát, phái Minh Chơn Ðạo

8. Ông Huệ Lương Trần Văn Quế (CQPTGL)

 

I. Tiên tri sự phân chia Chi phái:

Lúc chưa chánh thức Khai Ðạo, Ðức Chí Tôn đã có cho bài thi tiên tri việc phân chia Chi phái, nhưng không ai để ý:

TNHT: Ngày 20-2-1926.

"Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,

Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.

Chung hiệp ráng vun nền đạo đức,

Bền lòng son sắt đến cùng Ta.

Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu."

Như vậy sự phân chia Chi phái cũng là tiền định, nhưng trong đó cũng do nhơn dục nên mới đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại cho nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn.

II. Nguyên nhân phân chia Chi phái:

Trước khi nêu ra các nguyên nhân phân chia Chi phái, xin độc giả xem 2 đoạn Thánh Ngôn sau đây của Ðức Chí Tôn:

TNHT: Ngày 21-4-1930 (âl 23-3-Canh Ngọ)

"Thầy phải sửa cải Thiên thơ để cho mỗi đứa được có ngày giờ và thế lực mà dìu dắt nhau cho tròn phận sự, nhưng rốt lại, Tà quyền cũng lấn lướt chất Thánh, bước tục dẫn chơn phàm. Thầy rất đau lòng mà dòm thấy con cái líu xíu bị lầm vào đường Tà quái.

Ðứa thì mê tài, đứa thì ham cận sắc, đứa bị biếm vào lối lợi quyền, đứa bị xô vào nơi thất đức. Mỗi đứa mỗi nẻo, đều quăng sạch chất thiêng liêng, lầm lủi đưa tay theo mấy mươi động.

Hại nữa, các con bị nó tàng ẩn xô cho dang nhau, bứt nghiến tình đoàn thể, chặt lìa dây liên lạc, giành xé cắn rứt nhau như kẻ khác nhà, gà riêng ổ, cho đừng có thế lực chi mà kình chống với chúng nó, rồi rốt cuộc lại thì các con phải lần lần bị manh mún phân chia, sa vào hang sâu vực thẳm.

Thầy tưởng để cho các con lo liệu giành giựt đương cự với chúng nó, nhưng dòm Thiên thơ thì tám phần mười đã sa ngay vào chơn của Quỉ vương vày đạp, mà lại phần đông các con là bậc phẩm cao, chức trách trọng hậu.

Tà đã thắng Chánh thì con (Thượng Trung Nhựt) làm thế nào đương cự cho kham. Con là đứa Thầy tin cậy hồi ban sơ, tuy bước đường cũng lắm lúc sai lầm nhưng nhờ các Ðấng thiêng liêng thương mà chỉ dẫn, nên bước vừa trờ tới kịp lúc trở ra.

Thương hại thay cho nhiều đứa khác, quyền chưa từng nắm, của chưa từng cầm, sắc chưa từng gần, lợi chưa từng thấy, bị lũ quái tùy Thiên thơ, đem treo trước mắt mà phải lầm lủi bước đường, chơn linh quí hóa kia mắc lẫn với xác phàm mà phải chịu muôn đời chìm đắm.

Ðạo tuy cao, song nên biết sức Quỉ cũng chẳng hèn. Nếu không ngăn ngừa dằn lửa nóng trong tâm thì lửa Tam Muội của Quỉ vương đốt cháy."

Thánh Ngôn Sưu Tập: 14-7-1932 (âl 11-6-Nhâm Thân)

"Thầy đến cùng các con chỉ trông cậy có một điều là làm phương nào cho các con đặng thiệt lòng thương yêu hòa thuận cùng nhau. Thầy đã hết lời khuyên dạy buổi đầu, lại để lời tiên tri dặn bảo, mà các con chẳng biết vâng lời, cứ gây đoan những điều hờn giận, dối trá, gạt nhau, đòi phen lại dám mượn danh Thầy mà làm lợi khí.

Thầy hỏi: - Thằng CA nó phản đạo là tại cớ nào? Nói Thầy nghe thử...

- Không phải vì vậy mà thôi, mà tại gương xấu của các con phản phúc lẫn nhau, nhục mạ lẫn nhau, mưu hại lẫn nhau, giành giựt quyền hành, gây điều bất chánh, đến đỗi HTÐ cũng thế. TẮC! Con nghe rõ: nhiều đứa dùng cơ bút mà làm ngọn đao thương đặng sát phạt mắng chửi nhau, ngày nay mới làm mối oan khiên cho Tà Thần bắt chước.

Hại thay cho một nền tôn giáo chơn chánh dường nầy, bị phàm tâm của các con đã ra ô trược...

Thầy đã thấy trong Thiên thơ, tội tình của mỗi đứa, Thái Bạch đã giao nạp cho Ngọc Hư Cung rồi, đã đủ mặt CTÐ và HTÐ đều có hết."

Như vậy, các nguyên nhân gây chia rẽ để lập thành các Chi phái, có những nguyên nhân do bên trong và do từ bên ngoài, nhưng tựu trung 4 nguyên nhân chánh sau đây:

1.    Anh hùng tánh cá nhân, muốn làm một ông vua xứ nhỏ hơn là làm đại thần của một nước lớn.

2.    Sự bất đồng ý kiến, sự mâu thuẩn trong nội bộ khiến không thể cộng tác với nhau được.

3.    Mỗi người hay mỗi nhóm có lập cơ bút riêng, và chính cơ bút nầy phong cho họ những chức tước cao cấp theo lòng mong muốn của họ, và xúi giục họ lập Chi phái không tùng mạng lịnh của Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh.

4.    Bên ngoài thì nhà cầm quyền Pháp xúi giục phân chia làm cho nền Ðạo rã tan thành manh mún, không còn đủ sức để đe dọa nền thống trị của nước Pháp.

Người Pháp lúc đó rất sợ Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, vì trước khi theo Ðạo Cao Ðài, Ngài là Thượng Nghị Sĩ của Thượng Nghị Viện Nam Kỳ, đứng đối lập với chánh quyền để tranh đấu cho quyền lợi của dân chúng VN, như vụ chống tăng thuế điền, làm Pháp phải nhượng bộ.

Trong văn thư số 23 của Ðức Phạm Hộ Pháp gởi cho Bắc Tông Ðạo (Hà Nội), lúc Ngài ở Kim Biên (Nam Vang) đề ngày 12-3-Mậu Tuất (dl 29-4-1958), Ngài có viết:

"Khi mới mở Ðạo thì mấy anh lớn đều do nơi trường quan lại của Pháp, trong hàng Phủ và Ðốc phủ, mà họ đương cầm quyền Chủ Quận hay Phó Chủ Tỉnh. Vì cớ mà Pháp đã ra lịnh cho mấy anh ấy phải từ khước, không đặng hiệp tác cùng Anh Lê Văn Trung, là tay nghịch hẳn cùng Pháp đã rõ ràng bằng cớ. Pháp lại hứa cùng mấy anh lớn ấy rằng: Họ muốn tu theo Ðạo Cao Ðài thì họ tự lập Chi phái, rồi họ sẽ được sự bảo vệ đặc biệt của Pháp, còn theo Anh Lê Văn Trung thì họ sẽ bị khủng bố, không cho làm quan lại của Pháp nữa.

Ðiều ấy mấy anh lớn cũng không đủ sợ, vì công danh quyền lợi mình mà nhảy ra thành lập Chi phái, nhưng tới khi Pháp hăm rằng: sẽ khủng bố đến con cái của họ đương du học tại Pháp, tiền cấp học bổng bị thâu lại, và không cho cha mẹ có phương thế gởi tiền sang cho nữa đặng tiếp tục việc học hành. Ðiều nầy làm cho họ kinh khủng hơn hết. Thật ra thì cả con cái mấy anh đương du học tại Pháp và tương lai của chúng rất nên sáng lạn, sẽ bị bỏ dở vì cuộc trả thù của Pháp.

Bởi cớ cho nên họ lén trở về hội đàm cùng Anh Quyền Giáo Tông liệu phương gỡ rối. Buổi ấy có mặt "Qua" và chính mình Qua khuyên họ nên nghe lời Pháp, lập Chi phái dưới quyền bảo hộ của họ, miễn là Ðạo đặng truyền bá là đủ.

Nguyên do lập Chi phái của Ðạo là như thế."

Tóm tắt lại phần nầy, xin lấy bài Thánh giáo sau đây của Ðức Phạm Hộ Pháp giáng cơ ngày 1-4-Kỷ Dậu (dl 16-5-1969) in trong Thánh Giáo Sưu Tập của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo VN trang 161:

"Công quả khai ÐÐTKPÐ có thể nói là Bần đạo đã đóng góp được hai phần ba công quả ấy, nhưng buồn vì nước nhà chủ quyền không được bảo đảm kể từ thuở khai đạo, các đàn anh cũng vì lẽ ấy bị chi phối rất nhiều.

Từ chỗ vị kỷ, vị danh, vị lợi, cũng như tự ái, tự đại, tự tôn, nên đã gây ra cảnh chia ly phân tán, đã để lại một gánh nặng cho đoàn hướng đạo ở hậu sanh. Ðó là điều đáng buồn và cũng là kinh nghiệm quí giá cho đàn em trong mai hậu.

Nếu mình mỗi người biết đặt đạo lý Chí Tôn, quyền pháp và nhân sinh lên trên hết, và tự trọng tự ái vì danh dự của quốc gia dân tộc và đạo pháp thì không có kẻ hở nào để bạo quyền chuyên chế, ngoại nhập khuynh đảo để rẽ chia.

Vết xe trước đã sụp đổ, đoàn xe sau nên tránh. Kể ra đàn anh chịu phần trách nhiệm rất lớn trong sứ mạng.

Chính vì thế mà trong hàng tiền bối, người nào không làm đúng Thiên ý thì sẽ bị triệu hồi để đảm nhận phần vụ khác. Tuy về non Tiên, Phật cảnh, nhưng chưa được hưởng ngôi vị của mình, phải còn có nhiệm vụ đến khi nào mục đích của Chí Tôn khai đạo được hoàn thành, các hàng tiền bối ấy sẽ tùy công đức mà định vị."

III. Hậu quả việc phân chia Chi phái:

1. Những hậu quả tai hại:

- Sự chia rẽ trầm trọng về tâm lý trong giới tín đồ: Nguyên tắc giáo lý của Ðạo Cao Ðài là Thương yêu và Công chánh, hay là Bác ái và Công bình, bị thương tổn dữ dội, khiến người tín đồ nhiệt tâm với Ðạo rất đau lòng, không thể nào biện bạch được trước dư luận quần chúng. Người ngoại đạo nhìn Ðạo Cao Ðài với cặp mắt khinh thường.

- Sự phân chia Chi phái làm ly tán nhơn lực và tài lực của Ðạo Cao Ðài vốn đã ít ỏi lúc ban sơ, làm nền Ðạo rã tan manh mún, trở nên yếu ớt, và công việc khuếch trương nền Ðạo, phổ độ chúng sanh bị ngưng trệ một thời gian dài, khiến một số người đã nhập môn vào đạo nãn lòng lui chơn thối bước.

2. Trong cái dở cũng có ẩn tàng cái hay.

Bên cạnh những hậu quả tai hại như đã kể trên, sự phân chia Chi phái của Ðạo Cao Ðài cũng có một vài cái hay đối với nhà cầm quyền Pháp.

- Nhà cầm quyền Pháp cho Ðạo Cao Ðài là một nhóm hỗn tạp, luôn luôn tranh quyền đoạt vị với nhau, không thể tạo thành một lực lượng đoàn kết đủ mạnh làm ảnh hưởng nền cai trị của Pháp, nhờ vậy mà họ bớt quan tâm và không cần thiết phải đàn áp Ðạo Cao Ðài.

- Sự phân chia Chi phái giúp bảo tồn nền Ðạo trước ý đồ của Pháp là muốn tiêu diệt Ðạo Cao Ðài. Nếu diệt được Chi phái nầy thì cũng còn Chi phái khác hoạt động. Họ không thể tiêu diệt hết được.

Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn Thượng Ðế lập ra tại nước VN do Thiên thơ tiền định thì nhứt định không có một thế lực nào có thể tiêu diệt đặng. Tuy nhiên, Ðạo khai thì Tà khởi. Ðức Chí Tôn đã ban cho Quỉ Vương cái quyền thử thách người tu, làm giám khảo tuyển lựa người xứng đáng.

Kỳ Ba nầy, Ðức Chí Tôn đến cùng nhơn loại với Ðệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước mà nội dung là bốn chữ: Bác Ái - Công Bình. Ai đủ Bác Ái Công Bình thì Ðức Chí Tôn rước về cõi TLHS, nên Quỉ Vương lấy đề tài nầy mà thử thách và tuyển lựa, để lọc phàm phân Thánh.

Tuy nhiên, sự thử thách nầy xảy ra quá khắc nghiệt, khiến cho nhiều thí sinh bị đánh rớt một cách thê thảm, làm tổn hại danh thể của Ðạo. Ðức Chí Tôn có báo trước là rớt 80 %, chỉ đậu có 20 %.

Nhiều vị chưa bị thử thách thì chê bai kẻ đi trước, nhưng khi chính mình vào cuộc thì cũng bị lục dục thất tình xui khiến đi vào vết chân của người trước mà sa vào nghiệt cảnh.

IV. Các Chi phái của Ðạo Cao Ðài:

Nguyên trong buổi sơ khai nền Ðạo, vào giữa năm Ất Sửu (1925), Ðức Chí Tôn thâu phục được hai nhóm riêng nhau: Nhóm của Ngài Ngô Văn Chiêu và nhóm của Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc.

Khoảng ngày 26-1-1926 (âl 10-12-Ất Sửu), Ðức Chí Tôn giáng cơ bảo hai nhóm phải hiệp lại nhau đặng lo mở Ðạo. Các vị trong hai nhóm đều vâng lời hiệp lại, lúc đó được 12 người, là 12 môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn mà Ðức Chí Tôn có cho bài thi đủ tên 12 vị ấy để làm kỷ niệm trong ngày vía Trời mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần (1926).

Ngày 17-4-1926 (âl 6-3-Bính Dần), Ðức Chí Tôn định phong Ngài Chiêu vào chức Giáo Tông nên bảo bà Nguyễn Thị Hiếu (hiền nội của Ngài Cao Quỳnh Cư) may một bộ Ðạo phục Giáo Tông cho Ngài Chiêu, nhưng 5 ngày sau, đến ngày 22-4-1926 thì Ðức Chí Tôn cho biết là Ngài Chiêu bị truất.

Ðến ngày mùng 24-4-1926 (âl 14-3-Bính Dần) Ngài Ngô Văn Chiêu và nhóm của Ngài lại tách ra không hợp tác với nhóm Ngài Lê Văn Trung nữa, Ngài trở về lo tu đơn như trước. (Xem chi tiết nơi chữ: Ngô Văn Chiêu vần Ng)

Như thế cuộc hợp tác của hai nhóm chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn, vỏn vẹn chừng 3 tháng.

Ðầu năm Ðinh Mão (1927), Ngài Ngô Văn Chiêu lập cơ tuyển độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, và đây chính là một Chi phái đầu tiên của Ðạo Cao Ðài do Ngài Ngô Văn Chiêu thành lập.

Sau đó, có một vài vị Chức sắc khác tự lập đàn cơ riêng, bị cơ bút dẫn dắt lần lần, để sau cùng tách ra khỏi Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh, lập Chi phái như quí ông:

■ Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ) lập phái Cầu Kho tại Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn vào năm 1930.

■ Phối Sư Thái Ca Thanh (Nguyễn Văn Ca) lập Chi phái Minh Chơn Lý năm 1931 ở Mỹ Tho.

■ Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh (Nguyễn Văn Chính) lập phái Tiên Thiên vào năm 1932 tại Cai Lậy.

■ Sau cùng là hai vị Quyền Ðầu Sư Thượng Tương Thanh (Ðốc phủ Nguyễn Ngọc Tương) và Ngọc Trang Thanh (Ðốc phủ Lê Bá Trang) tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh lập Ban Chỉnh Ðạo ở Bến Tre vào đầu năm 1934.

Ðến giữa năm 1934, ngày15-7-GiápTuất (dl 24-8-1934), Ðức Lý Giáo Tông hiệp cùng Ðức Phạm Hộ Pháp lập Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8 để ngăn chận các Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh tách ra lập Chi phái, thì kể từ đó về sau, không có Chức sắc nào của TTTN dám tách ra lập Chi phái nữa. Tuy nhiên, số Chi phái sau nầy nảy sanh càng lúc càng nhiều là do trong mỗi Chi phái có sự bất đồng nên lại tách riêng lập Chi phái mới, đó là Chi phái sanh Chi phái, và số lượng nầy thì rất nhiều.

Trên đây là những nét đại cương về sự thành lập các Chi phái của Ðạo Cao Ðài buổi đầu.

Nhưng về sau nầy, nhiều nhà viết lịch sử của Ðạo Cao Ðài khi nghiên cứu về các Chi phái, đều không thống nhứt nhau về số lượng Chi phái, và về việc nên kể những Chi phái nào và không kể những Chi phái nào.

■ Ðầu tiên, Ông Gabriel Gobron người Pháp, đắc phong Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn HTÐ viết quyển Histoire et Philosophie du Caodaðsme xuất bản năm 1949, đã kể ra 11 Chi phái.

■ Trong Nguyệt san Ðại Ðạo của TTTN, năm Ất Tỵ (1965), trong 3 số báo liên tiếp 7, 8, 9, Ngài Huệ Lương Trần Văn Quế viết bài: "Ðể tìm hiểu các Chi phái trong ÐÐTKPÐ" Ngài Huệ Lương đã kể ra: Năm 1940 có12 Chi phái chánh với 3 nhóm không được kể là Chi phái; năm 1963 thì có 15 Chi phái với 2 nhóm không kể là Chi phái.

■ Năm 1966, Ông Hoài Nhân trong: "40 năm lịch sử Ðạo Cao Ðài 1926-1966" trang 109, ông kể ra được 35 Chi phái.

Sau đây chúng ta sẽ nêu ra các chi tiết về 12 Chi phái của hai soạn giả: Gabriel Gobron và Trần Văn Quế.

1. Histoire et Philosophie du Caodaïsme của Gabriel Gobron:

Ngài Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn Gabriel Gobron kể ra 11 chi phái vào năm 1948 sau đây: (trang 174)

1. Minh Chơn Lý, đứng đầu là ông Nguyễn Văn Ca (Phối Sư Thái Ca Thanh) ở Mỹ Tho.

2. Ban Chỉnh Ðạo, đứng đầu là Ông Nguyễn Ngọc Tương (Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh, đắc phong Quyền Thượng Ðầu Sư) ở Bến Tre.

3. Tiên Thiên, đứng đầu là Ông Lê Kim Tỵ ở Phú Nhuận (Gia định), Ông Lê Kim Tỵ tự phong cho mình là Hội Trưởng Cao Ðài Hiệp Nhứt, ông mất tại Hải Phòng năm 1948.

4. Thông Thiên Ðài, đứng đầu là hai Ông Quách Văn Nghĩa và Lê Quang Hộ, ở Gò Công và Sài Gòn.

5. Liên Hòa Tông Phái, đứng đầu là hai Ông Nguyễn Phan Long và Trần Văn Quế, ở Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn.

6. Minh Chơn Ðạo hay Công Ðồng Hội Giáo, đứng đầu là Ông Cao Triều Phát ở Bạc Liêu.

7. Trung Hòa Học Phái, đứng đầu là Bác sĩ Trương Kế An, ở Thủ Dầu Một. Ông có mở phòng mạch tại Thủ Dầu Một.

8. Tây Tông Vô Cực Cung, đứng đầu là Ông Nguyễn Bửu Tài, ở Bến Tre. Ông Tài hiệp nhứt với Tòa Thánh Tây Ninh năm 1948.

9. Tuyệt Cốc, đứng đầu là hai Ông Nhuận và Ruộng, ở Tây Ninh, họ sống ẩn dật, rất ít người biết họ.

10. Chiếu Minh Ðàn, đứng đầu là Ông Tư Huỳnh, ở Cái Khế Cần Thơ, sáng lập là Cố Ðốc phủ Ngô Văn Chiêu.

11. Nữ Trung Hòa Phái, đứng đầu là Bà Ngọc Nhiên Hương và Lê Ngọc Trinh, ở tại Sài Gòn.

Theo tài liệu nầy thì Ông Gabriel Gobron không cho Tòa Thánh Tây Ninh là một Chi phái, vì đây là cái gốc của Ðạo, cái gốc thì sanh ra các nhánh, tức là sanh Chi phái.

2. Ðể tìm hiểu các Chi phái trong ÐÐTKPÐ của Huệ Lương:

Ngài Huệ Lương Trần Văn Quế viết, kể ra như sau:

"Vậy đến năm 1940, 12 Chi phái của Ðạo Thầy như sau:

1.    Tòa Thánh Tây Ninh, với chư quí Ngài: Trung, Tắc.

2.    Chiếu Minh, với chư quí Ngài: Thiên, Quí.

3.    Cầu Kho, với chư quí Ngài: Bản, Tường.

4.    Tiên Thiên, với chư quí Ngài: Tòng, Tỵ.

5.    Minh Chơn Lý, với chư quí Ngài: Ca, Phùng.

6.    Bến Tre (Ban Chỉnh Ðạo), quí Ngài: Tương, Trang.

7.    Minh Chơn Ðạo, với chư quí Ngài: Quang, Thiệu.

8.    Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản, quí Ngài: Kiên,Phân.

9.    Bạch Y Liên Ðoàn Chơn Lý, quí Ngài: Tồng, Tải.

10.  Tây Tông Vô Cực Cung, quí Ngài: Ðãi, Tài.

11.  Cơ quan TruyềnGiáo TrungViệt, quí Ngài Hiển,Châu.

12.  Liên Hòa Tổng Hội, với chư quí Ngài: Long, Quế.

Ðiều nên chú ý:

- Trong số 12 Chi phái của Ðạo Trời, chúng tôi không kể phái Tịch Cốc do 2 ông Nhuận, Ruộng (Nguyễn Ngọc Ðiền) là vì phái nầy thực ra chỉ là một nhóm Ðạo hữu độ 10 vị làm công quả tại Tòa Thánh Tây Ninh, vì bất mãn điều chi đó, rồi xuống tóc, mặc áo dà, tịch cốc,...

- Chúng tôi cũng không kể Trung Hòa Học Phái, mà các vị hướng đạo là chư quí Ngài Cao Triều Phát, Phan Trường Mạnh và Huỳnh Văn Thảo, vì tổ chức nầy có tính cách một tổ chức thanh niên chuyên sự học tập và hành đạo hơn là một phái của Ðạo Trời có nhiệm vụ hành chánh và phổ độ. Trung Hoà Học phái đặt trụ sở tại Thánh Thất Minh Ðức tỉnh Rạch Giá do Bà Nữ Ðầu Sư Ngọc Nhiên Hương chưởng quản.

- Trong số 12 Chi phái của Ðạo Trời, chúng tôi cũng không kể Thông Thiên Ðài, trụ sở đặt tại Thánh Thất Ðồng Sơn (tổng Hòa Ðồng Thượng tỉnh Gò Công). Thực ra phái nầy với Tòa Thánh Tây Ninh là một, vì phái nầy được lập lên để thay thế Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài Tây Ninh. Nhưng sau rồi công việc bất thành và sự hoạt động dần dần thu hẹp vào phạm vi một Thánh Thất thường thôi.

12 Chi phái kể trên của Ðạo Trời, từ năm 1940 đến 1963, trải qua hơn 20 năm đã bị thử thách dữ dội. Nhiều Chi phái vẫn tồn tại và bành trướng thêm lên hoặc thu hẹp phạm vi hoạt động. Trái lại cũng có Chi phái đã cùng với thời gian mà mai một.

Các Chi phái còn lại là:

1. Tòa Thánh Tây Ninh gần y như trước. (?)

2. Chiếu Minh: Hiện giờ, ngoài phái Chiếu Minh Vô Vi lại còn có các phần dư nữa là: Chiếu Minh Long Châu và Cao Ðài Thượng Ðế Hội Giáo hay là Chiếu Minh Ðàn.

3. Phái Cầu Kho hiện giờ được thay thế bằng Nam Thành Thánh Thất và phạm vi hoạt động đã thu hẹp lại nhiều với tính cách một Thánh Thất thường.

4. Minh Chơn Lý Mỹ Tho ngày nay đã thu hẹp nhiều và gồm 2 phân chi: Chi Chân lý Cầu Vỹ (Minh Chơn Lý cũ), và Tòa Thánh Cao Ðài VN tại Bến Tranh.

5. Tiên Thiên, trụ sở đặt tại Tòa Thánh Châu Minh Sóc Sãi, Bến Tre, hiện đang áp dụng Tân Luật và Pháp Chánh Truyền trong sự tổ chức Hội Thánh. Phái nầy cố gắng lấy lại sự quan trọng ngày xưa nhứt là đối với Thất thập nhị Tịnh.

6. Cơ quan Qui Thống, trụ sở đặt tại Thánh Thất Thiên Thai, làng Mỹ Phước quận Cai Lậy, Mỹ Tho.

7. Bạch Y Liên Ðoàn Chơn Lý hoạt động với tầm quan trọng như hồi xưa.

8. Cao Thượng Bửu Tòa được xây dựng tại Bạc Liêu và được coi là Toà Thánh Hậu Giang.

9. Minh Chơn Ðạo hiện nay cũng hoạt động như trước và hình như đang trù tính xây Tòa Thánh ở Tắc Vân.

10. Phái Bến Tre vẫn hoạt động như xưa và cố gắng củng cố nội bộ.

11. Hội Thánh Tam Quan, được thành lập mấy năm gần đây và cố gắng củng cố nội bộ.

12. Hội Thánh Truyền Giáo được thành lập trước năm 1956 và được ra mắt với các Chi phái ngày Lễ Khánh thành Trung Hưng Bửu Tòa năm 1956.

13. Tòa Thánh Nhị Giang, trụ sở đặt tại Châu Ðốc, hành đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền, có Hội Thánh lưỡng đài cũng như các Hội Thánh khác.

14. Tòa Thánh Tiền Giang, cũng có lưỡng đài, được đặt tại Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài, làng Hạnh Thông Tây, Gò Vp.

15. Thiên Khai Huỳnh Ðạo đặt tại số 78 đường Phan Thanh Giản, Gò Vấp, Gia Ðịnh, phái nầy mới ra đời gần đây.

Ðiều cần chú ý: Chúng tôi trân trọng xin chư đạo trưởng và huynh tỷ đặc biệt để ý những điểm sau đây về 2 tổ chức:

Ban Liên Giao Chi Phái giữa 23 Thánh Thất và Tịnh Thất ngoại ô Ðô Thành SàiGòn và các tỉnh lân cận. Trụ sở của tổ chức nầy đặt tại Thánh Thất Bình Hòa, Gia Ðịnh. Tổ chức nầy có mục đích siết chặt dây liên ái giữa các ThánhThất, Tịnh Thất nói trên về phương diện hữu hình (Quan, Hôn, Tang, Tế).

Cơ quan Phổ Thông Giáo Lý, trụ sở tạm thời đặt tại Tam Giáo Ðiện (Chùa Minh Tân) với mục đích siết chặt dây liên ái về phương diện tinh thần giữa các Hội Thánh, Chi phái, và giữa các Thánh Thất biệt lập thuộc phạm vi Ðạo Thầy."

CHÚ THÍCH: Họ và tên của quí vị mà Ngài Huệ Lương Trần Văn Quế nêu ra trong phần kể 12 Chi phái:

·         Trung: Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.

·         Tắc: Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.

·         Thiên: ? . Quí: Lý Trọng Quí (?)

·         Bản: Thượng Giáo Sư Ðoàn Văn Bản.

·         Tường: Thượng Giáo Hữu Nguyễn Văn Tường.

·         Tòng: Phan Văn Tòng. . Tỵ: Lê Kim Tỵ.

·         Ca: Thái Phối Sư Nguyễn Văn Ca.

·         Phùng: Nguyễn Văn Phùng.

·         Tương: Quyền Thượng Ðầu Sư Nguyễn Ngọc Tương.

·         Trang: Quyền Ngọc Ðầu Sư Lê Bá Trang.

·         Quang: Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang.

·         Thiệu: Nguyễn Ngọc Thiệu.

·         Kiên: Nguyễn Văn Kiên. .

·         Phân: ? . Tồng: ? . Tải: ?  Ðãi: ? .

·         Tài: Nguyễn Bửu Tài, đạo hiệu Thiện Pháp.

·         Hiển: Lê Trí Hiển. . Châu: Nguyễn Quang Châu.

·         Long: Nguyễn Phan Long. (Ông Trần Văn Quế cho biết: Ngài Nguyễn Phan Long là học trò nhứt của Ðức Thông Thiên Giáo Chủ.)

·         Quế: Trần Văn Quế, đạo hiệu Huệ Lương.

Trong phần trình bày về 12 Chi phái của Ngài Huệ Lương Trần Văn Quế, Ngài cho rằng Tòa Thánh Tây Ninh là một Chi phái. Ðiều nầy hoàn toàn không đúng, bởi vì Tòa Thánh Tây Ninh là gốc của Ðạo. Các Chức sắc thuở ban đầu tách ra lập Chi phái đều là Chức sắc của Tòa Thánh Tây Ninh.

Gốc (Tòa Thánh Tây Ninh) không thể là nhánh (Chi phái) được, mà là phần quan trọng để nảy sanh các nhánh.

Tổng kết số lượng Chi phái:

Như đã trình bày ở trên, các nhà viết sử không thống nhứt nhau về tên các Chi phái trong số 12 Chi phái.

Quí vị ấy dường như bị ám ảnh bởi con số 12, nên họ cố gắng kể ra cho đủ 12 Chi phái, dầu có sự gượng ép hay không đúng thực tế.

Thí dụ như: Hai nhóm Tịch CốcThông Thiên Ðài, không thể kể là 2 Chi phái được vì thực lực mỗi nhóm chỉ có chừng hơn 10 người, không phát triển thêm được, không ai theo, những người trong nhóm già cả chết dần, rồi mất hẳn.

Hai nhóm: Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản BảnBạch Y Liên Ðoàn Chơn Lý cũng không đáng kể là Chi phái vì thực lực không có mấy người, hoạt động không được gì, và khi người đứng đầu chết thì nhóm tan rã luôn.

Nhóm Tây Tông Vô Cực Cung chỉ là một nhóm tu đơn, không liên quan đến Ðạo Cao Ðài, nên không phải là một Chi phái, có điều người đứng đầu nhóm nầy là ông Thiện Pháp Nguyễn Bửu Tài sau nầy nhập qua phái Tiên Thiên, rồi qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, sau lại trở về phái Tiên Thiên.

Ðể cho dễ dàng trong công việc khảo sát các Chi phái của Ðạo Cao Ðài, chúng ta phân ra các mục sau đây:

A. Những Chi phái buổi đầu: 6 Chi phái:
  1. Chiếu Minh Vô Vi (1927)
  2. Cầu Kho (1930)
  3. Minh Chơn Lý (1931)
  4. Tiên Thiên (1932)
  5. Ban Chỉnh Ðạo Bến Tre (1934)
  6. Minh Chơn Ðạo (1935)

1. Chiếu Minh Vô Vi:

Phái nầy do Ngài Ngô Văn Chiêu lập ra vào đầu năm 1927, sau khi Ngài đã bị truất ngôi Giáo Tông, lúc đầu gọi là Cơ Tuyển Ðộ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi ở tại Châu Thành Cần Thơ. (Xem chi tiết nơi chữ: Ngô Văn Chiêu, vần Ng). Sau khi Ngài Chiêu đăng Tiên thì ông Tư Huỳnh lãnh đạo.

Phái Chiếu Minh chuyên về Nội giáo Vô Vi, Tâm pháp bí truyền luyện đạo, nên lựa chọn và thâu nhận rất ít tín đồ, hoạt động hạn hẹp ở ba nơi: Cần Thơ (Tổ đình), Phú Quốc và Sài Gòn. Hiện nay Phái Chiếu Minh lại phân ra: Chiếu Minh Long Châu và Chiếu Minh Ðàn.

2. Cầu Kho:

Phái Cầu Kho do ông Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ) đứng đầu, qui tụ được các ông: Giáo Sư Thượng Bản Thanh (Ðoàn Văn Bản), ông Nguyễn Văn Tường, Trần Quang Mính, Nguyễn Văn Khai,... Phần lớn số trí thức Cao Ðài ở Sài Gòn đều ngã theo phái Cầu Kho.

Ông Vương Quan Kỳ là Ðốc phủ, được Ngài Ngô Văn Chiêu độ, sau được Ðức Chí Tôn phong phẩm Thượng Giáo Sư .

Nguyên năm 1930, số Chức sắc tại Thánh Thất Cầu Kho do ông Kỳ cầm đầu, không tuân lịnh Hội Thánh Tây Ninh thi hành quyển "Nghi Tiết Ðại Ðàn Tiểu Ðàn" do Ngài Bảo Văn Pháp Quân biên soạn, trình lên Ðức Phạm Hộ Pháp, rồi chuyển qua CTÐ, Hội Thánh xem xét đồng ý thì Ðức Quyền Giáo Tông ban hành kể từ ngày 12-7-1930 để áp dụng thống nhứt trong toàn đạo. Trong quyển nầy, Ngài Bảo Văn Pháp Quân bỏ 3 bài Dâng Tam bửu cũ do Ngài Ngô Văn Chiêu đặt ra đã áp dụng trước đây, thay bằng 3 bài Dâng Tam bửu mới mà ngày nay chúng ta thường đọc. Quí Chức sắc ở Cầu Kho không chịu áp dụng các nghi tiết mới ban hành, nên quí Ngài tự tách ra lập thành Chi phái Cầu Kho, lấy Thánh Thất Cầu Kho làm trụ sở. Về sau, Thánh Thất nầy dời đến đất mới gần đó, xây dựng lên đặt tên là Thánh Thất Nam Thành, ở đường Nguyễn Cư Trinh Sài Gòn.

3. Minh Chơn Lý:

Phái nầy do Ngài Ðốc phủ Nguyễn Văn Ca lập ra. Ông nhập môn vào Ðạo Cao Ðài năm 1926, được Ðức Chí Tôn phong phẩm Phối Sư Thái Ca Thanh. Ông Ca đóng góp nhiều công sức trong việc xây dựng tờ báo La Revue Caodaïste, bằng Pháp văn để truyền bá Ðạo Cao Ðài cho người ngoại quốc.

Ông Ca vâng theo Cơ bút của ông Trương Kế An (hiệu là Tuyết Vân Mặc Khách) nên ông Ca ở luôn tại Cầu Vỹ, Mỹ Tho, không về Tòa Thánh Tây Ninh, và không tuân mạng lịnh của Hội Thánh nữa, lập phái Minh Chơn Lý vào năm 1931.

Ông Ca lôi kéo được một số Chức sắc hiệp tác với ông buổi đầu như: Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, vài Chức sắc ở Cầu Kho, quí ông Cao Triều Phát, Nguyễn Ngọc Thiệu.

Cơ bút do ông Trương Kế An cầu, phong ông Ca làm Ðầu Sư Thái Ca Nhựt. Cũng trong năm nầy, cơ bút lại dẫn ông đi xa hơn nữa, qua các kỳ An Thiên Ðại Hội, gọi ông là Ðức Cửu Trùng Ðài. Từ đây, chưởng quản HTÐ là Thiên Sư Nguyễn Văn Phùng cầu cơ sửa đổi hết cách thờ phượng và nghi lễ, thay Thiên Nhãn bằng Trái Tim và Thập ngũ Linh Ðăng, rồi giải thích Thánh Ngôn một cách lệch lạc, khiến cho không còn gì là chơn truyền của Ðạo Cao Ðài nữa.

Các Chức sắc trước đây hiệp tác với ông Ca thấy vậy liền rút khỏi Minh Chơn Lý, đồng xuống Bạc Liêu là quê hương của Ngài Cao Triều Phát lập phái Minh Chơn Ðạo, xây dựng Tòa Thánh Ngọc Minh ở Giồng Bướm, Giá Rai, Cà Mau.

Phái Minh Chơn Lý hiện nay thu hẹp rất nhiều, lại chia làm hai: chi Chơn Lý tại Cầu Vỹ (Minh Chơn Lý cũ) và Tòa Thánh Cao Ðài VN tại Bến Tranh.

(Theo các vị Tiền bối cho biết, Phối Sư Nguyễn Văn Ca là chơn linh của Thanh Ngưu của Ðức Lão Tử giáng phàm, Truyền Trạng Phạm Văn Ngọ là Từ Giáp giáng phàm)

4. Tiên Thiên:

Phái nầy do ông Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh (Nguyễn Văn Chính) lập ra ở Cai Lậy. Nguyên ông Chính thọ phong Giáo Hữu tại TTTN, nhưng ông không hành đạo, mà lo việc luyện đạo và lập cơ bút riêng. Ông bị Hội Thánh Tây Ninh cảnh cáo nhiều lần, và cuối cùng thì ông bị trục xuất vào năm 1930.

Năm 1932, cơ bút phong ông Chính làm chức Chưởng Pháp, quí ông Nguyễn Văn Tòng và Lê Kim Tỵ qua hợp tác với ông Chính, thành lập phái Tiên Thiên, lập Tòa Thánh Châu Minh tại làng Sóc Sãi tỉnh Bến Tre.

