`
X
1.- Xa là cách nhiều, không gần, tức ở một khoảng tương đối lớn, trong không gian, hoặc thời gian, như đường xa, xa xưa, đi xa, trong tương lai xa.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy khuyên các con phải chung lưng đâu cật mà bước đến cảnh nhàn. Cảnh ấy, tuy các con không thể thấy đặng, nhưng mà các con có thể đến đặng, là ngày nào các con rõ đặng lẽ Ðạo mà Thầy đã đem chỉ cho tận nơi, nếu các con phấn chí về Ðạo thì ngày đạt mục đích ấy cũng chẳng xa chi.
Đường tu nối bước cho quen,
Xa trần tăm tối cận đèn Thiêng Liêng.
(Kinh Thế Đạo).
Gần nơi Tiên cảnh phải xa phàm,
Cái kiếp trần nầy trẻ chớ ham.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chờ cho trễ bước thuyền xa bến,
Bến tục thoát vòng hết ước mơ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Xa còn có nghĩa là cách biệt, như xa quê hương, xa vợ con, xa thánh giáo.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã nói Ngũ Chi Ðại Ðạo bị quy phàm là vì khi trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà lập ra Phàm giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa.
Phạm Trọng Yêm mấy lần xa vợ,
Nợ quân vương nhiều thuở truân chuyên.
(Nữ Trung Tùng).
3.- Xa 車 là chiếc xe, bánh xe, một phương tiện đi lại hoặc vận chuyển.
Như: Hoả xa, xa giá, xa thơ, Tiên xa.
Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.
(Kinh Tận Độ).
Xa: Không gần. Cách: Ngăn xa nhau.
Xa cách là cách một khoản xa, ý chỉ hai người chia lìa xa nhau.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Phật Mẫu có dạy: Kể từ lúc Mẹ con xa cách, Mụ đã bao phen đổ lụy vì các con. Điểm linh tâm ấy ở đâu? Các con khá nhớ lời dạy đặng mau về chung cõi.
Tuy xa cách mặt lòng không cách,
Buồn dở thơ hoà đọc lại ngâm.
(Lục Nương Giáng Bút).
Buồn xa cách mặt dễ xa lòng,
Nhờ dạy thi văn mới đặng ròng.
(Đạo Sử).
Xa: Khoảng cách lớn, không gần. Gần: Ở vị trí cách một khoảng không gian tương đối ngắn.
Xa gần, như chữ “Gần xa”, là nói gần cũng như xa, chỉ mọi nơi, khắp chốn.
Như: Bè bạn xa gần đều có đến.
Có ngày hư nát cửa nhà,
Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng.
(Giới Tâm Kinh).
Anh hùng chí khí tùng chơn đạo,
Bốn biển xa gần phải hiến thân.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
奢 華
Xa: Chi tiêu phung phí. Hoa: Đẹp đẽ, rực rỡ.
Xa hoa ý nói tiêu xài hoang phí và sống trong cảnh xa hoa phù phiếm. Như: Ăn mặc xa hoa.
Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông có dạy: Các em chớ nên đi vào xa hoa vật chất mà đánh ngã một đức tin vừa mới nẩy nở trong lòng họ...
Niềm ân ái đã tràn sông lệ,
Nết xa hoa đã để miệng đời.
(Bát Nương Giáng Bút).
Bỗng chợt thấy anh gà bạn cũ,
Đắm chìm trong lạc thú xa hoa.
(Thơ Hộ Pháp).
Dầu mình giàu rộng thế xa hoa,
Cũng nhớ mẹ ở nhà bòn cắc nhỏ.
(Phương Tu Đại Đạo).
奢 華 浮 泛
Xa hoa: Tiêu xài hoang phí. Phù phiếm: Trôi nổi, viển vông, không chắc chắn.
Xa hoa phù phiếm là tiêu xài hoang phí một cách viển vông, không thực tế.
Như: anh ta có một cuộc sống xa hoa phù phiếm.
Con người vì mồi danh bả lợi, vì miếng đỉnh chung, vì cảnh xa hoa phù phiếm mà lắm lúc phải đem thân vùi dập dưới vực thẳm ao tù.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Xa: Khoảng cách lớn, không gần. Khơi: Xa, phần biển ở xa bờ.
Xa khơi là xa lắm, một vị trí xa so với tầm vươn tới, độ nhìn không thấy rõ, như mờ đi và chìm vào khoảng mênh mông.
Như: Nơi ngàn dặm xa khơi.
Mùi trần khi đã xa khơi,
Say sưa bầu khí bồi hồi chung phong.
(Kinh Tận Độ).
Biển Thánh xa khơi thuyền Bát Nhã,
Rừng Nho còn đượm nét anh phong.
(Thơ Tiếp Pháp).
Xa: Ở trong khoảng cách về không gian, thời gian tương đối lớn, trái với gần. Lánh: Rời xa để tránh.
Xa lánh là tránh xa, có nghĩa là tránh xa mọi sự tiếp xúc, mọi việc quan hệ. Như: Xa lánh lợi danh.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hội Thánh cũng lấy làm mãn nguyện, vì mặc dầu thời cuộc khó khăn trong năm qua Hội Thánh đã đồng tâm nhất trí lo bồi bổ các khuyết điểm về vật chất cũng như về tinh thần cố đem lại cho bổn Ðạo sự hoà nhã an vui, xa lánh những cạm bẫy hiểm nguy của cơ thử thách.
Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,
Vịn lấy nhành dương hưởng đạo nhàn.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
Giữ Chơn hồn xa lánh xác trần.
(Kinh Tận Độ).
Tích đức gắng gìn nhơn nghĩa trọn,
Chông gai xa lánh cảnh sầu bi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xa lắc là rất xa, tưởng chừng không thể xa hơn được.
Xa lắc còn dùng láy với ý mạnh mẽ hơn, như xa lắc xa lơ, hay xa lơ xa lắc. Như: Con đường xa lắc.
Nói về Đất nước Miên, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nhưng người ta có phúc hậu hơn, sự phá hoại của nước người ta có ít hơn; nên Bần Đạo không có thẹn mới đến sắc dân ấy, sắc dân trí hoá về tinh thần, ngày nay Bần Đạo thấy tiến xa lắc, trong thời gian ngắn ngủi mà sao dân ấy tiến triển về tinh thần trí hoá, làm cho thiên hạ phải để mắt suy nghĩ.
Chiều thu nguyệt xế, non nhạn ngày thâu, lẩn thẩn ngày tháng qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
車 馬
Xa: Xe. Mã: Ngựa.
1.- Xa mã là xe và ngựa, chỉ phương tiện đi lại.
Như: Các quan viên ra đường là xa mã.
Quen xa mã chê thuyền là chậm,
Đã mùi chàm gọi thắm là hơn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Xa mã là xe ngựa tấp nập, chỉ nơi phồn hoa đô hội mà người tu hành, kẻ ẩn dật luôn tìm cách lẫn tránh để về cảnh thiên nhiên hưởng nhàn.
Như: Thành đô xa mã dập dìu.
Phồn hoa xa mã rộn ràng,
Vinh vinh nhục nhục dẫy tràn kiếp căn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Trường Đời nhẹ lánh làng xa mã,
Gương Đạo làu soi chữ sắc không.
(Thơ Chơn Tâm).
車 匿
Xa Nặc, tiếng Phạn viết Tchanna, là tên người hầu cận trong hoàng cung và giữ ngựa cho Thái tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn.
Khi Thái tử Tất Đạt Đa nhứt quyết tu hành, nửa đêm Ngài cùng với Xa nặc, người hầu trung thành lìa khỏi hoàng cung, để tìm đường giải thoát cho chính mình và cho cả chúng sanh. Sau đó, Ngài thành Phật, lập nền Phật giáo ở Ấn Độ.
Để ghi lại sự tích lịch sử nầy, Hội Thánh Cao Đài đặt một pho tượng lớn Thái tử Tất Đạt Đa cỡi ngựa Kiền trắc, phí sau là tượng Xa Nặc chạy bộ theo, trước Toà Thánh, nơi sân Đại Đồng Xã.
Rồi đến một đêm kia, Ngài cùng với người đầy tớ trung tín tên là Xa Nặc, vượt khỏi Hoàng thành, đi tầm Chơn Lý trong chốn thâm sơn, cùng cốc.
(Giáo Lý).
Xa: Ở một khoảng cách lớn trong không gian hoặc trong thời gian.
Xa thẳm là xa đến mức như mờ đi, mắt không thể nhìn thấy, chìm sâu vào khoảng không.
Như: Núi rừng xa thẳm.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thâu thập được kết quả mỹ mãn, Hội Thánh không quên công khó nhọc của Chức Sắc, Chức Việc, Phái viên và Nghị viên Nam, Nữ từ nơi phương trời xa thẳm, không quản hành trình cực nhọc, hăng hái trở về Tổ Ðình để góp sức chung lo việc Ðạo theo lời kêu gọi của Hội Thánh.
Đã đành danh phận còn xa thẳm,
Nhưng đấng mày râu chẳng mảy may.
(Hộ Pháp Giáng Bút).
Dây oan xa thẳm nhiều tay vướng,
Cửa phước gần kề mấy kẻ vô.
(Thơ Thượng Sanh).
Hay “Xa thư”.
Xa: Xe. Thơ (thư): Sách vở.
Xa thơ, như chữ “Xa thư 車 書”, có nghĩa là xe cộ và sách vở, chỉ sự nhất thống thiên hạ về một triều đại, hay về văn hoá của nước.
Sách Trung Dung có câu: Kim thiên hạ, xa đồng quỹ, thư đồng văn, hành đồng luân 今 天 下 車 同 軌, 書 同 文, 行 同 倫, nghĩa là ngày nay trong thiên hạ xe cùng một thứ trục, sách cùng một thứ chữ, đi đường theo một thứ tự. Ý nói sự thống nhứt thiên hạ.
Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng,
Ai giữ phong cương đặng vững bền.
(Đạo Sử).
Nắm mối xa thơ ra sức gánh,
Thâu giềng xã tắc sửa đầu cân.
(Đạo Sử).
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu bóng cờ bặt tăm.
(Ngụ Đời).
Xa thơ nay gãy giữa đàng,
Con tua giữ dạ cứu nàn giúp nguy.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Xa: Ở một khoảng cách lớn, trong không gian hoặc thời gian. Vời: Xa lắm.
Xa vời là quá xa xôi, xa đến mức trở nên cách biệt, khó có thể tới được.
Xa vời còn có nghĩa là không thực tế, viển vông. Như: Kỷ niệm đã xa vời, mơ ước xa vời.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Quyền hạn của chúng ta, ngày nào chưa bảo thủ cho toàn dân tộc được thì đừng mong gì vĩnh cửu. Trái lại cần phải tô điểm Nam phong do tinh thần Tổ phụ ta để lại làm căn bản mới đủ sức mạnh, đủ cường liệt đứng đợt với toàn cầu vạn quốc. Bằng chẳng vậy thì đừng mong sớm hưởng, còn xa vời lắm.
Từ bỏ lần hồi lầm lỗi trước,
Tự nhiên bể khổ lánh xa vời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nối nghiệp xưa Hiền nay đến Thánh,
Trông non cảnh tịnh chẳng xa vời.
(Đạo Sử).
Xa xắc, như chữ xa lắc, xa tít, là rất xa, tưởng chừng không thể xa hơn được.
Như: Đường về quê ngoại còn xa xắc chứ đầu có gần gì đâu.
Xa lắc nghĩa là không có xa theo ý người nói. Như: Đây qua đó gần xịt, chớ có xa xắc gì đâu.
Đường thiêng liêng ví còn xa xắc,
Ngựa chạy chưa hay cậy cánh cò.
(Thơ Hộ Pháp).
Xa xăm là xa lắm, rất xa.
Xa xăm còn dùng để chỉ có vẻ như đang mơ màng, chìm đắm vào một nơi nào đó rất xa.
Như: Những kỷ niệm xa xăm, đôi mắt nhìn xa xăm.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cuộc hội diện tuy ngắn ngủi, nhưng cõi lòng của người nặng gánh nhiệm vụ nơi chốn xa xăm cũng được sưởi ấm phần nào để trụ vững khối can đảm trong khi trở lại dặm đường lữ thứ.
Xa xăm bằng hữu càng thâm cảm,
Gần gũi nhơn sanh gắng miệt mài.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Nhìn mút mắt xa xăm nước biếc,
Thoảng đâu đây nuối tiếc hương thừa.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
奢 侈
Xa: Hoang phí tiền bạc, trái với kiệm. Xỉ: Tiêu dùng phí phạm.
Xa xỉ là tiêu phí về việc không cần thiết, tức là hoang phí, không biết tiết kiệm. Như: Tiêu xài rất xa xỉ.
Trong Tân Luật, Điều Thứ mười lăm có viết: Bực thượng thừa theo Đại Đạo buộc phải để râu, tóc. Ăn mặc thường. Phải dùng toaàn đồ ải trắng, hoặc màu theo phái mình, song phải tuỳ tiện chẳng nên xa xỉ.
Phú cường xa xỉ không phòng bị,
Bần tiện cần cù giữ kỷ cang.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Xa: Không gần, cách nhau xa.
1.- Xa xôi là rất xa và đi lại cách trở nhau.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Rồi đây, sau bữa tiệc thân mật hôm nay mỗi vị sẽ bắt tay vào việc, người thì ở lại trung ương, kẻ phải lên đường trở về nơi chốn xa xôi để tiếp tục thi hành phận sự đối với Ðạo đối với nhơn sanh. Cái sứ mạng của mỗi người trong chúng ta, dù chức vụ lớn hay nhỏ, đều phải khó khăn nặng nhọc.
Công quả thìn lòng sau hưởng phước,
Dặm dài đừng nệ bước xa xôi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Xa xôi còn dùng để chỉ lối nói không đi thẳng vào vấn đề, mà có tính chất là nói xa nói gần, nói bóng gió.
Như: Những lời chỉ trích xa xôi, bóng gió.
Một câu mến gieo phiền muôn tiếng,
Đôi lời phân ngàn miệng xa xôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Xa: Không gần, cách nhau xa.
Xa xuôi, nhữ chữ “Xa xôi”, ý muốn nói xa và đi lại cách trở. Như: Xa xuôi cách trở.
Xa xuôi là nói loanh quanh, cốt để người khác tự hiểu lấy. Như: Gặp tôi nó toàn nói chuyện xa xuôi, chớ đâu có đề cập tới chuyện ấy.
Cao đê thế sự khá đinh ninh,
Một dặm xa xuôi nhọc lộ trình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xa xuôi chiều ngóng mấy vầng mây,
Thắc thẻo dường như nhạn lạc bầy.
(Thơ Huệ Giác).
1.- Xá, như chữ “Sá”, là tiếng trợ từ tỏ ý phủ định, có nghĩa như há, kể đến.
Như: Xá chi một kẻ điên khùng, xá gì gian lao khổ cực, xá nào nơi nguy hiểm.
Tương dưa đạm bạc thân chi xá,
Vì Đạo thường quen chịu khổ bần.
(Thơ Phạm Mộc Bổn).
2.- Xá 舍 là nhà nhỏ. Như: Thảo xá, học xá, tệ xá.
Trong Đạo Cao Đài nhà của Đức Cao Thượng Phẩm được Thất Nương Diêu Trì Cung đặt tên là Thảo Xá Hiền Cung.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đức Cao Thượng Phẩm về Thảo Xá Hiền Cung, chỉ còn Đức Quyền Giáo Tông, tình trạng nguy ngập không thể tưởng tượng, chúng tuyệt lương, chúng bắt buộc bất cứ ai trong Đền Thánh buổi nọ đi ra hành Đạo đều bị chúng bắt và đem giam cầm. Pháp định diệt Đạo hồi buổi sơ sanh mới phôi thai.
Thảo Xá tuỳ nhơn, ngu muội bần cùng nghinh nhập thất,
Hiền Cung trạch khách, thông minh phú quý cấm lai môn.
(Thất Nương Giáng Bút).
3.- Xá 赦 là tha tội. Như: Đại ân xá kỳ ba.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Lại nữa, khi Bần Đạo hội kiến cùng Cựu Hoàng Bảo Đại tại Đà Lạt trước khi về có để lại cho Người một bức cẩm nang, công việc hành tàng phục quốc trong bức cẩm nang, vấn đề đầu tiên hơn hết là bỏ án tử hình, và toàn xá các tù nhơn.
Vô địa ngục, vô quỷ quan,
Chí Tôn đại xá nhứt trường quy nguyên.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Lôi thôi buổi trước nhiều ân xá,
Lấp lửng đừng làm tội bữa nay.
(Đạo Sử).
Nay Chí Tôn rộng quyền ân xá,
Chắc phen nầy Mẹ đã gặp con.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
赦 恩
Xá: Tha tội. Ân: Hay “Ơn”, điều làm cho người mang lại lợi ích, sự tốt đẹp, được người nghĩ là phải đền đáp.
Xá ân, như chữ “Ân xá 恩 赦”, là ban ơn xuống, bằng cách tha tội cho.
Như: khai đạo kỳ ba Chí Tôn xá ân cho chúng sanh.
Xin gìn giữ thánh hình thanh bạch,
Xin xá ân rửa sạch tiền khiên.
(Kinh Tận Độ).
Sấp mình cúi lạy Từ Bi,
Tiền khiên phụ mẫu Tam Kỳ xá ân.
(Kinh Thế Đạo).
赦 辜
Xá: Tha tội. Cô: Có tội, như vô cô (không có tội).
Xá cô là tha tội.
Trong bài Kệ Chuông trong đạo Cao Đài có câu: “Địa Tạng khai môn phóng xá cô”, có nghĩa là Đức Địa Tạng Vương mở cửa địa ngục để phóng thích các tội hồn.
Thần chung thinh hướng phóng phong đô,
Địa Tạng khai môn phóng xá cô.
(Kệ Chuông).
赦 靈 光
Xá: Tha tội. Linh quang: Hồn hay chơn linh của con người, được chiết ra từ khối Đại Linh quang của Thượng Đế.
Xá linh quang là tha tội cho các linh hồn.
Giảm hình phạt bớt đường ly tiết,
Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.
(Kinh Tận Độ).
舍 利
Hay “Xá lợi tử 舍 利 子”.
Xá lợi hay Xá lợi tử tức là hạt Xá lợi, chỉ cốt Phật hay chỉ cái chơn thần đắc Đạo.
1.- Xá lợi (Sarira) là hình hài, thân xác của các bậc Thánh Đắc Đạo hay Đức Phật Thích Ca, sau khi hoả táng, xương cốt còn lại là những tinh thể rắn chắc và tròn hạt như những viên bi sáng, lóng lánh như ngọc, nên người ta gọi những tinh thể đó là ngọc Xá Lợi.
Ngọc Xá Lợi được thờ nơi Bửu Tháp.
Trong Ngày Vía Đức Quyền Giáo Tông, Đức Hộ Pháp có nói: Mới đây con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy Xá Lợi Phật, tức nhiên xương của Đức Thích Ca buổi nọ thiêu còn sót lại miếng nhỏ nhỏ để lại phân phát các Chùa ở bên Ấn Độ qua tới bên Ấn Độ Dương
Lúc ấy thế giới sẽ đua nhau về đây thỉnh Ngọc Xá Lợi của Liệt Thánh về chiêm ngưỡng...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
2.- Xá Lợi Tử tức là hạt Xá Lợi, hoặc hườn Xá Lợi.
Xá lợi tử còn là một từ ngữ đặc biệt dùng để chỉ cái chơn thần huyền diệu của những người luyện Đạo khi Tinh Khí Thần đã hiệp nhất đắc đạo thành Tiên, Phật. Chơn thần nầy bên tu Tiên gọi là Thánh thai hay Kim đơn, bên Phật thì gọi là Mu ni Bửu châu, Xá lợi tử.
Trong Di Lạc Chơn Kinh có câu: ...huờn hư thi hình đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề Xá Lợi Tử quy nguyên Phật vị tất đắc giải thoát.
Ngó Cực Lạc theo huờn Xá Lợi,
Cửu Trùng Thiên mở lối quy nguyên.
(Kinh Tận Độ).
Ánh Xá Lợi sáng ngời Cực Lạc,
Hiển kim thân Bồ Tát hoá duyên.
(Xưng Tụng Công Đức).
Huyền châu động báu nguồn Tiên chỉ,
Xá Lợi Đài sen gốc Phật roi.
(Thơ Tiếp Đạo).
赦 罪
Xá: Tha tội. Tội: Tội lỗi.
Xá tội là tha thứ những tội lỗi.
Trong bài Thuyết Đạo tại Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 1 tháng 7 năm Mậu Tý (Dl. 05/08/1948) Đức Hộ Pháp có nói: Nếu xét ra người đến xưng tội và người xá tội cũng đều là phàm cả, chưa biết người nầy có xá tội được cho người kia chăng? Thảng không đủ quyền tha tội lại càng thêm mang tội hơn nữa.
Tam nguyện xá tội đệ tử,
Tứ nguyện thiên hạ thái bình.
(Ngũ Nguyện).
Chí Tôn xá tội giải oan,
Thánh, Thần, Tiên, Phật, cứu nàn độ vong.
(Kinh Tận Độ).
Hay “Xả thân”.
Xá (thường đọc là xả): Bỏ. Thân: Thân mình.
Xá thân, như chữ “Xả thân 舍 身”, là hy sinh không tiếc thân mình vì việc nghĩa. Chữ Xả còn có thế viết 捨.
Như: Xả thân cứu thế, xả thân cầu Đạo.
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
捨 凶 喪
Xả: Vứt bỏ, buông bỏ. Hung: Dữ tợn. Tang: Lễ đối với người chết.
Xả hung tang là bỏ dứt cái tang chẳng lành.
Người có thân nhân chết, chịu cảnh đau buồn, khổ não, nên gọi là chịu hung tang, tức phải thọ tang phục, nhằm nhắc nhở bổn phận phải có của những người thân đối với người đã qua đời.
Theo đạo Cao Đài muốn xả tang phải trải qua chín tuần Cửu là 81 ngày, kế đến tuần Tiểu tường là 200 ngày, rồi Đại tường là 300 ngày nữa, tức là 581 ngày. Lúc đó, mới được làm lễ xả tang.
Mãn hạn trảm thôi mừng cát nhựt,
Đúng kỳ hiếu quyến xả hung tang.
(Thơ Hoàn Nguyên).
捨 執
Xả: Vứt bỏ, buông bỏ. Chấp: Nắm giữ.
Xả chấp là buông bỏ những gì mình chấp trước.
Tâm chấp là tâm ôm cứng những thứ phiền não tham sân si, đố kỵ, ganh ghét, ngã mạn... Do chấp như vậy làm sao mà an lạc được? Khi ta không xả được tức là phiền não, sân hận.
Tâm xả là tâm buông bỏ, không chấp trước, không bị vướng mắc vào phiền não. Do có tâm xả mà hành giả rời bỏ được ý thức ngã mạn, kiêu căng, bỏ được sở tri chướng để lắng nghe và tiếp nhận những tri kiến đúng đắn, mới có thể tiến bộ trên đường giác ngộ.
Xả chấp buông xa chỗ tịnh thiền,
Ngồi lỳ bất động dễ thành điên.
(Thơ Thanh Hương).
捨 滅 世 塵
Xả: Vứt bỏ, buông bỏ. Diệt: Làm cho mất, tiêu diệt. Thế trần: Cõi trần, cõi đời.
Xả diệt thế trần là bãi bỏ việc đời, tức vứt sạch những công việc của thế gian.
Thầy thương phần nhiều các con dám xả diệt thế trần, trông mong noi chí của Thầy mà dìu dắt đoàn em dại.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
捨 富
Xả: Vứt bỏ, buông bỏ. Phú: Giàu có.
Xả phú là buông bỏ sự giàu sang.
Thường những ham muốn ôm ấp vào lòng thì không bao giờ an lạc được, do vậy, người tu hành phải biết buông bỏ mọi tham dục trong đó là xả phú.
Như: Người tu phải biết xả phú.
Cầu danh thẹn lẫn hàng cao sĩ,
Xả phú vui thầm phận hạ bô.
(Thơ Tiếp Đạo).
捨 富 求 貧
Xả phú: Vứt bỏ, buông bỏ cái giàu. Cầu bần: Chịu sự nghèo khó.
Xả phú cầu bần là vứt bỏ sự giàu sang để chịu sự nghèo khó mà lo tạo âm chất hay lo việc tu hành.
Do câu thành ngữ: Xả phú cầu bần, xả thân cầu Đạo 捨 富 求 貧, 捨 身 求 道, nghĩa là vứt bỏ giàu sang để tìm cầu nghèo khó, hy sinh bản thân để tìm mối Đạo.
Thuyết Đạo của Đức Thượng Sanh có câu: Nhưng, người đã quyết chí tu hành, quyết lánh giả tầm chơn, đã xả thân cầu Đạo, xả phú cầu bần thì sự quyến rũ nào lôi cuốn được.
Đời thì lại khinh bần trọng phú,
Đạo khuyên đời xả phú cầu bần.
(Thơ Hộ Pháp).
Ngài Đầu Sư xả phú cầu bần,
Nguyên Phật Từ Hàng đã biến thân.
(Thơ Thái Đến Thanh).
捨 身
Xả: Vứt bỏ, buông bỏ. Thân: Thân mình.
Xả thân là bỏ cái thân mình đi, ý nói chẳng màng đến sự cực nhọc, hiểm nguy. Như: Xả thân vì nhiệm vụ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chức sắc đã hiến thân cho Đạo, quyết xả thân để phụng sự nhơn loại thì bản thân không còn là của mình nữa, phải chết về mặt đời, sống về mặt Đạo, tận tuỵ với nhiệm vụ, không nệ khó khăn lao nhọc thì mới đúng với sự hiến thân của mình.
Ai dám xả thân hành chánh Ðạo?
Ðạo mầu theo dõi hết trần ai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Say mùi đạo đức khoẻ tinh thần,
Lạc thú an bần nguyện xả thân.
(Thơ Phạm Mộc Bổn).
捨 身 求 道
Xả thân: Vứt bỏ cái thân mình, ý nói hy sinh thân mình. Cầu đạo: Tìm đạo cầu mối chơn Đạo.
Xả thân cầu đạo là hy sinh bản thân mình để đi tìm kiếm mối chánh đạo.
Thầy thấy nhiều đứa xả thân cầu Ðạo, diệt tục xủ phàm, để mình làm hướng đạo.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
捨 身 行 道
Xả thân: Vứt bỏ cái thân mình, ý nói hy sinh thân mình. Hành đao: Làm đạo, ý chỉ đi truyền bá giáo lý.
Xả thân hành Đạo là không kể thân mình để đi truyền Đạo, ý nói không màng đến sự khó khăn nguy hiểm để đi truyền bá mối chơn đạo.
Ai dám xả thân hành chánh Ðạo?
Ðạo mầu theo dõi hết trần ai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xả thân hành đạo vì quan niệm,
Mua đất cất chùa với khả năng.
(Thơ Huệ Phong).
捨 身 行 化
Xả thân: Vứt bỏ thân mình, ý nói hy sinh thân mình. Hành hoá: Làm cho kẻ xấu trở thành tốt, những kẻ hung bạo trở thành hiền lương, đạo đức.
Xả thân hành hoá là nhiệm vụ của người tu sĩ, hy sinh bản thân mình để dạy dỗ những người xấu trở thành tốt, những kẻ hung bạo trở thành hiền lương, đạo đức.
Xả thân hành hoá gìn chung thuỷ,
Bủa đức dìu nhân vẹn chí nguyền.
(Thài-Ngọc Nhượn Thanh).
捨 身 為 道
Xả thân: Vứt bỏ cái thân mình, ý nói hy sinh thân mình. Vị Đạo: Vì nền chơn Đạo.
Xả thân vị Đạo là hy sinh thân mình để vì mối Đạo, tức không màng đến sự khó khăn nguy hiểm để giữ gìn và phát triển mối đạo.
Xả thân vị đạo đồng nghĩa với xả thân hành đạo.
Khiết kỷ tu chơn duyên quả định,
Xả thân vị Đạo đắc Thiên ân.
(Cửu Nương Giáng Bút).
社
1.- Xã là thần đất. Như: Nền xã, tế xã.
Ngày xưa, các Đế hoặc Vương lên ngôi lo cho dân, dân cần đất, vua chia đất và dựng nền Xã để tế thần đất (tức Thần Hậu thổ), dân cần lúa thì vua vua ban cho các thứ giống để trồng trọt và lập nền Tắc để tế Thần Nông cho dân chúng được mùa.
Khi nước loạn, mất nền Xã và nền Tắc thì mất nước, vì vậy chữ Xã tắc được dùng để chỉ quốc gia, đất nước.
Trong sách Hiếu Kinh có câu: Nhiên hậu năng bảo kỳ xã tắc nhi hoà kỳ nhân dân 然 候 能 保 其 社 稷 而 和 其 人 民, nghĩa là nhiên hậu mới có thể giữ gìn xã tắc và hoà với nhân dân.
Nắm mối xa thơ ra sức gánh,
Thâu giềng xã tắc sửa đầu cân.
(Đạo Sử).
Cũng có kẻ gầy nên xã tắc,
Cũng có người trước giặc xua binh.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Xã là một đoàn thể gồm nhiều người. Như: Xã đoàn, xã hội, xã giao, thi xã, hội xã.
Thánh giáo Thầy có câu: Người thế nếu biết sống, nghĩa là biết dụng mình cho có ích vào xã hội, biết dưỡng tánh tu thân, thì sự thác chẳng qua là sự mong mỏi của kẻ hành trình đã xong trách nhậm, trở về phục sự đặng lãnh phần thưởng xứng đáng mà thôi.
Chị em còn làm mẹ làm bà,
Gầy gia tộc mới ra xã hội.
(Phương Tu Đại Đạo).
社 交
Xã: Một đoàn thể gồm nhiều người. Giao: Giao tiếp, giao thiệp.
Xã giao là giao tiếp bình thường trong xã hội. Như: Có quan hệ xã giao với mọi người.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tâm bất chánh ở chỗ xử sự xã giao thì gây ác cảm, chác oán thù, tâm bất chánh loán vào xã hội tạo dây oan nghiệt, đưa đến cảnh tội tù, xô đẩy con người vào vực sâu hang thẳm.
Nhơn tình thế thái lẽ đương nhiên,
Khéo xã giao không khỏi trách phiền.
(Thơ Huệ Phong).
