TỪ NGỮ ĐIỂN CỐ CAO ĐÀI

 

 

Danh mục vần NG-NGH

 

NGA

Nga

Nga Hoàng Nữ Anh

Nga my

Nga Nữ

 

NGÀ

Ngà

 

NGẢ

Ngả

Ngả ngớn

Ngả nghiêng

 

NGÃ

Ngã

Ngã chấp

Ngã gục

Ngã kiến

Ngã lòng

Ngã tướng

 

NGẠ

Ngạ quỷ

Ngạ quỷ vô thường

 

NGẠC

Ngạc kình

Ngạc nhiên

 

NGẠCH

Ngạch

 

NGAI

Ngai

Ngai Thần

Ngai vàng

 

NGÀI

Ngài Trầm

 

NGẢI

Ngải

 

NGÃI

Ngãi

 

NGẠI

Ngại

Ngại ngần

Ngại ngùng

 

NGAY

Ngay

Ngay chánh

Ngay thẳng

Ngay thật

 

NGÀY

Ngày

Ngày nay

Ngày Nghiêu tháng Thuấn

Ngày sau

Ngày tháng

Ngày xưa

 

NGÁN

Ngán

Ngán lòng

Ngán ngẩm

 

NGÀN

Ngàn

Ngàn cay muôn đắng

Ngàn dâu

Ngàn hồng muôn tía

Ngàn tứ muôn chung

Ngàn thu

Ngàn trùng

 

NGẠN

Ngạn uyển

 

NGANG

Ngang

Ngang dọc

Ngang tàng

 

NGẢNH

Ngảnh

Ngảnh lại

 

NGAO

Ngao

Ngao du

Ngao đầu

Ngao ngán

Ngao trụ

 

NGÀO

Ngào ngạt

Ngào ngọt

 

NGẠO

Ngạo

Ngạo báng

 

NGÁP

Ngáp

 

NGẠT

Ngạt

 

NGẮM

Ngắm

 

NGĂN

Ngăn

Ngăn cản

Ngăn cấm

Ngăn chống

Ngăn ngừa

Ngăn rào

Ngăn trở

 

NGẮN

Ngắn

Ngắn ngủi

Ngắn ngủn

 

NGẰN

Ngằn

 

NGẮT

Ngắt

 

NGẶT

Ngặt

Ngặt nghèo

 

NGÂY

Ngây

Ngây dại

Ngây ngô

 

NGÂM

Ngâm

Ngâm nga

Ngâm phong vịnh nguyệt

Ngâm vịnh

 

NGẬM

Ngậm

Ngậm cay nuốt đắng

Ngậm cơm ơn ngậm

Ngậm cơm vỗ bụng

Ngậm đau nuốt thảm

Ngậm đắng trêu cay

Ngậm miệng

Ngậm ngùi

Ngậm sầu nuốt thảm

Ngậm vành

 

NGÂN

Ngân

Ngân cầu

Ngân hà

Ngân hán

Ngân kiều

 

NGẦN

Ngần

Ngần ngại

 

NGẨN

Ngẩn

Ngẩn bút

Ngẩn ngơ

 

NGẬP

Ngập

Ngập ngừng

 

NGẤT

Ngất

Ngất ngưởng

 

NGẪU

Ngẫu nhiên

 

NGÓ

Ngó

Ngó Cực Lạc theo huờn Xá lợi

Ngó ngàng

 

NGỎ

Ngỏ

Ngỏ ý

 

NGÕ

Ngõ

Ngõ hầu

Ngõ hậu

Ngõ Khổng Trình

 

NGOAI

Ngoai

 

NGOÁI

Ngoái

 

NGOÀI

Ngoài

 

NGOẠI

Ngoại

Ngoại bang

Ngoài Càn khôn

Ngoại đạo

Ngoại giao

Ngoại giáo

Ngoại giáo Công truyền

Ngoại giới

Ngoại lân

Ngoại nghi

Ngoại quốc

Ngoại tình

Ngoại tộc nữ sanh

Ngoại tông nương phận

Ngoại vật

Ngoại xâm

 

NGOAN

Ngoan

Ngoan cố

Ngoan đạo

Ngoan ngạnh

 

NGOẠN

Ngoạn mục

Ngoạn tâm

 

NGOẢNH

Ngoảnh

 

NGOẠT

Ngoạt

 

NGỌC

Ngọc

Ngọc ấn

Ngọc các

Ngọc cát lầm

Ngọc cận hương thân

Ngọc cầu Lam

Ngọc cơ

Ngọc Cung

Ngọc đá

Ngọc Đế

Ngọc giai

Ngọc Hoà Lại Lễ

Ngọc Hoàng Thượng Đế

Ngọc Hoàng Kinh

Ngọc Hư Cung

Ngọc Kinh

Ngọc Lam điền

Ngọc lành đáng giá

Ngọc lành giá quý

Ngọc Lầu

Ngọc lìa Hiệp Phố

Ngọc Lịch Nguyệt

Ngọc mã kim đàng

Ngọc nát châu chìm

Ngọc nữ

Ngọc ngà

Ngọc ngà đạo đức

Ngọc thạch

Ngọc thốt

Ngọc vẩn châu trầm

 

NGOE

Ngoe

 

NGÒI

Ngòi

Ngòi bút

Ngòi văn

 

NGON

Ngon

Ngon ngọt

 

NGÓN

Ngón

 

NGỌN

Ngọn

Ngọn gió Các Đằng

Ngọn ngành

Ngọn nguồn

Ngọn rau tấc đất

 

NGÓNG

Ngóng

Ngóng trông

 

NGỌT

Ngọt

Ngọt bùi

Ngọt dịu

Ngọt ngào

Ngọt ngon

 

NGÔ

Ngô Đồng

Ngô Khởi

Ngô Mãnh

Ngô ông tức nhược

Ngô Tào

Ngô Thục Nguỵ

Ngô Văn Chiêu

 

NGỖ

Ngỗ ngang

Ngỗ nghịch

 

NGỘ

Ngộ

Ngộ kiếp

Ngộ kỳ Phật duyên

 

NGÔI

Ngôi

Ngôi báu

Ngôi cao phẩm quý

Ngôi linh

Ngôi phẩm

Ngôi Tiên

Ngôi Thái Cực

Ngôi Thần

Ngôi Thiên

Ngôi thứ

Ngôi vị

Ngôi xưa

 

NGỒI

Ngồi

Ngồi lê đôi mách

 

NGÔN

Ngôn

Ngôn luận

Ngôn ngữ

Ngôn từ

 

NGỔN

Ngổn ngang

 

NGÔNG

Ngông cuồng

 

NGỖNG

Ngỗng

 

NGỘP

Ngộp

Ngột ngạt

 

NGƠ

Ngơ

Ngơ ngáo

Ngơ ngẩn

Ngơ ngơ ngáo ngáo

 

NGỜ

Ngờ

Ngờ đâu

Ngờ ngờ

Ngờ vực

 

NGỠ

Ngỡ

Ngỡ ngàng

 

NGỢ

Ngợ

 

NGƠI

Ngơi

Ngơi nghỉ

 

NGỢI

Ngợi

Ngợi khen

 

NGỚT

Ngớt

 

NGU

Ngu

Ngu dại

Ngu dốt

Ngu độn

Ngu muội

Ngu si

Ngu Thuấn

Ngu xuẩn

 

NGỦ

Ngủ

 

NGŨ

Ngũ

Ngũ âm

Ngũ bá A La Hán

Ngũ Bộ Lôi Công

Ngũ căn

Ngũ cốc

Ngũ châu

Ngũ chi

Ngũ Chi phục nhứt

Ngũ dục

Ngũ Đế

Ngũ giới

Ngũ giới Tam quy

Ngũ hành

Ngũ hồ

Ngũ khí thanh

Ngũ khí triều ngươn

Ngũ Lôi Đài

Ngũ Lôi tru diệt

Ngũ luân

Ngũ Nương Diêu Trì Cung

Ngũ nguyện

Ngũ Nhạc

Ngũ phúc

Ngũ quan

Ngũ tạng

Ngũ thường

Ngũ trược

Ngũ uẩn

Ngũ uẩn thạnh khổ

 

NGỤ

Ngụ

 

NGỤC

Ngục

Ngục đao kiếm

Ngục hình

Ngục môn

Ngục thất

 

NGUI

Ngui ngút

 

NGÙI

Ngùi ngùi

 

NGUY

Nguy biến

Nguy nga

Nguy hiểm

Nguy nan

Nguy nguy

Nguy vong

 

NGUỴ

Nguỵ biện

Nguỵ Tào

Nguỵ tạo

 

NGUYÊN

Nguyên căn

Nguyên do

Nguyên đán

Nguyên Hanh Lợi Trinh

Nguyên hình

Nguyên hồn

Nguyên khí

Nguyên lý

Nguyên linh

Nguyên nhân

Nguyên sanh

Nguyên tác

Nguyên tánh

Nguyên tắc

Nguyên tiêu

Nguyên tử

Nguyên thể

Nguyên ủy

Nguyên văn

Nguyên vẹn

 

NGUYỆN

Nguyện

Nguyện ước

Nguyện vái

Nguyện vọng

 

NGUYỆT

Nguyệt

Nguyệt cầm

Nguyệt cúc

Nguyệt điện

Nguyệt hoa

Nguyệt lão

Nguyệt tà

Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

 

NGÚN

Ngún

 

NGÙN

Ngùn ngụt

 

NGUÔI

Nguôi

Nguôi ngoai

 

NGUỒN

Nguồn

Nguồn ân

Nguồn cội

Nguồn cơn

Nguồn đào

Nguồn Đạo

Nguồn lành

Nguồn lợi

Nguồn nhân

Nguồn Tiên

Nguồn Tiên nẻo Phật

Nguồn Thánh

Nguồn trong

 

NGUƠN

Nguơn chất

Nguơn đán

Nguơn hội

Nguơn khí

Nguơn linh

Nguơn tiêu

Nguơn tinh

Nguơn Thánh đức

Nguơn Thỉ

 

NGÚT

Ngút

 

NGƯ

Ngư

Ngư ông

Ngư phủ

Ngư tiều canh mục

 

NGỮ

Ngữ

Ngữ ngôn

 

NGỰ

Ngự

Ngự ban

Ngự giáng

Ngự Mã Thiên Quân

Ngự tửu

Ngự trị

Ngự triều

Ngự uyển

 

NGỪA

Ngừa

Ngừa thuyền

Ngừa thuyền Bát nhã

 

NGỬA

Ngửa nghiêng

 

NGỰA

Ngựa

Ngựa Hồ

Ngựa Hồ chim Việt

Ngựa qua cửa sổ

Ngựa trâu công đền

Ngựa vàng thỏ ngọc

Ngựa vàng thỏ bạc

 

NGƯNG

Ngưng

Ngưng Dương

Ngưng quyền Địa phủ

 

NGƯỚC

Ngước

 

NGƯỢC

Ngược

Ngược đãi

Ngược ngang

Ngược ngạo

Ngược xuôi

 

NGƯƠI

Ngươi

 

NGƯỜI

Người

Người dưng

Người đời

Người lớn

Người nước Kỷ lo Trời sập

 

NGƯỠNG

Ngưỡng mộ

Ngưỡng nguyện

Ngưỡng nghĩa

Ngưỡng thiên mạo

Ngưỡng vọng

 

NGƯU

Ngưu

Ngưu lang

Ngưu Lang Chức Nữ

 

NGHE

Nghe

 

NGHÉ

Nghé

 

NGHÉN

Nghén

 

NGHẼN

Nghẽn

 

NGHẸN

Nghẹn

Nghẹn ngào

 

NGHÈO

Nghèo

Nghèo đói

Nghèo hèn

Nghèo khó

Nghèo khổ

Nghèo nàn

Nghèo ngặt

Nghèo sạch rách thơm

 

NGHẸT

Nghẹt

 

NGHÊ

Nghê thường

 

NGHỀ

Nghề

Nghề nghiệp

 

NGHỆ

Nghệ hương án tiền

 

NGHÊNH

Nghênh

 

NGHÊU

Nghêu ngao

 

NGHI

Nghi

Nghi dung

Nghi gia

Nghi hoặc

Nghi kỵ

Nghi lễ

Nghi nan

Nghi ngại

Nghi ngờ

Nghi tiết

Nghi thức

Nghi trượng

 

NGHỈ

Nghỉ

Nghỉ ngơi

 

NGHĨ

Nghĩ

Nghĩ nghị

 

NGHỊ

Nghị

Nghị án

Nghị Định

Nghị luận

Nghị lực

Nghị sự

Nghị trường

Nghị trưởng

Nghị viên

 

NGHĨA

Nghĩa

Nghĩa binh

Nghĩa cử

Nghĩa Đào viên

Nghĩa địa

Nghĩa hiệp

Nghĩa khí

Nghĩa lý

Nghĩa mặn tình nồng

Nghĩa nhân

Nghĩa nhơn

Nghĩa phương

Nghĩa sĩ

Nghĩa thầy trò

Nghĩa trả ơn đền

Nghĩa trang

Nghĩa trọng

Nghĩa trọng tài khinh

Nghĩa vụ

 

NGHỊCH

Nghịch

Nghịch cảnh

Nghịch Đạo

Nghịch lý

Nghịch mạng

Nghịch nợ tiền khiên

Nghịch Thiên

Nghịch thù

 

NGHIÊM

Nghiêm

Nghiêm chánh

Nghiêm chỉnh

Nghiêm đường

Nghiêm hình

Nghiêm huấn

Nghiêm khắc

Nghiêm Lăng

Nghiêm lệnh

Nghiêm luật

Nghiêm Lữ

Nghiêm minh

Nghiêm nghị

Nghiêm nhặt

Nghiêm phụ

Nghiêm tịnh

Nghiêm thiết

Nghiêm trang

Nghiêm trị

Nghiêm trọng

Nghiêm trừng

 

NGHIỄM

Nghiễm nhiên

 

NGHIÊN

Nghiên

Nghiên bút

Nghiên cứu

 

NGHIỀN

Nghiền

Nghiền ngẫm

 

NGHIÊNG

Nghiêng

Nghiêng đổ

Nghiêng mình

Nghiêng ngửa

Nghiêng sụp

Nghiêng triềng

Nghiêng vai

 

NGHIỆP

Nghiệp

Nghiệp báo

Nghiệp cả

Nghiệp căn

Nghiệp chướng

Nghiệp duyên

Nghiệp hồng

Nghiệp khiên

Nghiệp nhà vong phế

Nghiệp nhân

Nghiệp quả

 

NGHIỆT

Nghiệt

Nghiệt ác

Nghiệt báo

Nghiệt cảnh

Nghiệt Cảnh Ðài

Nghiệt căn

Nghiệt chướng

Nghiệt oan

Nghiệt trái

Nghiệt trần

 

NGHIÊU

Nghiêu

Nghiêu đế cầu hiền

Nghiêu thiên Thuấn nhựt

Nghiêu Thuấn

 

NGHÌN

Nghìn

 

NGHINH

Nghinh

Nghinh hôn

Nghinh ngang

Nghinh phong

Nghinh Phong Đài

Nghinh tân tống cựu

 

 

 

 

 

 

 

 

NG-NGH

 

NGA

1.- Nga là đẹp tốt, chỉ người con gái đẹp đẽ. Như: Tiên nga, tố nga.

Nguyễn Du trong Truyện Kiều có câu: Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.

Tiên nga vũ khúc Nghê thường,

Nhờ La Công Viễn gậy trường phong đưa.

(Báo Ân Từ).

2.- Nga , do chữ “Hằng nga 嫦 娥” là người con gái đẹp tương truyền ở cung nguyệt, dùng để chỉ mặt trăng.

Như: Bóng nga, gương nga.

Để chường thân Ngọc thêm huyền ảo,

Cho lộ gương nga ngắm tuyệt vời.

(Thơ Vân Mai).

3.- Nga là con ngài, một loại sâu, tựa như con tằm.

Trong văn chương, người ta thường ví nét lông mày của phụ nữ đẹp như hình con ngài, nên gọi là “Nga my 蛾 眉”, tức mày ngài, hay mày tằm.

Trau giồi cho xứng phận nga my,

Tấn thối riêng lo kịp thế thì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

4.- Nga là cao vòi vọi, núi cao.

Như: Trông Toà Thánh giống như Bạch Ngọc Kinh Nguy nga, tráng lệ.

Ðẹp thay đây cõi Niết Bàn,

Kinh đô Cực Lạc rỡ ràng nguy nga.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

5.- Nga là tên gọi tắt của nước “Nga La Tư 俄 羅 斯”, một quốc gia lớn ở phía Tây Bắc Âu Châu và phía Bắc Á Châu, còn gọi là Nga Sô.

Như: Quốc gia Nga là một liên bang, dân tộc Nga.

Kế Mỹ võ trang cho kẻ mạnh,

Mưu Nga lòn lỏi giúp dân cùng.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGA HOÀNG NỮ ANH

娥 皇 女 英

Nga HoàngNữ Anh là hai người con gái yêu thương của vua Nghiêu.

Theo Kinh Thư, khi nghe ông Thuấn là người hiếu nghĩa, vua Nghiêu muốn truyền ngôi cho, nên gả hai nàng công chúa Nga Hoàng và Nữ Anh để xem cách tề gia của ông Thuấn. Ông Thuấn bèn lấy ngũ điển ra cư xử trong ngoài, vua Nghiêu thấy được bèn nhường ngôi lại cho ông Thuấn. Khi Thuấn lên ngôi phong cho Nga Hoàng làm Hoàng hậu, Nữ Anh làm Hậu phi.

Sau vua Thuấn đi tuần thú và băng ở đất Thương Ngô, hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm vua, đến sông Tiêu Tương ngồi khóc, nước mắt rơi vào hàng tre dọc ven sông, sau tre đó hoá thành tre đồi mồi, gọi là Tương Trúc. Tương truyền sau khi khóc, hai bà trầm mình xuống sông Tiêu Tương mà chết.

Xưa Nga Hoàng lại với Nữ Anh,

Theo vào chốn điền canh cùng ông Thuấn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGA MY

蛾 眉

Nga: Con bướm do tằm hoá ra. My: Lông mày.

Lông mày phụ nữ đẹp thì phải nhuyễn và cong vút, giống như râu của con bướm tằm (tức con ngài).

Nga my là mày ngài, dùng để chỉ người đàn bà, con gái đẹp.

Trong cổ thi có câu: Hoàng kim bất tích mãi nga my 黃 金 不 惜 買 蛾 眉, nghĩa là vàng ròng chẳng tiếc đem mua mày ngài.

Trau dồi cho xứng phận nga my,

Tấn thối riêng lo kịp thế thì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGA NỮ

Nga Nữ tức là Nga Hoàng và Nữ Anh, hai người con gái của vua Nghiêu, gả cho Thuấn.

Sau vua Thuấn đi tuần thú và băng ở đất Thương Ngô, hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm vua, đến sông Tiêu Tương ngồi khóc, nước mắt rơi vào hàng tre dọc ven sông, sau tre đó hoá thành tre đồi mồi, gọi là Tương Trúc.

Xem: Nga Hoàng Nữ Anh.

Phụng hoàng trái chín ăn thong thả,

Nga Nữ giọt hồng nhuộm tốt tươi.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGÀ

1.- Ngà là răng nanh của loài voi, mọc chìa dài ra ngoài hai bên miệng, có chất trắng đẹp, quý, dùng làm đồ trang sức hoặc đồ dùng trong gia đình.

Như: Đũa ngà, hộp ngà, lược ngà, giường ngà, ngọc ngà châu báu.

Ngà ngọc chưa phen đổi đức tài,

Giá trong ai dám độ nên hay.

(Đạo Sử).

2.- Ngà còn dùng để chỉ thân hình hoặc bóng dáng của người đàn bà đẹp.

Như: Thân hình ngà ngọc, mình ngà vóc ngọc, bóng ngà nữ dung.

Vợ con thay phận mẹ già,

Nuôi con mẹ cậy bóng ngà nữ dung.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Tục thường ví Nữ Nam như lửa nước,

Dựa mình ngà nhịn được mới là hay.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGẢ

1.- Ngả là nẻo, phía, hướng. Như: Đi về ngả nào, ngả ba đường cái, ngả rẽ tâm tình.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thanh Tâm Tài Nữ có đoạn nói: Vì em có nhơn duyên nơi nước Anh. Em đầu kiếp xuống đây để đứng ngả ba đường đón Ðức Chí Tôn. Nếu có quên, nhờ quý anh nhắc, thức tỉnh em nhớ.

Vòng xây chuyển vong hồn tấn hoá,

Nương xác thân hiệp ngả Càn khôn.

(Tận Độ).

Nếu là kẻ biết phân chơn giả,

Khá đưa nhau khỏi ngả đoạ đày.

(Nhị Nương Giáng Bút).

Điềm phúc ứng dê xanh qua cửa,

Bỗng rẽ phân hai ngả Sâm Thương.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

2.- Ngả là nghiêng xuống, hạ xuống, dồn, giết. Như: Ngả cây, xiêu ngả, ngả mũ chào, ngả heo bò để cúng tế.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chủ nghĩa duy vật đã thâm nhập vào não cân của Lạc Hồng khiến cho quốc tuý điêu tàn, nền Nhân xiêu ngả và chính vì để cứu vãn tình trạng nguy hại đó mà Ðức Chí Tôn giáng lập Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Cội Bắc chim về chiều ngả bóng,

Non Nam ác lố ánh tan sương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGẢ NGỚN

Ngả ngớn là ngả nghến, có dáng điệu, cử chỉ không nghiêm chỉnh, không đúng đắn.

Như: Bé gái con nhà ai mà ngả ngớn quá vậy, ăn nói tía lia mà lại ngả ngớn.

Đổ ngọc chị Hằng cười ngả ngớn,

Trông hoa dì gió ngủ thiu thiu.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

NGẢ NGHIÊNG

Ngả: Nghiêng, hạ xuống. Nghiêng: Lệch về một bên.

Ngả nghiêng là lúc ngả sang bên nầy, lúc nghiêng sang bên kia; thường dùng để chỉ sự dao động, không vững vàng.

Như: Ngả nghiêng trước gió, nằm ngả nghiêng.

Cây đứng bên thềm, gió ngả nghiêng,

Người tu khó thoát khỏi danh quyền.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

NGÃ

1.- Ngã là té, sụp, đổ lăn xuống đất. Như: Ngã lăn cù, trượt chân ngã.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy dạy các con một điều là biết tranh đấu cùng Thầy. Hễ nó tấn thì mình chống, cân sức cho bằng hay là trổi hơn mới đắc thắng. Các con chịu nổi thì Ðạo thành, còn các con ngã thì Ðạo suy. Liệu lấy!

Đồng bào chi phối phân trăm mảnh,

Xã hội lộn ngầu ngã tứ tung.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Ngã là ta, tao, tiếng chỉ về mình. Như: Ngã chấp, ngã kiến, ngã tướng.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn có câu: Ngã vấn cổ ngữ hữu ngôn, Thiên tâm vô ngữ luật tại trị thế, nhơn nhơn bất tu bất thành Ðạo, tu giả hà vi tu giả độ nhơn, độ nhơn độ kỷ, độ kỷ độ Cửu Huyền Thất Tổ, thị chi hiếu giả, ngã thường giáng cơ tại thử.

Ngã vấn chư nhu hà thủ tạo?

Kỉnh Ngô vi chủ, Ðạo như hà?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Khương ninh nhứt kiếp tại Thiền môn,

Khả chí tâm tu ngã độ hồn.

(Đạo Sử).

 

 

NGÃ CHẤP

我 執

Ngã: Cái ta, cái tôi. Chấp: Nắm, nắm chặt.

Ngã chấp là chấp cái Ta, còn gọi là ngã kiến hay thân kiến, cho rằng Ta là thân nầy, đồng nhất Ta với thân nầy.

Đạo Phật chủ trương thuyết vô ngã, nghĩa là chẳng có một chủ thể có thể gọi là độc lập, thường còn.

Con người chỉ là tập hợp của ngũ uẩn, năm uẩn nầy thay đổi từng giây từng phút, ở trong năm uẩn đó không có gì gọi là Ta hay của Ta thường còn bất biến cả.

Chính vì chúng sinh chấp cái thân ngũ uẩn nầy là Ta hay của Ta, tức là “Ngã chấp” là nguồn gốc phiền não, khổ đau và luân hồi sanh tử. Khi vượt qua lòng ngã chấp, thể nhập được chân tánh bình đẳng của vạn sự, vạn vật, thì sẽ không còn bị sống chết, khổ đau, sợ hãi chi phối.

Vị kỷ là ngã chấp, nghĩa là chấp cái bản ngã.

(Thiên Đạo).

 

 

NGÃ GỤC

Ngã: Té, sụp, đổ lăn xuống đất. Gục: Gập hẳn đầu xuống, gẫy gập xuống.

Ngã gục là té gục đầu xuống. Như: Đi cầu thang bị mất thăng bằng bị ngã gục xuống đất.

Hận tràn sông máu núi xương,

Muôn thây ngã gục chiến trường hy sinh.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

NGÃ KIẾN

我 見

Ngã: Cái ta, cái tôi. Kiến: Thấy, ý kiến.

Ngã kiến là là ý kiến về riêng mình, đối với ý kiến của người khác.

Trong sách Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng giải về “Ngã kiến” có viết như sau: Ngã kiến nghĩa là chấp lấy ý kiến của mình là chí thiện, rồi chẳng học hỏi chi nữa. Kinh Phật chép bọn người mù xem voi: Người thứ nhứt rờ đuôi voi, rồi bảo rằng voi giống cây chổi. Người thứ hai rờ chân voi, rồi bảo rằng voi giống cây cột.. Mỗi người quả quyết cái biết của họ là đúng. Người sáng nghe thấy bọn mù thì buồn cười. Thế mà họ hiu hiu tự đắc. Người đời, nếu căn cứ theo cái mê lầm của Mạt Na Thức mà nhận định sự vật (chư pháp) thì chẳng khác nào nhóm người mù biết voi.

Là vì, hễ còn ôm ấp cái Ta, là còn cố chấp ngã kiến, nên không thế nào tìm ra Chơn lý.

(Thiên Đạo).

 

 

NGÃ LÒNG

Ngã: Không giữ vững được tinh thần ý chí do không chịu nổi tác động từ ngoài. Lòng: Lòng dạ.

Ngã lòng là không còn giữ được ý chí, quyết tâm trước những khó khăn, thử thách.

Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ, vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước.

Đừng thối chí ngã lòng trở gót,

Để cho đời chua xót tình thương.

(Kinh Tận Độ).

 

 

NGÃ TƯỚNG

我 相

Ngã: Ta, chỉ về mình. Tướng: Hình tướng.

Ngã tướng là hình tướng của ta, ý chỉ cái hình tướng nầy là vật chất, là giả tạm, khuyên người tu hành không nên cố chấp.

Như: Hiểu thấu đạp Phật thì không còn có ngã tướng.

Ðức Chí Tôn cho biết, trí thức và linh hồn trọng yếu do căn nguyên của sự sanh hoạt của nó định cái ngã tướng cho ta.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGẠ QUỶ

餓 鬼

Ngạ: Đói. Quỷ: Yêu tinh, ma quỷ.

Ngạ quỷ là quỷ đói. loài quỷ đói có hình dạng luôn luôn biến hoá.

Ngạ quỷ còn là một trong sáu nẻo luân hồi của đạo Phật, gọi là Lục đạo.

Ngạ quỷ là một hạng chúng sanh bị đoạ trong tam ác đạo của Lục đạo luân hồi. Ngạ quỷ còn là thế giới của sự đói khát. Trạng thái tinh thần lúc các dục vọng nảy sinh trong trí óc của chúng ta.

Khi hồn lìa khỏi trần gian,

Hoá ra ngạ quỷ cơ hàn khổ thân.

(Kinh Sám Hối).