{Ông Lê Kim Tỵ là một nhà thầu khoán có tài, người có danh vọng lúc bấy giờ, tính tình cương nghị, người Pháp rất kính nể. Khi ban sơ mới mở Ðạo tại Sài Gòn, ông Tỵ có đến hầu đàn, Ngài Nguyễn Trung Hậu phò loan, Ðức Chí Tôn cho ông 4 câu thi rồi viết tiếp: Tỵ họa bất như tỉnh phi. [nghĩa là: Tránh họa không bằng xét lại lỗi lầm của mình], Lui. (tức là Ðức Chí Tôn không thâu nhận ông Tỵ làm môn đệ)}.

Phái Tiên Thiên dùng Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật và Pháp Chánh Truyền như Tòa Thánh Tây Ninh, nhưng Chức sắc không chia ra Thái, Thượng, Ngọc, chỉ mặc đạo phục toàn trắng, đầu đội khăn đóng trắng.

Nhờ tài thầu khoán của ông Lê Kim Tỵ, ông xây dựng được 72 Thánh Tịnh (Thất thập nhị Thánh Tịnh) trong khắp các tỉnh ở miền Nam cho phái Tiên Thiên.

Hội Thánh Tiên Thiên cũng có hai đài: HTÐ và CTÐ nhưng cầm đầu lại do Thất Thánh, có Thất Hiền phụ tá.

Thất Thánh gồm 7 ông: Phan Văn Tòng, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Thế Hiển, Lê Kim Tỵ, Trần Lợi, Nguyễn Bửu Tài, Trần Lợi, Nguyễn Tấn Hoài.

Thất Hiền gồm 7 ông: Lê Thành Thân, Nguyễn Phú Thứ, Lâm Quang Tỷ, Ðoàn Văn Chiêu, Phan Lương Hiền, Trương Như Mầu, Phan Bá Phước. Dự khuyết: Phan Thanh.

Cũng trong thời gian nầy, phái Tiên Thiên lập Trước Tiết Tàng Thơ, chủ tịnh là ông Trương Duy Toản.

Ông Trần Văn Quế thì hiệp với đồng tử Liên Hoa (Ðàm Thi) lập nhiều Thánh Tịnh khác như: Trước Lý Minh Ðài ở Gia Ðịnh, Ngọc Minh Ðài ở Bà Ðiểm, Ngọc Tuyển Thánh Tịnh ở Long Thành, Biên Hòa.

Sau đó cơ bút phái Tiên Thiên dạy thành lập Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn, qui tụ một số Chức sắc kỳ cựu trong Ðạo và một số trí thức trong mục tiêu hiệp nhứt các Chi phái, làm cho phái Tiên Thiên bắt đầu xuống dốc và có nguy cơ tan rã.

Ngài Nguyễn Bửu Tài, được cơ bút Tiên Thiên phong chức Ðầu Sư Thượng Tài Thanh, lãnh đạo 65 vị Chức sắc Tiên Thiên qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, được Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ chấp thuận ngày 29-6-1949, tạm thời giáng nhứt cấp tất cả các vị nên Ngài Nguyễn Bửu Tài là Phối Sư Thượng Tài Thanh, và Ðức Lý hứa, khi nào đem hết tất cả Chức sắc và bổn đạo của phái Tiên Thiên qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh thì Ðức Lý sẽ phong cho chức cũ.

Hai năm sau, Ngài Nguyễn Ngọc Tương Giáo Tông phái Bến Tre qui liễu, Ngài Nguyễn Bửu Tài rời Tòa Thánh Tây Ninh trở về Sóc Sãi Bến Tre, tái lập phái Tiên Thiên, và sau đó cơ bút Tiên Thiên phong Ngài Nguyễn Bửu Tài lên chức Giáo Tông ngày 9-1-1957. (Xem chi tiết nơi Phần phụ phía sau).

Sự kiện có tính cách vĩ đại nầy của phái Tiên Thiên không được các Chi phái khác quan tâm vì phái Tiên Thiên lúc bấy giờ không có thực lực đáng kể, số tín đồ còn lại rất ít, số Chức sắc thì lại nhiều hơn.

5. Ban Chỉnh Ðạo (Phái Bến Tre):

Ban Chỉnh Ðạo trở thành Chi phái Bến Tre do hai Ngài Quyền Ðầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) và Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang) lãnh đạo.

Vào đầu năm 1934, hai Ngài Quyền Ðầu Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh bất đồng ý kiến trầm trọng với Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, nên hai ông rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, về Bến Tre lập Ban Chỉnh Ðạo, với mục đích chấn chỉnh lại nền Ðạo, qui tụ được 85 Thánh Thất theo về với hai ông, trong lúc đó, toàn Ðạo Cao Ðài chỉ có 128 Thánh Thất, như vậy số Thánh Thất theo hai ông Tương và Trang cùng với số tín đồ chiếm hết 2/3, Tòa Thánh Tây Ninh chỉ còn lại 1/3. Hai ông cố gắng lôi kéo một số vị Thời Quân HTÐ theo về 2 ông để cho có đủ 2 Ðài: HTÐ và CTÐ, nhưng không thành công, vì một số vị Thời Quân, tuy có bất mãn Ðức Phạm Hộ Pháp nhưng quí vị ấy muốn giải quyết vấn đề theo chiều hướng khác hơn 2 ông nên quí vị ấy không hợp tác với hai ông được.

Thế lực của hai ông rất mạnh, lại được chánh quyền Pháp ủng hộ, nên hai ông tổ chức thuê bao gần chục chiếc xe đò đưa rất đông tín đồ của hai ông đi Tây Ninh dự định sẽ dùng sức mạnh chiếm Nội Ô TT. Hai ông báo cho Ðức Q. Giáo Tông biết ngày 20-1-Giáp Tuất (1934) hai ông sẽ kéo lên Tòa Thánh, vì hai ông nghĩ rằng phần thắng nắm chắc trong tay.

Ðức Quyền Giáo Tông liền thông báo cho Ðức Hộ Pháp. Ðức Hộ Pháp tức cấp huy động tất cả khoảng 500 công quả Phạm Môn chia nhau giữ chặt các cửa vào Nội Ô Toà Thánh. Với sức kháng cự quyết liệt mạnh mẽ của 500 công quả Phạm Môn, lực lượng của hai ông Tương và Trang phải chịu thảm bại, rút lui về Sài Gòn.

Cuối năm 1934, Ðức Quyền Giáo Tông đăng Tiên (ngày 13-10-Giáp Tuất, dl 19-11-1934).

Tại Thánh Thất An Hội Bến Tre, Ngài Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tổ chức Ðại Hội toàn thể Chức sắc và tín đồ thuộc Ban Chỉnh Ðạo để bầu cử chức Giáo Tông. Lần bầu cử thứ nhứt, Ngài Lê Bá Trang lên chức Ngọc Chưởng Pháp; lần bầu cử thứ nhì, Ngài Nguyễn Ngọc Tương lên chức Giáo Tông. Ðó là vào năm 1935 (Ất Hợi).

Năm 1938, Ngài Nguyễn Ngọc Tương cử hành một lễ long trọng, tuyên bố nhiệm vụ của Ban Chỉnh Ðạo chấm dứt. Như vậy là Ngài lập thành Chi phái Bến Tre, xây dựng Thánh Thất An Hội thành Tòa Thánh Bến Tre, tổ chức Cửu Viện, thăng thưởng một số Chức sắc cầm quyền Cửu Viện.

Thực lực của phái Bến Tre lúc đầu rất đông và rất mạnh, nhưng vì không có chánh nghĩa nên số người đi theo lần lần rút lui, các hoạt động chỉ cầm chừng, dần dần suy tàn, nhất là sau khi Ngài Lê Bá Trang qui liễu. Ngài Nguyễn Ngọc Tương thường nhập tịnh theo cách riêng của ông, càng về sau nầy, Ngài tự xem mình như là một phân thân của Ðức Lý Giáo Tông, nên Ngài tự xưng là Lý Giáo Tông.

Năm 1951, Ngài Nguyễn Ngọc Tương qui liễu.

Sau đó, phái Bến Tre phân ra làm hai nhóm nhỏ độc lập nhau: Một nhóm tại Tòa Thánh Bến Tre, một nhóm tại Thánh Thất Tân Túc (Bình Chánh) và Thánh Thất Ðô Thành đường Hậu Giang Chợ Lớn.

(Ðức Quyền Giáo Tông giáng cơ tiết lộ cho biết: Ngài Nguyễn Ngọc Tương là chơn linh của Ngô Tôn Quyền tái kiếp, Ngài Lê Bá Trang là chơn linh Quan Vân Trường thời Tam Quốc tái kiếp).

6. Minh Chơn Ðạo:

Phái nầy do ba Ngài: Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, Cao Triều Phát và Nguyễn Ngọc Thiệu, tách khỏi phái Minh Chơn Lý (vì thấy hai ông Ca và Phùng biến cải theo Tà đạo), qui tụ về Giá Rai tỉnh Bạc Liêu, lập ra phái Minh Chơn Ðạo vào năm 1935. Lúc đầu trụ sở đặt tại Chùa Minh Sư của Ngài Trần Ðạo Quang tại Giá Rai, sau mới lập Tòa Thánh Ngọc Minh ở Giồng Bướm Giá Rai, cũng gọi là Tòa Thánh Hậu Giang. Gần Tòa Thánh nầy có Ngũ Hành Tòa để làm HTÐ. Phái nầy hoạt động khá mạnh, lên tới tỉnh Vĩnh Long.

Phái Minh Chơn Ðạo giữ đúng theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền và lễ nghi của Ðạo buổi sơ khai. Phái nầy không luyện đạo, mặc dầu Ngài Trần Ðạo Quang, trước khi gia nhập Ðạo Cao Ðài, Ngài là Thái Lão Sư cầm đầu Chi Minh Sư ở VN. Ngài Trần Ðạo Quang được phong chức Chưởng quản Vô Vi Chưởng quản CTÐ, Ngài Cao Triều Phát chức Thái Chưởng Pháp Chưởng quản HTÐ, Ngài Nguyễn Ngọc Thiệu chức Ðầu Sư Ngọc Thiệu Nhựt. Sau nầy, Ngài Cao Triều Phát lại tách ra, ông Nguyễn Văn Kiện tự Huân được phong chức Hộ Pháp Thiên Ấn Tinh Quân, chưởng quản HTÐ.

Cơ bút của phái Minh Chơn Ðạo phong gần đủ các phẩm Chức sắc cao cấp HTÐ và CTÐ, như: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, 9 vị Thời Quân, 2 vị Chưởng Pháp, 7 vị Ðầu Sư, 3 Chánh Phối Sư, . . . (không có phẩm Giáo Tông, bên CTÐ thì chức Chưởng quản Vô Vi là cao nhứt).

Sau cuộc đảo chánh của Nhựt Bổn, quân đội Pháp trở lại dùng phi cơ dội bom, trúng Tòa Thánh Ngọc Minh tan tành.

Ngài Cao Triều Phát hợp tác với Việt Minh để bảo vệ tín đồ. Sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, Ngài Cao Triều Phát được tập kết ra Bắc, và qui liễu tại đó trong năm sau.

B. Những Chi phái lúc sau: 6 Chi phái:
  1. Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt.
  2. Hội Thánh Tam Quan.
  3. Thiên Khai Huỳnh Ðạo.
  4. Cao Thượng Bửu Tòa.
  5. Nữ Chung Hòa.
  6. Trung Hòa Học Phái.

1. Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt:

Sự truyền bá Ðạo Cao Ðài tại Trung Việt đầu tiên do phái Tiên Thiên, theo lịnh dạy của Cơ bút, đã tổ chức bí mật sự truyền đạo ra Quảng Nam và Ðà Nẵng từ năm 1936 với quí ông ở tại đó là: Lê Trí Hiển, Nguyễn Quang Châu, Trần Công Bang, Huỳnh Ngọc Trác, và 4 đồng tử: Long, Lân, Qui, Phụng.

Sự kiện nổi bật nhất là công cuộc cổ động và vận động xây cất Thánh Thất Trung Thành tại Thị xã Ðà Nẵng, chỉ trong thời hạn 22 ngày là xong, để làm Ðại lễ Khánh Thành ngày 8-4-Mậu Dần (dl 7-5-1938). Những vị đóng vai tích cực trợ giúp quan trọng đi đến thành công là quí Ngài: Trần Ðạo Quang, Cao Triều Phát, Nguyễn Bửu Tài và nhứt là ông Lê Kim Tỵ của phái Tiên Thiên.

Cơ quan nầy hoạt động mạnh ở các tỉnh miền Trung, nhưng sau đó bị Việt Minh khủng bố, hàng lãnh đạo tan rã.

Sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, tín hữu các nơi qui tụ trở lại, quyết định đưa Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt lên thành Hội Thánh, nên mua thêm một khu đất rộng tại đường Nguyễn Hoàng, Ðà Nẵng, để xây dựng Trung Hưng Bửu Tòa, một kiến trúc lớn và đẹp, làm Ðại lễ Khánh Thành vào ngày 1-6-Bính Thân (dl 8-7-1956), ra mắt Hội Thánh Truyền Giáo Trung Việt (HTTGTV).

Năm 1973, HTTGTV có hai vị đứng đầu là: Chánh Phối Sư Ngọc Quế Thanh (Trần Văn Quế) Chủ trưởng Hội Thánh, và Thanh Long Lương Vĩnh Thuật, Thanh tra quyền pháp, đại diện HTÐ.

2. Hội Thánh Tam Quan (Phái Chơn lý Cầu Kho):

Gọi đầy đủ là Hội Thánh Trung Ương Trung Việt, trụ sở đặt tại Tam Quan, quận Hoài Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh (BÐ).

Nguyên đầu năm 1927, hai vị Nguyễn Hữu Phương và Nguyễn Hữu Hào, ở BÐ, vào Sài Gòn nhập môn theo Ðạo Cao Ðài tại Thánh Thất Cầu Kho, rồi trở về BÐ âm thầm truyền bá Ðạo Cao Ðài tại đây. Số người theo Ðạo càng lúc càng đông nhưng bị nhà nước khủng bố vì vua Bảo Ðại cấm Ðạo Cao Ðài.

Trải qua nhiều cuộc khủng bố, hết lớp nầy tới lớp khác, Ðạo Cao Ðài nơi đây cũng phát triển, đến năm 1956 mua được một mẫu đất tại Tam Quan, khởi xây dựng Thánh Thất, giấy phép ký ngày 21-9-1956, và làm lễ thánh thành gọi là Ðại Hội An Thiên Khánh Thành Hội Thánh ngày 15-3-Canh Tý (1960). Hội Thánh Tam Quan tổ chức y theo Tân Luật và PCT, có hai Ðài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng.

3. Thiên Khai Huỳnh Ðạo:

Phái nầy thành lập từ năm Nhâm Dần (1962), Tòa Thánh đặt tại đường Phan Thanh Giản, quận Gò Vấp, Sài Gòn.

Trước khai Chưởng Tòa Huỳnh Ðạo tại Gò Công, rồi thiên về Nhị giang, sau mở Bửu Tòa Di-Lạc tại Gia Ðịnh, sau một thời gian ngắn ngủi 3 năm, Ðạo Vàng đã chiếu rạng nhiều nơi với một hệ thống: trên có Chưởng Tòa (Châu Ðốc), dưới có Bửu Tòa Di-Lạc: Tiền giang (Gia Ðịnh), Trung giang (Vĩnh Long), Hậu giang (Bạc Liêu), Liên giang (Cần Thơ) và những Tòa Ðại diện tại Kiên Giang, Hà Tiên, đúng với Thiên cơ, đúng với lời tiên tri Kỳ Ba Cứu Thế.

Huỳnh Ðạo là Vô Vi Ðại Ðạo, lấy Âm Dương làm gốc, Ngũ Hành làm thể, hòa hợp ở Trung Huỳnh gọi là Mồ Thổ, sắc Huỳnh để luyện Kim thai Thánh thể, xuất khiếu hiển thần, đoạn dứt luân hồi trong lục đạo.

Xuất phát từ Cao Ðài, Huỳnh Ðạo là thể hiện hoàn mỹ của Ðạo Cao Ðài, Hữu, Vô, trọn vẹn. (Trích trong quyển Chơn truyền Huỳnh Ðạo Trung ương).

4. Cao Thượng Bửu Tòa:

Cao Thượng Bửu Tòa được xây dựng tại Thị xã Bạc Liêu, còn gọi là Tòa Thánh Hậu Giang, do Ông Trần Văn Tìa, đạo hiệu Chơn Sắc, chủ trương xây dựng.

Ông Trần Văn Tìa qui liễu, có giáng đàn ngày 2-10-1966 tại Cao Thượng Bửu Tòa, để lời than: Trước kia, nếu tệ huynh biết sẽ xảy ra cớ sự như vậy thì không xây dựng lên trụ tướng của Cao Thượng Bửu Tòa nầy, mà chỉ để tiền và nhơn lực, vật lực đó dùng vào những công tác từ thiện xã hội. Nếu biết trước và làm việc đó thì đâu còn để hậu hoạn lại cho anh em như trước hiện tình. Ðó cũng là cái trách nhiệm của tệ huynh vẫn còn dang dở.

5. Nữ Chung Hòa:

Nhóm nầy được thành lập do lịnh Cơ bút của Chi Minh Tân ở Bến Vân Ðồn, Sài Gòn, mục đích để tập hợp Nữ phái mà dạy dỗ về đường đạo đức và lập công quả dưới sự dìu dẫn vô hình của Ðấng Lê Sơn Thánh Mẫu, trụ sở đặt tại Chùa Minh Tân ở Bến Vân Ðồn.

Hai Bà Ngọc Nhiên Hương và Lê Thị Trinh điều khiển nhóm nầy.

Nữ Chung Hòa trước đây hợp tác với Bà Diệu Minh ở Vạn Quốc Tự đường Phan Thanh Giản cũ Sài Gòn (ngang Bệnh Viện Bình Dân), khi Bà Diệu Minh qui liễu, nhóm Nữ Chung Hoà hợp tác với Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo VN (viết tắt CQPTGL) có trụ sở ở đường Cống Quỳnh (ngang Chợ Thái Bình) và nhóm Nữ Chung Hòa dời trụ sở về CQPTGL. (Xem: CQPTGL ở phần tiếp theo sau, trong đó có nói nhiệm vụ qui định cho Nữ Chung Hòa).

Nhóm Nữ Chung Hoà không được nhiều người gia nhập, nên hoạt động rất yếu ớt, chỉ còn làm một vài công tác từ thiện mà thôi. Do đó, chỉ nên xem Nữ Chung Hòa là một nhóm học tu Nữ phái, làm việc từ thiện.

6. Trung Hòa Học Phái:

Sau khi ông Cao Triều Phát tách ra khỏi Minh Chơn Ðạo thì ông hợp tác với quí ông Phan Trường Mạnh, Phan Lương Hiền, Huỳnh Văn Thảo lập thành Trung Hòa Học Phái, có mục đích qui tụ các thanh niên trong các phái Ðạo Cao Ðài để dìu dắt chúng trên đường đạo đức, thực hành thuyết Trung Thứ của Nho giáo, vừa lo học tập vừa lo hành đạo. Ðể thực hành mục đích đó, Ngài Cao Triều Phát lập nên một tổ chức thanh niên gọi là "Thanh Niên Ðạo Ðức Ðoàn" đặt trụ sở tại Thánh Tịnh Minh Ðức của Bà Ngọc Nhiên Hương ở Rạch Giá, sau nầy Thanh niên Ðạo đức Ðoàn mở rộng hoạt động lên Sài Gòn, trụ sở đặt tại Tam Giáo Ðiện, chùa Minh Tân ở Bến Vân Ðồn Sài Gòn. Sau Hiệp Ðịnh Genève năm 1954, Ngài Cao Triều Phát tập kết ra Bắc, nên nhóm Thanh Niên Ðạo Ðức Ðoàn phải ngưng hoạt động vì không người hướng dẫn.

Trung Hoà Học Phái đã nổi tiếng một thời ở Hậu Giang.

C. Các nhóm nhỏ không đáng kể là Chi phái:
  1. Tịch Cốc.
  2. Thông Thiên Ðài.
  3. Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản.
  4. Tây Tông Vô Cực Cung.
  5. Tòa Thánh Nhị Giang.
  6. Tòa Thánh Tiền Giang.

1. Tịch Cốc (hay Tuyệt Cốc):

Gọi là Tịch Cốc hay Tuyệt Cốc là vì nhóm nầy chủ trương không ăn cơm, chỉ ăn trái cây, tu theo lối ép xác đặng luyện pháp thuật.

Vào năm 1934, có một nhóm chừng 10 người đang làm công quả trong Tòa Thánh Tây Ninh, vì bất mãn Hội Thánh không cho họ luyện pháp thuật, nên họ rủ nhau đi vào núi để khổ tu luyện đạo cho mau kết quả. Trong nhóm nầy có hai ông: Ngô Ðức Nhuận và Nguyễn Ngọc Ðiền tức Ruộng, tự xưng là Nguyên soái cầm đầu.

Hồi Tòa Thánh còn làm bằng cây ván, nhóm nầy lén vô Bửu Ðiện Tòa Thánh, leo lên ngồi trên 7 cái ngai mà Bảo Thể không hay biết, đến chừng Bảo Thể phát hiện thì bắt từ ông lôi xuống, và trục xuất họ ra khỏi Nội Ô.

Về sau, ông Ðiền mặc toàn đồ trắng, xuống Sài Gòn đến Dinh Thống Soái Nam Kỳ treo cờ và đòi hỏi người Pháp trả nước VN, bị nhà cầm quyền Pháp bắt giam vào nhà thương điên. Nhóm Tịch Cốc tan rã và mất hẳn. (Xem thêm nơi Phần phụ phía sau, việc nhóm Tịch Cộc tập bay).

2. Thông Thiên Ðài:

Nhóm Thông Thiên Ðài được lập nên bởi quí ông: Bác sĩ Nguyễn Văn Nhã, Ðốc phủ Lê Quang Hộ, đại điền chủ Quách Văn Nghĩa, Ðốc học Chiếu, Nguyễn Trung Thăng, Lê Quang Nghi, Lê Quang Tỉnh,... và đồng tử phò loan là hai người con của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu: Ðức (Nguơn Ngọc) và Thân (Huệ Chương).

Ðấng bề trên của nhóm nầy là Liễu Nhứt Chơn Nhơn Tôn Tẫn trong truyện Phong Kiếm Xuân Thu. Các Ðấng bề trên cho biết, nhóm nầy về sau sẽ thay thế HTÐ của Tòa Thánh Tây Ninh, nhưng thực tế thì không có việc nầy.

Trụ sở của nhóm Thông Thiên Ðài đặt tại Thánh Thất Ðồng Sơn ở Gò Công. Nhóm nầy không thâu tín đồ, các người sáng lập già cả rồi chết, nhóm nầy tan rã và mất luôn. Thánh Thất Ðồng Sơn trở nên vắng vẻ, chỉ còn ông từ lo cúng kiếng mà thôi.

3. Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản bản:

Nguyên trước đây ông Thái Phối Sư Nguyễn Văn Ca thành lập phái Minh Chơn Lý ở Mỹ Tho, được nhiều người ủng hộ, nhưng từ khi Thiên Sư Nguyễn Văn Phùng nắm cơ bút của Minh Chơn Lý, ông cầu cơ sửa đổi hết các cách thờ phượng, làm cho nhiều người bất mãn nên bỏ đi, kể ra:

·         Quí Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, Nguyễn Quang Thiệu, Cao Triều Phát về Bạc Liêu lập Minh Chơn Ðạo.

·         Quí Ngài Vương Quan Kỳ và Ðoàn Văn Bản trở về Thánh Thất Cầu Kho.

·         Ngài Trần Văn Quế bỏ đi, nhập phái Tiên Thiên.

·         Quí Ngài Nguyễn Văn Kiên và Nguyễn Văn Phấn lập "Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản" trụ sở đặt tại Long An, mục đích là phục hồi nguyên bản Ðạo Cao Ðài như buổi đầu Ðức Chí Tôn lập ra, nhưng không được nhiều người hưởng ứng.

Khi ông Nguyễn Văn Kiên được bầu làm Hội Trưởng Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn thì phái nầy bắt đầu suy tàn và khi ông Kiên qui liễu thì phái nầy tan rã.

4. Tây Tông Vô Cực Cung:

Ðây chỉ là một nhóm tu đơn, do Ngài Nguyễn Bửu Tài, pháp danh Thiện Pháp, lập ra tại quê nhà của Ngài là làng Phú Hưng, tục gọi làng Chẹt Sậy, quận Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

Phái nầy cho rằng phái tu đơn của Ngài Ngô Văn Chiêu từ Phú quốc chuyển về Sài Gòn là phái Ðông Tông, còn Ngài Nguyễn Bửu Tài ở Bến Tre là Tây Tông, nên Ngài gọi Thánh Tịnh của Ngài lập ra ở Chẹt Sậy là Tây Tông Vô Cực Cung.

Như vậy, Tây Tông Vô Cực Cung không phải là một Chi phái của Ðạo Cao Ðài và cũng không dính dáng gì đến Ðạo Cao Ðài, chỉ có điều là sau đó Ngài Nguyễn Bửu Tài gia nhập phái Tiên Thiên, trở thành Chức sắc cao cấp (Thượng Ðầu Sư) của Tiên Thiên, rồi lãnh đạo phái Tiên Thiên qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh.

Sau khi Ngài Nguyễn Ngọc Tương Giáo Tông phái Bến Tre qui liễu, Ngài Nguyễn Bửu Tài rút lui khỏi TTTN, trở về tái lập phái Tiên Thiên, sau đó cơ bút của Ngài phong Ngài chức Giáo Tông của phái Tiên Thiên. (Xem trở lại: Tiên Thiên)

5. Tòa Thánh Nhị Giang:

Phái nầy lập trụ sở tại Châu Ðốc, gọi là Tòa Thánh Nhị Giang, chỉ hoạt động trong vùng Châu Ðốc, có tổ chức lưỡng đài HTÐ và CTÐ như các Hội Thánh khác, hành đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh truyền, nhưng không được nhiều người ủng hộ, hình như họ chán nãn trước các sự kiện lập Chi phái.

6. Tòa Thánh Tiền Giang:

Phái nầy lập trụ sở tại Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài ở làng Hạnh Thông Tây, quận Gò Vấp, Gia Ðịnh.

Về sau phái nầy lập lên Tòa Thánh gọi là Tòa Thánh Tiền Giang, để đối lại Tòa Thánh Hậu Giang. Tuy đã nâng cấp lên Tòa Thánh nhưng không có hoạt động gì đáng kể.

D. Nhóm đặc biệt: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam (viết tắt: CQPTGL):

Cơ Quan nầy do lịnh Ơn Trên lập ra với mục đích để siết chặt dây liên ái về phương diện tinh thần giữa các Hội Thánh, Chi phái, và các Thánh Thất, Thánh Tịnh biệt lập. Lúc ban sơ, trụ sở đặt tại Tam Giáo Ðiện chùa Minh tân, 221 Bến Vân Ðồn, Vĩnh Hội, Sài Gòn, và lấy danh xưng là "Cơ Quan Liên Giao Hành Ðạo".

Cho đến năm 1965, Cơ Quan nầy chưa tổ chức được nên chưa có hoạt động chi thật sự. Năm nầy thừa lịnh Ơn Trên dời trụ sở về 165E đường Cống Quỳnh Sài Gòn, gần Chợ Thái Bình, lấy danh xưng là 'Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Ðài Giáo Việt Nam' do Ðức Chí Tôn ân ban ngày 1-Giêng-Ất Tỵ (dl 1-2-1965). Mục đích được đề ra cơ quan là của toàn đạo do Ơn Trên chỉ định lập ra để tổ chức các phương cách phương pháp và phương châm với mục đích phổ thông và phổ biến trong nhơn sanh một giáo lý Cao Ðài thuần nhất....

Một Ban Thường Vụ gồm có: - 1 Tổng Lý Minh Ðạo, - 1 Hiệp Lý Minh Ðạo, - 1 Tham Lý Minh Ðạo, - 1 Tổng Thơ Ký được lập ra để điều hành điều khiển Cơ Quan. Dưới đó có một số Văn Phòng Vụ Trưởng, các Ban Giáo Sĩ, Tu Sĩ, vv . . .

Tổng Lý Minh Ðạo, Hiệp Lý Minh Ðạo, Tham Lý Minh Ðạo và Tổng Thơ Ký là tứ trụ của Cơ Quan, mà 3 vị đứng đầu là những vị làm chánh sách và vạch đường lối, còn Tổng Thơ Ký là chấp hành.

(Ơn Trên phong Ngài Trần Văn Quế đạo hiệu Huệ Lương là Tổng Lý Minh Ðạo, Ngài Ðỗ Vạn Lý đạo hiệu Minh Lý là Tham Lý Minh Ðạo, kiêm nhiệm Quyền Tổng Thơ Ký. Ðức Lý Giáo Tông giao cho Ngài Ðỗ Vạn Lý soạn Bản Qui Ðiều CQPTGL và được Ơn Trên phê chuẩn gọi là Thánh Dụ Qui Ðiều.)

CQPTGL theo lịnh Ơn Trên là cơ quan cuối cùng của cơ Ðại Ðạo ở tại VN, với một nhiệm kỳ 20 năm kể từ năm 1965 như Ơn Trên đã định.

Thật thế, đến năm 1985, sai lệch vài năm, tất cả những vị có trọng trách trong Cơ Quan đều được Ðức Chí Tôn gọi về hoặc ra đi hết. Có thể nói đến đây là hết một nguơn 60 năm của cơ Ðại Ðạo hành đạo trong nước VN, chấm dứt một giai đoạn đầu tiên của đời sống của cơ Cao Ðài giáo. 20 năm đã được Ðức Chí Tôn ấn định cho Cơ Quan là 20 năm vớt vát cho cơ Ðạo sau sự thất bại của những cố gắng thống nhứt trước đó.

Vì lẽ đó mà CQPTGL được thành lập hơi khác các Chi các Phái các Nhóm khác trong Ðạo từ trước tới giờ....

Nơi đây cũng nên ghi nhận ngay một việc là Cơ Quan nầy cũng nhằm vào mục đích thống nhứt Ðạo chớ không phải không, nhưng phương pháp để đi đến mục đích đó không trực tiếp như những Hội Long Vân hoặc những Nhóm khác. Cơ Quan hướng về cơ thống nhứt một cách gián tiếp, coi đó như là kết quả đương nhiên của chương trình phổ thông một Giáo lý thuần nhứt mà tất cả toàn đạo đồng phải chấp nhận.

Cái khác biệt của CQPTGL là Cơ Quan chỉ là một Cơ Quan thôi. Như một Cơ Quan thì nó không phải là, cũng không có quyền hạn của: một Hội Thánh, Thánh Thất, Thánh Tịnh, không nằm trong Luật Ðạo, dù rằng Cơ Quan rất kính trọng và tuân theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền. Cơ Quan không có Phận đạo riêng của mình, không có tín đồ riêng của mình, không nhập môn, không Tắm Thánh, không có Chức sắc, không tùy ai mà cũng không lãnh đạo ai, chỉ có một Văn Phòng với một số Phận sự và Ðạo tâm tình nguyện. Là một Cơ Quan nên cũng không có phép và không có quyền hành Quan Hôn Tang Tế sự. Cơ Quan chỉ có một nơi nho nhỏ thờ phượng Ðức Chí Tôn và cúng Tứ thời. Vì thế, Cơ Quan không có cái chi để có thế cho lớn hơn hay nhỏ hơn ai cả.

Cơ Quan cũng không có sổ Công nghiệp để đem dâng trình cho ai để lên phẩm lên vị lên chức.

Phận sự niên cao thì được gọi là Ðạo Trưởng, hoặc Ðạo huynh, Ðạo tỷ, còn nhỏ tuổi hơn thì gọi Ðạo đệ, Ðạo muội.

Cơ Quan chỉ chú trọng vào tinh thần, vào giáo lý, vào phụng sự Thượng Ðế, để giúp đỡ tất cả các Chi phái, các Nhóm và nhơn sanh. Tất cả cái chi trong Ðạo: của cải, Thánh đường, Thánh Thất, Thánh Tịnh, Văn phòng, tín đồ, nhơn sanh, vv... là của Thượng Ðế tất cả.

CQPTGL chỉ là một Cơ Quan thôi, không có lợi, cũng không có quyền, nên không cạnh tranh, không giành giựt, không dẫm chân lên ai cả, chỉ cho chỉ hiến dâng chứ không lấy, không thâu nhập của ai trừ ra của thiêng liêng mà thôi, cũng không ăn bánh vẽ mà cũng không cho ai ăn bánh vẽ. Cơ Quan chỉ có tinh thần và tinh thần mà thôi.

Nếu Giáo lý là cây cầu nối liền các Chi phái ở VN thì Giáo lý, theo lẽ phải, cũng là cây cầu nối liền Cao Ðài giáo với các tôn giáo bạn ở VN và ở cả thế giới năm châu bốn biển vậy.

Cũng vì lẽ tinh thần nầy và phương châm hoằng dương Chánh đạo như thế nầy, nên Cơ Quan không nê chấp lắm về phương diện hình thức bề ngoài đã được thể hiện và áp dụng các nơi, dù rằng mong mỏi các nơi đều thể hiện một hình thức thuần nhứt trong Ðạo đúng theo tinh thần Pháp Chánh Truyền, Tân Luật và những điều đã được Ðức Chí Tôn dạy dỗ, tức là Chơn truyền Chánh pháp.

Cũng vì lẽ nầy, Cơ Quan cũng lấy phương pháp song tu cho những Phận sự và cho luôn những ai muốn cùng theo phương pháp đó. Song tu là vừa tu phước và tu huệ, nghĩa là phổ độ cùng với vô vi. (Trích trong quyển Tìm Hiểu Ðạo Cao Ðài của Ðạo Trưởng Ðỗ Vạn Lý, CQPTGL).

Trong danh xưng CQPTGLCÐGVN, nhiều vị cho rằng chữ Việt Nam đã đóng khung, làm hạn hẹp tầm quan trọng của sứ mạng truyền bá giáo lý Cao Ðài. Nên năm 1996, danh xưng trên đổi lại là: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Ðại Ðạo.

Nhiệm vụ của CQPTGLÐÐ được Ðức Phật Mẫu giáng cơ dạy như sau: CQPTGL có 3 việc tối yếu phải làm:

·         Phổ thông Giáo lý.

·         Tổ chức Nữ Chung Hòa.

·         Ðào tạo thế hệ tiếp nối.

"Các vụ các ban, về mặt hành chánh vẫn tiến hành trong khuôn viên mẫu mực, nhưng đừng quên phần Phổ thông Giáo lý là then chốt của Cơ Quan.

Ngày nay thế giới bất hòa, xã hội loài người bất hòa, quốc gia bất hòa, tôn giáo bất hòa, các đoàn thể trong nước bất hòa, rất đỗi những người cùng một tổ chức, một cơ quan, một hiệp hội cũng bất hòa. Ðó là triệu chứng của sự tan rã đi đến chỗ diệt vong. Nữ Chung Hòa được tái lập đúng lúc, đúng thời kỳ và đúng sứ mạng của nó.

Nữ Chung Hoà đảm trách những công việc thích hợp với Nữ giới:

- Hướng vào nhiệm vụ của người làm mẹ, làm chị gương mẫu, tạo nên nề nếp đạo đức trong mỗi gia đình, làm gương mẫu cho đoàn con cái noi theo.

- Dẫn dắt đào luyện mầm non cho đạo.

- Làm công tác xã hội phước thiện.

Ðào tạo thế hệ tiếp nối bằng cách thành lập đội: Thanh Thiếu Niên Phổ Thông Giáo Lý để làm lò đúc, làm học đường rèn luyện Thanh Thiếu niên làm rường cột truyền Ðạo ở tương lai." (Trích: Nói Chuyện Cao Ðài của Ngài Thiên Vương Tinh)

CQPTGL không có hệ thống Chức sắc lưỡng Ðài như các Chi phái, nhưng có Cơ bút riêng, đồng tử riêng, có Ban Nghiên Cứu Giáo lý và Ðạo sử, tổ chức các lớp huấn luyện Giáo sĩ, mở các khóa dạy tu Thiền định, xuất bản báo chí. Trước 1975, CQPTGL có xuất bản Nguyệt san Cao Ðài Giáo Lý, rất được nhiều giới ủng hộ.

V. Vấn đề qui hiệp các Chi phái Cao Ðài:
A. Các phong trào thống nhứt Chi phái:

Kể từ năm 1936 đến trước ngày giải phóng 30-4-1975, nhiều tín đồ Cao Ðài có nhiệt tâm lo âu sự phân chia Chi phái của nền Ðại Ðạo nên đã đứng ra lập nhiều cơ quan vận động qui hiệp các Chi phái, mặc dầu không thành công nhưng cũng gây được tiếng vang tốt trong dư luận, xin lần lượt kể ra:

■ Năm 1936, một đàn cơ mà Liên Hoa làm đồng tử, Ơn Trên dạy lập một tổ chức gọi là Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn đặt trụ sở tại Thánh Thất Cầu Kho. Một số vị được bầu vào Ban Chưởng quản: Ðốc phủ Nguyễn Văn Kiên làm Hội Trưởng, ông Cao Triều Phát làm Phó Hội Trưởng,... nhưng tổ chức nầy không làm được việc gì vì nội bộ bất đồng ý kiến.