社 會
Xã: Đoàn thể nhiều người họp thành. Hội: Họp nhau.
Xã hội là đoàn thể gồm nhiều người sống chung với nhau, có nhiều liên lạc mật thiết và ý chí muốn hành động, sinh hoạt chung. Như: Bị dư luận xã hội chỉ trích.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Người thế nếu biết sống, nghĩa là biết dụng mình cho có ích vào xã hội, biết dưỡng tánh tu thân, thì sự thác chẳng qua là sự mong mỏi của kẻ hành trình đã xong trách nhậm, trở về phục sự đặng lãnh phần thưởng xứng đáng mà thôi.
Tỵ ác thân hiền mới phải trang,
Cũng trong xã hội một quan làng.
(Đạo Sử).
社 稷
Xã: Nơi tế thần đất. Tắc: Nơi tế thần nông.
Xã tắc là nơi tế thần đất và tế thần nông, ngày nay là từ dùng để chỉ một quốc gia.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo vừa bước chân về nước thì Bần Đạo đã thấy cơ thảm loạn, xã tắc đảo huyền nhà vua bị cưỡng bức mà phải thoái vị, bỏ cả đại nghiệp 4.000 năm của tổ tiên để lại.
Giúp xã tắc tôi trung ra mặt,
Dẫy xe thơ trỗi nhặt văn minh.
(Kinh Thế Đạo).
Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở đường quốc thể định phong vân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thất xã tắc, dân mình nghịch chủng,
Quen nghề tham, lại nhũng quan gian.
(Nữ Trung Tùng Phận).
射 擊
Xạ: Bắn, dùng cung hay súng để bắn. Kích: Đánh đập, đánh nhau.
Xạ kích là cầm cung hoặc súng mà bắn. Như: Huấn luyện xạ kích, có tài xạ kích.
Bảy bước chưa nên tài xạ kích,
Công danh đâu lại đợi người mời.
(Đạo Sử).
殼
1.- Xác là chỉ thân thể. Như: Xác thịt, hồn và xác, ăn cho béo xác, có xác không hồn.
Thánh giáo Thầy dạy về quyền hành Giáo Tông có câu: Gíao Tông nghĩa là Anh Cả các con, có quyền thay mặt Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.
Ðã nhiều danh lợi bước đua tranh,
Nhọc xác lao tâm hỏi có thành?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nại chi xác yếu thịt mòn,
Gia tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Xác là thây người hoặc vật đã chết. Như: Nhà xác, mổ xác, vớt xác người chết đuối, xác chuột chết.
Thánh giáo Đức Thích Ca Mâu Ni kim viết Cao Đài có dạy: Khi lập đạo Thánh thì đặng mười hai môn đệ, song đến khi bị bắt và hành hình thì chúng nó đều trốn hết, lại còn bán xác Thầy nữa.
Thoát xác xưa tầng tu vạn kiếp,
Ðộ hồn nay gội khắp năm châu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thay hương chưa phải thay nguyên kiếp,
Mất xác dễ nào mất vẻ linh.
(Đạo Sử).
3.- Xác 確 là đích thực, chắc chắn. Như: Đích xác, xác thực, xác đáng, xác định.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ðạo nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng.
Trước khi nguyện lấy dấu và niệm: Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, dám chắc thật đích xác ba ngôi ấy chưa ai biết rõ.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Xác: Thân thể, thây người chết. Chết: Hết sống.
Xác chết chỉ thân thể của người hay động vật đã chết, còn gọi là thi hài, thi thể hoặc thây người chết.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Tuy vẫn biết xác thịt người là xác chết, xác phàm này là con vật không có gì hết, mà mấy em nam nữ tôn sùng quý trọng, là cốt mấy em sùng bái Thánh Thể Đức Chí Tôn mà thôi, nói nội bấy nhiêu đó cũng đủ làm bài học quý báu cho toàn thể Chức Sắc nam nữ.
Ma thịt quỷ hồn chôn xác chết,
Tà thần tinh quái nuốt xương tan.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Chơn Thần kể như mang xác chết,
Nương thây phàm trả hết nghiệp oan.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
殼 至 靈
Xác: Thân thể. Chí linh: Rất linh thiêng, trong Đạo Cao Đài chỉ Đức Chí Tôn.
Xác Chí linh là chỉ hình thể của Đức Chí Tôn tại thế.
Hình thể Đức Chí Tôn tại thế, còn gọi là Thánh thể, là Hội Thánh Cửu Trùng Đài, được coi như thể xác của nền Đại Đạo.
Do đó, xác Chí linh là Hội Thánh Cửu Trùng Đài, tức Thánh thể Đức Chí Tôn tại thế.
Mầng xác Chí linh thêm mãnh lực,
Mầng thần Chơn lý đặng danh cao.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
確 當
Xác: Đích thực, chắc chắn. Đáng: Được đánh giá là xứng, là hợp với một giá trị, một phẩm chất hoặc một đối xử nào đó.
Xác đáng là thực đúng, thực phải. Như: Anh ấy nói rất xác đáng, nhận xét xác đáng.
Ðiều đó người trong cửa Ðạo có hấp thụ Thánh giáo của Ðức Chí Tôn đều có quan niệm xác đáng.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Xác đất sanh đến lịnh phục hồi ý nói thể xác do đất sinh ra, khi chết thể xác đó được lịnh trở về với Đất.
Thật vậy, xác thân do cha mẹ sinh ra xương thịt, tạo thành khối vật chất là một thể hữu hình, mà hữu hình thì hữu hoại, nên khi con người chết, xác thân sẽ rã tan mà trở về Đất.
Đôi liễn nơi thuyền Bát Nhã viết: Vạn sự viết vô: Nhục thể Thổ sinh hoàn tại Thổ, Thiên niên tự hữu: Linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên 萬 事 曰 無: 肉 體 土 生 還 在 土, 千 年 自 有: 靈 魂 天 賜 反 回 天, nghĩa là muôn vật đều không, thân xác Đất sanh huờn lại Đất, Ngàn năm tự có, linh hồn Trời ban trở về Trời.
Hồn Trời hoá trở về Thiên cảnh,
Xác Đất sanh đến lịnh phục hồi.
(Kinh Tận Độ).
殼 魂
Xác: Phần thân thể của con người, đối với hồn. Hồn: Phần thiêng liêng vô hình của con người.
Triết lý đạo Cao Đài tin rằng con người có linh hồn và thể xác.Mỗi con người ở thế gian gồm có ba thể:
Xác hay thể xác còn gọi là phàm thân hay nhục thể, là Đệ nhứt xác thân, do cha mẹ đào tạo bằng xác thịt, Phật giáo cho là thân tứ đại, bởi đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành. Thể này hữu hình, trọng trược, không thường tồn, dễ bị hoại.
Hồn hay chơn linh là một điểm Linh quang từ khối Đại Linh quang của Thượng Đế chiết ra ban cho. Thể này Thiêng liêng linh diệu trong con người, nó vốn vô vi, bất tiêu bất diệt, nên khi chết, linh hồn nhẹ nhàng sẽ trở về cõi Hằng Sống.
Buộc yêu thương bạn đồng môn,
Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.
(Kinh Thế Đạo).
Xác hồn đoàn kết xây thời thế,
Thế sự do nhiên hưởng thái bình.
(Quyền Giáo Tông Giáng).
Xác hồn tương đắc lẽ đương nhiên,
Nhân chánh Đường Nghiêu đức lập quyền.
(Thơ Thông Quang).
殼 凡
Xác: Thân xác, chỉ cái thân do cha mẹ nơi cõi trần tạo ra. Phàm: Cõi tục, chỉ cõi thế gian.
Xác phàm là cái thân xác ở cõi phàm gian, tức chỉ thân xác bằng xương thịt do cha mẹ nơi cõi thế gian tạo ra.
Thánh giáo Thầy có dạy: Sanh đứng vào vòng thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng đặng chờ lúc kết quả, hồn quy Thiên ngoại, lánh khỏi xác phàm, trở về nơi khởi hành mà phục các điều đã thi hành giữa sân khấu là chốn trần ai khốn đốn nầy.
Xem: Xác phàm mắt thịt.
Cổi xác phàm vui lại cảnh Thiên,
Độ sanh phỉ hiệp tạo nên giềng.
(Tiếp Đạo Giáng Bút).
殼 凡 塵
Xác: Thân xác, chỉ cái thân do cha mẹ nơi cõi trần tạo ra. Phàm trần: Cõi trần tục.
Xác phàm trần, như chữ “Xác phàm”, là cái thân xác ở cõi phàm gian, tức chỉ thân xác bằng xương thịt do cha mẹ nơi cõi thế gian tạo ra.
Xem: Xác phàm
Có xác phàm trần làm xác Thánh,
Cũng bằng dụ quỷ đặng làm lành.
(Đạo Sử).
Xác phàm: Xác thân ở cõi phàm, tức thể xác do cha mẹ sinh ra. Mắt thịt: Do chữ nhục nhãn 肉 眼, là mắt của thân hình bằng xương thịt.
Xác phàm mặt thịt ý muốn nói cái thân xác và đôi mắt của kẻ phàm tục.
Xác phàm mắt thịt, nếu đã sẵn ánh thiêng liêng mà không sớm tỉnh hồn thì mảnh tro bụi kia chẳng khỏi chịu hình đòi lúc.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
殼 俗
Xác: Thân xác, tức thân phàm xác thịt. Tục: Cõi tục, chỉ cõi thế gian mà con người đang sống.
Xác tục là thân xác phàm tục, còn gọi phàm thân hay nhục thể, là Đệ nhứt xác thân do cha mẹ đào tạo bằng xương thịt.
Xác tục là xác thân ở thế gian, một thể hữu hình, trọng trược, không thường tồn, dễ bị hoại.
Dầu mang xác tục hay hồn,
Nhớ cầu Từ Phụ Chí Tôn cứu nàn.
(Kinh Thế Đạo).
Bồng Lai Cực Lạc chỉ chừng,
Đẩy đưa xác tục dựa gần cõi linh.
(Kinh Thế Đạo).
殼 聖
Xác: Thân xác, tức thân phàm xác thịt. Thánh: Tiếng tôn xưng, hay bậc Thánh.
Xác Thánh, do chữ “Thánh thể 聖 體”, là hình thể Đức Chí Tôn tại thế.
Đạo Cao Đài do cơ bút lập thành, thay mặt Đức Chí Tôn tại thế gồm ba đài: Bát Quái Đài tượng linh hồn của Đạo, Hiệp Thiên Đài là chơn thần của Đạo và Cửu Trùng Đài là thể xác của Đạo.
Các chức sắc Cửu Trùng Đài từ phẩm Giáo Hữu trở lên họp lại gọi Hội Thánh, ấy là “Thánh thể” hay “Xác Thánh” của Đức Chí Tôn tại thế (xem Thánh thể).
Xác Thánh còn dùng để chỉ xác thể của các vị tu hành chân chính, hay chức sắc Đại Thiên phong.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Cái chết của Jésus Christ là gì? Là Ngài đem xác Thánh trọng quý dâng cho Chí Tôn làm tế vật, xác Thánh chết trên Thánh Giá là Lễ Tế đồng thể với Tam Bửu của chúng ta dâng cùng Ðức Chí Tôn ngày nay đó vậy.
Có xác phàm trần làm xác Thánh,
Cũng bằng dụ quỷ đặng làm lành.
(Đạo Sử).
殼 身
1.- Xác: Xác thịt. Thân: Thân mình.
Xác thân, còn gọi phàm thân hay nhục thể là Đệ nhứt xác thân, do cha mẹ đào tạo bằng xác thịt.
Phật giáo cho là thân tứ đại, bởi đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành. Thể này hữu hình, trọng trược, không thường tồn, dễ bị hoại.
Vòng xây chuyển vong hồn tấn hoá,
Nương xác thân hiệp ngả Càn khôn.
(Kinh Tận Độ).
Nuôi nấng lấy xác thân hoà hoả,
Thuận Âm Dương căn quả hữu vi,
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Ngày nào giải khổ xác thân,
Là ngày dứt nợ phong trần đăng Tiên.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
2.- Xác: Cái gói bọc của chơn linh. Thân: Thân mình.
Xác thân là vật để chơn linh nương tựa vào, ý chỉ chơn thần.
Theo triết lý của Đạo Cao Đài, chơn linh là điểm Linh quang của Đức Chí Tôn ban cho, Phật Mẫu mới tạo ra chơn thần bao bọc chơn linh, gọi là “Đệ nhị xác thân”.
Như vậy, xác thân trong trường hợp nầy là chơn thần.
Chơn thần là gì? Là nhị xác thân (périsprit), là xác thân thiêng liêng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Xác: Thân thể, thây người đã chết. Thịt: Xương thịt.
Xác thịt là chỉ hình hài xác thịt. Xác thịt còn dùng chỉ chung về vật chất, nhục thể.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật, muốn cho đắc đạo phải có công quả.
Thương kẻ nhơn sanh hơn xác thịt,
Chẳng lo cầu cạnh cũng ngồi ngai.
(Đạo Sử).
Vật tối linh thiên hạ là người,
Cha mẹ vốn là Trời phần xác thịt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xác thịt: Hình hài, thân xác. Thầy: Đức Chí Tôn. Không giáng thế: Không giáng chơn linh xuống thế gian.
Xác thịt Thầy không giáng thế ý muốn nói Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế trong thời Tam Kỳ Phổ Độ không giáng thế bằng hình hài xác thịt.
Thật vậy, trong hai thời kỳ phổ độ trước, Ngài giáng Chơn Linh xuống phàm, hoá thân các Đấng Tiên, Phật để độ rỗi chúng sanh. Nhưng trong thời Hạ nguơn mạt Pháp này, Ngài đến với chúng sanh bằng huyền dịu cơ bút để lập nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức đạo Cao Đài để tận độ chúng sanh thoát ly khổ hải.
Vì vậy, có thể nói “Thầy không có xác thân giáng thế”, chỉ mượn Hội Thánh thay hình thể của Ngài nơi thế gian để điều hành nền Đại Đạo.
Xác thịt Thầy vì không giáng thế,
Nên nhờ con giúp Ðạo nâng bồng.
(Đạo Sử).
殼 塵
Xác: Thân thể, thây người đã chết. Trần: Cõi trần.
Xác trần, như chữ “Xác tục”, là xác thân ở cõi trần tục, còn gọi là phàm thân hay nhục thể.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Còn bực chơn tu, tỷ như một hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, rồi sanh trái mà biến biến sanh sanh càng tăng số. Vì vậy mà các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hoá Chơn thần, Chơn thần lại biến hằng muôn thêm số tăng lên hoài. Ấy là Ðạo.
Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
Giữ Chơn hồn xa lánh xác trần.
(Kinh Tận Độ).
Bà Chánh Phối Sư cổi xác trần,
Công viên quả mãn ngự đài vân.
(Thơ Thượng Sanh).
Xách là kéo lên hoặc mang đi bằng một tay để buông thẳng xuống. Như: Xách bị, xách nước, xách đao kiếm.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo không ngần ngại để trọn đức tin nơi quyền năng Thiêng Liêng, bèn tỏ hết công việc Đạo thì Đức Ngài (Khai Pháp Trần Duy Nghĩa) hứa và nguyện cố một đời là huỷ cái đời giàu sang vinh hiển để nạp mình tìm nơi cửa Đạo, Bần Đạo không tin còn hồ nghi bị gạt, khi Ngài về đến Sài Gòn chỉ xách theo một gói đồ trên tay và không trở lại gia đình lần nào.
Nước vốn đầy sông tuỳ kẻ xách,
Lộc kia đầy đất tại người dời.
(Đạo Sử).
Khí võ hùng hào mang mão giáp,
Oai phong lẫm liệt xách qua mâu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Xài là tiêu dùng. Như: Hết tiền xài, xài tiền lãng phí.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Duy có hạng người có ý niệm nông nổi cho rằng ngày Tết thì phải ăn xài phủ phê, mặc dù không dư dả hoặc nghèo túng quanh năm, cũng học đòi theo nhà sẳn của, cũng sắm ăn sắm mặc lòe loẹt bề ngoài.
Xài muôn vạn bao nhiêu cũng dám,
Đem ra mua hơi hám mấy cô hầu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xay là dùng cối mà quay để chà những hạt cho tróc vỏ hay là tan thành bột.
Như: Xay lúa, xay đậu, cối xay.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hồi lúc Bần Ðạo còn nhỏ, nhớ nhứt là khi xay lương và giã lương, hễ lúa đem về kho rồi thì dân làng nhứt là phụ nữ, xúm lại giã cho trắng đặng nạp về triều kêu là nạp lương, tục ấy mới bỏ trong thời gần đây.
Nguyện nhớ ơn nông canh nhằn nhọc,
Nguyện ơn người lúa thóc giã xay.
(Kinh Thế Đạo).
Con bất hiếu xay cưa đốt giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
(Kinh Sám Hối).
1.- Xảy là sự việc phát sinh ra một cách tự nhiên.
Như: Chuyện xui rủi đã xảy ra với anh ấy, bão lụt đã xảy ra tại miền Trung.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Thầy hằng biết công của các con, nhưng Thầy phải cực lòng chiều ý của mỗi đứa mà xây đắp nền Ðạo. Vì vậy mà nhiều sự xảy ra đều do nơi tâm chí của nhiều đứa. Thầy hằng dùng tâm chí của các con mà bố mọi điều thiết yếu trong việc đạo đức.
Các vật dục xảy qua một buổi,
Cả hành vi lầm lỗi khôn ngừa.
(Kinh Thế Đạo).
2.- Xảy còn có nghĩa là chợt, bỗng chốc.
Như: Nó đang ngủ say, xảy nghe tiếng kêu lớn bèn giật mình tỉnh dậy.
Những mảng quến trăng làm bạn,
xa trông năm thức tầng vân,
Thày lay mượn gió đưa duyên,
xảy thấy một trang yểu điệu.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
燦 爛
Xán: Rực rỡ. Lạn: Sáng sủa.
Xán lạn là sáng chói, rực rỡ, tức sáng sủa đẹp tốt. Như: Văn chương xán lạn, Tương lai xán lạn.
Xán lạn đồng nghĩa với từ Nôm “Sáng lạn”.
Quý quan khách sẵn lòng đến dự, giúp tinh thần cho buổi lễ được xán lạn và trang nghiêm.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Xanh là màu như màu của lá cây, của nước biển.
Như: Luỹ tre xanh, đám cỏ xanh, non xanh nước biếc, da xanh tàu chuối.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Từ đây, con phải may riêng bộ áo lễ tay rộng, cổ trịch như áo đạo, nhưng dải gài chín mối, màu xanh da trời.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Ðỡ gót nhờ con hạc trắng ngần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vẹt ngút mây xanh Trời tỏ rõ,
Quét lằn bụi đỏ thế phui pha.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Xanh còn dùng để chỉ trái cây chưa chín, còn non, hoặc người còn trẻ.
Như: Quả xoài còn xanh, tuổi đời còn xanh, mái đầu xanh, mày xanh tóc bạc.
Ðầu xanh chí khí lập danh cao,
Phải ở sao ra mặt khí hào.
(Đạo Sử).
Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,
Rán theo cha học lễ học văn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Xanh mày: Hay mày xanh do chữ “Thanh my 青 眉”, chỉ thời thanh xuân tuổi trẻ. Lịch sắc: Nhan sắc xinh lịch của người con gái.
Xanh mày lịch sắc là chỉ thời thanh xuân khi nhan sắc còn tươi tắn, xinh đẹp.
Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc,
Dâng hình hoa treo mắt bướm ong.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Xanh: Màu như màu của lá cây, của nước biển.
Xanh xanh là hơi xanh, như: Chân đời mặt đất một màu xanh xanh (Truyện Kiều).
Xanh xanh, như chữ “Trời xanh”, dùng để chỉ bầu trời xanh, hoặc chỉ Đức Thượng Đế.
Xem: Trời xanh.
Xanh xanh nào có phụ người hiền,
Ðã thấy trọn quyền Ðấng Chí Thiêng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xảnh xẹ là có hành động, cử chỉ thể hiện sự làm dáng, làm duyên, ra vẻ sang trọng, không đúng nơi, đúng lúc. Xảnh xẹ là nói năng có vẻ huênh hoang, tự phụ, hoặc khoe khoang những cái vặt vãnh.
Xảnh xẹ còn có nghĩa là thày lay, hay xen vào việc của người khác, không dính dáng tới mình.
Xảnh xẹ hay lo gánh việc người,
Công linh chẳng để tỉnh thân ngươi.
(Đạo Sử).
Xao là lay động, lay động nhẹ. Như: Sóng xao, nước xao, rừng cây xao gió, xao tâm động trí.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển). có dạy: Chớ nên xao tâm động trí, ngơ ngẩn theo thường tình, thì não cân được tự minh, mới có thể ngăn cản tà mị độn nhập vào mà khuấy rối.
Ngó chi khổ hải sóng xao,
Đoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.
(Kinh Tận Độ).
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xao: Chao động, lay động, động nhẹ. Lãng: Lợt, lạt.
Xao lãng, như chữ “Xao nhãng”, là lơ là, không chú ý nhiều. Như: Xao lãng việc học, xao lãng nhiệm vụ.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy dặn con dụng oai quyền mà lập nên thể Đạo, nhưng chẳng nên xao lãng tâm tư, con hiểu riêng Thầy không nên hết tiếng.
Cậy gió, hềm dì gió đảo điên,
Mượn trăng, e ả trăng xao lãng.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Đừng thấy khó mà lòng xao lãng,
Chuộng nơi sang đổi bạn thay đôi.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xao: Chao động, động nhẹ. Tâm 心: Lòng dạ. Động 動: Lay chuyển. Trí 智: Phần hiểu biết ở trong tinh thần con người.
Xao tâm động trí là làm cho tâm trí bị xao động, không yên ổn về tinh thần.
Như: Trước tiền tài, danh lợi người tu hành đừng để bị xao tâm động trí.
Chớ nên xao tâm động trí, ngơ ngẩn theo thường tình, thì não cân được tự minh, mới có thể ngăn cản tà mị độn nhập vào mà khuấy rối.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Xao xác là lào xào, tiếng lá cây va chạm vào nhau khi cơn gió thổi qua.
Xao xác còn là từ gợi tả những tiếng gà gáy, tiếng chim vỗ cánh, nối tiếp nhau làm xao động cảnh không gian vắng lặng.
Như: Lá cây rừng rơi xao xác, tiếng gà gáy xao xác giữa canh khuya.
Kìa cụm liễu gió đêm xao xác,
Đám chim chiều tìm mát nghỉ ngơi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Xao xuyến là bồi hồi, vương vấn, rạo rực, tức ở trạng thái xúc động kéo dài, khó dứt.
Như: Tiếng hát của cô ấy làm xao xuyến lòng mọi người trong hội trường.
Dạy kế hay đào lý ngăn rào,
Đừng để trống bướm ong xao xuyến giỡn.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Xao xuyến chỉ sự dao động, không yên lòng. Như: Xao xuyến tinh thần.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Bậc đã được kiến tánh, giữ cõi lòng thật thanh tịnh, trở lại với bản tánh thiên nhiên tức là lúc mắt tuy thấy thiên hình vạn trạng, trí tưởng nghìn muôn pháp, nhưng tâm vẫn yên tịnh dường như không gì xao xuyến.
Phải giữ cho chơn thần an tịnh, đừng xao xuyến lương tâm.
(Tân Luật).
Xáo là trộn lên, làm đảo lộn vị trí từ dưới lên trên, hay từ chỗ nầy sang chỗ khác.
Như: Xáo lung tung đồ đạc và quần áo trong tủ, nồi da xáo thịt.
Người ta dám giết lẫn nhau vì số tiền một vài trăm đồng hoặc tạo cảnh nồi da xáo thịt vì bát cơm manh áo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Xáo: Trộn, làm đảo lộn trên dưới. Nồi da: Lấy da để làm nồi nấu thịt.
Xáo nồi da, do câu thành ngữ “Nồi da xáo thịt”, ý chỉ anh em ruột thịt mà nỡ hãm hại lẫn nhau.
Xem: Nồi da xáo thịt.
Lẫn bẩn mài răng ngăn tới lưỡi,
Cần cù lóc thịt xáo nồi da.
(Thơ Hộ Pháp).
Xáo: Làm lẫn lộn. Trộn: Đảo lộn cho đều.
Xáo trộn là làm đảo lộn lung tung. Như xáo trộn tình thế, xáo trộn các quân bài.
Thánh giáo Đức Hộ Pháp có dạy: Bần Đạo cũng nên nói rõ về việc thăng thưởng Chức sắc Hiệp Thiên, vì trước khi chấm thưởng, Bần Đạo đã tuyên bố lấy hết công tâm mà định đoạt, nhưng các em cứ một mực phản ứng làm cho xáo trộn một lúc hầu như đức tin đã đổ vỡ.
Xáo trộn tinh thần qua vạ gió,
Phũ phàng bão tố nghẽn đường mây.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Xào là làm chín thức ăn bằng cách đảo đều với dầu, mỡ và mắm muối trên bếp lửa.
Như: Xào rau muống, thịt gà xào, cải xào nấm, được bữa nào xào bữa nấy.
Nhớ khi dao khứa máu trào,
Nhớ khi bằm xắt nấu xào hầm kho.
(Thơ Hộ Pháp).
2.- Xào, như chữ “Xàu”, là bị héo úa, có hiện tượng rũ lá, không còn tươi tốt.
Như: Hoa lá héo xào, trời hạn cây cối bị úa xào, cúc xủ mai xào.
Tưới hoa chạ bên đường vô chủ,
Đậy giậu thưa cúc xủ mai xào.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Xào (xàu): Bị héo úa, có hiện tượng rũ lá, không còn tươi tốt. Úa: Héo vàng mất tươi.
Xào úa, như chữ “Úa xào”, là héo vàng, có hiện tượng ngả màu vàng, rũ xuống, nhăn nheo vì mất nước.
Xào úa còn có nghĩa héo hắt, héo hon, mất vẻ tươi tắn, do buồn rầu đau khổ.
Đời Mạt Kiếp,
nhắm xem sơn thuỷ Trời càng chan chứa,
Nhìn cỏ cây đồng xào úa,
dường như lụy ứa cõi mộng trường.
(Giác Mê Khải Ngộ).
巧
1.- Xảo là dối trá, lừa lọc khó lường. Như: Con người anh ấy rất xảo, mắc mưu xảo.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Thế mà người đời chưa thức tỉnh, vẫn còn say mê trong giấc mộng kim tiền, cũng hung hăng bạo ngược, cũng gian xảo trăm bề, cũng chước quỷ hại nhơn, tham vàng bỏ nghĩa.
Kẻ biết Ðạo Ðời thì ít mặt,
Những quân xảo láo hiếm phàm phu.
(Đạo Sử).
2.- Xảo là khéo, giỏi. Như: Xảo ngôn, xảo kế, xảo diệu, tinh xảo, trí xảo.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Lao tâm hay lao lực, miễn nghề nghiệp tinh xảo thì người hành nghề luôn luôn được phần thưởng xứng đáng, vì vậy có câu: Nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh thật là đúng như vậy.
Học cho thấu máy linh cơ tạo,
Học cho toàn trí xảo văn minh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
巧 計
Xảo: Khéo léo, giỏi, dối trá. Kế: Mưu kế.
Xảo kế là mưu kế khéo léo làm cho người ta bị lầm. Như: Dùng xảo kế để lừa người.
Lầm tưởng nền Đạo là một cơ quan xảo kế của phàm nhơn sáng tạo để mê hoặc tâm lý của người đời.
(Đạo Luật Mậu Dần).
巧 媚
Xảo: Khéo léo, giỏi, dối trá. Mị: Nịnh hót, lấy nhan sắc hay lời nói mê hoặc người.
Xảo mị nói người khéo nịnh hót.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Mỗi Chức sắc nên vui với nhiệm vụ thiêng liêng, khép mình vào khuôn viên đạo đức, để ngoài tai những lời quyến rũ bất lương, những giọng huyễn kèn xảo mị, coi lợi danh là miếng mồi xô đẩy con người vào vực thẳm thì may ra mới tránh khỏi vòng lửa đỏ đang thiêu đốt biết bao nhiêu tâm hồn sa đoạ nơi cạm bẫy.
Huyền diệu mũi kim qua chẳng lọt,
Đừng đừng xảo mị gọi tài tình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðưa rước mặt người hay xảo mị,
Lòng con con biết chớ phô trương.
(Đạo Sử).
Chánh trực công bình đường Thánh Phật,
Gian tà xảo mị lối yêu tinh.
(Thơ Thông Quang).
巧 言
Xảo: Khéo léo, giỏi, dối trá. Ngôn: Lời nói.
Xảo ngôn là lời nói khôn khéo, nhưng giả dối.
Thói thường người nghe bao giờ cũng muốn câu chuyện được thích ý, nhưng chuyện mình thích ý chưa hẳn đúng sự thật.
Luận ngữ có câu: Xảo ngôn lệnh sắc tiễn hỹ nhân 巧 言 令 色 譾 矣 仁, nghĩa là lời nói khôn khéo, trau dồi sắc đẹp, ít nhân đức vậy.
Nghĩa bóng: Xảo ngôn là lời nói tốt đẹp bề ngoài chứ không có lòng thật.
Những kẻ bội ước, bất trung, nói rồi chối, hoặc điên đảo xảo ngôn, là kẻ xúc phạm đến thần minh.
(Giáo Lý).
巧 語
Xảo: Khôn khéo, lừa lọc khó lường. Ngữ: Lời nói.
Xảo ngữ, như chữ “Xảo ngôn 巧 言”, là lời nói không chơn thật, ý chỉ lời nói cốt để vừa lòng người, chứ không hẳn đúng sự thật.
Như: Dùng xảo ngữ để lừa người.
Xem: Xảo ngôn.
Đừng thèm dụng cao ngôn xảo ngữ,
Với vợ nhà cứ giữ thật tình.
(Phương Tu Đại Đạo).
巧 譎
Xảo: Khéo léo, giỏi, dối trá. Quyệt: Dối trá, gian giảo.
Xảo quyệt là người khéo léo dối trá, gian giảo. Như: Dùng những thủ đoạn xảo quyệt.
Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm dạy: Rồi đây, mấy em còn phải đối đầu với mưu mô xảo quyệt đặng lách mình đến tận cơ cứu khổ mà tế thế an bang, gieo tinh thần vị tha trong đại chúng thì mấy em cần phải bình tĩnh và sáng suốt trong mỗi việc.