 

 

NGẠ QUỶ VÔ THƯỜNG

餓 鬼 無 常

Ngạ quỷ: Quỷ đói. Vô thường: Không thường có, ý nói luôn luôn biến hoá.

Ngạ quỷ vô thường là loài quỷ đói có hình dạng luôn luôn biến hoá.

Xem: Ngạ quỷ.

Hồn ma bóng quế cũng lên ngồi, mà ngạ quỷ vô thường cũng xẩn bẩn, đó là phương đem đường cho Quỷ vương, chẳng một ai tránh được, nghe!

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGẠC KÌNH

鱷 鯨

Ngạc: Con cá sấu. Kình: Con cá voi.

Ngạc kình là cá sấu và cá voi, hai loài có thân mình to lớn, dũng mãnh và hung dữ.

Ngạc kình được dùng để chỉ sự to lớn, hay bọn giặc cướp, hung tợn.

Ngạc kình đâu dễ đem nuôi chậu,

Hồng hộc không ưa để nhốt lồng.

(Thơ Hộ Pháp).

Thú quê riêng chuộng miền sơn cước,

Bể hoạn buồn đua sức ngạc kình.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGẠC NHIÊN

愕 然

Ngạc: Kinh hãi. Nhiên: Như vậy, vốn sẵn.

Ngạc nhiên là ngơ ngác lấy làm lạ, tức cảm thấy hoàn toàn bất ngờ đối với mình. Như: Thấy việc vừa xảy ra mà trong lòng ngạc nhiên.

Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Có lẽ chư đạo hữu vẫn ngạc nhiên vì Bần Đạo đến thình lình, mà chư đạo hữu không để tâm trước đó chăng?

Cả Ngọc Hư chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều ngạc nhiên sự lạ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGẠCH

1.- Ngạch tấm gỗ bắc ngang phía dưới, làm bậc cửa để gắn cánh cửa vào.

Như: Ngạch cửa, ngạch thềm, đào ngạch khoét vách.

Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,

Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Ngạch là hạng, thứ bậc, tức hệ thống sắp xếp có thứ tự theo từng loại, do nhà nước quy định.

Như: Ngạch thuế, ngạch quan lại, ngạch lính.

Dường như là một nghề bị đời khinh rẻ, so sánh với các phẩm bậc quan viên có quyền thế trong các ngạch khác.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGAI

1.- Ngai là ghế ngồi có tay vịn dành để vua ngự khi thị triều. Như: Ngai vàng, ngai rồng, ngai vua.

Thánh giáo Thầy có câu: Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Ðộ, Quỷ Vương đã khởi phá khuấy chơn đạo, đến danh Ta nó còn mượn, duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.

Thương kẻ nhơn sanh hơn xác thịt,

Chẳng lo cầu cạnh cũng ngồi ngai.

(Đạo Sử).

Dầu mình sang ngự điện ngồi ngai,

Cũng nhớ thuở mẹ chằm gai cha kết lá.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ngai, nghĩa rộng là chỉ ghế để thờ. Như: Ngai Giáo Tông, ngai Chưởng Pháp, ngai Đầu Sư.

Thánh giáo Chí Tôn dạy Ngài Kiệt có câu: Thầy giao cho con phải săn sóc, mướn thợ làm bảy cái ngai: Một cái trọng hơn cho Giáo Tông, ba cái cho ba vị Chưởng Pháp, ba cái cho ba vị Ðầu Sư, nhứt là cái ngai của Giáo Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ Tứ Linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng, còn của Chưởng Pháp chạm hai con Phụng, của Ðầu Sư chạm hai con Lân.

Trong có bảy chiếc Ngai vàng ánh,

Chạm Tứ linh vi cánh đẹp thay.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

NGAI THẦN

Ngai: Chỗ ngồi của các Đấng Thiêng liêng. Thần: Bậc Thần, Thần Thánh.

Ngai Thần đồng nghĩa với ngôi Thần, chỉ người tu đắc quả vị Thần. Ngài Thần còn dùng để chỉ ngai vị trên cõi thiêng liêng.

Xem: Ngôi Thần.

Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo,

Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

NGAI VÀNG

Ngai: Ghế của nhà vua ngồi. Vàng: Chỉ sự quý báu, sắc vàng cũng là màu dành riêng cho vua.

Ngai vàng là ngôi báu, tức là chỉ chỗ ngồi của nhà vua được đặt trong triều đình.

Như: Lật đổ ngai vàng.

Thân vua còn phải lánh ngai vàng,

Huống khách phàm trần lại thở than.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

Sang thì giữ vững ngai vàng,

Hèn thì trừ đảng bạo tàn hại dân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Bập bồng Tần quốc tan hoang,

Hoàng cung không chúa, ngai vàng không vua.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

 

 

NGÀI TRẦM

Ngày xưa có một người họ Trầm nơi xứ Ấn Độ giàu sang tột bực, hưởng một gia tài rất lớn, nên ông muốn làm một việc gì đó để có uy thế và được người ta trọng vọng. Ông bèn xuất tiền ra cất trường, rồi tập họp các em trong làng đến học. Ông đứng ra dạy học, chẳng những không thâu học phí, mà còn tặng cho tập vở viết mực và quần áo v.v...

Việc làm từ thiện của ông Trầm được đồn vang khắp huyện, nhân dân rất mến mộ và kính trọng ông. Quan phủ nghe danh, cho mời ông đến nói: Tôi làm quan đã lâu, uy quyền tôi có đủ, nhưng tôi thiếu sự thân thiết và mến mộ của dân, tôi muốn làm điều đó.

Ông Trầm nói: Muốn làm điều đó phải có tiền bạc, phương tiện để giúp dân. Nếu quan muốn làm, tôi sẵn sàng nhường nửa phần gia tài còn lại của tôi cho quan làm việc nghĩa. Thế là quan phủ dùng nửa phần gia tài của ông Trầm giúp đỡ cho dân chúng trong phủ, nên từ đó danh tiếng của ông Trầm và quan phủ thường gắn liền nhau. Mỗi khi gặp ông Trầm hay quan phủ người ta đều thưa: “Ngài Trầm Quan lớn”.

Ông Trầm đã hết tiền vì làm việc nghĩa, do đó ông lặng lẽ đi xứ khác để làm ăn. Biệt tích trong một thời gian, ông lại trở về, vào gặp quan phủ nói: Tôi hết gia sản nên tìm xứ khác làm ăn. Tôi vào làm việc cho vị phú thương, vị này hiện bị quan phủ bắt vì tội buôn vàng trái phép. Quan phủ nói: Đúng rồi, ông ấy mới khai việc buôn vàng trái phép đó. Ông Trầm nói: Nếu ông chủ tôi nhìn nhận tội thì quan theo luật pháp mà xử, tôi không dám cầu xin tha cho ông ấy.

Dân chúng trong làng hay tin việc này, bèn cử một vị bô lão đến gặp quan phủ nói: Ông phú thương nhận tội là một người thật thà, ông Trầm thấy chủ phạm tội, không dám xin tha, ấy là người đáng kính, còn quan lớn giữ phép nước là người đáng tôn. Chúng tôi thay mặt mọi người trong phủ xin lãnh tội mà tha cho vị phú thương. Ông phú thương được tha, trở về xứ rất cảm động trước tình cảm của dân chúng đối với ông Trầm nên tình nguyện chia đôi tài sản cho ông Trầm để làm việc nghĩa.

Trên hành lang về phía sau Báo Ân Từ, Đức Hộ Pháp có cho vẽ một bức tranh lấy tích “Ngài Trầm Quan lớn” để tỏ ý cho thấy tình thương thay cho pháp luật.

Ngài Trầm lập nhà trường dạy dỗ,

Của tiền cho kẻ khổ trong làng.

Gia tài giao nửa huyện quan,

Trẻ thơ thấy mặt hô vang kính chào.

(Báo Ân Từ).

 

 

NGẢI

Ngải là một loại cây giống cây nghệ, có lá và củ lớn hơn cây nghệ.

Ngải còn là thứ thuốc uống vào thì bị mê hoặc.

Như: Người Miên nhiều bùa ngải, anh ta lở mình vì bị mắc ngải, bỏ bùa bỏ ngải.

Chừng ấy muốn biết ai khôn dại,

Tra cho chồng cục ngải cứng mồm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÃI

Ngãi, do chữ “Nghĩa 義” đọc trại ra, là điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế.

Như: Nhân ngãi, đạo ngãi, trọng ngãi khinh tài, trọng tình trọng ngãi.

Xem: Nghĩa.

Ngãi nhân cam phận chịu bần hàn,

Mình biết trọng mình mặc kẻ sang.

(Đạo Sử).

Đừng cậy sắc dọc ngang búng rảy,

Dầu ngu si cũng ngãi vợ chồng.

(Bát Nương Giáng Bút).

Có đâu lẽ cho trai cho gái,

Phải nhớ câu nặng ngãi sanh thành.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGẠI

1.- Ngại là ngăn trở. Như: Đi đường không gặp trở ngại, chướng ngại.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Bấy lâu vì lẽ công bình Thiên đạo, nên các con chịu lắm điều đau đớn, mà cũng vì không biết tu luyện cái chí cao thượng của Thầy ban cho, cứ một lối thấp hèn quanh quẩn, chẳng cho trí não ra khỏi vòng mờ tối, cho nên bước đường hoá nên trở ngại mà lâu tấn bộ.

Nên nghiệp đôi khi chưa tính trước,

Năm tròn trở ngại có mùa Ðông.

(Đạo Sử).

2.- Ngại là e, sợ, tức cảm thấy không yên lòng, hoặc muốn tránh vì nghĩ rằng điều không hay có thể xảy đến.

Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Các con chớ ngại, ngày nay, Ðạo khai tức Tà khởi. Vậy thì các con phải hết lòng hết sức mà gìn giữ lấy mình, đã chẳng phải giữ mình các con mà thôi, lại còn gìn giữ cả môn đệ Thầy nữa.

Càng nghĩ đến linh đinh phận thiếp,

Càng ngại lo tội nghiệp thân con.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Cảnh thịnh không vinh mà chẳng nhục,

Đường đời ngại núi lại e sông.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGẠI NGẦN

Ngại: E, sợ, cảm thấy không yên lòng vì cho rằng có thể xảy ra điều không hay.

Ngại ngần, như chữ “Ngần ngại”, là có điều e ngại, nên còn đắn đo chưa dám.

Như: Có điều muốn nói, nhưng còn ngại ngần.

Xem: Ngần ngại.

Một ngày qua khỏi không lui lại,

Kẻ bước khỏi tu hết ngại ngần.

(Đạo Sử).

Trở về cố lý dạ lâng lâng,

Vui cảnh đoàn viên chẳng ngại ngần.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

NGẠI NGÙNG

Ngại: E, sợ.

Ngại ngùng là e sợ, ngần ngại. Như: Mới đến nhà chơi nên còn ngại ngùng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu nền độc lập nước Việt Nam bền vững hay chăng, Bần Đạo không ngại ngùng không thẹn thuồng nói: Năng lực bảo vệ nền độc lập nước nhà các con được vinh hiển bền bĩ hay không là do nơi năng lực quốc tế mà thôi.

Thà xưa ví bẳng nay gìn vậy,

Lòng Mẹ ngại ngùng, con hỡi con!

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Xà inh con chớ ngại ngùng chi,

Các việc con xin ý đặng tuỳ.

(Đạo Sử).

Biết bao nhiêu mặt anh hùng,

Sao không trở lối, ngại ngùng sao nên.

(Nhị Nương Giáng Bút).

 

 

NGAY

1.- Ngay là thẳng, chính, không lệch. Như: Cây ngay, lòng ngay, tình ngay lý gian, ngay cửa kính mà chọi đá.

Thánh giáo Thầy có câu: Nguồn Tiên, đạo Thánh dìu bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẻo vạy, bước đường ngay, mà lần vào nơi Cực Lạc an nhàn, rừng tòng suối lặng, động thẳm non xanh, để mình vào bực thanh cao, thoát khỏi chốn luân hồi ràng buộc.

Phận làm tớ thật thà trung tín,

Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.

(Kinh Sám Hối).

Gặp được nẻo ngay, đời có mấy?

Thìn lòng khối ngọc tạo nên gương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Ngay là liền sau đó, không chậm trễ.

Như: Đưa ngay vào bệnh viện, tôi đã biết ngay mà, ngay sau đó đi liền một mạch.

Nó không bền, thường thường bị hư hỏng và tiêu tan ngay sau khi người đã được nó tặng bị cướp mất sự sống.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGAY CHÁNH

Hay “Ngay chính”.

Ngay: Thật thà, không gian dối. Chánh (chính): Rất ngay thẳng, rất đúng đắn về mặt đạo đức.

Ngay chánh (chính), đồng nghĩa với “Ngay thẳng”, tức thật thà, không gian dối.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Chơn Cực Lão Sư có dạy: Ngày nào Ðạo nơi đây chưa hoà, người nơi đây chưa đủ sức kềm chế lấy nhau, và chưa đủ tinh thần ngay chánh, chỉ nẻo dẫn đàng, người Ðạo chưa phế được tham danh chác lợi, thì ngày ấy Ðạo nơi đây chưa gọi là trọn thành, thì cũng chưa một ai mong khởi công mà tầm địa vị thiêng liêng được.

Non Thần tiếng hạc chầu vang đảnh,

Chờ rước người ngay chánh dẫn đường.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

NGAY THẲNG

Ngay: Thẳng, chỉ sự thật thà không gian dối. Thẳng: Không kiêng nể, không che giấu, dám nói lên sự thật.

Ngay thẳng là ngay thật và theo đúng lẽ phải, không gian dối, không thiên vị.

Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có viết: Thành thật với mọi người, dầu trong đạo hay ngoài đời cũng vậy, trong tất cả hành vi động tác, nhứt nhứt đều ngay thẳng thật thà; không một lời giả dối, không một ý tà tây; xử sự chẳng mưu mô lừa đảo. Đó là chí thành.

Gìn lòng ngay thẳng thật thà,

Nói năng minh chánh lời ra phải nhìn.

(Kinh Sám Hối).

Bề trong ngay thẳng tỏ bề ngoài,

Miệng chánh thì đời vốn trái tai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGAY THẬT

Ngay: Thẳng, không gian dối. Thật (thực): Ngay thẳng, không giả tạo, không dối trá.

Ngay thật là thật thà, không dối trá.

Thánh giáo Thầy có dạy: Những kẻ nào đã vì tà tâm mà để cho nhơ bợn chơn linh, cho lũ tà khuấy rối, thì chẳng khi nào được trọn tinh thần ngay thật như xưa mà dìu dắt ai cho chánh đáng.

Hạnh ngay thật là nét yêu dấu của Thầy, con nghe!

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGÀY

1.- Ngày là chỉ một khoảng thời gian từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, trái với đêm. Như: Ngày chẳn, ban ngày, ngày lễ, ngày nghỉ, ngày thường.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh. Thầy nôn nóng nhưng mà Thiên cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở.

Trần khổ dầu ai chơn muốn lánh,

Ngày thành Chánh quả có bao lâu?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nhiều đứa dại muốn sang đủ thứ,

Chẳng kể cha bạc cữ tiền ngày.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ngày là chỉ một khoảng thời gian không xác định, nhưng là nhiều ngày, tháng hoặc năm. Như: Ngày xưa, ngày thơ ấu, ngày trước, ngày mai.

Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho Thần hiệp Tinh, Khí đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.

Gìn lòng tu niệm cho bền chí,

Bồng Ðảo ngày sau đặng hiệp vầy.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mừng thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,

Bởi đức ngày xưa có buổi nay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Ngày là ngày cụ thể được xác định để ghi nhớ, kỷ niệm về một sự kiện nào đó. Như: Ngày quốc khánh, ngày xuân, ngày tết, ngày sinh, ngày giỗ.

Bát Nương Diêu Trì Cung trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Em cho biết, phàm mỗi năm, những vị nào trong lúc ngày Xuân, biết lo phụng sự Thần, Thánh, Tiên, Phật thì công đức đặng xấp bằng hai lần ngày thường.

Uống nước thì ta phải nhớ nguồn,

Tháng ba ngày giỗ Tổ Hùng Vương.

(Thơ Chơn Tâm).

Ngày giỗ vẽ lên ngày kỷ niệm,

Tấc lòng hoài vọng há phân vân.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

NGÀY NAY

Ngày: Chỉ khoảng thời gian 24 giờ. Nay: Hiện giờ.

Ngày nay là thời bây giờ, thời buổi hiện tại.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Các con có cả ba Chánh đạo là Tam giáo, các con biết tôn trọng, ngày nay lại thêm Chánh đạo nữa, các con biết ít nước nào đặng vậy?

Ngày nay Đệ tử khẩn nguyền,

Chín tầng Trời, Đất thông truyền chứng tri.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,

Chín bệ ngày nay quỷ nhảy đầm.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

NGÀY NGHIÊU THÁNG THUẤN

Ngày Nghiêu tháng Thuấn, đồng nghĩa với câu: “Nghiêu thiên Thuấn nhật 堯 天 舜 日”, chỉ ngày tháng dưới triều Nghiêu Thuấn, ý chỉ đời thạnh trị.

Thời Thượng cổ, dưới triều đại của vua Nghiêu Thuấn, đời sống nhân dân an cư lạc nghiệp, đất nước thái bình thịnh trị, người không tham lam, xã hội không trộm cướp. Do vậy, sách mới nói thời đó: Gia vô bế hộ, lộ bất thập di 家 無 閉 戶, 路 不 拾 遺, tức là nhà không đóng cửa, đường không lượm của rơi.

Người đời sau mới dùng câu “Nghiêu thiên Thuấn Nhật” hay “Ngày Nghiêu tháng Thuấn” ca tụng đời thái bình thịnh trị.

Ngày Nghiêu tháng Thuấn, đời an lạc,

Khỏi bận tranh đua chốn mạt hèn.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

NGÀY SAU

Ngày: Khoảng thời gian không xác định, nhưng là nhiều ngày, tháng hoặc năm. Sau: Nối theo, tiếp theo.

Ngày sau là ngày tiếp theo sau đó.

Ngày sau thường dùng để chỉ tương lai xa, sau nầy.

Thánh giáo Đức Tiêu Sơn Đạo Sĩ có câu: Nếu chư đạo hữu biết quyền phận mình, nên giữ đừng cho phạm đến danh dự chung, ấy là giữ cơ mầu nhiệm của Ðạo cho ngày sau đó.

Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,

Ngày sau toại hưởng trọn Thiên ân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trông ơn Thượng Ðế tuông rời rộng,

Sum hiệp ngày sau cũng một trường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGÀY THÁNG

Ngày: Chỉ khoảng thời gian bằng 24 giờ. Tháng: Chỉ khoảng thời gian bằng 30 ngày.

Ngày tháng là ngày và tháng, dùng để chỉ thời gian. Ngày tháng còn có chỉ khoảng thời gian trong quá khứ không xác định.

Thánh giáo Thầy có câu: Ngày tháng vẫn mỏi mòn, mà đường Ðạo nhắm còn dài đăng đẳng. Một xuân qua là một dặm đường phải bước tới, mà Thầy ngảnh lại bước đường của môn đệ, Thầy vẫn thấy sụt sè chớ chưa thấy chi có mòi tấn phát.

Việc sanh tử như dường chớp nháng,

Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.

(Kinh Sám Hối).

Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,

Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Quang âm ngày tháng dập dồn,

Ngừa khi trễ bước hoàng hôn trở đường.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

NGÀY XƯA

Ngày: Chỉ khoảng thời gian không xác định, nhưng là nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Xưa: Đã quá lâu.

Ngày xưa là chỉ thời đã qua, cách thời nay rất lâu.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðưa nhau bằng lời nói, đó là phẩm cách của những bậc hiền triết ngày xưa. Hội Thánh xin để lời khuyên nhủ quý bạn nên thận trọng gìn giữ phận sự.

Con ôi! Khá tâm bền sức gắng,

Những lời vàng Mẹ dặn ngày xưa.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Công quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,

Nợ trần bước tục phải đua chen.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGÁN

Ngán là chán đến mức không còn thiết nữa. Như: Ngán thịt mỡ, ngán việc đó rồi, nghĩ đời mà ngán cho đời.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Công đã nhiều mà bước tới nữa dường như ngán bước, gặp sự gay go đã mỏn lòng. Than thay! Tiếc thay!

Dài đường chớ ngán con Kỳ Ký,

Ngược gió đừng nao cánh Hộc Hồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngán thay cái kiếp con người,

Thôi đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGÁN LÒNG

Ngán: Chán nản, không thèm muốn, ngại đến mức sợ. Lòng: Lòng dạ, tượng cho tâm lý, tình cảm.

Ngán lòng là vì sợ sự nguy hiểm hay sự gian khổ mà ngại đến mức lòng muốn chán nản, muốn tránh né.

Xưa sanh linh lắm lần hy sinh vì Ðạo, song chẳng đặng ân tứ cho bằng các môn đệ Thầy ngày nay, các con còn chi hơn nữa mà ngán lòng dừng bước.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGÁN NGẨM

Ngán: Chán nản, thối chí.

Ngán ngẩm là chán ngán, ngã lòng, tức ở trạng thái không còn thèm muốn, không còn thiết tha tới nữa.

Như: Tâm trạng nó chán chường, ngán ngẩm.

Cuộc thế lạnh lùng làn gió lọt,

Ðường đời ngán ngẩm bụi trần lồng.

(Đạo Sử).

Tỉnh giấc đường quan ngán ngẩm duyên,

Ðôi bên phận nghĩa khó như nguyền.

(Đạo Sử).

 

 

NGÀN

1.- Ngàn là rừng núi. Như: Lên ngàn, vượt suối băng ngàn, đốn tre đẳn gỗ trên ngàn.

Nói về tiểu sử Đức Hộ Pháp, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Chim bằng đã dưỡng sức từ bấy lâu nay chớp cánh bay tận bốn phương trời, mặc sức vẫy vùng giữa chốn ngàn mây dặm gió.

Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,

Bận lòng con lại vấn nô y.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Thanh thoát rừng thung tiếng gió ngàn,

Muôn hồng ngàn tía báo Xuân sang.

(Thơ Thượng Sanh).

2.- Ngàn, còn đọc là “Nghìn”, là số đếm, bằng mười trăm. Như: Mấy mươi ngàn, hơn một trăm ngàn.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy lấy làm đau đớn hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhơn loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.

Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,

Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,

Rán tập thành sửa tánh từ hoà.

(Kinh Sám Hối).

 

 

NGÀN CAY MUÔN ĐẮNG

Ngàn (nghìn) cay: Chịu lắm vị cay, ý chỉ điều gian nan, đau đớn. Muôn đắng: Nhận nhiều vị đắng, ý nói nỗi vất vả, cực nhọc.

Ngàn cay muôn đắng, như chữ “Nghìn cay muôn đắng”, ví với nhiều nỗi gian nan, đau đớn và khổ sở.

Thầy nhớ xưa, kẻ mộ Ðạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhọc mình...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGÀN DÂU

Ngàn: Rừng núi. Dâu: Cây dâu xanh.

Ngàn dâu là rừng dâu xanh.

Ngàn dâu, bởi chữ “Mạch thượng tang 陌 上 桑” là dâu trồng bên đường.

Ngày xưa ở thôn quê người ta thường hay trồng dâu dọc theo hai bên lộ, nên đường đi dâu xanh thẳng tắp, nên còn gọi là ngàn dâu.

Ngàn dâu thay sắc nghiêng mình rước,

Muôn tía trao duyên chíp miệng cười.

(Lục Nương Giáng Bút).

Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,

Đêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.

(Bát Nương Giáng Bút).

Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,

Bận lòng con lại vấn nô y.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGÀN HỒNG MUÔN TÍA

Ngàn hồng: Như chữ “Nghìn hồng”, chỉ nhiều màu hồng. Muôn tía: Nói nhiều sắc tía.

Ngàn hồng muôn tía, như câu “Nghìn hồng muôn tía”, ý nói đủ các loại màu sắc đẹp đẽ.

Cây cỏ nhuần sương thêm nắng ấm,

Ngàn hồng muôn tía nước non xinh.

(Thơ Huệ Phong).

Ngàn hồng muôn tía thắm tươi màu,

Toà Thánh Hoa Viên đẹp biết bao.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGÀN TỨ MUÔN CHUNG

Ngàn (nghìn) tứ: Nghìn cỗ xe ngựa tứ. Muôn chung: Muôn chung thóc lương.

Nguyên ngày xưa bên Trung Hoa, cứ mỗi cỗ xe đóng bốn ngựa kéo, gọi là ngựa tứ. Nghìn tứ là nghìn cỗ xe.

Mỗi một chung đựng được sáu hộc đấu thóc lương, muôn chung tức là muôn lần số thóc ấy.

Ngàn tứ muôn chung, do câu “Thiên tứ vạn chung 千 駟 萬 鐘”, nói về hạng quan quyền phú quý, có hàng nghìn ngựa tứ, muôn chung lương.

Ví biết cõi trần là cõi tạm,

Cần chi ngàn tứ với muôn chung.

(Thơ Thuần Đức).

May được chi lan kề ngưỡng cửa,

Còn hơn nghìn tứ với muôn chung.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGÀN THU

Ngàn (nghìn) thu, như chữ “Thiên thu 千 秋”, là muôn đời, tức mãi mãi về sau. Như: An giấc ngàn thu.

Thánh giáo Thượng Phẩm có câu: Tuy là chỉ nghe danh thơm của những trang đạo đức lưu mãi tận ngàn thu mà không ai dễ gì có được.

Thiên cơ tuy hẳn nên trường khảo,

Lướt khỏi ngàn thu quả đắc thành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tình thâm một gánh còn dương thế,

Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.

(Đạo Sử).

 

 

NGÀN TRÙNG

Ngàn (nghìn): Số đếm, bằng mười trăm, chỉ số nhiều. Trùng: Tầng lớp chồng chất lên nhau.

Ngàn (nghìn) trùng là từ chỉ nơi xa xôi lắm, tựa như cách trở núi sông trùng trùng điệp điệp.

Làm cho sấn chí anh hùng,

Non sông trỗi bước ngàn trùng gươm đao.

(Bát Nương Giáng Bút).

Tứ hướng trung ương hầu Ngũ nhạc,

Thiên binh thần tướng đến ngàn trùng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGẠN UYỂN

岸 苑

Ngạn uyển là vườn hoa của Đức Diêu Trì Kim Mẫu nơi cõi Thiêng Liêng, do Bà Nhứt Nương Diêu Trì Cung trông coi.

Theo Thánh giáo bà Nhứt Nương Diêu Trì Cung dạy, mỗi cái hoa nơi vườn Ngạn uyển là một chơn hồn của kẻ nguyên nhân. Khi người ấy làm điều đạo đức thì sắc hoa tươi thắm, đẹp đẽ, nếu làm điều gian ác thì sắc hoa ủ dột, xấu xí. Khi người ấy chết thì hoa ấy rơi rụng hay héo tàn.

Xem: Sanh hoa đã héo.

Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo,

Khối hình hài đã chịu rã tan.

(Kinh Tận Độ).

Cô Nhứt Nương coi vườn Ngạn Uyển,

Cầm Tỳ Bà điều khiển cơ sinh.

(Quan Cảnh Toà Thánh).

 

 

NGANG

1.- Ngang là đường theo mặt nước yên lặng, đường từ tả sang hữu, đối với dọc. Như: Đường ngang, cầu bắc ngang, đi theo chiều ngang.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy giở cơ lên, các con đều chun ngang qua cho Thầy ban Phép Lành.

Cửa lầu Bát Quái chun ngang,

Hoả Tinh Tam Muội thiêu tàn oan gia.

(Kinh Tận Độ).

Gặp điều chi ví muốn hỏi han,

Cứ cửa giữ chun ngang định liệu.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ngang là bằng nhau, cân nhau, đối nhau. Như: Ngang bằng với nhau, ngang sức nhau, cao ngang nóc nhà.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.