■ Cũng năm 1936, Ơn Trên lại dạy quí vị: Nguyễn Phan Long, Ðoàn Văn Bản, Trần Quang Nghiêm, Trần Văn Quế, hợp nhau lập ra Liên Hòa Tổng Hội để tổ chức các cuộc Hội Long Vân vận động hòa hiệp các Chi phái. Liên Hòa Tổng Hội tổ chức được 12 Hội Long Vân, nhưng các Chi phái rất thờ ơ trong việc hòa hiệp. Ơn Trên dạy Liên Hoà Tổng Hội phải giải nhiệm sau kỳ Hội Long Vân 12, vì Ơn Trên tiên tri rằng:

Liên Hòa vị hiệp đạo lương vong,

Lãnh tụ khâm sai họ nạn hồng.

Hội Long Vân 12 tại Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài ở Hạnh Thông Tây Gò Vấp, ngày 15-12-Canh Thìn (1940) thì đệ nhị thế chiến sắp bùng nổ, ở VN quân đội Pháp bắt các lãnh đạo tôn giáo cầm tù và lưu đày... ... ...

■ Năm 1945, ông Cao Triều Phát lập Cơ Quan Cao Ðài Hiệp Nhứt, sau có ông Lê Kim Tỵ và Bùi Văn Nhàn tiếp nối, nhưng công việc không được nhiều người hưởng ứng.

■ Năm 1952, ông Nguyễn Bửu Tài cùng với quí ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Quế lập ra Cơ Quan Cao Ðài Qui Nhứt, nhưng cũng không qui tụ được bao nhiêu người.

■ Năm 1964, ông Trần Văn Quế lập ra Phái Ðoàn Thiện Tâm hướng về Tòa Thánh Tây Ninh, tiếp xúc với Hội Thánh TTTN thảo luận việc thống nhứt các Chi phái, được Hội Thánh TTTN ủng hộ. Công việc thấy có kết quả bước đầu, nhưng sau đó không tiến thêm được.

■ Năm 1969, ông Phan Khắc Sửu (đạo hiệu Huỳnh Ðức) lại cầm đầu một Phái đoàn đông đảo gồm 72 đại diện một số Hội Thánh Chi phái lên Tòa Thánh Tây Ninh họp để thảo luận vấn đề thống nhứt Chi phái. Ông Phan Khắc Sửu dùng uy tín bên Ðời và bên Ðạo của ông gây được một phong trào lớn, có tánh cách qui mô. Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh hợp tác thảo luận, đạt được một số nguyên tắc chung.

■ Năm 1972, Hội Thánh TTTN cử Ngài Bảo Ðạo Hồ Tấn Khoa làm đại diện mời lãnh đạo các Chi phái họp tại TTTN để tiếp tục bàn về sự qui hiệp các Chi phái. Ðược biết, trong Hội Thánh TTTN, Ngài Bảo Ðạo Hồ Tấn Khoa có đại nguyện thống nhứt các Chi phái, nên Hội Thánh cử Ngài lo công việc thống nhứt nầy thì rất hợp với ý nguyện của Ngài.

Các Chi phái hưởng ứng lời mời nên lên họp tại Tòa Thánh Tây Ninh rất đông. Hội nghị bước đầu đạt thỏa thuận gồm 5 điểm:

1.    Làm sáng tỏ danh Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn trong và ngoài nước, y theo Chơn truyền Luật pháp của Ðạo (Tân Luật, PCT, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2.    Tương thân tương trợ, tương ái tương liên trong phạm vi đạo đức.

3.    Không làm Chánh trị, không lập Quân đội.

4.    Bành trướng sâu rộng cơ phổ độ trong và ngoài nước, hiệp sức mở mang công việc văn hóa và từ thiện phục vụ nhơn sanh.

5.    Tạm thời tôn trọng hệ thống tổ chức nội bộ của mỗi Chi phái cho tới ngày Ðức Chí Tôn phán đoán.

Hội Nghị thành lập được một Hội Ðồng Vận Ðộng Thống Nhứt ÐÐTKPÐ mà Ngài Hồ Tấn Khoa được bầu làm Trưởng Ban Thường Vụ Lâm thời.

Hội Ðồng tổ chức được vài cuộc viếng thăm thân hữu trụ sở của vài Chi phái, rồi đến ngày giải phóng, Hội Thánh và các Cơ quan của Ðạo Cao Ðài ở khắp nơi đều bị giải thể.

Qua các điểm vừa trình bày trên, chúng ta nhận thấy việc qui hiệp các Chi phái của Ðạo Cao Ðài, tuy có nhiều cố gắng của Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh và của một vài Chi phái, nhưng cuối không đạt được tiến bộ quan trọng nào.

Mục Sư Olliver đạo Tin Lành, người Mỹ, khi nghiên cứu về Ðạo Cao Ðài có bày tỏ ý kiến sau đây: (dịch ra Việt văn)

"Tôi rất buồn mà thấy rằng các Chi phái trong Ðạo Cao Ðài chỉ nói tốt cho mình mà hạ phẩm giá người khác. Ðiều đáng buồn hơn hết là mỗi Chi phái đều quá ư tự túc tự mãn và không hề nói đến sự thống nhứt, dù rằng đó là sự thống nhứt tinh thần.

Một vài Chi phái khi nghe nói đến việc thống nhứt thì nghiễm nhiên tuyên bố: Ðấng Chí Tôn sẽ làm cho chúng tôi.

Các Chi phái trong Ðạo Cao Ðài mà hiệp nhau lại được thì trước nhứt sẽ có lợi trong các Chi phái ấy và sau đó là lợi cho quốc gia VN của họ.

Trước khi chờ Ðấng Chí Tôn làm giùm cho chư vị, thì chính chư vị phải cố gắng đứng lên làm một việc gì trước đã."

Lời phê bình và nhận xét của Mục Sư Olliver khá xác đáng để cho mỗi tín đồ Cao Ðài chúng ta lưu tâm suy nghĩ.

B. Tại sao các Chi phái không thống nhứt được?

Ðây là một câu hỏi làm hoang mang rất nhiều người. Những người hành đạo đi sau có cảm tưởng dường như càng vận động thống nhứt, càng có sự dạy dỗ khuyên lơn, khuyến cáo của chư Thiêng liêng chừng nào thì chia rẽ lại càng trầm trọng chừng nấy.

Có lẽ những người hành đạo đi sau bực tức hơn là hoang mang, bực tức cho sự việc, vì sự việc đã biến thành những chướng ngại vật cho sự tiến triển của cơ Ðạo mà mình muốn để vào một tay xây dựng....

Thầy (Ðức Chí Tôn) chỉ trông cậy có một điều là thiệt lòng, là chơn thành mà thôi. Với Thầy, Thầy muốn ở các con một tấm lòng, nhưng không phải bất cứ tấm lòng nào, mà tấm lòng chơn thật mà thôi, trước mắt Thầy cũng thế, sau lưng Thầy cũng thế, không có Thầy cũng thế. Còn giữa con cái Thầy thì Thầy cũng muốn thấy con cái Thầy thương yêu hòa thuận với nhau, nhưng không phải thương yêu hòa thuận đầu môi chót lưỡi, thương yêu hòa thuận trên giấy tờ, mà thiệt lòng, vâng, thiệt lòng nghĩa là chơn thành thương yêu hòa thuận.

Nếu cái thiệt lòng đó có, nếu cái chơn thành đó có, và nếu cái tình thương yêu hòa thuận đó thật có, thì các nguyên nhân mà Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nêu ra trên kia chắc có lẽ đã được giải quyết từ lâu rồi. Vì lẽ tình thương chơn thành sẽ khắc phục một cách dễ dàng những chỗ vị kỷ, vị danh, vị lợi, cũng như tự ái, tự đại, tự tôn.

Hễ thiệt lòng thương thì sẽ hiến dâng trọn vẹn, mà hiến dâng trọn vẹn thì cái TA chỉ còn là để phục vụ cho cái tình thương đó mà thôi. Thương ở đây là thương Ðạo, thương Thượng Ðế, thương nhơn sanh, thương con cái Ðức Chí Tôn, thương anh chị em của mình, thương nhơn loại, mà hễ thiệt lòng thương rồi thì tự nhiên là thiệt lòng tin, mà thiệt lòng tin thì không còn tí gì nghi ngơ ø nữa, cái mà Thầy thường dạy người trong Ðạo ở những ngày đầu.

Nghi kỵ là một nguyên nhân nữa để chia rẽ nhau, mà nghi kỵ là do mất chữ tín với nhau, là bội tín, thất tín mà ra.

Thật thế, lúc mới khai đạo, tất cả các chư vị tiền khai đều cùng nhau chung tay góp sức để giúp Thầy lập đạo, tin tưởng nơi nhau, một lòng một dạ, chia ngọt xẻ bùi, chi chi cũng cùng nhau bàn thảo, rót hết cả tâm thành với nhau, bày tỏ với nhau bao điều thầm kín tâm tư trước những trở lực bao quanh tứ phía, che chở cho nhau trước những cạm bẫy dẫy đầy hằng ngày của thực dân đô hộ. Nói một cách khác, tin nhau như thể tay chân. Rồi đến một lúc nào đó, thình lình có việc "Mặt nhựt hồi mô thấy xẻ hai . . . Bụng muốn phân chia hỏi bởi ai?"

Câu hỏi nầy bắt đầu đặt một dấu hỏi trong lòng những môn đồ của Thượng Ðế. Dấu hỏi đó cứ theo cái đà nứt rạn kể từ Thánh Thất Cầu Kho, Ban Chỉnh Ðạo, Tiên Thiên, v.v... mà lớn lần lên cho đến đỗi mối nghi kỵ càng ngày càng ăn sâu vào tâm tư, trước nhứt của những vị đứng đầu các Chi phái, rồi sau nữa, của người Cao Ðài nói chung trong toàn đạo.

Một khi mối nghi kỵ đã nảy nở trong lòng người thì một vấn đề tâm lý đã được đặt thành. Rồi từ đó đến sau, không một ai tin ai nữa, dầu có nói bao nhiêu lời, dầu có viết bao nhiêu chữ, dầu có họp bao nhiêu lần đi nữa. Vấn đề tâm lý nầy không thể nào giải quyết được, nếu không được mang ra mổ xẻ một cách khách quan chân thành. Từ 1935 cho đến 40 năm sau, vấn đề tâm lý nầy không được mang ra một lần để giải quyết, vì một lẽ nào đó, vấn đề thống nhứt cũng không thể thực hiện.

Thế cũng chưa hết, vấn đề tâm lý nầy đã được nảy sanh rồi thì nó lại sanh ra những vấn đề tâm lý phụ thuộc mà về lâu sau nầy sẽ trở thành một bịnh nan y bao trùm tất cả những cái "tự ái, tự đại, tự tôn" đã được ghi trên. Bịnh tâm lý nầy hết phương cứu chữa, bịnh chia rẽ đến đây khó mà làm gì được....

Ðứng về một khía cạnh khác nữa thì cũng thấy hiện diện trong cơ đạo những bịnh khác nữa rất thường tình trong nhơn sanh trên cõi dinh hoàn là: vị kỷ, vị danh, vị lợi, mà trong đạo thường đề cập đến một vài phương diện gọi là "cân đai, áo mão, chức tước, lấy danh đạo tạo danh đời và làm lãnh tụ."

Trong những bịnh nầy, có lẽ cái bịnh làm lãnh tụ là nổi nhứt chăng trong phần chia Chi lập Phái? Các bịnh kia còn có thể chữa được, tuy khó chữa nhưng cũng còn có thể chữa được, chứ cái bịnh cuồng vọng làm lãnh tụ thì thật vô cùng khó khăn, thật là nhiều, quá nhiều, lan tràn trong xã hội. Chỉ có chức lãnh tụ mới giải quyết được cái bịnh lãnh tụ mà thôi.

Cứ phóng tầm mắt chung quanh chúng ta trong Ðạo cũng như ngoài đời thì thấy rõ, không cần phải biện chứng gì cả. Trong Ðạo thì chỉ trông vào thành phần các Chi phái, và phẩm vị của các thành phần đó thì thấy rất rõ ràng. Chí đến tín đồ cũng chưa an phận tu hành để tăng tiến mà còn muốn làm Nguyên Soái để rồi bị bỏ vào nhà thương điên. (Nhóm Tịch Cốc)

Nếu ai cũng muốn làm lãnh tụ hết thì làm sao có một lãnh tụ cho tất cả? Mà không có lãnh tụ cho tất cả thì cơ đạo không khi nào thống nhứt được; mà vấn đề chọn một vị lãnh tụ cho tất cả, theo lẽ phải, không thành vấn đề, vì lẽ ngoài đời cũng như trong đạo, có đầy đủ phương pháp để giải quyết nó một cách dễ dàng nếu thành tâm muốn giải quyết. Vần đề là vì nơi đây không chiïu đặt ra hoặc không muốn đặt ra để giải quyết, nghĩa là không muốn vấn đề được giải quyết.

Ðó cũng là một lẽ nữa làm cho cơ đạo không thể thống nhứt được.

Chia rẽ có thể làm chậm sự tiến triển của nền Ðại Ðạo, chứ không khi nào diệt được Ðạo, vì chưởng quản ÐÐTKPÐ là Thượng Ðế, mà Thượng Ðế là vô vi. Có ai phàm tục phá được vô vi đâu? Hơn nữa, vô vi nầy là vô vi Thượng Ðế thì tất nhiên tuyệt đối. Phá thì được chớ diệt chắc là không được rồi.

Ngoài những nguyên nhân nêu trên đã làm cho cơ đạo không thống nhứt được, còn có một vài trớ trêu, tưởng cũng cần ghi riêng biệt ra để lưu ý.

Trước nhứt, chính những vị đã tự tách rời khỏi Tây Ninh để lập Chi phái cũng là những vị hô hào hoạt động mạnh nhứt cho cơ thống nhứt. Nhưng trớ trêu thay! chư vị càng hô hào chừng nào, càng hoạt động mạnh chừng nào, lâu chừng nào, lại càng bị nghi ngờ nhiều chừng nấy. Cái lẽ tự nhiên là vì cái gút tâm lý nêu trên không được cởi tháo; cái mê hồn trận nghi ngờ đã đưa chư vị vào một cơn gió trốt quay tít không còn lối thoát nữa, vì thế cho nên mãi cho đến năm 1954, hãy còn lập Hội Thánh để khánh thành vào năm 1956!

Thứ đến là sau nầy khi thấy việc thống nhứt thành một việc đạo rất thời trang, được ai ai cũng để ý đến, nên có những cá nhân tranh giành để hoạt động, tạo thành một phong trào "Thống nhứt ngầm chống thống nhứt" với ý đồ là để Chi phái mình được danh dự làm việc đó. Vì thế mà có những mưu mô giữ miếng mà Thầy đã phiền trách trước kia.

Bên ngoài, khi hắc cân bạch y gặp nhau thì bãi buôi, chào chào mừng mừng vui vẻ, nhưng bên trong thì phần ai nấy lo, miếng ai nấy giữ. Có nhiều khi vì quá say mê trong dục vọng mà đâm ra ruồng rẫy, xua đuổi ngấm ngầm tế nhị, để lại cho đồng đạo một cái vị hoặc một cái hậu đắng chua.

Thống nhứt cho cơ đạo thì quí hóa vô cùng, nhưng thống nhứt cho quyền lợi hoặc cho danh vọng cá nhân mình thì gây ra tình trạng "Thống nhứt phản thống nhứt" nghĩa là làm cho chia rẽ càng thêm chia rẽ... ... ...

Trong bất cứ trường hợp nào, toàn đạo phải tin tưởng trọn vẹn vào một việc: Có Thầy, có Thiêng liêng chưởng quản cơ đạo. Cứ một lòng theo Hội Thánh, một Hội Thánh duy nhứt của ÐÐTKPÐ, nơi đây có nghĩa là Tây Ninh và Tây Ninh mà thôi, bất cứ như thế nào, tối hậu sẽ có Thầy.

Vì một lẽ duy nhứt là sự nguyên vẹn của cơ Ðại Ðạo là đại sự, là điều kiện tối cần thiết, không có không được, để đi đến mục tiêu tối cao tối thượng của Thượng Ðế đã đề ra cho cơ Ðại Ðạo.

Người viết mấy hàng nầy không thấy có một lý lẽ chính đáng nào để biện minh cho ổn thỏa được việc chia rẽ, chia Chi lập Phái. Nếu không đồng ý với nhau cho tới mức không thế ngồi chung với nhau được, thì cách xử sự tốt đẹp nhứt là nói lên tiếng nói thành tâm thiện ý, rồi bước ra, nếu mình muốn, về nhà đóng cửa lại tu hành tịnh luyện.

Như thế mới phải, mới nên, mới xây dựng, mới đúng với chữ tu hành. Chứ bước ra để lập một tổ chức khác hầu chống lại cái tổ chức trước kia của mình, thì chắc chắn sẽ tạo ra điều sứt mẻ, tạo ra sự chia rẽ hữu hình thật sự khó bề sửa chữa về sau.

Hậu quả rất là tai hại, như ta đã thấy rõ trong 60 năm qua trong Ðạo, và bao nhiêu lần trong lịch sử nước nhà.

Còn nếu muốn "chỉnh" lại những việc mình cho là sai lầm trong việc điều hành điều khiển cơ đạo, thì có không biết bao nhiêu phương cách tốt đẹp đầy ý nghĩa xây dựng, hợp với câu kinh đầu của bài kinh đầu của đạo là "Ðạo gốc bởi lòng thành tín hiệp", đồng thời giữ vững được sự nguyên vẹn của nền đạo. Làm cái chi mà không giữ được không tạo được tinh thần "thành, tín, hiệp" thì không giữ gốc đạo rồi vậy. Mà không giữ được gốc đạo thì không thể nào sống được, tồn tại được, chứ đừng nói tới việc tăng tiến được. Căn bản giữ đạo là ở chỗ đó vậy. Căn bản thương đạo, thương dân thương nước, thương người là ở chỗ đó vậy.

Còn nếu nói rằng vì "đã mong mỏi sự xuất hiện một Hội Thánh duy nhứt mà không thấy" nên lập lên một Hội Thánh khác nữa, ngoài cái Hội Thánh gốc của cơ đạo, thì chính mình đã vi phạm luật đạo như bao nhiêu người khác, vì cơ đạo không được phép có nhiều Hội Thánh. Hoặc giả cho Hội Thánh của mình là Hội Thánh duy nhứt vì một lẽ nào đó thì lại càng không đúng lý nữa, càng chứng tỏ cái phàm tâm của mình và càng làm cho cơ đạo xáo trộn và phân tán hơn nữa.

Chia rẽ là không thống nhứt, là phản thống nhứt. Chia rẽ mà còn nói đến thống nhứt thì chắc hẳn là có tư tâm tư ý, tư lợi tư quyền, tư kỷ.

Tách rời ra khỏi Tây Ninh để lập lên một Hội Thánh khác và sau khi gây dựng bề thế tổ chức xong xuôi, rồi trở lại kêu Tây Ninh thống nhứt, thì thật quả là chôn sâu cái tinh thần thống nhứt bất vụ lợi vì Thầy vì Ðạo, vì nhơn sanh. Không trách, vì cái lẽ nói khác, nghĩ khác, làm khác đó, nghĩa là không đạo hạnh, nên cơ đạo không thống nhứt được và bị chinh nghiêng trong 60 năm qua.

Muốn Ðạo thành, muốn đất nước dân tộc vinh quang, nhơn sanh được hòa bình cơm no áo ấm thì đừng khi nào làm cho cơ đạo bị chia rẽ, bất câu trong trường hợp nào. Muốn cơ đạo giữ được sự nguyên vẹn thì đừng tách rời, đừng sang ngang để chia Chi lập Phái, chống đối với tổ chức gốc của cơ đạo.

Ðạo thành thì tất cả được thành và được hưởng. Ðạo không thành thì con người và vạn linh phải theo guồng máy của phàm tâm con người tạo thành mà tự tiêu diệt.

Sống là do tự quyết của mình, mà chết là do phàm tâm của mình. Thượng Ðế muốn cứu nhơn sanh, nhưng nhơn sanh không theo lời dạy của Thượng Ðế mà theo tiếng gọi của phàm tâm thì Thượng Ðế cũng không biết làm sao!

Hòa hiệp là theo Thượng Ðế, chia rẽ là theo tánh phàm. (Trích trong quyển Tìm Hiểu Ðạo Cao Ðài của Ðạo Trưởng Ðỗ Vạn Lý, CQPTGL)

Chúng ta hiện nay là những tín đồ Cao Ðài thuộc thế hệ sau, không liên hệ gì đến việc phân chia Chi phái của các bậc tiền bối, chúng ta thử bình tâm suy nghĩ, đem hết lương tri lương năng ra xét đoán một cách thành thật với lòng mình, lột trần sự thật (dù là sự thật phũ phàng) để xem xét: Tại sao vấn đề Chi phái của Ðạo Cao Ðài lâu nay không thể qui hiệp được, và có lẽ mãi mãi sẽ không bao giờ qui hiệp được?

Ðó là vấn đề hết sức quan trọng mà người tín đồ Cao Ðài có nhiệt tâm với đạo cảm thấy nhức nhối vô cùng khó chịu, bởi vì Giáo lý Cao Ðài mà chúng ta đọc thuộc lòng, nào là Bác Ái, Công bình, nào là luật Thương yêu quyền Công chánh, rồi Qui nguyên Tam giáo, Phục nhứt Ngũ Chi.... mà chính những người tín đồ Cao Ðài với nhau đây mà không thương yêu được nhau, không hòa hợp được nhau thì làm sao nói đến việc thương yêu và hòa hợp đồng bào chủng tộc, làm sao thương yêu được nhơn loại, thương yêu toàn thể chúng sanh, như lời Ðức Chí Tôn thường dạy dỗ.

Nếu tôn giáo Cao Ðài không qui hiệp được các Chi phái Cao Ðài thì làm sao dám nói đến việc Qui nguyên Tam giáo, Phục nhứt Ngũ Chi?

Vậy nguyên nhân chủ yếu làm cho không thể qui hiệp được các Chi phái là gì?

Có vị đáp rằng: - Tại Ðạo Nghị Ðịnh số 8 của Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Phạm Hộ Pháp.

Ðể vấn đề được sáng tỏ thêm, chúng ta thử đặt câu hỏi: Nếu giữa năm 1934, Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Phạm Hộ Pháp không ra Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8 thì sẽ ra sao?

Phải chăng sẽ có một số Chức sắc cao cấp của Tòa Thánh Tây Ninh khi bất đồng với Hội Thánh sẽ tiếp tục tách ra để lập Chi phái? Làm cách nào để ngăn chận việc nầy?

Cho nên Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8 là hàng rào hiệu quả ngăn chận việc Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh tách riêng lập Chi phái, và từ đây mãi mãi đến thất ức niên về sau, Ðạo Cao Ðài nhờ Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8 mà không còn tình trạng phân chia Chi phái nữa.

Chúng ta thấy trước mắt chúng ta, các tôn giáo lớn như: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, mỗi tôn giáo đều có hàng trăm Chi phái chống đối nhau, và còn có thể tiếp tục phân chia thêm nữa, vì các tôn giáo nầy không có một Ðạo luật nào ngăn chận sự phân chia Chi phái.

Cái nguyên nhân cốt yếu làm cho các Chi phái không thể qui hiệp được, mà ít ai dám có can đảm nói ra, vì nó rất phàm tục nhưng lại rất hấp dẫn, là vấn đề phẩm tước của các Chức sắc lãnh đạo Chi phái.

Nếu trong sự qui hiệp nầy mà Ðức Lý Giáo Tông tại Tòa Thánh Tây Ninh nhìn nhận tất cả phẩm tước của Chức sắc Chi phái, thì tại TTTN sẽ có cảnh tượng là:

·         cả chục vị Chưởng Pháp,

·         cả chục vị Ðầu Sư,

·         cả chục vị Chánh Phối Sư,

·         cả hai, ba vị Hộ Pháp,

·         cả ba bốn vị Thượng Phẩm, Thượng Sanh,

·         cả mấy chục vị Thời Quân.

Thử hỏi như thế thì Ðạo Cao Ðài còn ra thể thống gì nữa! Tân Luật và Pháp Chánh Truyền còn giá trị gì nữa!

■ Nếu quí Chức sắc cầm đầu Chi phái chịu từ bỏ phẩm tước của Chi phái, qui hiệp về TTTN, chờ đàn cơ cầu Ðức Lý Giáo Tông tại Cung Ðạo Tòa Thánh do chư vị Thời Quân HTÐ phò loan, để Ðức Lý giáng dạy và định phận, thì liệu Ðức Lý tại Cung Ðạo TTTN có ban cho họ phẩm tước cao trọng như khi họ cầu nơi Chi phái?

Nhiều vị cũng tự thú nhận rằng, đàn cơ tại Cung Ðạo TTTN chắc chắn không thể ban cho họ phẩm tước như ở Chi phái được, mà sẽ ban cho họ phẩm tước mới, đúng với trình độ tu hành và công đức của họ. Và như vậy thì họ bị sụt chức một cách nặng nề, họ sẽ mặc cảm nên không thể hành đạo một cách thoải mái và tốt đẹp được.

(Chúng ta lưu ý rằng, Cung Ðạo tại TTTN là nơi mà Ðức Chí Tôn tiền định, để cầu cơ cho các Ðấng thiêng liêng giáng dạy điều hành nền Ðạo, hai vị Thời Quân HTÐ phò loan [đồng tử tiền định] thì không có chơn linh quỉ vị nào dám vào đây phá khuấy)

■ Nếu không dùng Cơ bút để các Ðấng thiêng liêng phân định mà dùng sự công nhận của Quyền Vạn Linh, thì chúng ta đều biết Quyền Vạn Linh do 3 Hội lập thành, mà quan trọng nhứt là Hội Nhơn Sanh vì đây là căn bản. Bên Chi phái, phần lớn số tín đồ hiện nay rất ít, cho nên Chi phái làm sao có đủ số Nghị viên và Phái viên trong Hội Nhơn Sanh đạt đủ số thăm quá bán để tín nhiệm công nhận quí vị.

Như vậy, khi Chi phái qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, dùng lối cơ bút hay dùng lối công nhận của Quyền Vạn linh, cả hai cách đều không đảm bảo phẩm tước cho Chức sắc lãnh đạo Chi phái, thì họ đâu có chịu qui hiệp! Qui hiệp để mà bị thiệt hại danh dự hay sao?

Bởi vì con người, dù là người tu hành, phần lớn vẫn còn CHẤP NGÃ, cái bịnh nầy rất nặng và phổ biến, nên coi trọng phẩm tước phàm trần, coi trọng áo mão phàm trần. Ðức Chí Tôn đã có nói: các thứ đó đều giả, đều là phàm mà Ðức Chí Tôn tạm cho mượn để làm công quả, cái phẩm tước thật là ở nơi cõi thiêng liêng. Ðừng tưởng khi về thiêng liêng vẫn giữ được áo mão phàm trần.

Tội nghiệp cho những tín đồ chơn chất, họ không được quyền lợi gì trong việc phân chia Chi phái, mà vì người hướng đạo sai lầm nên họ phải chịu nhiều thiệt thòi rất nên oan uổng!

Chỉ khi nào những thế hệ thừa kế nối tiếp lãnh đạo Chi phái không còn cảm thấy hấp dẫn đối với các phẩm tước của Chi phái nữa thì họ sẽ tự động qui hiệp về gốc Ðạo.

Chúng ta thử điểm lại một số các cột mốc quan trọng về sự diễn tiến của nền Ðạo, chúng ta sẽ thấy được sự huyền diệu trong câu nói xác định của Ðức Chí Tôn: "Chi chi cũng chỉ tại Tây Ninh đây mà thôi":

15-10-Bính Dần (1926): Ðại Lễ Khai đạo tại Gò Kén.

16-10-Bính Dần (1926): Ðức Chí Tôn lập PCT CTÐ Nam phái.

09-1-Ðinh Mão (1927): Ðức Lý G.Tông lập PCT CTÐ Nữ phái

12-1-Ðinh Mão (1927): Ðức Chí Tôn lập PCT HTÐ.

Từ 1926 đến đầu 1934: Các Chức sắc CTÐ tách ra lập Chi phái gồm quí Ngài: Ngô Văn Chiêu, Phối Sư Nguyễn Văn Ca, Giáo Hữu Nguyễn Văn Chính, Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, hai vị Q. Ðầu Sư Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang.

Năm 1935: Các Ðấng thiêng liêng vâng lịnh Chí Tôn giáng cơ ban cho Tân Kinh. Ðây mới chính thực là Kinh Cao Ðài, Kinh Tận độ chúng sanh, và ban cho PMCK, dạy cách thờ phượng Ðức Phật Mẫu. Các bài kinh có trước năm 1935 đều là kinh thỉnh từ Tam giáo hay từ Ngũ Chi Minh đạo.

Như vậy, chỉ có Tòa Thánh Tây Ninh mới hưởng được hồng ân nầy của Ðức Chí Tôn, còn các Chi phái không hưởng được, nếu muốn hưởng thì phải qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh mà thôi. Cho nên được biết có một vài Chức sắc Chi phái di chúc lại rằng khi họ qui liễu thì nhờ Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh đến cầu kinh cho họ và tổ chức tang lễ cho họ.

Về tương lai của các Chi phái, Ðức Chí Tôn có tiên tri trong bài thi tứ tuyệt sau đây:

Ðạo Thầy nhiều nhánh các con coi,

Nhánh có trái bông, nhánh cụt còi.

Rốt cuộc cành khô cùng lá héo,

Còn gì tươi tốt để con coi.

Theo bài thi nầy, lúc đầu có một vài Chi phái bông trái sum suê, còn một vài Chi phái thì còi cọc, nhưng rốt cuộc rồi thì các Chi phái dầu sum suê hay còi cọc đều bị tàn tạ dần, rồi sẽ mất hẳn. Ðức Chí Tôn như ngầm nói rằng vấn đề qui hiệp là sống còn, còn Chi phái nào không chịu qui hiệp thì dần dần suy tàn rồi mất hẳn.

Chúng ta nhớ lại hai phong trào Chi phái nổi bật nhất là phong trào của ông Nguyễn Phan Long lập Hội Vạn Linh để truất phế Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, và phong trào Ban Chỉnh Ðạo của hai vị Quyền Ðầu Sư Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang, các vị nầy đã chống đối TTTN rất mãnh liệt.

Hỏi vậy, những vị ấy đã thành công được những gì? Tạo lập được những công trình gì để làm vẻ vang cho Ðạo? làm lợi ích cho nhơn sanh? Hay đó chỉ là tranh quyền đoạt vị cá nhân, không có chánh nghĩa để thủ thắng nên chiïu thất bại.

Trong lúc đó, Tòa Thánh Tây Ninh là cái gốc của Ðạo, càng ngày càng phát triển, sum suê bông trái đầy đủ.

Trước năm 1935, trong Nội Ô, Tòa Thánh còn cất tạm bằng cây ván, các cơ quan của Hội Thánh còn bằng mái tranh vách đất, nhưng dần dần Tòa Thánh được cất lên nguy nga đồ sộ theo kiểu vở của Thiên đình, báo hiệu sự xuất hiện của một nền văn minh mới của nhơn loại nơi cõi Á Ðông, rồi các dinh thự khác cũng dần dần được dựng lên bằng những con tim chơn chất thực sự thương Thầy mến Ðạo, và đặc biệt dựng lên ngôi thờ Ðức Phật Mẫu, bà Mẹ Chung thiêng liêng của toàn nhơn loại, thể hiện một nền triết lý hoàn chỉnh của Ðạo Cao Ðài là tôn thờ đủ hai ngôi: ngôi Dương và ngôi Âm. Ðó là nguồn gốc của con người, của vạn vật và của CKVT.

Người tín đồ Cao Ðài hôm nay phải tự nhận thức rằng, chỉ có con đường duy nhứt để tự cứu lấy mình, cứu lấy linh hồn mình là tự giác trở về Tòa Thánh Tây Ninh để lập công quả, hoặc là bên CTÐ, hoặc là bên HTÐ hay CQPT. Ðức Chí Tôn chưa cho phép mở Tịnh Thất và chưa ban cho pháp môn luyện đạo, bởi vì kỳ thi chung kết sắp mở trong Ðại ân xá của Chí Tôn là môn thi CÔNG QUẢ và chỉ thi môn nầy mà thôi. Chúng ta nhớ lời dạy của Ðức Chí Tôn: "Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Thầy nói cho các con nghe, nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ."

Cho nên nếu chúng ta lo luyện đạo mà không lo công quả thì tới kỳ thi chung kết nầy, e chúng ta phải đứng ngoài trường thi, chịu phận thiệt thòi thì mất cơ hội để tiến hóa.

Trong kỳ Ðại Hội Nhơn Sanh năm Giáp Dần (1974) tại Tòa Thánh Tây Ninh, vị Chức sắc đại diện Lại Viện CTÐ báo cáo trước các Nghị viên và Phái viên nhơn sanh, số Chi phái Cao Ðài bằng lòng qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh như sau:

"Tổng số 36 (?!) Chi phái Cao Ðài, đã có 10 Chi phái chịu qui nhứt về Tòa Thánh Tây Ninh như:

·         Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt.

·         Phái đoàn Cao Ðài Chiếu Minh.

·         Hội Thánh Trung Ương Trung Việt (Tam Quan).

·         Hội Thánh Cao Ðài Thượng Ðế (Chiếu Minh Ðàn).

·         Phái đoàn Hội Thánh Tiền giang.

·         Phái đoàn Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý CÐG VN.

·         Hội Thánh Hậu giang Minh Chơn Lý.

·         Cao Ðài Cứu Thế Thiện Huyệt Lâm Huyền Châu.

·         Giáo Hội Cao Ðài Thống nhứt."

VI. Phần Phụ: Tiểu Sử các vị lãnh đạo Chi phái:
1. Ngài Ngô Văn Chiêu:

(Xem chữ Ngô Văn Chiêu, vần Ng)

2. Ông Vương Quan Kỳ (1880-1940):

Song thân của ông Vương Quan Kỳ là: Vương Quan Ðể và Huỳnh Thị Bảy. Vương Quan Ðể là con trai của Thống Chế Vương Quan Hạc, và Huỳnh thị Bảy là con gái của Ông Huỳnh Mẫn Ðạt, một nhà Nho yêu nước làm quan dưới triều Minh Mạng và Tự Ðức.

Ông Kỳ học tại trường Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung (Diplôme), làm việc tại Dinh Thống Ðốc Nam Kỳ, ngạch Tri phủ, bạn cùng sở với Ngài Ngô Văn Chiêu nên được Ngài Chiêu độ theo Ðạo Cao Ðài.

Ông Kỳ là em ruột của Vương Quan Trân, ông Trân là cha ruột của Cô Vương Thị Lễ, Thất Nương DTC. Nhà riêng của ông Kỳ ở tại số 80 đường Lagrandière, sau đổi lại là đường Gia Long, Quận Nhứt, Sài Gòn.

Ông Vương Quan Kỳ là 1 trong 12 môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn được Thiên phong Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh ngày 14-5-Bính Dần (1926).

Năm 1930, ông Vương Quan Kỳ cùng các Chức sắc nơi Thánh Thất Cầu Kho tách ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, lập ra Chi phái Cầu Kho, hành đạo riêng, không theo hệ thống TTTN.

Trong Con Ðường TLHS, Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo đêm 8-9-Mậu Tý (dl 10-10-1948) nhắc lại khi Ðức Ngài xuất chơn thần về thiêng liêng có thấy ông Vương Quan Kỳ trên đó, Ðức Ngài thuật lại như sau:

"Bần đạo thấy người bạn nhờ ơn thiêng liêng của Chí Tôn riêng ban cho người ấy, người ấy có người chí thân là một Ðấng cầm quyền trọng hệ trên Hư linh tức là Thất Nương DTC. Bần đạo nói rõ, người ấy là Vương Quan Kỳ, chú ruột của Thất Nương vậy. Người mở đạo mà chẳng biết đạo là gì hết, đi theo một tư tưởng của nền Chánh giáo của Ðức Chí Tôn định quyết, mà tư tưởng của người ấy và cả hành tàng nếu chúng ta thấy sẽ lên án là Tả đạo Bàng môn chắc hẳn vậy.

Lạ thay! Khi Bần đạo quay lại dòm thấy nhiều bạn rơi xuống Bích Hải khóc lóc, còn người đó trước bận Thiên phục Giáo Sư, nhưng bây giờ thì áo tốt dắt vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần, đi ngật ngờ ngật ngưỡng, cười một mình, không biết cười cái gì, đi ngang Bát Quái Ðài như không vậy.

Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu vi thấy trái hẳn nền chơn giáo của Ðức Chí Tôn mà trọn tâm tín ngưỡng Ngài, người thọ Thiên phục áo mão, dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm nơi tay, đi ngang vô Bát Quái Ðài, không quyền luật nào ngăn cản được. Chúng ta lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê bình công kích." (Trích Con đường TLHS, trang 11)

3. Phối Sư Thái Ca Thanh phái Minh Chơn Lý:

Sau đây, xin trích một đoạn trong quyển Lịch Sử Cao Ðài Quyển 2 của Ðồng Tân, trang 391-395:

"Thế là một phái nữa thành hình, ban đầu lấy tên là ÐÐTKPÐ Minh Lý Hội, sau đổi thành Minh Chơn Lý Hiệp Ngũ Chi.