Chơn thật bẻ bai ra xảo quyệt,
Trên đời kẻ dữ hoá làm lành.
(Đạo Sử).
Vì sợ trẻ mắc lừa đời xảo quyệt.
Đừng giận mẹ cằn nhằn mắng nhiếc,
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay anh tránh tình đời xảo quyệt,
Nhắm mắt không muốn biết lòng phàm.
(Văn Tế Bảo Đạo).
巧 詐
Xảo: Khéo léo, giỏi, dối trá. Trá: Dối trá.
Xảo trá là xảo quyệt dối trá, tức dối trá một cách khéo léo. Như: Mưu mô xảo trá.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Các con ôi! Thầy thương đến tâm thành chánh trực đạo đức khiêm cung, cũng như Thầy xoá kẻ xảo trá gian tà cầu danh chác lợi.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá,
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.
(Kinh Sám Hối).
Ðem câu nhơn nghĩa khoe ngoài miệng,
Xảo trá hung hăng ít kẻ bằng.
(Đạo Sử).
Xạo xự là bịa đặt, không đúng với thực tế, không đúng với tính chất sự việc.
Như: Nó nói xạo xự chứ làm gì có chuyện đó.
Xạo xự là lăng xăng, hay tham gia vào việc của người khác.
Như: Anh ấy xạo xự cho không tham gia vào đâu.
Thánh giáo Thầy có câu: Lăng xăng xạo xự mùi chung đỉnh, vẻ cân đai, rốt cuộc cũng chẳng khác chi một giấc huỳnh lương mộng.
Công khanh xạo xự cũng vai tuồng,
Ðêm lặng rừng thiền lóng tiếng chuông.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lao lực thế tình chi xạo xự,
Rửa tai chờ lóng nhạc năm cung.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xạo xự công danh tàn giấc mộng,
Cạnh tranh phú quý cũng trò chơi.
(Thơ Huệ Giác).
Xát: Cọ, đánh đi đánh lại, tức áp mạnh sát lên bề mặt và đưa đi đưa lại nhiều lần cho sạch. Chà: Xát cọ vào
Xát chà, như chữ “Chà xát”, có nghĩa là chà đi chà lại nhiều lần trên một bề mặt.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn.
(Kinh Sám Hối).
Xăm là dùng vật có mũi nhọn châm vào củ hay trái cây để làm mứt.
Như: Xăm mứt, xăm gừng làm mứt, không dùng nĩa mà dùng tăm để xăm mứt dừa.
Hễ chị biểu xăm giùm miếng mứt,
Ngồi kéo chằng xé đứt làm hai.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xăm xăm là từ gợi tả dáng đi nhanh và liền một mạch nhằm thẳng tới nơi đã định.
Như: Từ ngoài đi xăm xăm vào nhà, xăm xăm bước lên nhà trước.
Ðổ tiếng chuông khua muôn tiếng biểu,
Lên lằn không khí lướt xăm xăm.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Xăng là xăng xái, hăng, nhanh, có tính chất gấp rút, khẩn trương hơn.
Như: Làm xăng lên để còn nghỉ, bước xăng lên kẻo trời sắp tối.
Thay đạo phục bước xăng lánh thế,
Mơi thì kinh, tối kệ giải lòng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Xằng là sai trái với lẽ phải. Như: Xằng bậy, không nói xằng, không làm xằng.
Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong Giáo Lý có viết: Bởi có tư tưởng trong lòng mới tỏ ra ngoài lời nói, thành thử, lời nói năng phải cẩn thận. Không nói lả lơi, không nói hoa nguyệt, không nói xằng, không nói bậy; không ngồi lê, đôi mách, không nói dối.
Nghe qua đừng đến trên đem dưới,
Tọc mạch thày lay kiếm nói xằng.
(Bát Nương Giáng Bút).
Ðộc hung bắt buộc lăng xăng,
Những người mê tín nghe xằng thì tin.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Xắt là cắt ra thành từng miếng nhỏ bằng cách ấn mạnh lưỡi dao xuống.
Như: Bầm xắt, xắt từng lát, xắt thịt ra từng miếng, xắt bánh sinh nhựt, xắt dưa leo.
Nhớ khi dao khứa máu trào,
Nhớ khi bằm xắt nấu xào hầm kho.
(Thơ Hộ Pháp).
1.- Xây là dùng vật liệu mà gắn kết lại tạo thành công trình. Như: Xây nhà, xây thành, xây cất, xây dựng, xây đời hạnh phúc.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Về phần quan lại Phụ mẫu chi dân quyền hành rất rộng rãi, một tay sanh sát, ra có kẻ bẩm, người trình, đối với dân đen là bậc thánh thần bất khả xâm phạm, nếu chẳng giữ tâm chánh, để dục vọng lôi cuốn, thì trăm họ lầm than muôn dân khổ sở. Làm quan thế ấy là cốt lê thứ xây đài các, lo túi cho đầy, thân cho sang, mặc ai đau đớn!
Tiết nghĩa trung can Hớn đảnh xây,
Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Xây là xoay, quay. Như: Xây chuyển, bốn mùa xây vần, trái đất xây quanh trục.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy nắm máy huyền vi, hằng lấy cân thiêng liêng mà day trở máy Càn khôn, vì vậy thế cuộc phải tuần hoàn, bầu nhơn sự phải luân chuyển vần xây phiêu linh cho đến buổi nhơn loại được vẹn toàn, thế giới cũng vì đó mà phải đổi thay, gạn đục lóng trong mà tạo thành miền Cực Lạc.
Lừng Trời vẹt ngút mây xây mịt,
Ðài ngọc khoe gương sắc rạng ngần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cũng muốn lẫy lừng xây thế cuộc,
Vòng trần ngặt đã bước chân ra.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Vắng khách cảnh còn xơ xác quạnh,
Chờ người sầu vẫn chập chồng xây.
(Thơ Huệ Giác).
Xây: Xoay, quây. Bàn: Cái bàn.
Xây bàn là cách thức thông công giữa thế giới siêu hình và hữu hình, tức là giữa người sống với vong linh của người chết.
Phong trào này đã phát triển mạnh ở Mỹ từ sau khi hội nghị Thần linh hoc đầu tiên họp ở Cleveland vào năm 1852. Sau đó phong trào Thần Linh học truyền qua Châu Âu, nhưng phát triển mạnh ở Pháp. Nơi đây, ông Allan Kardec mới hệ thống hoá các lý thuyết về Thần Linh Học, và văn hào Victor Hugo cũng nghiên cứu phong trào mà tiếp xúc với các Đấng vô hình. Từ đó, các sách báo đua nhau đăng tải và nên dần dần phong trào mới lan sang miền Nam Việt Nam.
Người ta dùng một cái bàn mặt tròn, thường có ba chân, trong đó hai chân được kê cao để một chân có thể gõ xuống nền phát ra tiếng. Có hai hoặc ba đồng tử ngồi quanh bàn, đặt bàn tay xoè ra, úp lên mặt bàn. Vong linh người chết mượn điển đồng tử làm cho bàn dao động, gõ nhịp xuống nền theo quy ước về chữ viết. Người thư ký sẽ căn cứ vào nhịp gõ của bàn mà viết ra chữ, thành một bài thơ hay một bà văn.
Trong đạo Cao Đài có bốn vị là Cao Quỳnh Cư, Cao Quỳnh Diêu, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang có tổ chức xây bàn đầu tiên vào đêm mùng 4 tháng 6 năm Ất Sửu (Dl. 24/7/1025) tại nhà ông Cao Hoài Sang ở Sài Gòn. Từ đó các ông thường tổ chức xây bàn, rồi sau trở qua cầu cơ, được Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế và các Đấng Thiêng liêng hướng dẫn mở Đạo, nên trở thành những vị tiền khai nền Đại Đạo.
Xem: Cầu cơ.
Nghe rối dạ còn đang muốn biết,
Việc Xây bàn quả thiệt mong chờ.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Triêm ân tiền bối Hiệp Thiên Đài,
Tổ chức xây bàn Đạo khởi khai.
(Thơ Huệ Phong).
Xây: Xoay, quay. Cơ chuyển thế: Cơ quan chuyển thế, tức là cơ quan làm thay đổi đời.
Xây cơ chuyển thế là xây dựng một cơ quan làm thay đổi cho cảnh đời từ xấu ra tốt, từ hung ác trở nên hiền lương đạo đức.
Trong Thuyết đạo Hộ Pháp có câu dạy: Ngài đến với một lời hứa hẹn rất thiết yếu, mà chính Ngài đến đặng chuyển pháp xây cơ chuyển thế Ngài đã hứa quả quyết nhơn loại sẽ là một; một về nòi giống, một về xã hội, một về tôn giáo.
Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,
Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.
(Kinh Tận Độ).
Xây: Xoay, quay. Chuyển: Thay đổi.
Xây chuyển là xoay vòng để thay đổi.
Lý Giáo Tông có ban lời dạy: Lão để lời ban khen đó. Nên hư của Ðạo đều nơi tay hiền hữu, hiền hữu khá liệu lấy mà giữ gìn. Lão ở trong thân hiền hữu, hiền hữu ở trong thân của Lão. Lão đủ quyền hành mà xây chuyển Thiên cơ được cùng chăng cũng do hiền hữu.
Vòng xây chuyển vong hồn tiến hoá,
Nương xác thân hiệp ngả Càn khôn.
(Kinh Tận Độ).
Tận thế Trời khai mối Đạo huyền,
Thiên thơ xây chuyển lượng vô biên.
(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).
Ơn Trên xây chuyển xin cầu nguyện,
Hoà hiệp đệ huynh nghĩa vẹn tròn.
(Thơ Huệ Giác).
Xây chuyển: Chuyển động xoay vòng, làm cho thay đổi, cái cũ thế cái mới. Cơ đời: Guồng máy của đời, tức là tất cả các thứ sinh hoạt của con người ở cõi thế gian.
Xây chuyển cơ đời nghĩa là làm cho đời từ xấu thay đổi thành tốt đẹp hơn.
Con cầu xin mảnh hình tráng kiện,
Giúp nên công xây chuyển cơ Đời.
(Kinh Thế Đạo).
Xây: Dùng vật liệu mà dựng nên. Dựng: Lập nên.
1.- Xây dựng là xây đắp mà dựng nên, làm nên một công trình kiến trúc. Như: Xây dựng Nhà Hội Vạn Linh.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu dạy: Thưa toàn thể chư Chức sắc, Chức việc và Ðạo hữu, hoàn thành được công trình xây dựng nầy, Hội Thánh nhờ nơi tấm nhiệt thành của toàn Ðạo Chức sắc, Chức việc, cùng Ðạo hữu nam nữ nơi trung ương cũng như ở các địa phương vui lòng chung đậu kẻ ít người nhiều, nhứt là nhờ nơi công quả của Ban Kiến Trúc và thợ chuyên môn toàn là người hiến thân cho Ðạo.
Trọng hệ hơn hết là nền móng đã làm đặng nhưng không có tiền để xây dựng lên,...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
2.- Xây dựng là làm cho hình thành một tổ chức về xã hội, kinh tế, văn hoá, tôn giáo... theo một phương hướng nhất định. Như: Xây dựng nền Đại Đạo.
Huấn từ Đức Thượng Sanh có dạy: Chúng ta phải cố gắng giữ gìn cái sức mạnh tinh thần đó còn nguyên mãi vẹn mãi mãi, để làm nền tảng kiên cố cho cơ quan phổ độ tồn tại đến thất ức niên và tạo nên nhiều phương tiện trên đường lối xây dựng cơ nghiệp Đạo.
Xây dựng gia đình luôn cả kiến,
Khoe khoan thế giới một mình ta.
(Thơ Hộ Pháp).
Xây dựng nên hình nêu tánh hiệp,
Điểm tô ra vẻ rạng nguơn lồng.
(Thơ Hiến Pháp).
Xây: Xây dựng, dùng vật liệu mà dựng lên. Đắp: Vun đất lên đắp.
Xây đắp, cũng như chữ “Xây dựng”, là xây đắp và dựng nên.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy hằng biết công của các con, nhưng Thầy phải cực lòng chiều ý của mỗi đứa mà xây đắp nền Ðạo. Vì vậy mà nhiều sự xảy ra đều do nơi tâm chí của nhiều đứa.
Vun bồi cội ái, đời hưng thịnh,
Xây đắp nền nhân, đạo thống truyền.
(Thơ Huệ Giác).
Xây: Xoay, quay. Đổi: Thay thế cái nầy cho cái kia.
Xây đổi là biến đổi thành khác với ban đầu.
Thánh Ngôn Thầy có đoạn: Thầy đã nói, Thiên cơ phải do nơi tâm hạnh của các con mà xây đổi máy huyền vi. Vì vậy, Thầy phải đổi cơ mầu, dụng sự hoà bình yên tịnh để dẫn các con cho vẹn bước đường đạo đức.
Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi,
Mượn Thánh ân xây đổi cơ Đời.
(Kinh Thế Đạo).
Cơ Trời xây đổi lập Tân Dân,
Cái hủ tệ xưa phải bỏ lần.
(Đạo Sử).
Cuộc cờ tạo hoá chờ xây đổi,
Thiện ác đáo đầu cũng có khi.
(Thơ Cao Liên Tử).
Xây: Xây dựng, dùng vật liệu mà dựng lên. Đồn: Vị trí đóng quân để phòng vệ.
Xây đồn là xây dựng đồn bót, nơi binh lính đóng quân để bảo vệ quê hương đất nước.
Như: Xây đồn đắp lũy.
Lập chí ôn nhu là đắp lũy,
Nung lòng Đạo đức ấy xây đồn.
(Bát Nương Giáng Bút).
Xây móng: Xây dựng lớp vật liệu dưới cùng nằm trong đất để đỡ sức nặng công trình. Đắp nền: Phủ đất, đá lên lớp dưới công trình.
Xây móng đắp nền là xây đắp nền móng của công trình cho vững chắc.
Xây móng đắp nền ý chỉ những phần căn bản nhứt phải lo cho thật tốt.
Người lo xây móng đắp nền,
Móng nền cứng cát vững bền muôn thu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Chỉ phương xây móng đấp nền,
Luyện huờn tam ngũ làm nền Tiên Gia.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Xây: Xây dựng, dùng vật liệu mà dựng lên. Thành 城: Thành, thành trì.
Xây thành là xây dựng thành trì, ý chỉ công trình to lớn, đòi hỏi phải có tài sức.
Góp mặt tầng nêu cơ lập Đạo,
Kém tài đâu dễ sức xây thành.
(Thơ Thanh Thuỷ).
Xây: Xây dựng, dùng vật liệu mà dựng lên. Thành lũy: Thành và lũy, công trình kiên cố để phòng thủ một vị trí.
Xây thành lũy là xây dựng một công trình kiên cố để phủ thủ một vị trí nào đó.
Đất vò nên lọn xây thành luỹ,
Nước dập tuôn bờ lở giậu dâu.
(Lục Nương Giáng Bút).
Xây: Quay, hướng về phía nào đó. Trở: Di chuyển, biến đổi ngược lại hướng ban đầu.
Xây trở, như chữ “Xoay trở”, là xây qua trở lại để cố gắng làm một việc gì.
Xây trở còn dùng để chỉ làm cách nầy hay cách khác, sao cho giải quyết có lợi trong công việc.
Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm dạy: Thời sự hiện giờ gấp rút lắm, các em dư hiểu thì các em cứ bình tĩnh mà xây trở cho khéo léo, kẻo sơ thất mà dư luận không buông tha cho đó các em.
Xem: Xoay trở.
M. Ng (Mỹ Ngọc) hiền hữu có rõ ngày chung cuộc xây trở về đâu chăng?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Hay “Xoay vần”.
Xây: Xoay, quay. Vần: Làm di chuyển vật bằng các lăn, xoay.
Xây vần, như chữ “Xoay vần”, là xoay đi, chuyển đi.
Xây vần là biến đổi theo lẽ tự nhiên.
Xem: Xoay vần.
Cái vòng không mối ấy cơ đời,
Chu phục xây vần biết mấy mươi.
(Thơ Huệ Ngàn).
侵 陵
Xâm: Chiếm lấy, tiến binh lấn lãnh thổ một nước khác. Lăng: Phạm vào.
Xâm lăng là đem binh xâm hại một nước khác, đồng nghĩa với “Xâm lược 侵 掠”.
Như: Đất nước bị hoạ xâm lăng, toàn dân nổi dậy chống xâm lăng.
Quân vọng ngoại hàm hồ nối giáo,
Bọn xâm lăng ngụy tạo giấy tờ.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Bao nhiêu lệ thuộc không nao núng,
Đánh đuổi xâm lăng chí quật cường.
(Thơ Huệ Phong).
侵 犯
Xâm: Lấn, chiếm lấn. Phạm: Mắc phải điều trái với người khác, Người bị can.
Xâm phạm là phạm đến, hay lấn lướt quyền lợi của người khác.
Thánh giáo Đức Diêu Trì Nương Nương có dạy: Có hợp sức đồng tình mới vẹt xa được cám dỗ của bên ngoài mà đem cho nhau điều trong sạch, đạo đức, chớ có một hai đứa có đủ gì đởm đương trong buổi loạn lạc, là lúc Tà quyền lẫy lừng xâm phạm.
Thầy đã giao trách nhiệm lớn lao cho mỗi đứa đáng tin cậy, chúng nó chẳng biết điều đình thì phú mặc Tà quái xâm phạm mà thôi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Xẩn bẩn là lảng vảng, cà rà theo một bên. Như: Gà con xẩn bẩn quanh mẹ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðời sống như vậy mới gọi là đời sống có ý nghĩa, một đời sống đáng sống, vì ít ra kiếp sanh của ta cũng phải là một kiếp sanh hữu dụng chẳng phải như những kẻ chỉ biết có thân mình, cứ xẩn bẩn ở xó nhà, lo việc ích kỷ bổn nhơn để rồi, một ngày kia, chết mòn trong chỗ tối tăm, không ai màng biết đến.
Hồn ma bóng quế cũng lên ngồi, mà ngạ quỷ vô thường cũng xẩn bẩn, đó là phương đem đường cho Quỷ vương, chẳng một ai tránh được, nghe!
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Xẩn bẩn còn có nghĩa là lây quây, thấm thoát.
Như: Ngày qua tháng lại tợ thoi đưa xẩn bẩn tiết Ðông đã ướm tàn, báo tin mùa Xuân mới chực đến.
Xẩn bẩn trời mơi kế xế chiều,
Sầu đâu chất ngất cứ đeo theo.
(Thơ Thượng Sanh).
Xấp là có nghĩa tăng bội lên.
Như: Tướng tá thằng nầy ăn uống xấp hai người thường, hôm nay làm việc xấp đôi ngày hôm qua.
Những vị nào trong lúc ngày Xuân, biết lo phụng sự Thần, Thánh, Tiên, Phật thì công đức đặng xấp bằng hai lần ngày thường.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Xâu là công việc lao động nặng nhọc hằng năm, mà người nam thường dân từ 18 đến 60 tuổi phải có bổn phận làm cho nhà nước.
Như: Làm xâu đóng thuế, xâu cao thuế nặng.
Sinh thời cộng hưởng vui xâu thuế,
Kích nhưỡng nhi ca khỏi chiến chinh.
(Thơ Huệ Phong).
2.- Xâu là tiền có được từ hoạt động cho đánh bạc hoặc tổ chức cá độ để thu lợi theo tỷ lệ hoặc theo quy định từ người thắng.
Như: Thu tiền xâu, chứa xâu lường của.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.
(Kinh Sám Hối).
Để hành kẻ chứa xâu, lường của,
Trù ếm người, chưởi rủa Tổ tông.
(Kinh Sám Hối).
3.- Xâu là xuyên qua lỗ, hoặc nói chung xuyên qua bằng sợi dây, bằng chiếc que để giữ hoặc kết các vật lại thành một chuỗi với nhau.
Như: Xâu cá, xâu chuỗi, xâu chìa khoá, xâu bánh.
Gặp vợ ghen ông táo có rầu,
Bứt đem đổi cọng râu xâu bánh.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xâu: Xuyên qua bằng sợi dây để giữ hoặc kết các vật với nhau. Chuỗi: Gồm nhiều hạt xâu thành dây.
Xâu chuỗi là ghép lại, liên kết lại thành một chuỗi, một tuyến.
Xâu chuỗi là hạt xâu lại thành chuỗi, còn gọi là tràng hạt, là vật dùng cho người tu hành niệm Phật lần chuỗi, cứ niệm một danh hiệu Phật thì lần một hạt.
Xâu chuỗi có loại 18 hạt, cũng có loại 108 hạt.
Dịu dàng tay mặt lần xâu chuỗi,
Yểu điệu tay kia nắm tấm hình.
(Thiên Thai Kiến Diện).
1.- Xấu là không đẹp, có hình thức dáng vẻ ngoài khó coi. Như: Xấu tướng, xấu người đẹp nết, chữ xấu.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Con coi mặc Thiên phục có xấu gì đâu con?
Hễ xấu dạng thì nhơ mặt thiếp,
Còn đẹp hình, nhát kiếp phù dung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tránh gái thơ khi vợ tuổi già,
Gặp vợ xấu lánh xa mỹ nữ.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Xấu là không tốt, không có giá trị, phẩm chất đạo đức kém, đáng chê.
Như: Hàng hoá xấu, hành vi xấu, xấu nết, xấu bụng, thói xấu, tâm địa xấu.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Sắp nhỏ là tương lai đất nước chúng nó tốt xấu nên hư đều do nơi mấy bà mẹ đào tạo.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
(Kinh Sám Hối).
Chừa thói xấu đảo điên trong dạ,
Muôn việc chi chẳng khá sai lời.
(Kinh Sám Hối).
3.- Xấu là thuộc loại có thể gây hại, mang lại điều không hay, trái với tốt. Như: Vận xấu, nghiệp xấu, bạn xấu, thời tiết xấu, xấu số, xấu phận.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngày nào Ðạo Cao Ðài có đủ phương tiện cứu vớt tất cả những kẻ xấu số nói trên đem nhường cơm, chia áo, dìu dắt nhủ khuyên đưa họ đến tận nơi Ðạo Ðức dưới bóng từ bi thì mục đích cứu khổ của Ðạo mới vẹn toàn theo ý muốn của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ.
Thương gìn lúc ốm khi đau,
Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ôi, xấu kiếp số, thảm cho kiếp số,
Gẫm sự đời đáng hổ kiếp hồng nhan.
(Phương Tu Đại Đạo).
4.- Xấu là hổ thẹn. Như: Xấu hổ, làm bậy mang tiếng xấu, làm cho cha mẹ xấu, bêu xấu, nêu gương xấu.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Lúc nào bậc Hiền nhân cũng không tự dối với mình và dối với thiên hạ, cho nên ngưỡng đầu lên không xấu với Trời, cúi xuống không thẹn với người, cùng khổ không mất nghĩa, hiển đạt không lìa Ðạo.
Ham miếng đỉnh chung mê sắc đẹp,
Hại thân tiếng xấu để muôn đời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Dạy tránh điều hổ tộc xấu nhà,
Muôn sự để mẹ cha định liệu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xấu: Xấu hổ. Hổ: Thẹn.
Xấu hổ là hổ thẹn. Như: Có con như mầy xấu hổ với ông bà nơi chín suối.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong làng có điều gì chinh tâm với nhau thì ông chủ của làng xử trước, nếu bất đồng đem nội vụ ra nhà việc, hễ lỗi nhỏ thì nạp tiền câu tra, tội lớn thì căng nọc đánh giữa dân làng, không đến nỗi chết mà hễ bị đánh rồi thì về nhà còn có nước trốn đi nơi khác, hoặc đóng cửa đi đâu đi lén lút khổ não lắm vì bị gièm pha nhạo báng xấu hổ chịu không nổi.
Lễ nghi khá giữ nét nhà mình,
Xấu hổ chi chi lại rẻ khinh.
(Đạo Sử).
Thân trâu ngựa não nề đau khổ,
Chịu lao đao xấu hổ chẳng cần.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Xấu: Có hình bên ngoài không đẹp, hoặc phẩm chất xấu xa. Tốt: Có dáng vẻ đẹp đẽ hoặc phẩm chất cao.
Xấu tốt là xấu xí và đẹp đẽ. Xấu tốt còn dùng để chỉ phẩm chất xấu xa và tốt đẹp.
Như: Dáng con gái xấu tốt không cần biết, chỉ yêu cần có phẩm hạnh là được rồi.
Bạn trăm tuổi thân hoà làm một,
Dầu sang hèn xấu tốt cũng duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đã cha mẹ đừng chê xấu tốt,
Chẳng lẽ già da lột sống đời.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xấu: Có hình thức bề ngoài khó coi, hoặc chỉ phẩm chất giá trị kém.
1.- Xấu xa là không đẹp đẽ về sắc diện và hình thể, trái với đẹp. Như: Dáng đi của anh ấy rất xấu xa.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Cái đời sống của ta hiện giờ giàu sang hay nghèo hèn, liền lạc hay tật nguyền, xinh đẹp hay xấu xa, được yêu vì hay bị ngược đãi, an vui hạnh phúc hay lắm chịu thiên ma bách chiết, cũng đều do ta gây nhân ở tiền kiếp.
Anh thời bộ dạng xấu xa,
Tôi thì như một đoá hoa vẹn mười.
(Thơ Hộ Pháp).
2.- Xấu xa còn là có phẩm chất và giá trị không tốt đến mức tồi tệ, đáng khinh bỉ. Như: Tâm tánh xấu xa.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tôi nói quyết một điều là Chánh Trị Ðạo mà có dính một chút của quyền đời thì dị hợm xấu xa lắm vậy.
Xấu xa rách rưới lõa lồ,
Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Huống chi những đờn bà có thói,
Dầu xấu xa cũng gọi mình xinh.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Xe là phương tiện đi lại có bánh lăn để chở người hay hàng hoá. Như: Xe ngựa, xe trâu, xe Tiên.
Thánh giáo Đức Tiêu Sơn Đạo Sĩ có câu: Lao nhao, lố nhố, cũng thì một con đường, cũng thì về một chỗ, mà kẻ đi xe ép người đi bộ, người thông hiểu nẻo lộ gạt gẫm đứa khạo khờ, kẻ côi thế chịu bơ vơ, người quá ham đi mà sa hố, rốt lại cũng quạnh quẽ con đường.
Kỵ kim quang kiến Lão Quân,
Dựa xe Như Ý oai thần tiễn thăng.
(Kinh Tận Độ).
Anh vừa sang cho mực một ve,
Đi học đánh đeo xe đổ ráo.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Xe là tên gọi một quân trong cờ tướng, hoặc bài tam cúc, bài tứ sắc.
Như: Thí chốt bắt xe, đem xe chiếu tướng.
Nam Việt lẫy lừng xe pháo ngựa,
Tần bang bồng bột tướng binh voi.
(Quyền Giáo Tông Giáng).
3.- Xe là làm cho các sợi nhỏ xoắn chặt lại với nhau, hoặc các phần nhỏ thành lọn lại.
Như: Xe dây thừng, xe từng sợi chỉ màu, dã tràng xe cát biển đông.
Dây oan xe chặt buộc mình,
Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.
(Kinh Tận Độ).
Xe: Phương tiện đi lại có bánh lăn để chở người hay hàng hoá. Cộ: Kéo đi, dùng xe hoặc vật để kéo đi.
Xe cộ là tiếng dùng để chỉ chung về các loại xe trên đường bộ.
Như: Mấy ngày lễ xe cộ trên đường đông nghẹt.
Trên trời dưới đất, rạch sông,
Máy bay xe cộ, thuyền rồng đón đưa...
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Xe: Phương tiện chuyên chở. Châu: Hạt châu.
Xe châu là một loại xe có phủ rèm và kết hạt châu, hạt cườm dùng để chỡ quan tài đi chôn, còn gọi là xe tang.
Trong một đàn cơ Đấng A Ă Â (tức Đức Chí Tôn) về giải thích xe Châu như sau: Xe châu là nhà vàng, tỷ như xe Châu Võ Vương Cơ Phát dùng mà phạt Trụ đặng thâu thiên hạ, nghĩa là sự giàu sang phú quý chi cũng đựng trong xe ấy mà thôi. Xe châu là xe đựng sự giàu sang, phú quý của kiếp con người (Trích trong Đạo Sử).
Nhớ xe Châu thầy Mạnh Tử vẫn não nùng,
Xem níếp tử, ông Sâm càng thắm thiết.
(Văn Tế Đốc Học).
Xe: Làm cho các sợi nhỏ xoắn chặt lại với nhau, hoặc các phần nhỏ thành lọn lại.. Duyên: Duyên nợ.
Xe duyên ý muốn nói Nguyệt Lão xe sợi tơ buộc chặt mối duyên vợ chồng cho hai người trai gái.
Như: Ông tơ bà nguyệt xe duyên vợ chồng.
Xem: Nguyệt Lão.
Tơ nguyệt xe duyên lơi mối chỉ,
Sắt cầm lạc phiếm ngẩn cung đàn.
(Thơ Cao Liên Tử).
Xe: Phương tiện đi lại có bánh lăn để chở người hay hàng hoá. Hạc: Chim hạc.
Xe hạc, bởi chữ “Hạc giá 鶴 駕” là xe hạc, dùng để chỉ xe của những người già, thọ như chim hạc.
Chim hạc là loài chim sống lâu, nên người ta thường dùng để nói về bậc già cả, như hạc linh (tuổi hạc), hạc giá (cỡi hạc)...
Theo Hàn thi ngoại truyện, thì loại hạc vàng có thể bay rất xa, mỗi lần cất cánh thì có thể bay hàng muôn dặm, vì thế những linh hạc được các vị Thần Tiên dùng để cỡi hay kéo xe vân du trong các cõi giới. Đối với các thi nhân, hạc cũng được làm xe để cỡi, Bạch Cư Dị viết: Tằng bồi hạc ngự lưỡng tam tiên, 曾 陪 鶴 馭 兩 三 仙, nghĩa là đã từng ngồi xe hạc cùng với ba vị tiên.
Quanh quẩn đường mây khi tịnh dưỡng,
Thong dong xe hạc lúc ngao du.
(Thơ Hoài Tân).
Xe: Một loại phương tiện đi lại có bánh lăn. Hoa: Trang trí bông hoa.
Xe hoa là xe có trang trí bông hoa, dùng để họ nhà trai đến họ nhà gái rước dâu.
Xe hoa còn là loại xe dành để chú rể và cô dâu ngồi về nhà chồng.