Ðợi bóng thiều xế ngang cửa sổ,

Thành không thì cũng nội năm nay.

(Đạo Sử).

3.- Ngang là không thuận lẽ thường, mà cứ theo ý riêng của mình trong cách nói năng, đối xử.

Như: Nói ngang, làm ngang, tính rất ngang, ngang như cua, ngang ngược.

Đêm thanh vắng chớ toan mưu dối,

Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.

(Kinh Sám Hối).

Rủi đụng chồng đói khó nghèo nàn,

Đừng lấn lướt làm ngang nhiếc lúng.

(Phương Tu Đại Đạo).

4.- Ngang là cất cao lên, không chịu thua ai, không dùng một mình.

Như: Ngang nhiên, ngang tàng, hiên ngang.

Thôi thôi nín nẩm xem thời thế,

Cái chí hiên ngang chẳng rã rời.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGANG DỌC

Ngang: Theo chiều rộng, trái với dọc. Dọc: Theo chiều dài, trái với ngang.

Ngang dọc, như chữ “Tung hoành 樅 橫”, là bề ngang và dọc, nghĩa bóng chỉ sự vẫy vùng, hoặc ngang bướng.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Diêu Trì Nương Nương có dạy: Trong cửa Đạo, từ đứa tín đồ nhỏ nhoi cho đến hạng Chức sắc Cửu Trùng khiêm tốn đều chịu dưới quyền áp bức khổ tâm, kẻ rách rưới cơ hàn, đứa cơm không no bữa, cho tới lớp chiến sĩ cầm quân, biết bao nhiêu là khổ tâm, mà tiếng rên xiết đau thương mấy ai ngó ngàng đến. Ngoài ra còn thiếu giáo hoá dạy khuyên, có kẻ ngang dọc lỗi lầm, đó là chẳng phải nơi nó, mà tại thiếu dạy vậy.

Nào khi đất Việt trời ngang dọc,

Chừ lúc vùng Nam phận cúi lòn.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Anh coi tôi võng dù ngang dọc,

Sớm tới chiều chẳng nhọc công lao.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGANG TÀNG

昂 藏

Ngang: Ngẩng cao, không chịu cúi xuống. Tàng: Chứa đựng.

Ngang tàng là chứa đựng trong con người cái tính cách hiên ngang, không sợ sệt, không chịu khuất phục ai.

Như: Tính khí ngang tàng,

Vui kinh kệ tạo đầy phúc hậu,

Vui ngang tàng chớ thấu lẽ minh.

(Bát Nương Giáng Bút).

Lỡ gặp phải ông chồng ngu độn,

Đừng ỷ khôn nói hỗn ngang tàng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGẢNH

Ngảnh, như chữ “Ngoảnh”, là xoay mặt chỗ khác, hay quay về một phía nào đó.

Như: Ngảnh nhìn lại phía sau, mình gặp tai nạn anh ấy ngảnh mặt làm ngơ.

Xem: Ngoảnh.

Rốn để bước đến gần điện Thánh,

Nhìn tượng thờ lại ngảnh thân mình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Bước đường danh lợi thêm gay trở,

Ngảnh lối tang thương luống ngậm ngùi.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

NGẢNH LẠI

Ngảnh (ngoảnh): quay mặt về một phía nào đó. Lại: Trở về, đi về.

Ngảnh lại, như chữ “Ngoảnh lại”, là quay mặt để nhìn trở lại.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Ngày tháng vẫn mỏi mòn, mà đường Ðạo nhắm còn dài đăng đẳng. Một xuân qua là một dặm đường phải bước tới, mà Thầy ngảnh lại bước đường của môn đệ, Thầy vẫn thấy sụt sè chớ chưa thấy chi có mòi tấn phát.

Cô phần ngảnh lại đà bao tuổi,

Sô diện xem qua khỏi mấy dòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngảnh lại hỏi người là chắc đó,

Trăm năm là tuổi chết rồi chôn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGAO

Ngao là loài hến to, sống ở bãi cát ven bờ biển, thịt có thể ăn được.

Như: Ngao sò ốc hến, cò ngao.

ngao mãi để dành phần thắng,

Cò hăm ngao trời nắng ba ngày.

(Bao Ân Từ).

 

 

NGAO DU

遨 遊

Ngao: Rong chơi. Du: Đi chơi.

Ngao du là đi du lịch, đi chơi hay dạo khắp nơi một cách thong thả.

Như: Ngao du sơn thuỷ, ngao du khắp nơi trong vùng, ngao du Tiên cảnh.

Bước Tiên nàng đã ngao du,

Đoái tình thương kẻ ôm cầu khóc duyên.

(Kinh Thế Đạo).

Thương ai nên giữ lấy thân,

Hồi về Tiên cảnh non Bồng ngao du.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

Hồn trí ngao du trên đảnh núi,

Xác linh dao động cúi đầu truyền.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGAO ĐẦU

鼇 頭

Ngao: Một loài rùa biển. Đầu: Cái đầu.

Ngao đầu là cái đầu của con ngao, chỉ sự thi cử đậu thủ khoa (đỗ đầu).

Sau khi công khai danh sách những người thi đậu, quan Lễ bộ đưa Trạng nguyên đến trước thềm điện, đứng trên viên đá đặt ngay thềm. Nơi đó có chạm một con rồng bay và một con ngao lớn. Con rồng tượng cho nhà vua, đầu ngao chỉ người đỗ Trạng nguyên. Vì vậy, người ta gọi Trạng nguyên là người “Độc chiếm ngao đầu” tức một mình chiếm được đầu con ngao.

Sách có câu: Ngao đầu trúng tuyển quý chân quý 鼇 頭 中 選 貴 真 貴, nghĩa là chọn đúng đầu ngao thật là quý.

May thay nên lúc thủ ngao đầu,

Ðạo đức của con ý vị sâu.

(Đạo Sử).

 

 

NGAO NGÁN

Ngán: Chán nản.

Ngao ngán là buồn rầu, chán nản, không còn thấy thích thú gì nữa.

Như: Ngao ngán công việc, thấy cảnh đời hiện tại bắt ngao ngán.

Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,

Thấy thằng áp út quá buồn lòng.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Kim rời cải rụng lòng ngao ngán,

Đá nát vàng phai dạ ngậm ngùi.

(Thất Nương Giáng Bút).

Ấm lạnh tình đời, thôi biếng thốt,

Bực mình ngao ngán cuộc doanh du.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGAO TRỤ

鰲 柱

Ngao: Con trạnh, tức là một loại rùa lớn ở biển. Trong văn chương người ta thường dùng từ “Ngao đầu” để chỉ việc thi cử đỗ đầu khoa. Trụ: Cột trụ.

Ngao trụ là một từ ngữ dùng để chỉ cây cột trụ, hay núi rất cao vững chắc.

Theo “Thần Dị Kinh”, một quyển sách thần thoại của ông Đông Phương Lão Tổ, tức Đông Phương Sóc có viết lại nhiều cảnh ly kỳ.

1. Từ thuở tạo thiên lập địa, nơi núi Côn Lôn có một cây cột đồng cao ngất, được gọi là thiên trụ, dùng để chống Trời. Vào thuở ấy, có một vị nữ thần là Cung Công Thị, sức mạnh phi thường, đã xô ngã cây thiên trụ làm cho sập hết một góc Trời. con gái vua Phục Hy là bà Nữ Oa, luyện được năm thứ đá mà vá lại Trời, nên sách thường gọi “Nữ Oa luyện thạch bổ thiên 女 堝 鍊 石 補 天”.

2. Từ lúc mới tạo thiên địa, tại Bắc Cù Lư Châu, có ngọn núi Ngao Trụ rất cao, chư Thần Tiên thường ở trên núi ấy. Núi này có điểm lạ kỳ là không chơn, nổi trên mặt biển và hay trôi theo con nước. Chư vị Thần Tiên e rằng núi linh ấy trôi đi nơi khác, nên tâu xin với Vua Trời giữ núi Ngao Trụ đứng yên ở một điểm cố định. Ngọc Đế mới sai mười lăm con Cự ngao đến đỡ núi ấy, kể từ đó núi mới vững và không còn trôi đi nữa.

Do hai câu truyện trên mà sách xưa có câu: Nữ Oa luyện ngũ sắc thạch dĩ bổ thiên, đoạn ngao túc dĩ lập tứ cực 女 堝 鍊 五 色 石 以 補 天, 斷 鰲 足 以 立 四 極, nghĩa là Nữ Oa luyện đá ngũ sắc để vá trời, chặt chân con ngao để dựng tứ cực (Tứ cực là bốn nơi xa nhứt của quả đất).

Chí như ý từ,

tường ư ngao trụ.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

NGÀO NGẠT

Ngào ngạt là có mùi thơm lan toả rộng và kích thích mạnh vào khứu giác.

Khi nói về Đức Shidarta (Cakya Mouni), Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ấy là giữa chốn khổ não đau thương, Ngài lại đem tánh từ bi tự tại ra chuyên chế lòng phàm, cầu sanh chúng tương thân tương ái, thật chẳng khác nào đã khổ nơi ô trược nhớp nhơ mà Ngài đến rải mùi thơm ngào ngạt.

Mùi ngào ngạt thơm luôn Thánh thể,

Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.

(Kinh Tận Độ).

Hoa ngào ngạt mùi hương toả kín,

Cảm lòng thành Điện Thánh nương về.

(Nhứt Nương Giáng Bút).

Huệ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,

Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.

(Bài Thài Lục Nương).

 

 

NGÀO NGỌT

Ngọt: Có vị như vị của đường, mật.

Ngào ngọt, như chữ “Ngọt ngào”, là ngọt, gây cảm giác dễ chịu.

Như: Hương vị ngào ngọt, giọng nói ngào ngọt.

Huệ ngào ngọt hơi đưa vò dịu,

Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.

(Lục Nương Giáng Bút).

Văn chương nếm thử mùi ngào ngọt,

Thi phú trầm ngâm ý mặn nồng.

(Thơ Thông Quang).

 

 

NGẠO

Ngạo là kiêu căng, lờn dể, bất chấp. Như: Ngạo báng, ngạo đời, ngạo mạn, ngạo nghễ.

Điều thứ hai trong Tứ Đại Điều Quy có câu: Chớ khoe tài, đừng cao ngạo.Quên mình mà làm nên cho người.Giúp người nên đạo. Đừng nhớ cừu riêng. Chớ che lấp người hiền.

Chớ tự phụ, cũng đừng khi ngạo,

Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.

(Kinh Sám Hối).

Thiệt thòi giữ phận thiệt thòi đời,

Ðể kẻ hung hăng được ngạo chơi.

(Đạo Sử).

 

 

NGẠO BÁNG

傲 謗

Ngạo: Kiêu căng, ngạo mạn. Báng: Phỉ báng, tức nói xấu kẻ khác.

Ngạo báng là kiêu căng, ngạo mạn và chê bai, chỉ trích người khác.

Như: Ngạo báng kẻ tu hành, khinh khi ngạo báng bậc Thần Thánh.

Kệ kinh gọi món ru hồn,

Tánh hay ngạo báng trí khôn ám mờ.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

NGÁP

Ngáp là há rộng miệng thở ra thật dài, thường vì buồn ngủ hay cơ thể mỏi mệt.

Như: Ngáp dài ngáp vắn, chết không kịp ngáp, chó ngáp phải ruồi.

Cũng như người ghiền rượu đã quen,

Hễ vừa bắt hơi men thì ngáp vắn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGẠT

Ngạt là tức hơi, có cảm giác khó thở do bí hơi, hoặc thiếu không khí.

Như: Chun vào hang núi bị ngạt thở, đông người quá bị ngạt không khí, chết ngạt.

Tận thế Long Hoa sao chẳng thấy,

Tai Trời ngạt khí có hay thôi.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

NGẮM

Ngắm là nhìn kỹ, nhìn mãi cho thoả lòng yêu thích.

Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão Sư có câu: Chư đạo hữu phải lọc lừa lại, tìm người có tâm chí kết liên thân ái, chung hiệp nhau, bỏ sự lãng phí, dụng đồng tài nơi giọt mồ hôi, được tích thiểu thành đa, gầy dựng một cái nhà chung, để ngày phong võ nương dựa được thung dung, ngồi ngắm thế sự và chấn hưng mối Ðạo quý hoá.

Hễ càng ngắm hao mòn đoá ngọc,

Càng riêng lo tơ tóc không bền.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại,

Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGĂN

Ngăn là chắn lại, cản lại. Như: Ngăn hai người không cho đánh lộn, ngăn không cho làm điều bậy.

Thánh giáo Thầy có câu dạy: Nay các con lập một Ðạo, cũng chẳng khác chi lập một nước, phận sự lại càng khó khăn hơn, liệu mà sửa cải, liệu mà điều đình, mới có thể chống ngăn sự tàn hại mà làm cho nền Ðạo được vững.

Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm,

Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương.

(Kinh Thế Đạo).

Vỡ lối đường xưa ngăn đón khách,

Thương sanh dạy lẫn Ðạo đưa lời.

(Đạo Sử).

Toan để bút ngăn vòng chồng vợ,

Thì lại e nghịch nợ tiền khiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGĂN CẢN

Ngăn: Chận lại. Cản: Ngăn chận, không cho làm.

Ngăn cản là chặn giữ lại, không cho tiến hành.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Con đường sanh sống của chúng ta không bờ bến, không gì ngăn cản về tinh thần hoặc tự do của nó được. Trên cửa thiêng liêng Càn Khôn Thế Giới thế nào thì con đường tinh thần của con người cũng thế ấy, không thế nào đi cho cùng tận.

Chớ nên xao tâm động trí, ngơ ngẩn theo thường tình, thì não cân được tự minh, mới có thể ngăn cản tà mị độn nhập vào mà khuấy rối.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGĂN CẤM

Ngăn: Ngăn ngừa, chặn giữ lại. Cấm: Không cho phép vào, hay làm.

Ngăn cấm là ngăn ngừa và cấm đoán không cho phép làm việc gì đó.

Như: Ngũ giới cấm là năm điều ngăn cấm cho người tu hành phải theo.

Màn bí mật tay kia đã nắm,

Lợi danh hay ngăn cấm bước đường tu.

(Lý Bạch Giáng Bút).

Côn trùng giết chết còn ngăn cấm,

Nhơn loại hại hao há nỡ đành.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGĂN CHỐNG

Ngăn: Chắn cho riêng ra, chặn giữ lại. Chống: Chống đỡ cho khỏi đổ, khỏi sụp.

Ngăn chống là chặn giữ và chống đỡ cho khỏi đổ, khỏi xâm nhập.

Như: Ngăn chống lũ lụt, ngăn chống giắc ngoại xâm.

Xem: Chống ngăn.

Thế mạnh như núi đè cây, biển tràn bờ, chẳng thế chi ngăn chống nổi.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGĂN NGỪA

Ngăn: Chận, tách riêng ra. Ngừa: Phòng giữ trước.

Ngăn ngừa là phòng ngừa, tức đề phong trước không để cho cái xấu, cái không hay xảy đến.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chúng tôi đã có dịp để lời khuyên nhủ không biết bao nhiêu lần, thấy sơ sót muốn bồi bổ, thấy sự tệ hại muốn ngăn ngừa, thấy sai lầm muốn chỉnh đốn, thấy thiếu học muốn dồi trau.

Thế thì việc bất bình đương ở trong Ðạo đã có định, mà các con cũng chẳng thể chi ngăn ngừa.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGĂN RÀO

Ngăn: Ngăn ngừa, chặn giữ lại, không cho vượt qua, không cho hoạt động. Rào: Vật dùng ngăn hẳn lối đi.

Ngăn rào là dùng rào để chặn lại, không để vượt qua, ý chỉ chắn lại, chận lại.

Cửa Phạm dầu xưa xem lạ nẻo,

Ðường Tiên từ đấy hết ngăn rào.

(Đạo Sử).

Nữ hễ khôn đào lý ngăn rào,

Càng chặt giữ càng cao trọng giá.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGĂN TRỞ

Ngăn: Ngăn ngừa, chặn giữ lại. Trở: Ngăn cản.

Ngăn trở là cản trở, tức gây trở ngại, làm cho không tiến hành được dễ dàng. Như: Ngăn trở sự tiến bộ.

Thánh giáo Thầy có câu: Những sự phàm tục đều là mưu kế của Tà mị Yêu quái, cốt để ngăn trở bước đường Thánh đạo của các con.

Trăm nỗi khó khăn ngăn trở dạ,

Phải thương mình mới biết cao lương.

(Đạo Sử).

Nhưng hiềm nỗi vận thời ngăn trở,

Trong gia đình cảnh ngộ đa đoan.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

NGẮN

Ngắn là chiếm ít thời gian hơn so với mức bình thường, hoặc ít hơn những hiện tượng sự việc khác, trái với dài.

Như: Nói ngắn nhưng dễ hiểu, kế hoạch ngắn hạn, vụ lúa ngắn ngày.

Tám chục năm lâu xa cách mấy,

Trong giấc mê xem thấy ngắn thay!

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGẮN NGỦI

Ngắn: Cụt, trái với dài.

Ngắn ngủi là quá ngắn, chóng qua, quá ít so với yêu cầu mong muốn.

Như: Chỉ gặp nhau trong giây phút ngắn ngủi.

Thánh giáo Đức Chí Tôn bằng Pháp Văn được Hội Thánh dịch có câu: Danh vọng thường hay chống lại với đức hạnh. Nó rất ngắn ngủi và thường thành tựu nhờ nơi sự gian trá.

Bỏ hết trong cơn mê một giấc,

Trăm năm ngắn ngủi nhớ làm lành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðưa bước vào đường đời ngắn ngủi,

Can chi ràng buộc tội bên mình.

(Đạo Sử).

 

 

NGẮN NGỦN

Ngắn: Rất ngắn, cụt, không có chiều dài tương xứng với yêu cầu.

Ngắn ngủn là quá ngắn, quá cụt, ngắn ngoài dự kiến, ngắn không thể nào ngờ được.

Như: Quần áo ngắn ngủn, sợi dây ngắn ngủn.

Đường ngắn ngủn mà đường bít chịt,

Sậy lè tè khít rịt rậm ri.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGẰN

Ngằn là số lượng, mức độ được xác định trong chừng mực nào đó. Như: Tiền bạc nó tiêu xài không ngằn, cho nó ăn cũng phải có ngằn đừng để no quá.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.

Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,

Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.

(Kinh Sám Hối).

Chứa đức kia bền vững không ngằn,

Con cháu hưởng lâu bằng Trời Đất.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGẮT

1.- Ngắt là bẻ, hái một vật gì, hoặc lấy móng tay mà véo vào người.

Như: Ngắt vào hông, ngắt đoá hoa hồng, ngắt cọng rau muống, Bé ngắt vào đùi.

Đừng tức mẹ vả xiên ngắt xéo,

Ấy phép linh mẹ sửa méo ra tròn.

(Phương Tu Đại Đạo).

Đứa ở ăn kẻ sự cô hư,

Có ghét đứa lừ nhừ lừa ngắt xéo.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ngắt còn có nghĩa là quá lắm.

Như; Nước nguội ngắt, không khí lạnh ngắt, màu trời xanh ngắt, quang cảnh tẻ ngắt.

Đông lạnh ngắt mảnh mền úm trẻ,

Ngồi đêm trường quạnh quẽ phòng không.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Mùi đời chát ngắt chua lè,

Mùi Tiên nếm đặng, không the, ngọt bùi.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGẶT

1.- Ngặt là nghiêm khắc, chặt chịa, bức bách, không một chút sơ hở, đưa đến chỗ bí.

Như: Lệnh quan rất ngặt, tình thế rất ngặt, canh gác rất ngặt, cấm ngặt, nghiêm ngặt, thắt ngặt.

Tưởng bà mẹ có lòng khổ khắc,

Chưa hành con thắt ngặt dường này.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ngặt là khó khăn đến mức như không có lối thoát. Như: Không muốn đi nhưng ngặt vì đã hứa.

Thánh giáo Thầy có câu: Nếu Thầy làm đặng vậy, đạo phổ thông rất lẹ, ngặt gia tài mỗi đứa đều có phần, Thầy không phép lấy cho kẻ khác, trừ ra đứa nào chê bỏ thì mới đặng tuỳ ý Thầy định đoạt mà thôi.

Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,

Mà trong lòng chẳng thật kính thành.

(Kinh Sám Hối).

Cũng muốn lẫy lừng xây thế cuộc,

Vòng trần ngặt đã bước chân ra.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

3.- Ngặt còn dùng để chỉ sự kẹt, túng thiếu tiền bạc, khó khăn đến mức như không có lối thoát.

Như: Gia đình gặp cơn túng ngặt, nghèo ngặt.

Nỗi đói cơm khát nước đứng chờ,

Chẳng thấy kẻ cậy nhờ cơn túng ngặt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGẶT NGHÈO

Ngặt: Khó khăn đến mức như không có lối thoát. Nghèo: Nguy kịch, hiểm nghèo.

Ngặt nghèo là quá ngặt, đến mức gây khó khăn, khó chịu, hoặc khó khăn hay nguy hiểm đến độ khó vượt qua.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Còn về thiếu nhi và học sinh nam, nữ, nhờ sức đảm đương giáo hoá khó nhọc, nguy hiểm, ngặt nghèo của Hội Thánh từ trước tới giờ đã nuôi các con, đã giáo hoá các con chỉ mong mỏi một điều các con nên phận.

Khôn lanh cho biết Ðạo mà theo,

Theo đặng kịp người khỏi ngặt nghèo.

(Đạo Sử).

 

 

NGÂY

1.- Ngây là khờ dại, do trí óc chưa phát triển hoàn toàn. Như: Khờ ngây, thơ ngây.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Ôi! Lốt Ðạo, lốt Ðạo! Thầy buồn cho trẻ ngây, chẳng còn biết làm sao đem Thánh giáo vào tai chúng nó được.

Khờ ngây đã quá hội xuân rồi,

Rồi mới biết đời có mấy thôi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Ngây là đờ đẫn, ở trạng thái đờ người ra, không còn biết nói năng, cử động gì.

Như: Ngồi ngây ra đó, chị ta ghen như ngây như dại.

Ghen ngây dại hết phân trái phải,

Tánh ngổ ngang trở lại cũng như xưa.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÂY DẠI

Ngây: Thơ dại, đờ đẫn. Dại: Ngu, trái với khôn, điên.

Ngây dại là ngây ngô, dại dột.

Ngây dại còn có nghĩa là điên, không biết gì.

Thánh ngôn Chí Tôn có câu: Vậy thì óc là nguồn cội của Khí, mà óc cũng bị huyết vận động vô chừng làm cho đến đỗi loạn tán đi, thì chơn thần thế nào đặng an tịnh điều khiển, thân thể phải ra ngây dại, trở lại chất thú hình, mất phẩm nhơn loại rồi, còn mong chi đặng phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Xin xót thương con người ngây dại,

Phép Huyền hư truyền dạy thế gian.

(Giới Tâm Kinh).

Hỡi ơi! Vợ già yếu, gái thời ngây dại,

Nối lửa hương, ngó lại vắng người.

(Văn Tế Bảo Đạo).

 

 

NGÂY NGÔ

Ngây: Thơ dại, đờ đẫn.

Ngây ngô là khờ dại, u mê, tức tỏ ra kém trí khôn hoặc kém hiểu biết đến mức như khờ dại. Như: Thằng bé làm ra vẻ ngây ngô.

Trong Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Giờ nay, Thầy lâm phàm bưng chén thuốc phá mê để cứu đoàn con đang luống ngây ngô trong trần ai khổ hải.

Còn bé bỏng nghề nông thưa thớt,

Lại ngây ngô hời hợt việc nhà.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGÂM

1.- Ngâm là dầm một vật gì lâu trong chất lỏng để cho thấm ướt vào.

Như: Ngâm lúa, ngâm hạt giống, ngâm thuốc rượu, tỏi ngâm dấm.

Đừng ham nặng cân nhiều lúa ít,

Ngâm lúa cho nở hít cho tròn.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ngâm là đọc thơ hoặc hát với giọng ngân nga, không phải theo khuôn nhịp cố định. Như: Ngâm vịnh, ngâm thơ Kiều, ngâm phong vịnh nguyệt.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Chơn Cực Lão Sư có câu: Chư đạo hữu phải biết rằng, Ðạo trước khi gieo truyền cho ngoại quốc, phải dìu dắt kết chặt dân sanh nơi vùng Nam nầy, đặng cùng nhau chung hợp trên con đường hoà bình, chậm rãi lần ra khỏi lối khốn khổ lao lung nơi cõi trần nầy, rồi tự tại ngâm câu thái bình.

Tuy xa cách mặt lòng không cách,

Buồn dở thơ hoà đọc lại ngâm.

(Lục Nương Giáng Bút).

Non Thần hạc múa Nghê thường khúc,

Nước Trí thi ngâm điệu thoát trần.

(Thơ Tiếp Pháp).

 

 

NGÂM NGA

Ngâm: Đọc một cách tự do với giọng ngân dài, không theo khuôn nhịp cố định.

Ngâm nga là đọc giọng ngân dài và có âm điệu. Như: Ngồi ngâm nga cho đỡ buồn.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Như hai vợ chồng anh nhà nghèo kia, thấy thiên hạ giàu mình nghèo, mảnh áo chưa lành, ăn buổi mơi lo buổi chiều, đau khổ, không hiểu duyên cớ nào người ta sang trọng, hết sức khóc than rồi cũng tự mình an ủi lấy nhau, ngồi ngâm nga hát ru tâm hồn: “Người ta giàu cái quần cũng đũi, cái áo cũng đũi, Ðôi đứa mình nghèo đốn củi, đốt than. Nghèo hèn xin bậu chớ than, Rảnh đồng công mối nợ, anh mua lụa hàng may cho”. Hát như vậy rồi có lẽ vợ bớt khóc, mà anh ta cũng buồn cười.

Chỉ những phường bán nguyệt mua hoa,

Đưa hơi quyển ngâm nga trêu sắc gái.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÂM PHONG VỊNH NGUYỆT

吟 風 詠 月

Ngâm vịnh: Làm thơ, ngâm thơ để thưởng thức, để ca ngợi, để biểu lộ tâm trạng nào đó. Phong nguyệt: Gió trăng.

Ngâm phong vịnh nguyệt là ngâm vịnh thơ văn dưới bầu trời gió trăng.

Ngâm phong vịnh nguyệt đồng nghĩa với câu “Ngâm phong lộng nguyệt 吟 風 弄 月”.

Ngày xưa hai anh em Trình Di, Trình Hạo theo học với Châu Liêm Khê, quá say mùi đạo, đến khi về làng, người dân làng mới hỏi hai người sở đắc được những gì, hai người trả lời: Ta được gặp Thầy Liêm Khê như được “Ngâm phong lộng nguyệt nhi quy” 吟 風 弄 月 而 歸, nghĩa là như được ngâm vịnh, chơi đùa dưới trăng gió rồi về.

Đời sau, thi nhân thường lấy gió trăng làm đề tài ngâm vịnh. Cho nên, thành ngữ “Ngâm phong lộng nguyệt” dùng để chỉ thú làm thơ.

Dệt gấm thêu hoa lời tuyệt mỹ,

Ngâm phong vịnh nguyệt ý triền miên.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGÂM VỊNH

吟 詠

Ngâm: Đọc thơ với giọng rung và kéo dài. Vịnh: Ngâm và sáng tác thơ ca.

Ngâm vịnh có nghĩa là làm thơ hay ngâm thơ để thưởng thức, để miêu tả, ca ngợi hoặc biểu lộ một tâm trạng nào đó.

Ngâm vịnh thoả lòng vui Ðạo đức,

Ðức thuần do bởi đắc minh tâm.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Thú ngâm vịnh, tài tình vốn sẵn,

Mở hoa tiên một thoáng nên chương.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

NGẬM

1.- Ngậm là mím đôi môi lại, không hé miệng ra, trái với há.

Như: Ngậm miệng chẳng hé hàm răng ra, ngậm miệng không nói một lời.