Những việc ông Ca làm buổi ban sơ xem cũng có mòi xây dựng, nhưng qua năm 1935, Chưởng quản HTÐ là Thiên Sư Nguyễn Hữu Phùng chấp cơ sửa đổi hết cách thờ phượng, lễ bái, nghi tiết, đổi sự thờ Thiên Nhãn bằng Trái Tim và Thập ngũ Linh Ðăng. Vì lẽ ấy mà phần lớn Chức sắc, một số trở về Cầu Kho giữ nguyên gốc cũ làm thành nhóm bảo thủ, còn một số thì hợp tác với phái Tiên Thiên. Minh Chơn Ðạo cũng nảy sinh khi phái Minh Chơn Lý bắt đầu đi sâu vào Tà phái.

Việc ông Ca tách ra thành hình phái Minh Chơn Lý là cơ đại khảo trong đạo, nhưng cũng do nghiệp báo của ông, nên sự canh cải làm cho thất chơn truyền là một sự nguy hại cho ông và cho phái ông rất nhiều.

Ðể chứng minh điều nầy, ta hãy xem bài cơ bút sau đây đã giải thích huyền vi Thiên Nhãn một cách rất tà mị, dù người kém chữ nghĩa đến đâu cũng không thể hiểu như vậy được.

Bài trích trong tập Ðuốc Chơn Lý, do Tòa Thánh Ðịnh Tường (Minh Chơn Lý, Cầu Vỹ) xuất bản năm 1955:

" VÔ VI HIỆP THIÊN ÐÀI

Ngày 19 tháng 8 âm lịch 1938 (7 giờ tối)

- Ðược! Con nghe Thầy dặn, nay Thầy giải nghĩa câu: Nhãn thị chủ tâm, Lưỡng quan chủ tể, quan thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả Ngã dã.

Trước Thầy có hứa sau Thầy sẽ chỉ rành là đợi cho đến ngày nay là đúng Tam Kỳ Phổ Ðộ, Thầy phải giải cho rành cho cả thảy đặng hay kẻo nhiều đứa nó ước ao trông đợi.

Giải nghĩa như vầy:

Chữ Nhãn thị chủ tâm nghĩa là cái nhãn của mỗi người đó là chủ nghĩa ở nơi tạng Tâm mà truyền ra, ấy là trái tim nên hình cái Nhãn cũng tương tự trái tim vậy. Ðó là Tâm nội xuất hình ư ngoại đó nên lấy nó mà làm chủ nghĩa đặng cho đời xem chung nên gọi là Nhãn thị chủ Tâm là vậy đó.

Lưỡng quan chủ tể, chữ tể nầy là cai trị (gouverner) nghĩa là hai điều quan hệ trong sự ngó dòm, coi xét, đó phải ngăn ngừa phòng sợ, trong đó có chánh có tà, đó là lưỡng quan là hai ngõ, hễ ngó chánh thì có chánh, ngó tà thì có tà, trong đó có một ngôi chủ tể xem xét không lầm nên phải quan phòng là vậy đó.

Quan thị Thần, chữ quan nầy là khán (observer), chữ thị nầy là thật (droit) nghĩa là xem xét đặng làm việc phải là chữ thị đó. Thị trong đó có Thần. Thần nầy là Thần huệ diệu minh là điển đó, nên gọi là điển quan Thần diệu huệ phát minh tâm là vậy đó.

Thần thị Thiên, Thần vậy đó mới gọi là có Trời ẩn trong đó. Thần nầy mới gọi là Thần mục tợ điển. Còn Thiên đó là người đời hay kêu là Thiên La Thần, Ðịa La Thần là vậy, vì xem xét không lầm, bao la vũ trụ chẳng vị chẳng tư.

Còn chữ Thiên giả ngã dã, chữ Thiên là xấu (mauvais), chữ Ngã là nghiêng (pencher).

Ðó là nghĩa nói về người đạo. Nếu dùng Thiên Nhãn đặng treo vậy thì trong chỗ ngó xem hành động không y theo lời dạy thì người đó có chỗ thiên là không đúng thiệt nơi lòng. Phật gọi là ngã (tomber) tướng đó. Hễ người đạo mà phạm vào nhơn ngã thì hóa ra là người nương đạo mà lập danh quyền lợi, dầu có treo cũng vô ích.

Vậy, con biểu CA nó coi rồi giao lại cho ba Ðầu Sư, Tứ Bửu, Thiên Sư xét cho kỹ, coi cho rành đặng in ra, rồi gởi cho các Chi phái khác đặng rõ lời Thầy dạy đó, mặc may chúng nó có đặng hồi tâm mà tránh cái nạn tu mà lắm mê hoặc đặng biết chơn lý mà theo Thầy thì là nhờ công trong mỗi đứa đó. Thăng."

(Trích trong Ðuốc Chơn Lý, số 51 trang 12)

Thêm vào sự canh cải đó, Minh Chơn Lý gọi Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài là hai phẩm tước chớ không phải là hai cơ quan như trong Pháp Chánh Truyền, cho rằng hai chức nầy hiệp với Ðức Chí Tôn làm thành một cái gọi là Tam Thân Hiệp Nhứt. Những phẩm Chức sắc trên Chánh Phối Sư còn có Thiên Sư, Tứ Bửu, Ðầu Sư, Cửu Trùng Ðài, Tam Tôn. Kinh sách thì sửa đổi hầu hết, không theo như cũ, tuy giọng đọc na ná như trước.

Tệ hại hơn nữa là Minh Chơn Lý đã xóa bỏ nguồn cội nền Ðạo. Cơ bút của Minh Chơn Lý dạy như sau:

"Thầy xuống lập đạo có một mình Thầy hiệp với hai Chưởng quản, một là Lê Văn Ðược làm chức Hiệp Thiên Ðài (hồn) của Ðạo, là bậc Chơn như có Phật Hàng Long hiệp mới thành chánh vị Tam Tôn chủ tam hồn, đội áo Khai Thiên (12 thước vải trắng) đứng trên ngọc ỷ, phía trước mặt kế bên án có ông Cửu Trùng Ðài Nguyễn Văn Ca là xác của Ðạo. Ðạo có một xác một hồn mà thôi. Cửu Trùng Ðài nhờ chuyển kiếp 9 lần mới hiệp cùng Phật An Thiên nên Thánh danh kêu là Bửu An Thiên 18 năm, trong thời gian ấy chịu trả vay nhiều nỗi. Còn ai bày ra HTÐ, CTÐ là hồn ma xác quỉ, đó là giả dối."

(Trích trong Ðuốc Chơn Lý số 51 trang 97)

Vì sự canh cải Chơn truyền Luật pháp nên Minh Chơn Lý tuy hấp dẫn được một số Chức sắc Ðại Thiên phong buổi đầu, nhưng sau nầy lại trở thành một tệ đoan lớn lao hơn hết trong sự phân tán nhà Ðạo. Do đó, ta có thể nói rằng, phái Minh Chơn Lý, ngay sau khi tự canh cải Chơn truyền, thờ phụng, đã không còn là Ðạo Cao Ðài nữa, và như thế phái nầy không tránh khỏi bàn tay Tà Thần vậy."

Theo lời các tiền bối kể lại, nguyên căn của Phối Sư Thái Ca Thanh là Ðộc Giác Thanh Ngưu của Ðức Lão Tử giáng phàm, Truyền Trạng Phạm Văn Ngọ là Từ Giáp giáng phàm. Thanh Ngưu ở với Ðức Lão Tử lâu năm nên có nhiều phép biến hóa huyền diệu, xem truyện Ðông Du Bát Tiên thì rõ.

Nguyên khi Ðốc Phủ Ca làm Quận Trưởng Châu Ðốc, ông vâng lịnh Thực dân Pháp ruồng bố các nhóm Cách Mạng chống Pháp đang lập căn cứ trong Thất Sơn, giết chết ông Cử Ða và bắt học trò của Cử Ða là Bảy Do giao cho Pháp xử tử. Linh hồn Bảy Do lên kiện nơi Ngọc Hư Cung. Ngọc Hư Cung cho phép ông Bảy Do báo oán và giao phận sự giục loạn trong nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn để trục ngoại các thành phần phản đạo, rửa ráy hàng ngũ Chức sắc cho trong sạch.

Ngày 21-7-1934, tại Phạm Nghiệp, Ðức Phạm Hộ Pháp cùng Ngài Cao Tiếp Ðạo phò loan, ông Bảy Do nhập cơ:

BẢY DO

" Kính chào chư vị Ðại Ðức và chư Ðạo hữu,

- Xin cho biết phẩm vị.

- Thần. Thầy của Bần tăng mắc chuyển cơ đặng giáo hóa TRANG, TƯƠNG, nên đến không đặng, mới sai Bần tăng thưa lại cùng chư quí vị.

Thưa Ðức Hộ Pháp, Bần tăng lấy làm bất nguyện vì buổi nọ Ngọc Hư Cung ban lịnh cho trừ diệt Phủ CA đặng báo oán. Bần tăng đã dụ nó vào Cấm Sơn và định đưa luôn vào ngục thất đặng sát hại, nào dè có lịnh Chí Tôn mật chỉ không cho sát mạng. Sau Bần tăng muốn nhập thể nó làm cho nó điên cuồng rồi bắt nó tự ải, nào dè Chí Tôn lại binh vực cấm ngăn thêm nữa, chỉ cho hành bịnh mà thôi. Nay nó bị điêu tàn cơ giả Ðạo nên mang bịnh thất tình, tưởng khi Bần tăng cũng còn phương tẩy hận.

Ngài nín nẩm lóng tin thì hiểu rõ hành tàng mọi lẽ.

Còn hai người TRANG, TƯƠNG thì Ngọc Hư Cung cho khảo. Thần đặng phép thử, khử tà trừ trược đủ 3 năm khảo án, rồi dạy dỗ cho nó trung tâm, rồi cho trở lại Hội Thánh. . . . . . . . . . . . . . . .

- Không. Cười . . . Hạng Thiên Thánh mà vào phẩm Ðầu Sư sao đặng. Bần tăng tưởng khi Ngài hiểu điều ấy chán chường, chẳng cần để luận. Họ chỉ lãnh Hàm phong là may mắn lắm đó." (Theo tài liệu sưu tập của Quang Minh)

4. Hai vị lãnh đạo phái Bến Tre:
4.1. NGUYỄN NGỌC TƯƠNG (1881- 1951)

Ông Nguyễn Ngọc Tương sanh ngày 26-5-Tân Tỵ (dl 22-6-1881) tại làng An Hội, tỉnh Bến Tre, thuở nhỏ học tại Collège Mỹ Tho, rồi lên Sài Gòn học ở Lycée Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung năm 1902, xin làm Thơ ký phòng Thượng Thơ. Làm nơi đây được 1 năm thì xin về làm Thơ ký nơi Tòa Bố tỉnh Bến Tre suốt 17 năm liền.

Năm 1919, thi đậu ngạch Tri Huyện, được bổ làm Chủ Quận Châu Thành Cần Thơ, rồi Chủ Quận Hòn Chông (Hà Tiên), rồi đến năm 1924 thì đổi về làm Chủ Quận Cần Giuộc, qua năm 1927 đổi ra làm Chủ Quận Xuyên Mộc (Bà Rịa).

Ông nhập môn vào Ðạo Cao Ðài vào tháng 2 năm Bính Dần (1926), thọ phong Thượng Chánh Phối Sư ngày 17-5-Bính Dần (dl 26-6-1926). Năm 1930, thăng lên Quyền Ðầu Sư.

Ðầu năm 1934, ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, rút về làng An Hội lập Ban Chỉnh Ðạo và sau đó biến thành Chi phái Bến Tre.

Ngày 8-1-Ất Hợi (dl 11-2-1935), Ðại Hội Vạn Linh của phái Bến Tre bầu ông Tương lên làm Giáo Tông phái Bến Tre.

Ngày 7-4-Ất Hợi (dl 9-5-1935) cử hành Lễ Ðăng điện cho Ngài Tương lên ngôi Giáo Tông ở Thánh Thất An Hội Bến Tre, và từ đó, Thánh Thất An Hội được gọi là Tòa Thánh Bến Tre.

Từ năm 1942 đến 1951, ông Tương thường nhập tịnh trong Tịnh Thất riêng, lúc đó ông thường tự xưng là Lý Giáo Tông.

Ngày 14-4-Tân Mão (dl 19-5-1951), ông Tương đăng Tiên, tháp được xây dựng ngay trước Thánh Thất An Hội, Bến Tre.

4.2. LÊ BÁ TRANG (1879-1936):

Ông Lê Bá Trang sanh năm 1879 tại làng An Qui, tổng An Trung, tỉnh Sađéc. Ông theo Tây học, thi đậu ngạch Tri Huyện, được bổ làm Chủ Quạân Thủ Ðức, rồi thi đậu Tri phủ, được bổ làm Chủ Quạân Chợ Lớn, được thăng Ðốc Phủ Sứ, làm Chủ Quạân Vũng Tàu.

Ông nhập môn vào Ðạo Cao Ðài vào tháng 5 năm 1926 (Bính Dần), được Thiên phong Ngọc Chánh Phối Sư vào ngày 3-7-Bính Dần (dl 10-8-1926). Năm 1929, Ngài Lê Bá Trang xin từ quan và phế đời về Tòa Thánh Tây Ninh hành Ðạo.

Năm 1930, Ngài Lê Bá Trang được thăng lên Quyền Ngọc Ðầu Sư, cùng một lượt với Ngài Nguyễn Ngọc Tương.

Ông Trang cùng với ông Tương rút về Bến Tre lập Ban Chỉnh Ðạo, sau đó biến thành Chi phái Bến Tre. Ông được Ðại Hội Vạn Linh của phái Bến Tre bầu làm Ngọc Chưởng Pháp.

Ông Trang qui liễu tại Bến Tre ngày 30-5-Bính Tý (dl 17-7-1936), liên đài được đưa về Tòa Thánh Tây Ninh ngày 21-7-1936, được đưa vào nhập bửu tháp ở phẩm Ngọc Ðầu Sư.

Ðàn cơ tại Phạm Nghiệp ngày 11-6-Bính Tý (dl 28-7-1936), phò loan: Ðức Hộ Pháp và Cao Tiếp Ðạo, Ðức Quyền Giáo Tông giáng cơ nói về chơn linh của Ngài Lê Bá Trang bị đọa nơi Lạc Hồn Trì, chép ra như sau:

THƯỢNG TRUNG NHỰT

Chào mấy em. Thượng Phẩm nói với Qua mấy em đợi.

Ôi! Qua nghĩ lại bắt tức mình, mấy em nghĩ lại mà coi, một kiếp sanh đâu mấy lát, cái giả cuộc trần hoàn tuy xem nháy mắt mà ảnh hưởng nó sâu sắc biết là bao, nào là danh, nào là vị, nào là tước, nào là quyền, nào là vinh, nào là trọng, rốt sự rồi cũng không còn mảy mún giá trị chút gì nơi cõi Hư linh Hằng sống, bất quá như còn vui dự đặng một tiệc ngọt ngon của khách phong trần say sưa một lát mà đòi phen chịu thảm cả đời.

Qua đến viếng TRANG nơi Lạc Hồn Trì, nó nằm mê sảng sốt, đau lòng hết sức, như lời Thất Nương và Bát Nương làm chứng, thì dầu cho Qua có đến gần nó lúc nầy cũng không bổ ích chút nào cả, phải đợi cho nó từ từ định tỉnh, may ra có tay Thất Nương giải mộng thì thỉnh thoảng định tỉnh tinh thần. Nếu Qua cượng cầu thì chẳng khác nào hầu chuyện với người điên, chọc thêm loạn tánh.

TÁM, Em nên phò loan đặng Qua truyền tin TRANG cho Em hiểu. Khi nãy, Qua thấy em có khách nhiều thì phải, thôi Qua đi.

Thăng.

(GHI CHÚ: TRANG: Ông Lê Bá Trang. Ðức Quyền Giáo Tông gọi Ðức Hộ Pháp là Em TÁM vì Ðức Hộ Pháp thứ tám)

Ðàn cơ tại Hộ Pháp Ðường ngày 17-10-Bính Tý (dl 30-11-1936), phò loan: Ðức Hộ Pháp và Cao Tiếp Ðạo. Ðức Quyền Giáo Tông giáng cơ nói về chơn linh của ông Trang và ông Tương:

THƯỢNG TRUNG NHỰT

. . . . . . . . . . . . . . . . .

TRANG khóc quá bây ơi! Vừa hiểu hiểu chớ còn khi tỉnh khi say, nhưng Qua theo bên mình ủng hộ, không sao phòng ngại.

Em TÁM làm ơn nói với con Hai cho nó biết, kẻo lo rầu tội nghiệp.

Hộ Pháp bạch: - Biết nó nghe không?

- Em cứ nói giùm. Cha chả! Va oán Em đánh va hôm nọ lắm. Qua an ủi mà hễ tỉnh thì cằn rằn hoài. Em nên viết cho va một cái thơ an ủi, cậy Qua đưa giùm đặng Qua thừa dịp thức tánh va một chút. Em làm ơn giùm.

- . . . . . . . . . . . . . . .

- Ôi! Thây kệ, đừng giận làm gì nữa. Nếu Em thấy va lúc nầy thế nào Em cũng tội nghiệp. Em làm phước làm giùm cái tháp cho va, hễ tỉnh thì hỏi có bao nhiêu đó hơn hết.

Ôi! TƯƠNG là cục nợ báo đời của TRANG, do căn kiếp phải vậy, dầu khi chết cũng còn theo báo hại.

Em biết TƯƠNG là ai chăng?

Ðứa nào nói trúng, Qua thưởng một củ mì.

Qua nói nhỏ: NGÔ TÔN QUỜN đó biết không?... ...

5. Ông Nguyễn Bửu Tài phái Tiên Thiên:

Ông Nguyễn Bửu Tài sanh năm 1882 tại làng Chẹt Sậy, sau đổi tên là làng Phú Hưng, tỉnh Bến Tre. Ngài theo tân học nhưng cũng rất giỏi Hán học, làm giáo viên tại Bến Tre, được thăng lên Thanh Tra Tiểu Học, sau bị đổi lên Biên Hòa.

Năm 1926, ông Nguyễn Bửu Tài lập một phái tu đơn tại Chẹt Sậy, Tịnh Thất được đặt tên là Tây Tông Vô Cực Cung.

Năm 1941, ông có liên lạc với Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể ở Nhựt, nên bị Pháp bắt đày đi Côn Ðảo 5 năm.

Ngày 25-8-1945, Chánh phủ Trần Trọng Kim ân xá, ông Tài được trả tự do, ông trở về quê nhà tiếp tục tu đơn.

Sau đó ông gia nhập phái Tiên Thiên, được cơ bút phái Tiên Thiên phong ông vào hàng Thất Thánh, sau được phong Thượng Ðầu Sư, trở thành Chức sắc lãnh đạo phái Tiên Thiên.

Một số lớn Chức sắc cao cấp của phái Tiên Thiên nhập qua các phong trào Thống Nhứt Chi phái, làm cho phái Tiên Thiên suy yếu. Do đó, ông Nguyễn Bửu Tài cùng một số Chức sắc Tiên Thiên cấp dưới qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, được Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ chấp thuận trong đàn cơ đêm 1-3-Mậu Tý (dl 9-4-1948), và Ðức Hộ Pháp ra Thánh Lịnh số 535 ngày 4-6-Kỷ Sửu (dl 29-6-1949) để thi hành quyết định của Ðức Lý Giáo Tông.

Ngày 27-5-Canh Dần (dl 11-7-1950), theo lời dạy của Ðức Lý Giáo Tông đêm 3-1-Canh Dần, Ðức Phạm Hộ Pháp ký Thánh Lịnh số 302, chư Chức sắc phái Tiên Thiên có danh sách trong Thông qui ngày 30-10-Kỷ Sửu, đã đệ trình lên Ðức Lý Giáo Tông xem xét, được Ðức Lý tạm phong vào hàng Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh, sụt bớt một cấp, như sau đây:

1.    Phối Sư Thượng Tài Thanh (Nguyễn Bửu Tài)

2.    Phối Sư Thượng Hiền Thanh (Phan Lương Hiền)

3.    Giáo Sư Ngọc Thiệu Thanh (Phan Lương Thiệu)

4.    Giáo Sư Ngọc Dừng Thanh (Ðinh Văn Dừng)

5.    Giáo Sư Thượng Tấu Thanh (Trần Văn Tấu)

Phần tiếp theo là danh sách 26 Giáo Hữu và 35 Lễ Sanh.

Tổng cộng: 66 vị Chức sắc, không ai là Ðạo hữu cả.

Ngày 23-12-Canh Dần (dl 30-1-1951) Ðức Phạm Hộ Pháp lại ký Thánh Lịnh phong thêm 5 vị Giáo Sư, 3 Giáo Hữu và 17 Lễ Sanh.

Cả thảy Chức sắc phái Tiên Thiên được Ðức Lý Giáo Tông tạm phong do cơ bút tại Tòa Thánh Tây Ninh, phải hành sự tùng quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Chủ trưởng Chức sắc.

Giữa năm 1951, ông Nguyễn Ngọc Tương Giáo Tông phái Bến Tre qui liễu tại Thánh Thất An Hội Bến Tre.

Sau đó, ông Nguyễn Bửu Tài và số Chức sắc Tiên Thiên đã qui hiệp về TTTN trước đây, âm thầm tự ý rút lui khỏi Tây Ninh, trở về Sóc Sãi tỉnh Bến Tre tái lập phái Tiên Thiên, lập Tòa Thánh Châu Minh và Hội Thánh Tiên Thiên.

Ngày 13-8-1955, cơ bút phái Tiên Thiên phong ông Nguyễn Bửu Tài lên chức Thượng Chưởng Pháp.

Ngày 9-1-1957, ông Nguyễn Bửu Tài được tấn phong Quyền Giáo Tông phái Tiên Thiên.

Ngày 9-1-1958, tức là đúng 1 năm sau, cơ bút phong ông Nguyễn Bửu Tài lên chức Giáo Tông chánh vị phái Tiên Thiên.

Ngày 21-9-Mậu Tuất (dl 1-11-1958), ông Nguyễn Bửu Tài qui liễu, bửu tháp của được xây tại Tòa Thánh Châu Minh ở Sóc Sãi, Bến Tre.

Vậy ở Bến Tre, trước sau có hai vị Giáo Tông Chi phái: Nguyễn Ngọc Tương và Nguyễn Bửu Tài.

 

CUỘC THỬ CƠ của PHÁI TIÊN THIÊN:

 

Phò loan:

 LS Nhung - Hưởng.

Thừa Sử Nguyễn Văn Kiết.

Hầu đàn:

Chức sắc CTÐ, HTÐ,

Sĩ quan cao cấp, Chức sắc Tiên Thiên và đồng tử.

Thanh Trước Ðàn,

Tiền Phong Hội Quán, ngã 5,

Tòa Thánh TN, lúc 21g30

Ðêm 4-2-Tân Mão (11-3-51).

LÝ GIÁO TÔNG

Chào con cái Chí Tôn.

Thượng Tài Thanh, Hiền hữu có biết chăng Ðạo Thầy có một.

Khai Pháp Hiền hữu chấp bút nhang đuổi nó đi, vì đây trước mặt Lão lại còn cho Thần Cái trụ.

Thượng Tài Thanh, hỏi một Hội Thánh có mấy Ðài Hiệp Thiên và mấy Ðài Cửu Trùng?

Chính tay Lão đã lập Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8, có đâu Lão lại phá luật; còn Ðài Hiệp Thiên do Hộ Pháp nắm giữ, có đâu Lão lại quá quyền phạm pháp, phong tước Chưởng quản HTÐ, Hiền hữu vốn biết Lão đương quyền Giáo Tông đó chớ?

Cơ chia phe phân phái cũng do đó có phải?

Nè Lão cho hay rằng: Hội Nhơn Sanh sắp đến đó, thử hỏi Chức sắc và tín đồ về đặng bao nhiêu?

Hiền hữu khá nhớ rằng: được phẩm thì dễ, chớ ngồi yên khó lắm, sự không qui thuận của Chức sắc và tín đồ Tiên Thiên là lỗi nơi Hiền hữu, chớ không phải nơi họ. Từ đây, Hiền hữu cứ ra nghiêm lịnh coi. Nên nhớ rằng: với tình thì Lão dung thứ được, chớ về luật pháp e khó dung tha được.

Cao Sĩ Tấn! Lão biết Hiền hữu có ý bất mãn, nhưng Lão khuyên Hiền hữu khá suy nghĩ sẽ thấy rõ đường đi.

Ðức Chí Tôn khai Ðạo chẳng bó buộc một ai hết thảy, nếu ngoan là con của Thầy, còn dại thì mặc tình quỉ dẫn.

Những cặp đồng tử của Hiền hữu, tuy vốn xuất thần, nhưng bị hồi điển do bổn thân. Hiền hữu khá đem họ nhờ sự trau luyện của HTÐ Chức sắc thì sẽ được ứng dụng ngày sau. Hiền hữu thử hỏi lại chúng nó coi: trước đêm mùng 4 vừa qua nó có suy nghĩ gì chăng?

Thượng Tài Thanh, Hiền hữu hiểu lời Lão rồi chớ?

Bảo Thế, Khai Pháp, Tiếp Ðạo, sáng ngày mai phải xuống Trí Huệ Cung tường thuật cặn kẽ cho Hộ Pháp nghe.

Còn hai em Hưởng và Nhung, Lão khen đó, hai em đã giúp Lão chỉnh đốn CTÐ nhiều lắm đó, Lão mang ơn nơi cõi Hư linh, còn hữu hình Lão chẳng có quyền. Thăng.

Tái cầu: Lúc 23 giờ.

THƯỢNG TRUNG NHỰT

Qua chào mấy em. Cười . . . . . .

Ông Già nộ khí dữ quá ta! Lúc nãy đồng tử của họ có một người tà tâm nên Ổng đánh nó đó.

Bạch: . . . . . . . . . . .

- Không sao, tuy vậy chớ Thượng Tài Thanh và Cao Sĩ Tấn biết suy nghĩ lắm, họ bị quá mê tín mà nên nông nỗi.

Cười . . . Coi chừng đồng tử bị đánh, bịnh ta ơi!

Tội nghiệp, không phải tự họ muốn lên giả, nhưng tại Thần trược mà bị hồi điển. Những người đồng tử họ bất bình, họ nói mình xúm nhau mà làm ngưng nghề họ, chớ không phải là Ðức Lý. Cười .... Mặc dầu lúc nãy, Ông Già đã nói trước rồi.

Còn KHOA thì coi hình như đeo muốn rớt.

Em Trung Dõng nên gần gũi dẫn dụ họ, nếu họ có ức thì xin với Ðức Hộ Pháp, Ðức Hộ Pháp phò loan tại Trí Huệ Cung một lần nữa, nhưng không cho đồng tử theo vì có hại cho họ.

Cười . . . Cần cơ gãy . . . Cười . . .

Anh nói thiệt, nếu cơ không gãy thì e cho họ phát điên rồi mà chớ. Ðó cũng may cho họ vì đầu cơ không có điển, hành pháp không xuất được. Thôi cũng yên một phần, em Trung Dõng cười đi em.

Thăng.

(KHOA: Ngài Hồ Tấn Khoa, lúc đó chưa được phong chức Bảo Ðạo. TRUNG DÕNG: hiệu của Trung Tướng Nguyễn Văn Thành).

6. Nhóm Tịch Cốc tập bay:

Trong quyển Tây Ninh xưa và nay của Huỳnh Minh, soạn giả có thuật lại việc Nhóm Tịch Cốc lén lên ngồi 7 cái ngai trong Tòa Thánh, rồi sau đó lại tập bay theo lời kể của ông Huỳnh Hữu Lộc, cựu Tổng Thơ Ký Hội Ðồng tỉnh Tây Ninh.

Năm 1936, lúc bấy giờ, tôi (Huỳnh Hữu Lộc) còn trong hạng tuổi thiếu thời. Tôi về TTTN làm công quả, nơi đó tôi được biết câu chuyện chiếm 7 ngai xảy ra như sau:

Một buổi trưa sau giờ cúng Ngọ tại Bửu điện TòaThánh, các Chức sắc, Chức việc và đồng nhi đã về phòng nghỉ. Lúc bấy giờ chỉ có một vị Tuần quân ở lại canh gác Bửu điện mà thôi. Vị Tuần quân đó là anh Nghiêm. Thình lình anh Nghiêm nghe tiếng động rất to trong Bửu điện, anh Nghiêm chạy vào coi thì thấy một số người, lối 7 người, mặc áo màu dà, đầu trọc, tay cầm chuỗi bồ đề, đang xô các cốt Phật, Tiên, Thánh, Thần ngã rớt rầm rầm xuống đất.

Lúc đó, anh Nghiêm hoảng hốt tri hô lên, bổn đạo quanh đó chạy đến, thấy 7 cái ngai đều bị các vị Tả đạo ấy chiếm ngồi hết cả. Nên biết, Ðền thờ Ðức Chí Tôn có 7 cái ngai dành riêng cho 7 vị: 1 cho Ðức Giáo Tông, 3 cho 3 vị Chưởng Pháp, 3 cho 3 vị Ðầu Sư, nhưng đó chỉ là tượng trưng thôi, chớ chưa có ai dám lên đó ngồi. Các tu sĩ Tả đạo ấy lẻn vào Bửu điện làm việc đại náo. Ngoài số 7 vị chiếm 7 cái ngai trong Bửu điện, còn một vị khác ra trước Tòa Thánh chiếm con ngựa của Ðức Phật Tổ đang cỡi, vị nầy lên lưng ngựa và ra roi thúc ngựa.

Nên nói thêm, ngôi Bửu điện lúc đó bằng cây lợp ngói, các cửa đơn sơ không được chắc chắn như hiện nay, do đó các vị Tả đạo mới lẻn vào được dễ dàng.

Cũng nên nói thêm là các đạo sĩ ấy không có ăn cơm, chỉ ăn trái cây, rau hoặc bánh mà thôi, nên có người gọi là đạo Tuyệt Cốc.

Thật ra thì các vị ở non động cả, có nhiều vị chơn tu cũng tuyệt cốc. Vậy chúng tôi đề nghị gọi nhóm người nầy là gian đạo sĩ hoặc là nhóm Tả đạo. Các vị nầy có nhiều lần cho biết xâu chuỗi bồ đề của họ đã luyện thành bảo vật, đánh người và cả cây hay đá cũng đều tan ra tro bụi, còn nếu chỉ vào ngựa ván (ngày xưa gọi divan là bộ ngựa) thì ngựa ván bay lên cao.

Vì lẽ bổn đạo kiêng sợ bảo vật chuỗi bồ đề nên chưa ai dám xông vào kéo các vị Tả đạo xuống khỏi ghế.

Sau đó có một vị bổn đạo thử xông vào kéo vị chiếm ngai Giáo Tông xuống, và cuộc níu kéo ẩu đả bắt đầu, các xâu chuỗi được tung ra. Nhiều bổn đạo đứng bên ngoài thấy chuỗi phép không làm tan đối thủ ra tro bụi thì vững lòng nhào vô trợ chiến, xua đuổi nhóm người Tả đạo ra khỏi Chánh điện.

Cũng trong thời gian nầy, một vị Ðạo hữu hương khói tại Quan Âm Các (Quan Âm Các lúc bấy giờ ở tại Ngã tư gần nhà Ngài Chưởng Ấn Hợi bây giờ), chạy vô báo cho Hội Thánh hay có hai Nữ gian đạo sĩ lên lầu, nơi thờ Phật Bà Quan Âm, xô cốt Bà xuống và leo lên bàn thờ ngồi tự xưng mình là Phật Quan Âm giáng thế.

Bổn đạo nghe vậy chạy ra leo lên lầu xua đuổi hai Nữ Tả đạo. Lại một phen chuỗi phép được tung ra, chuỗi chẳng hại được ai cả, chỉ trì kéo làm đứt dây, hột chuỗi rơi đổ tứ tung.

Bị xô té xuống đất, hai Nữ Tả đạo cứ nằm vạ tại đó rất lâu, bổn đạo thấy vậy ra về, nhưng vẫn để ý xem động tịnh ra sao. Một lúc lâu thấy vắng người, hai Nữ Tả đạo đứng dậy đi theo đường Phước Ðức Cù về xóm Sân Cu.

Thu dọn chiến trường: Bổn đạo dựng các cốt Phật dậy và quét dọn, lượm được cả tô chuỗi hạt bồ đề của các nam nữ gian đạo sĩ bỏ rơi rớt lại.

Vào năm Mậu Dần (1938), nhóm gian đạo sĩ Tả đạo Bàng môn hành động ngông cuồng phá rối nhiều nơi. Lúc đó nhóm Tả đạo ở vùng Sân Cu (xã Long Thành) và vùng Sơn Ðình (chơn núi Bà Ðen) là đông hơn hết.

Nếu tôi nhớ không lầm thì vào lúc 15 giờ ngày 14 tháng Giêng năm Mậu Dần (1938), có một gian đạo sĩ đầu trọc, trang phục áo màu dà, tay cầm tấm bảng có viết chữ sẵn, đem cắm tại Cửa số 1 Tòa Thánh .

Lúc bấy giờ Cửa nầy tuy làm bằng gạch nhưng thô sơ, không phải kiến trúc như ngày nay, trên bảng có 4 câu kệ, đại ý nói 24 giờ khuya đêm 14 rạng rằm tháng Giêng sẽ có Ðế vương xuất thế.

Ông đạo đọc bài kệ 3 lần, đánh 3 hồi cồng, rồi đi về hướng sân bay, nơi nầy hiện là đồng ruộng lúa sau Tòa Thánh. Sân bay nầy của người Pháp lập ra, nhưng rất ít khi máy bay đáp xuống, vì vậy cỏ mọc rất nhiều, nhứt là loại cỏ cần câu.

Ngày 14 tháng Giêng nói trên, tại sân bay qui tụ hằng trăm vị nam nữ Tả đạo để làm lễ mừng Ðế vương xuất thế.

Tại đây, họ cất một lễ đài 9 từng cao độ 40 thước. Ðài cất bằng cây, hai bên đài là hai dãy nhà lá, mỗi dãy độ 5 hay 6 căn, phân ra Nam tả Nữ hữu, dưới chơn đài, họ cho đổ hằng trăm xe rơm để họ tập bay.

Mỗi người sắm một cặp cánh bằng cây và giấy bạch, cánh giống như cánh chim, to cở bằng cái sàng gạo.

Khi muốn bay, họ đút hai cán cánh vào hai ống tre cột sẵn hai bên hông người, và từ trên đài cao, họ phóng mình ra, hai tay nắm hai cánh mà quạt nhanh.

Kết quả 1: Họ không bay được đến đâu cả. Bay làm sao được khi khối thịt nặng 50, 60 ký mà hai cánh thì mỏng manh và dầu cho có quạt nhanh đến đâu cũng không đủ tốc độ để cất mình lên nổi. Rốt cuộc họ bị rơi xuống đống rơm dưới chơn đài, nhờ có rơm xốp nên không bị hại chi về nhơn mạng.

Kết quả 2: Ðế vương xuất hiện đâu chẳng thấy, chỉ thấy lúc 22 giờ, có 3 xe cam nhông lính mã tà chỉ huy bởi một viên đội Pháp đến bao vây sân bay, bắt hết tất cả nam nữ đạo sĩ Tả đạo Bàng môn.

Kết quả 3: Nhà binh Pháp phóng hỏa đốt cả hai dãy nhà, đài bay, luôn 100 xe rơm, ánh lửa sáng rực một góc Trời.

Không biết, chánh quyền Pháp đối xử với nhóm Tả đạo ấy ra sao, mà từ đó ở Tây Ninh không còn thấy họ xuất hiện nữa.

7. Ông Cao Triều Phát, phái Minh Chơn Ðạo:

Ông Cao Triều Phát, tự là Thuận Ðạt, sanh ngày 18-3-Kỷ Sửu (dl 17-4-1889) tại Vĩnh Hinh, làng Vĩnh Lợi, tổng Thạnh Hưng, tỉnh Bạc Liêu. Thân phụ là Cao Minh Thạnh và Thân mẫu là Tào Thị Xúc. Gia đình có 8 anh em: 6 trai và 2 gái, ông Phát thứ 5 và thứ út là Cô Cao Thị Khiết, Cửu Nương DTC.

1910, ông Cao Triều Phát tốt nghiệp Trung học.

1912, học xong hai lớp luật do Tòa Án Sàigòn tổ chức, làm thơ ký phiên dịch tại Tòa Án Bạc Liêu.

1914, đi Pháp làm thông ngôn cho toán lính thợ VN.

1922, trở về VN, hoạt động chánh trị, viết cho tờ báo La Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ).

12-11-1926, ông Phát được bầu làm Ðảng trưởng đảng Ðông Dương Lao động, cơ quan ngôn luận của đảng là Nhựt Tân báo.

1930, đắc cử Hội Ðồng Quản Hạt Nam Kỳ.

1932, ông Cao Triều Phát gia nhập phái Minh Chơn Lý.

1939, thành lập Ðoàn Thanh niên Ðạo đức.

15-5-Ất Dậu (dl 24-6-1945), đại hội tại Tam Giáo điện của chi Minh Tân (221 Bến Vân Ðồn Sàigòn) thành lập Cao Ðài Hiệp Nhứt 11 Phái (không có TTTN), ông Phát được bầu làm Chủ tịch.