Tiệc ngọc vui vầy trang bạch phát,
Xe hoa mừng đón lứa thanh my.
(Thơ Thuần Đức).
Xe: Phương tiện đi lại hoặc vận tải trên bộ, có bánh lăn. Hơi: Hơi nước, chỉ động cơ nổ.
Xe hơi, đồng nghĩa với chữ “Ô tô”, là từ chỉ chung các loại xe từ bốn bánh trở lên, chạy bằng động cơ.
Khi nói về Đĩa bay, trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Họ lên núi cao kia, xa thẳm trong rừng già, họ tìm đĩa bay rớt xuống, vô trỏng không thấy gì hết, chỉ thấy xuất hiện một kỳ nhân lạ lùng, nghe nói mà rùng rợn: Con người gì mà ước độ 19 thước bề cao, 5 thước bề ngang, mình xanh lè, hào quang xanh chiếu diệu ra, con mắt đỏ như huyết, chiếu ra như đèn pha xe hơi.
Của đời anh quyết tóm thâu,
Con ngoan vợ đẹp nhà lầu xe hơi.
(Thơ Hộ Pháp).
Xe: Một phương tiện đi lại có bánh lăn. Mây: Hơi nước bốc lên đọng lại thành từng đám.
Xe mây, bởi chữ “Vân xa 雲 車”, là chiếc xe đi trên mây. Đây là một bửu pháp của các Đấng Tiên Phật dùng mây để vân du trong các cõi thế giới.
Xe mây bốn chỗ vừa người dựa,
Ngựa tuyết năm con thiếu kẻ cầm.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Xe mây nhẹ tách miền vô thượng,
Để dấu Hiệp Thiên chói rạng ngời.
(Thơ Phạm Mộc Bổn).
Xe: Một phương tiện đi lại có bánh lăn. Như ý 如 意: Theo sự ước muốn.
Xe Như ý là loài xe Tiên rất huyền diệu, có thể điều khiển theo ý muốn.
Xe như ý là loại xe Tiên của Đức Thái Thượng Lão Quân thường dùng để vân du các cõi giới.
Kỵ kim quang kiến Lão Quân,
Dựa xe Như ý oai thần tiễn thăng.
(Kinh Tận Độ).
Xe: Một phương tiện dùng để đi lại. Tiên: Thần Tiên.
Xe Tiên, như chữ “Tiên xa 仙 車”, là chiếc xe rất huyền điệu để chư vị Thần Tiên cỡi đi vân du khắp mọi nơi, mọi thế giới.
Xe Tiên của Đức Thái Thượng Lão Quân gọi là Xe Như ý, còn xe của Đức Lão Tử gọi là Xe trâu.
Xem: Tiên xa.
Xin Thần, Thánh ruổi dong cỡi hạc,
Xuống phàm trần vội gác xe tiên.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Xe: Phương tiện đi lại hoặc vận tải. Trâu: Động vật nhai lại, sừng cong, lông thưa, ưa dầm nước.
Xe trâu là chiếc xe kéo bằng con trâu, gọi là độc giác thanh ngưu (con trâu xanh một sừng) của Đức Lão Tử.
Tương truyền Đức Lão Tử ngày xưa thường cỡi chiếc xe độc giác thanh ngưu để đi phổ độ người đời ở miền sa mạc phía Tây.
Theo bài Kinh Tiên Giáo, Ngài cỡi xe trâu đến ải Hàm Cốc để truyền Kinh Đạo Đức cho quan lệnh Doãn Hỷ rồi sau đó, qua các vùng sa mạc phía Tây vực, đem Đạo Vô vi để tế độ cho chúng sanh nơi ấy.
Dẫy xe trâu Côn Lôn trỗi bánh,
Lý Lão Quân mong lánh phong trần.
(Kinh Thế Đạo).
Xé là làm cho rách ra, đứt rời thành từng mảnh, từng miếng. Như: Xé giấy, xé vải, xé vé xem hát, xé xác.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Cang thường điên đảo, phong hoá suy vi, những mảng ghét lẫn nhau, giành xé nhau, mối tôn giáo phân chia, đạo nước nhà chẳng đoái, chánh tà tà chánh nan phân, còn chút hơi thở ở cõi trần mà tính tình dọc ngang chưa chịu dứt, một mai hồn xuống Diêm Ðài, khổ A Tỳ bảo sao không buộc trói.
Các thơ truyện huê tình xé huỷ,
Kẻo để đời làm lụy luân thường.
(Kinh Sám Hối).
Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhơn quào quấu xé thây.
(Kinh Sám Hối).
Xé: Làm cho rách ra, đứt rời ra thành từng phần, từng mảnh. Phay: Thịt luộc vừa đủ chín để làm món ăn, không nấu, không xào.
Xé phay là một món ăn, thường dùng gà luộc chín rồi xé thành miếng nhỏ và trộn với gỏi, gia vị.
Như: Thịt gà xé phay.
Khi anh được tiền rương bạc vựa,
Thì phòng khi tắm lửa xé phay.
(Thơ Hộ Pháp).
Xé: Làm cho rách ra, đứt rời ra thành từng phần, từng mảnh. Thây: Xác người xác vật đã chết.
Xé thây, cũng như chữ “Xé xác”, là làm cho thây rời ra từng manh mún. Xé thây đồng nghĩa với phanh thây.
Như: Điểu táng là đem xác người chết để trên cây cho chim chóc xé thây.
Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhơn quào quấu xé thây.
(Kinh Sám Hối).
1.- Xẻ là cắt, chia theo chiều dọc.
Như: Xẻ thịt, xẻ đôi thân người, xẻ hai trái mít, vầng trăng xẻ nửa.
Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,
Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mặt nhựt hồi mô thấy xẻ hai,
Có thương mới biết Ðấng Cao Ðài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mổ bụng độn vàng, quăng phổi ruột,
Xẻ đầu nhét sách, ốm hình thù.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Xẻ là chia, cắt cho rời ra, không để dính liền hay gần nhau. Như: Xẻ gỗ, xẻ tà áo, chia tình xẻ nghĩa.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Quỷ Vương lại thừa dịp hành tàng bất chánh của nhiều đứa trong Ðạo mà giựt giành, chia xẻ các con với Thầy. Nó lại tuỳ theo hạnh đức của mỗi đứa mà dắt lần ra khỏi đường Chánh giáo.
Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một gánh tình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xem là coi, nom, để ý xét cho biết. Như: Xem sách, xem hát, xem bói, xem số.
Thánh giáo Thầy có câu: Cái xuân kia chẳng đợi người mà bước đời càng gay trở, lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều quang nhặt thúc, con đường hy vọng chẳng biết đâu là tột cùng mà bước đời xem đà mòn mỏi, sự thác vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sanh ly pha màu tử biệt, làm cho sự vui vẻ giàu sang danh vọng đều thành ra một giấc huỳnh lương, rồi đây vĩnh biệt ngàn năm, tội tình muôn kiếp.
Trở chơn ít kẻ lo đi ngược,
Bước đoạ xem qua dấu dập dìu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mới thấy con chưa từng phải quấy,
Khá chờ xem thử biết Thầy hay.
(Đạo Sử).
Xem: Coi là, coi như. Thường: Không có gì đặc biệt, chẳng đáng chú ý.
Xem thường, như chữ “Coi thường”, cho là không quan trọng gì, là không đáng kể, không đáng phải chú ý.
Như: Xem thường vàng bạc, xem thường mạng sống.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ý thức đời sống của kẻ tu hành là đời sống tinh thần, chúng ta nên xem thường mùi phú quý, bả vinh hoa, lấy kinh sách làm món ăn cho tâm hồn, lấy tình thương làm chủ nghĩa, lấy công quả làm nấc thang, nâng tư tưởng vượt lên trên hết những khát vọng thấp hèn của phàm tục.
Thương luân lý xem thường bỏ phế,
Thương kẻ nàn hoà lệ chia ưu,
(Bát Nương Giáng Bút).
Đạo vợ chồng dạy chớ xem thường,
Hễ kén bạn độ lường nhà đạo đức.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xem: Nhận định, đánh giá, dựa vào kết quả quan sát. Xét: Tìm kiếm, suy nghĩ kỹ để hiểu biết cho rõ.
Xem xét là xem coi kỹ lưỡng, tức tìm hiểu, quan sát kỹ để đánh giá, rút ra những nhận xét, những kết luận. Như: Xem xét nguyên nhân thất bại.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Bàn Trị Sự đã có sắp đặt đủ tư cách và mỗi đạo hữu đều có tư cách riêng, mỗi tháng nhóm một lần, là đêm rằm mà bàn tính việc đạo, xem xét coi sự nào trong đạo nên huỷ vì sái nhơn tâm, sự nào nên thi hành thì hiệp lòng sanh chúng, gắng lo chung nhau mà làm cho Ðạo đặng có phẩm giá tối cao tối trọng, thì thế nào chư hiền hữu chẳng vui lòng bước tới.
Hoá công xem xét đền bồi,
Lành siêu dữ đoạ thêm nhồi tội căn.
(Kinh Sám Hối).
Thương lẫn nhau còn xem xét lẫn,
Mình đi phải nẻo chỉ người đời.
(Đạo Sử).
Xen là chen vào giữa, tức làm cho ở vào vị trí giữa những cái khác.
Như: Đừng xen vào giữa đám đông, trồng xen vào hai loại rau, làm xen thêm những công việc khác.
Thánh giáo Đức Thanh Tâm trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Ðạo nơi Tâm, thì Tâm ví như Ðiền, có Ðiền mà chẳng cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột thì ruộng tất phải bỏ hoang, bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú.
Tiếng cầm xen tiếng sắt, phao tuông đêm hạ giấc hoà phong,
Mùi xạ bén mùi hương, đầm ấm ngày xuân hơi thoại võ.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Ðừng cho ngoại vật lấn xen,
Tâm hồn mê muội như đèn lụn tim.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Xeo là dùng đòn để bẩy cho chuyển đi chỗ khác.
Như: Đống cột nằm trước được xeo từ cây chất bên hong nhà, lấy xà beng xeo tảng đá.
Thiệt thà giữ tấm lòng ngay,
Ma xeo chớ ngã, quỷ bày đừng nghe.
(Thơ NĐS Hương Thanh).
1.- Xéo là giẫm mạnh, giày bừa lên.
Như: Giày xéo, xéo nát thảm cỏ trước sân, xéo lên nhau mà chạy.
Phương chi nạn chiến tranh đang giày xéo đất nước, suốt phần tư thế kỷ nay...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
2.- Xéo là tréo, xéo. Như: Gạch xéo, cắt xéo, nhìn xéo, ruộng xéo.
Thánh giáo Thầy có dạy: Như làm cờ vải chẳng kịp thì mua giấy màu. Bề dài cờ là 9 tấc tây, bề ngang 3 tấc tây, cắt xéo xuống. Nghe và tuân theo.
Đừng tức mẹ vả xiên ngắt xéo,
Ấy phép linh mẹ sửa méo ra tròn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Đứa ở ăn kẻ sự cô hư,
Có ghét đứa lừ nhừ lừa ngắt xéo.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xéo: Lệch, không ngay theo đường thẳng hàng, nói hoặc chửi người này nhưng lại ám chỉ người kia. Xiên: Nghiêng, chếch, nói bóng gió.
Xéo xiên, như chữ “Xiên xéo”, là xỏ xiên, nói một cách bóng gió để tỏ ý khinh miệt, hoặc đả kích ai đó.
Như: Thằng hèn nhát, chỉ biết nói xéo xiên với người, chứ không bao giờ dám nói thẳng.
Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù,
(Kinh Sám Hối).
Xét là tìm kiếm suy nghĩ kỹ để hiểu biết cho tường tận. Như: Xét người, xét án, soi xét.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Con có ngày giờ suy nghĩ đã lâu, Thầy cho con xét thêm nữa đặng có đức tánh hoàn toàn, chừng ấy con là ái nữ của Thầy, sẽ dụng làm tay chơn, đem rưới giọt nhành dương để cứu thoát nhơn sanh nơi vòng ly khổ từ đây.
Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
(Kinh Sám Hối).
Lòng thành một tấm Trời soi xét,
Gương rạng nghìn thu nguyệt chiếu minh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xét lấy: Tự mình suy xét lấy mình. Sửa lòng: Sửa chữa những khuyết điểm trong lòng mình.
Xét lấy sửa lòng là tự mình suy xét lấy mình để trau dồi, sửa đổi lại lòng mình.
Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
(Kinh Sám Hối).
Xét: Tìm xem kỹ để hiểu rõ. Đoán: Dựa vào điểm đã biết mà suy ra điều chưa rõ hoặc chưa xảy ra.
Xét đoán là xem xét để nhận định, đánh giá. Như: Xét đoán tánh người qua sự giao tiếp.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Sanh đứng làm người được có tánh linh hơn muôn vật là nhờ Trời phú cho có Lương Tâm, có trí xét đoán, biết phân biệt điều phải lẽ quấy, điều chánh, lẽ tà thì đáng lẽ ai cũng đều có Lòng nhân mới phải.
Cơ Tạo hoá chỉ có hai bí mật tối trọng: Một là quan sát sự hữu hình, hai là xét đoán sự vô vi.
(Pháp Chánh Truyền CG).
Xét: Tìm kỹ xem để hiểu biết rõ. Mình: Chính mình.
Xét mình là tự mình kiểm điểm lấy mình, tức tự xem xét hành vi, cử chỉ mình, nếu có sái quấy thì phải sửa cải.
Như: Tự tỉnh tức là tự xét mình.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðiều đó lẽ thì các con không cần Thầy nhắc đến mới phải, nhưng vì còn nhiều đứa háo danh và ham làm một vị chủ tướng trong Ðạo, nên cần phải nói cho mà xét mình.
Mấy kẻ xét mình tâm tự cải,
Thân danh bể khổ mặc buông trôi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Huỳnh lương một giấc cuộc đời in,
Có trí có mưu phải xét mình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðâu là phước tội phải phân minh,
Biết tội phước kia phải xét mình.
(Đạo Sử).
Xét: Tìm kỹ để hiểu biết rõ. Nét: Đường vạch nhỏ, vẻ, dáng.
Xét nét là xét từng chút một, xét kỹ lưỡng. Như: Anh ấy có tính hay xét nét.
Thánh giáo Thầy có câu: Vậy thì từ đây, hễ có mạng lịnh chi đã đủ hai đứa nó hạ truyền thì các con phải hội đủ Nhơn sanh, Hội Thánh và Thượng Hội mà xét nét cho cặn kẽ phân minh, đặng thi hành phận sự.
Phải xét nét phận mình đủ thiếu,
Liệu coi mình có hiểu bước Đào nguyên.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xét: Tìm hiểu, cân nhắc kỹ để nhận biết, kết luận về việc gì. Suy: Vận dụng trí để từ cái đã biết đi đến cái chưa biết, hoặc đoán việc chưa xảy ra.
Xét suy, như chữ “Suy xét”, là suy nghĩ và xem xét một cách kỹ càng. Như: Làm việc gì cũng phải xét suy.
Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn, Phối Sư Thái Đến Thanh có câu: Cho nên con người cần phải biết kỉnh trọng linh tâm, nhứt là làm những việc gì, trước khi khởi sự thực hành ta nên trầm tỉnh xét suy cho đáo để và phải nhớ hỏi lại chủ nhơn Ông (tức là linh tâm) thì mọi sự phải trái thiệt hư tâm đều chỉ rõ...
Làm người phải khá xét suy,
Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.
(Kinh Sám Hối).
Đêm thanh khá xét suy mọi việc,
Hỏi coi mình có biết phận làm trai.
(Phương Tu Đại Đạo).
Nếu để ý xét suy cho cạn,
Cả sự thương, sự sợ, giảm tinh thần.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xét: Tìm hiểu cân nhắc kỹ để đánh giá, kết luận. Xem: Nhận biết bằng mắt, nhận định, đánh giá.
Xét xem, như chữ “Xem xét”, là tìm hiểu quan sát kỹ để đánh giá, rút ra nhận xét, kết luận cần thiết.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có câu: Thành thật với mình là lấy công tâm xét đoán mình: từng lời nói từng ý tưởng, từng hành vi của mình, nhứt nhứt phải xét xem gắt gao kỹ lưỡng, để nhận thấy chỗ hay chỗ dở.
Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.
(Kinh Sám Hối).
Dắt hồn đến chốn Âm ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
(Kinh Sám Hối).
Xẹt là tiếng gợi tả hiện tượng tủa ra, hay bay vụt qua rất nhanh.
Như: Máy bay xẹt ngang qua, ngôi sao xẹt trên trời, ánh sáng xẹt qua tầm mắt.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Có chư Ðạo Hữu và một người không biết Ðạo là gì là ông Hiếu (kêu Bần Ðạo bằng chú) ngồi trước sân chơi, thấy tứ phía đều có hào quang giáng hạ xẹt xuống rất ngay Báo Ân Ðường.
Lần lần thế giái xẹt kim quang,
Bát Quái Ðài xây giống địa bàn.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Thân pháp ấy lung linh điển xẹt,
Miệng mồm kia toe toét nụ cười.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Xế: Mặt trời hay mặt trăng ở chếch về một phía. Chiều: Chỉ khoảng thời gian từ trưa đến chập tối.
Xế chiều là gần cuối buổi chiều, khi bóng mặt trời đã lặn về phía tây.
Như: Bóng mặt trời đã xế chiều.
Cung đờn đợi khách còn đang khảy,
Cánh thước về non bóng xế chiều.
(Lục Nương Giáng Bút).
Xẩn bẩn trời mơi kế xế chiều,
Sầu đâu chất ngất cứ đeo theo.
(Thơ Thượng Sanh).
Xênh xang là nói cách ăn mặc có vẻ bảnh bao, chưng diện đẹp đẽ.
Thí dụ như: Áo mũ xênh xang, ăn mặc xênh xang.
Vén xiêm nghê, cài mão én, xênh xang một quạt một con đồng,
Nâng bóng ác, vận chăn lừa, Lẽo đẽo đôi hầu đôi đứa trẻ.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Xía là xen vào, dự vào, ghé vào.
Như: Chuyện riêng của người ta xía vô làm gì, đang nói chuyện với người khác nó xía vô lảng xẹt.
Thừa dịp đặng treo giò chú Lía,
Láy vợ hiền người xía miệng vô.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Xích là dây bằng kim loại gồm nhiều vòng, nhiều khúc giống nhau, móc nối liên tiếp với nhau.
Như: Xiềng xích, xích sắt, buộc chó bằng dây xích.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hồi tưởng lại khi Bần Đạo để bước trở về cố quốc sau năm năm bị đồ lưu nơi Hải Ngoại, thì cũng tưởng rồi cái vận mạng của nước Việt Nam, có lẽ chờ đến ngày về của Bần Đạo nó sẽ đặng hoàn tất, và đem sở năng hạnh phúc đặng thành tựu, thì cả tinh thần anh dũng của toàn quốc dân đứng dậy phá huỷ xiềng xích lệ thuộc, điều ấy Bần Đạo đã nghe ra từ khi còn ở nơi Hải Đảo.
Toan cổi lao ẩn dật chốn non xanh,
Thương chủng tộc lao đao vòng tử xích.
(Văn Tế Tiểu Tường).
2.- Xích 尺 là thước, đơn vị đo độ dài.
Như: Quan xích, tam xích thổ, Đạo cao nhất xích ma cao nhất trượng.
Hài cốt tuy mai tam xích thổ,
Tinh thần siêu thoát Cửu Trùng Thiên.
(Thơ Thái Đến Thanh).
3.- Xích 赤 là đỏ. Như: Xích đạo, xích tử chi tâm, xích thố, xích long tinh, thanh y xích diện.
Nói về tiểu sử Quan Thánh Đế Quân, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Rồi đó Ðức Ngài gom góp những vàng bạc, gấm lụa của Tào Tháo ban cho Ðức Ngài từ thử phong niêm kỹ lưỡng để lại, 12 mỹ nữ cũng để ở lại, đoạn Ðức Ngài treo Ấn Hớn Thọ Ðình Hầu trên trính nhà, thỉnh nhị tẩu lên xe, Ðức Ngài chỉ cởi ngựa xích thố, cầm Thanh Long Ðao, đốc xuất quân tuỳ tùng cũ ngày trước đẩy xe ra khỏi thành.
Ðế thất nhứt tâm trung khí dõng,
Thanh y xích diện hảo vinh phong.
(Quan Thánh Đế Quân).
赤 壁
Xích: Màu đỏ. Bích: Vách, tường.
1.- Xích Bích là tên một dãy núi ở huyện Gia Ngư, bên bờ sông Dương Tử, thuộc tỉnh Hồ Bắc.
Xích Bích là nơi Châu Do và Lưu Bị dụng hoả công để đốt cháy ghe thuyền của Tào Tháo, khiến hai bên bờ sông vì lửa đốt thành sắc đỏ, nên gọi là Xích Bích.
Xích Bích thắng Tào cậy gió Ðông,
Nhà cao nghiệp lớn bởi khuôn hồng.
(Đạo Sử).
2.- Tô Đông Pha lúc ở Hàn Châu cũng thuộc tỉnh Hồ Bắc, nhưng không cùng huyện Gia Ngư. Ở đây cũng có một dãy núi sắc màu đỏ và cũng được gọi là Xích Bích.
Hai lần Tô Đông Pha đã dạo chơi sông Xích Bích và làm thành bài phú Tiền, Hậu Xích Bích rất nổi tiếng.
Thinh thinh một chiếc thuyền lan,
noi dòng Xích Bích,
Nhẹ nhẹ đôi con chèo quế,
dực bến Thương Lang.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
赤 壁 勝 曹
Xích Bích: Một con sông thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Thắng Tào: Đánh thắng quân Tào Tháo.
Xích Bích thắng Tào, do tích Châu Du nhà Ngô hợp tác với Gia Cát Khổng Minh, nhờ cầu gió đông để dùng kế hoả công đốt cháy ghe thuyền của quân Nguỵ trên sông Xích Bích, đánh thắng quân Tào Tháo.
Xem: Cầu phong.
Xích Bích thắng Tào cậy gió Ðông,
Nhà cao nghiệp lớn bởi khuôn hồng.
(Đạo Sử).
赤 龍 精
Xích: Màu đỏ. Long: Rồng. Tinh: Yêu, quái.
Xinh Long Tinh là một con rồng đỏ.
Theo Đức Hộ Pháp, Xích Long Tinh là nguơn linh cuối của Quan Võ, tức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
Trong Thuyết Đạo, Ngài nói: “Buổi nọ dân Bắc Hớn phạm Thiên điều bị Ngọc Hư Cung phạt hạn không cho mưa, đặng cho dân ấy phải đói. Dân làng biết mà cầu nguyện nơi Ngài cứu nạn. Ngài cũng thừa biết dân ấy bị Thiên điều hành pháp, nhưng vì lòng ái tuất thương sanh không nỡ để dân chết đói, nên Ngài làm mưa. Ngọc Hư Cung bắt tội sai Ngũ Lôi tru diệt. Ngài chạy trốn vào một cái chùa, nhờ ông thầy chùa lấy chuông úp lại. Vị Ðạo Nhơn có căn dặn Bổn Ðạo trong chùa đừng ai dở chuông cho đến ngày nào Ngài hết hạn. Chư Ðạo trong chùa tọc mạch dở ra xem coi vật gì, thành thử Ngài phải chịu đầu kiếp, kiếp ấy là Hạng Võ”.
Như vậy, Hạng Võ cũng là nguơn linh của Xích Long Tinh, nên là một tướng anh hùng, sau nổi dậy diệt nhà Tần, nhưng thua kế Hàn Tín, bị quân binh của Hán Bái Công rượt chạy đến Ô Giang mà tự tận, linh hồn lại đầu thai thành Quan Võ.
Quan Võ phò Lưu Bị dựng nên nhà Thục Đời Tam Quốc, sau lầm mưu Lữ Mông mà bị bắt chém đầu.
“Khi Chơn linh của Ngài xuất ngoại, Châu Xương và Quan Bình cũng tự tử chết theo, ba người ấy bay giữa không trung, đi ngang ngôi chùa kêu ông thầy chùa là Phổ Tịnh đòi ông nọ trả cái đầu, ông bèn lấy cái quạt gõ trên cửa tụng ba phiến vãng sanh, Ngài hạ giáng xuống tiếp đòi đầu nữa. Ông nọ cười nói rằng: “Nhan Lương, Văn Xủ kia mới đòi đầu với ai? Ấy là tiền căn báo hậu kiếp thôi chớ”. Ðức Quan Thánh Ðế Quân tỉnh ngộ, xin ông Phổ Tịnh cho Ngài ở đó đặng tu, Chơn linh của Ngài nhờ ở nơi chùa đó mà hiển Thánh. Khi hiển Thánh rồi Ngài trừ tà diệt quỷ, cứu độ sanh linh, và từ đó đến bây giờ không tái kiếp lần nào nữa, duy dụng cái quyền hành thiêng liêng mà hành Ðạo thôi”.
Nguơn linh của Ngài là Xích Long Tinh.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Mích (mếch): Làm người khác không hài lòng.
Xích mích là có sự va chạm nhỏ nhặt, lặt vặt trong quan hệ với nhau mà sinh ra phiền hà.
Như: Hai người xích mích nhau.
Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Các em phải ráng rèn luyện tánh đức cho đúng bực nữ lưu đặng làm gương sáng cho mấy em chúng ta noi chung. Chị vẫn hằng thấy trong các em có những chuyện xích mích không đáng vào đâu mà gây nên những chuyện oán ghét.
Già lụm cụm chúng hành sanh nghịch,
Giận lẩy đương xích mích rể con.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xích Quày hay “Thiết Quả 鐵 拐”, tức là Lý Ngưng Dương, là vị tiên đứng đầu trong Bát tiên.
Thiết Quả họ là Lý, tên Huyền, hiệu là Ngưng Dương, là người học rộng biết nhiều, tánh tình trong sạch, không ham công danh phú quý, thích tầm Tiên học đạo. Ông tìm đến Lão Tử xin học Đạo, được Lão Tử thu nhận và Truyền Đạo cho.
Xem: Thiết Quảy.
An phận nhàn thong thả
ráng học sách Xích Quày,
Chớ ăn cơm Huỳnh Lương,
như Lữ Động Tân chưa hay là giấc ngủ.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Hay “Xích Tùng”.
Xích Tòng, nhữ chữ “Xích tùng 赤 松”, là Xích Tùng Tử 赤 松 子, một vị quan vũ sư thời vua Thần Nông, sau tu thành Tiên ở trên núi Côn Lôn có thể vào lửa, theo mưa gió mà đi.
Trong Sử Ký chép lời nói của Trương Lương như sau: Nguyện khí nhân gian sự, tùng Xích Tùng Tử du hỹ 願 棄 人 間 事, 從 赤 松 子 遊 矣, nghĩa là xin bỏ việc nhân gian, chỉ muốn ngao du với Xích Tùng Tử mà thôi.
Nguyễn Công Trứ nhà thơ Việt Nam thời nhà Nguyễn có câu: “Thường phú quý xem bằng mây mỏng, Túi Xích Tùng riêng đủng đỉnh mái thanh sơn”.
Từ đây Tiên vị vui hằng sống,
Năm tháng tiêu dao thú Xích Tòng.
(Thơ Chơn Tâm).
赤 繩
Xích: Màu đỏ. Thằng: Sợi dây, buộc.
Xích thằng là sợi chỉ đỏ.
Do điển Vi Cố trong Đường Thư chép: Vi Cố thấy một ông già ngồi dưới trăng, xem sách, bên cạnh có một cái đãy đựng chỉ đỏ. Vi Cố hỏi sách gì, thì ông lão nói đó là hôn thư, là sổ để ghi những người phải lấy nhau. Hỏi để là gì thì ông đáp chỉ hồng để cột chân vợ chồng. Vi Cố hỏi về người vợ tương lai của mình thì ông lão chỉ đứa bé gái con người ăn mày ở ngoài chợ. Vi Cố nghe nói thế, qua hôm sau định giết chết đứa bé, để khỏi phải kết duyên với con nhà ti tiện. Không ngờ Vi Cố giận chém một lát chỉ làm cô bé bi thương mà thôi.
Về sau Vi Cố lấy người con quan làm vợ. Một hôm ngồi chơi nhân thấy vết sẹo trên đầu vợ, hỏi ra mới biết do chàng chém và người vợ chàng là đứa bé con người ăn mày, được vị quan này xin làm con nuôi.
Xích thằng đã buộc nợ xưa gầy,
Con lũ rồi sau đến cháu bầy.
(Đạo Sử).
Tài trai dốc giữ nòi Hồng Lạc,
Hạnh gái bền trau mối xích thằng.
(Thơ Võ Thành Lượng).
赤 天
Xích: Màu đỏ. Thiên: Tầng Trời.
Xích thiên là tầng Trời thứ năm trong Cửu Trùng Thiên. Theo ý nghĩa kinh, Tầng Trời này có ánh sáng màu đỏ, nên gọi là cõi Xích Thiên.
Tầng Xích Thiên do Ngũ Nương Diêu Trì Cung cai quản và Bà có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn đến tầng Trời này.
Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ,
Cõi Xích Thiên vội mở ải quan.
(Kinh Tận Độ).
Tiếp hồn về cõi Xích Thiên,
Trông Kinh Vô Tự quả duyên mỹ miều.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
赤 兔
Xích thố là tên một con ngựa hay và đẹp của Quan Vân Trường đời Tam Quốc. Nguyên trước kia con ngựa này là của Lữ Bố, rồi sau mới truyền lại cho Ngài.
Xích thố là con vật đã giúp cho Quan Vân Trường, lập nhiều công lớn cho nước Thục, đời Tam Quốc.
Thuyết Đạo về Quan Thánh Đế Quân, Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Ngài chỉ cởi ngựa xích thố, cầm Thanh Long Ðao, đốc xuất quân tuỳ tùng cũ ngày trước đẩy xe ra khỏi thành.
Lên yên Xích thố về triều Hớn,
Hươi ngọn Thanh long giả tướng Tào.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
襜
Xiêm là đồ mặc che nửa thân trước trong y phục của người quyền quý thời cổ.
Như: Xiêm nghê, chuốt áo sửa xiêm.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Nước non để bước ta bà,
Sô xiêm đem nhuộm màu dà gọi duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
襜 霓
Xiêm: Áo che đàng trước. Nghê: Nghê thường.