Rửa tai biến lộng câu đầu lưỡi,

Ngậm miệng cho qua ách giữa đường.

(Thơ Thuần Đức).

2.- Ngậm là giữ vật gì trong miệng.

Như: Ngậm cơm, ngậm thẻ, ngậm điếu thuốc, đắng như ngậm bồ hòn.

Ngậm cơm ơn ngậm hằng ngày,

Nên người con nguyện ra tài lợi sanh.

(Kinh Thế Đạo).

Mỏ ngậm lửa hồng, lôi điển nhoáng,

Ðuôi lừa thuỷ quái, võ phong gây.

(Thiên Thai Kiến Diện).

3.- Ngậm là nén giữ lại trong lòng, không nói ra được. Như: Ngậm thảm, ngậm hờn, ngậm đau nuốt thảm.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy thấy các con bị phép thử thất Ba Trấn lập thành thì đã hiểu nhiều đứa bị hành. Thầy ngậm đau nuốt thảm ngồi nhìn.

Dân như cá chậu gà chuồng,

Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.

(Ngụ Đời).

Thiếp thân như ốc mượn hồn,

Sống không biết sống,chết còn ngậm đau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGẬM CAY NUỐT ĐẮNG

Ngậm cay: Chịu đựng những nỗi chua cay. Nuốt đắng: Chịu đựng những niềm vất vả.

Ngậm cay nuốt đắng ý nói cam nhận chịu những nỗi niềm khổ sở vất vả.

Biết bao chức sắc điêu linh,

Ngậm cay nuốt đắng hãm mình một nơi.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGẬM CƠM ƠN NGẬM

Ngậm cơm: Đưa một hột cơm vào miệng. Ơn ngậm: Chịu nhiều cái ơn của người làm ra hạt lúa gạo.

Ngậm cơm, ơn ngậm có nghĩa là ngậm một hột cơm để ăn thì phải hiểu như ngậm ơn, tức là mang ơn người làm nên hạt gạo.

Biết được công đức của Thánh nhân xưa chỉ dạy cho con người làm ra lương thực để sống, biết được công ơn của nhiều người chung góp sức lực nhọc nhằn để tạo ra hạt cơm để con người có độ nhựt, thì người tu học phải ghi vào tâm cái ơn đức đó. Có như vậy, mới có quyết lòng đem cái tài sức sẵn có của mình mạnh dạn phục vụ lợi ích cho nhơn sanh, như lời Thánh giáo của Chí Tôn đã dạy: “Vậy Thầy khuyên các con, đứa nào có trí lực bao nhiêu, khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi, vậy cũng uổng cái điểm Linh quang của Thầy ban cho các con lắm”. Như vậy, ta cũng trả được một phần nào công đức mà ta đã vay mượn của xã hội.

Ngậm cơm ơn ngậm hằng ngày,

Nên người con nguyện ra tài lợi sanh.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

NGẬM CƠM VỖ BỤNG

Ngậm cơm, do chữ “Hàm bô 含 餔”, tức là miệng ngậm cơm, nói sự đầy đủ của nhân dân. Vỗ bụng, bởi chữ “Cổ phúc”, là tỏ ý được sự no ấm.

Ngậm cơm vỗ bụng, dịch nghĩa từ câu Hán “Hàm bô cổ phúc 含 餔 鼓 腹”, tức là miệng ngậm cơm, tay vỗ bụng, để tỏ ý rằng nhân dân được đầy đủ, no ấm, đời được thái bình thạnh trị.

Trong nhà không đóng cửa,

ngoài đường chẳng lượm của rơi,

Người ngậm cơm vỗ bụng,

rất thảnh thơi Trời Nghiêu cùng Đất Thuấn.

(Giác Mê Khải Ngộ).

Trăm họ cùng chung lòng tín ngưỡng,

Ngậm cơm vỗ bụng hưởng an hoà.

(Thơ Bảo Pháp).

Ngậm cơm vỗ bụng dân nhàn nhã,

Vui cảnh thanh bình quản gió sương.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

NGẬM ĐAU NUỐT THẢM

Ngậm đau: Chịu đựng những nỗi đau đớn. Nuốt thảm: Mang lấy những cơn thảm khổ.

Ngậm đau nuốt thảm là cam chịu những nỗi đau đớn thảm khổ.

Thầy thấy các con bị phép thử thất Ba Trấn lập thành thì đã hiểu nhiều đứa bị hành. Thầy ngậm đau nuốt thảm ngồi nhìn.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGẬM ĐẮNG TRÊU CAY

Ngậm đắng: Miệng ngậm vị đắng, ý chỉ nhận chịu điều vất vả. Trêu cay: Trêu chọc cho cay, ý nói chịu nhiều nỗi đắng cay, khổ sở.

Ngậm đắng trêu cay, như chữ “Trêu cay ngậm đắng”, là phải chịu đựng nhiều nỗi xót xa đau khổ.

Xem: Trưu cay ngậm đắng.

Chẳng khác nào Ngài là người đương ngậm đắng trêu cay, Ngài cho nếm mùi ngon vị ngọt.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGẬM MIỆNG

Ngậm: Làm cho miệng ở trạng thái khép kín. Miệng: Bộ phận trên mặt người, dùng để ăn, uống, nói.

Ngậm miệng là im lặng, không dám nói gì.

Như: Ngậm miệng làm thinh, ngậm miệng không dám than van.

Rửa tai biến lộng câu đầu lưỡi,

Ngậm miệng cho qua ách giữa đường.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGẬM NGÙI

Ngậm: Chịu nín. Ngùi: Cảm động.

Ngậm ngùi là xúc động buồn tiếc cho số phận.

Như: Ngậm ngùi nghĩ đến cha mẹ đã qua đời.

Thánh giáo Quan Thế Âm Bồ Tát có câu: Ở Thiên cảnh ngó nơi trần thế thì bắt ngậm ngùi cho thế, chung quanh là ô trược để gạt và quyến rũ con người vào vòng tội lỗi, rồi chịu kiếp luân hồi khó mong nhìn thượng giới.

Lắm lúc ngậm ngùi bầy trẻ dại,

Đòi phen nhắc nhở đám con Rồng.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Thương cho kẻ ngậm ngùi lỡ phận,

Tìm kiếm đôi lại vấn vương oan.

(Thất Nương Giáng Bút).

Bước chân ra nghĩ ngậm ngùi thay,

Nỗi ước nhiều phen khó cạn bày.

(Nhàn Ấm Đạo Trưởng).

 

 

NGẬM SẦU NUỐT THẢM

Ngậm sầu: Cam chịu những nỗi sầu buồn. Nuốt thảm: Mang lấy những cơn thảm khổ.

Ngậm sầu nuốt thảm ý chỉ sự chịu đựng những nỗi sầu thảm trong lòng.

Người người đều có phố có lầu,

Còn chị lớn ngậm sầu nuốt thảm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGẬM VÀNH

Ngậm: Giữ trong miệng. Vành: Cái vòng.

Ngậm vành, do chữ “Hàm hoàn 含 環”, là ngậm những chiếc vòng để báo ơn. Như: Kết cỏ ngậm vành.

Điển tích: Dương Bảo đi dạo chơi ở núi Hoa Âm, thấy một con chim sẻ bị con chim cú đánh rơi xuống, làm trọng thương. Dương Bảo bắt đem về nuôi, đến khi chim lành vết thương, Bảo mới thả chim bay đi. Đêm ấy, Dương Bảo nằm mộng thấy một đứa trẻ mặc áo vàng đến nói rằng:Tôi là sứ giả Tây Vương Mẫu, nhờ ông cứu mạng, ơn ấy tôi chẳng bao giờ quên, xin tặng ông bốn chiếc vòng, ông và ba đời con cháu ông sau này sẽ được vinh hoa phú quý. Sau quả đúng như vậy.

Ngậm vành nghĩa bóng là sự báo ơn.

Vương Thị Lễ muội ngậm vành,

Cỏ cây chứng giám cao xanh thấu lòng.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

Câu chuyện ngậm vành dầu chẳng nói,

Ghi lòng tạc dạ há qua loa.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGÂN

1.- Ngân là âm thanh kéo dài và vang ra xa. Như: Tiếng chuông ngân, giọng hát ngân dài ra.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Khi nổ rồi còn nghe tiếng bay xa, nguyên căn của tiếng nổ là tiếng trống, còn giọng ngân là tiếng chuông.

Chuông ngân luống nhắc lời giao ước,

Trống giục càng mong buổi hiệp vầy.

(Thơ Huệ Giác).

2.- Ngân là bạc, màu bạc.

Nhìn lên không trung thấy một đường trắng bởi ánh sáng nhiều ngôi sao mà thành, trông hình như con sông bạc, nên gọi đó là sông Ngân hay “Ngân hà”.

Như: Dòng ngân, sông Ngân.

Xem: Ngân hà.

Thuyền khơi đợi gió lướt dòng ngân,

Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Biển mê cầu ngọc liên phàm tục,

Cõi thọ sông Ngân tiếp đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGÂN CẦU

Ngân: Màu bạc, ở đây chỉ dòng sông Ngân (Ngân hà). Cầu: Cây cầu bắc qua sông.

Ngân cầu, như chữ “Ngân kiều 銀 橋”, là cầu sông Ngân, nơi đưa người phước đức thoát khỏi chốn trầm luân khổ não.

Xem: Ngân kiều.

Mộng điệp tầm phương xây tuý giấc,

Cầu Lam đổi nghiệp sửa Ngân cầu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGÂN HÀ

銀 河

Ngân: Màu trắng sáng như bạc. Hà: Sông.

Ngân hà là dòng sông có màu trắng sáng như bạc.

Muôn vạn ngôi sao chi chít trên bầu trời tạo thành một dải dài trông như một con sông bạc (Màu trắng), dải ngôi sao đó được gọi là “Ngân Hà”.

Theo truyền thuyết, Ngân Hà cũng là một con sông ngăn cách vợ chồng Ngưu Lang, Chức Nữ, cứ vào đêm mồng 7 tháng 7 hằng năm, nhờ quạ đen bắc cầu, hai vợ chồng Ngưu Lang, Chức Nữ mới được hội ngộ với nhau một lần. Vào đêm này, nước mắt của họ chứa chan vì bởi khóc than cho cảnh biệt ly, tạo thành những cơn mưa ngâu. Vì thế, Ngân Hà được coi như một dòng sông đau khổ.

Theo Đức Hộ Pháp, Ngân Hà là một nhánh của biển khổ, nên là một dòng sông chứa đầy khổ đau. Vì thế trên sông đó, có Đức Quan Âm Bồ Tát vâng mạng lệnh của Di Lạc Vương Phật chèo chiếc thuyền Bát Nhã đi độ sanh, tức là độ những người đầy đủ phước đức.

Huệ quang chiếu thấu chánh tà,

Chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh.

(Kinh Tận Độ).

Sông Ngân hà sóng gió coi êm,

Cậy quạ bắc cầu thêm cho dễ gặp.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÂN HÁN

銀 漢

Ngân: Bạc, màu bạc. Hán: Dòng sông.

Ngân hán là dòng sông màu bạc, do các vì sao lóng lánh trên trời tạo thành một dải sông dài.

Ngân hán dùng để chỉ sông “Ngân hà” nơi chia cách của Ngưu Lang và Chức nữ.

Xem: Ngân hà.

Ngân hán gượng mừng đêm gặp gỡ,

Ô kiều buồn ngắm nhạn bay tung!

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGÂN KIỀU

銀 橋

Ngân: Màu bạc, ở đây chỉ dòng sông Ngân (Ngân hà). Kiều: Cây cầu.

Ngân hà nơi cõi thiêng liêng là một biển khổ, còn Ngân kiều là chiếc cầu bắc qua biển khổ.

Theo Đức Hộ Pháp, nơi Ngân hà có chiếc thuyền Bát Nhã của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát chèo qua lại để rước người phước đức qua sông. Còn những kẻ thiếu phước đức không qua được, phải bị trầm luân nơi biển khổ.

Như vậy, Ngân kiều (cầu sông Ngân) được ví như chiếc thuyền Bát Nhã của Bồ Tát Quan Âm.

Đã thấy đủ Thiên đình huyền pháp,

Cổi giác thân lên đạp Ngân Kiều.

(Kinh Tận Độ).

Ngân Kiều Bát Nhã qua bờ,

Đưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng.

(Kinh Thế Đạo).

Ngân kiều ngắm lại xa xôi khách,

Kim khuyết nhìn ra vắng vẻ bầy.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

NGẦN

1.- Ngần là chừng, số lượng hoặc mức độ được xác định cụ thể nhưng đại khái.

Như: Mới ngần nầy tuổi đã biết yêu đương, anh ấy sung sướng biết ngần nào.

Nếu chúng ta biết đặng cơ quan Tạo hoá Càn Khôn sản xuất hữu hình của Phật Mẫu, thì chúng ta sẽ có tình cảm kính trọng yêu thương Phật Mẫu đến ngần nào.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Ngần là sáng, màu trong trắng như bạc.

Như: Trong vào mặt thấy rạng ngần, mặt ngần thân diu, trong giá trắng ngần.

Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Một xuân qua tức là Ðạo một lần bước chóng. Ngày nầy năm ngoái vẫn ra sao mà đến ngày nay, màn Chánh giáo đã diềm dà xủ khuất bóng trần, gương trí huệ rạng ngần soi khách tục.

Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,

Ðỡ gót nhờ con hạc trắng ngần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðường gai gốc gắng lần qua khỏi,

Cảnh rạng ngần tua rán bước vào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,

Vẽ cho hay mày liễu má đào.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGẦN NGẠI

Ngại: Cảm thấy không yên lòng vì cho rằng có xảy ra điều gì đó không hay.

Ngần ngại là có điều e ngại, nên còn đắn đo chưa dám quyết định.

Như: Có điều muốn nói nhưng còn ngần ngại.

Thánh giáo Thầy có câu: Các con vì đó mà ngần ngại giữa đường, cũng vì phần đông chưa đủ nhơn cách, nên Thầy cũng phải nương theo cho qua hồi trắc trở. Thế nào rồi đây cũng có ngày phổ thông Chánh giáo đặng.

Nửa chiếu không rồi thân phận tục,

Ðường Tiên ngần ngại bước bơ thờ.

(Đạo Sử).

Ngần ngại từ đây hết hỏi đon,

Thân mình dầu tuyệt Ðạo không mòn.

(Đạo Sử).

Thương những kẻ chờ thuyền biển ái,

Bồng con thơ ngần ngại trông chồng.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

NGẨN

Ngẩn là thừ ra, đờ ra, tức ở trạng thái như ngây người, do tinh thần bị tác động mạnh và đột ngột.

Như: Ngồi ngẩn mặt ra, nghe tin mà ngẩn cả người, ngồi ngẩn như kẻ mất hồn.

Phiền gan ngẩn chạnh tình chăn gối,

Ứa lệ buồn trông bước Hớn Hồ.

(Thơ Huệ Giác).

Cõi Thánh nhàn xem tranh đảnh tuý,

Chơn mây ngẩn chạnh bạn rừng thiền.

(Tiếp Đạo Giáng Bút).

 

 

NGẨN BÚT

Ngẩn: Đờ, thừ ra tức ở trạng thái như ngây người ra, do tinh thần bị tác động mạnh và đột ngột. Bút: Cây viết.

Ngẩn bút là cầm viết mà ngồi thừ, tức ở trạng thái như ngây người ra, do tinh thần bị tác động mạnh và đột ngột, không viết được.

Đã muốn tiếp mà sao ngẩn bút,

Nhớ bạn hiền gần chục vợ nhà.

(Phương Tu Đại Đạo).

Ngẩn bút hoà thi tủi phận ai,

Trời xanh vội lấp nữ anh tài.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGẨN NGƠ

Ngẩn: Đờ, thừ ra tức ở trạng thái như ngây người ra, do tinh thần bị tác động mạnh và đột ngột. Ngơ: Không để ý đến, khờ.

Ngẩn ngơ là thừ ra, không để ý đến, vì tâm trí đang để ở đâu đâu. Như: Tiếc ngẩn ngơ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trong khi ta đang ngẩn ngơ trước một sắc đẹp mỹ nhơn hoặc ta đương dùn thẳng trước một món lợi lớn của người đem hiến cho ta đặng dục ta làm chuyện phi pháp, thì một tiếng nói văng vẳng bên tai ta, nghe dịu dàng, chơn chánh và siêu kỳ: “Không, người không nên động đến sắc đẹp ấy, vì sắc đẹp ấy đã có chủ (hoặc) sắc đẹp ấy là một thứ trái cấm bất khả xâm phạm.

Chạnh thương người thế ngẩn ngơ lòng,

Muôn việc trần gian một chữ không.

(Thơ Tiếp Đạo).

Bỗng đâu thoáng bóng diễm kiều,

Thoạt trông, Hán Đế ra chiều ngẩn ngơ.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

NGẬP

1.- Ngập là nói nước tràn lên và phủ lấp kín hết một vùng rộng.

Như: Nước lũ ngập đồng, đường đi ngập nước, mưa ngập mí nền nhà, ngập lụt.

Đốt nhà, tháo cống, phá mương,

Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.

(Kinh Sám Hối).

Đừng đợi đến ôm cầu mà khóc,

Nước ngập mình tơ tóc đều trôi.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ngập là có nhiều và khắp cả trên một diện tích, đến mức như bao phủ, che lấp tất cả.

Như: Tràn ngập, công việc ngập đầu, lúa tốt ngập đồng, rác ngập đầy cống.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Mỗi độ xuân về là niềm hy vọng tràn ngập nơi cõi lòng con cái Ðức Chí Tôn, hy vọng đó hướng về sự trùng phùng của các bạn Ðạo nơi Trung ương và nơi tứ phương cùng nhau hiệp mặt dưới mái gia đình ấm cúng của nền Ðại Ðạo.

Tinh thần đạo đức đã tiêu mất, sự thù hận tràn ngập khắp hoàn cầu.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

Tranh cạnh xương phơi cao tợ núi,

Chém đâm máu đổ ngập sông sâu.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

NGẬP NGỪNG

Ngừng: Dừng, không tiếp tục hoạt động, phát triển.

Ngập ngừng là rụt rè, tỏ ra do dự, vừa muốn lại vừa e ngại, không cả quyết.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Trường công quả đã hầu mãn, các con lại phải đến cảnh gay go, vó ký ướm ngập ngừng mà cánh hồng toan lướt gió.

Ru con giọng hát ngập ngừng,

Xuân ơi! Xuân biết mấy lần đau thương?

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGẤT

Ngất là cao quá tầm mắt.

Như: Cây cao ngất trời, đồ đạc chất đầy ngất trong phòng ngủ.

Trong quyển Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Trên ngôi cao ngất kia thờ Thiên Nhãn vẽ trên quả Càn Khôn, chính giữa quả Càn Khôn thường đốt một ngọn đèn sáng.

Thấy đời chìm đắm thảm thương,

Chết chồng đầy ngất trong trường lợi danh.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Cảnh tịnh non thiêng ngất mấy tầng,

Đường lên một bước một chồn chân.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGẤT NGƯỞNG

Ngất: Cao quá tầm mắt.

Ngất ngưởng là ở thế không vững, lắc lư, nghiêng ngả như chực ngã xuống.

Ngất ngưởng còn như chữ “Ngất nghểu”, có nghĩa là cao, gây cảm giác không vững, dễ đổ.

Một tới ba lui hơi ngất ngưởng,

Nên chi cho đặng nghiệp nhà to.

(Đạo Sử).

Chiêu Quân chịu giã từ đất Hớn,

Thân cống Hồ ngất ngưởng tha bang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGẪU NHIÊN

偶 然

Ngẫu: Thình lình. Nhiên: Như thế.

Ngẫu nhiên là thình lình xảy ra như thế, có nghĩa là tình cờ, hay không tính trước.

Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có câu: Có người bảo vạn vật sanh ra bởi ngẫu nhiên; đó là một điều lầm to. Ta thử nghĩ mỗi khi thấy một cái nhà, một cái xe, một chiếc thuyền, ta chẳng dám nói rằng những vật ấy sinh ra bởi ngẫu nhiên, mà ta biết có những tay thợ làm ra mấy vật ấy. Ta thấy có một con chim bị đạn rơi xuống đất; tuy không thấy ai bắn nó, song ta đã biết chắc có người bắn vì ta căn cứ ở kết quả mà nhận có nguyên nhơn.

Chẳng biết ngẫu nhiên hay là tiền định mà Bà Nữ Đầu Sư quy liễu nhằm ngày Vía Đức Phật Thích Ca.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGÓ

1.- Ngó là để mắt mà trông, nhìn. Như: Ngó quanh ngó quất, đứng trong nhà ngó ra.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép công bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy. Ấy cũng là cơ mầu nhiệm cho các con có thế lập công quả.

Thanh cao là biết ngon dưa muối,

Hơn ngự lầu yên ngó đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cho thanh tâm mạng mới vững vàng,

Ðến ngó Phật Trời khỏi thắp nhang.

(Đạo Sử).

2.- Ngó là để mắt đến, để ý đến.

Như: Bận quá không ngó gì đến nhà cửa, bệnh đau liên miên không ngó gì đến công việc.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Con chỉ có tu mà đắc đạo. Phải ngó đến hằng ức thiên vạn kẻ nhơn sanh chưa đặng khỏi luân hồi, để lòng từ bi độ rỗi, kẻo tội nghiệp.

Đừng thấy mắng mà đành chẳng ngó,

Nhớ công cha buổi nhỏ dạy, răn trừng.

(Phương Tu Đại Đạo).

Lòng đạo đức đêm ngày khẩn vái,

Khiến cho chồng ngó lại nghiệp nhà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÓ CỰC LẠC THEO HUỜN XÁ LỢI

Ngó Cực Lạc: Hướng về cõi Cực Lạc.

Theo Kinh Di Đà của Phật, Cõi Cực Lạc hay Cực Lạc Quốc là một nước của A Di Đà Phật, ở về phương tây, nên còn gọi là Tây Phương Cực Lạc, nơi đó không có những điều khổ, chỉ toàn những điều vui sướng mà thôi.

Trong A Di Đà Kinh, Phật có thuyết: “Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc? Kỳ quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc 彼 度 何 故 名 為 極 樂? 其 國 眾 生 無 有 眾 苦, 但 受 諸 樂, 故 名 極 樂”, nghĩa là cõi ấy vì sao tên là Cực Lạc? Chúng sanh trong cõi ấy không có các sự khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên gọi là Cực Lạc.

Theo huờn Xá lợi: Theo xác thân thiêng liêng.

Ngó Cực Lạc theo huờn Xá lợi là hướng về cõi Cực Lạc Thế giới để nương theo một xác thân Thiêng liêng, gọi là “Xá lợi”.

Trong Đại Thừa Chơn Giáo có viết: “Các con muốn hiểu chỗ Đạo thì các con trước phải phanh luyện Tinh Khí Thần và phải tạo một xác thân thiêng liêng kêu rằng “Mâu ni” hay là “Xá lợi”.

Cái xác thân thiêng liêng ấy bất tiêu, bất diệt, bất tử, bất tồn mà các con cần phải có xác thân ấy.

Xác thân ấy là chi?

Là cái bổn tánh thuần dương vậy. Khi các con bỏ xác phàm nầy thì điểm Linh quang của các con nương theo đó mà về thẳng đến nơi Thầy. Nếu các con không có xác thân ấy, các con phải chuyển kiếp khác hoài, luân hồi khó dứt.

Ngó Cực Lạc theo huờn Xá Lợi,

Cửu Trùng Thiên mở lối quy nguyên.

(Kinh Tận Độ).

 

 

NGÓ NGÀNG

Ngó: Để mắt đến, để ý đến.

Ngó ngàng là quan tâm, để ý tới. Như: Ít thời giờ để ngó ngàng đến công việc.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Đời nó 100 tuổi vẫn tìm tàng học mãi học sách đời, học sách Thánh Hiền để lại học cả hay ho khéo léo của các vị Giáo Chủ đạo đức tinh thần để lại, mà nếu không biết khiêm nhượng thì không ai thèm dạy mà chúng còn ghét là khác, nếu kẻ nào như vậy thì chúng bỏ xó phải chịu cái phận khổ não mà thôi không ai thèm dạy hết, bởi vì người ta ghét, không ai ngó ngàng tới đâu có dạy dỗ gì mà nên được...

Đã nâng dưới cánh cả giang san,

Cái gánh đồ thơ chớ ngó ngàng.

(Lục Nương Giáng Bút).

Ðưa chơn còn để câu căn dặn,

Nương tục đường quen mắt ngó ngàng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGỎ

Ngỏ là để mở, không đóng, không đậy kín. Như: Để ngỏ cửa, thư ngỏ.

Ngỏ còn có nghĩa bóng là bày tỏ tình cảm, ý nghĩ. Như: Ngỏ lời, ngỏ ý.

Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: Sự lòng ngỏ với băng nhân, Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.

Sau nữa Bần Đạo có mấy lời thống thiết ngỏ cùng toàn thể quốc dân.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGỎ Ý

Ngỏ: Bày tỏ tình cảm, ý nghĩ. Ý: Điều suy nghĩ, những ý nghĩ, ý kiến.

Ngỏ ý, cùng nghĩa với chữ “Tỏ ý”, là bày tỏ ý kiến của mình cho người khác hiểu.

Như: Ông ta đến nhà ngỏ ý muốn làm sui với mình.

Gà nghe nói chẳng cần suy nghĩ,

Mỉm môi cười ngỏ ý chê bai.

(Thơ Hộ Pháp).

Cố tâm chèo chống đều an toại,

Ngỏ ý bơ phờ kém tự do.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

NGÕ

1.- Ngõ là đường nhỏ hẹp trong làng xóm hay cổng vào sân nhà. Như: Ngõ vào xóm, ngõ vào nhà, ngõ hẻm, ngõ Thiên đường, ngõ tội phước.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nghĩa là điều hoạ hay phước không có ngõ nhứt định, chỉ tại người tự dời đến cho mình, sự dữ lành hai lẽ báo ứng tỷ như cái bóng đi theo cái hình vậy.

Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,

Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.

(Đạo Sử).

Trời với Diêm Ðình đôi ngõ trở,

Muốn toan thoát tục liệu mà dùng.

(Đạo Sử).

2.-Ngõ nói tắt của chữ “Hiền ngõ”, để chỉ người hiền lành đạo đức.

Như: Chị là một người hiền ngõ, chồng ngõ vợ hiền, tướng ngõ tôi hiền.

Hiền ngõ rủi sanh đời bạo ngược,

Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Kìa tích đẹp gương hay rán ngó,

Tập cho nên chồng ngõ vợ hiền.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÕ HẦU

Ngõ: Cho được, tiếng ước về sau. Hầu: Gần, sắp.

Ngõ hầu là sắp sửa có, gần được, để mà, hoạ là mới được, tức là từ biểu thị điều sắp nêu ra là mục đích mà việc làm vừa nói đến mong sao đạt cho được.

Như: Cố học ngõ hầu có ngày thành đạt, làm việc hết mình ngõ hầu chuộc lại lỗi lầm.

Cũng muốn cho chúng nó ăn năn chừa lỗi, ngõ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao mong rỗi đặng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGÕ HẬU

Ngõ: Ngõ là đường nhỏ hẹp trong làng xóm hay cổng vào nhà. Hậu: Sau, phía sau.

Ngõ hậu là ngõ phía sau nhà.

Ngõ hậu còn dùng để nói đến phía sau nhà để lo lót, hối lộ một cách lén lút.

Xa những phường trục lợi xu danh,

Đến bợ đỡ đặng dành đi ngõ hậu.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÕ KHỔNG TRÌNH

Ngõ: Đường đi. Khổng Trình: Khổng Tử và hai anh em Trình Di, Trình Hạo.

Khổng tức là Khổng Tử, người đời Chu, nước Lỗ, được tôn kính làm bậc thánh nhân. Trình tức Trình Di, Trình Hạo, là bậc đại Nho vào thời nhà Tống.