1941, Tỉnh Ủy Viên Bạc Liêu là Tào Văn Tỵ vận động ông Cao Triều Phát gia nhập Mặt Trận Việt Minh, làm Phó Chủ tịch Ủy Ban Giải phóng dân tộc tỉnh Bạc Liêu.

1945, làm Chủ tịch Ủy Ban giải phóng dân tộc Bạc Liêu.

23-9-1945, quân viễn chinh Pháp trở lại đánh chiếm Sài Gòn. Ðầu năm 1946, quân Pháp chiếm Bạc Liêu, ông Cao Triều Phát rút về Giồng Bướm huyện Giá Rai, lập chiến khu kháng chiến cứu quốc. Tại đây có Tòa Thánh Ngọc Minh của Minh Chơn Ðạo được dùng làm trụ sở Trung ương của Kháng chiến.

15-4-1946, Pháp đem đại quân cùng phi cơ ném bom đánh Giồng Bướm, Tòa Thánh Ngọc Minh bị trúng bom sụp đổ, Cao Triều Phát rút binh về Cái Nước. Khu Bộ trưởng Chiến khu 9 là Vũ Ðức (tức Hoàng Ðình Giong) mời ông Phát về Bộ Chỉ Huy Chiến khu 9.

1948, Hồ Chủ tịch ở Bắc gởi thư khen ngợi ông Cao Triều Phát, đồng thời tặng ảnh và áo để kỷ niệm.

Tháng 12-1946, thành lập Kỳ Bộ Việt Minh Nam Bộ tại chiến khu Ðồng Tháp Mười, do Hà Huy Giáp làm Chủ nhiệm, Cao Triều Phát được bầu làm Chủ nhiệm danh dự Kỳ Bộ.

15-2-1948, tại căn cứ Việt Bắc, Hồ Chủ tịch ký Sắc lịnh số 132/SL cử ông Cao Triều Phát và Nguyễn Bá Sang làm Cố Vấn Ủy Ban Kháng chiến Hành Chánh Nam Bộ.

14-10-1947, ông Cao Triều Phát trên cương vị Chủ tịch Cao Ðài 11 Phái Hiệp Nhứt triệu tập hội nghị đại biểu các Chi phái tại Ðồng Tháp Mười để thành lập Hội Cao Ðài Cứu Quốc 12 phái Hợp Nhứt, với Ban Chấp hành gồm:

·         Chủ tịch: Cao Triều Phát (phái Minh Chơn Ðạo).

·         Hai Phó Chủ tịch:
- Nguyễn Ngọc Nhựt (Ban Chỉnh đạo)
- Nguyễn Văn Khảm (phái Tiên Thiên).

·         Tổng Thơ Ký: Phạm Thị Tư (Vạn Quốc Tự)

·         Ủy Viên Tài Chánh kiêm Thủ Quĩ: Trần Ðại Khái (phái Tây Ninh trung thành).

·         Ủy Viên Truyền Tin và Giao Thông: Hoàng Minh Viễn (phái Tây Ninh trung thành).

Chủ nhiệm Kỳ Bộ Việt Minh Nam Bộ Hà Huy Giáp tuyên bố thừa nhận Hội Cao Ðài Cứu Quốc là một tổ chức của Kỳ Bộ.

Hội Cao Ðài Cứu Quốc 12 phái Hợp Nhứt thành lập Hội Thánh Duy Nhứt, gồm HTÐ, CTÐ và Cửu Viện.

·         HTÐ gồm 3 vị do quyền Thượng phẩm Cao Huệ Chương (phái Tây Ninh trung thành) làm chưởng quản.

·         CTÐ gồm 3 vị do Phối Sư Nguyễn Văn Năm (Minh Chơn Lý) làm chưởng quản.

·         Cửu Viện gồm 9 vị, mỗi vị coi một viện.

Hội Cao Ðài Cứu Quốc thành lập thêm 2 đoàn thể: - Thanh niên Cao Ðài Cứu quốc, - Phụ nữ Cao Ðài Cứu quốc.

19-10-1948, Ðại Hội Nhơn Sanh Hội Thánh Duy Nhứt bầu hai vị chưởng quản hai Ðài:

·         Thái Chưởng Pháp Cao Triều Phát (Minh Chơn Ðạo) làm quyền Chưởng quản Cửu Trùng Ðài.

·         Tiếp Ðạo Phạm Hồng Tiên (Ban Chỉnh Ðạo) làm quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài.

Hiệp định Genève ký kết ngày 21-7-1954, VN tạm phân hai miền Nam Bắc, Cà Mau là một trong những khu vực tập trung cán bộ và bộ đội trong 200 ngày trước khi xuống tàu tập kết ra Bắc.

Ông Cao Triều Phát triệu tập Hội Thánh Duy Nhứt và Hội Cao Ðài Cứu Quốc tại Cà Mau để sắp đặt lại tổ chức:

- Giải thể Hội Thánh Duy Nhứt để các Chi phái tái lập Hội Thánh riêng của phái mình.

- Một số Chức sắc sẽ tập kết ra Bắc, gồm:

·         Chưởng quản Cao Triều Phát.

·         Ðầu Sư Nguyễn Hiền Ngô.

·         Phối Sư Nguyễn Văn Khoan

·         Giáo Sư Nguyễn Văn Khảm.

·         Ông Hoàng Minh Viễn, v.v...

Tết Ất Mùi (dl 24-1-1955), tại Thánh Thất Hà Nội (48 phố Hòa Mã, khu phố Hai Bà Trưng) làm lễ ra mắt Hội Thánh Cao Ðài tại Hà Nội mà đứng đầu là Giáo Tông Cao Triều Phát, có đại diện chánh quyền và Mặt trận Liên Việt đến dự.

8-9-1956, ông Cao Triều Phát mất tại Bệnh Viện B303 Hà Nội lúc 2 giờ chiều. Chánh phủ tổ chức lễ tang rất long trọng, thi hài được an táng tại nghĩa trang Nam Kỳ (số 32 đường Nguyễn Công Trứ, Hà Nội).

1983, gia đình bốc mộ, hỏa táng, đem tro hài cốt về Sài Gòn, thờ tại tư gia số 4 đường Ðặng Tất, phường Tân định, Quận 1.

21-5-2000, tiểu sành đựng hài cốt của ông Cao Triều Phát được đưa lên đặt tại Phòng số 2 của Nhà Lưu hài cốt tại nghĩa trang Thành phố. (Viết theo quyển: Cao Triều Phát, Nghĩa khí Nam bộ, của Phan Văn Hoàng, nhà xuất bản Trẻ)

8. Ông Huệ Lương Trần Văn Quế (CQPTGL):

Ông Trần Văn Quế, đạo hiệu Huệ Lương, sanh ngày 7-4-Nhâm Dần (dl 1-11-1902) tại làng Phước long, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa, Thân phụ là Trần Văn Ðược và thân mẫu là Nguyễn Thị Là. Thuở nhỏ, học chữ hán với đông y sĩ Trương Văn Thuần. Khi ông Thuần mất thì chuyển qua học quốc ngữ và tiếng Pháp tại trường Tổng Phước long.

1919, đậu bằng Tiểu học Pháp-Việt, rồi thi đậu vào trường Sư Phạm Sài Gòn.

1923, tốt nghiệp trường Sư Phạm, đậu luôn bằng Thành Chung và bằng Trung học Pháp quốc.

1925, đậu bằng Tú Tài bổn quốc, trúng tuyển vào trường Cao đẳng Sư phạm Ðông dương tại Hà Nội ban Toán Lý Hóa.

1928, tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, được bổ về trường Pétrus Ký, và dạy học tại đây trong 16 năm liền.

15-7-Kỷ Tỵ (dl 19-8-1929), nhập môn vào Ðạo Cao Ðài tại Thánh Thất Phú Hội ở quê nhà, thường đến sanh hoạt đạo sự ở Thánh Thất Cầu Kho Sài Gòn.

1930, lên hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh, được Ơn Trên phong phẩm Giáo Hữu, được cử vào Hội đồng Nghị sự do Ngài Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh chủ tọa.

1933, hợp với ông Nguyễn Văn Kiên lập Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn tại Thánh Thất Cầu Kho, ông Kiên làm chủ tịch, ông Quế làm Tổng Thơ Ký. Sau 1 năm làm việc không đem lại kết quả.

1934, tại Trước Lý Minh Ðài thành lập Liên Hòa Tổng Hội với nhiệm vụ tổ chức 12 kỳ Long Vân Hội để vận động thống nhứt các chi phái, ông Nguyễn Phan Long làm Hội trưởng, ông Quế làm Tổng Thơ Ký.

1943, tham gia Liên Ðoàn Ái Quốc hội tranh thủ độc lập cho VN, bị Pháp bắt, kết án 20 năm lưu đày nơi Côn đảo.

1945, Chánh phủ Trần Trọng Kim ân xá, ông Quế trở về Sài Gòn, sau đó hoạt động trở lại, làm Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành Chánh tỉnh Biên Hòa, chủ tịch là ông Hoàng Minh Châu.

1949, ông Quế lên Tòa Thánh Tây Ninh, chiêu dụ đạo tâm tại Chiêu Hiền Viện, được Ðức Phạm Hộ Pháp phong chức Khâm Sai Bắc Tông Ðạo, đại diện Tòa Thánh Tây Ninh đi mở đạo tại Bắc Hà.

1952, trở về Sài Gòn, hợp tác với quí ông Phan Khắc Sửu và Nguyễn Bửu Tài, lập cơ quan Cao Ðài Qui Nhứt tại Tam Giáo điện Minh Tân, nối tiếp công cuộc vận động liên hòa Chi phái.

1953, ông Quế được mời giữ chức: Hội Trưởng Cơ quan Truyền giáo Cao Ðài.

1955,tháng 8, ông Quế hướng dẫn Phái đoàn Cơ quan Truyền giáo Cao Ðài đi dự Hội nghị Quốc tế Tôn giáo tại Kyoto Nhựt bổn.

1-6-Bính Thân (1956), cơ đạo Trung Việt khánh thành Trung Hưng Bửu Tòa tại Ðà Nẳng, nâng Cơ quan Truyền giáo lên thành Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt, ông Quế được Ơn Trên ân ban phẩm Ngọc Phối Sư, làm Chủ trưởng Hội Thánh.

1962, tại Minh Tân, ông Quế và ông Chơn Tâm được Ðức Lý chỉ định làm Ðệ nhứt và Ðệ nhị Phó ban Phổ Thông Giáo Lý liên quan hành đạo, mà chính Ðức Lý làm Trưởng ban.

1965, Ơn Trên giao cho ông Quế lèo lái Cơ quan Phổ thông Giáo lý Cao Ðài giáo VN trong nhiệm vụ: Tổng Lý Minh Ðạo.

1973, tại Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt, Phối Sư Ngọc Quế Thanh được Ðức Lý thăng lên Chánh Phối Sư.

14-10-Canh Thân (dl 21-11-1980), ông Huệ Lương Trần Văn Quế qui vị, được an táng tại nghĩa trang của Thánh Thất Trung Minh thuộc Hội Thánh Truyền giáo Trung Việt.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

CQPT: Cơ Quan Phước Thiện.

ÐÐTKPÐ: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

TTTN: Tòa Thánh Tây Ninh.

CKVT: Càn Khôn Vũ Trụ.

 

CHÍ

CHÍ

1.    CHÍ: Rất, lắm, tột bực.
Td: Chí công, Chí linh.

2.    CHÍ: Cái ý muốn mạnh mẽ bền bỉ hướng dẫn hành động để đạt mục đích.
Td: Chí sĩ, Chí tâm.

 

Chí chơn

至眞

A: Honest truth.

P: La honnête vérité.

Chí: Rất, lắm, tột bực. Chơn: thật.

Chí chơn là rất chơn thật.

PMCK: Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn.

PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

 

Chí công

至公

A: Absolute justice.

P: La justice absolue.

Chí: Rất, lắm, tột bực. Công: công bình.

Chí công là rất công bình, tức là cái công bình tuyệt đối.

Cái công bình nầy không có nơi cõi phàm, vì tất cả mọi thứ ở cõi nầy đều tương đối. Chỉ có Ðức Chí Tôn Thượng Ðế mới có được cái công bình tuyệt đối nầy. Do đó, Chí Công dùng để chỉ Ðức Chí Tôn.

PMCK: Chí Công định vị vĩnh tồn Thiên cung.

PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

 

Chí cực chí tôn

至極至尊

A: Very venerable.

P: Très vénérable.

Chí: Rất, lắm, tột bực. Cực: cái đầu cùng. Tôn: kính trọng.

Chí cực chí tôn là cao tột bực và được kính trọng tột bực.

Ðây là một câu kinh trong bài Kinh Tiên giáo, tán tụng công đức của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân, là Ðấng lớn nhứt, được tôn kính nhứt trong Ðạo Tiên.

 

Chí đức

至德

A: Highest virtue.

P: La grande vertu.

Chí: Rất, lắm, tột bực. Ðức: đạo đức.

Chí đức là lòng đạo đức cao cả.

TNHT: Tòa Tam Giáo đã xin ngưng phổ độ nơi đây nhiều lần, song Thầy thấy lòng chí đức của các con mà chẳng nỡ.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chí linh

至靈

A: Very sacred.

P: Très sacré.

Chí: Rất, lắm, tột bực. Linh: thiêng liêng.

Chí linh là rất thiêng liêng.

Ðấng Chí linh là chỉ Ðức Chí Tôn.

KGO: Cứ nương bóng Chí Linh soi bước.

KGO: Kinh Giải Oan.

 

Chí phàm

志凡

A: Profane will.

P: La volonté profane.

Chí: Cái ý muốn mạnh mẽ bền bỉ hướng dẫn hành động để đạt mục đích. Phàm: thấp kém, chỉ con người nơi cõi trần.

Chí phàm là cái ý chí thấp kém của người phàm.

TNHT: Nền Ðạo cao thâm là mấy, chí phàm không thấu lý cao sâu.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chí sĩ

志士

A: Man of will.

P: Homme de volonté.

Chí: Cái ý muốn mạnh mẽ bền bỉ hướng dẫn hành động để đạt mục đích. Sĩ: người trí thức.

Chí sĩ là người trí thức có ý chí cao cả.

TNHT: Nhưng cái khó mình lướt qua đặng mới có công, mới anh hùng, mới chí sĩ, mới đáng đạo sĩ.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chí tâm qui mạng lễ

志心皈命禮

Chí: Cái ý muốn mạnh mẽ bền bỉ hướng dẫn hành động để đạt mục đích. Tâm: lòng. Qui: đem mình về nương theo. Mạng: mệnh lệnh. Lễ: cúng lạy.

Chí tâm qui mạng lễ là cúng lạy với tất cả ý chí và tấm lòng, đem mình về vâng chịu nương theo.

Ngọc Hoàng Thượng Ðế chí tâm qui mạng lễ: Cúng lạy Ðức Chí Tôn với tất cả ý chí và lòng thành, đem mình về vâng chịu nghe theo Ðức Chí Tôn.

 

Chí thành

至誠

A: Very sincere.

P: Très sincère.

Chí: Rất, lắm, tột bực. Thành: thật.

Chí thành là lòng rất thành thật.

TNHT: Còn chí thành, là mỗi việc lấy lòng thành thật mà đối đãi trong đời và trong Ðạo. Dù kẻ phú quí đến bực nào đi nữa mà không có lòng bác ái và chí thành thì không làm chi nên việc.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chí thiện

至善

A: Perfect.

P: Parfait.

Chí: Rất, lắm, tột bực. Thiện: lành.

Chí thiện là rất lành, rất tốt.

Chí Thiện còn là một phẩm Chức sắc của CQPT, trên phẩm Giáo Thiện, dưới Ðạo Nhơn, đối phẩm Giáo Hữu CTÐ.

Ðạo phục của Chí Thiện: Khi đi chầu lễ Ðức Chí Tôn tại Tòa Thánh hay Thánh Thất, Chí Thiện mặc áo tràng trắng, choàng qua vai một Dây Sắc lịnh màu xanh, bỏ mối qua phía hông mặt (thể Ðạo), trên Dây Sắc lịnh có gắn Khuê bài theo hàng phẩm Chí Thiện, đầu đội khăn đóng đen 7 lớp chữ Nhơn.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

CQPT: Cơ Quan Phước Thiện.

 

Chí Tôn

至尊

A: The Supreme, The Most High.

P: Le Suprême, Le Très Haut.

Chí: Rất, lắm, tột bực. Tôn: kính.

Chí Tôn là kính trọng đến tột bực.

Ðức Chí Tôn hay Ðấng Chí Tôn là Ðấng được tôn kính nhứt trong CKVT, là Ðấng lớn nhứt và cao cả nhứt.

Ðấng ấy là Ngọc Hoàng Thượng Ðế, là vua của Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần, là chủ của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Ngày nay, Ðấng ấy giáng cơ lập ÐÐTKPÐ, lấy danh hiệu là: Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát, gọi tắt là Cao Ðài, dạy đạo đức cho nhơn sanh nước VN, xưng mình là Thầy và gọi các tín đồ là môn đệ.

TNHT: Rất đỗi Thầy là bậc Chí Tôn đây mà còn bị chúng nó mưu lén cho qua Thánh ý Thầy thay....

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

CKVT: Càn Khôn Vũ Trụ.

ÐÐTKPÐ: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

 

CHÍCH

CHÍCH

CHÍCH: Chiếc, chỉ còn một.
Td: Chích cánh, Chích lẻ.

 

Chích cánh

A: To break one wing.

P: Briser une aile.

Chích: Chiếc, chỉ còn một. Cánh: cái cánh của con chim để bay.

Chích cánh là gãy mất một cánh, chỉ còn một cánh.

Ðôi vợ chồng được ví như: chim liền cánh, cây liền cành. Nay một người đã chết thì giống như là chim chích cánh.

TNHT: Chích cánh riêng vui con hạc lánh.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chích lẻ

A: Solitary.

P: Solitaire.

Chích: Chiếc, chỉ còn một. Lẻ: lẻ loi, chỉ có một mình.

Chích lẻ là ý nói vợ chồng mà một người đã chết, chỉ còn lại một người lẻ loi trơ trọi.

TL: Thế Luật: Rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối.

TL: Tân Luật.

 

CHIÊM

Chiêm nghiệm

占驗

A: To experiment.

P: Expérimenter.

Chiêm: xem xét. Nghiệm: có bằng cớ chứng thực.

Chiêm nghiệm là xem xét suy nghĩ để hiểu rõ những điều bí ẩn bên trong bằng sự từng trải và kinh nghiệm.

TNHT: Vậy nên nhớ mấy lời Thầy, chẳng phải đọc sơ qua mà coi làm chơi, cần chiêm nghiệm kỹ lưỡng mà hiểu nghe.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chiêm ngưỡng

瞻仰

A: To contemplate.

P: Contempler.

Chiêm: ngẩng mặt lên trông. Ngưỡng: kính mến.

Chiêm ngưỡng là ngẩng mặt trông lên người trên với lòng kính mến.

 

CHIẾN

Chiến sĩ trận vong

戰士陣亡

A: The war dead on the battle field.

P: Les combattants morts sur le champ de bataille.

Chiến: đánh nhau. Sĩ: người. Trận: cuộc đánh nhau. Vong: chết. Trận vong: chết nơi mặt trận.

Chiến sĩ trận vong là chỉ chung các sĩ quan và binh lính bị chết nơi chiến trường trong lúc hai bên đánh nhau.

Hằng năm, vào các ngày 15 hoặc 16 của tháng giêng, tháng 7, và tháng 10, tại Tòa Thánh và các Thánh Thất đều có tổ chức cúng tế và cầu siêu cho các Chiến sĩ trận vong.

Sau đây là bài Kinh tụng Tế Chiến sĩ Trận vong, do Trung Dõng (bút hiệu của Trung Tướng Nguyễn Văn Thành) đặt ra, có dâng lên Ðức Phạm Hộ Pháp chỉnh văn lại và cho phép đồng nhi tụng trong nghi lễ cúng tế Chiến sĩ Trận vong:

Kinh TẾ CHIẾN SĨ TRẬN VONG

(Giọng Nam ai)

Nợ cung kiếm, chiến chinh là nghiệp,

Giúp quốc dân sánh kịp tha bang.

Xông pha ra chốn chiến tràng,

Ðắng cay cam chịu, gian nan không sờn.

Nguyện lấy sức đền ơn cương thổ,

Dốc lòng lo báo bổ ơn nhà.

Trần hoàn gió bụi xông pha,

Dựng nên tổ nghiệp mấy tòa thiên nhiên.

Gầy việc cả truân chuyên lắm nỗi,

Lướt trận tiền mở lối chông gai.

Ngăn quân là bậc Thiên tài,

Ðỡ nâng quốc thể đến ngày hiển vinh.

Ðạp gió tuyết phận mình cam chịu,

Một kiếp sanh bận bịu giang sơn.

Muôn dân thất quốc căm hờn,

Ðịnh an nước cũ chi sờn lòng trai.

Ách nô lệ ngày nay hầu dứt,

Nước quật cường nhờ sức quốc dân.

Hồn thiêng rày đã tỉnh lần,

Muôn năm chung hưởng hồng ân của Trời.

Cờ Tiến Hóa đời đời chói rạng,

Giữ Nghĩa Nhân rọi sáng đạo mầu.

Bảo Sanh bủa khắp năm châu,

Toàn cầu chung hưởng phép mầu Chí Linh.

Mưu định quốc anh minh trị nước,

Giúp giống nòi bảo được tự do.

Hiển vinh là phước Trời cho,

An nguy vận nước chung lo mối giềng.

Nay nhân quả tiền khiên vừa mãn,

Cõi Hư linh cách biệt trần ai.

Hồn thiêng nương bóng Cao Ðài,

Theo vầng nhựt nguyệt ra ngoài Càn khôn.

Trọng nghĩa bạn, linh hồn nên nhớ,

Trợ cho nhau nâng đỡ nghiệp nhà.

Rượu nồng xin chớ bỏ qua,

Tình thân hưởng cạn mới là tri âm.

Công chinh chiến nay lần tỏ rạng,

Ðuốc từ bi rọi sáng tâm hồn.

Lọc lừa thế giới bôn chôn,

Lần theo đuốc huệ bảo tồn chúng sanh.

Công viên mãn đường mây nhẹ tách,

Lánh bến mê phủi sạch bợn trần.

Sống làm tướng, thác làm Thần,

Hiển linh xin chứng tấm lòng tiết trung.

TRUNG DÕNG

 

CHIẾT

CHIẾT

CHIẾT: Bẻ gãy.
Td: Chiết tự, Chiết trung.

 

Chiết khảm điền ly

(Xem chữ Bát Quái, vần B)

 

Chiết trung

折中

A: To take the middle.

P: Prendre le juste milieu.

Chiết: Bẻ gãy. Trung: ngay giữa.

Chiết trung là thâu nhận các ý kiến, rồi chọn lựa lấy những ý kiến hay và thích hợp để làm thành một ý kiến chung, dung hoà được tất cả ý kiến đóng góp.

 

Chiết tự

折字

A: To decompose the elements of a chinese character.

P: Décomposer les éléments d'un caractère chinois.

Chiết: Bẻ gãy. Tự: chữ, ý nói chữ Nho.

Chiết tự là phân tách một chữ Nho ra làm nhiều thành phần, giải thích ý nghĩa của mỗi thành phần, và sau rốt giải thích ý nghĩa của toàn chữ.

Ðây là điểm đặc biệt của chữ Nho, vì khởi đầu chữ Nho là loại chữ tượng hình.

Thí dụ 1: Giải thích chữ Ðại Ðạo bằng cách chiết tự.

Chữ ÐẠI do chữ Nhơn và chữ Nhứt hiệp lại.

Nhơn là người, viết hai nét tượng trưng Âm Dương. Do đó chữ Ðại là Âm Dương hiệp nhứt, mà Âm Dương hiệp nhứt thì phát khởi Càn Khôn, hóa sanh vạn vật.

Nhơn là người, mà người biết tu luyện đoạt đặng cơ mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn thì đắc nhứt. Nhơn mà đắc nhứt thì vĩnh kiếp trường tồn, diên niên bất hoại.

Ðắc nhứt là gì? nghĩa là đặng một, tức là đặng cái pháp độc nhứt vô nhị, cái pháp huyền vi của Tiên, Phật, khẩu truyền tâm thọ, để cổi xác phi thăng, siêu phàm nhập Thánh.

Có câu:

Thiên đắc nhứt: Thanh.

Ðịa đắc nhứt: Ninh.

Nhơn đắc nhứt: Thành.

 

Trời đặng một, ấy là khinh thanh.

Ðất đặng một, ấy là bền vững.

Người đặng một, ấy là trường tồn.

Chữ ÐẠO:

Viết chữ Ðạo bắt đầu bằng 2 phết tượng trưng Âm Dương, gạch dưới một gạch là chữ Nhứt tượng trưng Âm Dương hiệp nhứt, là cơ sanh hóa CKVT. Kế bên dưới là chữ Tự nghĩa là chính mình, tự tri tự giác, tự giải thoát, chớ không ai làm giùm cho mình được.

Trên và dưới ráp lại thành chữ Thủ nghĩa là đứng đầu, là trên hết, là nguồn gốc của CKVT và vạn vật.

Bên hông có bộ xước tức là chữ Tẩu nghĩa là chạy, tức là vận chuyển biến hóa.

Vậy trong chữ Ðạo có hàm ý Âm Dương, động tịnh, động thì sanh hóa, tịnh thì vô hình vô ảnh.

Và chúng ta cũng thấy rằng, nhứt Âm nhứt Dương chi vị Ðạo. Âm Dương ấy chính là Lưỡng Nghi do Thái Cực hóa thành. Khi Âm Dương hiệp nhứt tức là trở về Thái Cực, vô hình vô ảnh. Nho gia Chu Liêm Khê nói rằng: Vô Cực nhi Thái Cực, nghĩa là: Vô Cực mà Thái Cực vì Thái Cực ở trong Vô Cực mà ra. Vô Cực chính là Ðạo.

Kinh Dịch cũng viết rằng: Nhứt hạp nhứt tịch vị chi biến hóa, vãng lai bất cùng vị chi Ðạo. Một đóng một mở gọi là biến hóa, qua lại không cùng gọi là Ðạo.

Một đóng một mở, đó là máy huyền vi, là nơi xuất sanh nhập tử của muôn loài sanh vật, ấy là Ðạo. Ðạo mầu nhiệm, sâu kín, cao siêu. Trước khi chưa có Trời Ðất thì đã có Ðạo. Ðạo là Hư Vô chi Khí. Ðạo tạo dựng CKVT, hóa sanh vạn vật. Muôn loài vạn vật phải thọ bẩm Khí Hư Vô mà sanh hóa mãi.

Thí dụ 2: Giải thích chữ Âm Dương bằng chiết tự.

Chữ DƯƠNG gồm 2 phần: Bên trái là là bộ Phụ là núi đất, bên phải có chữ Nhựt là mặt trời đứng trên đường ngang, ý nói mặt trời đã mọc lên khỏi đường chơn trời, bên dưới là chữ Vật vẽ hình giống các tia sáng rọi xuống.

Do đó, chữ Dương có nghĩa là phía có ánh sáng mặt trời chiếu vào, nên sáng sủa.

Chữ ÂM bên trái có bộ Phụ là núi đất, bên phải, phía trên là chữ Kim có hình như cái nóc nhà, bên dưới chữ Vân , ý nói bị che khuất nên tối tăm.

Do đó Âm là chỉ phía mặt trời bị che khuất.

Phía có mặt trời chiếu vào thì sáng sủa ấm áp, cây cối phát triển; còn phía ánh sáng mặt trời bị che khuất thì tối tăm, lạnh lẽo, cây cối không phát triển.

Do đó, chữ Âm Dương, nghĩa khởi đầu của nó là Tối Sáng, suy thành các nghĩa khác là hai cái tương phản nhau mà có cùng nguồn gốc như: lạnh nóng, đêm ngày, nữ nam, ác thiện, xấu tốt, đục trong, vv... Và hai Khí do Thái Cực biến hóa sanh ra cũng được gọi là hai Khí Âm Dương vì hai Khí nầy có đặc tính trái ngược nhau mà không tương hại.

CKVT: Càn Khôn Vũ Trụ.

 

CHIÊU

CHIÊU

CHIÊU: Lấy tay vẫy gọi, mời, khiến đến với mình.
Td: Chiêu hồn, Chiêu tài.

 

Chiêu hồn

招魂

A: To evoke the dead's soul.

P: Évoquer l'âme du mort.

Chiêu: Lấy tay vẫy gọi, mời, khiến đến với mình. Hồn: linh hồn của người chết.

Chiêu hồn là gọi linh hồn của người chết về nói chuyện.

Chiêu hồn thuật: (la nécromancie) là cách thức để gọi linh hồn người chết về.

 

Chiêu phước họa

招福禍

A: To attract the happiness or misfortune.

P: S'attirer le bonheur ou le malheur.

Chiêu: Lấy tay vẫy gọi, mời, khiến đến với mình. Phước: điều tốt lành. Họa: tai họa.

Chiêu phước họa là mời cái phước hay cái họa tới.

Cái đó là do nơi mình, bởi vì nếu mình làm điều thiện thì y như là mình mời cái phước tới; còn nếu mình làm điều ác độc hại người thì y như là mình mời tai họa tới.

Gieo lành thì phước đến, gieo dữ thì họa tới.

TNHT: Lành dữ nơi mình chiêu phước họa.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chiêu tài tấn bảo

招財進寶

Chiêu: Lấy tay vẫy gọi, mời, khiến đến với mình. Tài: tiền bạc. Tấn: dâng lên. Bảo: quí.

Chiêu tài tấn bảo là mời gọi tiền bạc tới, dâng hiến đồ quí báu. 4 chữ Nho nầy thường thấy đề nơi bài vị thờ Thần Tài.

 

CHIẾU

CHIẾU

1.    CHIẾU: Giấy viết lệnh của vua ban ra.
Td: Chiếu chỉ.

2.    CHIẾU: Rọi sáng, dựa theo.
Td: Chiếu diệu, Chiếu giám.

 

Chiếu chỉ

詔旨

A: The royal edict.

P: L'édit royal.

Chiếu: Giấy viết lệnh của vua ban ra. Chỉ: đồng nghĩa với Chiếu.

Chiếu chỉ là tờ giấy viết lệnh của vua ban ra để thi hành.

TNHT: Từ thuở ta vâng chiếu chỉ trấn nhậm nơi đây...

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chiếu diệu

照耀

A: Dazzling. 

P: Éclatant.

Chiếu: Rọi sáng, dựa theo. Diệu: rực rỡ.

Chiếu diệu là chiếu sáng rực rỡ.

KCHKHH: Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc đẩu.

KCHKHH: Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối.

 

Chiếu giám

照鑑

A: To light up.

P: Éclairer.

Chiếu: Rọi sáng, dựa theo. Giám: chiếu soi.

Chiếu giám là soi rọi, phóng tia sáng tới.

TNHT: Nơi nào ánh linh quang của Chí Tôn chưa chiếu giám đến thì còn tối tăm mịt mờ, chẳng sanh chẳng hóa.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chiếu y

照依

A: To conform to.

P: Se conformer à.

Chiếu: Rọi sáng, dựa theo. Y: theo.

Chiếu y là căn cứ theo.

Từ ngữ Chiếu y thường được dùng đặt ở phần đầu của một Thánh Lịnh, Ðạo Lịnh hay Ðạo Nghị Ðịnh.

Td: Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền...

Td: Thí dụ.

 

CHÍN

Chín Cô

A: Nine Muses.

P: Neuf Muses.

Chín Cô là ý nói Cửu vị Tiên Nương DTC.

(Xem chi tiết nơi chữ: Cửu vị Tiên Nương)

TTCÐDTKM: Chín Cô đã sẵn lòng thương.

DTC: Diêu Trì Cung.

TTCÐDTKM: Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu.

 

Chín lớp

A: Nine celestial planes.

P: Neuf plans célestes.

Chín lớp là chín từng Trời, tức là Cửu Trùng Thiên.

KKÐCR: Dưới chín lớp liên thần đưa bước.

KKÐCR: Kinh Khi Ðã Chết Rồi.

 

Chín Trời mười Phật

Chín Trời là Chín từng Trời, tức Cửu Trùng Thiên, cũng có ý chỉ các Ðấng Cửu Thiên Khai Hóa.

Mười Phật là chư Phật ở từng Trời thứ 10, tức là chư Phật ở cõi CLTG, vì cõi nầy ở từng Trời thứ 10.

Chín Trời mười Phật là nói các Ðấng Tiên Phật trong Cửu Thiên Khai Hóa và chư Phật ở cõi CLTG.

TNHT: Chín Trời mười Phật cũng là Ta.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

CLTG: Cực Lạc Thế giới.

 

CHỈN

Chỉn có

A: To have only. 

P: Avoir seulement.

Chỉn: vốn, vẫn, chỉ. Chỉn có là vốn có, chỉ có.

TNHT: Thầy chỉn có một lòng mơ ước cho các con biết thương yêu nhau trong Thánh đức của Thầy.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

CHINH

Chinh lòng

A: To hurt, to vex.

P: Froisser, vexer.

Chinh: nghiêng, lệch qua một bên.

Chinh lòng là làm cho lòng người bất bình với nhau.

TNHT: Nếu trong môn đệ đồng tâm chí như mấy con đây thì đường đi của các con sẽ vui vẻ tươi cười, chẳng chi chinh lòng nhau đặng.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

CHÍNH

CHÍNH

(Xem: Chánh)

 

CHỈNH

CHỈNH

CHỈNH: Sửa sang cho ngay ngắn, tốt đẹp.
Td: Chỉnh đàn, Chỉnh sát.

 

Chỉnh sát cúng phẩm

整察供品

A: To examine and to arrange the offerings.

P: Examiner et arranger les offrandes.

Chỉnh: Sửa sang cho ngay ngắn, tốt đẹp. Sát: quan sát, xem xét. Cúng phẩm: phẩm vật dâng lên cúng.

Chỉnh sát cúng phẩm là xem xét và sắp đặt cho ngay ngắn các phẩm vật dâng cúng.

Ðây là câu xướng của vị Chức sắc xướng lễ tại Giảng đài Tòa Thánh trong nghi tiết Ðại đàn. Chỉ có Ðại đàn ở Tòa Thánh mới xướng câu nầy, còn nơi các Thánh Thất, Báo Ân Từ và Ðiện Thờ Phật Mẫu thì không có.

Khi cúng Ðại đàn nơi Tòa Thánh, vị Giáo Sư phái Ngọc trên Giảng đài xướng "Chỉnh sát cúng phẩm" thì một vị Chức sắc HTÐ từ dưới đi lên lầu HTÐ, đến xông hương khử trược hai bàn tay và mặt, vừa niệm câu "Vạn trược tiêu tan, sanh khí phục hồi", rồi mở Tráp Tam bửu ra xem xét đủ Tam bửu (Hoa Quả, Rượu, Trà), lấy từ món xông hương khử trược, nhớ niệm câu "Vạn trược tiêu tan, sanh khí phục hồi".

Tiếp theo, lễ sĩ đem bó hương 12 cây trao cho, vị Chức sắc HTÐ kiểm lại có đủ 12 cây không, rồi cầm đốt cho cháy đầy đủ, đứng định thần, ngó lên Bửu điện, nhìn ngay Thiên Nhãn, tay mặt cầm bó nhang 12 cây đang cháy, mắt vẽ chữ (.) ngay con ngươi Thiên Nhãn, ngón cái của chơn trái vẽ dưới gạch chữ (.), chơn trái đứng lên chữ ấy, chơn mặt ký chữ Ðinh vào gót chơn trái, gọi là đạp Ðinh Giáp.

Tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay ngực, tay mặt cầm bó nhang, nín thở định thần vẽ chữ (.) trên Tráp Tam bửu, rồi xá và đậy nắp Tráp lại, trở xuống từng dưới, đứng tại vị trí cũ.

Khi thấy Nhạc Sư đứng trên Giảng đài bên Nữ phái đưa bông sen lên làm hiệu, vị Chức sắc HTÐ ấy lên Cung Ðạo, xá Ðức Chí Tôn, thỉnh Năm cây nhang, đi trở xuống, đứng ngang vị Chức sắc quì Ngoại nghi, chờ.

Khi Chức sắc đứng ở Giảng đài xướng "Quì" thì cùng quì xuống với 4 Lễ sĩ, trao bó hương cho vị Chức sắc quì Ngoại nghi, xong thì đứng dậy bày ban. Khi Lễ sĩ khởi điện hương thì vị Chức sắc HTÐ đi trở xuống, đứng tại vị trí cũ.

HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

 

Chỉnh Tiên hoa

整仙花

A: To arrange the fairy flowers.

P: Arranger les fleurs féeriques.

Chỉnh: Sửa sang cho ngay ngắn, tốt đẹp. Tiên hoa: ý nói hoa quí.

Chỉnh Tiên hoa là sửa sang bông hoa quí cho tốt đẹp.

Ðây là câu xướng của lễ sĩ. Khi xướng lên câu nầy, hai cặp lễ sĩ đăng đài quì xuống tại Ngoại nghi, trao hoa cho Chức sắc đang quì, để Chức sắc nầy sửa sang bông hoa cho ngay ngắn tốt đẹp, rồi trao lại cho cặp lễ sĩ đài, điện vào Nội nghi.