Xiêm nghê, bởi chữ “Nghê thường 霓 裳”, là một loại áo xiêm được dệt bằng lông ngũ sắc, màu ráng trời dùng để mặc nhảy múa, gọi là “Nghê thường vũ y”.
Xiêm nghê do tích vua Huyền Tông, tức Đường Minh Hoàng lên chơi nguyệt điện, thấy cung nữ mặc áo màu ráng trời, lông ngũ sắc, nhảy múa giữa sân điện theo điệu nhạc Nghê thường vũ y.
Xem: Nghê thường vũ y.
Vén xiêm nghê, cài mão én, xênh xang một quạt một con đồng,
Nâng bóng ác, vận chăn lừa, Lẽo đẽo đôi hầu đôi đứa trẻ.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Xiên là nghiêng, chếch, không ngay thẳng, tức không đúng với hướng thẳng đứng, cũng không đúng với hướng nằm ngang.
Như: Chữ xiên, cột xiên, cọc đóng xiên, bóng nắng xiên vào nhà, xiên lòng.
Xiên lòng ngoài mặt cũng là ngay,
Biết phép phân thân gẫm quá tài.
(Đạo Sử).
Xiên: Nghiêng, chếch, nói bóng gió. Xéo: Lệch, không ngay theo đường thẳng hàng, nói hoặc chửi người này nhưng lại ám chỉ người kia.
Xiên xéo là xỏ xiên, nói một cách bóng gió để tỏ ý khinh miệt, hoặc đả kích ai đó.
Như: Thằng nhát gan chỉ giỏi nói xiên xéo, chớ có dám nói thẳng đâu.
Đừng tức mẹ vả xiên ngắt xéo,
Ấy phép linh mẹ sửa méo ra tròn.
(Phương Tu Đại Đạo).
闡 揚
Xiển: Tỏ rõ, rõ ràng. Dương: Nêu lên.
Xiển dương là làm rõ rệt mà phát dương lên, thường dùng nói về học thuật và tôn giáo.
Như: Nam Hoa Kinh của Trang Tử nhằm xiển dương thuyết vô vi của Lão Tử.
Lập đạo xiển dương nền chánh giáo,
Khai nguơn an định mối chơn truyền.
(Thơ Huệ Phong).
Trung can nghĩa khí đời ca tụng,
Sự nghiệp tinh thần đạo xiển dương.
(Thơ Huệ Phong).
闡 教
Xiển: Mở rộng, làm sáng tỏ ra. Giáo: Giáo lý của một nền tôn giáo.
1.- Xiển giáo là xiển dương giao lý của một nền tôn giáo, tức phổ truyền giáo lý rộng khắp.
Xiển giáo là Đạo chánh, tức là mối đạo dạy cho chúng sanh những chơn lý tuyệt đối để chúng sanh thoát vòng luân hồi sinh tử mà trở về với cõi Hư vô.
Nhiên Đăng Cổ Phật.
Vô vi xiển giáo Thiên Tôn.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
2.- “Xiển giáo” là phái Đạo trong thời Phong Thần, do Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn làm Chưởng giáo, thuộc hàng Thiên Tiên.
Xiển giáo trái với Triệt giáo, là một phái đạo do Thông Thiên làm Giáo Chủ, dạy đệ tử tu hành thành Thần hoặc bực Địa Tiên.
Xem: Xiển Triệt.
Hành đạo Cao Đài cho phải Đạo,
Học trò Xiển Giáo đáng danh trò.
(Thơ Đỗ Quang Hiển).
Lập trường Xiển Giáo tu tâm thực,
Tiếp khí hư vô dưỡng tánh lành.
(Thơ Huệ Phong).
闡 徹
Xiển, Triệt là chỉ hai phái Tiên trong thời Phong thần, ở cuối đời nhà Thương.
Xiển hay “Xiển giáo” do Nguơn Thỉ Thiên Tôn làm Chưởng giáo, phần đông đắc Đạo hàng Thiên Tiên.
Triệt hay “Triệt giáo” do Thông Thiên Giáo Chủ là Chưởng giáo, các đệ tử phần đông đều đắc hàng Địa Tiên hoặc Thần vị.
Chấn động Thần Tiên xem héo mặt,
Hai nhà Xiển Triệt lộ nguyên hình.
(Thơ Thái Đến Thanh).
1.- Xiềng là dây xích lớn, hai đầu có vòng sắt để khoá chặt chân hoặc tay người có tội.
Như: Chân mang xiềng, chó bị đóng xiềng, toàn thể quốc dân cùng đứng lên phá huỷ xiềng xích.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.
(Kinh Sám Hối).
2.- Xiềng là khoá giữ bằng sợi dây xiềng.
Như: Anh ấy điên nên bị cha xiềng cả tay chân, xe đạp được xiềng vào cột trước thềm.
Giây oan trăm mối cột xiềng,
Lửa lòng bừng cháy hận phiền muội mê.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Xiềng: Dây xích lớn, hai đầu có vòng sắt để khoá chặt chân hoặc tay tội phạm. Gông: Lấy khung gỗ có khoá để tròng vào cổ và hai tay của tội nhơn.
1.- Xiềng gông, như chữ “Gông xiềng”, là dây xích và gông, hai dụng cụ bắt giữ tù phạm, hoặc các tội hồn
Hành rồi giam lại Âm cung,
Ngày đêm đánh khảo trăng cùm xiềng gông.
(Kinh Sám Hối).
2.- Xiềng gông còn dùng để chỉ bị ràng buộc, mất tự do hoặc bị ách nô lệ.
Như: Anh ở vậy thì được tự do còn nếu có vợ con thì bị xiềng gông trói buộc.
Vui theo nẻo vạy đường tà,
Vợ con khám ngục cửa nhà xiềng gông.
(Thơ Hộ Pháp).
Xiềng: Dây xích lớn, hai đầu có vòng sắt để khoá chặt chân hoặc tay tội phạm. Xích: Đây kim loại gồm nhiều vòng, móc nối liên tiếp với nhau, dùng để trói buộc.
Xiềng xích dùng để chỉ sự mất tự do, chịu ách nô lệ, áp bức nặng nề.
Như: Dẹp tan xiềng xích của bọn độc tài đảng trị.
Cả tinh thần anh dũng của toàn quốc dân đứng dậy phá huỷ xiềng xích lệ thuộc, điều ấy Bần Đạo đã nghe ra từ khi còn ở nơi Hải Đảo.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Xiết là cho đến cùng, đến hết. Như: Nhiều không đếm xiết, mừng không kể xiết, nói sao cho xiết.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu Thầy chẳng lấy đại từ đại bi mà lập Ðạo thì đã để cho chư Thần, Thánh hành hình nặng nề chẳng xiết kể.
Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,
Lời tăng quá vốn kẻ nghèo xiết than.
(Kinh Sám Hối).
Mầng thay chi xiết nỗi mầng,
Hào quang chiếu diệu ngàn tầng khôn trung.
(Bài Mừng Thay).
Xiết: Cho đến cùng, đến hết, nhiều quá. Bao: Chừng nhiều hay ít, lâu mau, xa gần.
Xiết bao có nghĩa là kể sao cho hết.
Như: Gặp lại cố nhân xiết bao vui mừng, cảnh nầy đẹp xiết bao!
Nầy Công Nhân lao nhọc,
cuộc đời kể xiết bao là thứ lớp,
Dầm tuyết sương, chải mưa gió,
một kiếp vùng vẫy trong cảnh mê sông,
(Giác Mê Khải Ngộ).
1.- Xiêu là nghiêng, lệch, không còn ở vị trí thẳng đứng, mà bị nghiêng về một bên. Như: Nhà xiêu vách đổ, nhà dột cột xiêu.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chủ nghĩa duy vật đã thâm nhập vào não cân của Lạc Hồng khiến cho quốc tuý điêu tàn, nền Nhân xiêu ngả và chính vì để cứu vãn tình trạng nguy hại đó mà Ðức Chí Tôn giáng lập Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Ðạo đức gắng theo đỡ ít nhiều,
Ngày thâu bóng nhựt đã hầu xiêu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Dựa cột cột xiêu nhà sập nóc,
Kham tai cái kiếp cửa nhà không?
(Đạo Sử).
2.- Xiêu còn có nghĩa là không kiên định ý kiến nữa, bị thuyết phục mà nghe theo, ngả theo ý của người khác.
Như: Xiêu dạ, nghe lời nói ngọt anh ấy xiêu lòng.
Lời ngọt ngon trí để đừng xiêu,
Lòng nhi nữ lắm điều tai hại đến.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xiêu: Nghiêng, lệch, không còn ở vị trí thẳng đứng, mà bị nghiêng về một bên. Đổ: Ngã xuống, sập xuống, không đứng.
Xiêu đổ là nghiêng triềng và sập xuống. Như: Chuồng heo bị mối mọt nên xiêu đổ.
Ôi! Nền Ðạo đức tinh thần xiêu đổ,
Rũi con thuyền tế độ đã chìm lâu,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Xiêu: Nghe theo, ngã theo. Lòng: Lòng dạ.
Xiêu lòng là ngã lòng, ý chỉ bị người hoặc vật tác động, hay dùng lời thuyết phục mà ngã lòng nghe theo.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Thầy chẳng khi nào dụng những kẻ ấy vào nền Ðạo bao giờ. Than ôi! Tiền lớn bạc nhiều, món ngon vật quý, hay xiêu lòng phàm phu. Của bất nghĩa kẻ trần còn chẳng chịu dùng thay!
Màng chi những tiếng thị phi khùng,
Mà để xiêu lòng mất tín trung.
(Đạo Sử).
Xiêu mồ: Ngôi mồ bị nghiêng lệch. Lạc mả: Cái mả bị thất lạc.
Xiêu mồ lạc mả ý chỉ mồ mả người thân do hoàn cảnh bắt buộc phải rời bỏ quê nhà nên không thường thăm viếng, đến nỗi bị xiêu lạc mất.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Hộ Pháp có câu: Vì các cuộc biến thiên làm cho xiêu mồ lạc mả, chẳng những trong thời kỳ trước mà hiện giờ nầy còn xiêu lạc vì nạn voi vày mả tổ. Các bạn có đau lòng chăng?
Tưởng người chết không con nối hậu, không ai phụng sự, xiêu mồ lạc mả, người ta cho là cô hồn, sự thật là không phải.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Xin là kêu nài để cầu được việc gì. Như: Xin tiền, xin ăn, xin phép, xin lỗi.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Ta vì thương xót sanh linh, mở Ðạo Tam Kỳ để độ người hữu phước. Nếu chẳng mau chân, ngày giờ hầu cận, chư Tiên, Phật hội Tam Giáo xin bế lại thì dầu Ta muốn cứu vớt thêm cũng chẳng qua số Thiên cơ đặng.
Một bước một đi đường một tới,
Lòng thành xin trọng thấu Cao Ðài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,
Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bát Nhã xin con trở mái chèo,
Thìn lòng thương lấy chúng sanh eo.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xinh là dễ coi, đẹp mắt, vừa vặn, tức có hình dáng và đường nét rất ưa nhìn. Như: Người xinh, nhà xinh, đồng hồ xinh, quyển sách xinh.
Bài Diễn Văn của Ðức Quyền Giáo Tông đọc tại Toà Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (1934) có câu: Ấy vậy, dầu cho sự xung đột của quyền Ðạo với quyền Ðời thoảng đã làm cho lao tâm tiêu tứ của những trang chấp chánh Ðạo quyền đi nữa, là phương chước tô điểm vẽ vời cho lịch xinh mặt Ðạo.
Thêu phụng nên xinh chỉ nhuộm màu,
Mình không đạo hạnh mới ra sao.
(Đạo Sử).
Đợi chi xinh mày liễu má đào,
Mới bền giữ phụng giao chung gối.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xinh: Dễ coi, ưa nhìn. Đẹp: Gây được cảm giác thích thú và cảm phục.
Xinh đẹp là rất xinh và có sự hài hoà, trông thích thích mắt. Như: Cảnh núi non xinh đẹp.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Cái đời sống của ta hiện giờ giàu sang hay nghèo hèn, liền lạc hay tật nguyền, xinh đẹp hay xấu xa, được yêu vì hay bị ngược đãi, an vui hạnh phúc hay lắm chịu thiên ma bách chiết, cũng đều do ta gây nhân ở tiền kiếp.
Về cảnh Tiên bang thú vị nhiều,
Thanh nhàn xinh đẹp biết bao nhiêu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Xinh: Có hình dáng và những đường nét rất dễ coi, ưa nhìn. Lịch: Từng trải.
Xinh lịch là đẹp đẽ một cách sang trọng, nhã nhặn và quý phái. Như: Cô gái xinh lịch.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Muốn chỉnh đốn xã hội lại, nên luôn dịp để một khuôn khổ trị Ðạo cho dân sanh tỉnh giác, biết vật báu ấy mà gìn giữ, tô điểm, làm cho xã hội thôn lân thêm xinh lịch.
Đạo đời tô điểm thêm xinh lịch,
Gầy tạo lửa hương trọn chủ quyền.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Xó là ở một góc nhỏ hẹp, tối tăm, ít được chú ý tới.
Như: Đầu đường xó chợ, ngồi ở xó bếp ăn, đồ đạc không để ngăn nấp nhè xó tủ mà treo quần áo.
Ó ré đầu nhà hờn giũa mỏ,
Gà bươi xó bếp đói chui đầu.
(Thơ Hộ Pháp).
Xó ró là co rút, thu người lại vì lạnh, hoặc vì sợ sệt, bẽn lẽn. Như: Không biết có việc gì mà nó đứng xó ró trước cửa nhà.
Xó ró còn có nghĩa xớ rớ, láng cháng, loay hoay, không có mục đích, làm cho choán chỗ. Như: Đứng xó ró chật chội chỗ làm việc.
Của cải đầy đồng không biết hết,
Cứ ngồi xó ró kiếm phân bì.
(Đạo Sử).
Xỏ là xâu vào, luồn vào chỗ trống của một vật. Như: Xỏ kim, xỏ tay áo, xỏ mũi, xỏ giày.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Con chim ở trên Trời, loài người đã khôn ngoan bắt một con bạn của nó cột cẳng hay xỏ mũi cho dính trong bẫy đặng gài, nó nhảy nha nhảy nhót, những con kia thấy cảnh thương tâm, nó xuống chịu khổ với bạn, nên mới bị bắt.
Áo rủi rách cổi đi mà bỏ,
Muốn cho lành chỉ xỏ trôn kim.
(Phương Tu Đại Đạo).
Chị đưa đồ cậy nhíp hay may,
Thì xỏ chỉ hơi gài long mốt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xoa là áp lòng bàn tay vào và đưa qua đưa lại trên bề mặt vật gì.
Như: Xoa tay, mẹ xoa đầu thằng bé, ngồi xoa chỗ bị đau, vừa đánh vừa xoa.
Xoa tay tính nhẩm tuồng luân chuyển,
Bó gối ngồi mơ chuyện hão huyền.
(Thơ Hoài Tân).
Xoa: Thoa vào người. Dịu: Êm dần, không gắt.
Xoa dịu là làm nhẹ nỗi đau khổ hay nỗi phẫn nộ của người khác bằng vuốt ve, vỗ về an ủi, hoặc nhân nhượng một phần quyền lợi. Như: Xoa dịu nỗi buồn của con.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Vùng Thánh Ðịa Tây Ninh nầy là nhà chung của nhơn sanh, là nơi được Ðấng Chí Tôn che chở dưới bóng từ bi, họp tất cả những tâm hồn biết tin cậy nơi lượng háo sanh của Ðức Ngài, để gieo rắc tình thương yêu vô lượng, xoa dịu nỗi đau khổ của kẻ vô cùng bạc phước, dù ở trong cảnh ngộ nào, cũng là con cái chung của Ðại gia đình mà Ðức Ngài là Ðại Từ Phụ.
Gió vàng hiu hắt báo tin thu,
Xoa dịu giang sơn khắp một bầu.
(Thơ Huệ Giác).
Sẻ áo ấp yêu niềm cốt nhục,
Chia cơm xoa dịu vết thương tang.
(Thơ Huệ Phong).
Xoá là bôi bỏ đi. Nghĩa rộng: Bỏ đi, không kể nữa.
Như: Xoá tên trong danh sách, xoá đi những tư tưởng đau buồn, bao nhiêu ý nghĩ xấu xa đều xoá hết.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Các con ôi! Thầy thương đến tâm thành chánh trực đạo đức khiêm cung, cũng như Thầy xoá kẻ xảo trá gian tà cầu danh chác lợi.
Nâng ly nguyên đán say mùi Đạo,
Cạn chén tân niên xoá bợn trần.
(Thơ Hàn Sinh).
Xoay là quay tròn. Như: Xoay lưng, xoay ghế.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Luân nghĩa là bánh xe, Hồi nghĩa là xoay tròn. Luân hồi tức là bánh xe xoay tròn không manh mối, không thủy chung.
Thọ mạng Ngọc Hư xoay vũ trụ,
Cầm quyền thế giới dựng Cao Đài.
(Thơ Hộ Pháp).
Bao tháng phép chập chờn ngắn ngủi,
Mấy tuần xoay lụi hụi qua mau.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Xoay: Quay. Chiều: Phía, bề. Đổi: Thay đổi. Hướng: Quay về một phía nhất định nào đó.
Xoay chiều đổi hướng là xoay đổi theo chiều hướng, tức xem xét tình hình mà thay đổi cho phù hợp.
...quyết để tâm trí làm việc chung sức với toàn thể Chức sắc đặng xoay chiều đổi hướng thế nào cho được thuận với đời, hiệp với Ðạo...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Xoay: Quay, xây về hướng, tìm cách là cho được việc. Trở: Quay lại, lật lên, thay đổi.
Xoay trở là xoay qua xoay lại để hoạt động.
Xoay trở còn có nghĩa tìm đủ mọi cách để hoàn thành công việc có lợi nhất.
Như: Ở nơi không gian hẹp khó xoay trở thân mình, có tài xoay trở.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Theo quan niệm của nhà hiền triết thời xưa, thì ngày Tết Nguyên Ðán không phải là ngày để chơi Tết, hay chơi Xuân mà chính là một dịp để cho con người lo tròn bổn phận trong gia đình, tưởng nhớ đến những đấng Tổ Tiên Phụ Mẫu đã khuất bóng, kính cẩn bái lễ trước bàn thờ, giữ tròn đạo hiếu đúng theo Nho giáo tức là thờ người quá vãng cũng như người còn tại thế. Ngoài ra, người ta chúc lành cho thân quyến, bạn bè và đi đến Chùa, Miếu, Ðền thờ để cầu phúc cho gia tộc, rồi thì tính toán đường, lối xoay trở trong nghề nghiệp để thi thố cho có kết quả tốt đẹp, khi bắt tay vào công việc sẽ tới.
Chuyển xây thế sự đang ly loạn,
Xoay trở thời gian với tánh lành.
(Thơ Hộ Pháp).
Xoay: Quay tròn, làm cho chuyển động. Vần: Làm di chuyển vật bằng các lăn, xoay.
Xoay vần là xoay đi, chuyển đi.
Xoay vần là biến đổi theo lẽ tự nhiên, đồng nghĩa với chữ “Xây vần”.
Trong Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn viết: Bởi vì theo lẽ Âm Dương biến hoá, cuộc Thế tuần huờn dinh hư tiêu trưởng là lý tất nhiên. Tỷ như hết ngày tới đêm hết đem tới ngày, hết Xuân tới Hạ, hết Hạ tới Thu, hết Thu tới Đông, rồi bắt đầu Xuân lại nữa. Ngày đêm đối đãi nhau; bốn mùa xoay vần không nghỉ.
Cầu tiến bản thân đời hữu dụng,
Dinh hư tạo hoá lẽ xoay vần.
(Thơ Thành Đức).
Xoáy, ở đây như chữ “Ngoáy”, đâm sâu vào rồi làm cho phía đầu xoay thành vòng tròn.
Như: Xoáy trầu, xoáy cái muỗng trong tách cà phê, lấy tóc xoáy lỗ tai.
Nghe rót nước lụy tuôn,
Thấy xoáy trầu đau dạ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xoàn là một loại ngọc quý, còn gọi là kim cương.
Như: Hột xoàn kim cương, đeo nhẫn hột xoàn, xâu chuỗi hột xoàn.
Hễ họ mê những ngọc những xoàn,
Mình lại cứ khoe vàng kiểu mới.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xoi là làm cho thông, cho thoát. Như: Xoi cống, xoi hang, xoi thông ống điếu.
Xoi còn dùng để chỉ làm cho có lỗ, có kẽ. Như: Xoi lỗ hang, xoi đường kẽ.
Cái nhục giống nòi kia chẳng rửa.
Xoi hang mạch nước ý chưa vừa.
(Đạo Sử).
Sấm nổ động trời xoi đất lủng,
Tiêu tàn cảnh vật ngó không không.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Xoi: Mở thông đường xuyên qua trở ngại.
Xoi bói, như chữ “Xoi mói”, là chú ý tìm và moi móc những sai sót nhỏ của người khác.
Như: Người có tính hay xoi bói, cái nhìn xoi bói thiếu thiện cảm.
Mọi việc nên dạy biết học đòi,
Sự nhơ nhớp để lời xoi với bói.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xóm là vùng có nhiều nhà ở liền với nhau, tạo thành khu dân cư trong nông thôn. Như: Xóm đầu làng, làng trên xóm dưới, xóm giềng, hàng xóm.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Một hôm nhiều chức sắc đến khai đàn tại nhà một đạo hữu ở trong một túp lều tranh nơi xóm dân lao. Ðường đi trong ngõ hẽm trơn trợt vì gặp phải mùa mưa, phần đông chức sắc than phiền dường như rất bực lòng đi đến chỗ không xứng đáng.
Ní na sớm xóm với chiều làng,
Ðã khởi oan mà chẳng phải oan.
(Đạo Sử).
Kìa cuối xóm mấy hàng trước tử,
Nọ đầu làng chày lữ phơi sương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Dạy phương hay biết thuận biết hoà,
Làm đẹp đẽ trong nhà ra tới xóm.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Xóm giềng”.
Xóm: Nơi ở tập trung của nhiều gia đình ở nông thôn.
Xóm riềng, như chữ “Xóm giềng”, là chỉ người hàng xóm, những người cùng sống kế cận quanh nhà.
Như: Bà con xóm riềng, nhờ xóm riềng giúp đỡ.
Nỗi xóm riềng xúm lại nói hùa,
Xử đặng thất hơn thua cho té thịt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xóm: Nơi ở tập trung của nhiều gia đình ở nông thôn. Làng: Khối dân cư ở quê làm thành một đơn vị hành chánh thấp nhứt thời xưa.
Xóm làng, như chữ “Làng xóm”, là làng và xóm, tức chỉ khối dân cư ở nông thôn với đời sống riêng của nó.
Như: Bà con xóm làng, có xóm làng giúp đỡ.
Tình chung đặng cậy thế người sang,
Mượn tiếng khua môi với xóm làng.
(Giới Tâm Kinh).
Khắp xóm làng chẳng kẻ mời vào,
Hàng xấu mã giá cao đành bán ế.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xong là rồi, hoàn thành. Như: Làm xong việc, trả xong nợ, học xong bài vở.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy nói cho các con biết, nếu công quả chưa đủ, nhơn sự chưa xong, thì không thế nào các con luyện thành đặng đâu mà mong.
Làm người nhơn nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
(Kinh Sám Hối).
Có công phải biết gắng nên công,
Tu tánh đã xong tới luyện lòng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
1.- Xót là có cảm giác đau hơi ran rát. Như: Xót ruột, chua xót, đau xót trong lòng.
Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có dạy: Hiếu, Nhiều, hai con phải sắm sửa dọn nhà về Tây Ninh, từ đây Cư, Tắc phải lo Ðạo, các con phải đành chịu khổ cực cùng Thầy như hai đứa nó vậy mới đáng con cái Thầy. Thầy lấy làm chua xót mà Ðạo là trọng mới biết liệu sao.
Đốt hương tưởng niệm người tiền bối,
Xót dạ cảm hoài bậc đại công.
(Thơ Chơn Tâm).
2.- Xót còn có nghĩa thương thắm thía, tiếc lắm.
Như: Xót người vợ đã quá cố, xót công tiếc của, xót của mà rầu rĩ.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xót vì chức vụ không tròn vẹn,
Trăm liệu ngàn suy dặn lấy mình.
(Thơ Thuần Đức).
Xót: Đau rát, thương hại nhiều. Thương: Yêu, trìu mến, xót xa đến.
Xót thương, như chữ “Thương xót”, là rủ lòng thương xót, tức cảm thấy đau lòng vì nỗi bất hạnh của người khác.
Trong quyển Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Trọng mạng sống tất cả loài tứ sanh, xót thương người đói khó, cô đơn mà trợ giúp; buồn thấy người làm dữ, vui xem kẻ làm lành. Đó là từ bi.
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Đỡ nâng yếu thế binh quyền mồ côi.
(Kinh Sám Hối).
Xin xót thương con người ngây dại,
Phép Huyền hư truyền dạy thế gian.
(Giới Tâm Kinh).
Chạnh lòng Hiền Muội xót thương ôi!
Nhắc nhở khôn nguôi những chuyện rồi.
(Thơ Cao Quỳnh Cư).
Xót: Thương tiếc một cách thấm thía.
Xót xa là cảm thấy đau đớn, thương tiếc rất sâu sắc, khó nguôi. Như: Câu chuyện thật xót xa.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðành rằng họ gieo nhân nào thì gặt quả nấy, họ phải chịu hậu quả của việc đã làm, nhưng là người có sứ mạng đem sự khoan hồng Thiêng liêng đến cho nhân loại, chúng ta phải thương hại xót xa giùm tội lỗi của họ. Phải lựa dịp để cảm hoá, thức tỉnh họ, đưa đường dẫn lối cho họ trở về với Thiên lương Ðạo Ðức.
Lời cần yếu Mẹ than cho trót,
Muốn dạy em, con khá xót xa chừng,
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Tha mồi thấy quạ lòng đau đớn,
Muốn lặng nhìn cây gió xót xa.
(Thơ Chơn Tâm).
Xót: Có cảm giác đau rát, đau đớn trong lòng.
Xót xáy là ở trạng thái ngứa ngáy, đau rát nhẹ, gây cảm giác khó chịu.
Xót xáy còn có nghĩa là ở tình trạng bứt rứt, ái náy, cảm thấy không yên lòng.
Như: Chất đống rơm xong mình mẩy xót xáy, không giúp được cho anh lòng thấy xót xáy.
Thấy ai thảm lòng vàng xót xáy,
Nghe kẻ sầu như cháy tâm can.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Xô là đẩy mạnh cho ngã, đổ.
Xô còn có nghĩa làm cho bị dồn về một phía.
Như: Xô cửa bước vào, ngói bị xô về một phía.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Ðứa thì mê tài, đứa thì ham cận sắc, đứa bị biếm vào lối lợi quyền, đứa bị xô vào nơi thất đức. Mỗi đứa mỗi nẻo, đều quăng sạch chất thiêng liêng, lầm lủi đưa tay theo mấy mươi động.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,
Xô người vào, lội lặn nhờm thay!
(Kinh Sám Hối).
Chẳng khác chồi non xô đại mộc,
Như sa vực thẳm khó toan trèo.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cho tròn quả phúc bậc thiên đồ,
Cửa ngục trần gian rán sức xô.
(Thơ Tiếp Đạo).
Xô: Đẩy mạnh cho ngã, cho đổ. Đẩy: Làm cho phải lùi lại, không tiến, không phát triển được nữa.
Xô đẩy là vừa xô và vừa đẩy.
Xô đẩy còn dùng để chỉ dồn vào, đẩy vào một cảnh ngộ không hay.
Như: Vào chỗ đông bị chen lấn xô đẩy nhau, bị xô đẩy vào con đường ăn chơi trụy lạc.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Chới với biết bao người giữa lượn sóng trầm luân, mà con đường xô đẩy khách trần vào chốn đắm chìm, hằng vẽ cảnh cùng sầu cho nhơn loại.
Lớn thế thường hay xô đẩy kẻ,
Nghèo hèn đạo hạnh chịu đeo sầu.
(Đạo Sử).
Xô: Làm cho dồn về một phía. Đuổi: Đẩy ra khỏi.
Xô đuổi là đuổi đi, không cho lại gần, thường với thái độ khinh khi. Như: Nó xô đuổi vợ nó ra khỏi nhà rồi.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thảng các Tôn Giáo đương cầm tương lai linh hồn của loài người, trên mặt địa cầu nầy không đủ năng lực thì cả tài năng thể chất sẽ xô đuổi cả xác thịt lẫn linh hồn của con người đến chỗ tự diệt.
Thầy đã đến mà dìu dắt từ đứa thì lẽ nào lại đành lòng xô đuổi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Xô: Đẩy mạnh cho ngã, đổ. Xát: Cọ, chà, đánh đi đánh lại nhiều lần.
Xô xát là cãi cọ, xung đột với nhau. Như: Vụ xô xát khi nảy làm nhiều người bị thương.
Những kẻ có cái bản năng tranh giành xô xát với nhơn loại thì nó sống một cách cô độc khổ não lắm,...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Xốc: Nhấc đưa lên bằng động tác nhanh, mạnh và gọn.
Như: Xốc bao gạo lên vai đi thẳng, xốc nách đứa bé chạy tuốt ra khỏi đám cháy.
Quân tràn tới, người đàn bà vội bỏ đứa bé đang bồng trên tay xuống, xốc đứa bé đang dắt, rồi hơ hải chạy trốn vào rừng.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
2.- Xốc là kéo quần áo lên để sửa sang cho ngay ngắn gọn gàng.
Như: Xốc lại quần áo cho chỉnh tề.
Tay vua xốc nếp long bào,
Bước khoan thai rẽ lối vào vườn tiên.
(Phù Kiều Hận Sử).
Xôi là món ăn bằng gạo, nếp nấu cách thuỷ cho chín.
Như: Chịu đấm ăn xôi, bưng một chõ xôi lá cẩm, ruồi đậu mâm xôi đậu.
Chán bấy những phường xu cách mạng,
Dựa thân công tử giữ nồi xôi.
(Thơ Hộ Pháp).
Xồm xàm, như chữ “Xồm xoàm”, là nói lông hoặc râu mọc rậm và xù lên.
Như: Râu ria xồm xàm, con chó xù có bộ lông mọc xồm xàm khắp thân mình.