Ngõ Khổng Trình, đồng nghĩa với “Cửa Khổng sân Trình”, là ngõ vào cửa Khổng sân Trình, ý chỉ trường học dạy các Nho sĩ thời xưa.

Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,

Huống để công đến ngõ Khổng Trình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGOAI

Ngoai xoắn hai đầu mối dây lại với nhau cho chặt.

Như: Chỗ hai cọng dây kẽm giao nhau, mầy lấy kềm ngoai lại cho chặt.

Chỉ hồng cô nếu chưa xe mối,

Dải thắm tôi nguyền sẽ kết ngoai.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

NGOÁI

1.- Ngoái là quay lại phía sau lưng.

Như: Ngoái đầu lại nhìn, anh ta đi thẳng một mạch không ngoái lại.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Phật Mẫu có nói: “Ðời đã tàn, thuyền Ðạo sắp xa bến”, chúng ta thấy cái hung bạo của đời vật chất cạnh tranh, thấy những con thiêu thân tự thiêu mình vì ham đáp theo ánh sáng, chúng ta nên xung xăng nhặt bước trên đường Ðạo Ðức, đừng bỏ mất thì giờ quý báu, đừng ngó ngoái lại cái bến mê mà chúng ta đã được may duyên xa lánh.

Tình tôi lai láng lụy tuôn dầm,

Vừa ngoái lại nhìn cảnh tối tăm.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Ngoái là chỉ năm vừa qua. Như: Ngày nầy năm ngoái, năm nầy làm ăn thua năm ngoái.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du Tiên sinh có câu: Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.

Ngày nầy năm ngoái vẫn ra sao mà đến ngày nay, màn Chánh giáo đã diềm dà xủ khuất bóng trần, gương trí huệ rạng ngần soi khách tục.

(Thánh Ngôn HIệp Tuyển).

 

 

NGOÀI

1.- Ngoài là phía ở đằng trước, bề mặt, trái với phía trong. Như: Ngoài đường, ngoài cửa, ngoài tai.

Thánh giáo Thầy có dạy: Cái Chơn thần buộc phải tinh tấn trong sạch mới nhẹ hơn không khí, ra khỏi ngoài Càn khôn đặng.

Khổ hạnh chí mong quy nẻo chánh,

Ngoài tai chớ chác miếng hư vinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trên lo thảo, giữa hoà, dưới thuận,

Ngoài nên danh, trong vững mối giềng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Ngoài, nghĩa rộng nói cái gì phô diễn ra ở bên ngoài, mặt ngoài.

Như: Cái đẹp bề ngoài, nhân nghĩa bề ngoài, tôn chỉ bên ngoài của tôn giáo.

Thánh giáo có câu: Ấy là tôn chỉ bề ngoài của Ðạo, chẳng giữ cho trọn, phương chi khỏi gây rối được?

Xiên lòng ngoài mặt cũng là ngay,

Biết phép phân thân gẫm quá tài.

(Đạo Sử).

3.- Ngoài còn có nghĩa là ngoài ra, trừ ra.

Như: Ngoài cái thông minh ra anh ấy còn có tánh hiền nữa, ngoài nghị lực mạnh mẽ anh ấy còn siêng năng.

Thánh giáo Thầy có câu: Ngoài ý chí đạo đức của con, con còn có ý tìm hiểu Giáo lý mới mẻ nầy, giáo lý mà một vài đồng bào của con đã giải thích xuyên tạc dưới một hình thức tinh ranh.

So mình nắm dễ tóc tơ,

Ngoài ra còn lắm hẫng hờ lứa đôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGOẠI

1.- Ngoại là ngoài, bên ngoài. Như: Ngoại bang, ngoại quốc, ngoại hoá, xuất ngoại.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy có việc nói cùng chư môn đệ. Thầy mời chư nhu xuất ngoại một giây phút, Thầy sẽ kêu vào.

Học cho rộng giao thông tứ xứ,

Học cho cùng xử sự ngoại lân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Ngoại là tiếng dùng để chỉ họ bên nhà mẹ. Như: Họ ngoại, nội ngoại tương tề, bà con bên ngoại.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Tộc phái không kể nội ngoại gì cũng kế nghiệp được. Trong Tộc phái ấy có một bộ Tông chi không sót một tên nào mà vẫn còn giữ vĩnh cửu luôn.

Lo nợ đôi thân đôi ngoại nội,

Lo con lo cháu tới lo chồng.

(Đạo Sử).

 

 

NGOẠI BANG

外 邦

Ngoại: Ngoài. Bang: Nước, quốc gia.

Ngoại bang, đồng nghĩa với chữ “Ngoại quốc 外 國”, là chỉ nước ngoài.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Lý Giáo Tông có dạy: Còn lại toàn bậc nhơn tài trung nghĩa làm ích nước lợi dân sau nầy, nước nhà bền vững, cơ Đạo cũng do đó lan tràn truyền khắp cả ngoại bang.

Cửa Sàigòn tính bán áp chế nội hàng,

Gạo bắp chở ngoại bang giành phần xuất cảng.

(Ngụ Đời).

Phước Thiện để rước ngoại bang,

Phước Thiện sản nghiệp bảo toàn thế gian.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

NGOÀI CÀN KHÔN

Hay “Ngoại Càn khôn”.

Ngoài (ngoại): Bên ngoài. Càn khôn: Chỉ Càn khôn thế giới.

Ngoài Càn khôn, như chữ “Ngoại Càn khôn 外 乾 坤”, là ở ngoài Trời đất, tức là ở một cõi giới nào đó trong vũ trụ, nhưng không phải là cõi thế gian.

1.- Ngoài Càn khôn:

Giải thi lánh chốn đoạ đày,

Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.

(Kinh Tận Độ).

Khá tua theo bóng Cao Đài,

Nương mây thoát tục ra ngoài Càn khôn.

(Kinh Thế Đạo).

2.- Ngoại Càn khôn:

Dầu tội Chướng ở miền địa giái,

Dầu oan gia ở ngoại Càn khôn.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

NGOẠI ĐẠO

外 道

Ngoại: Ngoài. Đạo: Tôn giáo.

Ngoại đạo là nói người ngoài tôn giáo của mình, tức là người theo tôn giáo khác tôn giáo mình, hoặc người không tôn giáo nào.

Thanh Tâm Tài Nữ trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Đức Chí Tôn lập Chức sắc Hiệp Thiên Đài đặng khai Đạo, dìu Đạo, làm cho Đạo có giá trị, giúp kẻ hành đạo tròn phận sự, thức tỉnh kẻ ngoại đạo thấy đường phải, lánh nẻo quanh...

Đã mê đắm tục quen chừng,

Lạc xiêu ngoại đạo máng chưn bẫy dò.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Tiếp Thế khi đặng thế luật hay là trạng cáo chi của ngoại đạo cùng là của Tín Đồ...

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

NGOẠI GIAO

外 交

Ngoại: Ngoài, bên ngoài. Giao: Hai bên đi lại hoà hợp với nhau.

Ngoại giao là việc giao thiệp bên ngoài.

Ngoại giao còn có nghĩa là sự giao thiệp với nước ngoài để giải quyết những vấn đề quốc tế chung.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Tranh đấu về tinh thần như biểu tình phản động, hoặc ngoại giao tranh đấu, hoặc bất hợp tác hay dùng kinh tế mà tranh đấu để bóp chẹt, đánh đổ một chế độ mà quần chúng cho là bất hợp thời.

Nghị trường thương thuyết gần xa,

Ngoại giao chính trị sáng loà nơi nơi.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGOẠI GIÁO

外 教

Ngoại: Ngoài, bên ngoài. Giáo: Dạy, tôn giáo.

1.- Ngoại giáo là dạy đạo ở nước ngoài, tức truyền bá đạo ra ngoại quốc. Đây là nhiệm vụ của chức sắc trong Hội Thánh Ngoại Giáo.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có câu: Bần Đạo chào Quyền Giáo Tông, Hộ Pháp, Tiếp Ðạo và Hội Thánh Ngoại Giáo.

Ngài (Nguyệt Tâm Chơn Nhơn) thường giáng cơ giáo hoá và phong Thánh cho chư Chức Sắc ngoại giáo...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Ngoại giáo chỉ tôn giáo bạn, tức là ngoài tôn giáo của mình. Cùng nghĩa với ngoại đạo.

Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Kẻ ngoại giáo, tả đạo bàng môn, người vô đạo, riêng nắm quyền hành thế tục, nghịch cùng chơn lý chánh truyền; mượn thế lực phàm tục mà diệt lành dưỡng dữ, mê hoặc nhơn sanh, lưu luyến trần thế.

Bần Đạo thiết tưởng, Ngoại giáo phạm đến Chơn Đạo là vì Hiệp Thiên Đài trống cửa cho kẻ nghịch vào, nên mới loạn lạc dường ấy.

(Tôn Sơn Chơn Nhơn).

 

 

NGOẠI GIÁO CÔNG TRUYỀN

外 教 公 傳

Ngoại giáo: Dạy bên ngoài. Công truyền: Truyền bá rộng rãi cho người đời.

Ngoại giáo Công truyền là dạy rộng rãi cho nhơn sanh bên ngoài về giáo lý, đạo đức để độ người vào đạo tu hành, lập công bồi đức.

Ngoại giáo Công truyền thuộc về phần Thể pháp, nên phải dùng tất cả thinh âm, sắc tướng, áo rộng mão cao hay các hình thức bề ngoài như nghi tiết phượng thờ, thuyết giảng giáo lý để giục lòng nhơn sanh nương theo đó mà tu hành phần nhơn đạo, rồi dẫn dắt dần lên phần thiên đạo.

Như vậy, trong tôn giáo Cao Đài, Ngoại giáo Công truyền là phần phổ độ chúng sanh, thuốc về trách nhiệm của Cửu Trùng Đài và Cơ Quan Phước Thiện.

Luận qua Ngoại Giáo Công Truyền,

Phổ thông chơn lý Đạo huyền độ nhơn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGOẠI GIỚI

外 界

Ngoại: Ngoài, bên ngoài. Giới: Cảnh giới.

Ngoại giới là cảnh giới bề ngoài, tức chỉ tất cả những thứ gì ở bề ngoài.

Trong quyển “Giáo Lý” của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Kiến tánh nghĩa là thấy tánh, đây không phải dùng mắt phàm trông thấy mà thật là chứng nghiệm chơn như diệu tánh, hoặc nói cách khác là giác ngộ điểm tánh Trời phú cho người: Tức là thông đạt nguyên lý vũ trụ ở trong nội giới và ngoại giới của mình.

Cho công danh phú quý là phù vân, nên chủ trương cái thái độ hờ hững lãnh đạm với ngoại giới.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGOẠI LÂN

外 鄰

Ngoại: Nước ngoài. Lân: Láng giềng.

Ngoại lân là các nước láng giềng với nước mình, tức những nước chung quanh gần nước mình.

Ngoại lân đồng nghĩa với lân bang.

Học cho rộng giao thông tứ xứ,

Học cho cùng xủ sự ngoại lân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGOẠI NGHI

外 儀

Ngoại: Ngoài, bên ngoài. Nghi: Nghi lễ cúng kính.

Ngoại nghi là vị trí nghi lễ phía ngoài điện thờ, tức là cái nghi (hay Bàn hương án) thờ bên ngoài Điện Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu. Bàn nầy đối diện với Chánh Điện.

Trong Đạo Cao Đài, nơi Toà Thánh, Báo Ân Từ hay các Thánh Thất địa phương, ngoài Chánh điện thờ Chí Tôn, Phật Mẫu và Bàn Nội nghi, còn vọng thêm ở bên ngoài một cái Bàn Hương án, gọi là Ngoại nghi.

Trong lễ tang của Đạo Cao Đài, khi Đăng điện, có vọng thêm một cái Bàn Hương án, gọi là bàn Ngoại nghi đối diện với Bàn Linh (Bàn Nội nghi).

Nội nghi, Ngoại nghi tựu vị.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

 

 

NGOẠI QUỐC

外 國

Ngoại: Ngoài. Quốc: Nước.

Ngoại quốc, đồng nghĩa với chữ “Ngoại bang 外 邦”, là chỉ nước ngoài.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðạo trễ một ngày thì hại cho chúng sanh một ngày, mà mỗi đứa đều gây ác cảm, làm cho mối Ðạo thành ra bánh vẽ, thì chừng nào Ðạo trọn thành nơi đây? Chừng nào cho Ðạo truyền ra ngoại quốc?

Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,

Chủ quyền Chơn đạo một mình Ta.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vì sợ e bụng gái không chừng,

Giận Nam Việt vùng ưng ngoại quốc.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGOẠI TÌNH

外 情

Ngoại: Ở ngoài, mặt ngoài. Tình: Tình cảm yêu thương giữa nam nữ.

Ngoại tình là có quan hệ yêu đương bất chính khi đã có vợ hay có chồng, tức đàn ông hay đàn bà đã lập gia đình rồi mà còn có tình riêng với người khác.

Trong Tân Luật, Điều thứ mười về phần Thế đạo có quy định: Trừ ra có ngoại tình hay là thất hiếu với công cô, vợ chồng người Đạo, không được để bỏ nhau.

Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,

Có chồng còn lại ngoại tình với trai.

(Kinh Sám Hối).

 

 

NGOẠI TỘC NỮ SANH

Hay “Ngoại tộc nữ sinh”.

Ngoại tộc: Người ngoài dòng họ. Nữ sanh (sinh): Sinh ra con gái.

Ngoại tộc nữ sanh, bởi câu thành ngữ “Nữ sinh ngoại tộc 女 生 外 族”, tức là sinh ra gái là ngoài dòng họ.

Người mình theo phụ hệ, thường muốn sinh trai để nối dõi dòng họ, và hương lửa tông đường, nên quan niệm “Nữ sinh ngoại tộc”. Từ đó mới có ý trọng nam khinh nữ, như câu: Nhứt nam viết hữu, thập nữ viết vô 一 男 曰 有 十 女 曰 無, nghĩa là sinh một trai coi như có, sinh mười gái kể là không.

Xem: Thập nữ viết vô.

Tiếng đời ví dâu là nội bộc,

Lại gọi rằng ngoại tộc nữ sanh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGOẠI TÔNG NƯƠNG PHẬN

Ngoại tông 外 宗: Dòng họ ngoài, chỉ dòng họ bên chồng. Nương phận: Nương nhờ thân phận.

Do quan niệm “Nữ sanh ngoại tộc 女 生 外 族”, nên chữ “Ngoại tông” dùng để chỉ dòng họ bên chồng.

Ngoại tông nương phận ý nói người đàn bà con gái khi có chồng thì về bên họ nhà chồng (tức dòng họ ngoài) để nương thân.

Mặc người cha mẹ dể duôi,

Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGOẠI VẬT

外 物

Ngoại: Ngoài. Vật: Vạn vật, chỉ các loại vật.

Ngoại vật chỉ cảnh vật bên ngoài.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Một phần Chức sắc Cửu Trùng Đài xu hướng về mặt đời, không để tâm lo trách nhiệm, tức là để cho ngoại vật lôi cuốn một cách dễ dàng.

Ngoại vật còn dùng để chỉ bên ngoài cảnh vật của thế gian, tức là không phải cảnh trần tục.

Nghĩa bóng: Người đi tu.

Ðừng ỷ văn chương khi ngoại vật,

Trên đầu người hỏi chẳng lời phân.

(Đạo Sử).

Ðừng cho ngoại vật lấn xen,

Tâm hồn mê muội như đèn lụn tim.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGOẠI XÂM

外 侵

Ngoại: Chỉ nước ngoài. Xâm: Lấn.

Ngoại xâm là sự xâm lược lãnh thổ do quân đội nước ngoài tiến hành bằng chiến tranh.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ba mặt trận ấy thấy hiển nhiên trước mắt, cả tương lai rực rỡ sẽ có lời hứa hẹn tốt đẹp, trước qua sau tới, giữ nền Quốc Ðạo, nếu mấy em, mấy con không bảo thủ vững vàng thì sẽ bị phản động lực ngoại xâm húng hiếp, cái tương lai ấy trong tay các em, các con, Thầy có lời yếu thiết gởi gấm cả tương lai rực rỡ đó cho mấy em mấy con.

Thống nhứt ngoại xâm đào hố thẳm,

Bắc Nam tranh chấp khó hùng cường.

(Thơ Nguyệt Quang).

 

 

NGOAN

1.- Ngoan là có nết na, dễ bảo, dễ dạy.

Như: Đứa bé nầy rất ngoan, cô gái vừa ngoan vừa hiền, bé khoẻ bé ngoan.

Phượng thờ cha mẹ vẹn đôi bên,

Rán chuộc gái ngoan bởi nết hiền.

(Đạo Sử).

Nếu dâu ngoan hiếu hạnh kỉnh nhường,

Mẹ chồng chắc thương hơn gái ruột.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ngoan là khôn, khôn khéo. Như: Khôn ngoan, đã gian lại ngoan.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có câu dạy: Các con nghe Thầy, Thầy chẳng biết vì cớ nào các con không để trí khôn ngoan mà xét đoán cho minh lý Ðạo của Thầy đã giao cho các con.

Phòng xưa lánh Hớn biết hưng suy,

Người có trí ngoan biết thế thì.

(Đạo Sử).

Già lụm cụm nói năng lẫn lộ,

Dâu có khôn phải độ nghĩa cho ngoan.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGOAN CỐ

頑 固

Ngoan: Ương ngạnh, cứng đầu, không biết mà làm càn. Cố: Cố chấp.

Ngoan cố là ương ngạnh, bướng bỉnh, không chịu nghe theo lẽ phải, hay lời dạy bảo của người trên.

Thánh giáo Đức Hộ Pháp dạy: Đã vậy, buổi đầu chia quốc thể, vì bổn phận của một vị Giáo chủ nền Quốc Đạo Cao Đài nên đứng ra trương cương lĩnh kêu gọi hoà bình hầu thống nhứt sơn hà, ngăn dòng hồng lệ, nhưng nhà cầm quyền hai miền ngoan cố tranh quyền lấn thế, ỷ sức ngoại bang giục tấn lửa binh.

Chứ biết lỗi mà cứ ngoan cố đi vào chỗ sai lầm, đó là tự chiêu kỳ hoạ.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGOAN ĐẠO

Ngoan: Dễ bảo, dễ dạy. Đạo: Tôn giáo.

Ngoan đạo là sùng đạo, tức là hoàn toàn tin tưởng theo tôn giáo mà giữ giới luật một cách nghiêm chỉnh.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Thơ, con đã ngoan đạo, mà sự ngoan đạo của con đó còn độ lắm kẻ. Thầy khen con.

Thầy cầu cho các con đặng ngoan đạo như Thơ vậy, sửa mình cho nên Chí Thánh...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGOAN NGẠNH

頑 硬

Ngoan: Ngang bướng. Ngạnh: Cứng đầu, không chịu nghe theo người khác.

Ngoan ngạnh là cứng đầu bướng bỉnh, làm càn bậy không chịu nghe theo lẽ phải.

Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,

Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.

(Kinh Sám Hối).

 

 

NGOẠN MỤC

玩 目

Ngoạn: Vui đùa, ưa ham, xem, ngắm có ý thích. Mục: Mắt, thấy.

Ngoạn mục là xem thấy đẹp mắt.

Như: Đồ trần thiết trông thấy ngoạn mục, phong cảnh ở đây trông thật là ngoạn mục.

Ngoạn mục chi hơn đặng ngoạn tâm,

Những mơ, những ước, những âm thầm.

(Đạo Sử).

 

 

NGOẠN TÂM

玩 心

Ngoạn: Vui đùa, ưa ham, xem, ngắm có ý thích. Tâm: Chỉ lòng dạ.

Ngoạn tâm là vui thích trong lòng.

Ngoạn mục chi hơn đặng ngoạn tâm,

Những mơ, những ước, những âm thầm.

(Đạo Sử).

 

 

NGOẢNH

Ngoảnh hay “Ngảnh”, là xoay, xây, quay mặt về một phía nào đó. Như: Ngoảnh mặt làm ngơ.

Thánh giáo Thầy có câu: Chiều thu nguyệt xế, non nhạn ngày thâu, lẩn thẩn ngày tháng qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc. Nếu chẳng bền lòng theo nẻo chánh mà thoát lối sông mê thì căn quả trả vay, chẳng biết ngày nào tiêu tận đặng.

Ngoảnh khóm mây chiều lằn ác lặn,

Kêu nhau đổ dặm tạm cô thôn.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Buồm trương dặm Bắc con chèo lửng,

Mặt ngoảnh non Tây bóng ác tà.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

NGOẠT

Ngoạt, như chữ “Nguyệt ”, có nghĩa là tháng.

Như: Niên ngọat nhựt thời, ngoạt kỵ là ngày phải kiêng trong một tháng.

Xem: Nguyệt.

Năng làm phải, nhựt nhu ngoạt nhiễm,

Lâu ngày dồn tính đếm có dư.

(Kinh Sám Hối).

Ngoạt nhựt chi qua khổ chẳng qua,

Phải cam thủ phận cải lòng tà.

(Đạo Sử).

 

 

NGỌC

1.- Ngọc là một loại đá quý có màu bóng, sáng dùng làm đồ trang sức.

Như: Ngọc ngà châu báu, chuỗi ngọc, ngọc trai.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Sanh nhằm đời có một Ðạo chánh chẳng phải dễ, mà bước lên con đường chông gai, lần vào non thẳm kiếm ngọc lại càng khó. Khó dễ nơi lòng, chớ đem thói ám muội mờ hồ vào đường đạo đức, sau ăn năn rất muộn.

Hòn ngọc khó đem trau Thánh chất,

Cân vàng khôn lấy nện chày kình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngà ngọc chưa phen đổi đức tài,

Giá trong ai dám độ nên hay.

(Đạo Sử).

2.- Ngọc còn dùng để chỉ cái gì quý báu, hoặc dùng để tôn xưng.

Như: Ngọc lộ, ngọc quế, lư ngọc, bút ngọc.

Mùi hương lư ngọc bay xa,

Kính thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,

Một kiếp sanh của bậc văn tài.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGỌC ẤN

玉 印

Ngọc: Đá quý, một thứ đá có màu sắc đẹp. Ấn: Con dấu của vua, quan.

Ngọc ấn là ấn bằng ngọc của nhà vua.

Các vị vua đời nhà Tần lấy ngọc làm ấn, nên người đời gọi là Ngọc ấn.

Ngọc ấn đồng nghĩa với “Ngọc tỷ 玉 璽”.

Giao Ngọc ấn tôi lên chấp chánh,

Văn nghe qua chạy lánh thiền môn.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

NGỌC CÁC

玉 閣

Ngọc: Chỉ sự quý báu. Các: Cái lầu gác.

Ngọc các là lầu ngọc, hay gác ngọc, chỉ những nhà cao sang, quyền quý.

Như: kim lâu ngọc các.

Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,

Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.

(Đạo Sử).

Thẳm thẳm ngàn trùng kìa ngọc các,

Vơi vơi muôn dặm ấy Thiên lôi.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

NGỌC CÁT LẦM

Ngọc: Thứ đá quý có sắc bóng, sáng. Cát lầm: Bùn cát làm dơ bẩn, ví thân phận con người.

Ngọc cát lầm, do thành ngữ “Cát lầm ngọc trắng”, có nghĩa là bùn cát làm nhơ bẩn, vẩn đục viên ngọc trắng, ví với thân phận con người bị hành hạ khổ sở.

Chung vầy sức mạnh non sông vững,

Chia rẽ lòng dân ngọc cát lầm.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

NGỌC CẬN HƯƠNG THÂN

玉 近 香 親

Ngọc cận: Gần gũi người ngọc. Hương thân: Thân thiết mùi hương.

Ngọc cận hương thân là nói những người đàn ông ham mê sắc dục, thường gần gũi, chung đụng với đàn bà con gái.

Hỏi đến khách sớm đào tối mận,

Đon những trang ngọc cận hương thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGỌC CẦU LAM

Ngọc: Thứ đá quý có màu sắc đẹp. Cầu Lam: Tức Lam kiều, nơi Bùi Hàng gặp Vân Anh.

Ngọc cầu Lam tức là cái chày bằng ngọc để giã thuốc mà Bùi Hàng dùng làm vật sính lễ để cưới nàng Vân Anh ở cầu Lam, tức Lam kiều.

Xem: Cầu Lam.

Lỡ lối cũ động đào lạc bước,

Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Trông tình sông Ngự dây loan đứt,

Đợi ngọc cầu Lam tuổi nguyệt chồng.

(Thơ Chánh Đức).

 

 

NGỌC CƠ

玉 乩

Ngọc: Chỉ sự cao quý, tiếng tôn xưng. Cơ: Còn đọc “ 乩”, là một thứ vật dùng để thông công với các Đấng vô hình.

Ngọc cơ, hay “Đại Ngọc cơ”, là một dụng cụ dùng để thông linh với các Đấng Tiên Phật. Nhờ Ngọc cơ các Đấng mới có thể giáng viết để khuyên dạy nhơn sanh.

Có hai loại Ngọc cơ: Tiểu Ngọc cơ, đùng để cầu các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật; và Đại Ngọc cơ dùng để cầu Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Giỏ Ngọc Cơ đương bằng tre, cần bằng cây dương liễu hay cây Dâu, đầu chạm hình chim Loan, cây cọ bằng cây mây, dùng viết chữ xuống mặt bàn cơ. Người đứng ngoài có thể đọc chữ được.

Xem: Phò loan.

Nhìn lên vòi vọi nguy nga,

Có hình Thượng Phẩm cùng là Ngọc cơ.

(Lược Thuật Toà Thánh).

Để di tích ban sơ khai Đạo,

Nhờ Ngọc cơ thấu đạo huyền vi.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

NGỌC CUNG

玉 宮

Ngọc: Thứ đá quý có màu sắc đẹp. Cung: Cung điện.

Ngọc Cung là cung điện bằng ngọc, chỉ cõi Tiên.

Ngọc cung còn có thể hiểu Cung Bạch Ngọc, nơi triều nghi của Đức Chí Tôn.

Trước có căn duyên ở Ngọc cung,

Cầu con nên phải đến phân cùng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trước vốn hoả Thần ở Ngọc Cung,

Giúp Nam không đặng phận tôi cùng.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

 

 

NGỌC ĐÁ

Ngọc: Thứ đá quý có màu sắc đẹp. Đá: Vật rắn tạo nên võ trái đất.

Ngọc đá, như chữ “Ngọc thạch 玉 石”, là ngọc và đá, hai loại vật gần giống nhau nhưng quý tiện khác nhau.

Ngọc đá dùng để chỉ sự tốt xấu, sang hèn lẫn lộn, không phân biệt được.

Xem: Ngọc thạch.

Nay mừng ngọc đá hẳn phân minh,

Vui thấy tiên sinh chẳng tội tình.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGỌC ĐẾ

玉 帝

Ngọc Đế, gọi tắt của chữ “Ngọc Hoàng Thượng Đế 玉 皇 上 帝”, là Đấng Tạo Hoá, tức vua Trời.

Trong Đạo Cao Đài, Ngọc Đế hay Ngọc Hoàng Thượng Đế được gọi là Đức Chí Tôn, Cao Đài Ngọc Đế hay Huyền Khung Cao Thượng Đế.

Mấy khi gặp Chơn truyền xuống thế,

Mẹ mới xin Ngọc Đế xuống truyền.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

NGỌC GIAI

玉 階

Ngọc: Thứ đá quý có màu sắc đẹp. Giai: Bậc thềm.

Ngọc giai là thềm ngọc, chỉ bậc thềm nơi nhà vua chúa ngự.

Trong tôn giáo Cao Đài, tiếng Ngọc giai dùng để chỉ thềm của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Linh Tiêu nhứt tháp thị Cao Đài,

Đại hội quần Tiên thử ngọc giai.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

 

 

NGỌC HOÀ LẠI LỄ

玉 和 吏 禮

Ngọc: Phái Ngọc của chức sắc Cửu Trùng Đài. Hoà: Chỉ về Hoà viện. Lại: Chỉ về Lại viện. Lễ: Chỉ về Lễ viện.