 

Chỉnh túc y quan

整肅衣冠

Chỉnh: Sửa sang cho ngay ngắn, tốt đẹp. Túc: nghiêm khắc. Y: áo. Quan: mũ, mão.

Chỉnh túc y quan là sửa sang nghiêm chỉnh áo và mão.

 

CHƠN (CHÂN)

CHƠN

1.    CHƠN: Cũng đọc CHÂN: Thật, không giả dối.
Td: Chơn hồn, Chơn lý.

2.    CHƠN: (Nôm) Cái cẳng, chỉ phần thấp nhứt.
Td: Chơn mây, Chơn tục.

 

Chơn hồn

眞魂

Chơn: Thật, không giả dối. Hồn: phần vô hình của con người.

Chơn hồn có 2 nghĩa tùy trường hợp sau đây:

1. Nghĩa thường dùng: Chơn hồn là linh hồn, chơn linh.

TNHT: Hồng ân của Ðại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đọa hằng hà.

2. Nghĩa đặc biệt: Chơn hồn là chơn thần.

KKÐCR: Kêu chơn hồn vịn níu chơn linh.

Chúng ta nên lưu ý là những bài kinh do Ðức Nguyệt Tâm giáng cơ ban cho trong Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, chữ Chơn hồn được Ðức Nguyệt Tâm dùng với nghĩa là Chơn thần.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

KKÐCR: Kinh Khi Ðã Chết Rồi.

 

Chơn linh - Chơn thần

眞靈 - 眞魂

A: The soul - The perisprit, the astral body.

P: L'âme - Le périsprit, le corps astral.

Chơn linh là linh hồn, là điểm linh quang do Ðức Chí Tôn chiết ra từ khối Ðại Linh quang của Ngài, ban cho mỗi người làm linh hồn để tạo nên sự sống và làm chủ xác thân.

Chơn thần là xác thân thiêng liêng của mỗi người, do Ðức Phật Mẫu dùng nguyên khí nơi DTC để tạo thành.

"Nơi Ao Diêu Trì có một đài phát hiện Âm quang. Ðài ấy thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Dương quang hiệp với Âm quang mà tạo nên chơn thần cho Vạn linh trong CKVT."

Lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực là điểm Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho. Ðức Phật Mẫu thâu điểm Linh quang nầy làm linh hồn, rồi dùng Âm quang phối hợp Dương quang để tạo chơn thần (tức là xác thân thiêng liêng) bao bọc điểm Linh quang ấy, tạo thành một con người nơi cõi thiêng liêng.

Trong TNHT, Ðức Chí Tôn giảng dạy về Chơn linh và Chơn thần như sau đây:

1. CHƠN LINH:

Thầy đã nói, nơi thân phàm của các con, mỗi đứa Thầy đều có cho một Chơn linh theo gìn giữ chơn mạng sanh tồn. Thầy tưởng không cần nói các con cũng hiểu rằng: Chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các Ðấng Trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt việc lành việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán Xét. Bởi vậy, một mảy không sai, dữ lành đều có trả. Lại nữa, Chơn linh ấy có tánh Thánh nơi mình, chẳng phải gìn giữ các con mà còn dạy dỗ nữa, thường nghe đời gọi lộn "Lương tâm" là đó. (TNHT)

2. CHƠN THẦN:

Chơn thần là gì? là Nhị xác thân, là xác thân thiêng liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu. Cái Chơn thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật là huyền diệu vô cùng, bất tiêu bất diệt. Bậc chơn tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái Chơn thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy. (TNHT)

Thầy cắt nghĩa: Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân: Một phàm gọi là corporel, còn một thiêng liêng gọi là spirituel. Mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng, mà cũng có thể không thấy đặng.

Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh, Khí, Thần mà luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn không khí. Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập. Còn khi đắc đạo mà có Tinh, Khí, không có Thần thì không thế nhập mà hằng sống đặng. Còn có Thần mà không có Tinh, Khí thì khó huờn đặng Nhị xác thân. Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng.

Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang. Cái Chơn thần ấy buộc phải tinh tấn, trong sạch mới nhẹ nhàng hơn không khí, ra khỏi ngoài Càn khôn đặng.

Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng. Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất chơn thần tinh khiết. (TNHT)

Cửa xuất nhập của Chơn thần đối với thể xác là Nê Hoàn Cung, tức là nơi mỏ ác.

Màu sắc của chơn thần:

- Người tu chơn chánh, trường chay, có Chơn thần tỏa hào quang trong trắng sáng lòa.

- Người bình thường có Chơn thần màu hồng.

- Người làm điều xấu xa độc ác có chơn thần màu tím.

Các Ðấng thiêng liêng chỉ cần nhìn màu sắc của Chơn thần thì biết tâm ý của người đó như thế nào.

Tóm lại:

■ Chơn linh là điểm Linh quang của Chí Tôn ban cho mỗi người để tạo sự sống và làm chủ con người.

■ Chơn thần là xác thân thiêng liêng do Ðức Phật Mẫu tạo nên, bao bọc Chơn linh.

Một con người nơi cõi thiêng liêng có hai thể: - Thể thứ nhứt là Linh hồn và - Thể thứ nhì là Chơn thần.

Một con người nơi cõi phàm trần, ngoài hai thể trên, còn có một thể thứ ba nữa là - Thể xác phàm.

Chơn thần ẩn trong xác phàm, và có hình ảnh giống hệt xác thân phàm. Chơn linh điều khiển Chơn thần, Chơn thần điều khiển xác phàm. Chơn linh không trực tiếp điều khiển xác phàm mà điều khiển xác phàm qua trung gian Chơn thần. Khi Chơn thần xuất ra khỏi xác thì lấy theo hình ảnh của thể xác.

Chơn linh ngự tại trái tim của xác phàm, gìn giữ nhịp đập của trái tim. Cho nên khi Chơn linh xuất khỏi thể xác thì trái tim ngưng đập: Thể xác chết.

Trung tâm của Chơn thần ở tại não bộ (óc) để từ đó điều khiển toàn thể xác thân phàm.

Chơn linh và Chơn thần nương theo xác thân phàm để tu hành, lập công quả và dự trường thi công quả do Ðức Chí Tôn lập ra trong ÐÐTKPÐ. Nếu không có xác thân phàm thì Chơn linh và Chơn thần rất khó mà lập được công quả.

DTC: Diêu Trì Cung.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

CKVT: Càn Khôn Vũ Trụ.

ÐÐTKPÐ: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

 

Chơn lý

眞理

A: The verity, the truth.

P: La vérité.

Chơn: Thật, không giả dối. Lý: lẽ phải.

Chơn lý hay Chân lý là cái lẽ phải chơn thật, hằng hữu đời đời mà lương tri lương năng của con người đều nhận biết.

Cho nên, Chơn lý phải có tính cách không phụ thuộc thời gian và không gian.

Thông thường thì người ta hiểu Chơn lý là cái lẽ thật thấy rõ trước mắt, như: Cái nhà, cái bàn, xác thân của ta, vì ta thấy rõ nó, rờ nó được, cân đo được. Ðó là các thứ thuộc về vật chất hữu hình. Mặt khác, sự hạnh phúc mà ta đang thọ hưởng, sự đau khổ mà ta đang gánh chịu, sự thương yêu, giận ghét, các thứ đó được con người cảm nhận thực sự, thuộc về tình cảm. Tất cả những thứ ấy, thuộc vật chất hay tình cảm, tuy con người có cảm nhận thực sự, nhưng chúng không phải là Chơn lý, vì các thứ đó, dầu vật chất hay tình cảm đều bị biến đổi theo thời gian và không gian.

Thời gian sẽ làm cái nhà cái bàn hư mục, làm cho xác thân ta già rồi bịnh hoạn, rồi chết, xác thân tan rã thành đất; thời gian cũng sẽ làm cho cái hạnh phúc hay đau khổ biến đổi, sự giận hờn thương ghét cũng tùy hoàn cảnh mà biến dời. Tất cả những thứ đó, nhà Phật đều cho là huyễn, là giả tạm, là tứ đại giả hợp, đều không bền vững với thời gian, nên nó không phải là Chơn lý.

Câu nói của Ðức Khổng Tử: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân", câu nói của Ðức Chí Tôn "Thầy là các con, các con là Thầy", Luật Nhân Quả, Luật Tiến Hóa,... Ðó là những Chơn lý, vì các điều nầy luôn luôn đúng trong bất cứ trường hợp nào và trong bất cứ thời gian nào, nghĩa là không phụ thuộc vào thời gian và không gian.

Chơn lý tuyệt đối: Có một Chơn lý mà không có gì để so sánh ngang bằng hay là hơn Chơn lý ấy được, gọi là Chơn lý tuyệt đối. Nó bất biến và hằng hữu đời đời trong không gian và thời gian, từ vô thỉ đến vô chung, cái Chơn lý ấy là cái nguyên lý tạo dựng CKVT và vạn vật, mà các tôn giáo thường gọi là: Ðấng Tạo Hóa, Ðấng Thượng Ðế, Ðức Chúa Trời.

Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, thiên hạ đã tranh giành và gìn giữ độc quyền Chơn lý. Chỉ có mình, nhóm của mình, tôn giáo của mình mới là Chơn lý, còn những cái của ai khác hơn đều là giả, đều là hình thức bề ngoài, nên không phải là Chơn lý. Cho nên trên thế giới luôn luôn xảy ra bao cuộc chiến tranh tàn khốc để giựt giành Chơn lý, đưa đến tình trạng hỗn loạn nhơn tâm, xáo trộn tư tưởng, làm cho chơn giả khó phân.

Muốn nhận được Chơn lý, chỉ có cách là phản tỉnh với lòng, lắng đọng tâm tư, tạo cho mình một tâm đạo trọn vẹn và sáng suốt, không bị chi phối bởi bản ngã hay sắc tướng bên ngoài, để cho lương tri lương năng chổi dậy tìm hiểu và nhận định, chúng ta sẽ nhận định được cái Chơn lý tuyệt đối, cái nguyên lý của tất cả nguyên lý, đó là Thượng Ðế, Ðấng tuyệt đối theo đúng nghĩa của danh từ: Toàn tri, Toàn năng, Toàn thiện, Toàn mỹ, Toàn giác.

Tóm tắt một lời: mọi thứ, mọi cái nào mà có tính cách tương đối đều không phải là Chơn lý tuyệt đối.

Chúng ta là những tín đồ của Ðạo Cao Ðài, chúng ta đừng nghĩ rằng chỉ có đạo của mình là Chơn lý, còn các đạo khác đều không phải là Chơn lý. Nghĩ như thế thì rất hẹp hòi phiến diện và không đúng.

Ðạo Cao Ðài cũng như các tôn giáo khác đều không phải là Chơn lý, mà chỉ là những con đường dẫn dắt nhơn sanh đi đến Chơn lý. Nhưng có điều là con đường mà Ðạo Cao Ðài vạch ra là con đường rộng rãi, thẳng tắp, bằng phẳng, để hướng dẫn nhơn sanh đi đến Chơn lý một cách chắc chắn, mau lẹ và dễ dàng nhất; bởi vì con đường nầy do Ðấng Thượng Ðế tạo ra và chính Ngài hướng dẫn chúng ta đi đến Chơn lý Tuyệt đối.

KTP: Soi tường Chơn lý chỉ rành chánh văn.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

CKVT: Càn Khôn Vũ Trụ.

DTC: Diêu Trì Cung.

KTP: Kinh Thuyết Pháp.

 

Chơn mạng

眞命

A: The life, the existence.

P: La vie, l'existence.

Chơn: Thật, không giả dối. Mạng: cái mạng sống của con người.

Chơn mạng là cái mạng sống thực sự của con người.

TNHT: Nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều có cho một chơn linh theo gìn giữ chơn mạng sanh tồn.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chơn mây

A: Under the cloud.

P: Sous le nuage.

Chơn: Cái cẳng, chỉ phần thấp nhứt. Mây: đám mây.

Chơn mây là dưới đám mây, phần dưới của đám mây.

KCTPÐQL: Chơn mây vái với hương hồn hiển linh.

KCTPÐQL: Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu.

 

Chơn ngã

眞我

A: The true ego.

P: Le vrai égo, vrai moi.

Chơn: Thật, không giả dối. Ngã: ta, cái ta.

Chơn ngã là cái ta chơn thật, hằng có, thường còn, hằng sống, tức là cái Ta bất biến, hằng hữu đời đời.

Chơn ngã chính là Chơn linh hay Linh hồn của ta, vì nó là điểm Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho ta, nên nó hằng hữu, bất biến, bất tiêu bất diệt.

Còn Chơn thần và Thể xác của chúng ta không phải là Chơn ngã, bởi vì Chơn thần và Thể xác biến đổi tùy theo mỗi kiếp sống nơi cõi trần. Mỗi lần Chơn linh đầu kiếp xuống trần là mỗi lần ta có một Thể xác mới và một Chơn thần mới.

Trái với Chơn ngã là: Vọng ngã, Phàm ngã, giả ngã, là cái ta hư vọng, biến đổi theo thời gian và không gian.

 

Chơn ngôn

眞言

A: The magical formulas.

Les formules magiques, l'incantation.

Chơn: Thật, không giả dối. Ngôn: lời nói.

Chơn ngôn thường được dùng với nghĩa là: Câu Thần chú, thường được phát âm theo tiếng Phạn, khi đọc lên nó tạo ra một âm ba (làn sóng âm thanh) vang động lên các từng Trời, được các Ðấng thiêng liêng nhận biết, được các Ðấng dùng huyền diệu mà hộ trì hay cứu giúp.

Vãng Sanh Thần chú được gọi là Vãng Sanh Chơn ngôn.

Phần cuối của bài Kinh Cứu Khổ là những câu Chơn ngôn, đó là Thần chú.

Những câu Chơn ngôn có ý nghĩa rất huyền bí, không thể giải thích được bằng văn từ, do chư vị Phật hay Bồ Tát đặt ra để các đệ tử trì tụng, giúp cho trí não mau phát sáng, và được sự hộ trì của chư Phật.

 

Chơn nhơn

眞人

A: The Saint.

P: Le Saint.

Chơn: Thật, không giả dối. Nhơn: người.

Chơn nhơn là chỉ bực Thánh hay bực Tiên.

·         Tôn Tẫn là một vị Tiên, đạohiệu Liễu Nhứt Chơn Nhơn.

·         3 vị Thánh đứng đầu BạchVân Ðộng đều là Chơn Nhơn:

o   Trạng Trình Nguyễn B.Khiêm là Thanh Sơn Chơn Nhơn,

o   Victor Hugo là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn,

o   Tôn Văn là Tôn Sơn Chơn Nhơn.

Chơn Nhơn còn là phẩm vị Chức sắc trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của CQPT, đứng trên Ðạo Nhơn và đứng dưới Hiền Nhơn. Chơn Nhơn đối phẩm Giáo Sư bên CTÐ.

Từ phẩm Chơn Nhơn trở xuống thì còn ở CQPT, lập công quả bên CQPT. Khi được thăng phẩm Hiền Nhơn thì phải lên HTÐ để bảo tồn Chơn pháp.

Ðạo phục của Chơn Nhơn: Khi chầu lễ Ðức Chí Tôn, Chơn Nhơn mặc Ðạo phục áo tràng trắng, mang Dây Sắc lịnh màu xanh bỏ mối qua hông mặt (thể Ðạo), trên Dây Sắc lịnh có gắn Khuê bài để chữ CHƠN NHƠN bằng quốc tự, đầu đội khăn đóng trắng 7 lớp chữ nhơn.

HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

CQPT: Cơ Quan Phước Thiện.

 

Chơn nữ

眞女

A: Honest woman.

P: La femme honnête.

Chơn: Thật, không giả dối. Nữ: người phụ nữ.

Chơn nữ là người phụ nữ chơn thật, tức là hiền lành và đạo đức.

TNHT:

Thiện nam gắng giữ nền Nhơn nghĩa,

Chơn nữ hằng ghi thuyết cộng hòa.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chơn pháp

眞法

A: True doctrine.

P: Vraie doctrine.

Chơn: Thật, không giả dối. Pháp: có rất nhiều nghĩa, ở đây chúng ta hiểu Pháp là giáo lý của một tôn giáo.

Chơn pháp là giáo lý chơn thật của một vị giáo chủ truyền dạy.

Nếu tu đúng theo chơn pháp nầy thì nhứt định đắc đạo.

KXH: Tùng theo chơn pháp độ lần chúng sanh.

Chơn pháp còn có nghĩa là pháp luật chơn thật, nên Chơn pháp đồng nghĩa Chơn luật.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo đêm 15-9-Mậu Dần về Chơn pháp và Chơn luật của Ðức Chí Tôn:

"Ðức Chí Tôn đào tạo Chơn pháp vô lượng vô biên để cho nhơn loại thi hành mà đoạt phẩm vị thiêng liêng: Thần, Thánh, Tiên, Phật. Chơn pháp cũng có một như Chơn luật vậy.

Chơn luật của Ðức Chí Tôn đã chỉ rõ là Thương yêu, còn Chơn pháp là Công bình. Luật pháp của Chí Tôn đã chỉ rõ ra sau đây thì toàn cả nhơn sanh đều nghe hiểu biết và thường có nói: Chỉ có một điều là tại sao không thực hành? Nếu con người ở dưới thế nầy đồng thi hành y theo Chơn pháp Công bình thì đời sẽ trở nên tận thiện tận mỹ, mà cơ tận diệt sẽ tiêu tan, không còn thấy tấn tuồng bi ai thảm đạm như thế.

Tóm lại, cái sở hành của Chơn pháp Công bình chỉ dùng một câu: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" nghĩa là: Những điều nào mình chẳng muốn ai làm cho mình phải buồn than đau đớn thì tức nhiên mình không nên làm mấy điều đó cho người khác.

Pháp Công bình của Ðức Chí Tôn là một cây Cân Song bằng: Một đầu là Tiên, Phật, một đầu là Quỉ Ma, chánh tà phân biệt đôi bên, ấy là pháp Công bình: Lành thưởng dữ răn, lành siêu dữ đọa.

Ðức Chí Tôn muốn cho con cái của Ngài đều đặng cao thăng phẩm vị thiêng liêng, chớ không bao giờ Ngài đào tạo Ðịa ngục để đày đọa hình phạt nhơn sanh, mà trái lại do nhơn sanh tạo thành cảnh khổ ấy. Ví như một ông Cha trong gia đình, có khi nào lập ngục thất để cầm tù con cái bao giờ?

Những điều khổ hạnh ấy là tự con người đào tạo nơi mặt thế nầy, cũng là một trường học để con người suy gẫm tự giác tâm hồn, hầu giải thoát bến mê mà tầm đến cảnh thiêng liêng an nhàn tự toại. Nếu con người muốn được an nhàn tự toại nơi cảnh TLHS thì phải thực hành theo Chơn pháp của Chí Tôn.

Ngày nào mà nhơn sanh trên mặt địa cầu nầy biết tôn trọng và thực hành y theo luật pháp của Chí Tôn cho ra chân tướng thì mới mong giải thoát cơ tự diệt, tức là ngày của nhơn sanh chung hưởng mọi điều hạnh phúc của Chí Tôn ân tứ.

KXH: Kinh Xuất Hội.

TLHS: Thiêng Liêng Hằng Sống.

 

Chơn pháp bí truyền

眞法秘傳

A: The sacrament.

P: Le sacrement.

Chơn: Thật, không giả dối. Pháp: cách thức, phương pháp. Bí: kín nhiệm. Truyền: trao lại cho người khác.

Chơn pháp bí truyền là những phương thức chơn thực có tác dụng rất mầu nhiệm được truyền lại cho người thọ lãnh một cách bí mật, không cho người ngoài biết.

Theo nghĩa nầy, Chơn pháp bí truyền là những phép Bí tích, giống như các phép thuật của Ðạo Tiên.

Chơn pháp bí truyền trong Ðạo Cao Ðài được Ðức Chí Tôn truyền dạy Ðức Hộ Pháp để Ngài lựa chọn Chức sắc mà truyền lại để Chức sắc đi hành đạo phổ độ chúng sanh.

Chơn pháp bí truyền của Ðạo Cao Ðài gồm 7 Bí tích:

1. Phép Tắm Thánh.

2. Phép Giải Oan.

3. Phép Xác.

4. Phép Ðoạn căn.

5. Phép Ðộ thăng.

6. Phép Hôn phối.

7. Phép Giải bịnh.

Chúng ta cần lưu ý là: Chơn pháp bí truyền khác với Tâm pháp bí truyền. Tâm pháp bí truyền là pháp môn luyện đạo, luyện Tam Bửu Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt, đắc đạo tại thế.

 

Chơn Phật

眞佛

A: Superior Buddha.

P: Buddha supérieur.

Chơn: Thật, không giả dối. Phật: Ðức Phật.

Chơn Phật là vị Phật cao siêu, ở cấp bực cao.

Các Ðấng Thánh, Tiên, Phật mà có chữ CHƠN phía trước thì đó là những Ðấng ở bực cao siêu.

TNHT: Thầy là bực Chí Tôn và các địa vị Chơn Phật xưa, nhiều lúc phải xuất chơn linh để mình vào trần thế đặng dìu dắt chúng sanh.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chơn Quân

眞君

A: The Lord of Zodiac. 

P: Le Seigneur Zodiacal.

Chơn: Thật, không giả dối. Quân: người có tài đức hơn người.

Chơn Quân là những vị Thời Quân của HTÐ.

Có 12 vị Chơn Quân được gọi là Thập Nhị Thời Quân: Bảo Pháp Chơn Quân, Bảo Ðạo Chơn Quân, v.v....

CG PCT: Còn nhiều vị Chơn Quân khác, hoặc đã đến rồi, hoặc chưa đến,....

HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

CG PCT: Chú Giải Pháp Chánh Truyền.

 

Chơn tâm

眞心

A: The true heart.

P: Le vrai coeur.

Chơn: Thật, không giả dối. Tâm: cái tâm của con người.

Chơn tâm là cái tâm chơn thật, trong sạch, sáng suốt, đã cởi bỏ được các vọng tưởng, phục hồi được bổn tánh của nó.

Chơn tâm chính là Lương tâm, Thiện tâm.

Trái với Chơn tâm là Vọng tâm, là cái Tâm luôn luôn vọng động, mơ tưởng hết điều nầy đến điều nọ, không ngừng phóng ra nhảy vào như con khỉ nên gọi là Tâm viên ý mã.

Phép Tham Thiền Nhập Ðịnh là để gìn giữ cái tâm cho được trong sạch, yên lặng, tư tưởng không không, tức là đã diệt bỏ Vọng tâm để phát triển Chơn tâm.

Ngài Hiến Ðạo Chơn Quân HTÐ giải về Chơn tâm:

"Con người sanh ra có kẻ trí người ngu, kẻ hiền người dữ, kẻ sang người hèn, kẻ mạnh người yếu, ai ai cũng có sẵn một phần thiêng liêng sáng suốt để phân biệt phải trái, chánh tà, thiệt hư, thiện ác. Phần thiêng liêng sáng suốt ấy, Nho giáo gọi là Minh đức, hay là tánh bản nhiên; Phât giáo gọi là Tự tâm, Bổn tánh hay là Phật tánh, hay là Chơn như. Danh từ tuy khác mà nghĩa vẫn đồng. Ðây chúng tôi xin dùng danh từ CHƠN TÂM để gọi phần thiêng liêng sáng suốt ấy.

Chơn tâm sáng như ánh sáng mặt trời. Mặt trời tuy có bị mây che mờ, ánh sáng chưa hề bị mất, vẫn còn vằng vặc chói lọi trong chốn không gian.

Chơn tâm ví như hòn ngọc quí, đủ màu sắc, đầy vẻ đẹp. Ngọc dầu bị bụi cát bám vào nhưng chưa từng mất phần mỹ lệ.

Ánh sáng mặt trời không thêm không bớt, chất quí của ngọc giữ nguyên vẹn không thay đổi, đó là bản thể của Chơn tâm. Cho nên mới nói rằng: Bản thể Chơn tâm vẫn bình đẳng và bất biến. Bình đẳng nghĩa là bằng nhau, không có cao thấp, không có lớn nhỏ, bất biến là không biến đổi.

Chơn tâm của người quân tử, Chơn tâm của kẻ tiểu nhơn cũng đồng một thể, không vì hành động của kẻ trí mà Chơn tâm thêm phần sáng suốt, không vì hành động của người ngu mà Chơn tâm bớt phần sáng suốt. Nhưng sự nghe thấy của người quân tử có khác hơn sự nghe thấy của kẻ tiểu nhơn, là vì quân tử hay trau giồi Chơn tâm, còn tiểu nhơn thì không thế, không biết trau giồi Chơn tâm, thành thử quân tử và tiểu nhân có chỗ sai biệt trong sự nghe thấy biết.

Chơn tâm của quân tử như ngọc đã trau, như gương đã sạch bụi. Chơn tâm của tiểu nhơn như ngọc chưa trau, như gương dính bụi. Chơn tâm không hình ảnh, không phương sở, không từ nơi nào đến, cũng không đi về đâu, không quá khứ, không vị lai mà vẫn thường tại. Chơn tâm rộng lớn, bao la như vũ trụ. Thời gian vô tận thì Chơn tâm cũng vô tận; không gian vô cùng thì Chơn tâm cũng vô cùng.

Những kẻ đã phạm tội lỗi, vì si mê hay nóng giận, sau rồi biết ăn năn tự hối, là vì khi họ phạm lỗi, họ quên mất Chơn tâm, đến khi họ tỉnh ngộ, biết nhìn nhận tội lỗi đã làm, dường như Chơn tâm họ trở lại, nên mới có câu nói: Người ấy đã hồi tâm. Kỳ thật, Chơn tâm không đi đâu cả, chỉ tại người hoặc nhớ hoặc quên đó thôi. Vì vậy, trong mọi hành động, mọi ý nghĩ, ta nên thận trọng. Làm việc gì, nghĩ việc gì, ta hãy chính chắn suy xét cho cùng, luôn luôn nghĩ nhớ đến Chơn tâm, phòng khi thi thố cho khỏi sai lầm.

Chơn tâm rất sáng suốt, linh diệu, không sự vật gì mà không hay biết, không ai che giấu được, không ai lừa dối được, mắt ta không trông thấy, tai ta không nghe tiếng mà ta vẫn biết rằng có, như ở bên ta. Ðức Phật Thích Ca nói: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức là Phật và chúng sanh đồng một Chơn tâm như nhau, không hơn không kém. Thế là Phật và chúng sanh bình đẳng, bình đẳng ở chỗ đồng một bản thể Chơn tâm. Sỡ dĩ Phật được gọi là Phật vì Phật đã giác ngộ hoàn toàn, biết thuận dụng Chơn tâm; chúng sanh còn mê muội, không biết thuận dụng Chơn tâm nên chưa thành Phật.

Thế nào là thuận dụng Chơn tâm? Là phải biết trau giồi cái tâm mình cho được sáng suốt, trong sạch như gương, chẳng chút bụi trần, hễ vật gì dính vào Chơn tâm thì biết ngay, hiện hay bất hiện, phải hay chẳng phải, bỏ cái gốc ác thâm nhiễm từ lâu, trừ những bụng tham, sân giận, si mê làm nhẹ phẩm giá con người; hành động ngay chánh, nói năng ngay chánh, thành thật tiếp xúc với mọi người không chút gì giả dối, thành thật mưu sinh, không gian lận xảo trá, luôn luôn giữ một mực công bằng, hợp đạo, trúng tiết. Thuận dụng Chơn tâm là hành động theo Chơn lý đã tỏ ngộ, sáng suốt như Phật."

 

Chơn thân

眞身

A: The real body.

P: Le corps réel.

Chơn: Thật, không giả dối. Thân: xác thân con người.

Chơn thân là cái xác thân chơn thật, không hư hoại, vĩnh viễn trường tồn. Ðó là cái xác thân thiêng liêng, tức là Nhị xác thân hay Chơn thần.

Cái xác thân phàm bằng xương bằng thịt chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian sống trăm năm, rồi nó phải chết và hư hoại, nên nó không phải là cái Chơn thân, mà phải gọi nó là cái Giả thân. Ðó là cái xác thân giả tạm mà linh hồn tạm mượn để sống một thời gian nơi cõi trần mà học hỏi và tiến hóa.

 

Chơn thiệt nghĩa

眞實義

Chơn: Thật, không giả dối. Thiệt: thật, thực. Nghĩa: ý nghĩa.

Chơn thiệt nghĩa là cái ý nghĩa chơn thật.

DLCK: Khai Kinh Kệ: Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt nghĩa, Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết Di-Lạc Chơn Kinh.

DLCK: Di Lạc Chơn Kinh.

 

Chơn trị

眞治

A: To administer with honesty.

P: Administrer avec l'honnêteté.

Chơn: Thật, không giả dối. Trị: cai trị.

Chơn trị là dùng sự chơn thật mà cai trị dân chúng.

TNHT: Tham gian đã nhập vào nước thì nước hết chơn trị.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chơn truyền

眞傳

A: The true doctrine.

P: La vraie doctrine.

Chơn: Thật, không giả dối. Truyền: trao lại.

Chơn truyền là giáo lý chơn thật được truyền lại một cách chính xác để hành giả tu theo đó thì nhứt định đắc đạo.

KGO: Noi chơn truyền khử quỉ trừ ma.

KGO: Kinh Giải Oan.

 

Chơn tu

眞修

A: The real monk.

P: Le vrai religieux.

Chơn: Thật, không giả dối. Tu: sửa mình cho tốt đẹp.

Chơn tu là người tu hành chơn chánh, tu thiệt tình, chí quyết tu hành mong cầu giải thoát.

Trái với Chơn tu là Giả tu, tu để mượn danh đạo tạo danh đời, hay tạo thế lực để thỏa mãn ước vọng riêng.

 

Chơn tục

A: Steps of the profane.

P: Les pas du profane.

Chơn: Cái cẳng, chỉ phần thấp nhứt. Tục: tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần hay người nơi cõi trần.

Chơn tục là bước chơn của người phàm.

TNHT: Ðường trần dù muốn dừng chơn tục.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

CHU

CHU

(Xem: Châu)

 

CHÚ

Chú giải

註解

A: To explain and comment.

P: Expliquer et commenter.

Chú: biên chép ý nghĩa phụ vào bên dưới hay kế bên. Giải: phân tích cho rõ nghĩa ra.

Chú giải là ghi chép thêm để làm rõ ý nghĩa của một câu văn hay của một đoạn văn.

Pháp Chánh Truyền do Ðức Chí Tôn lập ra. Ðức Phạm Hộ Pháp vâng lịnh Ðức Lý Giáo Tông chú giải, tức là giải nghĩa cho rõ ràng từng chi tiết một, để phân định quyền hạn của mỗi Chức sắc trong mỗi cơ quan cho minh bạch, phân định nhiệm vụ rõ ràng của mỗi người để việc điều hành nền Ðạo được trật tự, tốt đẹp, không có sự dẫm chân lên nhau, và nhờ vậy nền Ðạo mới phát triển mau lẹ. Bản chú giải Pháp Chánh Truyền của Ðức Phạm Hộ Pháp được dâng lên Ðức Lý Giáo Tông xem xét và sửa chữa thêm, rồi mới được phép ban hành.

 

Chú Vãng Sanh

 (Xem: Vãng Sanh Thần Chú, vần V)

 

CHỦ

CHỦ

CHỦ: có nhiều nghĩa tùy trường hợp:

1.    CHỦ: Người đứng đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn.
Td: Chủ quản, Chủ quyền, Chủ tọa.

2.    CHỦ: Phần chánh, phần cốt yếu.
Td: Chủ nghĩa, Chủ ý.

3.    CHỦ: Tự mình.
Td: Chủ quan, Chủ trương.

 

Chủ nghĩa

主義

A: Principle.

P: Principle.

Chủ: Phần chánh, phần cốt yếu. Nghĩa: điều phải theo.

Chủ nghĩa là cái cốt yếu của một học thuyết để làm đường lối phải theo.

Thí dụ: Chủ nghĩa Duy Linh (Spiritualisme) là một quan điểm triết học duy tâm khách quan, coi linh hồn là nguyên lý cơ bản của hiện thực, là thực tế vô hình đặc biệt, tồn tại độc lập với vật chất và điều khiển vật chất.

Trái với Chủ nghĩa Duy Linh là Chủ nghĩa Duy Vật.

Chủ nghĩa của Ðạo Cao Ðài là: Bác ái và Công bình.

ÐLMD: Thảng như Chức sắc nào chẳng vì chủ nghĩa hóa dân vị thiện, làm mất tín nhiệm của chúng sanh thì phải chiếu y Thập hình của Ðức Lý Giáo Tông mà định tội.

ÐLMD: Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938).

 

Chủ quan - Khách quan

主觀 - 客觀

A: Subjective - Objective.

P: Subjectif - Objectif.

Chủ: Tự mình. Quan: xem xét, quan niệm. Khách: ở ngoài, trái với Chủ.

Chủ quan là chỉ dựa vào nhận thức riêng của cá nhân mình mà suy nghĩ và hành động, cho nên đôi khi không sát thực tế và có tánh cách phiến diện, dễ đi đến thất bại.

Khách quan là căn cứ vào sự thật đang diễn tiến ở bên ngoài của hiện tượng mà quan sát, suy nghĩ, rồi đưa ra những quyết định thích hợp.

 

Chủ quản

主管

A: The manager.

P: Le directeur.

Chủ: Người đứng đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn. Quản: quản lý, coi sóc công việc.

Chủ quản là người đứng đầu coi sóc công việc và chịu trách nhiệm về kết quả của công việc.

 

Chủ tể

主宰

A: Supreme Master.

P: Maiâtre Suprême.

Chủ: Người đứng đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn. Tể: đứng đầu.

Chủ tể, thường nói là Chúa tể, là người đứng đầu, có quyền thống trị hết thảy.

TNHT: Ðấng Chủ tể toàn năng, giáng thế tá danh Cao Ðài, truyền chơn lý tại Việt Nam.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chủ tọa

主坐

A: The president.

P: Le président.

Chủ: Người đứng đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn. Tọa: ngồi.

Chủ tọa là người ngồi làm chủ điều khiển một Hội nghị.

■ Chủ tọa Hội Thánh là Thái Chánh Phối Sư. Khi có cuộc họp của Hội Thánh thì Thái Chánh Phối Sư làm Chủ tọa điều khiển cuộc họp.

■ Chủ tọa Hội Nhơn Sanh là Thượng Chánh Phối Sư. Khi có tổ chức Hội Nhơn sanh thì Thượng Chánh Phối Sư làm Chủ tọa điều khiển cuộc họp.

 

Chủ trung

主中

A: Supreme head.

P: Patron suprême.

Chủ: Người đứng đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn. Trung: ở giữa.

Chủ trung là người đứng ở giữa điều khiển các nơi.

TNHT: Từ đây Thầy là đứng chủ trung dìu dắt các con trong đường đạo hạnh.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chủ trương

主張

A: To sustain a doctrine.

P: Soutenir une doctrine.

Chủ: Người đứng đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn. Trương: giương rộng ra.

Chủ trương là đứng làm chủ, quyết định đường lối và biện pháp làm việc và theo đuổi đường lối đó.

TNHT: Thầy là Ðấng chủ trương khai sáng nền Ðạo.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chủ trưởng Chức sắc

主長職色

A: Chief of the dignitaries.

P: Chef des dignitaires.

Chủ: Người đứng đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn. Trưởng: lớn hơn hết trong một cơ quan.

Chủ trưởng Chức sắc là người đứng đầu cai quản các Chức sắc.

Theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ 4 của Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Phạm Hộ Pháp thì: Ngọc Chánh Phối Sư là Chủ trưởng Chức sắc CTÐ nam phái.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

 

Chủ trưởng Bàn Cai quản Phước Thiện

主長班該管福善

A: Chief of Administrative Commitee of Charity.

P: Chef du Comité administratif de Charité.

Chủ: Người đứng đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn. Trưởng: lớn hơn hết trong một cơ quan.

Mỗi nhà Sở Phước Thiện Chánh trong mỗi Quận đạo (Tộc đạo) phải cử ra một Bàn Cai Quản điều hành các việc thuộc Phước Thiện trong Tộc đạo. Ðứng đầu Bàn Cai Quản Phước Thiện là một vị

Chủ trưởng, phẩm Hành Thiện.

Phận sự của Chủ trưởng Bàn Cai Quản Phước Thiện:

1.    Khi nhóm Bàn Cai Quản thì Chủ trưởng chủ tọa. Chủ trưởng nêu chương trình nghị sự cho các Nghị viên bàn định.

2.    Nghị viên không đặng bàn tính việc gì khác hơn là vần đề đã lập trong chương trình. Khi Chủ trưởng xướng đề ra thì phải rành rẽ cho chư Nghị viên được thông hiểu, rồi để cho chư Nghị viên tự do bàn định. Chủ trưởng không nên bàn cãi chi với Nghị viên. Sau khi chư Nghị viên bàn cãi rồi, Chủ trưởng gom tất cả ý kiến hay của phần đông mà lập thành quyết nghị. (Xem thêm chữ: Bàn Cai Quản, vần B)

 

Chủ tướng

主將

A: The commander-in-chief.

P: Le commandant-en-chef.

Chủ: Người đứng đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn. Tướng: vị quan võ cao cấp trong quân đội.

Chủ tướng là vị tướng đứng đầu chỉ huy tất cả.