Chớ đừng tưởng nói tu cho chính là phải để râu ria xồm xàm mà đạo đức huyền bí thì không có,...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Xôn xao là rộn rịp, ồn ào, chỉ âm thanh rộn lên xen lẫn nhau hoặc chỉ tình trạng không trật tự, hỗn loạn do sự lo lắng, sợ hãi.
Như: Ý kiến làm cả hội nghị xôn xao, nó xôn xao vài tháng đây rồi cũng buông bỏ hết.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Xôn xao gió bụi, mờ mệt tuồng đời, mồi phú quý bả công khanh, mấy kẻ biết nhuộm nét nâu sồng, lánh cả muôn sự não phiền mà khách trần đều gọi là vinh diệu.
Đây tới sáng xôn xao với thế,
Nhẫng đua chen kiếm kế sinh nhai.
(Kinh Thế Đạo).
Lợi lộc xôn xao rồi một kiếp,
Nghĩa nhơn tích trữ để muôn đời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xôn xao bến huệ trương buồm hạnh,
Mượn sức huyền linh đến bến Thần.
(Thơ Thượng Sanh).
Xốn là đau nhức, tựa như có gì đâm ở bên trong, thường nói về mắt.
Như: Bụi cát là xốn mắt, hình ảnh đàn bà loả thể làm xốn con ngươi.
Hình ma bóng quỷ trêu cay mắt,
Cổ quái trí tà bẹo xốn ngươi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Xốn: Đau nhức tựa như có vật gì đâm nhói bên trong.
Xốn xang là ở tâm trạng có những xúc động tình cảm, khiến trong bứt rứt, hay rạo rực không yên.
Như: Lòng xốn xang đứng ngồi không yên.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hôm nay Bần Đạo lên giảng đài buổi bất thường, biết rằng mỗi lần đi đâu về toàn thể Chức Sắc Thiên Phong, Hội Thánh nam, nữ lưỡng phái con cái Đức Chí Tôn đều trông ngóng để nghe, muốn nghe muốn biết lắm nên tội nghiệp đi đâu về cũng nói lại cho nghe bằng chẳng vậy xốn xang lắm.
Chị đau em luống than phiền,
Em dầu đau khổ chị liền xốn xang.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
1.- Xông, chữ “Xung 衝” đọc trại ra, có nghĩa là xấn vào, tức tiến mạnh thẳng tới phía trước, bất chấp trở ngại.
Như: Xông trận, xông vào nhà, xông pha, xông lướt.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Xương máu của đồng bào đã hao nhiều vì chiến cuộc, hồn thiêng sông núi đang chờ đợi những đứa con thân yêu của quê hương đang xông pha ngoài chiến địa để cứu nguy cho dân tộc mà không biết ngày nào được trở về.
Đồ dơ giặt đổ rạch sông,
Đương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
(Kinh Sám Hối).
Thời cuộc tuần hoàn tai ách khởi,
Liệu mà xông lướt, liệu đua tranh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Xông là cho hơi bốc vào người để chữa bệnh, hoặc dùng nhang trầm đốt lên để lấy hơi, khói thơm để khử trược.
Như: Nhức đầu phải xông mới hết, xông trầm, xông hương khử trược.
Thánh giáo Thầy có câu: Tay chấp cơ cũng phải xông hương khử trược, tịnh tâm một lát, rồi phải để tinh thần tinh tấn mà xuất ngoại xác, đến hầu dạy việc.
Cơn sản sanh bếp lửa nồi xông,
Nuôi con dại, vợ bồng, chồng dắt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Sắp đặt trước đừng lòng dụ dựa,
Lo sẵn sàng bếp lửa nồi xông.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xông hương: Làm cho mùi thơm bốc lên. Khử trược: Làm mất chất ô trược.
Xông hương khử trược là đốt chất thơm như trầm hay nhang thơm để khói thơm bay lên toả ra xung quanh làm cho mất hết các mùi uế trược.
Như: Trầm hương là một chất thơm thường dùng để xông hương khử trược.
Tay chấp cơ cũng phải xông hương khử trược, tịnh tâm một lát, rồi phải để tinh thần tinh tấn mà xuất ngoại xác, đến hầu dạy việc.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Xông: Xấn vào. Lướt: Vượt qua, bất chấp trở ngại.
Xông lướt là xông vào để cố vượt qua, vượt lên.
Thánh giáo Ngũ Nương Diêu Trì Cung có dạy: Biển lặng gió êm, thuyền từ xông lướt để tìm rõ nguyên lý của tánh đức và chơn tâm của kẻ mến Đạo ưa mùi âm chất, cũng nên trao đổi tánh đức thờ ơ để rước vào lòng một mối Đạo cao thâm vi diệu mà tròn một kiếp sanh cũng chưa bao lần gặp đặng, chỉ may duyên được ngộ Cao Đài nên gắng tâm trì chí để đoạt vị vô vi.
Thời cuộc tuần hoàn tai ách khởi,
Liệu mà xông lướt, liệu đua tranh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xông lướt sông mê thuyền độ chúng,
Vun trồng cội phúc kẻ ra công.
(Thơ Đức Thượng Sanh).
Xông pha là dấn thân vào nơi gian nguy, khó khăn, không hề quản ngại. Như: Xông pha trận mạc, xông pha vào vùng lửa đạn.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Xương máu của đồng bào đã hao nhiều vì chiếc cuộc, hồn thiêng sông núi đang chờ đợi những đứa con thân yêu của quê hương đang xông pha ngoài chiến địa để cứu nguy cho dân tộc mà không biết ngày nào được trở về.
Xông pha ra chốn chiến tràng,
Đắng cay cam chịu gian nan không sờn.
(Kinh Cúng Chiến Sĩ).
Xông pha biết mấy tuần mưa gió,
Tan hiệp thêm nhiều hội nước mây.
(Thơ Thuần Đức).
Xơ rơ là xơ xác, trơ trụi, còi cọc, tức ở tình trạng không còn gì nguyên vẹn, lành lặn.
Xơ rơ còn có nghĩa quanh quẩn ở một nơi, gây cảm giác chật chội. Đồng nghĩa với xớ rớ. Như: Sao anh đứng xơ rơ đó hoài vậy?
Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu có câu: Mẹ sẽ giúp sức cho con, gắng trở về hợp sức với mấy anh em mà giúp Đạo. Toà Thánh xơ rơ, nhơn sanh thống khổ, há tiếc công sao?
Hoa tươi, tòng bá, khác nhau xa,
Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa.
(Giới Tâm Kinh).
Liễu dựa bến lá cành dã dượi,
Hỏi buồn chi nên phải xơ rơ.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Xa nhà bát ngát lòng trông mãi,
Quạnh cảnh xơ rơ trí nghĩ nhiều.
(Thơ Thượng Sanh).
Xơ: Trơ trụi. Xác: Vỏ, bã, không có gì hết.
Xơ xác hay xác xơ là trơ trụi, tả tơi, chỉ sự vất vả, nghèo khổ, rách nát.
Thượng Sanh thuyết về Đức Quan Thánh Đế Quân có câu: Mặc dầu Ðức Ngài có lập đoan văn với quân sư Gia Cát, hể tha Tào Tháo thì phải chịu tử hình chiếu theo quân lịnh. Nhưng khi Tào Tháo bại binh chạy qua Huê Dung Ðạo, Ðức ngài thấy binh mã của Tào xơ xác, người thiếu lương, ngựa thiếu cỏ, Tào Tháo thì áo giáp mất hết, xuống ngựa quỳ lạy cầu xin Ðức Ngài nhớ ơn ngày trước mà phóng thích.
Vắng khách cảnh còn xơ xác quạnh,
Chờ người sầu vẫn chập chồng xây.
(Thơ Huệ Giác).
Trong e trúc cỗi, tùng xơ xác,
Ngoài ngại mai gầy, liễu ốm o.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Xu là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất trước đây của Việt Nam, bằng một phần trăm đồng.
Như: Không đáng một xu, chẳng có một xu dính túi.
Mới giao kèo đổi chữ với xu,
Thuộc thì thưởng hễ ngu trừ cấn.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Xu 趨 là hướng về, đi tới, chạy theo. Như: Xu hướng, xu danh, xu trần.
Xu trần là hướng về cõi trần, tức chạy theo thế gian, ý nói người ham luyến cõi trần.
Chán bấy những phường xu cách mạng,
Dựa thân công tử giữ nồi xôi.
(Thơ Hộ Pháp).
3.- Xu, còn đọc là “Khu 軀”, có nghĩa chỉ về thân thể, hình hài, xác thịt của con người.
Như: Vị quốc vong xu, xu xác.
Vong xu trọn cả một Càn Khôn,
Hết kiếp thịt xương tới kiếp hồn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
趨 名
Xu: Đi tới, hướng về, xua vào. Danh: Tên người, được dư luận xã hội biết đến và coi trọng.
Xu danh là chạy theo danh, tức là hám danh.
Thành ngữ Việt Hán có câu: “Xu danh trục lợi 趨 名 逐 利” là chạy theo danh, đuổi theo lợi.
Thánh giáo Thầy có dạy: Tâm cứng cỏi, Ðạo điều hoà thì cứ bước tới Thầy; tâm trí bất định, đạo hạnh không hoàn toàn thì con đường hám lợi xu danh tới hang sâu vực thẳm đó, vì sức các con đã rã rời thì tài nào níu kéo đỡ nâng khuyên nhủ nhau được.
Lượn sóng xu danh khi đã lặn,
Câu tiên độ thế đã cao bay.
(Lục Nương Giáng Bút).
趨 向
Xu: Đi tới, hướng về. Hướng: Phương.
Xu hướng là nghiêng về hay theo đuổi một phương nào đó.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Thầy đến, nếu dùng cả quyền thiêng liêng làm cho chúng sanh thấy đặng đủ đức tin, theo đường siêu mà bỏ nẻo đoạ thì cả nhơn loại ắt xu hướng vào đường đạo đức, thì là Thầy nâng đỡ các chơn hồn vào Thiên đàng, không cho vào Địa ngục.thì sự công bình thiêng liêng bởi nơi nào bền vững.
Trách thói gặp đâu xu hướng đấy,
Không lo tu luyện tánh thiên lương.
(Võ Thành Lượng).
趨 附
Xu: Đi tới, hướng về. Phụ: Nhờ, dựa vào.
Xu phụ là hùa theo về với người nào để lấy lòng hoặc để cầu lợi. Như: Xu phụ cửa quyền.
Trong Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Đối đãi với người không phân giai cấp, không phân quốc tịch; chẳng so đo phú bần quý tiện; lấy đức làm trọng, lấy đạo làm cao; không cậy thế ỷ quyền, không xu phụ người thế lực; xem ta như người; xem người như ta. Đó là bình đẳng.
Muốn toan xu phụ cho an phận,
Chơn lý đạo mầu hết phổ thông.
(Thơ Hộ Pháp).
趨 時
Xu: Hướng về, đi tới. Thời: Buổi.
Xu thời là chạy theo thời thế.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Lý Giáo Tông có dạy: Lão lấy làm vui hứng thấy chí hướng của hiền hữu đương tìm chước tảo thanh, nhưng trong số tội nhơn của Đạo có một phần ít xu thời mưu cầu danh vọng mà phạm Thiên điều.
Tu câu minh thệ gìn trung thứ,
Tỉnh mộng xu thời hướng ngoại lai.
(Thơ Huệ Phong).
趨 塵
Xu: Hướng về, đi tới. Trần: Cõi trần.
Xu trần là đi vào cõi trần, hay sống trong cõi trần, ý nói chạy theo vật chất danh lợi ở cõi trần.
Bước Ðạo lần chơn một dạ thành,
Xu trần chớ luyến lợi cùng danh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
1.- Xú 醜 là chỉ việc xấu, vết xấu, sắc diện xấu, trái với chữ “mỹ 美” là tốt đẹp.
Ví dụ như: Xú ác, xú danh (tiếng tăm xấu xa), vinh xú (vẻ vang và xấu xa).
Phải hiểu rõ hai điều vinh xú,
Hiển tông môn quy củ nghiệp nhà.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Xú 臭 là hôi thúi, không được thơm tho.
Như: Xú khí, mùi xú uế phát ra từ bãi rác.
Đạo Trời vô ảnh, vô hình,
Vô vi, vô xú, vô thinh, vô trần.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Xủ là rủ xuống. Như: Tóc buông xủ xuống quá vai, trước mái hiên nhà có xủ bức mành trúc.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Lần lựa cúc xủ sương tan, mai gầy sen nở, ngày tháng qua chẳng là bao mà thế thái nhơn tình biết bao thay đổi!
Cung Diệt Bửu ngọc rèm đã xủ,
Nghiệp hữu hình tượng đủ vô vi.
(Kinh Tận Độ).
Rừng tòng sầu xủ ngọn đông lân,
Ngút toả chiều hôm đám mộ vân.
(Lục Nương Giáng Bút).
Tưới hoa chạ bên đường vô chủ,
Đậy giậu thưa cúc xủ mai xào.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Xủ áo: Bỏ áo. Phồn hoa: Chốn xa xỉ, náo nhiệt.
Xủ áo phồn hoa là dứt bỏ nơi đô hội, ý chỉ bỏ chốn danh lợi, lo việc tu hành.
Thánh giáo Chí Tôn có câu: Dầu cho sang vinh trăm mối, tiền của muôn chung, mấy kẻ đặng tìm đến địa vị an nhàn, xủ áo phồn hoa, để gương soi hậu thế.
Võ đài chờ trả rồi oan trái,
Xủ áo phồn hoa lại cảnh Thiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Khổ đời vì muốn tìm phương thuốc,
Xủ áo phồn hoa ẩn bóng trời.
(Thơ Huệ Giác).
Xủ: Rủ xuống, buông xuống. Khuất: Che mất không còn nhìn thấy nữa.
Xủ khuất là buông vật gì xuống che khuất hết, ý nói bao phủ làm cho không thấy được.
Màn Chánh giáo đã diềm dà xủ khuất bóng trần, gương trí huệ rạng ngần soi khách tục.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Xủ: Rủ xuống, buông xuống. Lằn: đường sáng. Trí huệ: Người tu có trí sáng suốt, thông hiểu chơn lý.
Xủ lằn trí huệ ý nói che khuất ánh sáng của trí huệ.
Trí huệ sáng suốt được ví như mặt trời hoặc cây đèn được thắp sáng lên để xoá tan bóng tối vô minh, vọng tưởng, nên gọi là “Huệ nhựt” hay “Huệ đăng”.
Xủ lằng trí huệ là ánh sáng trí huệ bị che khuất thì trở thành vô minh.
Kìa đai cân nhuộm nước màu thiền, nọ danh lợi xủ lằn trí huệ!
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Xua là đuổi, lùa, tức đuổi đi hoặc đuổi dồn về một phía. Như: Xua gà vào chuồng, xua ong, xua binh.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Thầy nhớ xưa, kẻ mộ Ðạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhọc mình, giày gai áo bả, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giậu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy không bợn nhơ, mới có thể lập ngôi cho mình đặng; có đâu lấy của lấn nhân, mượn quyền xua đức, kẻ chân thành lánh mặt, đứa tà mị áp vào, rồi cúm núm mang hơi tà, lại đua nói rằng thờ Chánh giáo. Thầy hỏi: Ai chứng cho?
Rước voi phá mả đào lăng miếu,
Thả rắn xua ong nhiễu điện tà.
(Đạo Sử).
Ðừng thói xua chồng và hiếp bạn,
Nên giềng nhờ có nội tề quyền.
(Đạo Sử).
Cũng có kẻ gầy nên xã tắc,
Cũng có người trước giặc xua binh.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xua: Đuổi, lùa, dồn. Đuổi: Rượt, mời đi ra ngoài, chạy theo bắt.
Xua đuổi là tống đi, đẩy ra khỏi, không cho làm việc. Như: Nó đi đến đâu cũng bị xua đuổi.
Thánh giáo Thầy có dạy: Mỗi phen Thầy đau thảm khóc lóc các con, phải lén hạ trần, quyết bỏ ngôi Chí Tôn xuống lập Ðạo, lại bị các con bạc đãi, biếm nhẻ, xua đuổi, bắt buộc đến đỗi phải chịu cho các con giết chết!
Chẳng ai đặng vì quyền mà lấn lướt, chẳng ai đặng vì mạng lịnh mà đè ép xua đuổi ai.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Xua: Đuổi, lùa, dồn, tức đuổi đi hoặc đuổi dồn về một phía. Trục 逐: Đuổi, buộc phải rời bỏ.
Xua trục, như chữ “Xua đuổi”, là đuổi đi không cho lại gần với thái độ khinh ghét.
Ðạo suy đức kém, Tà quái lừng hơi, các con gắng chung tâm xua trục hết lũ vạy tà thì hiến công lớn cho Thầy đó.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
春
1.- Xuân là mùa đứng đầu bốn mùa trong một năm: Xuân, hạ, thu, đông.
Như: Mùa xuân trăm hoa đua nở, vui tết đón xuân.
Thánh giáo Thầy có câu: Thấm thoát ngày tháng thoi đưa, bóng thiều quang nhặt thúc, sen tàn cúc rũ, đông mãn xuân về, bước sanh ly đã lắm nhuộm màu sầu, mà con đường dục vọng chẳng còn biết đâu là nơi cùng tận.
Bóng trải diềm dà xuân đợi chúa,
Tiết nồng thơ thới hạ khoe sen.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
(Lục Nương Giáng Bút).
2.- Xuân chỉ tuổi trẻ, coi là tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Như: Tuổi xuân, vóc dáng còn xuân.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ôi! Xuân tàn xuân đến, cái xuân của người đã sắp lụn hao, mà rồi cái xuân của Trời Ðất nước non cũng chưa chắc là vô cùng vô tận.
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lắm kẻ còn xuân chẳng tiếc xuân,
Tạo thành nghiệp dữ biết bao lần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
春 不 再
Xuân: Mùa xuân, biểu hiệu cho tuổi trẻ. Bất tái: Không trở lại.
Xuân bất tái, do câu “Xuân bất tái lai 春 不 再 來”, có nghĩa là tuổi trẻ qua đi, không bao giờ trở lại nữa.
Xuân bất tái ý nói đời thanh xuân đã qua rồi, không còn trở lại với ta nữa.
Ngày tháng thoi đưa xuân bất tái,
Cái xuân há dễ giữa dòng trôi.
(Thơ Thượng Sanh).
Hay “Thung đường”.
Xuân (thung): Một loại cây to, sống lâu, người ta thường mong cho cha sống lâu, nên ví cha với cây xuân. Đường: Nhà.
Xuân đường, như chữ “Thung đường 椿 堂”, dùng để chỉ người cha.
Xem: Thung đường.
Để thảm xuân đường như ác xế,
Gieo thương lữ khách ngóng tin mai.
(Thơ Hộ Pháp).
Xuân mai: Cây mai vào mùa xuân. Ba bảy: Ý chỉ trái đã bị rụng hết bảy phần, còn ba phần.
Xuân mai ba bảy tức là cây mai mùa xuân có quả rụng hết bảy phần, còn ba phần. Ý muốn nói quả mai đã rụng tức đến thời kỳ con gái nên lấy chồng, nếu không thì hôn kỳ sẽ qua mất.
Kinh Thi có câu: Phiếu hữu mai, kỳ thật thất hề. Cầu ngã thứ sĩ, đãi kỳ kiết hề. Phiếu hữu mai, kỳ thật tam hề. Cầu ngã thứ sĩ, đãi kỳ kim hề 標 有 梅 其 實 七 兮, 求 我 庶 士, 待 其 吉 兮. 標 有 梅 其 實 三 兮, 求 我 庶 士, 待 其 今 兮, nghĩa là cây mai đã có quả rụng, quả trên cây mười phần còn có bảy thôi! Vậy những chàng trai lành ai muốn lấy ta, liệu chọn ngày tốt mà xin làm lễ cưới đi thôi. Cây mai đã có quả rụng nhiều, quả ở trên mười phần còn có ba thôi! Vậy những trai lành ai muốn lấy ta, nên kịp ngay lúc nầy mà xin làm lễ cưới đi thôi.
Xuân mai ba bảy đã mòn,
Cội thu thêm nảy mấy hoàn anh nhi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
春 色
Xuân: Mùa xuân, chỉ tuổi trẻ. Sắc: Nhan sắc.
1.- Xuân sắc là cảnh sắc mùa xuân.
Như: Vùng rừng núi xuân sắc xanh tươi mát mẽ.
Xuân sắc thiên nhiên vẻ lịch xinh,
Xuân phong đưa đón khách toàn linh.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
2.- Xuân sắc còn dùng để ví sắc đẹp của người con gái còn tuổi thanh xuân (tức còn trẻ).
Như: Xuân sắc xanh tươi, trông nàng còn xuân sắc.
Xuân sắc điểm tô thành quốc sắc,
Má hồng khéo vẽ cái khuôn hồng.
(Thơ Hộ Pháp).
Nét xuân sắc mấy hồi là trọng,
Xuân lỡ rồi khó mộng xuân nguyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
春 時
Xuân: Mùa xuân, chỉ tuổi trẻ. Thời: Lúc.
Xuân thời là lúc còn xuân, ý chỉ còn tuổi thanh niên, hay tuổi trẻ.
Như: Ngày tháng qua đi nhanh, tính lại nay đã quá tuổi xuân thời.
Nhắn nhủ phồn hoa mau thức tỉnh,
Lần lừa bỏ quá kiếp xuân thời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vợ hiền đâu kể nể sự đời,
Đến cái đoá xuân thời còn để bẻ.
(Phương Tu Đạo Đạo).
Gặp buổi xuân thời mặc nhảy bay,
Ngày xuân tóm lại có bao ngày.
(Thơ Thuần Đức).
春 秋
Xuân: Mùa đầu tiên trong bốn mùa. Thu: Mùa thứ ba trong bốn mùa của một năm.
1.- Xuân thu là hai trong bốn mùa tiết, dùng để tiêu biểu cho thời gian, chỉ một năm.
Như: Qua đi mấy xuân thu rồi chưa thấy trở lại.
Trải mấy xuân thu làu nhựt nguyệt,
Biết bao khổ hạnh dẫy xe thư.
(Thơ Huệ Phong).
2.- Xuân thu còn dùng để nói về tuổi tác.
Như: Xuân thu phỏng độ bao nhiêu tuổi? Đã có chồng chưa, được mấy con (Nguyễn Trãi).
Xuân thu biết đã đặng bao rồi,
Nghiệp chẳng nên mà vận chẳng xuôi.
(Đạo Sử).
Ả Tố đêm nay lời ướm hỏi,
Xuân thu âu cũng dưới đôi mươi.
(Thơ Thuần Đức).
3.- Xuân Thu còn là bộ sử của Đức Khổng Tử chép truyện của nước Lỗ, các việc nhà Chu và việc các nước chư hầu từ thời Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công.
Hình thức là bộ sử biên niên, vắn tắt, nhưng nếu xét về tinh thần thì bộ Xuân Thu là sách để tâm truyền cái đại nghĩa “danh” và “phận”, đường luân lý đạo đức và chánh trị của Đức Khổng Tử. Vì thế, người sau mới gọi là “Kinh Xuân Thu”.
Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,
Hiệp quy Tam Giáo hữu cầu chí chơn.p>
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Xuân Thu định vững ngôi lương tể,
Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
春 秋 秉 燭
Xuân Thu 春 秋: Bộ sử của Đức Khổng Tử chép truyện của nước Lỗ, các việc nhà Chu và việc các nước chư hầu từ thời Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công.
Hình thức là bộ sử biên niên, vắn tắt, nhưng nếu xét về tinh thần thì bộ Xuân Thu là sách để tâm truyền cái đại nghĩa “danh” và “phận”, đường luân lý đạo đức và chánh trị của Đức Khổng Tử. Vì thế, người sau mới gọi là “Kinh Xuân Thu”.
Bỉnh 秉: Cầm, như bỉnh bút là cầm viết.
Chúc 燭: Cây đuốc.
Xuân Thu bỉnh chúc có nghĩa là cầm cây đuốc ngồi đọc quyển Kinh Xuân Thu. Đây nói về giai đoạn lịch sử Quan Vân Trường hộ nhị tẩu về Hứa Xương.
Thuyết về tiểu sử Quan Thánh, Đức Thượng sanh ca tụng Ngài như sau: Điều đáng quan tâm là Ðức Ngài không phải là người tu hành, không xuất thế, không trường chay giái sát mà khi bỏ xác trần Ðức Ngài đắc Thánh vị và sau thăng đến Phật Vị.
Chỉ vì khi còn tại thế Ðức ngài gồm cả bốn Ðức: Trung, Can, Nghĩa, Khí. Một lời giao kết dù cho nát thân cũng không dời đổi. Trung thì bền lòng như sắt đá. Cang dũng thì coi sự chết như mảnh lông hồng, trọng nghĩa như Thái sơn, khí tiết thì chói loà Nhựt Nguyệt. Ngài là một nhơn vật phi thường một vị Thánh nhơn tại thế vậy.
Rồi Đức Thượng Sanh cũng nhắc lại giai đoạn Ngài cầm cây đuốc, ngồi đọc quyển Kinh Xuân Thu và canh trước phòng của hai bà chị dâu, vợ Lưu Bị như sau:
Khi Ðức Ngài thất thủ thành Hạ Bì vì binh cô tướng quả, bị Tào Tháo vây tại hòn Thổ Sơn thì có tướng Tào là Trương Liêu đến dụ hàng.
Ðức ngài thế cùng lực tận, muốn bảo hộ nhị tẩu được vẹn toàn nên vạn bất đắc dĩ Ðức Ngài phải chịu đầu Tào nhưng với ba điều giao ước. Một là Ðức Ngài chỉ quy hàng Hớn Ðế chớ không quy hàng Tào Công, hai là chỗ của nhị tẩu ở cấm bất kỳ quan chức nào cũng không cho đến cửa, ba là khi nghe tin Lưu Huyền Ðức ở nơi nào thì dù xa ngàn dặm, Ðức Ngài cũng từ giã ra đi.
Khi Trương Liêu về tâu lại với Tào Tháo thì Tháo nói rằng: Ðiều thứ nhứt thì ta chịu vì ta là thừa tướng nhà Hớn thì nhà Hớn tức là ta chứ ai, điều thứ nhì cũng được vì cấm người tới cửa hai vị phu nhân là việc lễ nghĩa chẳng khó chi. Duy có điều thứ ba là không thể nhận, vì nếu Vân Trường được tin Lưu Bị ở đâu thì tức tốc ra đi, như vậy ta nuôi Vân Trường có ích gì?
Trương Liêu thưa rằng: Lưu Huyền Ðức mà đãi Vân Trường chẳng qua là đầy ân hậu mà thôi.
Nay Thừa tướng lại ra ơn cho hậu hơn Huyền Ðức để mua lòng thì có lo gì Vân Trường không phục.
Tào Tháo bèn khứng chịu ba điều giao ước, khi rút binh về Hứa Xương Ðức Quan Thánh thỉnh nhị tẩu lên xe, bổn thân hộ tùng xe ấy mà đi.
Dọc đàng khi tạm nghỉ nơi quán dịch, Tào Tháo cố ý làm cho loạn lễ quân thần, để cho Ðức Ngài ở chung với nhị tẩu. Ðêm ấy Ðức Ngài ngồi ngoài cửa, cầm đuốc đọc quyển kinh Xuân Thu từ đầu hôm cho tới sáng, làm cho Tào Tháo càng thêm kính phục hơn nữa.
Xuân Thu bỉnh chúc nước người,
Giữ tròn nhơn nghĩa muôn đời sử nêu.
(Lục Nương Giáng Bút).
Xuân: Mùa xuân, trẻ trung. Xanh: Màu xanh, non trẻ.
Xuân xanh, do chữ “Thanh xuân 青 春”, là mùa xuân tươi xanh hoa cỏ, dùng để chỉ tuổi trẻ, hay tuổi xuân.
Như: Nàng con gái ấy mới mười tám xuân xanh.
Ðợi buổi xuân xanh qua khỏi cửa,
Ðưa thề có tiếng nước cùng non.
(Đạo Sử).
Quen chiều non nước lúc xuân xanh,
Tên tuổi đài mây đã sẵn dành.
(Bát Nương Giáng Bút).
出
1.- Xuất là ra. Như: Xuất binh, xuất hành, xuất chơn thần, xuất cảng, xuất gia.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy về Chơn thần có đoạn: Là nhị xác thân (périsprit), là xác thân thiêng liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu.
Lúc chung mạng dứt hơi, hồn xuất,
Quỷ vô thường sẵn chực đem đi.
(Kinh Sám Hối).
Thanh thanh nhựt nguyệt Cửu Trùng Thiên,
Hiện xuất cao nhơn tại nhãn tiền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Xuất là hơn, vượt lên trên. Như: Xuất chúng, xuất quần, xuất Thánh Tiên Phật.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Những Ông Hiền được đời kính nể mến phục vì những đấng ấy có tư tưởng cao siêu, hành vi xuất chúng, lúc nào cũng cứ ngay thẳng mà làm điều lành, điều phải, không vì tư tâm tư lợi mà hại đạo lý.
Thương cửa bần hàn mà xuất Thánh,
Nếu thâu tức khắc hiếm người cười.
(Đạo Sử).
出 版
Xuất: Đưa ra để sử dụng. Bản: Từ dùng để chỉ từng đơn vị như tờ, tập, cuốn có chữ hoặc tranh ảnh.
Xuất bản là in ra thành sách, báo, tranh ảnh để phát hành phổ biến khắp nơi.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy dạy về Chưởng Pháp có đoạn: Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành, hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống, hay là nơi Ðầu Sư dâng lên. Như hai đàng chẳng thuận thì chúng nó phải dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại, hay là tuỳ ý mà lập luật lại. Vậy chúng nó có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông. Như thảng có kinh luật chi làm hại phong hoá thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản.
Vậy chúng nó có quyền xem xét kinh điển trước lúc phổ thông, như thảng có kinh luật làm cho hại phong hoá thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản.
(Pháp Chánh Truyền CG).
出 港
Xuất: Trái với nhập, phát ra. Cảng: Bến tàu. Như: Tàu ra vào cảng, Hải cảng.
Xuất cảng là chở hàng hoá ra khỏi nước để bán cho ngoại quốc, đồng nghĩa với từ “Xuất khẩu 出 口”.
Như: Hàng hoá xuất cảng.
Cửa Sàigòn tính bán áp chế nội hàng,
Gạo bắp chở ngoại bang giành phần xuất cảng.
(Ngụ Đời).
出 征
Xuất: Đi ra. Chinh: Đánh giặc.