Do bài thi của Đức Lý Giáo Tông, phân chia Cửu viện thuộc quyền hành Chánh Phối Sư ba phái Thái, Thượng, Ngọc của Cửu Trùng Đài.

Chánh Phối Sư phái Ngọc Chưởng quản ba viện trong Cửu viện, mỗi viện lại đặt dưới quyền của một vị Thượng Thống và hai vị Phụ Thống.

Ba viện thuộc phái Ngọc trông coi là:

- Hoà viện phụ trách hoà giải việc tranh tụng cá nhân trong Đạo, chỉ cảnh cáo hay răn phạt các tội nhẹ. Còn các tội nặng hay nghiêm trọng thì Hoà viện phải chuyển lên Hội Công Đồng hay Toà Tam Giáo.

- Lại viện lo việc cầu phong, cầu thăng, việc thăng thưởng và đề nghị việc bổ nhiệm hau thuyên chuyển chức sắc đi hành Đạo.

Lại viện có nhiệm vụ ban hành các văn thư, huấn lịnh của Hội Thánh, tiếp nhận phúc trình từ các địa phương gởi về.

- Lễ viện lo việc thờ phượng, cúng kính, các nghi thức tế lễ, tang hôn.

Lễ viện còn phụ trách tổ chức các cuộc lễ lớn trong Đạo và lo việc in ấn kinh sách của Đạo...

Xem: Cửu viện.

Ngọc Hoà, Lại, Lễ, quyền cai quản,

Cửu viện phân qua khả khán tường.

(Lý Giáo Tông Giáng).

Phái Thượng gồm Học, Y, Nông,

Ngọc Hoà, Lại, Lễ cũng trong Cửu Trùng.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ

玉 皇 上 帝

Hay “Ngọc Hoàng”.

Ngọc Hoàng Thượng Đế hay Ngọc Hoàng, là vua Trời, tức Đấng Tạo Hoá ra Càn khôn Vũ trụ và vạn vật. Ngọc Hoàng Thượng Đế còn gọi là Thiên Đế, Thượng Đế hay Ngọc Đế.

Đối với Đạo Cao Đài, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị Giáo chủ, dùng huyền diệu cơ bút khai sáng ra nền Đại Đạo, và giáng cơ xưng danh là “Ngọc Hoàng Thượng Đế kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, giáo Đạo Nam Phương”.

Xem: Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

1.- Ngọc Hoàng Thượng Đế:

Nay gần đặng Ngọc Hoàng Thượng Đế,

Tìm Chí Linh trị thế cứu đời.

(Kinh Thế Đạo).

2.- Ngọc Hoàng:

Nam Mô Thượng Đế Ngọc Hoàng,

Mở cơ tận độ nhẹ nhàng chơn linh.

(Kinh Tận Độ).

 

 

NGỌC HOÀNG KINH

玉 皇 經

Ngọc Hoàng Kinh là bài Kinh xưng tụng Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế của đạo Cao Đài.

Thời kỳ đầu mới khai nền Đạo, Đức Chí Tôn giao cho Ngài Ngọc Lịch Nguyệt chọn lựa kinh cho Đạo Cao Đài tụng đọc trong thời cúng, Ngài bèn tìm được bốn bài kinh là Ngọc Hoàng kinh, và ba bài kinh Tam giáo Tâm kinh: Là Phật giáo Tâm kinh, tức là Nhiên Đăng Cổ Phật Chí Tâm quy mạng lễ, Tiên giáo Tâm kinh, tức là Thái Thượng Chí Tâm quy mạng lễ, Nho giáo Tâm kinh, tức là Khổng Thánh Chí Tâm quy mạng lễ.

Bốn bài kinh này đều bằng chữ Hán, Hội Thánh sau này phiên âm ra Quốc ngữ và cho in trong những cuốn kinh “Thiên Đạo và Thế Đạo”, do Hội Thánh giữ bản quyền.

Theo Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, bài “Ngọc Hoàng Kinh” được Ngài Ngọc chọn từ bài kinh “Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo” (do Đức Phù Hựu Đế Quân giáng tả tại La Phù Sơn, Trung Quốc ngày 1 tháng 9 năm Tân Mão 1891), là kinh Minh Sư.

Ở Việt Nam, bài kinh nầy được in trong quyển “Văn Đế Cửu Kiếp Bảo Sanh Kinh, Võ Đế Cửu Kiếp Vĩnh Mạng Kinh hợp biên”, xuất bản năm 1923 tại Quan Âm Đường (Thâm Nhiên, Long An).

Sau đây chúng tôi chép lại nguyên văn chữ Quốc ngữ bài Ngọc Hoàng Thượng Đế Kinh trong quyển kinh Thiên Đạo và Thế Đạo do Hội Thánh xuất bản và là lời giải thích từng câu kinh.

- Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng

Đức Thượng Đế nơi cõi Đại La Thiên, nên còn gọi là Đại La Thiên Đế, một vị Thiên Đế cầm quyền rộng lớn như một tấm lưới trời bao trùm cả các cõi thế giới (Đại La).

Ngài cũng là Đấng Thái Cực Thánh Hoàng, tức là vị vua Thánh ngự tại ngôi Thái Cực cầm quyền sinh hoá vạn vật.

- Hoá dục quần sanh Thống ngự vạn vật.

Ngài thường tạo hoá và nuôi dưỡng chúng sanh, cai quản và điều hành sự tiến hoá của muôn vật.

- Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.

Nơi Ngài ngự, phía trước là cổng Huỳnh Kim Khuyết sơn bằng vàng ròng chiếu sáng hiện ra mù mù, diệu vợi.

Bên trong là một là một kinh thành toàn bằng ngọc trắng ngần, nguy nga, đồ sộ.

- Nhược thiệt, nhược hư, bất ngôn nhi mặc tuyên đại hoá.

Dường như thật, dường như hư. Ngài không nói năng chi hết mà bốn mùa vẫn luân chuyển, vạn vật vẫn sinh hoá.

- Thị không, thị sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh.

Quyền năng của Ngài biến hoá khôn lường, muốn có là có, muốn không là không. Và quyền năng ấy còn có thể sai khiến các vị Thần linh, mặc dù không thấy Ngài điều khiển chi hết.

- Thời thừa Lục long, du hành bất tức.

Ngài thường cỡi sáu rồng để vận hành đi mọi nơi, khắp cả bầu trời, không bao giờ ngừng nghỉ.

- Khí phân Tứ tượng oát triền vô biên.

Còn nói về sự xuất hiện của Ngài thì Ngài là khối Đại linh quang từ khí hư vô tạo thành. Khi Thái cực xuất hiện thì Thái cực tạo thành lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh bát quái và cứ thế biến hoá, xoay chuyển qua lại mãi mãi không chỗ cùng tột, không giới hạn.

- Càn kiện cao minh, vạn loại thiện ác tất kiến,

Trong Bát quái thì ngôi Càn cứng mạnh nhứt, sáng tỏ nhứt, cao vọi nhứt. Càn tượng trưng cho Trời, cho Thượng Đế, còn khôn tượng trưng cho Đất. Như vậy, vạn vật đều do Thượng Đế (ngôi Càn) tạo dựng và che chở, nên muôn loài, loài nào lành, dữ, Ngài đều thấu rõ hết.

- Huyền phạm quảng đại, nhứt toán hoạ phước lập phân.

Cái phạm vi huyền diệu của Ngài thật vô cùng rộng lớn, vô lượng, vô biên, không sao tả hết được.

Kẻ dữ sẽ bị hoạ, kẻ lành sẽ được phước, đâu đó phân minh. Chỉ cần tính toán trong nháy mắt là Ngài có thể phân định hoạ phước một cách công bình rành mạch, không sai chạy bao giờ.

- Thượng chưởng Tam thập lục Thiên, Tam Thiên Thế giái. Hạ ốc Thất thập nhị Địa, Tứ Đại Bộ Châu.

Ở phần trên vũ trụ thì Ngài chưởng quản ba mươi sáu cung Trời và ba ngàn thế giới. Ở phần dưới vũ trụ, thì Ngài tóm nắm bảy mươi hai Địa cầu và bốn Đại Bộ Châu.

- Tiên Thiên Hậu Thiên, tịnh dục Đại Từ Phụ.

Dù là thời kỳ Tiên Thiên hay thời hậu Thiên, Ngài cũng là ông Cha lành, một Ông Cha ban phát ân huệ vô biên, thương yêu nuôi dưỡng, chở che muôn loài.

- Kim ngưỡng, cổ ngưỡng, phổ tế Tổng Pháp Tông.

Đời xưa hay đời nay, muôn loài đều trông lên mong ngóng (ngưỡng vọng), chờ đợi, hy vọng nơi Ngài.

Các Tông phái đều do Ngài tóm thâu tất cả. Các tông phái nầy được xuất hiện ở những địa phương khác nhau, có những hình thức khác nhau, giáo điều khác nhau nhưng thảy đều có chủ đích tế độ chúng sanh, đều bắt nguồn nơi Ngài và chính những vị giáo chủ các tông phái ấy đều thọ lịnh Ngài mà lập giáo.

- Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi Quân. Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi Chủ.

Ngài chính là vị vua của Mặt trời, mặt trăng, các vì sao và Thần thời gian.

Ngài cũng là chủ tể cả Thánh, Thần, Tiên, Phật.

- Trạm tịch chơn Đạo. Khôi mịch tôn nghiêm.

Ngài lặng lẽ, chơn chánh và sâu xa, mở rộng nền chơn đạo cho rộng lớn và uy nghiêm vô cùng.

- Biến hoá vô cùng, lũ truyền Bửu Kinh dĩ giác thế.

Đạo Trời thiên biến vạn hoá, không cùng không tận. Ngài cũng đã nhiều lần truyền kinh quý để thức tình người đời.

- Linh oai mạc trắc, thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh.

Cái oai quyền thiêng liêng của Ngài không thể đo lường được.

Ngài cũng từng đem những giáo điều diệu mầu để làm lợi ích cho chúng sanh.

- Hồng oai, hồng từ, vô cực, vô thượng. Đại Thánh, đại nguyện, đại tạo, đại bi.

Cái oai linh to lớn, cái lòng đại từ bi của Ngài thật là lớn vô ngần, không chỗ nào tận cùng, không còn gì cao hơn nữa.

Đức Ngài là một vị Đại Thánh, có một tâm nguyện rộng lớn, một lòng đại từ bi nên Ngài là Đấng Tạo hoá ra Càn khôn vũ trụ và vạn vật.

- Huyền Khung Cao Thượng Đế. Ngọc Hoàng, tích phước hựu tội, Đại Thiên Tôn.

Ngài chính là Đức Huyền Khung Cao Thượng Đế, thường ban phước tha tội mà cũng chính là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là một vị Đại Thiên Tôn.

 

Thành kỉnh tụng Ngọc Hoàng Kinh.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

Nhạc Tấu Huân Thiên dội Tổ Đình,

Thành tâm tụng niệm Ngọc Hoàng Kinh.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

NGỌC HƯ CUNG

玉 虛 宮

Hay “Ngọc Hư”.

Ngọc Hư Cung, hay “Ngọc Hư”, là cung ngự của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Trong Ngọc Hư Cung có Linh Tiêu Điện, là nơi họp thiên triều của Đức Chí Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, cầm quyền điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ.

1.- Ngọc Hư Cung:

Ngọc Hư Cung, sắc lịnh kêu,

Thưởng, phong, trừng, trị phân điều đoạ thăng.

(Kinh Tận Độ).

2.- Ngọc Hư:

Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,

Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.

(Kinh Tận Độ).

Phải giữ Chơn Linh đặng trọn lành,

Ngọc Hư toàn ngự Đấng tinh anh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chơn linh đẹp đẽ mỹ miều,

Xuất dương sớm đã đến triều Ngọc Hư.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGỌC KINH

玉 京

Ngọc: Chỉ Bạch ngọc. Kinh: Kinh đô.

Ngọc Kinh, hay “Bạch Ngọc Kinh” là nơi ngự của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức triều nghi nơi cõi Trời.

Về sau, chữ “Ngọc kinh” còn được dùng để chỉ kinh đô nhà vua. Như: Trong tác phẩm Nhị Độ Mai có câu: Ngại ngùng thay lúc phân bào, Kẻ về tử lý người vào Ngọc kinh.

Đạo pháp đương kim dương chánh giáo,

Linh quang chiếu diệu Ngọc Kinh cung.

(Kệ Trống).

 

 

NGỌC LAM ĐIỀN

Ngọc: Thứ đá quý có màu sắc đẹp. Lam điền: Ruộng sinh ra ngọc Lam.

Ngọc Lam điền, do tích “Lam điền chủng ngọc 藍 田 種 玉, tức là ruộng Lam trồng ngọc.

Do trong Bộ Sưu Thần Ký chép: Có người bộ hành đến nhà Ung Bá xin nước uống, uống xong nước, lấy cho Ung Bá một thăng hột giống ngọc và nói: Trồng hạt ngọc này, sẽ sinh ra ngọc tốt. Ung Bá đem trồng sau mọc lên năm cây ngọc, gọi là ngọc Lam điền, nơi đất đó gọi là ngọc điền (ruộng ngọc).

Xem: Lam điền.

Tỷ nhạc thân đòi ngọc Lam điền,

Mình phải đủ phép Tiên trồng đặng ngọc.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGỌC LÀNH ĐÁNG GIÁ

Ngọc lành: Viên ngọc tốt, đẹp. Đáng giá: Xứng đáng, có giá trị.

Ngọc lành đáng giá là viên ngọc quý rất xứng đáng, rất có giá trị, ví với người có đạo đức được xem trọng, rán gìn giữ đừng để mất phẩm hạnh.

Ngọc lành đáng giá biết bao lăm,

Để mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trang điểm ngọc lành cho đáng giá,

Dồi mài chí thiện Thượng Minh Thanh.

(Đức Lý Giáo Tông).

 

 

NGỌC LÀNH GIÁ QUÝ

Ngọc lành: Viên ngọc tốt, đẹp. Giá quý: Quý giá, tức có giá trị cao.

Ngọc lành giá quý, dịch từ trong thiên Tử Hãn, sách Luận Ngữ câu: “Mỹ ngọc đãi giá 美 玉 待 價” tức là ngọc tốt chờ đợi được giá cao mới bán.

Thầy Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử: Hữu mỹ ngọc ư tư, uẩn độc nhi tàng chư? Cầu thiện giá nhi cô chư? Tử viết: Cô chi tai! Cô chi tai! Ngã đãi giá giả dã 有 美 玉 於 斯, 慍 櫝 而 藏 諸? 求 善 價 而 詁 諸? 子 曰: 詁 之 哉! 詁 之 哉! 我 待 價 者 也, nghĩa là nay có viên ngọc quý, bỏ vào hộp mà cất đi hay là cầu giá đắt mà bán? Khổng Tử nói: Nên bán lắm chứ! Nhưng ta còn đợi giá, ý nói kẻ sĩ có tài chờ vua biết đúng giá trị của mình, mới chịu ra làm quan.

Sau người ta dùng “Ngọc lành giá quý”, để nói về người con gái kén chồng.

Ngọc lành giá quý âu nhờ chuốt,

Lái vững thuyền khơi há ngại chìm.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGỌC LẦU

Ngọc: Thứ đá quý có màu sắc đẹp. Lầu: Toà lầu đài.

Ngọc Lầu, như chữ “Lầu Ngọc”, là toà lầu bằng ngọc, chỉ Bạch Ngọc Kinh, là toà lầu đài thường ngự của Đức Chí Tôn.

Xem: Bạch Ngọc Kinh.

Kìa Thiên cảnh con đường vọi vọi,

Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu.

(Kinh Tận Độ).

 

 

NGỌC LÌA HIỆP PHỐ

Hay “Ngọc lìa Hợp Phố”. Ngọc lìa: Ngọc trai bỏ đi.

Hiệp Phố: Hay Hợp Phố là tên một xứ ngày xưa thuộc về Giao Châu, nay thuộc Châu Khâm, Châu Liêm, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

Ngọc lìa Hiệp Phố ý nói ngọc trai bỏ đất Hiệp Phố mà đi xứ khác.

Đời Hậu Hán, đất Hiệp Phố gần miền biển có nhiều hạt trai. Quan cai trị lúc bấy giờ quá hà khắc, bắt dân phải đi lặn mò ngọc trai, trai đi xứ khác hết, không có ngọc.

Về sau, Mạnh Thường là người nhơn đức, được về làm Thái thú ở Hiệp Phố, trai mới bắt đầu trở lại.

Xem: Châu về Hiệp Phố.

Ngọc lìa Hiệp Phố hồi đông,

Báu xưa huờn trả con rồng cháu tiên.

(Xuân Hương Giáng Bút).

 

 

NGỌC LỊCH NGUYỆT

玉 曆 月

Ngọc Lịch Nguyệt là Thánh danh của Ngài Lê Văn Lịch, được Đức Chí Tôn phong vào phẩm Đầu Sư phái Ngọc Cửu Trùng Đài vào năm Bính Dần 1926.

Thời gian đầu khi mới khai Đạo, Ngài Ngọc Lịch Nguyệt được lịnh Đức Chí Tôn tìm chọn ba bài kinh Tam giáo để làm kinh tụng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Ngài cùng với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt ban hành quyển “Tứ Thời Nhựt Tụng”, trong đó các bài kinh được in bằng chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ và ban hành vào năm Mậu Thìn, 1928.

Vào năm 1934, hai ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tách khỏi Toà Thánh Tây Ninh thì Ngài Ngọc Lịch Nguyệt cũng rời Toà Thánh, trở về Vĩnh Nguyên Tự để tu hành.

Xem: Lê Văn Lịch.

Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt, và Lê Văn Lịch tự Thiên ân là Ngọc Lịch Nguyệt...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGỌC MÃ KIM ĐÀNG

Hay “Ngọc mã kim đường”.

Ngọc mã kim đàng, như chữ “Kim mã ngọc đường 金 馬 玉 堂”, tức là chỉ người có tài văn học, chuyên về cung phụng từ lệnh ở bên vua.

Xưa người làm quan mà được vào phẩm ấy thì lấy làm vinh quý lắm.

Ngọc mã kim đường hay Kim mã ngọc đường dùng để chỉ chung các nhà phú quý.

Xem: Kim mã ngọc đường.

Người thời Ngọc mã với Kim đàng,

Quên kẻ dạ đài mối thảm mang.

(Đạo Sử).

 

 

NGỌC NÁT CHÂU CHÌM

Ngọc nát: Viên ngọc bể nát. Châu chìm: Hạt châu chìm mất.

Châu ngọc là vật quý giá thường được ví với mạng sống của con người, hoặc cuộc đời của kẻ quý phái.

Như vậy “Ngọc nát châu chìm”, dùng để ví với sự tan nát cuộc đời của con người, chỉ sự chết.

Dâu ngọc nát châu chìm cũng gắng,

Tổ Đình đang lẳng lặng chờ mong.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGỌC NỮ

玉 女

Ngọc: Quý báu như ngọc, tiếng tôn xưng. Nữ: Người con gái.

Ngọc nữ theo nghĩa đen là những đứa bé gái đẹp và quý như ngọc.

Theo truyện thần tiên, nơi Thượng giới các vị tiên trưởng thường có các vị tiểu đồng hầu hạ, gái thì được gọi là Ngọc nữ, trai thì được gọi là Kim đồng.

Lên Vân Xa ngồi nhìn thấy rõ,

Hữu Ngọc nữ tả có Kim đồng.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

NGỌC NGÀ

Ngọc: Loài đá quý, quý giá. Ngà: Nanh của con voi, một vật quý giá.

Ngọc ngà là ngọc và ngà, dùng để ví với gì cái đẹp đẽ, quý giá.

Ngọc ngà còn chỉ thân thể người phụ nữ, như thân ngọc ngà hay thân ngà ngọc.

Ngọc ngà chưa quý đến mua lòng,

Có Ðạo phải gìn kiếm chút công.

(Đạo Sử).

 

 

NGỌC NGÀ ĐẠO ĐỨC

Sở quốc cho của cải là báu, nên buộc các chư hầu cống lễ ngọc ngà, còn nước Hàn cho đạo đức là báu nên xin đem điều nhân nghĩa đến cống lễ.

Do tích trong Đông Châu Liệt Quốc, nước Hàn là một nước nhỏ, nên phải làm chư hầu của Sở quốc, hằng năm phải đem ngọc ngà châu báu triều cống vua Sở.

Đến lệ, nước Hàn không còn ngọc ngà châu báu để triều cống nữa, nên có một vị hiền sĩ bày kế, xin Hàn Vương cho làm sứ giả sang nước Sở ra mắt Sở vương tâu rằng: Hằng năm Hàn quốc đều làm tròn sứ mệnh triều cống, năm nay vì ngọc ngà châu báu hết, chỉ còn những vật báu khác, không biết Bệ Hạ có nạp dụng không?

Vua Sở hỏi vật báu ấy là gì. Sứ giả tâu: Đó là điều đạo đức nhân nghĩa của nước Hàn, từ trên là vua, bủa đức xuống dân, dân lấy đó mà hoà thuận nhau sống, mạnh không hiếp yếu, giàu chẳng lấn nghèo, mọi người đều lấy nhân nghĩa mà cư xử nên xem nhau như anh em ruột thịt, trong ấm ngoài êm, nhờ vậy dân trong nước được an cư lạc nghiệp, nhà không đóng cửa, ngoài đường chẳng ai lượm của rơi. Đây là những món báu quý giá mà Hàn quốc muốn triều cống cho nước Sở.

Sở Vương nghe qua suy ngẫm một hồi, rồi ra lịnh bãi bỏ lệ triều cống cho các nước chư Hầu, hoàn lại những ngọc ngà châu báu mà trước kia Nước Hàn đã triều cống cho Sở quốc và lấy điều nhân nghĩa đạo đức bủa xuống muôn dân các nước.

Do điển này, Đức Hộ Pháp dạy vẽ khuôn hình trên hành lang bên nam phái của Báo Ân Từ lấy tích “Người báu hay của báu”.

Sở buộc cống ngọc ngà báu nhứt,

Báu của Hàn đạo đức nghĩa nhân.

Sở Vương nghe sứ phân trần,

Báu xưa vui trả, xưng thần bãi đi.

(Báo Ân Từ).

 

 

NGỌC THẠCH

玉 石

Ngọc: Thứ đá quý có màu sắc đẹp. Thạch: Đá.

Ngọc thạch là ngọc và đá, chỉ về quý tiện, tức là cái quý trọng và cái hèn kém.

Ngọc thạch còn hàm ý về sự lẫn lộn cái tốt và cái xấu, như chữ “Vàng thau”.

Vàng thau lẫn lộn không người thổi,

Ngọc thạch bất phân thiếu kẻ trau.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGỌC THỐT

Hay “Ngọc thuyết”.

Ngọc: Người ngọc, chỉ người con gái. Thốt (thuyết): Nói, nói chuyện.

Ngọc thốt, như chữ “Ngọc thuyết 玉 說”, ý chỉ người đàn bà, con gái đẹp nói chuyện.

Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,

Vàng rơi riêng chạnh khách Chương đài.

(Thơ Thanh Thuỷ).

 

 

NGỌC VẨN CHÂU TRẦM

Ngọc vẩn: Ngọc bị vẩn đục. Châu trầm 珠 沉: Hạt châu bị chìm.

Ngọc vẩn châu trầm, đồng nghĩa với câu “Ngọc phá châu trầm 玉 破 珠 沉”, tức là làm cho viên ngọc hư vỡ, hạt châu chìm mất.

Châu ngọc là vật quý giá thường được ví với cuộc đời người phụ nữ quý phái. Thế mà “Ngọc phá châu trầm”, tức là ngọc nát, châu chìm thì còn đâu là vật quý giá nữa, ví với sự tan nát cuộc đời của ngườn con gái.

Than xong, ngọc vẩn châu trầm,

Lượng triều tung toé, sóng gầm nước reo.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

NGOE

Ngoe là tiếng dùng để chỉ chân (hay cẳng) của loài tôm, loài cua.

Như: Cua có hai càng tám ngoe, anh ấy hiện thời bị gãy càng gãy ngoe hết.

Trước mặt thì làm bộ sụt sè,

Sau lưng vốn cua ngoe đi ngược.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÒI

1.- Ngòi là ngọn, chót của cây bút, cây viết.

Như: Ngòi bút lông, ngòi viết chì bị gãy, viết mực bị hỏng ngòi.

Vừa viết tới đây tay vọp bẻ,

Ngòi viết rè khó vẽ nên điều.

(Phương Tu Đại Đạo).

Cạn trần chưa biết ai là bạn,

Liều với xuân xanh bút một ngòi.

(Thơ Thuần Đức).

2.- Ngòi là bộ phận dẫn lửa để làm cho nổ, hoặc chỉ khởi đầu của chiến tranh.

Như: Ngòi pháo, ngòi nổ của bom mìn, ngòi lửa chiến tranh, ngòi binh lửa.

Xuân còn nung đậm ngòi binh lửa,

Xuân chẳng quét thanh đám bụi trần.

(Thơ Thượng Sanh).

3.- Ngòi là đường nước chảy tự nhiên, thông với sông hoặc đầm, hồ.

Như: Sông ngòi, cá theo ngòi vào ruộng, ngòi nước thông với đầm hồ.

Long Tuyền Kiếm vừa khơi lên được,

Ngòi Long mạch phun nước tứ tung.

(Thử Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGÒI BÚT

Ngòi: Ngọn, chót của cây viết. Bút: Dụng cụ để viết, vẽ thành nét.

Ngòi bút là ngòi viết, một vật bằng kim loại, một đầu nhọn, còn đầu kia gắn vào quản bút để chấm mực viết.

Ngòi bút còn dùng để chỉ lối văn của một cá nhân. Như: Ngòi bút tả cảnh tuyệt vời của Nguyễn Du.

Ngòi bút tinh hoa còn tạc nét,

Câu thơ toàn bích, mãi lưu vần.

(Thơ Huệ Ngàn).

 

 

NGÒI VĂN

Ngòi: Ngọn, chót của cây viết. Văn: Bài văn.

Ngòi văn, như chữ “Ngòi bút”, dùng để chỉ lối văn đặc biệt của một cá nhân.

Như: Trong quyển sách nầy, tác giả đã thể hiện ngòi văn giản dị, và nhiều cảm xúc.

Tôi dám chắc rằng tuy vậy mặc dầu mà cái ngòi văn tuyệt bút rõ ràng, hễ càng thấu tứ lại càng thâm thúy nơi lòng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGON

1.- Ngon là thức ăn hay thức uống có vị vừa miệng, có cảm giác ưa thích.

Như: Đồ ăn ngon, rượu ngon, gạo ngon cơm.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy chẳng khi nào dụng những kẻ ấy vào nền Ðạo bao giờ. Than ôi! Tiền lớn bạc nhiều, món ngon vật quý, hay xiêu lòng phàm phu. Của bất nghĩa kẻ trần còn chẳng chịu dùng thay!

Thanh cao là biết ngon dưa muối,

Hơn ngự lầu yên ngó đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Kiến thân viếng sớm thăm hôm,

Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Ngon là nói cái gì làm cho người ta ưa thích, hoặc được hưởng thụ dễ dàng.

Như: Lời nói ngọt ngon, Làm việc ấy rất ngon lành, trông ngon mắt.

Kẻ tham lợi cột mai cột mối,

Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.

(Kinh Sám Hối).

Hễ tánh gái thì hơi e lệ,

Lời ngọt ngon đẹp đẽ khá gìn lòng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGON NGỌT

Ngon: Thức ăn gây được cảm giác thích ăn. Ngọt: Có vị như vị đường, mật.

Ngon ngọt là thức ăn có vị ngon.