TNHT: Nhưng còn nhiều đứa háo danh và ham làm một vị chủ tướng trong đạo, nên cần phải nói cho biết mà xét mình.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chủ ý

主意

A: The main idea.

P: L'idée principale.

Chủ: Phần chánh, phần cốt yếu. Ý: điều suy nghĩ trong lòng.

Chủ ý là cái ý định chuyên nhứt về một việc gì.

TNHT: Chủ ý các con có phải vậy chăng?

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

CHÙA

Chùa chiền

A: Temples, Oratories.

P: Temples, Oratoires.

Chùa: Nhà thờ Phật. Chiền: do phiên âm từ tiếng Phạn: Caitya rồi nói trại ra, nghĩa là điện thờ Phật.

Chùa chiền là chỉ chung các chùa, các điện, dùng làm nơi thờ Phật.

Thuở mới khai Ðạo Cao Ðài, các tín đồ Cao Ðài theo thói quen gọi các Thánh Thất là Chùa Cao Ðài, vì trong Thánh Thất có thờ Ðức Phật Thích Ca và Quan Thế Âm Bồ Tát.

Trong Ðạo Cao Ðài, các tín đồ cũng thường hay dùng từ ngữ "chùa chiền" để chỉ chung các Thánh Thất và các Ðiện Thờ Phật Mẫu.

TNHT: Còn chùa chiền thì ngày sau e cho con không đủ sức cai quản cho hết.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chùa Gò Kén

(Xem: T Lâm T, vn T)

 

CHUẨN

CHUẨN

CHUẨN: có hai nghĩa tùy trường hợp:

1.    CHUẨN: Chấp thuận, cho phép.
Td: Chuẩn nhận, Chuẩn phê, Chuẩn y.

2.    CHUN: Mu mc, phép tc phi theo.
Td: Chu
n thng.

 

Chuẩn Ðề Bồ Tát

準提菩薩

Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát cùng với Ðức Phổ Hiền Bồ Tát chưởng quản từng Trời Hạo Nhiên Thiên, là từng thứ 7 trong Cửu Trùng Thiên, có nhiệm vụ coi về Pháp luật.

Do đó, Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát ngự tại Cung Chưởng Pháp.

Ngài không có hóa thân xuống cõi trần, nhưng Ðức Phật Thích Ca có giải rõ công đức và hình tượng của Ngài nên mới biết và họa hình để thờ.

Ngài có tấm lòng từ bi vô hạn đối với chúng sanh, cũng như mẹ thương con, nên người đời gọi Ngài là Chuẩn Ðề Phật Mẫu hay là Thất-Cu-Chi Phật Mẫu.

Bửu tượng của Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát quang minh chiếu diệu, mặc toàn sắc trắng, ngồi kiết già, đeo xâu chuỗi anh lạc, trên ngực có chữ Vạn. Pháp thân của Ngài có 18 cánh tay: 2 tay chấp nơi ngực, 2 tay để nơi bụng, còn 14 cánh tay kia, mỗi bên 7 cánh tay đều cầm những bửu bối. Ngài ngự trên tòa sen, dưới có hai vị Long vương ủng hộ.

Ngài thường thuyết kinh Ðà-La-Ni và chú Ðà-La-Ni. Ngài khuyên chúng sanh nên tụng chú Ðà-La-Ni cho thường, khi thọ chung, linh hồn sẽ được sanh vào chỗ thiện duyên, hưởng những an lạc.

Chú Ðà-La-Ni chép ra như sau đây:

Nam mô Phật Ðà La, Nam mô Ðạt Mạ Da, Nam mô Tăng Già Da. Án Tất Ðế, Hộ Rô Rô, Tất Ðô Rô Chỉ Rị Ba, Kiết Rị Bà, Tất Ðạt Rị Bố Rô Rị, Ta Bà Ha.

KÐ7C:

Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo Hóa,

Kiến Chuẩn Ðề thạch xá giải thi.

KÐ7C: Kinh Ðệ Thất cửu.

 

Chuẩn nhận

準認

A: To accept.

P: Accepter.

Chuẩn: Chấp thuận, cho phép. Nhận: lãnh.

Chuẩn nhận là bằng lòng thâu nhận.

TNHT: Các lời cầu nguyện của con sẽ được chuẩn nhận.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chuẩn phê

準批

A: To ratify.

P: Ratifier.

Chuẩn: Chấp thuận, cho phép. Phê: viết ý kiến vào lá đơn.

Chuẩn phê hay Phê chuẩn là đồng ý ký tên chấp thuận.

TNHT: Ðã mãn kỳ, phải giao quyền lại cho Tòa Tam Giáo lấy mực công bình mà chuẩn phê các cử chỉ của mỗi đứa.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chuẩn thằng

準繩

A: The rule of conduct.

P: Le règle de conduite.

Chuẩn: Mẫu mực, phép tắc phải theo. Thằng: sợi dây tơ.

Chuẩn thằng là sợi dây căng thẳng ra dùng làm mức để người thợ noi theo. Ðó là nghĩa đen.

Nghĩa bóng, Chuẩn thằng là mẫu mực đạo đức căn bản mà mọi người phải tuân theo.

TÐ ÐHP: Một gia đình mà không chuẩn thằng, không đạo giáo kềm giữ, gia đình còn loạn lạc thay!...

TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

 

Chuẩn y

準依

A: To approve.

P: Approuver.

Chuẩn: Chấp thuận, cho phép. Y: y nguyên.

Chuẩn y là chấp thuận y như lời cầu xin.

 

CHÚC

Chúc thọ

祝壽

A: To wish a longevity.

P: Souhaiter une longivité.

Chúc: cầu ước. Thọ: sống lâu.

Chúc thọ là cầu chúc cho được sống lâu.

Lễ Chúc thọ là một cuộc lễ do con hay cháu tổ chức để cầu nguyện và cầu chúc cha mẹ hoặc ông bà được sống lâu.

Theo sách Quan Hôn Tang Tế của Ðạo Cao Ðài thì:

1.    Ðúng 61 tuổi: làm Lễ chúc thọ Ðáo tuế.

2.    Từ 65 đến 74 tuổi: làm Lễ Hạ thọ.

3.    Từ 75 tuổi đến 84 tuổi: làm Lễ Trung thọ.

4.    Từ 85 đến 100 tuổi: làm Lễ Thượng thọ.

I. Chương trình Lễ Chúc thọ:

Cách thức sắp đặt do theo các khoản dưới đây:

1. Lập một Nội nghi, chưng dọn có một cặp lọng, cùng hoa quả cho tốt đẹp. Phía sau Nội nghi đặt một cái bàn vuông, hoặc là một bộ ván để chiếu gối, trà nước, đặng cho vị hưởng thọ an tọa, gọi là Thọ tịch.

Còn ở phía ngoài, phải lập một Ngoại nghi, sắp đặt cho có đủ phẩm vật như là: Cơm, rượu, trà, vv . . .

Hai bên Tả Hữu phải có đặt trường kỷ, chưng dọn các thực phẩm như là: Rượu, trà, trái cây, bánh để đãi khách và các thân bằng cố hữu, gọi là Bồi tịch.

2. Chọn hai vị Chấp sự để theo hộ vệ vị hưởng thọ và tiếp lễ hiến lên Thọ tịch.

Tuyển thêm 4 vị Chấp sự (2 Nam, 2 Nữ) để bồi tửu đãi thân bằng cố hữu ngồi ở hai bên Bồi tịch (Nam tả Nữ hữu).

3. Các cơ quan có lòng hoài cảm đến công trình và hạnh đức của vị hưởng thọ, muốn đến chúc thọ cho người thì trước đó phải lập 3 ban, tuyển chọn 3 vị đại diện để đứng ra dâng rượu và đọc bài chúc.

Khi Lễ sĩ xướng: "Ðệ nhứt ban chúc thọ giả nghệ tôn tọa tiền" thì vị đại diện của Ðệ nhứt ban bước vào đứng trước, còn nhân viên thì đứng theo sau có trật tự.

Khi nghe Lễ sĩ xướng: "Chước tửu" thì vị đại diện rót rượu dâng lên, tiếp đọc bài Chúc thọ, đọc xong kỉnh 2 xá lui ra.

Chờ nghe Lễ sĩ xướng: "Ðệ nhị ban chúc thọ giả nghệ tôn tọa tiền" thì vị đại diện Ðệ nhị ban bước vào hành lễ, giống như Ðệ nhứt ban lúc nãy.

Sau cùng là Ðệ tam ban cũng hành lễ y như vậy.

II. Nghi tiết Lễ Chúc thọ:

Vào lễ, Nhạc xổ Bắc cấu, Lễ sĩ bái lễ Ðức Chí Tôn xong. Lễ sĩ mặc áo màu xanh thường, Nhạc trổi lớp thét và dứt, chờ Lễ xướng.

1.    Tịnh túc thị lập.
(Mọi người đều đứng ngang nhau hầu lễ, thứ tự, nghiêm trang, Lễ xướng giọng Xuân ngắn).

2.    Chấp sự giả các tư kỳ sự.
(Các vị Chấp sự giữ phần việc nào thì đến giữ phần việc nấy)

3.    Cung thỉnh Thọ đại nhơn đăng Thọ tịch.
(Kính mời vị Ðại nhơn hưởng thọ đến ngồi nơi ghế Thọ tịch).

4.    Nhạc công khởi nhạc.
(Nhạc xổ Bắc cấu)

5.    Cung thỉnh Thọ bằng đăng Bồi tịch.
(Kính mời các bạn hữu của vị hưởng thọ đến ngồi ghế Bồi tịch)

6.    Tử tôn tựu vị.
(Các con cháu bước ra đứng giữa)

7.    Giai quì.
(Tất cả con cháu đều quì xuống)

8.    Hành lễ Hạ thọ cúc cung bái.
(Con cháu cầu nguyện cho vị hưởng thọ sống lâu rồi lạy 2 lạy)

9.    Tấn soạn.
(Dâng các món đồ ăn lên. Nhạc xây tá đờn bài Hạ, Lễ bước đến ngoại nghi. )

10.  Quì.
(Nhạc đổ trống, Lễ quì, dứt đờn).

11.  Chỉnh soạn.
(Nhạc trổi thét, con cháu chỉnh soạn giao lại cho Lễ, Nhạc đổ trống, Lễ sĩ đứng lên, dứt).

12.  Hiến soạn.
(Nhạc gài trống đờn Ðảo, chầu 8 lái để đệm cho đồng nhi thài.)

13.  Quì.
(Nhạc đổ Lễ quì, con cháu dâng cơm lên, Nhạc đổ, Lễ đứng lên, sang trở xuống, Nhạc thúc bụa cho Lễ xuống, dứt).

14.  Cúc cung bái.
(Nhạc trổi lớp tư, con cháu đều lạy 2 lạy)

15.  Cung tấn tửu nghi.
(Sửa soạn dâng rượu. Nhạc xây tá đờn bài Hạ, Lễ bưng ly và nhạo đến ngoại nghi).

16.  Quì.
(Nhạc đổ, Lễ quì, dứt đờn).

17.  Chước tửu.
(Nhạc trổi thét, con cháu rót rượu, Nhạc đổ trống. Lễ đứng dậy).

18.  Hiến tửu.
(Nhạc gài trống đờn Ðảo, chầu 8 lái, Lễ điện, đồng nhi thài).

19.  Quì.
(Hành lễ như từng soạn).

20.  Thượng tửu nghi.
(Con cháu dâng rượu lên, Nhạc đổ trống, Lễ lên, trở bụa, Lễ xuống trở về ngoại nghi).

21.  Cúc cung bái.
(Con cháu lạy 2 lạy)

22.  Phân hiến thọ tửu.
(Các Chấp sự hai bên rót rượu đãi các vị thân bằng. Nhạc trổi Bắc cấu).

23.  Khánh chúc.
(Nhạc gài trống trổi Nam Xuân, Ðồng nhi tụng kinh Chúc thọ giọng Nam xuân)

24.  Cúc cung bái.
(Hành lễ như trên).

25.  Cung tấn trà nghi.
(sửa soạn dâng trà, hành lễ như từng tửu)

26.  Quì.
(Hành lễ như từng tửu).

27.  Ðiểm trà.
(Rót nước trà. Hành lễ như từng tửù).

28.  Hiến trà.
(Hành lễ như từng tửu).

29.  Quì.
(Hành lễ như từng tửu).

30.  Thượng trà nghi.
(Hành lễ như từng tửu).

31.  Cúc cung bái.
(Hành lễ như từng tửu).

32.  Hưng bình thân.
 (Con cháu đứng dậy, Nhạc trổi trống thét, dứt).

33.  Chúc huấn từ.
(Vị thọ nhơn để lời phủ dụ con cháu)

34.  Tử tôn dĩ hạ giai xuất.
(Con cháu đều đi ra.Nhạc trổi thét,dứt)

35.  Thạnh lễ dĩ thành thỉnh thối.
(Cuộc lễ long trọng đã xong, xin mời lui ra. Nhạc trổi, trống bạc chiên một hồi tiếp thét rồi dứt)

III. Các bài chúc đáo tuế.

1. Bài Dâng cơm (Từng phạn)

Trai phạn xin dâng thọ phước lành,

Nghìn thu hạnh đức rạng thinh danh.

Thủy chung vẹn giữ gương nhơn nghĩa,

Trọn hưởng hồng ân buổi đạo thành.

2. Bài Dâng rượu (Từng Tửu)

Hồng tửu kính dâng chúc thọ trường,

Tinh thần quí thể đặng an khương.

Tâm thành đức vẹn nêu gương đạo,

Ðất Việt trùng hưng hưởng thái bường.

3. Bài Dâng trà (Từng trà)

Thanh trà mỹ vị lễ xin dâng,

Ðáo tuế nguơn sanh chí lục tuần.

Hạnh ngộ Tam Kỳ, Thiên tứ phước,

Ðạo thành đời rạng hưởng phong thuần.

4. Bài Chúc thọ Ðáo tuế. (Giọng Nam xuân)

Mừng nay đáo tuế chi kỳ,

Kính dâng khánh hạ lễ nghi trang hoàng.

Cầu cho thọ tỷ Nam san,

Miên trường bá tuế hân hoan tinh thần.

Tận tâm ái quốc ưu dân,

Ðạo Trời trọn phận, nghĩa nhân vẹn toàn.

Hưởng nhờ hồng phước rưới chan,

Thông minh đạo lý dìu đàng Nam nhi. (Nữ nhi)

Phải trang cách vật trí tri,

Tửu, trà, thực phẩm, lễ nghi chúc mừng.

Ngày nay đáo tuế lục tuần,

Chúc cho quí thể tinh thần an khương.

Chúc cho vạn sự thái bường,

Ðạo thành đời rạng miên trường muôn năm./.

5. Mẫu sớ văn cầu nguyện trong Lễ Ðáo tuế:

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ

(Thất . . . . niên)

Tam Giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhứt.

Thời duy, Thiên vận . . . . . niên, . . . . . . . ngoạt, . . . . . . . nhựt, . . . . thời, hiện tại Việt Nam quốc, . . . . . Trấn, . . . . Châu, . . . . Tộc, . . . . . Hương, cư trụ . . . . . . chi trung.

Kim đệ tử . . . . . . . . . . . . . . . công đồng chư Chức sắc hiệp dữ Chức việc, Ðạo hữu Nam Nữ đẳng, quì tại Thiên bàn (điện tiền) thành tâm trình tấu:

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI:

Huyền Khung Cao Thượng Ðế
Ngọc Hoàng Ðại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO:

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn,

Thái Thượng Ðạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn,

Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ÐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM:

Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai,

Lý Ðại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ,

Hiệp Thiên Ðại Ðế Quan Thánh Ðế Quân.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn,

Thái Công Tướng Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn,

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn,

Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.

Kim vì châu niên kiết nhựt Ðáo tuế chi lễ,

Ðệ tử ………………. niên canh lục thập nhứt tuế,

Bửu quyến………… thiết lập đàn tràng, hương đăng hoa trà quả, thanh chước chi nghi, lễ kỳ chúc Hạ thọ,

Ngưỡng nguyện Ðại Từ Phụ, Ðại Từ Mẫu, các Ðấng thiêng liêng thi ân bố đức cho đệ tử nhựt nhựt tinh thần mẫn huệ, niên niên đạo đức, vĩnh hưởng an khương, gia phong thạnh mậu, tử hiếu tôn hiền, ngưỡng lại Thánh ân, từ bi gia huệ phúc.

Chư đệ tử đồng thành tâm khấu bái cẩn sớ thượng tấu, Dĩ Văn.

Ðệ tử                            

 

CHUNG

CHUNG

1.    CHUNG: Cuối cùng, hết, trọn, suốt.
Td: Chung cửu, Chung niên.

2.    CHUNG: Cái chuông.
Td: Chung đỉnh.

3.    CHUNG: Cái cốc uống rượu, tụ họp un đúc lại.
Td: Chung ly biệt, Chung tình.

 

Chung cửu

終九

A: Final neuvaine.

P: Neuvaine finale.

Chung: Cuối cùng, hết, trọn, suốt. Cửu: tuần cửu, tuần 9 ngày.

Chung cửu là tuần cửu chót hết làm cho người chết.

Ðó là tuần cửu cửu, tức là tuần cửu thứ 9, đến đây thì hết làm tuần cửu. Ðợi 200 ngày sau làm Tiểu tường.

 

Chung đỉnh

鐘鼎

A: The bell and the basin: Honour and wealth.

P: La cloche et la vasque: Honneur et richesse.

Chung: Cái chuông. Ðỉnh: cái vạc lớn để nấu cơm.

Chung đỉnh là cái chuông và cái vạc, ý nói sự giàu sang và danh tiếng.

Ðiển tích: Mạnh Thường Quân làm Tể Tướng nước Tề thời Xuân Thu, giàu sang tột bực, lại là người nhân nghĩa, chiêu hiền đãi sĩ, thường có vài ngàn khách trí thức trong nhà để quây quần bàn việc quốc gia đại sự, ích nước lợi dân.

Do đó, nhà Mạnh Thường phải dùng những vạc lớn để nấu cơm, đến giờ ăn cơm thì đánh chuông làm hiệu mời khách.

Trong tôn giáo thường dùng các từ ngữ như: miếng đỉnh chung, mùi chung đỉnh, là để chỉ sự giàu sang danh vọng nhưng lại có ý chê bai khinh rẻ bởi vì đó là những thứ vật chất giả tạm, mà muốn có được nó thì phải bất nhơn thất đức, và cái giàu sang ấy lại buộc con người vào vòng phiền não.

TNHT:

Ham miếng đỉnh chung, mê sắc đẹp.

Hại thân, tiếng xấu để muôn đời

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chung hiến lễ

終獻禮

A: The final offer.

P: L'offre finale.

Chung: Cuối cùng, hết, trọn, suốt. Hiến: dâng. Lễ: cách bày tỏ sự tôn kính.

Chung hiến lễ là lễ dâng lần chót.

Lễ dâng rượu lần đầu gọi là: Sơ hiến lễ.

Lễ dâng rượu lần thứ nhì gọi là: Á hiến lễ.

Lễ dâng rượu lần thứ ba và cũng là lần chót thì gọi là: Chung hiến lễ.

 

Chung ly biệt - Chung ly hận

鍾離別 - 鍾離恨

A: The cup of separation.

P: La coupe d'adieu.

Chung: Cái cốc uống rượu, tụ họp un đúc lại. Ly: chia lìa. Biệt: xa cách. Hận: giận vì thương tiếc.

Chung ly biệt là ly rượu bày tỏ sự biệt ly, không bao giờ gặp mặt lại.

Chung ly hận là ly rượu bày tỏ sự biệt ly và thương tiếc.

KTKTQV: Rót chung ly hận gật mình đưa thương.

KTKCQV: Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa.

KTKTQV: Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị.

KTKCQV: Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị.

 

Chung niên

終年

A: The whole year.

P: Toute l'année.

Chung: Cuối cùng, hết, trọn, suốt. Niên: năm.

Chung niên là hết năm, hay là suốt năm.

Phúc trình chung niên: Bản báo cáo gởi lên cấp trên vào dịp cuối năm để tường trình tất cả công việc xảy ra trong suốt một năm qua của cơ quan để cấp trên biết rõ.

 

Chung phong

鐘風

A: The sound of bell brought by the wind,

P: Le son de cloche apporté par le vent.

Chung: Cái chuông.  Phong: gió.

Chung phong là tiếng chuông theo gió đưa lại.

KÐ8C: Say sưa bầu khí bồi hồi chung phong.

KÐ8C: Kinh Ðệ Bát cửu.

 

Chung qui

終歸

A: Finally.

P: Finalement.

Chung: Cuối cùng, hết, trọn, suốt. Qui: trở về.

Chung qui là rốt cuộc lại.

Nói về đời sống của con người, Chung qui là chết và trở về, tức là lúc cuối cùng, lúc dứt hơi, thể xác chết, linh hồn xuất ra khỏi thể xác bay trở về cõi thiêng liêng.

TNHT: Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác mới thấy cơ mầu nhiệm đặng thì chừng ấy muộn rồi.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chung thân

終身

A: The whole life.

P: Toute la vie.

Chung: Cuối cùng, hết, trọn, suốt. Thân: thân mình.

Chung thân là suốt cuộc sống của mình, tức là suốt đời.

 

Chung tình

Có hai trường hợp:

* Trường hợp 1: Chung tình

鍾情

A: Ardent love.

P: Amour ardent.

Chung: Cái cốc uống rượu, tụ họp un đúc lại. Tình: tình yêu.

Chung tình là tình yêu gom đúc lại dành cho một người.

KHP: Ðã cùng gánh chung tình hòa ái.

* Trường hợp 2: Chung tình

終情

A: Constant in love.

P: Fidèle à l'amour.

Chung: Cuối cùng, hết, trọn, suốt. Tình: tình yêu.

Chung tình là tình yêu chung thủy, trước sau như một.

KHP: Kinh Hôn Phối.

 

CHÚNG

CHÚNG

CHÚNG: Ðông đảo, nhiều người.
Td: Chúng nam, Chúng sanh.

 

Chúng nam

眾男

A: The men. 

P: Les hommes.

Chúng: Ðông đảo, nhiều người. Nam: đàn ông con trai, nam phái.

Chúng nam là những người phái nam, các tín đồ nam phái.

 

Chúng sanh

眾生

A: All the living beings.

P: Tous les êtres vivants.

Chúng: Ðông đảo, nhiều người. Sanh: sống.

Chúng sanh là tất cả các loài vật có sự sống.

Chúng sanh gồm: Vật chất, Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại.

CG PCT: "Vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, cầm thú hữu sanh, nhơn loại hữu sanh, tức chúng sanh.

Trong chúng sanh có: Nguyên sanh, Hóa sanh, Quỉ sanh.

·         Nguyên sanh là gốc từ khai Thiên đã có.

·         Hóa sanh là khai Thiên rồi mới biến hóa ra.

·         Quỉ sanh là hai phẩm kia phạm Thiên điều, bị sa đọa.

Tỷ như Nguyên nhân, là khi khai Thiên rồi thì đã có chơn linh ấy, còn Hóa sanh là chơn linh vật loại đoạt đến phẩm vị nhơn phẩm, còn Quỉ nhân là hai chơn linh kia xu hướng ác hành mà bị đày vào Quỉ vị. Trong các kiếp hữu sanh (tức là chúng sanh) duy có phẩm người là cao hơn hết, nên gọi là Thượng sanh. Lập TKPÐ nầy, Thầy đem các chơn linh, dầu Nguyên sanh, Quỉ sanh hay là Hóa sanh lên phẩm vị nhơn loại mới trọn câu phổ độ."

Trong chúng sanh, nếu căn cứ theo cách sanh ra thì có thể chia chúng sanh làm 4 loại:

·         Thai sanh: Sanh ra bằng bào thai trong bụng mẹ, như: Loài người, trâu, bò, chó, mèo, v.v....

·         Sanh ra bằng trứng: Gà, vịt, loài chim....

·         Sanh ra do biến hóa: Ruồi, muỗi, bướm....

·         Thấp sanh: Sanh ra do ẩm thấp: Trùng, dế, sâu, rầy....

Từ ngữ "chúng sanh" thường được dùng theo nghĩa hẹp là chỉ nhơn sanh, nhơn loại.

KÐ4C: Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.

CG PCT: Chú Giải Pháp Chánh Truyền.

TKPÐ: Tam Kỳ Phổ Ðộ.     KÐ4C: Kinh Ðệ Tứ cửu.

 

Chúng sơn

眾山

A: Buddhist.

P: Buddhiste

Chúng: Ðông đảo, nhiều người. Sơn: núi.

Các vị tăng Phật giáo thường lên núi cất chùa để tu hành, vì nơi ấy thanh tịnh vắng vẻ, nên chữ sơn dùng để chỉ các tu sĩ Phật giáo.

Chúng sơn là các tu sĩ Phật giáo.

 

CHUYÊN

Chuyên luyện

專練

A: To exercise specially.

P: S'exercer spécialement.

Chuyên: chăm chỉ làm một công việc. Luyện: làm nhiều lần cho quen và giỏi.

Chuyên luyện là chăm chỉ luyện tập nhiều lần cho thuần thục.

TÐ ÐPHP: Vì không đủ thì giờ để chuyên luyện hoặc cho là chưa trọng hệ lắm, nên có điều sơ lược.

TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

 

Chuyên quyền

專權

A: The usurping power.

P: Le pouvoir usurpatoire.

Chuyên: giữ riêng lấy cho mình. Quyền: quyền hành.

Chuyên quyền là một mình nắm giữ quyền hành, không chịu chia xẻ bớt cho người khác mà lại còn lấn lướt sang quyền hành của người khác.

TNHT: Thầy chưa hề một mình chuyên quyền bao giờ.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

CHUYỂN

CHUYỂN

CHUYỂN: Dời đổi, thay cái cũ đổi ra cái mới.
Td: Chuyển kiếp, Chuyển thế.

 

Chuyển đọa vi thăng

轉墮為升

A: To change the descent into ascendant.

P: Changer la descente en l'ascendance.

Chuyển: Dời đổi, thay cái cũ đổi ra cái mới. Ðọa: đày xuống chỗ tối tăm khổ sở. Vi: làm. Thăng: bay lên cao.

Chuyển đọa vi thăng là thay đổi sự đày đọa thành siêu thăng.

PMCK: Huờn hồn chuyển đọa vi thăng.

PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

 

Chuyển kiếp

轉劫

A: To reincarnate, the reincarnation.

P: Réincarner, la réincarnation.

Chuyển: Dời đổi, thay cái cũ đổi ra cái mới. Kiếp: một kiếp sống nơi cõi trần.

Chuyển kiếp là đầu thai nơi cõi trần một kiếp sống nữa.

TNHT: Vào Tam thập lục Thiên rồi, phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng lên đến Bạch Ngọc Kinh.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chuyển luân

轉輪

A: To turn round, the metemsychosis.

P: Tourner, la métemsychose.

Chuyển: Dời đổi, thay cái cũ đổi ra cái mới. Luân: cái bánh xe, chỉ sự xoay vần.

Chuyển luân là sự luân hồi chuyển kiếp.

Linh hồn từ cõi thiêng liêng đầu thai xuống cõi trần, rồi chết, linh hồn trở về cõi thiêng liêng, sau đó lại đầu kiếp xuống trần, cứ lên lên xuống xuống như cái bánh xe xoay tròn.

PMCK: Chuyển luân định phẩm cao thăng.

PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

 

Chuyển pháp

轉法

A: To change the laws.

P: Changer les lois.

Chuyển: Dời đổi, thay cái cũ đổi ra cái mới. Pháp: luật pháp.

Chuyển pháp là thay đổi pháp luật để thích hợp với tình hình mới.

TNHT: Khi mơi nầy, Em nghe đặng tin lành: Ngọc Hư Cung lo chuyển pháp.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chuyển thân tái thế

轉身再世

A: To reincarnate.

P: Réincarner.

Chuyển: Dời đổi, thay cái cũ đổi ra cái mới. Thân: thân mình. Tái: lại một lần nữa.

Chuyển thân tái thế là đem cái thân đầu thai xuống cõi trần một lần nữa.

KSH: Chuyển thân tái thế ngựa trâu công đền.

KSH: Kinh Sám Hối.

 

Chuyển thế

轉世

A: To renovate the world.

P: Renover le monde.

Chuyển: Dời đổi, thay cái cũ đổi ra cái mới. Thế: đời, cõi đời, cõi trần.

Chuyển thế là làm cho cảnh đời thay đổi từ xấu ra tốt, làm cho đời tệ hóa ra hay.

TÐ ÐPHP: Bần đạo nhớ buổi Chí Tôn mới đến tỏ danh hiệu Ngài, Ngài hứa với các môn đệ của Ngài buổi đầu tiên về cơ quan chuyển thế, làm phân vân biết bao nhà trí thức tìm hiểu hai chữ Chuyển Thế là gì?

Theo Triết lý học, định nghĩa chữ Chuyển Thế là xoay đổi thời đại hiển nhiên ra thời đại khác, hoặc không phù hạp, hoặc quá khuôn khổ nề nếp, nên quyết đoán lập trường thiêng liêng vì thời đại nầy đã định.

Chuyển nghĩa là sửa cũ ra mới. Lấy nghĩa lý đã định hẳn ra, tức nhiên chúng ta nhận thấy các khuôn luật đạo đức từ trước đến giờ để lại đều bị biếm trách cả, bởi vì đời quá hung tàn bạo ngược vô nhơn luân, tinh thần đạo đức không qui định tâm lý loài người không tương quan cùng nhau. Mất cả luật đồng sanh làm căn bản của loài người, luật đồng sanh gần như bị hủy bỏ.

CG PCT: Thượng Sanh đặng mạng lịnh chuyển thế, điều độ nhơn sanh ra khỏi trầm luân khổ hải.

TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

CG PCT: Chú Giải Pháp Chánh Truyền.

 

CHƯ

CHƯ

CHƯ: Nhiều người, nhiều thứ, nhiều cái.
Td: Chư hiền, Chư nhu, Chư sơn.

 

Chư ác mạc tác

諸惡莫作

Chư: Nhiều người, nhiều thứ, nhiều cái. Ác: điều ác. Mạc: không, chớ. Tác: làm.

Chư ác mạc tác là những điều ác chớ làm.

Ðây là một câu trong bài kệ nổi tiếng của Thiền sư Ô Sào trả lời Ông Bạch Cư Dị:

Chư ác mạc tác,

Chúng thiện phụng hành,

Tự tịnh kỳ ý,

Thị chi Phật giáo.

Những điều ác chớ làm,

Các điều thiện vâng làm,

Tự giữ tâm ý trong sạch,

Ấy là Phật dạy.

 

Chư hiền

諸賢

A: The sages.

P: Les sages.

Chư: Nhiều người, nhiều thứ, nhiều cái. Hiền: người có tài đức hơn người.

Chư Hiền là những người có tài đức hơn người.

Nho giáo có Thất thập nhị Hiền, tức là 72 ông Hiền.

TNHT: Chư Hiền, chư Thánh nho nói rằng: khi nhơn tức khi tâm. (Khinh người tức khinh rẻ cái tâm của mình)

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chư linh

諸靈

A: The superior spirits.

P: Les esprits supérieurs.

Chư: Nhiều người, nhiều thứ, nhiều cái. Linh: thiêng liêng.

Chư linh là các Ðấng thiêng liêng.

KÐ2C: Chơn thần khá đến hội hàng chư linh.

KÐ2C: Kinh Ðệ Nhị cửu.

 

Chư nhu

諸儒

A: The scholars.

P: Les lettrés.

Chư: Nhiều người, nhiều thứ, nhiều cái. Nhu: nho, người học đạo Nho, người trí thức.

Chư nhu là các nho sĩ, các vị trí thức.

TNHT: Thầy mời chư nhu xuất ngoại một giây phút Thầy sẽ kêu vào.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chư sơn

諸山

A: The bonzes. 

P: Les bonzes.

Chư: Nhiều người, nhiều thứ, nhiều cái. Sơn: núi, ở đây chỉ những tu sĩ Phật giáo vì các vị nầy thường cất chùa ở trên núi để tu hành.

Chư sơn là chỉ chung các tu sĩ Phật giáo.

Chư sơn đồng nghĩa: Chúng sơn, Chư tăng.

TNHT: Chư sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

CHỨC

CHỨC

1.    CHỨC: Dệt.
Td: Chức cẩm hồi văn.

2.    CHỨC: Chức vụ, chức phận.
Td: Chứ sắc, Chức việc.

 

Chức cẩm hồi văn

織錦回文

Chức: Dệt. Cẩm: gấm. Hồi: trở lại. Văn: bài văn thơ.

Chức cẩm hồi văn là dệt bài thơ lộn quanh trên gấm.

Ðây là nói nàng Tô Huệ chức cẩm hồi văn, nàng dâng bài thơ ấy lên vua đặng xin cho chồng đang đi lính thú trở về.

 

Chức sắc Thiên phong

職色天封

A: The dignitaries wested by God.

P: Les dignitaires conférés par Dieu.

Chức: Chức vụ, chức phận. Sắc: hình tướng. Thiên: Trời, Ðức Chí Tôn. Phong: ban cho phẩm tước.

Chức sắc là những vị có chức phận trong Ðạo, từ phẩm Giáo Hữu đổ lên.

Phẩm Lễ Sanh chưa phải là Chức sắc chánh thức, chỉ là Chuẩn Chức sắc mà thôi.

Chức sắc Thiên phong là những Chức sắc trong Ðạo do Ðức Chí Tôn ban cho phẩm tước.

Thuở sơ khai nền Ðạo, Ðức Chí Tôn trực tiếp phong chức cho một số môn đệ đầu tiên của Ngài để lập thành Hội Thánh thay thế cho Ðức Chí Tôn lập nên nền Ðạo.

Sự Thiên phong nầy, Ðức Chí Tôn căn cứ trên nguyên căn của chơn linh mỗi người, khi lãnh lịnh Ngọc Hư Cung đầu kiếp xuống trần, chớ không phải căn cứ trên địa vị của người đó trong xã hội nơi mặt thế nầy.

Sau khi lập xong Hội Thánh, Ðức Chí Tôn giao quyền thưởng phạt lại cho Ðức Lý Giáo Tông.

Do đó, sau nầy Ðức Lý Giáo Tông tiếp tục phong chức cho những vị hữu công cùng Ðạo, và những Chức sắc ấy cũng được gọi là Chức sắc Thiên phong.

 

Chức trách trọng hậu

職責重厚

A: The heavy responsability.

P: La responsabilité lourde.

Chức: Chức vụ, chức phận. Trách: trách nhiệm, phần việc phải làm. Trọng: nặng. Hậu: dày dặn.

Chức trách trọng hậu là chức phận lớn, trách nhiệm nặng nề.

TNHT: Mà lại phần đông các con là bậc phẩm cao, chức trách trọng hậu.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chức việc

A: The minoir dignitaries.

P: Les mineurs dignitaires.

Chức: Chức vụ, chức phận. Việc: công việc.

Chức việc là những vị phẩm nhỏ, ở cấp cơ sở Hương đạo, gồm 3 phẩm: Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự , Thông Sự.

Các Chức việc cầm quyền một Hương đạo họp lại thành Bàn Trị Sự của Hương đạo.

 

CHƯNG

CHƯNG

Chưng là tiếng trợ ngữ, thường dùng với chữ Vì.

Ðây là từ ngữ xưa, ngày nay không dùng.

Vì chưng là vì bởi, bởi vì, gốc bởi, vì rằng.

KSH: Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn.

KSH: Kinh Sám Hối.

 

CHỨNG

CHỨNG

CHỨNG: Nhận thực, làm bằng cớ.
Td: Chứng đàn, Chứng quả.

 

Chứng chiếu

證照

A: To prove and to light.

P: Prouver et éclairer.

Chứng: Nhận thực, làm bằng cớ. Chiếu: soi rọi.

Chứng chiếu là nhận thực và soi rọi.

KTKCQV: Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.

KTKCQV: Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị.

 

Chứng đàn

證壇

A: To prove an ceremony.

P: Prouver une cérémonie.

Chứng: Nhận thực, làm bằng cớ. Ðàn: một đàn cúng tế.

Chứng đàn là nhận thực lòng thành kính và chấp nhận những lễ phẩm dâng hiến.

TNHT: Con phải nhớ dặn chúng nó tịnh tâm mới đặng vì có cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chứng đàn.

* Từ ngữ Chứng đàn còn được dùng với ý nghĩa thông thường như sau đây:

Chức sắc chứng đàn: Nơi các Thánh Thất địa phương, Chức sắc chứng đàn thường là vị Chức sắc lớn nhứt trong đàn cúng, quì ngay giữa và phía trước đàn cúng, có nhiệm vụ dâng hương, dâng Tam Bửu, đứng sớ và dâng sớ lên Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng thiêng liêng.

Nơi Thánh Thất của Tộc Ðạo, Chức sắc chứng đàn là vị Lễ Sanh Ðầu Tộc Ðạo.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chứng hôn

證婚

A: To act as witness at a wedding.

P: Être témoin à un mariage.

Chứng: Nhận thực, làm bằng cớ. Hôn: việc gả cưới thành vợ chồng.

Chứng hôn là nhận thực cuộc hôn nhân nầy đúng phép.

TL: Thế luật, Ðiều 8: Làm Lễ Sính rồi, hai đàng trai và gái phải đến Thánh Thất mà cầu lễ "Chứng hôn".

TL: Tân Luật.

 

Chứng minh

證明

A: To prove, to verify.