Xuất chinh là ra trận, tức kéo quân đi đánh giặc.
Như: Đem mười vạn quân xuất chinh, hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị cỡi voi xuất chinh.
Cung đao kiếm kích rạng ngời,
Chuông rền trống giục liên hồi xuất chinh.
(Phù Kiều Hận Sử).
出 政
Xuất: Đi ra. Chính (chánh): Hành chính.
Xuất chính hay xuất chánh là ra làm chánh trị, tức cai trị dân, đem lại cho nhân dân cơm no áo ấm, đất nước được thanh bình thạnh trị.
Xuất chính (chánh) còn đồng nghĩa với chữ “Xuất sĩ 出 士”, là ra làm quan.
Xem: Xuất sĩ.
Mới hiểu tại Đức Khổng Tử cả đời cứ phải châu du thiên hạ để cầu ra xuất chính.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
出 眾
Xuất: Hơn, vượt trội. Chúng: Đám đông.
Xuất chúng là cao vượt hơn quần chúng, tức là hơn hẳn mọi người về tài năng và trí tuệ.
Trong Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Quân tử ấy là một hạng người đức tài xuất chúng, phẩm hạnh hơn người, nhân cách hoàn toàn, tánh tình cao thượng.
Những ông Hiền được đời kính nể mến phục vì những đấng ấy có tư tưởng cao siêu, hành vi xuất chúng...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
出 洋
Xuất: Đi ra. Dương: Biển.
Xuất dương là đi ra ngoại quốc. Như: Xuất dương du học, xuất dương để tìm đường cứu nước.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có đoạn: Như ngày kia Đạo đã xuất dương ra ngoại quốc thì sẽ có nhiều dân tộc chẳng có thể thờ phượng như Nam, phận sự của Lễ Sanh đây mới ra sao? Tưởng chẳng chi khác hơnlà đổi ra phần thăm viếng tín đồ, an ủi, dạy dỗ chăm nom dìu dắt trong đường Đạo cũng như đường Đời, thau quyền cho Giáo Hữu.
Bần Đạo cho biết trước trong kỳ xin ân phong này, có người được tuyển chọn xuất dương mà Giáo Đạo.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
出 家
Xuất: Đi ra. Gia: Nhà.
Xuất gia có nghĩa “Xuất thế tục gia 出 世 俗 家” là rời khỏi nhà ở thế tục, tức bỏ gia đình, vợ con quyến thuộc, và địa vị trong xã hội để vào chùa tu hành.
Bổn phận của người xuất gia là: “Thượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sanh 上 求 佛 道, 下 化 眾 生” nghĩa là trên cầu tu học được đạo giải thoát, dưới hoằng hoá cứu khổ chúng sanh.
Muốn khuyên đầu Phật xuất gia,
Lại e để hại nước nhà khuyết dân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tài sơ chưa toại lòng ưu thế,
Chuyện cũ thêm buồn cảnh xuất gia.
(Thơ Thuần Đức).
出 嫁
Xuất: Đi ra. Giá: Gả, con gái lấy chồng.
Xuất giá là đi lấy chồng, tức con gái tới tuổi trưởng thành, rời nhà cha mẹ ruột đề về bên nhà chồng.
Thuyết Tam tùng của Nho giáo dạy về phụ nữ có câu: Xuất giá tùng phu 出 嫁 從 夫, nghĩa là lấy chồng thì phải theo chồng.
Luật của Ðền Thánh buộc hễ con gái đến tuổi cập kê cho ra xuất giá.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
出 現
Xuất: Đi ra, phát ra. Hiện: Bày ra, rõ ràng.
Xuất hiện là vừa hiện ra, bày rõ ra.
Xuất hiện còn có nghĩa là nảy sinh ra, hình thành ra.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Còn đạo mới khai lập, tuy xuất hiện chưa đầy một năm, chớ chư Tiên, chư Phật đã lập cùng cả Năm Châu. Chẳng khác nào khi trước, Nhơn đạo chưa mở thì đã có Châu Công truyền trước.
Thây phơi chật đất đầy đàng,
Cao Đài xuất hiện cứu an dân Trời.
(Thất Nương Giáng Bút).
Mây lành xuất hiện đẹp phong quang,
Trường thế hơn thua rõ đá vàng.
(Thơ Tiếp Đạo).
出 會
Xuất: Ra, ra đi. Hội: Một cuộc hội nghị, hội nhóm.
Xuất hội là đi ra khỏi hội nghị, ý muốn nói hội nghị đã xong. Trong đạo Cao Đài có bài kinh “Xuất Hội”.
Kinh Xuất Hội là một bài Kinh do Đức Hộ Pháp đặt ra có nhờ Đức nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ chỉnh văn lại, dùng để đồng nhi và toàn thể những người tham dự hội tụng đọc trước khi hội nghị đã kết thúc thành công tốt đẹp và bế mạc.
Kinh Xuất Hội có nội dung nhắc nhở những thành viên trong hội nghị từ đây phải giữ vẹn thánh thân để đem nền Chơn pháp dạy dỗ toàn thể chúng sanh và độ dẫn tất cả nguyên nhân về hội hiệp cùng Thầy, phải đem lòng thương mến dạy dỗ tăng đồ cho biết lẽ mầu nhiệm của nền Chánh giáo, hầu giúp cho Đạo được hoằng khai, càng lan rộng khắp mọi nơi mọi chốn.
Kinh Xuất Hội.
(Kinh Thế Đạo).
出 外
1.- Xuất: Đi ra. Ngoại: Bên ngoài, trái với bên trong.
Xuất ngoại là đi ra bên ngoài, ý nói rời khỏi nơi mình đang hiện diện ở bên trong.
Như: Đang họp phải xuất ngoại nghe điện thoại.
Thầy có việc nói cùng chư môn đệ. Thầy mời chư nhu xuất ngoại một giây phút, Thầy sẽ kêu vào
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Xuất ngoại còn dùng để chỉ chơn thần của con người xuất ra khỏi thể xác.
Như: Chơn thần xuất ngoại vân du.
Tay chấp cơ cũng phải xông hương khử trược, tịnh tâm một lát, rồi phải để tinh thần tinh tấn mà xuất ngoại xác, đến hầu dạy việc.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
3.- Xuất: Đi ra. Ngoại: Ngoại quốc, nước ngoài.
Xuất ngoại là đi ra nước ngoài, ra ngoại quốc.
Như: Làm thủ tục xuất ngoại du học, xuất ngoại bằng đường hàng không.
Dừng lại chuyện lên đường xuất ngoại,
Chuyển niềm tin sảng khoái khơi tâm.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
出 入
Xuất: Đi ra. Nhập: Đi vào.
Xuất nhập là ra vào. Như: Xuất nhập bình an.
Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy nói cái chơn thần là nhị xác thân các con, là khí chất (le sperme évaporé). Nó bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy. Nơi trung tim của nó là óc; nơi cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, gọi tiếng chữ là vi hộ, nơi ấy Hộ Pháp hằng đứng mà gìn giữ chơn linh các con, khi luyện thành đạo, đặng hiệp một với Khí, rồi mới đưa thấu đến chơn thần hiệp một mà siêu phàm nhập Thánh.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
出 入 分 明
Xuất nhập: Ra vào, ở đây nói về tiền bạc xuất ra, thâu vào. Phân minh: Tách bạch rõ ràng.
Xuất nhập phân minh là ý nói tiền bạc xuất ra, thâu vào phải rõ ràng, tức phải ghi vào sổ thâu xuất, có chứng từ minh bạch.
Như: Làm thủ quỷ phải xuất nhập phân minh.
Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả.
(Tứ Đại Điều Quy).
出 士
Xuất: Đi ra. Sĩ: Làm quan.
Xuất sĩ là đi ra làm quan.
Trong bài “Phong hoá Việt Nam đối với các chủng tộc khác”, Đức Hộ Pháp có viết: Bần Ðạo xin nói rằng chưa nước nào đã làm như nước Nam ta, khi xuất sĩ vị Tân khoa về quê gọi là bái tổ vinh quy, lạy tạ mồ mã Tông đường; ngày đó chẳng cần tả, sự vinh hiển vô đối của họ, nên phương pháp ấy giục tâm toàn quốc cố học, học đặng hành.
Ông xuất sĩ rồi bận việc triều chánh luôn, hết khi ở Bắc rồi lại vào Trung, không mấy khi vào Nam.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
出 神
Hay “Xuất Chơn thần”.
Xuất: Ra, khỏi. Thần: Tinh thần, chơn thần.
Xuất thần là chuyên chú tinh thần để làm một việc gì. Hình ảnh hay bức hoạ giống như người hay vật thật thì được gọi xuất thần.
Theo Đạo giáo, người luyện Đạo đạt được thần thông có thể xuất cái chơn thần ra khỏi thể xác được, đó gọi là Xuất thần, hay “Xuất chơn thần 出 真 神”.
Thánh giáo Thầy có dạy: Thủ cơ hay là Chấp bút phải để cho thần, tâm tịnh mới xuất Chơn thần ra khỏi phách đặng hầu Thầy nghe dạy.
Xuất thần ra mấy cõi ngoài,
Nghêu ngao cảnh lạc trần ai thông đồng.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Đường Minh Hoàng xuất thần du ngoạn,
Giữa thu thiên, cung Quảng xem tường,
(Báo Ân Từ).
出 世
Xuất: Ra khỏi. Thế: Đời.
1.- Xuất thế là lìa cảnh thế tục để theo đường tu hành.
Như: Muốn theo việc tu hành phải xuất thế, Quy y Phật phải tìm phương xuất thế.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðây chúng tôi chỉ nhắc sơ lược những giai đoạn quan trọng và điều đáng quan tâm là Ðức Ngài không phải là người tu hành, không xuất thế, không trường chay giái sát mà khi bỏ xác trần Ðức Ngài đắc Thánh vị và sau thăng đến Phật Vị.
Chúng ta xuất thế vào Đạo mà tu đặng sửa tâm tánh, cho trở nên người hiền lành nhơn đức...
(Giảng Đạo Yếu Ngôn).
2. Xuất thế là xuất hiện ở thế gian, chỉ các bậc anh hùng hay các Đấng phi thường xuất hiện nơi cõi trần.
Như: Đức Khổng Tử xuất thế tại nước Lỗ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Họ lại nói Đức Phật Thích Ca khi xuất thế ở trong nách của Bà Maya mà ra, Đức Lão Tử cũng thế, họ làm cho giờ phút nầy cả tín đồ các Tôn Giáo khó giải quyết, họ đem cái lý do thần thoại nêu ra làm một sự chơn thật.
Hớn trào xuất thế Đế oai vang,
Nay xuống Nam bang đặng giải nàn.
(Thánh Giáo Minh Thiện).
Thưa nhặt thoi đưa cái bóng thiều,
Anh hùng xuất thế biết bao nhiêu.
(Thơ Hộ Pháp).
Xuất thế để tìm phương giác thế,
Bảng son chờ đợi cuộc thành công.
(Thơ Thuần Đức).
Xuất: Ra khỏi. U đồ: Con đường tối tăm, ý chỉ con đường dẫn đến hay đi ra cõi Địa ngục.
Xuất U đồ là ra khỏi con đường tối tăm, ý chỉ ra khỏi cảnh Địa ngục, A tỳ.
Xem: U đồ.
Tam Kỳ vận chuyển kim quang hiện,
Sám hối âm hồn xuất u đồ.
(Kệ Chuông).
出 處
Xuất: Ra làm quan. Xử: Ở nhà hay thôi quan trở về quê ở ẩn.
Xuất xử là làm hoặc không làm, ý muốn chỉ ra làm quan hoặc về ở ẩn.
Kinh Dịch có câu: Quân tử chi đạo hoặc xuất hoặc xử 君 子 之 道, 或 出 或 處, nghĩa là đạo của người quân tử hoặc xuất hoặc xử.
Non nước chia hai đường xuất xử,
Sắt son chung một nghĩa sư sinh.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Xúc là dùng dụng cụ có lòng trũng mà múc những chất khô, chất đặc, hay chất rời.
Như: Xúc cơm cho con, xúc cát lấp nền nhà, xúc đất đắp lộ, xúc lúa đổ bồ.
Xúc cát trải bao cơn sóng lượn,
Nhăn mày cười bởn khúc sông sâu.
(Đạo Sử).
2,- Xúc 觸 đụng chạm, tiếp với, cảm động. Như: Tiếp xúc, xúc cảnh sinh tình, cảm xúc.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nhớ đến cảnh đau buồn của Ðạo trong những giai đoạn đen tối mấy năm qua, Hội Thánh không khỏi bồi hồi cảm xúc khi chứng nhận sự an ủi do nơi Chức sắc Khâm Châu, Ðầu Tộc, Ðầu Phận và Ðạo hữu nơi tứ phương thành tâm đem đến.
Thu về ngắm cảnh dạ buồn tanh,
Nhớ đạo nghĩa nhau T... xúc tình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hạc mây đã khỏi lâm trần cấu,
Cõi tục thương người xúc dạ tôi.
(Đạo Sử).
觸 動
Xúc: Đụng chạm, tiếp với. Động: Rung động.
Xúc động là cảm động mạnh mẽ, tức do sự việc bên ngoài làm rung động tình cảm con người. Như: Thấy cảnh thương tâm khiến xúc động trong lòng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Mỗi phen Qua tưởng đến công nghiệp và phận sự Thiêng Liêng của mấy em nó, khó khăn nặng nề chừng nào thì Qua xúc động chừng nấy.
Hạnh phúc hữu duyên thiên tải hưởng,
Tâm thành xúc động đến Thiên công.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
促 進
Xúc: Thúc giục. Tiến: Đi tới.
Xúc tiến là thúc giục đi nhanh tới, tức làm cho tiến triển nhanh hơn.
Như: Xúc tiến việc chuẩn bị Hội Nhơn Sanh, công việc in ấn đang xúc tiến.
Nên một Ủy Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Ðức Thượng Sanh chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn tống các bài Thuyết Ðạo ấy.
(Lời Tựa Thuyết Đạo).
1.- Xui, đồng nghĩa với chữ “Xúi”, là dùng lời lẽ dễ nghe để tác động đến người khác làm những việc không tốt, có hại.
Như: Đừng xui giục trẻ con nói dối, cả xóm xui nhau đi kiện thôn trưởng.
Xem: Xúi.
Chớ không phải vào Đạo để lấy phần đông, rồi kết phe lập đảng mà ỷ chúng hiếp cô cùng là xui mưu làm loạn.
(Phương Châm Hành Đạo).
2.- Xui là khiến, do tác động nào đó một cách tự nhiên làm nảy sinh ra hiện tượng, không có nguyên nhân nào khác để cắt nghĩa.
Như: Trời xui nên thế, trời xui đất khiến.
Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Nhập định là cốt để cho tâm thần an ổn, nghĩ ngợi, hầu có sửa mình mà trừ khử các bịnh do trong cốt tuỷ và diệt xong cả mấy mối loạn của thất tình, lục dục khiến xui, khuấy rối đêm ngày.
Sống dương thế hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
(Kinh Sám Hối).
Hoàng hôn ác lặn xế non tây,
Cách trở xui chi cảnh thảm nầy.
(Thơ Huệ Giác).
Hay “Xúi giục”.
Xui: Đồng nghĩa với chữ “Xúi”, là dùng lời lẽ dễ nghe để tác động đến người khác làm những việc không tốt, có hại. Giục: Thúc cho mau.
Xui giục, như chữ “Xúi giục”, là xui và thúc đẩy người khác làm việc sai trái.
Như: Nó xúi giục bọn côn đồ làm loạn, làm vợ không nên xui giục chồng làm điều thất đức.
1.- Xui giục:
Ghen sợ gặp phấn thô hương chạ,
Xui giục chồng hại phá gia cang.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Xúi giục:
Mà nay không khí bất hoà,
Thình lình xúi giục người ra cửa ngoài.
(Thơ NĐS Hương Thanh).
Xúi là khích, xui giục người ta làm những việc quấy.
Như: Xúi trẻ đánh nhau, xúi làm bậy.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.
Ấy là những gái hung đồ,
Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
(Kinh Sám Hối).
Gặp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời.
(Kinh Sám Hối).
Mẹ xúi trẻ đến cầu cha dạy,
Cha làm hơi như ngại con ngu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xúi ác: Xui làm việc hung ác. Giục loàn: Giục thúc làm loạn.
Xúi ác giục loàn là xúi bảo làm điều ác và giục thúc làm loạn, ý muốn nói gặp thời của vua bạo ngược thường xúi giục làm những việc bạo tàn và gây ra loạn lạc.
Gặp cơn xúi ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng, đứa gian khoe mình.
(Ngụ Đời).
Xúi: Xúi giục. Biểu (bảo): Sai khiến làm việc gì.
Xúi biểu, như chữ “Xúi bảo”, là xúi giục người khác làm một điều gì trái với lương tâm và đạo lý.
Như: Nó thường xúi biểu con hái trộm.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.
Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hằng ngày xúi biểu nó cắn xé các con...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Xúi: Xui làm việc không tốt, có tác hại đến người khác. Giục: Tác động bằng lời nói, cử chỉ nhằm làm ngay công việc, hay không bị chậm trễ.
Xúi giục là giục, thúc đẩy người khác làm điều quấy với dụng ý xấu.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Còn kẻ tiểu nhân thì cái sở kiến chỉ ở điều ác cho nên thấy ai làm ác thì xúi giục thêm hoặc thấy ai làm điều thiện thì lại ghen ghét, kiếm cách ngăn trở.
Triết lý nào xúi giục làm cho vạn vật tàn sát với nhau diệt hoá tức nhiên triết lý ấy là tà.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Gây trường náo loạn kinh hồn,
Đế quyền xúi giục du côn bạo hành.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
吹 毛 求 疵
Xuy mao: Thổi lông, bới lông, hoặc vạch lông. Cầu tỳ: Tìm vết, ý chỉ kiếm điều xấu xa.
Xuy mao cầu tỳ là bới lông tìm vết, ví hành động bươi móc cố tìm những điều xấu xa, thiếu sót của kẻ khác.
Còn ai thích hợp việc làm dữ, chuyên môn sát sanh hại mạng, xuy mao cầu tỳ, đồ mưu hoạch kế, gian tham trộm cướp, tàn bạo sanh linh...
(Giáo Lý).
1.- Xuyên 川 là sông, sông nhánh.
Như: Sơn xuyên 川 山 là núi và sông, chỉ sự xa xôi, cách trở sông núi.
Tu chẳng luận sơn xuyên am cốc,
Tu cũng đừng tịch cốc hành thân,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Xuyên 穿 là đâm thấu qua, đi suốt qua.
Như: Xuyên sơn 穿 山 băng qua núi, xuyên qua biên giới Việt để sang Lào.
Thành ngữ Việt Hán có câu: “Xuyên sơn quá hải 穿 山 過 海” là qua núi vượt biển để chỉ đường đi cách trở.
Trước mặt Cao Đài xuyên đất Việt,
Sau lưng tháp ngọc tận trời Tây.
(Thơ Hộ Pháp).
Xuyên dương: Bắn tên xuyên qua cành dương liễu. Trăm bộ: Một trăm bước.
Xuyên dương trăm bộ, bởi chữ “Bách bộ xuyên dương 百 步 穿 楊” là đứng cách xa trăm bước bắn cung, mũi tên xuyên qua cành dương liễu.
Do tích: Dưỡng Do Cơ người nước Sở, đời Đông Châu, làm tuỳ tướng quan Lệnh doãn Nhạc Bá, có biệt tài bắn cung, đứng cách xa một trăm bước, bắn vào cành dương liễu, phát nào cũng đều trúng cành dương liễu cả.
Xuyên dương trăm bộ đấng nên tài,
Vùi lấp bấy chầy chí khí trai.
(Đạo Sử).
川 山
Xuyên 川: Sông, sông nhánh. Sơn: Núi, non.
Xuyên sơn là sông núi, chỉ đường đi xa xôi, vất vả. Như: Từ nam chí bắc, trải qua xuyên sơn cách trở.
Xuyên sơn viễn vọng đến nơi đây,
Lẽ phải khuyên em rán đợi Thầy.
(Đạo Sử).
穿 鑿
Xuyên: Đâm thấu qua. Tạc: Soi, đục gỗ hay đá cho thành chữ, hoặc hình tượng.
Xuyên tạc là cố tâm giải thích sai lạc lời nói hay việc làm của kẻ khác, tức trình bày sai sự thật với dụng ý nhằm bài xích, nói xấu người. Như: xuyên tạc sự thật.
Thánh giáo Thầy có dạy: Ngoài ý chí đạo đức của con, con còn có ý tìm hiểu Giáo lý mới mẻ nầy, giáo lý mà một vài đồng bào của con đã giải thích xuyên tạc dưới một hình thức tinh ranh.
Quản bao phi thị lời xuyên tạc,
Mặn lạt tương dưa chịu khổ bần.
(Thơ Thuần Đức).
Xúm là tụ tập lại cùng nhau để làm một việc gì. Như: Ngày tết con cháu về xúm quanh ông bà.
Khi nói về Quyền hành của Chưởng Pháp, Thánh giáo Thầy có đoạn: Như thảng có kinh luật chi làm hại phong hoá thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản. Buộc cả tín đồ phải vùa sức mà hành sự trước mặt luật đời. Thầy khuyên các con ráng xúm nhau vùa giúp chúng nó. Chưởng Pháp có ấn riêng. Ba ấn phải có đủ trên mỗi luật, mới đặng thi hành.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.
(Kinh Sám Hối).
Tham chi sự thế lắm đua tranh,
Cái miếng đỉnh chung xúm giựt giành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phước Trời gieo sẵn còn giao kết,
Lợi thế chưa nên xúm giựt giành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xúm: Tụ tập nhau quanh tại một điểm. Xít: Như chữ xích, chuyển dịch vị trí trong khoảng rất ngắn.
Xúm xít là tụ họp lại rất đông, tức nhiều người hay nhiều vật nhóm lại gần nhau.
Như: Cả nhà xum xít bên bà mẹ.
Ðã thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Dìu dắt tìm ra lối lạ lùng,
Bóng Trời xúm xít đỡ nương chung.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đường xúm xít chị em ruổi bước,
Dắt dìu nhau kẻ trước người sau.
(Lục Nương Giáng Bút).
衝 突
Xung: Xấn vào. Đột: Đụng chạm nhau
Xung đột là xông bừa vào, nhắm thẳng vào địch mà đánh. Xung đột còn dùng để chỉ hai bên chống cự nhau.
Như: Xung đột nhau về quyền lợi.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Lại nữa, buổi loạn thần ấy, để cửa trống cho Tà mị xung đột vào, giục các con làm việc tội tình mà phải chịu phận luân hồi muôn kiếp.
Trượng phu phải mặt không nao chí,
Xung đột quyết hơn chốn chiến trường.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
衝 入
Xung: Xông lên mặt trước. Nhập: Vào.
Xung nhập là xông vào.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Sự xảy ra nơi Thánh Thất, tuy là nơi mối Ðạo chậm trễ, nhưng cũng do nơi lòng tà vạy của nhiều đứa mà ra, vì tâm trung chánh đáng thì làm cốt cho Tiên Thánh, còn tâm chí vạy tà là chỗ của Tà quái xung nhập.
Xa Thầy chưa bao lâu mà vì lợi lộc ham muốn của thế tình, nhiều đứa phải chịu để xác cho Tà quái xung nhập.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
冲 心
Xung: Bốc lên, như nộ khí xung thiên. Tâm: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm.
Xung tâm là lửa lòng xông lên, ý chỉ giận lắm, giận hờn dữ dội.
Nếu chẳng phải chí của Trương Lương thì không thế nào khỏi xung tâm oán trách.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
冲 天
Xung: Bốc lên, như nộ khí xung thiên. Thiên: Trời.
Xung thiên là khí bốc lên trời.
Xung thiên còn dùng để chỉ khí tức giận bốc lên trời, ý nói giận dữ.
Giảng Đạo Yếu Ngôn, Nguyễn Văn Kinh có viết: Lại còn lưu luyến hồng trần, làm các điều hung ác, hại tổn cho đời hắc khí xung thiên, chơn dương thất chánh, nên Tạo hoá lập định Tam Nguơn Long Huê Kỳ Hội.
Tỵ hiềm đừng để khí xung thiên,
Danh của Thầy con nhớ liệu nên.
(Đạo Sử).
Xăng: Xăng xái, hăng, nhanh, có tính chất gấp rút, khẩn trương hơn.
Xung xăng là hăng hái, rộn ràng, có những biểu hiện vui vẻ, hăm hở, phấn khởi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Phật Mẫu có nói: “Ðời đã tàn, thuyền Ðạo sắp xa bến”, chúng ta thấy cái hung bạo của đời vật chất cạnh tranh, thấy những con thiêu thân tự thiêu mình vì ham đáp theo ánh sáng, chúng ta nên xung xăng nhặt bước trên đường Ðạo Ðức, đừng bỏ mất thì giờ quý báu, đừng ngó ngoái lại cái bến mê mà chúng ta đã được may duyên xa lánh.
Học hỏi làng văn rất nhọc nhằn,
Cũng như đường Ðạo bước xung xăng.
(Đạo Sử).
Liễu chiều gió xung xăng màn hạnh,
Như để lời cửa Thánh nhắn tin.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Xung xăng khóm liễu khoe cành biếc,
Hớn hở vườn mai điểm nhụy vàng.
(Thơ Thượng Sanh).
1.- Xuôi là thuận chiều, thuận dòng, tức theo cùng một chiều tự nhiên. Như: Xuôi đường, xuôi chèo
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Dòng đời xuôi ngược cứ thay đổi theo thế hệ trào lưu, chỉ có chơn lý là bất di bất dịch.
Nguồn Ðạo xưa trông đôi cảnh nghịch,
Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi.
(Thơ Huệ Giác).
2.- Xuôi còn có nghĩa là ổn thoả, không gặp vướng mắc, trở ngại gì.
Như: Công việc êm xuôi, đừng giận cứ rán làm cho xuôi việc.
Xuân thu biết đã đặng bao rồi,
Nghiệp chẳng nên mà vận chẳng xuôi.
(Đạo Sử).
Mua quan chưa rõ đặng nên quan,
Thà chịu cho xuôi với nghiệp làng.
(Đạo Sử).
Xuôi: Theo cùng một chiều tự nhiên. Chèo: Dùng mái chèo bơi cho thuyền di chuyển.
Xuôi chèo, do câu “xuôi chèo mát mái”, có nghĩa là dòng nước thuận theo mái chèo, ví với công việc trôi chảy, không gặp trở ngại, khó khăn.
Vững tiến xa thơ già gắng đẩy,
Xuôi chèo Bát nhã trẻ đua bơi.
(Thơ Hộ Pháp).
Xuôi: Theo cùng một chiều tự nhiên. Chiều: Hướng, bề, theo ý muốn người khác.
Xuôi chiều là thuận theo một chiều, không có ý kiến gì ngược lại.
Như: Chỉ có toàn ý kiến xuôi chiều nên buổi họp hôm nay buồn tẻ.
Trương buồm hạnh đức xuôi chiều gió,
Ðưa khách phồn hoa lánh nẻo phiền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xuôi chiều đổ bến êm dòng bích,
Phải lúc nương mây chớp cánh hồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xuôi: Theo cùng một chiều tự nhiên. Dòng: Đường nước chảy.
Xuôi dòng là thuận theo đường nước chảy, tức nói mọi vật nổi trên mặt nước đều theo chiều của dòng nước mà trôi xuôi.
Như: Thuyền đã xuôi dòng về đến bến.
Ngược gió thuyền đầy cơn gió dập,
Xuôi dòng nước lớn giạt bèo trôi.
(Thơ Thượng Sanh).
Biển khổ khách trần bơi ngược nước,
Thuyền từ bỉ ngạn lướt xuôi dòng.
(Thơ Thông Quang).
Xuống là ở chỗ cao đi tới chỗ thấp, trái với lên.
Như: Ở trên núi xuống, xuống hầm, xuống ngựa, té nhào xuống sông.
Thánh giáo Thầy có câu: Còn bực chơn tu, tỉ như một hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, rồi sanh trái mà biến biến sanh sanh càng tăng số.
Hụt chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó cua kình rỉa thây.
(Kinh Sám Hối).
Chừng nào đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xuống nhục: Rơi xuống cảnh tủi nhục. Lên vinh: Vượt lên đời vinh hiển.
Xuống nhục lên vinh ý muốn nói cuộc đời khi chịu đời tủi nhục, lúc hưởng cảnh vinh sang.
Như: Làm con người ai cũng phải chịu xuống nhục lên vinh tuỳ theo định số.
Tự mình đeo lấy kiếp thi nhân,
Xuống nhục lên vinh biết mấy lần!
(Thơ Thuần Đức).
Xuồng là loại thuyền nhỏ không có mui, thường buộc theo tàu hay thuyền lớn.
Như: Bơi xuồng ra sông, đi xuồng vào bến, ghe xuồng tấp nập nơi bến đỗ.
Cho hay nhơn định chẳng qua Trời,
Non đảnh đưa xuồng gặp khó bơi.
(Đạo Sử).
Một chiếc xuồng con không chạy biển,
Thầm lo chi hiệp giống nòi còn.
(Đạo Sử).
Xuồng: Thuyền nhỏ, phương tiện chuyên chở trên sông rạch. Nan: Thanh tre, nứa, mỏng dùng để đan, ghép thành đồ vật.
Xuồng nan là thuyền nhỏ làm bằng nan tre, có trét dầu chai để không thấm nước.
Như: Xuồng nan lướt sóng.
Xuồng nan cỡi sóng đu đưa,
Trên bờ trâu nghé hàng dừa tươi xanh.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
處
Xứ là một khu vực, chốn, nơi, miền. Như: Quê hương xứ sở, đi biệt xứ, xứ Nam kỳ.
Thánh giáo Thầy có dạy: Nơi xứ (Việt Nam) nầy, dân tình rất thuần hậu và ôn hoà, nên Thầy đến cũng như Chúa Cứu Thế đã đến với chúng con để bài trừ Tà thuyết và truyền bá Chơn đạo trên toàn cầu.
Muốn cách mặt xứ xa định bạn,
Đừng để già những mảng phập phồng lo.
(Phương Tu Đại Đạo).
處 神
Xứ: Một khu vực, chốn, nơi, miền. Thần: Những Đấng thiêng liêng có quyền làm phúc, hoạ cho người.
Xứ Thần là chỉ cõi Thần (Thánh, Tiên), hay chỉ chung về cõi thiêng liêng.