Ngon ngọt còn dùng để chỉ lời lẽ khéo léo, dễ lọt tai, dễ làm xiêu lòng.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có dạy: Các con, đáng kiếp cho mấy con nhé, phải có hình phạt như vậy các con mới biết sợ, chớ dỗ dành ngon ngọt các con không sợ, còn Thái Bạch hăm trừng thì các con đều kinh khủng...

Giữa chợ thế khéo lo lựa món,

Mùi đắng cay ngon ngọt tại nơi mình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÓN

1.- Ngón là phần cử động được ở đầu bàn tay, bàn chân người và một số động vật. Như: Ngón giữa, ngón tay bị đứt, đau đầu ngón tay.

Giải về Bắt Ấn Tý, trong quyển Giáo Lý của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Hai bàn tay chấp lại, ngón cái của bàn tay trái chỉ vào ngón áp út, đó gọi là “Bắt Ấn Tý”, tức chỉ sự chủ tâm về kính Trời.

Ăn bóc chưa hay dơ ngón bóc,

Ham phàm ắt phải lụy cùng phàm.

(Đạo Sử).

2.- Ngón là tài nghệ, sở trường riêng. Như: Ngón chơi, ngón đàn, ngón võ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Qua chỉ rõ một bằng chứng, dầu cho cả thảy mấy em trong Nhạc Sĩ cho tới chức lớn của Bộ Nhạc là Tiếp Lễ Nhạc Quân, mấy em cầm một cây đờn mà đờn thì không có đứa nào giống đứa nào hết, bởi cả tinh thần ra trong ngón đờn của mấy em, đó là cá nhân của mấy em đó vậy.

Muốn ngón hay đừng thẳng dây đờn,

Ngọt với vợ còn hơn quờn thịnh nộ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGỌN

1.- Ngọn là phần đầu chót của cây, đối lập với gốc. Như: Ngọn cây, ngọn tre, ngắt ngọn bí, ngọn rau, ngọn cỏ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Mùi chung đỉnh, bả vinh hoa có khác chi ngọn cỏ phơi sương, vừng mây giữa gió.

Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,

Đạo quân vương chữ dặn nơi lòng.

(Kinh Thế Đạo).

2.- Ngọn là từ dùng để chỉ từng đơn vị một số cây hay một số vật có đầu nhọn hoặc có hình nón. Như: Mấy ngọn cau, ngọn núi, ngọn đèn, ngọn bút, ngọn lửa.

Thánh giáo Thầy có dạy về quả Càn Khôn có câu: Ðáng lẽ Trái ấy phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện rất quý báu cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới đó. Nhưng mà làm chẳng kịp thì con tuỳ tiện, làm thế nào cho kịp Ðại Hội.

Tiên phong phủi ngọn phất trần,

Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.

(Kinh Thế Đạo).

Nam Giao vắng vẻ đường cung kiếm,

Văn Hiến khô khan ngọn bút thần.

(Đạo Sử).

Quần xoa đỡ ngọn binh đao,

Xây hình thục nữ giặm màu nước non.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Ngọn là từ dùng để chỉ từng đơn vị những vật chuyển động thành làn, hoặc thành luồng.

Như: Ngọn gió, ngọn sóng

Thánh giáo trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Vậy trong đời nầy, sự buồn vui, vinh nhục, phước hoạ, cũng chẳng khác nào mấy ngọn sông, mấy hòn núi của Thầy lấy luật thiêng liêng mà tạo.

Ba đào ngọn nước với nguồn sông,

Như một cây trôi ở giữa dòng.

(Đạo Sử).

Ðấp biển vì lo bờ biển lở,

Moi sông bởi muốn ngọn sông sâu.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

NGỌN GIÓ CÁC ĐẰNG

Ngọn gió: Hướng gió thổi. Các Đằng: Đằng Vương Các, một cái gác là nơi danh lam thắng cảnh ở Hàng Châu, Trung Quốc. Gác nầy do Đằng Vương Lý Nguyên Anh đã xây dựng, lấy hàm tước của vua phong để đặt tên gác.

Ngọn gió Các Đằng là nói Vương Bột mới 16 tuổi, đi thuyền nhờ gặp ngọn gió xuôi đưa, nên trong một đêm đã tới gác Đằng Vương, vừa kịp lúc vào dự yến và làm bài tự nổi tiếng vào thời bấy giờ.

Ngọn gió các Đằng chỉ dịp may hiếm có, cơ hội thuận tiện.

May duyên gặp hội Long vân,

Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

NGỌN NGÀNH

Ngọn: Phần đầu chót. Ngành: nhánh.

Ngọn ngành là chỉ về đầu đuôi cùng với chi tiết tỉ mỉ của sự việc.

Ngọn ngành còn cùng nghĩa với chữ “Ngọn nguồn”, chỉ về nguyên do.

Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn, Phối Sư Thái Đến Thanh có câu: Ðạo đức là căn bản, còn tài là ngọn ngành, mà chúng ta lẽ nào bỏ gốc tầm ngọn, lại có câu: “Ðức thắng tài vi quân tử”. Sao lại không lo lập đức đặng làm người quân tử mà lại tranh tài?

Lựa dèo lựa thế độ nhơn sanh,

Khó dễ Thầy cho hiểu ngọn ngành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Một câu thất đức thiên niên đọa,

Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nước nguồn cây cội đừng phai dạ,

Tiếng rạng muôn năm rõ ngọn ngành.

(Đức Lý Đại Tiên).

 

 

NGỌN NGUỒN

Ngọn: Phần đầu chót. Nguồn: Nơi dòng nước khởi đầu phát ra.

Ngọn nguồn là nơi bắt đầu của dòng nước chảy tự nhiên, thường dùng để chỉ nguyên do, gốc tích của sự việc.

Thánh giáo Thầy có câu: Than ôi! Ðã bước chân vào đường đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn, thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền Thánh giáo đâu?

Nương cảnh cũ nép cây đợi thỏ,

Ngọn nguồn ai rõ nỗi âm hao.

(Đạo Sử).

Vái van xin quý Cửu Thiên Nương,

Tâu với Ngọc Hư tỏ ngọn nguồn.

(Cao Thượng Phẩm).

 

 

NGỌN RAU TẤC ĐẤT

Ngọn rau: Cọng rau, chỉ về rau cải. Tấc đất: Một mảnh đất nhỏ.

Ngọn rau tấc đất, chỉ ơn nghĩa của nhà vua hay của đất nước.

Ngày xưa trong chế độ quân chủ, đất đai thuộc về nhà vua, vua ban cấp cho dân để có điều kiện sinh sống. Vì vậy, dù một ngọn rau hay một tấc đất cũng là thọ ơn của nhà vua.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thành thử cơm ăn áo mặc, nhà ở cùng ngọn rau tấc đất là món nợ của con người.

Xem: Ơn tấc đất ngọn rau.

Ngọn rau tấc đất là ân,

Một dòng một giống lo cần ích chung.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Ðổ lụy hỏi người sao chẳng nhớ,

Ngọn rau tấc đất nước nhà ta.

(Đạo Sử).

 

 

NGÓNG

Ngóng là nghển cổ có ý trông chờ, mong đợi.

Như: Trông ngóng, con ngóng mẹ đi chợ về, ra ngõ ngóng tin con, ngày ngóng gió đêm trông sao.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp Đức Hộ Pháp có câu: Hôm nay Bần Đạo lên giảng đài buổi bất thường, biết rằng mỗi lần đi đâu về toàn thể Chức Sắc Thiên Phong, Hội Thánh nam, nữ lưỡng phái con cái Đức Chí Tôn đều trông ngóng để nghe, muốn nghe muốn biết lắm nên tội nghiệp đi đâu về cũng nói lại cho nghe bằng chẳng vậy xốn xang lắm.

Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,

Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.

(Kinh Sám Hối).

Nay con chưa đủ thông đường Ðạo,

Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hàng hàng binh ngóng tờ Thiên Chiếu,

Ngũ ngũ quân hầu tướng một đao.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGÓNG TRÔNG

Ngóng: Trông chờ, mong đợi nhiều. Trông: Mong chờ, trông đợi.

Ngóng trông, như chữ “Ngóng chờ”, là trông chờ, mong đợi một cách bồn chồn không yên.

Đường về các trẻ xin ghi nhớ,

Cửa Khuyết hằng ngày Mẹ ngóng trông.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

NGỌT

1.- Ngọt là có vị như vị đường, mật. Như: Nước ngọt, cam ngọt, chuối ngọt, ngọt mật chết ruồi.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Nó nghe được một tiếng thanh tao nó biết muốn nó biết mê mẩn, nó nghe được mùi vị thơm tho ngon ngọt nó biết ham ăn, ham ngửi, nó thấy một cái địa vị sang trọng, nó biết giục tâm chiếm đoạt cho đặng.

Mùi chua ngọt bả sang hèn,

Ðời chác một điều vụ tiếng khen.

(Đạo Sử).

Ðài các chưa từng miếng ngọt ngon,

Rán công hậu kiếp đặng vuông tròn.

(Đạo Sử).

2.- Ngọt là chỉ giọng dịu dàng, êm ái. Như: Dỗ ngọt, nói ngọt, giọng nói ngọt ngào.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có dạy: Các con, đáng kiếp cho mấy con nghé, phải có hình phạt như vậy các con mới biết sợ, chớ dỗ dành ngon ngọt các con không sợ, còn Thái Bạch hăm trừng thì các con đều kinh khủng.

Miệng ngọt lòng chua ai dễ thấu,

Chen vào tội chướng mất an nhàn.

(Đạo Sử).

Muốn ngón hay đừng thẳng dây đờn,

Ngọt với vợ còn hơn quờn thịnh nộ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGỌT BÙI

Ngọt: Có vị như vị đường, sửa hay mật. Bùi: Có vị ngon, vị béo như vị của đậu, hạt dẻ.

Ngọt bùi là có vị ngọt và ngon, dùng để ví sự sung sướng, sự hạnh phúc.

Như: Trải qua bao nhiêu cay đắng ngọt bùi.

Mùi đời chát ngắt chua lè,

Mùi Tiên nếm đặng, không the, ngọt bùi.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Cay đắng ai dù cho thế sự,

Ngọt bùi ta cứ đãi nhơn gian.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGỌT DỊU

Ngọt: Có vị như vị đường, sửa hay mật. Dịu: Có tính chất gây cảm giác dễ chịu, tác động êm nhẹ đến giác quan, hoặc đến tinh thần.

Ngọt dịu, như chữ “Dịu ngọt”, là chỉ sự ngọt ngào và dịu dàng.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Thành thử sứ mạng Ðạo là trị bịnh cho linh hồn cũng như bác sĩ trị bịnh cho thể xác. Trị bịnh cho linh hồn có phần khó khăn hơn trị bịnh cho thể xác, vì người có bịnh thể xác phải đến yêu cầu người thầy thuốc, về linh hồn phải chiều chuộng người bịnh, lấy lời ngọt dịu khuyên giải, phải nhẫn nại thuyết phục để trị bịnh cho họ mà họ khỏi phải tốn kém chi hết.

Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,

Tiếng tiêu khải phụng phục người mới ngoan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Dầu đắn đo cũng nghĩa đồng bào,

Dầu ngọt dịu người sao hơn thủ túc.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGỌT NGÀO

Ngọt: Có vị như vị đường, sửa hay mật.

Ngọt ngào là ngọt, gây cảm giác dễ chịu.

Ngọt ngào còn dùng với nghĩa rộng là êm dịu, như cây trái ngọt ngào, hương vị ngọt ngào, lời nói ngọt ngào.

Như: Hương vị trái cây ngọt ngào, những tình cảm thắm thiết ngọt ngào.

Ơn xưa ví nhớ Già lao lực,

Khá mến yêu nhau đổi ngọt ngào.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Bể trần chua chát không nên đắm,

Mùi đạo ngọt ngào khá nếm say.

(Thơ Thông Quang).

 

 

NGỌT NGON

Ngọt: Vị ngọt, có lời nói nhẹ nhàng, dễ nghe, dễ làm xiêu lòng người. Ngon: Ăn có cảm giác thích thú, có lời gây dễ chịu. Như: Lời ngon tiếng ngọt.

1.- Ngọt ngon, như chữ “Ngon ngọt”, là có vị ngọt và ngon, chỉ mùi vị dễ cám dỗ con người.

Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,

Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.

(Tán Tụng Công Đức).

2.- Ngọt ngon còn dùng để chỉ lời nói khéo léo, dễ lọt vào tai, dễ làm xiêu lòng.

Kẻ tham lợi cột mai cột mối,

Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.

(Kinh Sám Hối).

Hễ tánh gái thì hơi e lệ,

Lời ngọt ngon đẹp đẽ khá gìn lòng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÔ ĐỒNG

梧 桐

Ngô đồng là một loại cây mùa thu đến thường hay rụng lá.

Cổ thi có câu: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu 梧 桐 一 葉 落, 天 下 共 知 秋, nghĩa là: Ngô đồng một lá rụng rơi, Ai ai cũng biết cảnh trời sang thu.

Cành cây ngô đồng là nơi chim phượng hoàng thường hay đậu, vì thế thơ Đỗ Phủ có câu: Bích ngô thê lão phụng hoàng chi 碧 梧 棲 老 鳳 凰 枝, tức là cành ngô biếc là cành chim phượng hoàng đậu đã già rồi.

Ngô đồng báo tin mùa thu đến.

Sông mai lạc lối dặm hồng,

Đề thơ cậy lá, ngô đồng rơi tin.

(Nhứt Nương Giáng Bút).

Khoe tươi trước tử cành đưa võng,

Gội mát ngô đồng lá đánh đu.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGÔ KHỞI

吳 起

Ngô Khởi, còn đọc Ngô Khỉ, người nước Vệ đời Đông Châu, là một võ tướng có tài thao lược, nhưng lại không có hạnh đức.

Ông là người con bất hiếu, khi hay tin mẹ mất, lòng vẫn dửng dưng, không hề thương tiếc, nên thầy ông là Tăng Sâm đuổi không cho học nữa.

Ngô Khởi làm quan cho nước Lỗ, khi Lỗ sắp kéo quân đánh Tề, vua Lỗ không tin dùng Ngô Khởi, sợ ông không hết lòng với mình, vì vợ ông là người nước Tề. Ngô Khởi biết vậy, liền giết vợ để được làm tướng. Người đời sau chê Ngô Khởi “Sát thê cầu tướng”.

Về sau, Ngô Khởi tự thấy mình là người bất hiếu, bất nghĩa, sợ Lỗ Hầu không dùng nữa, nên chạy qua đầu Sở. Khi Sở có biến loạn, Ngô Khởi đành chịu chết chung với vua Sở.

Chém vợ để cầu vinh thuở trước,

Ngô Khởi còn gian ngược chi danh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGÔ MÃNH

吳 猛

Ngô Mãnh là một trong hai mươi bốn người con hiếu, người đời Tấn, mới lên tám tuổi đã là đứa con thảo.

Nhà nghèo khó, không có tiền mua mùng, gặp lúc mùa hè nhiều muỗi, ông sợ cha mẹ bị muỗi đốt, bèn cởi trần nằm để muỗi bay đến đốt ông, không dám xua, sợ rằng nếu mình xua đi thì muỗi lại đến đốt cha mẹ.

Vì thấy gương hiếu hạnh, nên người đời sau mới liệt ông vào một trong nhị thập tứ hiếu và được vẽ lên mặt tiền hành lang Báo Ân Từ để nêu gương người con hiếu thảo.

Tấn Ngô Mãnh tuổi vừa lên tám,

Đêm nằm trần cho đám muỗi hun.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Ngô Mãnh tối nằm ngoài cửa ngủ,

Phơi trần người mặc lũ muỗi theo.

(Báo Ân Từ).

 

 

NGÔ ÔNG TỨC NHƯỢC

吾 翁 即 若

Ngô: Tôi, ta. Ông: Tiếng gọi người đàn ông, ý chỉ cha. Tức: Chính là. Nhược: Mầy, ngươi.

Ngô ông tức nhược, do câu “Ngô ông tức nhược ông 吾 翁 即 若 翁”, có nghĩa là cha ta tức cha ngươi.

Do điển trong Sử Ký chép: Trong lúc Hán và Sở tranh thiên hạ, Hạng Võ bắt Thái Công tức là cha của Bái Công, đặt cạnh một cái vạc lớn và bảo Bái Công rằng: Nếu ngươi không đầu hàng, ta sẽ làm thịt Thái Công nấu canh.

Bái Công đáp: Ta với Hạng Vương cùng thờ Hoài Vương, ước làm huynh đệ, cha ta cũng như cha ngươi (ngô ông tức nhược ông). Nếu ngươi muốn nấu thịt cha, thì xin chia cho ta một bát canh (phân ngã bôi canh).

Thành Đức thơ mời giỗ phụ thân,

Ngô ông tức nhược hoạ năm vần.

(Thơ Thành Toại).

 

 

NGÔ TÀO

吳 曹

Ngô: Nước Ngô, một nước trong Tam Quốc. Tào: Chỉ Tào Tháo.

Ngô Tào tức là Ngô Tôn Quyền và Tào Tháo.

Đời Tam Quốc, Trung Quốc chia làm ba nước, Tôn Quyền làm vua nước Ngô ở về phía đông; Tào Tháo làm chúa nước Nguỵ ở phía bắc, còn Lưu Bị làm vua nước Thục ở về phía Tây.

Dầu cơn độc mã đơn đao,

Tâm trung nghĩa khí, Ngô Tào cũng kiêng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGÔ THỤC NGUỴ

吳 蜀 魏

Ngô, Thục, Nguỵ là chỉ ba nước ở vào cuối đời nhà Hán, phân theo thế chân vạc để chống chỏi, tranh giành nhau, sử gọi là đời Tam quốc.

Tôn Quyền chiếm cứ cõi đông Ngô, Tào Tháo cai trị vùng bắc Nguỵ còn Lưu Bị thì lập nên nhà Thục.

Ngô chưa quét Thục Ngụy tranh phong,

Một dãy non sông chứa bá tòng.

(Đạo Sử).

 

 

NGÔ VĂN CHIÊU

Ngô Văn Chiêu sinh ngày 7 tháng giêng năm Mậu Dần (Dl. 28-02-1878) tại Bình Tây, Chợ Lớn. Thân phụ là ông Ngô Văn Xuân và thân mẫu là bà Lâm Thị Quý.

Sinh ra Ngài Chiêu được sáu tuổi, ông bà thân của Ngài phải làm việc tại Hà Nội, nên gởi Ngài cho người em ruột là bà Ngô Thị Đây ở Mỹ Tho đem về nuôi dưỡng.

Ông sống với người cô nầy đến 12 tuổi thì được vào ở nội trú trong trường, rồi sau đó được học bổng nhà nước cho lên học ở trường Chasseloup Laubat Sài Gòn. Đến năm 21 tuổi, Ngài đậu bằng Thành chung và làm quan.

Ngày 23 tháng 3 năm 1899, Ngài được nhận vào làm thơ ký tại ở sở Tân Đáo Sài Gòn. Ngài theo sự hướng dẫn của người cô ruột kết hôn với bà Bùi Thị Thân, người làng Thạnh Trị, chợ Mỹ Tho. Ông bà sinh được vừa trai, vừa gái, cả thảy là chín người con.

Đến năm 1902, vì mẹ bị bịnh nên Ngài đến một đàn cầu Tiên của chi Minh Thiện ở Thủ Dầu Một, Bình Dương để xin thuốc. Ngài bắt đầu làm quen với việc hầu đàn thỉnh Tiên từ đó.

Đến năm 1909, Ngài đổi về làm việc ở Tân An và đến năm 1917 Ngài thi đậu Tri huyện, nhưng vẫn tiếp tục làm việc ở Tân An cho đến cuối năm 1919, sau khi thân mẫu từ trần, Ngài mới được lịnh đổi đi Hà Tiên.

Hà Tiên có rất nhiều đàn cầu Tiên: Nào đàn ở lăng Mạc Cửu, nào đàn ở Thạch Động. Đàn ở lăng Mạc Cửu thì do các ông Lâm Tấn Đức, Phán Ngàn, Cao Văn Sự làm đồng tử. Trước đây, đàn cầu Tiên thỉnh thoảng bị quỷ ma khuấy phá, đến khi Ngài Ngô về tham dự hầu đàn thì không còn xảy ra nữa. Do đó các người hầu đàn hết mực kính trọng Ngài.

Ngài Chiêu trấn nhậm ở Hà Tiên được một ít lâu thì được lịnh đổi đi Phú Quốc.

Tại Phú Quốc Ngài cầu Tiên nhiều lần, nhưng có một vị Tiên giáng cơ chẳng chịu xưng tên, bảo Ngài làm đệ tử thì Tiên Ông sẽ dạy đạo cho, sau đó Tiên Ông khuyên Ngài lo tu và ăn chay mười ngày.

Chưa kịp ăn chay mười ngày thì trong đàn cơ ngày 8 tháng 2 năm 1921, tại chùa Quan Âm Phú Quốc, vị Tiên Ông giáng cơ bảo Ngài: Chiêu! Tam niên trường trai.

Kể từ ngày mùng 1 tết năm Tân Dậu (1921), Ngài Chiêu bắt đầu ăn trường chay và học đạo.

Một chiều kia, vào khoảng cuối tháng giêng âm lịch năm Giáp Tý (1924), trong lúc đang ngồi hóng mát nơi ven biển, bỗng nhiên Ngài thấy một cảnh thật đẹp hiện ra trên biển cả nơi chỗ trời nước giáp nhau. Cảnh đó vừa khuất lại hiện ra một cảnh khác. Ngài ngồi ngắm một cách mê say, hơn mười lăm phút sau, cảnh thần Tiên mới biến mất. Sau nầy trong đàn cơ, vị Tiên Ông cho Ngài biết đó là cảnh Bồng Lai. Từ đó Ngài hết lòng tin tưởng Tiên Ông và quyết chí lập bàn thờ để thờ phụng Người, nhưng chưa tìm được hình ảnh gì để thờ phụng.

Một buổi sáng, trong khi Ngài đang ngồi trên một chiếc võng sau dinh quận Dương Đông, bỗng nhiên Ngài thấy xuất hiện trước mặt con mắt thật lớn, hào quang chói ngời như mặt trời. Ngài sợ hãi vô cùng vội nhắm mắt lại, không dám nhìn lâu. Một lúc sau, khi Ngài mở mắt ra thì con mắt vẫn chưa biến mất, mà lại có phần chói ngời hơn nữa. Ngài chợt hiểu rằng Tiên Ông cho Ngài hình tượng để thờ phụng. Ngài vội vàng quỳ xuống chắp tay khẩn nguyện, con mắt liền tự nhiên lu dần rồi biến mắt.

Ít lâu sau, chưa kịp vẽ hình tượng con mắt để thờ thì Ngài thấy con mắt xuất hiện lần thứ hai. Do đó Ngài vội vẽ “con mắt” (Thiên Nhãn) để thờ phụng, không dám chậm trễ nữa.

Sau khi Ngài Chiêu thờ Thiên Nhãn rồi thì Tiên Ông mới xưng danh là “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” và chỉ dạy Ngài phải kêu Tiên Ông bằng Thầy, chứ không cho phép dùng danh xưng khác.

Đến ngày 29 tháng 7 năm 1924 Ngài được lịnh rời Phú Quốc để đổi về Sài Gòn. Trong thời gian ở Sài Gòn, ngày hai buổi Ngài làm việc tại dinh Thống Đốc Nam Kỳ, Ngài cũng thường lui tới chùa Ngọc Hoàng ở Dakao, ít giao thiệp với người ngoài, dành thì giờ để công phu.

Cuối năm Ất Sửu (1925), Đức Cao Đài dạy Ngài Chiêu phải đem mối đạo truyền ra.

Sau khi nhóm phò cơ ở Sai Gòn đã thành lập rồi, vào ngày 22 tháng 1 năm 1926, Đức Chí Tôn dạy quý Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh Diêu, Lê Văn Trung, Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Đức phải đến chung hiệp với quan phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở đạo.

Khi hai nhóm hiệp lại, tổng số đệ tử của Đức Cao Đài là 13 người: Ngô Văn Chiêu, Vương Quang Kỳ, Lê Văn Trung, Nguyễn Văn Hoài, Đoàn Văn Bản, Võ Văn Sang, Cao Hoài Sang, Lý Trọng Quý, Lê Văn Giảng, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức, Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư.

Sang năm Bính Dần (1926), nhằm đêm vía Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tại nhà ông Phủ Vương Quang Kỳ, Đức Chí Tôn ban cho một bài thi để kỷ niệm buổi họp mặt như sau:

Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,

Bản đạo khai Sang Quý Giảng thành.

Hậu, Ðức, Tắc, Cư thiên địa cảnh,

Hườn Minh Mân đáo thủ đài danh.

Sau đêm vía, Đạo càng ngày càng mở rộng, Đức Chí Tôn thâu phục thêm rất nhiều đệ tử và việc truyền đạo tiến hành rất tốt đẹp.

Riêng Ngài Chiêu vì theo tôn chỉ “Ngô thân bất độ hà thân độ”, nên Ngài ở nhà lo tự giác, tu luyện theo phép tu đơn và bắt đầu từ đêm 14 tháng 3 năm Bính Dần (Dl. 24-4-1926) Ngài tách riêng ra, cùng với quý ông Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang, Lý Trọng Quý.

Từ đây, tuy tôn chỉ khác nhau, một đàng lo phổ thông mối đạo, một đàng lại chuyên bề tự giác, nhưng tựu trung về phương diện tín ngưỡng vẫn thờ kỉnh Đức Cao Đài Thượng Đế.

Sau khi tách rời khỏi nhóm Phổ Độ, Ngài Chiêu lập Cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, gọi tắt là Chiếu Minh Vô Vi.

Tháng 4 năm Mậu Thìn (1928) Ngài xin nghỉ phép sáu tháng để tổ chức đi du lịch núi Tà Lơn và Đế Thiên Đế Thích. Sau đó Ngài trở lại làm việc tại dinh Thống Đốc Nam Kỳ như trước.

Cuối năm 1931, Ngài bị mệt nhiều nên xin phép Chánh phủ cho nghỉ ở nhà dưỡng bịnh.

Ngày 30 tháng 3 năm 1932, Ngài lại đi núi Tà Lơn với ý định bỏ xác nơi đây, nên không muốn trở về. Các đệ tử đi theo nài nỉ lắm, Ngài mới chịu về ở trong một cái Thảo lư cách châu thành Cần Thơ khoảng ba cây số.

Ngài Ngô Văn Chiêu thường nói rằng, Đức Chí Tôn định cho Ngài sẽ liễu đạo trên sông Cửu Long, nên mới ban cho câu:

Giờ nầy Thầy điểm thâm công,

Ngày sau con sẽ cỡi rồng hồi nguyên.

Thật vậy, đến sáng ngày 18 tháng 4 năm 1932 (Âl 13-3-Nhâm Thân), Ngài quyết định về Tân An.

Trên đường đi, lúc xe chở Ngài xuống bến phà Mỹ Thuận, phà chạy gần nửa sông thì Ngài Ngô Văn Chiêu xuất thần thoát xác một cách êm ái vào lúc 3 giờ chiều ngày 13 tháng 3 năm Nhâm Thân, hưởng được 55 tuổi.

Về quyền hành của Đạo, không biết vì cớ gì Đức Chí Tôn đã định cho Ngô Văn Chiêu làm Giáo Tông của Đạo, Đức Chí Tôn biểu may Thiên Phục Giáo Tông và may rồi trong 10 ngày lại thôi, Ngô Văn Chiêu bị biếm vậy.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGỖ NGANG

Ngỗ: Cứng đầu, làm trái, không chịu phục tùng. Ngang: Không thuận chiều, trái ngược.

Ngỗ ngang, cũng như ngỗ nghịch, là ngang ngược, làm trái lẽ phải, chống lại lời dạy dỗ của bề trên.