P: Prouver, vérifier.

Chứng: Nhận thực, làm bằng cớ. Minh: sáng.

Chứng minh là nhận thực rõ ràng.

TNHT: Nhơn sanh phải thiện tâm và hết lòng vì đạo đức mới đặng Thần Thánh chứng minh.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chứng quả

證果

A: To verify the result of improvement.

P: Verifier le resultat de perfectionnement.

Chứng: Nhận thực, làm bằng cớ. Quả: cái kết quả của sự tu hành.

Chứng quả là nhận biết rõ (có bằng cớ) cái kết quả của sự tu hành, tức là nhận biết rõ sự đắc đạo thành Tiên hay Phật.

Ðức Phật Thích Ca thiền định 49 ngày đêm dưới cội cây bồ đề đã chứng quả Phật: Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

 

Chứng sự

證事

A: To recognize.

P: Reconnaître.

Chứng: Nhận thực, làm bằng cớ. Sự: việc.

Chứng sự là nhìn nhận sự việc diễn tiến đúng pháp luật.

TNHT: Mỗi lần nhóm Bàn Trị Sự, ba vị Ðầu Sư phải có mặt, ba vị Chức sắc HTÐ chứng sự, mỗi việc nghị định đều biên chép để lại đành rành, sau khỏi điều dị nghị.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chứng thật - Chứng kiến - Vi chứng

證實 - 證見 - 為證

A: Certification - Eye-witness - Testimony.

P: Certification - Témoin oculaire - Témoignage.

Chứng: Nhận thực, làm bằng cớ. Thật: thực. Kiến: thấy. Vi: làm.

·         Chứng thật: Nhìn nhận đây là sự thật.

·         Chứng kiến: Nhìn nhận có thấy rõ.

·         Vi chứng: Làm chứng vì có bằng cớ rõ ràng.

Theo Cẩm nang Hành đạo của Lại Viện CTÐ lập nên qui ước về sự phân cấp chứng nhận các loại giấy tờ trong Ðạo theo hệ thống Hành Chánh Ðạo, có 3 trường hợp sau đây:

■ Trường hợp thứ nhứt:

Ðương sự là Ðạo hữu đưa giấy tờ đến.

1.    Bàn Trị Sự CHỨNG THẬT là thấy và biết rõ việc đó đúng y lời của đương sự trạng tỏ trong giấy tờ. Bàn Trị Sư chứng thật và cho ý kiến rồi gởi lên Ðầu Tộc Ðạo.

2.    Ðầu Tộc Ðạo CHỨNG KIẾN là thấy và nghe rõ hoàn cảnh ấy nên nhận định chữ ký tên và con dấu của Bàn Trị Sự chứng trước là thật. Ðầu Tộc Ðạo chứng kiến phải cho ý định rành rẽ rồi gởi lên Khâm Châu Ðạo.

3.    Khâm Châu Ðạo VI CHỨNG là biết rõ chữ ký tên, con dấu của Bàn Trị Sự và Ðầu Tộc Ðạo, phải xét kỹ "Chứng thật""Chứng kiến" có hợp pháp không, rồi đệ trình về Hội Thánh nhìn nhận vấn đề ấy là thật. Chữ "THẬT" là biết rõ tờ giấy và công việc yêu cầu nầy là của Ðạo hữu, của Chức việc, Chức sắc trong Ðạo, chớ không phải của người ngoài đời.

■ Trường hợp thứ hai:

Nếu đương sự là Bàn Trị Sự gởi tới Ðầu Tộc Ðạo, thì Ðầu Tộc Ðạo phải CHỨNG THẬT.

Ðầu Tộc Ðạo chứng thật rồi gởi lên Khâm Châu Ðạo, thì Khâm Châu Ðạo CHỨNG KIẾN.

Khâm Châu Ðạo chứng kiến xong rồi gởi về Lại Viện Cửu Trùng Ðài.

■ Trường hợp thứ ba:

Nếu đương sự là Ðầu Tộc Ðạo gởi đến Khâm Châu Ðạo thì Khâm Châu Ðạo CHỨNG THẬT rồi gởi về Lại Viện CTÐ.

Tóm lại, nên nhớ:

·         Cấp thứ nhứt: CHỨNG THẬT.

·         Cấp thứ nhì: CHỨNG KIẾN.

·         Cấp thứ ba: VI CHỨNG.

Về ý nghĩa của 2 chữ: Phê kiến và Phê chuẩn.

·         PHÊ KIẾN: có nghĩa là khi trả xuống ban hành, có khi còn dâng lên tối cao thượng lịnh.

·         PHÊ CHUẨN: tờ giấy ấy dâng lên đến tột phẩm rồi, được phê chuẩn, trả xuống ban hành.

Kết luận:

Ba sự CHỨNG và hai sự PHÊ, Ðầu Tộc Ðạo tùy hoàn cảnh, tùy phương nhận định để sử dụng cho đúng chỗ.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

 

Chứng tri

證知

A: To prove and to understand.

P: Témoigner et comprendre.

Chứng: Nhận thực, làm bằng cớ. Tri: biết.

Chứng tri là chứng thật và biết rõ.

NH: Chín từng Trời Ðất thông truyền chứng tri.

(Chú ý: Bổn kinh của Hội Thánh in năm 1928, chỗ nầy in là Chiếu tri. Chiếu tri là soi rọi biết rõ.)

NH: Niệm Hương.

 

CHUỚC

CHUỚC

1.    CHƯỚC: (Nôm) Mưu kế, phương cách.
Td: Chước mầu.

2.    CHƯỚC: Rót rượu.
Td: Chước tửu.

 

Chước mầu

A: The mysterious manner.

P: La manière mystérieuse.

Chước: Mưu kế, phương cách. Mầu: mầu nhiệm, sâu kín khó lường.

Chước mầu là phương cách rất mầu nhiệm.

TNHT: Sau trước nương nhau ấy chước mầu.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chước sâu kế độc

A: The deep and dangerous scheme.

P: La ruse profonde et dangereuse.

Chước: Mưu kế, phương cách. Kế: mưu kế. Sâu độc: rất ác độc.

Chước sâu kế độc là mưu kế rất thâm độc.

TNHT: Chúng nó lại tưởng rằng kiếp người là kiếp sống chỉ có giây giờ rồi tiêu mất, nên tìm những chước sâu kế độc cho đặng của nhiều, no lòng sướng dạ, trối kệ luân hồi.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chước tửu

酌酒

A: To pour the wine.

P: Verser de vin.

Chước: Rót rượu. Tửu: rượu.

Chước tửu là rót rượu vào cái chung nhỏ.

Ðây là câu xướng của lễ sĩ trong nghi tiết cúng tế.

Khi nghe lễ sĩ xướng câu nầy thì người chấp sự cầm nhạo rượu rót rượu vào cái chung nhỏ.

 

Chước tửu quỳnh

酌酒瓊

Chước: Rót rượu. Tửu: rượu. Quỳnh: một thứ ngọc màu đỏ, được đẻo gọt làm thành cái chung nhỏ để uống rượu, cái chất ngọc quỳnh làm tăng thêm mùi vị thơm ngon của rượu.

Chước tửu quỳnh là rót rượu vào chung bằng ngọc quỳnh.

BDR: Thành kỉnh Trường Xuân chước tửu quỳnh.

BDR: Bài Dâng Rượu.

 

CHƯỞNG

CHƯỞNG

1.    CHƯỞNG: Trông coi các việc, chức giữ.
Td: Chưởng âm, Chưởng ấn.

2.    CHƯỞNG: Ðọc cho đúng âm là CHỦNG, nghĩa là gieo trồng.
Td: Chưởng qua đắc qua.

 

Chưởng âm

掌陰

A: To manage the female element.

P: Diriger l'élément femelle.

Chưởng: Trông coi các việc, chức giữ. Âm: khí Âm quang.

Chưởng âm là cai quản Khí Âm quang.

Khí Hư Vô sanh ra Thái Cực, ngôi của Ðức Chí Tôn. Thái Cực biến hoá tạo thành hai chất Khí: Dương quang và Âm quang, gọi là Lưỡng nghi. Ðức Chí Tôn chưởng quản Khí Dương quang, Ðức Phật Mẫu chưởng quản Khí Âm quang.

PMCK: Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chưởng âm.

PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

 

Chưởng Ấn

掌印

A: Chancellor.

P: Chancelier.

Chưởng: Trông coi các việc, chức giữ. Ấn: con dấu, ấn tín.

Chưởng ấn, nghĩa đen là người giữ ấn tín của vua.

Trong Ðạo Cao Ðài, Chưởng Ấn là một phẩm Chức sắc HTÐ cấp dưới Thập nhị Thời Quân, đứng trên phẩm Cải Trạng, dưới phẩm Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn.

Chưởng Ấn đối phẩm Phối Sư CTÐ.

Nhiệm vụ, quyền hành và Ðạo phục của Chưởng Ấn được qui định trong Hiến pháp HTÐ. (Yêu cầu xem chữ: Hiệp Thiên Ðài, phần Hiến Pháp).

HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

 

Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

掌道月心眞人

Chưởng Ðạo là phẩm tước do Ðức Chí Tôn phong Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn để Ngài cầm quyền chưởng quản Hội Thánh Ngoại Giáo, truyền bá Ðạo Cao Ðài ra ngoại quốc.

Chức Chưởng Ðạo đối phẩm với Chưởng Pháp CTÐ.

Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là đạo hiệu của một vị Thánh của Bạch Vân Ðộng nơi cõi thiêng liêng. Khi giáng trần bên nước Pháp, Ngài có tên là Victor Hugo, một đại văn hào của nước Pháp. (Xem tiểu sử: Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, vần Ng)

Tất cả Chức sắc giáo đạo nơi hải ngoại đều thuộc Hội Thánh Ngoại Giáo, dưới quyền điều khiển trực tiếp của Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn. Ngài cũng có quyền giáng cơ để thăng thưởng hay răn phạt các Chức sắc của Hội Thánh Ngoại Giáo.

TNHT: "Bần đạo khi đắc lịnh làm Chưởng Ðạo lập Hội Thánh giáo đạo tha phương thì tùng lòng bác ái của Chí Tôn, mở rộng thế cho nhơn sanh dâng công đổi vị. Bần đạo chẳng kể là Nguyên nhân, Hóa nhân hay Quỉ nhân, ví biết lập công thì thành đạo."

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

 

Chưởng giáo

掌敎

A: The Chief of a religion.

P: Le Chef d'une religion.

Chưởng: Trông coi các việc, chức giữ. Giáo: tôn giáo.

Chưởng giáo là vị đứng đầu chưởng quản một tôn giáo, tức là vị giáo chủ của một tôn giáo.

TG: Tiên Thiên Chánh Nhứt, Thái Thượng Ðạo Quân Chưởng Giáo Thiên Tôn.

TG: Tiên Giáo, Kinh Tiên Giáo.

 

Chưởng Pháp

掌法

A: Legist-Cardinal, Censor-Cardinal.

P: Cardinal-Légiste, Cardinal-Censeur.

Chưởng: Trông coi các việc, chức giữ. Pháp: pháp luật.

Chưởng pháp là nắm giữ và trông coi về pháp luật.

Trong Ðạo Cao Ðài, Chưởng Pháp là một phẩm Chức sắc rất cao trọng nơi CTÐ, đứng kế dưới Giáo Tông, có nhiệm vụ đặc biệt chưởng quản về Pháp luật trong Ðạo.

Chưởng Pháp đối phẩm với Thượng Phẩm và Thượng Sanh HTÐ, và đối phẩm Nhơn Tiên nơi BQÐ.

(Quyền hành và Ðạo phục của Chưởng Pháp, xin xem trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải, ở đây khỏi lập lại.)

Ðạo phục của ba vị Chưởng Pháp có điểm đặc biệt là Thượng Chưởng Pháp mặc áo màu trắng (thay vì màu xanh của phái Thượng), còn hai vị Chưởng Pháp kia thì màu áo theo sắc phái của mình.

Trong quyển "Chánh Trị Ðạo" của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, có giải thích việc nầy, chép ra sau đây:

"Chưởng Pháp (Cardinal-Censeur):

Ba vị Chưởng Pháp là người có phận sự đặc biệt của HTÐ mà phẩm vị lại ở bên CTÐ. Ấy là Thánh ý của Ðức Chí Tôn muốn CTÐ phải có HTÐ chăm nom gìn giữ làm thế nào cho nền Chơn giáo của Ðức Chí Tôn không qui phàm, nhờ vậy mà Chánh Trị Ðạo không tự tung tự tác, tự do canh cải mà làm mất nét đạo đức, để xứng đáng là một nền Chánh Trị của Trời tại thế có sự công bằng hy hữu vậy.

Tại sao Thượng Chưởng Pháp mặc áo trắng?

- Thượng Chưởng Pháp có quyền thay thế cho Giáo Tông khi vắng mặt (pour remplacer le Pape par intérim).

Ðạo phục của Ðức Giáo Tông màu trắng, màu nguồn gốc của Ðạo. Ðạo không màu sắc hay tượng trưng bằng một màu rất trong sạch là trắng, là màu vô tội, trắng có thể biến ra các màu vàng, xanh, đỏ, v.v....Trở lại màu trắng tức là qui hồi căn bổn vậy."

Các vị Chưởng Pháp đầu tiên:

Thái Chưởng Pháp: Hòa Thượng Như Nhãn

Thượng Chưởng Pháp: Lão Sư Nguyễn Văn Tương

Ngọc Chưởng Pháp: Thái Lão Sư Trần Văn Thụ

Ngọc Chưởng Pháp: Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang

Sau đây là tiểu sử vắn tắt của quí vị Chưởng Pháp trên:

1. Thái Chưởng Pháp:
Hòa Thượng Như Nhãn (1864-1939)

Hòa Thượng Như Nhãn, thế danh là Nguyễn Văn Tường, sanh năm 1864, con của ông Nguyễn Văn Bầu và bà Ðoàn Diệu Hoa, quê quán ở Ðức Hòa (Long An), đi tu từ năm 17 tuổi, qui y với Hòa Thượng Thích Trí Lượng (Minh Ðạt) trụ trì ở chùa Thiền Lâm Cổ Tự (xóm Chùa, tỉnh Tây Ninh), thọ Pháp danh là Thích Từ Phong.

Nguyên vào năm Mậu Tý (1888), tại vùng Phú Lâm Chợ Lớn, (đường Bà Kế, khu vực Chợ Gạo, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6), bà Hồ Thị Lộc có xây một ngôi chùa lớn, đặt tên là Chùa Giác Hải, bà giao cho ông Thủ Tọa Nguyễn Minh Sự coi sóc. Ông Sự mất năm 1908.

Sư Thích Từ Phong về đây kế nghiệp, trụ trì Chùa Giác Hải. Năm 1912, Ngài Thích Từ Phong giữ chức Yết Ma và năm 1924, Ngài được phong chức Hòa Thượng, nên các Phật tử tại vùng nầy thường gọi Ngài là Hòa Thượng Giác Hải.

Trong lúc trụ trì ở chùa Giác Hải, Hòa Thượng Giác Hải có quyên góp tiền bạc trong bổn đạo để mua đất và lập một cảnh chùa tại vùng Gò Kén, Tây Ninh, lấy tên là Từ Lâm Tự (sau đổi lại là Thiền Lâm Tự). Chùa được xây dựng trên một khu đất gò rộng 4 mẫu, dựa quốc lộ Sài Gòn Tây Ninh, cách quốc lộ khoảng 200 mét và cách thị xã Tây Ninh chừng 5 cây số, phía trước cất chùa, phía sau làm nghĩa địa.

Trong số bổn đạo đóng góp tiền mua đất và xây chùa Từ Lâm ở Gò Kén, ông bà Huyện Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh đóng góp tiền bạc nhiều hơn cả. Chùa mới vừa xây dựng xong phần chánh, chưa trang trí, chưa làm đường lớn từ quốc lộ vào chùa. Lúc đó là vào năm 1925.

Vào giữa năm Bính Dần (1926), ông bà Nguyễn Ngọc Thơ được Ðức Chí Tôn thâu làm môn đệ, nhập vào Ðạo Cao Ðài. Hai ông bà cũng muốn Ðức Chí Tôn thâu phục Hòa Thượng Như Nhãn, nên ông bà thuyết phục Hòa Thượng đến dự một đàn cơ cầu Ðức Chí Tôn tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân Ðịnh. Ðức Chí Tôn giáng cơ thâu phục được Hòa Thượng Như Nhãn.

Giữa tháng 7 năm Bính Dần (1926), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn thâu làm môn đệ.

Sau đó, do sự yêu cầu của ông bà Thơ, Hòa Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm (Gò Kén) cho Ðạo Cao Ðài dùng làm Thánh Thất tổ chức Lễ Khai Ðạo.

(Có lẽ trong thời gian xây dựng chùa Từ Lâm ở Gò Kén, Hòa thượng Giác Hải lấy hiệu là Như Nhãn).

Ngày 29-7-Bính Dần (dl 5-9-1926), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn giáng cơ ân phong là: Quảng Pháp Thiền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Thái.

Ngày 15-10-Bính Dần (dl 11-11-1926), Ðại Lễ Khai Ðạo Cao Ðài được tổ chức long trọng tại Thánh Thất Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh), có hằng vạn tín đồ Cao Ðài dự lễ, số quan khách người đời đến dự rất đông.

Ðêm 14 rạng 15 tháng 10 âl, tổ chức đàn cơ trong Thánh Thất, Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt trấn pháp sót một cửa, nên thừa dịp nầy, quỉ nhập vào đàn, một con quỉ nhập vào ông Lê Thế Vĩnh xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, một con quỉ khác nhập vào cô Vương Thanh Chi xưng là Lê Sơn Thánh Mẫu, nói năng búa xua rồi nắm tay nhau nhảy múa, khiến cho nhiều người mới vào Ðạo Cao Ðài mất đức tin.

Hòa Thượng Như Nhãn cũng bị mất đức tin. Mặc khác, số đệ tử của Hòa Thượng Như Nhãn yêu cầu Ngài thôi Ðạo Cao Ðài và đòi chùa lại. Hòa Thượng Như Nhãn nghe theo và quyết định đòi chùa Từ Lâm, không hiến cho Ðạo Cao Ðài nữa, hẹn trong 3 tháng Ðạo Cao Ðài phải dời đi.

Ngày 19-11-Bính Dần, Hòa Thượng Như Nhãn bị thiêng liêng phạt làm cho đau nặng.

Ngày 01-12-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ quở phái Thái và Hòa Thượng Như Nhãn, tỏ ý muốn phế bỏ phái Thái. Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cầu xin Chí Tôn tha thứ phái Thái và đừng bỏ phái Thái (phái Phật).

Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ trục xuất Hòa Thượng Như Nhãn ra khỏi Ðạo Cao Ðài.

Tháng 2 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo Tông quyết định trả chùa Từ Lâm cho Hòa Thượng Như Nhãn, và chỉ dẫn Hội Thánh tìm mua được 96 mẫu đất tại làng Long Thành (Tây Ninh) để dời các cơ sở của Ðạo về nơi đây, lập thành Tòa Thánh Trung ương của Ðạo Cao Ðài.

Hòa Thượng Như Nhãn qui liễu vào ngày 5-12-Mậu Dần (dl 24-1-1939) hưởng thọ 75 tuổi. Tháp của Ngài được xây ngay trước chùa Từ Lâm Tự (nay là Thiền Lâm Tự) Gò Kén.

Trên bia mộ có đề chữ Hán, dịch ra như sau đây:

·         Ngài là Ðại Lão Hòa Thượng Thiền Tông Lâm Tế đời thứ 39.

·         Ngày sanh: 15-3-Giáp Tý (1864).

·         Ngày chết: 5-12-Mậu Dần (1939), thọ 75 tuổi.

Tháp của Hòa Thượng Như Nhãn xây ở chính giữa, hai tháp hai bên là của hai vị: - Hoà Thượng Minh Ðạt, thầy của Ngài Như Nhãn, - Hòa Thượng Hồng Tằng, học trò của Ngài Như Nhãn.

2. Thượng Chưởng Pháp:
Lão Sư Nguyễn Văn Tương (1879-1926)

Ngài Nguyễn Văn Tương sanh năm Kỷ Mão (1879) tại làng Hữu Ðạo, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, con của ông Nguyễn Văn Tỵ và bà Cao Thị Huề.

Nhờ có học thức, Ngài được cử làm Hương Bộ trong làng, nên người ta gọi Ngài là ông Bộ Tương.

Khoảng năm 30 tuổi, Ngài Nguyễn Văn Tương tu theo Ðạo Minh Sư, thọ giáo với Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang.

Ngài Nguyễn Văn Tương theo Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang về hành đạo nơi chùa Linh Quang Tự ở làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, Gia Ðịnh. Ngài tu đến bậc Lão Sư.

Ngài Nguyễn Văn Tương được Ðức Chí Tôn thâu làm môn đệ trước Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang. Do đó, Ngài Tương cùng với đệ tử của Ngài là Nguyễn Văn Kinh xin với Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang lập đàn cơ tại Linh Quang Tự Gò Vấp để Ðức Chí Tôn độ Thái Lão Sư, và được kết quả tốt đẹp.

Trong Phổ Cáo Chúng Sanh có ghi một đoạn như sau:

"Có hai Ðạo hữu: Tương, Kinh, vẫn trước khi nhập môn thì đã thọ nghĩa thầy trò cùng vị lão thành pháp danh là Ðạo Quang nơi chùa Minh Ðường (Hạnh Thông Tây).

Nhằm ngày 21 tháng 8 năm Bính Dần, Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ tại chùa ấy dạy việc, luôn dịp có để lời rằng: ' Tương, Kinh, hai con phải lạy Ðạo Quang trước mặt Thầy, rồi từ đây gọi là Anh mà thôi, còn Thầy duy có một Thầy."

Ngày 24-7-Bính Dần (dl 31-8-1926), Ðức Chí Tôn ân phong cho Ngài Nguyễn Văn Tương là: Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Thượng.

Ngài Nguyễn Văn Tương có người vợ là Bà Võ Thị Tước (1880-1947) và con gái thứ hai là Nguyễn Thị Quyền (1900-1987), cũng đều tùng giáo Cao Ðài. Trong kỳ phong Thánh Nữ phái lần đầu tiên vào ngày 14-1-Ðinh Mão (dl 15-2-1927), Ðức Chí Tôn ân phong:

·         Bà Võ Thị Tước: Lễ Sanh.

·         Cô Nguyễn Thị Quyền: Giáo Hữu.

(Trích trong Ðạo Sử Q.2 của Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu, tr.218)

Ngày 5-11-Bính Dần (dl 11-12-1926), Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương thọ bệnh và đăng Tiên, chỉ hưởng được 48 tuổi tại tư gia ở làng Hữu Ðạo.

Các Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài đến làm lễ tang cho Ngài rất long trọng. Lúc đó, mới khai đạo được khoảng 20 ngày, còn tạm tại Chùa Gò Kén, nên thi hài được an táng nơi quê nhà là làng Hữu Ðạo (gần Chợ Thuộc Nhiêu) quận Cai Lậy, Mỹ Tho.

Sau những năm chiến tranh, ngôi mộ của Ngài hoàn toàn bị hư hại. Năm 1997, nhân dịp Thanh Minh, một vài vị Ðạo tâm tìm tòi biết được vị trí ngôi mộ của Ngài, nên kết hợp với người cháu nội của Ngài là ông Nguyễn Văn Bá, xây dựng lại trên nền mộ cũ một cái tháp nhỏ cao 3 thước 6 tấc.

(Chúng ta lưu ý trong các Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài thuở đầu tiên có 2 vị tên TƯƠNG: - một là Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương, - hai là Thượng Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương, sau được thăng phẩm Quyền Thượng Ðầu Sư, và sau đó tách khỏi Hội Thánh TTTN để lập ra Ban Chỉnh Ðạo ở Bến Tre và trở thành Giáo Tông chi phái Bến Tre. Xem tiểu sử của Ngài Ðầu Sư Nguyễn Ngọc Tương nơi chữ: Chi phái, vần Ch).

Ngay sau khi Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên, ngày 7-11-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy hai Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt:

"Thầy, các con.

Trung, Lịch! Hai con phải dụng Ðại lễ mà an táng cho Tương nghe. Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào đem Tương vào Tam thập lục Thiên, phải để nó đợi nơi Ðông Ðại Bộ Châu mà chờ Tòa Tam Giáo phát lạc.

Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi, nhưng Người giận Tương không công quả, dâng Bộ Công Thiên thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cãi chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến. Các con nghe à!

Vậy trong hịch văn Sớ tấu, các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẽ rỗi cho nó. Các con hiểu.

Lịch bạch Thầy về sự Ðại lễ . . . . . . .

- Không con! . . . Ðại lễ là làm theo một lễ với sự an táng bậc Thái Lão nghe! . . . ." (trích trong Ðạo Sử II tr. 86)

Ngay Tết Ðinh Mão, ngày 1-1-Ðinh Mão (dl 1-2-1927), Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương giáng cơ:

Thượng Chưởng Pháp TƯƠNG

"Hỷ chư Ðạo hữu, chư Ðạo muội.

Mừng ... Mừng ... Mừng ... Vui ... Vui ... Vui ...

Ðại phước cho cả nhơn sanh, đại hạnh cho Ðịa cầu 68 nầy! Em còn phải công quả phổ độ mới vào đặng Tam thập lục Thiên, nhờ Ðại Từ Phụ cứu độ Em, khuyên nhủ cùng chư Huynh khá coi Thiên vị mình là trọng, vì là của quí báu vô giá, còn sụt sè đường Ðạo, xin nhớ lấy danh Em cự chống cùng tà ma quỉ mị cám dỗ.

Tương đây, công cán chẳng chi mà còn đặng địa vị nầy, huống lựa là mấy anh độ rỗi toàn cả Cửu nhị Nguyên nhơn thì phẩm cựu sẽ đặng trổi thêm thế nào! Xét lấy đủ vui lòng hành đạo." (TNHT. I. tr 92).

3. Ngọc Chưởng Pháp:
Thái Lão Sư Trần Văn Thụ (1857-1927)

Ngài Trần Văn Thụ sanh năm Ðinh Tỵ (1857), tại làng Ðức Hưng, tổng Dương Hòa Hạ, tỉnh Gia Ðịnh.

Thuở nhỏ Ngài học chữ Nho, lớn lên làm nghề dạy học.

Năm Ðinh Mùi (1907), Ngài đến chùa Vĩnh Nguyên Tự tại làng Long An, quận Cần Giuộc, thọ giáo với Thái Lão Sư Lê Ðạo Long, thế danh là Lê Văn Tiểng (1843-1913) để học Ðạo Minh Sư. Ngài được Sư phụ Lê Ðạo Long thâu nhận và ban cho pháp danh là Trần Ðạo Minh. Ngài là đệ tử lớn nhứt trong các đệ tử của Thái Lão Sư Lê Ðạo Long nơi Vĩnh Nguyên Tự.

Ðến năm Bính Dần (1926), tức là sau khi Thái Lão Sư Lê Ðạo Long liễu đạo 12 năm, Thái Lão Sư giáng cơ cho biết là Ngài đã đắc quả Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn, và khuyên các đệ tử nay tùng giáo theo Ðức Cao Ðài Ngọc Ðế.

Các đệ tử vâng theo lời Ngài, và do đó, Vĩnh Nguyên Tự trở thành cơ quan của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thuở đầu tiên và sau nầy trở thành Thánh Thất của Ðạo Cao Ðài gọi là Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự.

Ngài Trần Ðạo Minh lúc đó đã tu lên đến bực Thái Lão Sư, và con trai Ngài Lê Ðạo Long là Lê Văn Lịch tu tới bực Dẫn Ân, đạo hiệu Lê Xương Tịnh, cùng các đệ tử khác tại Vĩnh Nguyên Tự, đều vâng lịnh Ðức Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn, tùng giáo Ðấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

- Ngài Trần Văn Thụ (pháp danh Trần Ðạo Minh) được Ðức Chí Tôn giáng cơ ân phong là: Nho Tông Chưởng Giáo Tuyên Ðạo Thiền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Ngọc, trong đàn cơ tại Vĩnh Nguyên Tự đêm mùng 10-9-Bính Dần (dl 16-10-1926).

- Ngài Lê Văn Lịch được Ðức Chí Tôn ân phong là Ðầu Sư phái Ngọc, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt, cùng một lượt với Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, trong cuộc Thiên phong đầu tiên tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, vào đêm 12-3-Bính Dần (dl 23-4-1926).

Ở đây có sự liên hệ gia đình: con gái của Ngài Trần Văn Thụ, quí danh Trần Thị Khá, được gả cho Ngài Lê Văn Lịch.

Kể từ khi Ngài Trần Văn Thụ thọ phong Ngọc Chưởng Pháp, Ngài vâng lịnh Ðức Chí Tôn, cùng với các vị Chức sắc Thiên phong khác lo đi hành đạo, phổ độ nhơn sanh.

Khi làm lễ Khai Ðạo tại Thánh Thất tạm ở Chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh), ngày 15-10-Bính Dần (1926) thì Ngài Ngọc Chưởng Pháp thường xuyên hành đạo tại đó, để cùng quí Chức sắc cao cấp khác soạn thảo Tân Luật theo lịnh dạy của Ðức Chí Tôn.

Qua năm sau, tức là năm Ðinh Mão (1927), Ngài Ngọc Chưởng Pháp lâm bịnh, Ngài trở về nhà an dưỡng tại làng Trường Bình, quận Cần Giuộc, sau đó Ngài đăng Tiên vào ngày 14-5-Ðinh Mão (dl 13-6-1927), hưởng thọ 71 tuổi.

Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt, Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh, Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh, Phối Sư Thái Ca Thanh, cùng nhiều Chức sắc khác đến thọ tang và phúng điếu.

Bởi cơ Ðạo còn sơ khai, đang tạm ở Từ Lâm Tự, nên gia đình Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đưa linh cữu của Ngài an táng nơi quê nhà ở làng Thới Hiệp, cạnh ngôi chùa cũ của Ngài, nay là Ấp 1 Xã Hiệp Phước, quận Nhà Bè.

Năm 1996 (Bính Tý), Ban Cai Quản Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự đã lấy cốt của Ngài Ngọc Chưởng Pháp đem cải táng về đất phía sau Vĩnh Nguyên Tự, nằm cạnh ngôi mộ của Ngài Thái Lão Sư Lê Ðạo Long.

Di ảnh của Ngài Ngọc Chưởng Pháp được thờ nơi Hậu Ðiện Vĩnh Nguyên Tự, cùng với di ảnh của Ðức Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn và của Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.

Ðức Ngọc Chưởng Pháp thường giáng cơ dạy đạo tại Vĩnh Nguyên Tự, xưng hiệu là: Thiết Quang Chơn Nhơn.

Trong quyển sách ÐẠO NGUYÊN CHÁNH NGHĨA do Vĩnh Nguyên Tự in năm 1939, có in hình Ðức Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ, đề là:

Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ

Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Minh

Thiết Quang Chơn Nhơn, Ngọc chiếu.

với hai câu liễn đặt ở hai bên ảnh là:

CHƯỞNG khai Nho phái Tam Kỳ Ðạo,

PHÁP hóa Thiền Tông Tứ giáo truyền.

4. Ngọc Chưởng Pháp:
Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang (1870-1946)

Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần Văn Quang (có tài liệu chép là Trần Thanh Nhàn) sanh ngày 10-11-Canh Ngọ (dl 31-12-1870) tại Ban Dầy, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Ngài là con trai duy nhứt của ông Trần Chí Hiếu và bà Dương Mỹ Hậu. Hai ông bà làm nghề nông và tu theo đạo Minh Sư, tông Phổ Tế.

Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ. Năm 12 tuổi, Ngài noi theo cha mẹ, tu theo đạo Minh Sư. Năm 16 tuổi, Ngài bắt đầu ăn chay trường. Thái Lão Sư Trần Ðạo Cửu nhận làm thầy đứng ra khai thị cho Ngài.

Năm 21 tuổi, Ngài xuất gia tu hành, bắt đầu tu Nhứt Thừa: Nhứt bộ rồi Nhị bộ và Tam bộ, sau tiến lên tu Nhị Thừa qua bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân, Dẫn Ân, Bảo Ân; rồi Ngài tiếp tục tu lên Tam Thừa, qua hai bậc:

·         Ðảnh Hàng: lấy đạo hiệu Trần Vận Quang.

·         Thập Ðịa là Thái Lão Sư: lấy đạo hiệu là Trần Ðạo Quang. Năm nầy Ngài được 45 tuổi.

Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang, được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam, nên Ngài về trụ trì chùa Linh Quang Tự là Tổ đình của Tông Phổ Tế ở VN.

Tổ Sư của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư bên Tàu là Thái Lão Sư Trần Ðạo Khánh dự định phong cho Ngài Trần Ðạo Quang làm "Việt Nam Ðệ Nhứt Tổ" của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam. (Tài liệu của Huệ Nhẫn)

Trong lúc đó thì Lão Sư Nguyễn Văn Tương và Nguyễn Văn Kinh đã được Ðức Chí Tôn độ theo Ðạo Cao Ðài, nên hai Ngài xin lập đàn cơ tại Linh Quang Tự để Ðức Chí Tôn độ Ngài Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang luôn thể, và Ngài Trần Ðạo Quang được Ðức Chí Tôn độ nên bằng lòng qui hiệp vào Ðạo Cao Ðài.

Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên tại làng Hữu Ðạo quận Cai Lậy thì khoảng hơn một tháng sau, Ðức Chí Tôn phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927). (Theo Ðạo Sử của Bà NÐS Hương Hiếu Q.2 trang 172 và 192)

Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên ngày 14-5-Ðinh Mão, thì sau đó ít lâu, Ðức Chí Tôn ân phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Ngọc Chưởng Pháp chánh vị.

Trong cơ Ðạo phân chia Chi phái, năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi TTTN về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.

Năm 1937, Ngài Ngọc Chưởng ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài Ngọc Chưởng Pháp không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra Trung. Cho nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng, Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh Thất Trung Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt.

Ngày 17-2-Bính Tuất (dl 20-3-1946), Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang đăng Tiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi.

Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp.

BQÐ: Bát Quái Ðài.

HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

TTTN: Tòa Thánh Tây Ninh.

 

Chưởng qua đắc qua, chưởng đậu đắc đậu

種瓜得瓜, 種豆得豆

Chưởng: Ðọc cho đúng âm là CHỦNG, nghĩa là gieo trồng. Qua: trái dưa. Ðắc: được. Ðậu: cây đậu.

Chưởng qua đắc qua: Trồng dưa thì được trái dưa.

Chưởng đậu đắc đậu: Trồng đậu thì được trái đậu.

Ðây là câu nói rất thông dụng để diễn tả Luật Nhân Quả một cách cụ thể và thật dễ hiểu: Gieo nhân nào thì được quả nấy, nhứt định không bao giờ sai chạy. Nếu gieo nhân lành thì được trái lành, hễ gieo gió thì gặt bão.

Tuy nhiên, kết quả có thể thấy được liền (Tốc báo) hay thấy nội trong một kiếp, hoặc đôi khi phải chờ đợi đến kiếp sau, nhưng cái kết quả ấy nhứt định không thể thay đổi được.

 

Chưởng quản

掌管

A: To manage, Manager.

P: Diriger, Directeur.

Chưởng: Trông coi các việc, chức giữ. Quản: coi giữ, quản lý.

Chưởng quản (động từ) là nắm giữ và coi sóc các công việc trong một cơ quan.

Chưởng quản (danh từ) là người đứng đầu cơ quan, điều hành và chịu trách nhiệm các công việc của cơ quan.

Cơ Quan Phước Thiện chia ra Nam phái và Nữ phái. Mỗi phái có một vị Chưởng quản đứng đầu:

·         Chưởng Quản Phước Thiện Nam phái là một vị Chơn Nhơn Nam phái.

·         Chưởng Quản Phước Thiện Nữ phái là một vị Chơn Nhơn Nữ phái.

Bên trên là một vị Thời Quân chi Ðạo HTÐ chưởng quản toàn cả Cơ Quan Phước Thiện Nam Nữ, gọi là Thống Quản Phước Thiện.

HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

 

Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố

種善果於詩書之圃

Chưởng: Ðọc cho đúng âm là CHỦNG, nghĩa là gieo trồng. Thiện: lành. Quả: cái trái. Ư: ở tại. Thi: thi văn. Thơ: thư, sách. Chi: hư tự. Phố: vườn trồng cây và hoa kiểng.

Ðây là một câu kinh trong bài Kinh Nho giáo, có nghĩa là: Gieo trái lành nơi vườn văn chương sách vở.

Ý nói: Ðức Khổng Tử viết kinh sách dạy dỗ nhơn sanh làm điều lành, làm điều đạo đức nhơn nghĩa, tức là gieo trái lành nơi vườn văn chương, thì chắc chắn sẽ hưởng được điều hạnh phúc tốt đẹp về sau.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



 

Cập nhật ngày: 28-02-2018

CHA | CHÂ | CHE | CHI | CHƠ | CHU | CHƯ


A | B | C | CH | D | Đ | G | H | K | L | M | N | NG | NH | O | P | Q | R | S | T | TH | TR | U | V | X | Y


[ MỤC LỤC ]

Ấn bản (v.2012)

CAO ĐÀI TỪ ĐIỂN
Soạn giả: Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng bút hiệu ĐỨC NGUYÊN
Ấn hành do theo hiệu đính 03-2003

DOWNLOAD
E-book-PDF