Cõi tục can qua dầu phải rứa,
Xứ thần tai ách có vầy sao?
(Thiên Thai Kiến Diện).
處 所
Xứ: Chốn, nơi, miền. Sở: Nơi, chốn, xứ sở.
Xứ sở là chỉ nơi quê hương, đất nước. Như: Trở về xứ sở thân yêu.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trên bước đường hành sự, chúng ta phải làm thế nào cho Ðạo đời tương đắc, nhứt là giúp ích cho quê hương xứ sở về mặt tinh thần, lo giáo hoá nhơn sanh tiến tới đường đạo đức, làm lành lánh dữ, mến chuộng công lý, biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau đặng cùng xây dựng hạnh phúc chung cho đồng bào, chúng ta mới cộng hưởng cảnh thái bình an cư lạc nghiệp.
Tôi sinh trưởng tại Tỉnh Tây Ninh, ông cha tổ phụ đều ở tỉnh Tây Ninh thì có chi vui vẻ và hạnh phúc hơn được mở mang mối Ðạo nơi xứ sở yêu quý nầy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
處
1.- Xử là xử sự, tức hành động theo cách nào đó, thể hiện thái độ với người khác trong một hoàn cảnh cụ thể. Như: Cư xử, xử kỷ tiếp vật.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Lê Văn Trung có câu: Hiền hữu, Lão để lời cho hiền hữu biết rằng, trong môn đệ của Ðức Từ Bi phần nhiều đã chẳng giữ lời Thầy mà xử cho tròn phần Nhơn đạo, giao tiếp cùng nhau cho có nét yêu dấu, tạc thù trong niềm đạo hữu, lại có dạ ghét lẫn tương phân.
Làm người nhơn nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
(Kinh Sám Hối).
Xử sao trên thuận dưới hoà,
Xướng tuỳ trọn đạo gần xa tỏ tường.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Con chớ ỷ mình là nam tử,
Chiếm chủ gia hẹp xử thê nhi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Xử là xem xét và giải quyết việc tố tụng, phạm pháp, tranh chấp. Như: Xử kiện, xử tội, phân xử.
Trong Tân Luật, chương bảy, điều thứ hai mươi sáu có quy định: Trong bổn đạo ai có phạm luật pháp về mấy điều khoản nhẹ, thì quyền người làm đầu trong họ phân xử và đặng răn phạt quỳ hương tụng kinh Sám Hối.
Tánh độc ác tội dư tích trữ,
Chốn Âm cung luật xử nặng nề.
(Kinh Sám Hối).
Đừng học thói của quân bạo ngược,
Xử mẹ cha tội phước quá hơn toà.
(Phương Tu Đại Đạo).
處 案
Xử: Xem xét và giải quyết việc tố tụng, tranh chấp. Án: Vụ phạm pháp hoặc tranh chấp quyền lợi được xét xử trước toà án.
Xử án là xem xét và giải quyết một vụ án. Như: Hôm nay, toà xử án kẻ sát nhân.
Nhơn vật hữu căn thì hữu kiếp,
Ban ân lành xử án giữ nguyên.
(Đạo Sử).
處 斷
Xử: Xem xét và giải quyết việc tố tụng, tranh chấp. Đoán: Phán quyết.
Xử đoán là phân xử và quyết đoán.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Người (Hộ Pháp) dùng hình phàm làm cho giảm tội thiêng liêng, nắm cơ mầu nhiệm công bình mà đưa các chơn hồn vào Bát Quái Đài, hiệp cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Người nắm trọn cả luật Đạo và luật Đời đặng xử đoán, làm chủ “Phòng Xử Đoán”.
Giữ công bình xử đoán coi dèo,
Quyền toà án bì theo cũng không kịp.
(Phương Tu Đại Đạo).
處 己
Xử: Quyết đoán. Kỷ: Mình.
Xử kỷ là tự mình đối xử với mình. Theo Nho giáo, người xưa thường phải tự nghiêm khắc đối với mình, không thể buông lung được.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tu thân cũng không phải chỉ có một quan niệm hoàn toàn về cá nhân, vì phép tắc đối với mình tức là “Xử kỷ” phải luôn luôn đi kèm với phép tắc đối với người và việc tức là “Tiếp vật”.
Xử kỷ thường hằng tâm lý đạt,
Độ tha thức tỉnh điển kinh luân.
(Thơ Huệ Phong).
處 己 接 物
Xử kỷ: Tự đối xử với mình. Tiếp vật: Tiếp xúc với người và loài vật.
Xử kỷ tiếp vật là tự mình ăn ở và ứng xử với mọi người, mọi vật.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nếu ai ai cũng quan niệm con người sanh ra dưới cõi thế đều cùng một nguồn gốc siêu hình mà ra và Đấng Thượng Đế là Cha Thiêng Liêng của nhơn loại thì sự xử kỷ tiếp vật của mỗi cá nhân chắc hẳn sẽ được tốt đẹp hơn hiện tại bội phần.
Dụng bác ái để xử kỷ tiếp vật.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
處 事
Xử: Hành động theo cách nào đó, thể hiện thái độ đối với người khác trong một hoàn cảnh nhất định. Sự: Việc.
Xử sự là giải quyết như thế nào đó những việc có quan hệ giữa mình với người khác. Nói chung là đối phó với mọi việc.
Như: Khéo xử sự, xử sự có tình lý.
Trong bài nói về cách lập Thiên vị, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu con người không có đức thì làm sao xử sự trong gia đình, ngoài xã hội đặng.
Ðoan chánh khen ưa xử sự rành,
Nay ta cũng dụng cải khôn lanh.
(Đạo Sử).
處 世
Xử: Đối đãi, ăn ở. Thế: Cuộc đời.
Xử thế là cách thức ăn ở trong đời, tức là sự đối xử với xã hội rất lịch duyệt.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Lão Giáo trọng thiên về chủ nghĩa Vô Vi, nhưng về mặt xử thế, Ðức Lão Tử cũng có cái chí vị tha, chung thân phụng sự cho Ðời cho đến lúc công thành sự toại rồi mới thối lui.
Xử thế phải cho vẹn thế tình,
Trau tâm trau đức sạch Chơn linh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phơi gan xử thế nết anh hùng,
Xấu mặt mà lòng thiệt rất trung.
(Đạo Sử).
Dầu xử thế cũng cho biết cách,
Đạo vợ chồng hắc bạch cứ phân minh.
(Phương Tu Đại Đạo).
處 斬
Xử: Bắt tội nhân thi hành án. Trảm: Chém đầu.
Xử trảm là lãnh án chém đầu.
Trong hình pháp thời xưa, khi tử hình một phạm nhân, người ta đem kẻ có tội ra pháp trường, rồi người đao phủ chém và bêu đầu để răn chúng, gọi là xử trảm.
Nếu biết trọng linh hồn thì không ngần ngại gì, đến mấy vị Ðại Thiên Phong cầm quyền Pháp Chánh kia cung khai đi, rồi họ lên án quẹt lọ cho mình, không lẽ đem ra pháp trường xử trảm.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
處 置
Xử: Đối đãi, đối phó, ăn ở. Trí: Sắp đặt, đặt để.
Xử trí là sắp đặt, giải quyết ổn thoả mọi công việc.
Xử trí còn dùng để chỉ việc cư xử, tức là việc đối đãi với mọi người chung quanh.
Như: Xử trí việc nhà cho êm xuôi, đối với cha mẹ không biết anh ấy xử trí ra sao?
Thử nghĩ: Người bàng quan còn phải xử trí như thế, huống chi ông bà là ruột thịt của cha mẹ...
(Giáo Lý).
處 治
Xử: Phán quyết. Trị: Làm cho phải chừa tội.
Xử trị là hành phạt, tức xử tội và trừng trị.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Vậy Lão xin Hiền Hữu (Hộ Pháp) ban quyền cho Chánh Trị Sự đặng phép xử trị, hầu có thể dạy dỗ, sửa răn, thay quyền cho chúng ta trong chốn thôn quê sằn dã.
Nó cũng noi chước Thiên cung mà lập thành Quỷ vị, cũng đủ các ngôi, các phẩm, đặng đày đoạ các con, hành hài các con, xử trị các con.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Xưa là thuở trước, đời đã qua rồi. Như: Đời xưa, năm xưa, từ xưa tới nay.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Chim về cội, nước tách nguồn, từ xưa kiếp con người giữa thế chẳng qua là khách đi đường. Phận sự muốn cho hoàn toàn cần phải có bền chí và khổ tâm. Có bền chí mới đạt phẩm vị thanh cao, có khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh.
Tiền khiên đã mãn nghiệp căn xưa,
Phải biết ăn năn chiếm thượng thừa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lòng lành là vốn có căn xưa,
Bao quản lợi danh chẳng dám chừa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ví xưa biết chút đường tu niệm,
Thì chắc nay đà ngự các lân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xưa: Đã quá lâu. Nay: Hiện tại.
Xưa nay là từ trước đến nay, từ xưa đến bây giờ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Xưa nay những trang mẫn thế ưu thời, những bậc tài cao học rộng chẳng thiếu chi, nhưng đạo đức không dồi dào, nghĩa nhân không đầy đủ, nên cái kết quả hành vi của họ đối với xã hội quốc dân vẫn lắm mờ hồ.
Xưa nay chẳng có khác đâu nào,
Phải tưởng thương đời lắm nỗi đau.
(Đạo Sử).
Thương vì trong kiếp đoạn trường,
Cùng căn là chết ấy đường xưa nay.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Xưng 稱 là gọi, tức, tự kêu là gì đó khi nói với người khác. Như: Xưng danh, xưng hô, nó xưng là cháu.
Thánh giáo Thầy có câu: Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát là hai phẩm chót của Tiên, Phật.
Đừng làm cho hổ phận má đào,
Xưng quân tử làm sao đáng mặt.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Xưng 稱 là ngợi, khen. Như: Xưng tụng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Hai con phải biết chỗ nhược của Ðạo nơi đó mà kiếm phương tìm chước, lấy cộng hoà hiệp nhơn ý mà điều đình sửa cải cho chóng, làm sao cho mỗi đạo hữu các con đều ngó về Toà Thánh mà xưng tụng ân huệ của mỗi con có trách nhiệm xứng đáng, và làm sao cho dứt mối hiềm thù riêng của mỗi đứa, hiệp đồng trí thức mà làm cho người ngoài dòm vào, nhìn nhận mối Ðạo quý hoá và thảy đều sùng bái cử chỉ cao thượng của các con.
Thánh danh Bảo Pháp đời xưng tụng,
Để khách tầm tiên ngẩng bút chờ.
(Thơ Huệ Phong).
稱 呼
Xưng: Gọi, tức, tự kêu là gì đó khi nói với người khác. Hô: Gọi, kêu to.
Xưng hô là kêu gọi lẫn nhau, tức tự xưng về mình và gọi người khác để biểu thị mối quan hệ với nhau.
Như: Phải giữ lễ phép khi xưng hô với người trên.
Song khoản cầu trong Kinh Cứu Khổ, chỗ xưng hô đệ tử, xin quý anh quý chị đổi lại “cầu chung cả cho chúng sanh”.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
稱 罪
Xưng: Tự nhận. Tội: Lầm lỗi.
Xưng tội là tự nhận mình phạm tội.
Theo Công giáo, những người tín đồ bị phạm lỗi, dầu nặng hay nhẹ, đều phải biết ăn năn, sám hối mà vào xưng tội với Đấng Thánh cha để được khoan hồng tha thứ tội tình cho.
Thấy xưng tội ruột gan xào.
Cảnh như toà án ra vào thường xuyên.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
稱 頌
Xưng: Lời khen. Tụng: Ca tụng, ca ngợi.
Xưng tụng là khen ngợi và tán tụng. Như: Xưng tụng công đức Thần Thánh Tiên Phật.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Hai con phải biết chỗ nhược của Ðạo nơi đó mà kiếm phương tìm chước, lấy cộng hoà hiệp nhơn ý mà điều đình sửa cải cho chóng, làm sao cho mỗi đạo hữu các con đều ngó về Toà Thánh mà xưng tụng ân huệ của mỗi con có trách nhiệm xứng đáng.
Tam Trấn thừa hành cơ chuyển thế,
Tứ thời xưng tụng Đấng Khai Thiên.
(Thơ Huệ Phong).
稱 頌 功 德
Xưng tụng: Khen ngợi và tán tụng. Công đức: Tất cả những việc làm giúp đời, giúp người không cầu danh lợi.
Xưng tụng công đức là tán tụng và ca ngợi công đức của một vị nào.
Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có giảng: Hôm nay là ngày Vía của Ðức Cao Thượng Phẩm, chúng tôi xin nhắc tiểu sử của Ngài, âu cũng là dịp xưng tụng công đức của người quá cố và cũng ôn lại cái đại chí của người tu hành để làm gương cho đoàn hậu tấn.
Bài Xưng tụng công đức Phật Tiên Thánh Thần.
(Kinh Thiên Đạo Thế Đạo).
Xứng là cân, vừa, hợp với đòi hỏi khách quan của người hoặc cái nào đó.
Như: Xứng đôi vừa lứa, vươn lên để xứng với thời đại văn minh.
Nhỏ dại Thầy nuôi mùi Ðạo hạnh,
Lớn khôn bây xứng mặt hiền lương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vợ chồng phải xứng đôi như đũa,
Đừng ỷ giàu có của dể duôi chồng.
(Phương Tu Đại Đạo).
稱 名
Xứng: Đúng, hợp, thích đáng. Danh: Tên.
Xứng danh là xứng với tên tuổi.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nền Ðạo đã thông truyền Quốc Tế, vậy phải vãn hồi các bản sắc trong lành cho xứng danh là Thánh Ðịa, hầu làm cái trụ cốt tinh thần cho nhơn loại hướng về tin tưởng.
Tứ đức vẹn toàn mới xứng danh,
Nương hơi nhang khói chỉ điềm lành.
(Tứ Nương Giáng Bút).
Xứng: Thích đáng, đúng. Đáng: Được đánh giá là xứng, hợp với giá trị, một phẩm chất hoặc một cách đối xử nào đó.
Xứng đáng là đúng, hợp, tức có đủ phẩm chất, tư cách như một danh hiệu, vinh dự nào đó đòi hỏi.
Như: Anh là người xứng đáng được khen thưởng.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Thầy nói cho các con hiểu rằng, muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm môn đệ Thầy thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn ngã thì cửa Ðịa Ngục lại mời.
Thắng nổi quyền vật dục,
Xứng đáng mặt khách trần.
(Thơ Hộ Pháp).
Hứng giọt nhành dương đã gội nhuần,
Sao cho xứng đáng hưởng Thiên ân.
(Thơ Thượng Sanh).
稱 分
Xứng: Thích đáng, đúng. Phận: Bổn phận, tức phần việc mà mình phải làm.
Xứng phận là xứng đáng với bổn phận, tức là làm tròn, đầy đủ cái phận sự của mình.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Không có ai lột da mà sống đời, trước qua thì sau tới kế nghiệp đặng trường tồn, ngày nay phận sự của mấy Qua dìu dắt mấy em, mấy con, đó là cả đại nghiệp tinh thần, mà trước khi giao, phải lựa, phải chọn, cho có người xứng phận bảo thủ vững vàng đại nghiệp đó mới phải.
Trau giồi cho xứng phận nga my,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Non nước sẵn cầm tay tạo khách,
Ra công cho xứng phận làm trai.
(Thơ Huệ Giác).
稱 位
Xứng: Thích đáng, đúng. Vị: Ngôi vị.
Xứng vị là xứng đáng với ngôi vị.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải thuộc Nữ phái có câu: Xem lại Nữ phái không biết trau giồi trí thức đặng làm trách nhậm cho xứng vị mình thì lại càng âu lo thêm nữa!
Lễ văn đủ định phân khách trí,
Hạnh đức toàn xứng vị Thánh nhân.
(Thất Nương Giáng Bút).
Xương là phần cứng làm khung thân thể các loài vật, ngoài có thịt da bao bọc. Như: Xương người, xương thú, xương tay, da bọc xương.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trước cảnh máu xương chồng chất gây nên bởi chiến cuộc, trước cảnh chiếu đất màn trời, của mấy trăm nạn nhân bão lụt miền Trung đang vất vả khóc than, vì đói rách cơ hàn, chúng ta những người đã xả thân cầu đạo, có vui sướng gì mà hỷ hạ chơi Xuân, hoang phí đồng tiền để làm khách phong lưu trong buổi trà dư tửu hậu.
Vong xu trọn cả một Càn Khôn,
Hết kiếp thịt xương tới kiếp hồn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
So hơn đức hạnh mới nên giành,
Cái lưỡi không xương thiệt quá lanh.
(Đạo Sử).
Nghiền xương trộn cát tô then cửa,
Nặng máu hoà vôi quét vách nhà.
(Thơ Hộ Pháp).
Xương: Bộ phận cứng hợp thành bộ khung của thân thể. Máu: Chất đỏ nuôi dưỡng cơ thể.
Xương máu là hai bộ phận quan trọng của sự sống con người, nghĩa bóng chỉ sự hy sinh tánh mạng.
Như: Đổ bao xương máu để giành độc lập.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Xương máu của đồng bào đã hao nhiều vì chiến cuộc, hồn thiêng sông núi đang chờ đợi những đứa con thân yêu của quê hương đang xông pha ngoài chiến địa để cứu nguy cho dân tộc mà không biết ngày nào được trở về.
Tiền khiến nhơn sanh xương máu đổ,
Tiền làm vận nước phải chinh nghiêng.
(Thơ Hộ Pháp).
Xương: Bộ phận cứng hợp thành bộ khung của thân thể. Tàn: Còn sót lại.
Xương tàn là xương cốt của người chết còn sót lại. Như: Dù còn nắm xương tàn của tổ phụ cũng phải gìn giữ.
Nhờ Hậu thổ xương tàn gìn giữ,
Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên.
(Kinh Tận Độ).
Những ngờ duyên thắm trao phòng bích,
Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai.
(Thơ Huệ Giác).
Xương tàn: Xương người chết còn sót lại. Cốt rũ: Xương đã rụi gục xuống.
Xương tàn cốt rũ ý nói xương cốt đã tàn rụi, có nghĩa là người chết đã lâu rồi.
Như: Anh ấy dã chết xương tàn cốt rũ rồi.
Chắc chắn cả thảy đều được hạnh phúc hiển nhiên, đương thời hay là trong cảnh xương tàn cốt rũ...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Xương: Bộ phận cứng hợp thành khung của thân thể động vật, con người. Thịt: Phần mềm bọc xương của động vật và con người.
Xương thịt chỉ hai bộ phận của hình thể con người là xương và thịt.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Than ôi! Có hình thể xương thịt mà chơn hồn phưởng phất nơi xa, thì cái thân vô dụng ấy trơ trơ như khối đá dựa đường, như khúc cây bên trũng.
Xương thịt cũng đồng nhân loại thế,
Vày bừa há chẳng hổ sông non?
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
唱
1.- Xướng là cất tiếng hô to, hoặc kêu từng tên, từng mục để mọi người nghe.
Như: Lễ xướng, xướng danh từng người.
Khi nhập lễ, xướng “Khởi Nhạc” thì phải đánh trống và đờn bảy bài cho đủ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Xướng là nêu ra, đề ra trước tiên. Như: Đề xướng, xướng ra buổi tiệc liên hoan.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Nhưng xét về tinh thần, thì lại có nhiều ý nghĩa cao xa, nhờ mặc khải mà biết, hoặc trực giác mới xướng minh ra được.
Dựng đứng cột đồng ai đã xướng,
Ðảnh Nam sừng sựng vững bền trào.
(Đạo Sử).
3.- Xướng còn có nghĩa là ca hát, đối đáp nhau bằng những bài thơ cùng thể, cùng vần.
Như: Xướng ca vô loại, xướng hoạ thi ca.
Người xướng đôi dòng nghe cảm mến,
Đây hoà năm vận tỏ tình thân.
(Thơ Hàn Sinh).
Bàn luận sử kinh từng thoả thích,
Xướng hoà thơ phú mặc vui say.
(Thơ Võ Thành Lượng).
唱 名
Xướng: Cất tiếng hô lên, gọi. Danh: Tên.
Xướng danh là gọi tên từng người một.
Sau các cuộc thi, những sĩ tử thi đỗ, tên họ đều được đăng lên bảng hoặc xướng danh.
Trong bài Phật Mẫu Chơn Kinh, các Chơn linh do Phật Mẫu độ rỗi, Đức Cao Đài Ngọc Đế xướng danh để ban cho về nơi cõi Tiên cung, Phật xứ.
Siêu thăng phụng liễn quy khai,
Tiên cung Phật xứ Cao Đài xướng danh.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
唱 和
Xướng: Dẫn dắt. Hoạ: Đáp lại.
Xướng hoạ có nghĩa là một người làm công việc gì khiến những người khác làm theo.
Xướng hoạ còn dùng để nói về thi ca: Người làm ra một bài thơ, gọi là bài xướng, kẻ khác theo vần đáp lại, gọi là bài hoạ.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Hội Yến Diêu Trì là cơ quan đắc Ðạo tại thế. Ðức Kim Mẫu cùng Cửu Vị Nữ Phật đã giáng trần Hội Yến với chư Chức Sắc, xướng hoạ thi phú và dạy Ðạo. Ấy là Hội Chư Tiên tại thế.
Thiếu kẻ thi đề câu xướng hoạ,
Còn ai tâm đạt tứ cao siêu!
(Thơ Thuần Đức).
Ý thơ gợi cảm tình tri ngộ,
Xướng hoạ tiêu dao hội nhứt tràng.
(Thơ Chơn Tâm).
Hay “Xướng kỹ”.
Xướng: Ca hát. Kỵ (kỹ): Người con gái hát xướng để kiếm tiền, như kỹ nữ 妓 女.
Xướng kỵ, như chữ “Xướng kỹ 唱 妓”, là chỉ người con gái làm nghề ca hát để kiếm tiền.
Gái xướng kỵ, trai thì du đảng,
Phá tan hoang gia sản suy vi.
(Kinh Sám Hối).
唱 隨
Xướng: Dẫn dắt. Tuỳ: Theo.
Xướng tuỳ, do câu “Phu xướng phụ tuỳ 夫 唱 婦 隨”, chồng xướng vợ theo. Ý nói tình nghĩa vợ chồng hoà hợp cùng nhau theo khuôn phép.
Truyện Kiều có câu: Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi, Chiều lòng gọi có xướng tuỳ mảy may.
Xử sao trên thuận dưới hoà,
Xướng tuỳ trọn đạo gần xa tỏ tường.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Phải đoái thương chút phận nữ nhi,
Mà gìn chữ xướng tuỳ cho phải đạo.
(Phương Tu Đại Đạo).
Trúc mai tươi thắm màu thân thiện,
Cầm sắt hoà chung nhịp xướng tuỳ.
(Thơ Thuần Đức).
TOÀN BỘ
)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |
Danh mục vần X
XA
• Xa
• Xa cách
• Xa gần
• Xa hoa
• Xa hoa phù phiếm
• Xa khơi
• Xa lánh
• Xa lắc
• Xa mã
• Xa Nặc
• Xa thẳm
• Xa thơ
• Xa vời
• Xa xắc
• Xa xăm
• Xa xỉ
• Xa xôi
• Xa xuôi
XÁ
• Xá
• Xá ân
• Xá cô
• Xá linh quang
• Xá lợi
• Xá tội
• Xá thân
XẢ
• Xả hung tang
• Xả chấp
• Xả diệt thế trần
• Xả phú
• Xả phú cầu bần
• Xả thân
• Xả thân cầu Đạo
• Xả thân hành Đạo
• Xả thân hành hoá
• Xả thân vị Đạo
XÃ
• Xã
• Xã giao
• Xã hội
• Xã tắc
XẠ
• Xạ kích
XÁC
• Xác
• Xác chết
• Xác Chí linh
• Xác đáng
• Xác đất sanh đến lịnh phục hồi
• Xác hồn
• Xác phàm
• Xác phàm trần
• Xác phàm mắt thịt
• Xác tục
• Xác Thánh
• Xác thân
• Xác thịt
• Xác thịt Thầy không giáng thế
• Xác trần
XÁCH
• Xách
XÀI
• Xài
XAY
• Xay
XẢY
• Xảy
XÁN
• Xán lạn
XANH
• Xanh
• Xanh mày lịch sắc
• Xanh xanh
XẢNH
• Xảnh xẹ
XAO
• Xao
• Xao lãng
• Xao tâm động trí
• Xao xác
• Xao xuyến
XÁO
• Xáo
• Xáo nồi da
• Xáo trộn
XÀO
• Xào
• Xào úa
XẢO
• Xảo
• Xảo kế
• Xảo mị
• Xảo ngôn
• Xảo ngữ
• Xảo quyệt
• Xảo trá
XẠO
• Xạo xự
XÁT
• Xát chà
XĂM
• Xăm
• Xăm xăm
XĂNG
• Xăng
XẰNG
• Xằng
XẮT
• Xắt
XÂY
• Xây
• Xây bàn
• Xây cơ chuyển thế
• Xây chuyển
• Xây chuyển cơ đời
• Xây dựng
• Xây đắp
• Xây đổi
• Xây đồn
• Xây móng đắp nền
• Xây thành
• Xây thành lũy
• Xây trở
• Xây vần
XÂM
• Xâm lăng
• Xâm phạm
XẨN
• Xẩn bẩn
XẤP
• Xấp
XÂU
• Xâu
• Xâu chuỗi
XẤU
• Xấu
• Xấu hổ
• Xấu tốt
• Xấu xa
XE
• Xe
• Xe cộ
• Xe châu
• Xe duyên
• Xe hạc
• Xe hoa
• Xe hơi
• Xe mây
• Xe Như ý
• Xe tiên
• Xe trâu
XÉ
• Xé
• Xé phay
• Xé thây
XẺ
• Xẻ
XEM
• Xem
• Xem thường
• Xem xét
XEN
• Xen
XEO
• Xeo
XÉO
• Xéo
• Xéo xiên
XÉT
• Xét
• Xét lấy sửa lòng
• Xét đoán
• Xét mình
• Xét nét
• Xét suy
• Xét xem
XẸT
• Xẹt
XẾ
• Xế chiều
XÊNH
• Xênh xang
XÍA
• Xía
XÍCH
• Xích
• Xích Bích
• Xích Bích thắng Tào
• Xích Long Tinh
• Xích mích
• Xích Quày
• Xích Tòng
• Xích thằng
• Xích Thiên
• Xích thố
XIÊM
• Xiêm
• Xiêm nghê
XIÊN
• Xiên
• Xiên xéo
XIỂN
• Xiển dương
• Xiển giáo
• Xiển triệt
XIỀNG
• Xiềng
• Xiềng gông
• Xiềng xích
XIẾT
• Xiết
• Xiết bao
XIÊU
• Xiêu
• Xiêu đổ
• Xiêu lòng
• Xiêu mồ lạc mả
XIN
• Xin
XINH
• Xinh
• Xinh đẹp
• Xinh lịch
XÓ
• Xó
• Xó ró
XỎ
• Xỏ
XOA
• Xoa
• Xoa dịu
XOÁ
• Xoá
XOAY
• Xoay
• Xoay chiều đổi hướng
• Xoay trở
• Xoay vần
XOÁY
• Xoáy
XOÀN
• Xoàn
XOI
• Xoi
• Xoi bói
XÓM
• Xóm
• Xóm riềng
• Xóm làng
XONG
• Xong
XÓT
• Xót
• Xót thương
• Xót xa
• Xót xáy
XÔ
• Xô
• Xô đẩy
• Xô đuổi
• Xô xát
XỐC
• Xốc
XÔI
• Xôi
XỒM
• Xồm xàm
XÔN
• Xôn xao
XỐN
• Xốn
• Xốn xang
XÔNG
• Xông
• Xông hương khử trược
• Xông lướt
• Xông pha
XƠ
• Xơ rơ
• Xơ xác
XU
• Xu
• Xu danh
• Xu hướng
• Xu phụ
• Xu thời
• Xu trần
XÚ
• Xú
XỦ
• Xủ
• Xủ áo phồn hoa
• Xủ khuất
• Xủ lằn trí huệ
XUA
• Xua
• Xua đuổi
• Xua trục
XUÂN
• Xuân
• Xuân bất tái
• Xuân đường
• Xuân mai ba bảy
• Xuân sắc
• Xuân thời
• Xuân thu
• Xuân Thu bỉnh chúc
• Xuân xanh
XUẤT
• Xuất
• Xuất bản
• Xuất cảng
• Xuất chinh
• Xuất chính
• Xuất chúng
• Xuất dương
• Xuất gia
• Xuất giá
• Xuất hiện
• Xuất hội
• Xuất ngoại
• Xuất nhập
• Xuất nhập phân minh
• Xuất sĩ
• Xuất thần
• Xuất thế
• Xuất u đồ
• Xuất xử
XÚC
• Xúc
• Xúc động
• Xúc tiến
XUI
• Xui
• Xui giục
XÚI
• Xúi
• Xúi ác giục loàn
• Xúi biểu
• Xúi giục
XUY
• Xuy mao cầu tỳ
XUYÊN
• Xuyên
• Xuyên dương trăm bộ
• Xuyên sơn
• Xuyên tạc
XÚM
• Xúm
• Xúm xít
XUNG
• Xung đột
• Xung nhập
• Xung tâm
• Xung thiên
• Xung xăng
XUÔI
• Xuôi
• Xuôi chèo
• Xuôi chiều
• Xuôi dòng
XUỐNG
• Xuống
• Xuống nhục lên vinh
XUỒNG
• Xuồng
• Xuồng nan
XỨ
• Xứ
• Xứ thần
• Xứ sở
XỬ
• Xử
• Xử án
• Xử đoán
• Xử kỷ
• Xử kỷ tiếp vật
• Xử sự
• Xử thế
• Xử trảm
• Xử trí
• Xử trị
XƯA
• Xưa
• Xưa nay
XƯNG
• Xưng
• Xưng hô
• Xưng tội
• Xưng tụng
• Xưng tụng công đức
XỨNG
• Xứng
• Xứng danh
• Xứng đáng
• Xứng phận
• Xứng vị
XƯƠNG
• Xương
• Xương máu
• Xương tàn
• Xương tàn cốt rũ
• Xương thịt
XƯỚNG
• Xướng
• Xướng danh
• Xướng hoạ
• Xướng kỵ
• Xướng tuỳ

|