Như: Tu hành phải chừa thói ngỗ ngang, hung dữ.

Đêm thanh vắng chớ toan mưu dối,

Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.

(Kinh Sám Hối).

Lo cho con để đức hơn vàng,

May rủi cũng trừ đứa ngỗ ngang.

(Đạo Sử).

 

 

NGỖ NGHỊCH

忤 逆

Ngỗ: Cứng đầu, làm trái, không chịu phục tùng. Nghịch: Chống lại.

Ngỗ nghịch là ngang ngược, không thuận với đạo lý.

Sách Minh Tâm có câu: Hiếu hạnh hoàn sanh hiếu hạnh tử, ngỗ nghịch hoàn sanh ngỗ nghịch nhi 孝 行 還 生 孝 行子, 忤 逆 還 生 忤 逆 兒, nghĩa là người hiếu hạnh sinh ra con hiếu hạnh, kẻ ngỗ nghịch sinh ra con ngỗ nghịch.

Thánh giáo Thầy đã dạy: Ôi! Con ngỗ nghịch, trách sao chẳng vướng Thiên điều khổ nạn. Chúng nó đã gieo ác cảm lừng đến Tam Giáo Ðài, thế thì bước đường sau nầy Thầy khó cứu rỗi được.

Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,

Liều mình tự vận không màng thảo ngay.

(Kinh Sám Hối).

Đời hằng nói dâu hiền thì ít,

Còn những nàng ngỗ nghịch thì nhiều.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGỘ

1.- Ngộ là hơi lạ, kỳ, trái với thường.

Như: Anh ấy ăn mặc ngộ, cái tên nghe thật là ngộ, cô bé có cái mũi hếch trông rất ngộ.

Nghe đỏng đảnh lời con nói ngộ,

Đừng cầu vui giả bộ nói chơi.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ngộ là gặp. Như: Hội ngộ, tái ngộ, ngộ khi chủ nhà đi vắng, ngộ khi tai biến bất kỳ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðoàn tụ nhau trong năm chỉ có mấy lần, chức sắc Hội Thánh và chức sắc nơi tứ phương đã tỏ ra nỗi hân hoan trong sự mãn nguyện chẳng khác chi cuộc tái ngộ của tình thủ túc trong gia đình sau một thời gian chia cách trông đợi.

Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,

Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.

(Kinh Thế Đạo).

Một bóng luống chờ ngày tái ngộ,

Chơn thần gìn đặng vẹn tinh anh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Ngộ là nghiền ngẫm, suy nghĩ lâu ngày mà thình lình bật ra hiểu rõ ràng. Như: Ngộ Đạo, giác ngộ, hối ngộ, tỉnh ngộ.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo có dạy: Nền Ðạo thung dung được đứng sững trên cõi Việt mà đùm bọc che chở những kẻ hữu phước hữu phần, nếu dần dà chẳng tỉnh ngộ mà un đúc cho cứng khối tinh thần, để nay trở bước, mai đổi đường, thì mảnh xác phàm tục kia tránh sao khỏi lối tan tành ra tro bụi.

Một là hối ngộ tội căn,

Hai là cầu đặng siêu thăng Cửu huyền.

(Khen Ngợi Kinh Sám Hối).

Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm môn,

Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGỘ KIẾP

悟 劫

Ngộ: Giác ngộ. Kiếp: Kiếp sống.

Ngộ kiếp là giác ngộ trong một kiếp sống.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng, mà hại thay! mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc thấy đặng kẻ ấy.

Nhứt thiết chúng sanh hữu căn hữu kiếp đắc kỳ quy vị, vật dĩ trí tri văn chương bác ái, ngộ kiếp đắc quy Phật vị.

(Đạo Sử),

 

 

NGỘ KỲ PHẬT DUYÊN

遇 期 佛 緣

Ngộ kỳ: Gặp đặng một thời kỳ. Phật duyên: Có mối duyên với Phật. Đây phải hiểu là có mối duyên với nền Đại Đạo.

Ngộ kỳ Phật duyên là có duyên may mắn mới gặp được nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Thật vậy, trong hằng hà sa số kiếp luân hồi sanh tử, chúng ta có duyên may mới gặp được thời kỳ Đại Ân xá của Đức Chí Tôn, nhứt là gặp được thời kỳ mà Đức Ngọc hoàng Thượng Đế, vị sáng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật, dùng huyền diệu cơ bút dẫn dắt các vị Thiên sứ mở ra nền Đại Đạo để tận độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi, đưa các chơn linh trở về ngôi xưa vị cũ. Đây có thể nói là rất may duyên mới gặp được.

Đức Lý Đại Tiên có cho biết như sau: “Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sinh nhằm đời đặng gặp mối Đạo cũng chẳng dễ”.

Tam kỳ khai hiệp Thiên thi,

Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

NGÔI

1.- Ngôi là chỗ ngồi của người có chức vị. Như: Ngôi vua, ngôi thứ trong nhà, ngôi vị trong làng.

Thánh giáo Thầy có câu: Các con trước đã vì Thiên mạng phải bỏ các ngôi cao đặng đem mình vào nơi khổ não, Thầy chỉ đường vẽ bước, dạy từ nét, dẫn từ dặm đường mà đem các con về chốn Cực Lạc xưa, các con chẳng chịu vầy hiệp nhau cho đặng bền, cho thân ái, đặng tiến bước đường, thì Thầy cũng lắm nỗi thương đau mà nắm cân công bình ngó xem một phần trong các con sa nơi u hiểm.

Ðường tơ đã đứt đừng toan nối,

Ðạo đức thìn lo trở lại ngôi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðai cân mảng luyến chưa nên phận,

Danh lợi ham giành khó vẹn ngôi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Ngôi là mạo từ chỉ vật, hoặc chỉ nơi, chốn, vị trí. Như: Ngôi hàng, ngôi sao, ngôi mả, ngôi chùa.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hôm nay phần đông chức việc và đạo hữu nam nữ ở các nơi tựu về Toà Thánh để chứng kiến một công trình kiến trúc to tát đồ sộ, một ngôi nhà chung mà mỗi vị đều có góp phần xây dựng.

Trau chuốt nền nhơn con gắng vó,

Thầy đây sẽ để một ngôi hàng.

(Đạo Sử).

Ðài thượng đồng xem qua Bắc Ðẩu,

Ngôi sao sáng chói thấu Nam Tào.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGÔI BÁU

Ngôi: Chỗ ngồi có chức vị, chỗ ngồi của nhà vua. Báu: Quý giá.

Ngôi báu là chỗ ngồi quý báu, ý chỉ chỗ ngồi của vua, hay chỗ ngồi của người đắc Đạo Tiên Phật.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta đã ngó thấy nào là đài Tần nào đảnh Hớn mà từ trước tới giờ trên mặt địa cầu này đã tạo dựng trên xương máu của nhân sanh, hết họ này đến họ khác làm chúa, làm vua thiên hạ thay đổi mãi không có một ngôi báu nào còn tồn tại là do chỗ nào? Là do ngôi báu ấy đã mua chuộc bằng xương máu của dân, cho nên chẳng hề khi nào những kẻ thọ hưởng nó được trường cửu đặng.

Cứu khổ trợ nguy âm chất chuộc,

Dầu không ngôi báu cũng giang san.

(Đạo Sử).

 

 

NGÔI CAO PHẨM QUÝ

Ngôi cao: Ngôi vị cao trọng. Phẩm quý: Phẩm tước quý báu.

Ngôi cao phẩm quý là nói người đạt được ngôi phẩm quý báu và cao trọng.

Các Ðấng thiêng liêng xưa kia khổ hạnh, công cán thế nào mới được về ngôi cao phẩm quý...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGÔI LINH

Ngôi: Chỗ ngồi có chức vị, chỗ ngồi của nhà vua. Linh: Thiêng liêng.

Ngôi linh là ngôi vị thiêng liêng, chỉ ngôi của các Đấng thiêng liêng như Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu...

Nên ôm rải hồng ân khắp thế,

Bỏ ngôi linh gươm huệ trau dồi.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

NGÔI PHẨM

Ngôi: Chỗ ngồi có chức vị, chỗ ngồi của nhà vua. Phẩm: Phẩm tước.

Ngôi phẩm là ngôi vị và phẩm tước.

Thánh giáo Thầy có lời dạy: Ôi! Thầy vì mấy chục ức nguyên nhân, không nỡ để cho ngôi phẩm tan tành, chớ lấy luật Thiên thơ thì không một ai dự vào kim bảng.

Nếu chẳng phải do theo Ðạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGÔI TIÊN

Ngôi: Chỗ ngồi có chức vị, chỗ ngồi của nhà vua. Tiên: Bậc Tiên, phẩm Tiên.

Ngôi Tiên, bởi chữ “Tiên vị 仙 位” là ngôi vị Tiên.

Theo triết lý của đạo Cao Đài, người tu khi đắc quả tuỳ theo căn cơ, hạnh đức và công nghiệp hành đạo lúc sanh tiền mà có thể đạt được ngôi phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ngôi Tiên là một ngôi vị của người tu đắc quả hàng Tiên.

Thánh giáo Chí Tôn dạy: Chẳng lẽ ngôi Tiên phẩm Phật là địa vị tối trọng của các chơn linh mà Thầy lại đành bất công, tự nhiên đem các con mà để trên đó.

Ngôi Tiên đã lắm gót phàm,

Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.

(Ngụ Đời).

Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo,

Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời.

(Thất Nương Giáng Bút).

Đạo dụng từ bi đời dụng đức,

Đời nên vị Thánh, đạo ngôi Tiên.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

NGÔI THÁI CỰC

Ngôi: Chỗ ngồi có chức vị, chỗ ngồi của vua. Thái Cực: Nguyên lý cùng tột của Tạo hoá sinh âm dương.

Thái cực do Hư vô chi khí tạo thành, là khối Đại Linh Quang và Đại hồn của Đức Thượng Đế. Như vậy, ngôi Thái Cực là ngôi của Thượng Đế.

Thánh giáo Thầy đã dạy: Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.

Ðạo giáo có dạy: Hai lằn nguơn khí đụng lại nổ ra khối lửa, khối lửa ấy là ngôi Thái Cực. Chủ ngôi Thái Cực là Ðức Chí Tôn.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGÔI THẦN

Ngôi: Chỗ ngồi có chức vị, chỗ ngồi của vua. Thần: Thiêng liêng, phẩm Thần.

Ngôi Thần chỉ ngôi vị ở cõi Thiêng liêng, hoặc chỉ ngôi vị của hàng Thần.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đến Hạ Nguơn Đức Chí Tôn giáng Thần, tức nhiên là cái thiên vị Đức Chí Tôn mở ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật cho Vạn Linh đặng cho các chơn hồn đạt vị của mình, chuyển luân trong quả kiếp sanh sanh tử tử mà đạt pháp lập thiên vị.

Cửa Đạo chị dầu chưa phẩm Thánh,

Trường công hồn đã rạng ngôi Thần.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

NGÔI THIÊN

Ngôi: Chỗ ngồi có chức vị, chỗ ngồi của vua. Thiên: Trời, chỉ cõi Thiêng liêng.

Ngôi Thiên, ngôi vị trở về của các chơn linh đắc đạo là nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,

Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.

(Kinh Thế Đạo).

Lời hẹn ngày xưa trước Điện tiền,

Giúp tay Hộ Pháp tạo ngôi Thiên.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

NGÔI THỨ

Ngôi: Chỗ ngồi có chức vị, chỗ ngồi của vua. Thứ: Tầng, bậc, bậc dưới, bậc kém.

Ngôi thứ là thứ bậc và địa vị của những người có chức vị trong xã hội.

Trong quyển Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn viết: Lễ nghi dùng để phân định ngôi thứ: Tôn ty, thượng hạ. Giả tỷ trong đám hội đàm; người lớn cứ sỗ sàng ăn nói, sỗ sàng hành động, kẻ nhỏ thì hổn ẩu không kính nể người lớn. Thế thì làm sao mà hiệp nhau cho được, cho nên nói rằng: Thất Lễ thì loạn.

Ngôi thứ Thầy đã sắp sẵn, các con rán đoạt thủ địa vị mình. Trước qua sau tới, liệu mà tu hành.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGÔI VỊ

Ngôi: Chỗ ngồi có chức vị, chỗ ngồi của vua. Vị: Thứ bậc, địa vị.

Ngôi vị là chỗ ngồi có chức vị. Ví dụ: Ngôi vị Tể Tướng, ngôi vị Giáo Tông.

Thánh giáo Thầy có câu: Ngôi vị Bạch Ngọc Kinh chẳng ưa chứa kẻ hung hăng, mà lạ một điều là kẻ hung hăng đạo đức thường phá cửa lúng đặng vào, địa vị phần nhiều đoạt bởi kẻ ấy.

Chưởng quyền cực lạc phân ngôi vị,

Quản xuất càn khôn định cõi bờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dặm khổ qua rồi ngôi vị sẵn,

Hay chi thế tục chước cầu vinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nợ trần đã phủi lòng son sắt,

Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng.

(Bài Thài Thượng Phẩm).

 

 

NGÔI XƯA

Ngôi: Chỗ ngồi có chức vị, chỗ ngồi của vua. Xưa: Đã qua lâu.

Ngôi xưa, do chữ “Cựu vị 舊 位” là ngôi vị cũ, chỉ ngôi vị của chơn linh trước khi đầu kiếp xuống trần. Đó là ngôi vị ở cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Công chỉ dẫn của Thầy phải lững đững theo giọt thuỷ triều, mà rồi rốt cuộc lại, bến khổ cũng chưa xa, ngôi xưa còn lánh mãi. Thảm thay! Tiếc thay!

Cửa Cực Lạc thinh thinh rộng mở,

Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.

(Kinh Tận Độ).

Thong dong cõi thọ nương hồn,

Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

(Kinh Thế Đạo).

Lánh sông mê mới kề Tiên Phật,

Nơi Diêu Trì không mất ngôi xưa.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

NGỒI

Ngồi là đặt đít vào chỗ nào. Như: Ngồi ghế, ngồi xe, ngồi bệt, ngồi thẳng xuống đất.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Ðộ, Quỷ Vương đã khởi phá khuấy chơn đạo, đến danh Ta nó còn mượn, duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.

Có Ðạo trong muôn ngồi cũng đủ,

Không duyên một đứa cũng là chìm.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lợi lộc của nhà thì cứ lấy,

Thế quyền trong nước há ngồi xin.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

NGỒI LÊ ĐÔI MÁCH

Ngồi lê: Ngồi chỗ nầy lê lết đến chỗ khác. Đôi mách: Đem chuyện người nầy mách với người kia.

Ngồi lê đôi mách, như câu “Ngồi lê mách lẻo”, là một thành ngữ dùng để chỉ kẻ hay nghe ngóng chuyện của người này rồi đem mách cho người kia, thường là những chuyện riêng tư, vặt vãnh.

Miệng không hay nói chuyện xằng,

Ngồi lê đôi mách cằn nhằn người ta.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Lại còn ưa cặp bạn kết bè,

Đến hàng xóm ngồi lê đôi mách.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGÔN

Ngôn là nói, lời nói. Như: Ngôn ngữ, ngôn luận, ngôn từ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trong việc trị nước, các vị vua chúa thời xưa thường nghe lời sàm tấu của đám nịnh thần mà quốc gia phải khuynh nguy, cơ đồ nghiêng ngửa. Vì đó có câu: Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, nhứt ngôn khả dĩ tán bang. Lời nói có tầm quan trọng như thế, người đời cũng như kẻ tu sĩ nên cẩn hạnh cẩn ngôn cho lắm.

Cổ ngữ vạn ban đô thị giả,

Kim ngôn bá kế nhứt trường không.

(Quan Âm Giáng Bút).

Sự đời thấu rõ dạng hình,

Trá ngôn lánh chước gia đình pháp nghiêm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGÔN LUẬN

言 論

Ngôn: Nói. Luận: Lời giảng giải, bàn cãi.

Ngôn luận là phát biểu, bày tỏ ý kiến về những vấn đề chung một cách công khai, rộng rãi. Như: Ai cũng có quyền tự do ngôn luận.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ôi! Một trường ngôn luận buổi nọ biết bao nhiêu kẻ chê bai, khinh rẽ là thế nào.

Đảm nhiệm Khâm Thành vẹn tất giao,

Lo chi ngôn luận tiếng kêu gào.

(Thơ Hương Ánh).

Ngôn luận tư tưởng tự do,

Sống vô tín ngưỡng thập thò biển mê.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

NGÔN NGỮ

言 語

Ngôn: Nói. Ngữ: Lời nói.

Ngôn ngữ là tiếng nói, lời nói, tức hệ thống những âm, những từ và những quy tắc kết hợp chúng mà trong cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chẳng những chỉ giữ liêm khiết về tiền bạc, không nhơ bợn đến tài chánh bất hợp pháp mà thôi, mà cũng phải trong sạch về hành vi, về ngôn ngữ, về tư tưởng, về cách cư xử với người trên kẻ dưới.

Liên trản hôn tâm ngôn ngữ loạn,

Khuyến quân tu khả giải mê tân.

(Quan Thánh Giáng Bút).

Nỗi bi thảm nhơn sanh khôn diễn bằng ngôn ngữ,

Mối ai hoài Chức sắc khó gợi hết thi thơ.

(Điếu Văn Nữ Đầu Sư).

 

 

NGÔN TỪ

言 詞

Ngôn: Lời nói. Từ: Lời nói thành văn.

Ngôn từ là lời nói hoặc văn chương.

Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn có câu: Nói tôi là người tu, thì phải làm thế nào cho ra vẻ người hiền lương đạo đức, ngôn từ hoà nhã, hạnh kiểm trang hoàng, đủ tư cách là người ở trong nền Tôn-giáo, mới xứng đáng gương mẫu cho đàn hậu tấn noi theo.

Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,

Tiếng tiêu khải phụng phục người mới ngoan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Làm sao đặng người người đều mến,

Lấy ngôn từ rù quến người mê.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGỔN NGANG

1.- Ngổn ngang là bừa bãi, không có thứ lớp, hoặc chỉ sự bề bộn.

Như: Đồ đạc bày ra ngổn ngang, ngổn ngang công việc, nhà cửa ngổn ngang.

... ... ... song nhiều đứa vẫn còn thế tục đeo đai, bước trần chưa trở nẻo, còn chất chứa gánh trần ai, ngổn ngang lằn gió bụi, chẳng hiểu sự khổ hạnh trau mình là nấc thang để bước khỏi chốn luân hồi ràng buộc.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2.- Ngổn ngang còn dùng để chỉ tâm trạng rối bời, không biết cách xử trí hay giải quyết như thế nào.

Như: Đêm mãi trằn trọc khó ngủ vì tâm trạng ngổn ngang trăm mối.

Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Ngổn ngang trăm mối bên lòng, Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.

Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,

Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.

(Kinh Thế Đạo).

Mảng sầu muộn ngổn ngang trăm mối,

Chùa thu không bóng tối mịt mờ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGÔNG CUỒNG

Ngông: Những lời nói hay việc làm tỏ ra bất cần sự khen chê của người đời. Cuồng: Điên khùng.

Ngông cuồng là những suy nghĩ, hành động ngược với lẽ thường tình mà không còn đủ lý trí để suy xét đúng sai nữa.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông có câu: Một ít phần tử không trọn tâm phục vụ, còn mơ ước ngông cuồng, nhưng chi chi cũng không qua Thiên cơ đặng.

Vì cái tâm hay lừa đảo, hay làm cho con người sa ngã nên theo phép tu của Lão giáo, ta phải dứt bỏ những điều ham muốn, những tư tưởng ngông cuống có thể hại đến tâm tính.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGỖNG

Ngỗng là một loại chim thuộc họ với vịt, nhưng mình to và cổ dài hơn.

Như: Ngỗng trời, áo lông ngỗng.

Chồng dầu thiệt là anh ngỗng đực,

Hiếp quá chừng phát tức trổ hành hung.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGỘP

Ngộp, như chữ “Ngột”, là ngạt, không có không khí để thở, hoặc không thở được.

Như: Nhà đóng cửa kín mít ngộp hơi, chun vào hang núi bị ngộp thở.

Nhai thây còn sót cũng nhiều người,

Bị trận Mê hồn chết ngộp hơi.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGỘT NGẠT

Ngột: Ngạt. Ngạt: Có cảm giác khó thở hoặc không thở được do thiếu không khí.

Ngột ngạt như chữ ngạt, tức có cảm giác khó thở.

Như: Không khí trong phòng ngột ngạt hơi người, trong lớp học sinh căn thẳng, ngột ngạt.

Khu Yên Thế thâm sâu hiểm ác,

Đất Sài Gòn ngột ngạt nguy nan.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGƠ

Ngơ là không để ý đến, hay làm ra vẻ không hay biết bỏ cho qua đi.

Như: Tai ngơ, mặt ngơ, ngoảnh mặt làm ngơ, ngơ cho kẻ dưới.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Mấy anh mấy chị, có trăm tuổi rủi phần xuống tuyền đài nhìn mặt Tổ Phụ của chúng ta cũng không thẹn, vì đã trả xong mảnh hiếu tâm với Đạo, còn hiện giờ cái gia nghiệp của mấy anh mấy chị tạo thành đây, biết đâu đến phiên đoàn hậu tấn, thay vì chúng nó bảo trọng trở lại tàn diệt tiêu tan, thời lý nào mấy anh mấy chị lại làm ngơ, ngồi xem kẻ vô cổ sau này mặc tình phá huỷ.

Dầu khi gặp lúc gian truân,

Cũng đồng giúp ích chớ đừng mặt ngơ.

(Kinh Sám Hối).

Ấm lạnh cõi trần ngơ mặc khách,

Ngỡ ngàng động Thánh quạnh giai nhân.

(Lục Nương Giáng bút).

Con rìu lưng giắt tài xông lướt,

Lợi thế tai ngơ nỗi được thua.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

NGƠ NGÁO

Ngơ: Không để ý đến, khờ. Ngáo: Ngu khờ, kém hiểu biết, không nhận thức được vấn đề.

1.- Ngơ ngáo là ngẩn người, vẻ ngạc nhiên, ngơ ngác, ngỡ ngàng.

Như: Thằng bé ngơ ngáo nhìn quanh bốn phía.

Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,

Ðầy túi thơ văn đổ chứa chan.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chim lìa đảnh hạc bay ngơ ngáo,

Chiếc nhạn kêu thu đến bến Tương.

(Đạo Sử).

2.- Ngơ ngáo còn có nghĩa là ngu khờ, kém hiểu biết.

Như: Tưởng nó thông minh ai dè đâu trông mặt nó cứ ngơ ngáo, ngu khờ.

Thương đàn em dại đương ngơ ngáo,

Nghịch cảnh vô phương để tấc thành.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

NGƠ NGẨN

Ngơ: Không để ý đến, khờ. Ngẩn: Đờ, thừ người.

Ngơ ngẩn, như chữ “Ngẩn ngơ”, là thừ, hay đờ ra, không chú ý đến.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Chớ nên xao tâm động trí, ngơ ngẩn theo thường tình, thì não cân được tự minh, mới có thể ngăn cản tà mị độn nhập vào mà khuấy rối.

Phong trần quen thú cung âm,

Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô.

(Kinh Tận Độ).

Hiệp mặt chớ nào ngày hội ngộ,

Trông vơi ngơ ngẩn dặm quan hà.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

NGƠ NGƠ NGÁO NGÁO

Ngơ ngơ: Tiếng láy là không để ý đến việc gì. Ngáo ngáo: Ngu khờ, kém hiểu biết, không nhận thức được vấn đề.

Ngơ ngơ ngáo ngáo là sửng sốt, ngạc nhiên.

Ngơ ngơ ngáo ngáo, cũng như chữ “Ngơ ngáo”, còn có nghĩa là khù khờ, kém hiểu biết.

Chư đạo hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như kẻ không hồn, thấy càng thảm thiết!

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGỜ

1.- Ngờ là không tin, không chắc, cảm thấy khó tin và nghĩ có thể không phải như thế.

Như: Nghi ngờ, nửa tin nửa ngờ, số liệu đáng ngờ, tôi ngờ anh ấy không thực bụng.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người khách lữ hành biết mình đi lạc hướng, nhìn xem chặng đường như lạ cảnh đáng ngờ thì tức khắc trở lại con đường cũ.

Hé mắt nửa ngờ còn nửa tưởng,

Tính đi tính lúng đặng như nguyền.

(Đạo Sử).

2.- Ngờ là tưởng, nghĩ.

Như: Ai ngờ nó làm thế, đâu ngờ có bão, nào ngờ mất xe, điều không ngờ tới.

Quản chi cái số thảm cùng sầu,

Ở thế mà ngờ tưởng ở đâu.

(Đạo Sử).

Những ngờ duyên thắm trao phòng Bích,

Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

NGỜ ĐÂU

Ngờ: Tưởng rằng, nghĩ rằng. Đâu: Tiếng ở sau để hỏi, để chối, để cho nghĩa thêm mạnh.

Ngờ đâu, tiếng biểu thị điều sắp nêu ra là đã xảy ra trái ngược với những suy nghĩ trước đó, là hoàn toàn không ngờ tới.

Trong Bài Tuyên dương công nghiệp Đức Thượng Sanh của Ngài Hiến Pháp, Chưởng quản Hiệp Thiên Đài có đoạn: Những tưởng Ðức Ngài đến với sứ mạng Thiêng Liêng để hoàn thành cơ nghiệp Ðạo, thì chắc là Ðức Ngài phải được sống lâu với Bổn Ðạo để bảo tồn đại nghiệp Ðạo đến cùng. Nào ngờ đâu! Ta muốn vậy mà Trời chưa cho vậy. Than ôi! Thiên số nan đào! Tuy sự mất còn là định mệnh, nhưng đối với kiếp sanh của con người sao khỏi đau lòng lúc tử biệt sanh ly.

Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,

Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.

(Bài Thài Hộ Pháp).

 

 

NGỜ NGỜ

Ngờ ngờ là lồ lộ, lù lù, sờ sờ, hiển hiện ràng ràng ở trước mắt. Như: Việc đã ngờ ngờ trước mắt chối gì được.

Bài Diễn Văn của Ðức Quyền Giáo Tông đọc tại Toà Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất có câu: Ðã chín năm Tệ Huynh thấy ngờ ngờ trước mắt nhiều thảm trạng khó khăn; tinh những tiếng khóc than chẳng dứt. Kẻ thì đói, người thì đau; Chức Sắc thì hèn, Tín Ðồ thì dở, mối thương tâm chất chứa đầy lòng, giọt huyết lệ toàn đêm chẳng ngớt.

Cho hay Trời Phật chí công bình,

Trước mắt ngờ ngờ thấy phép linh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGỜ VỰC

Ngờ: Khó tin, không chắc.

Ngờ vực là nghi ngờ, tức ở vào trạng thái chưa tin vì cho rằng có thể không đúng sự thật.

Trong Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Còn ngược lại, nền Đại Đạo lại do Đấng Giáo Chủ Thiêng Liêng và dùng huyền diệu Tiên gia để lập Đạo, truyền giáo. Vậy Đạo tự nhiên nhiệm mầu lại theo vô vi mà chuyển biến ra hữu hình. Cái hệ thống “Siêu ý thức” này làm cho người thế gian khó nhận chơn. Đó là nguyên nhân ngờ vực của người đời, khi Đại Đạo mới xuất thế.

Là phương pháp làm cho mình sáng suốt, hiểu thông rành mạch đạo lý, không còn chỗ nào ngờ vực hầu trau giồi tâm tánh để trở nên người đạo đức hoàn toàn.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGỠ

Ngỡ có nghĩa cho là, nghĩ là như thế nào đó, trong khi sự thật không phải như thế. Như: Tôi ngỡ rằng anh không thể đến được.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo ngày nay hiển nhiên đứng trước mắt các bạn mà còn ngỡ là giấc chiêm bao.

Những ngỡ trao duyên vào Ngọc các,

Nào dè phủi nợ xuống Tuyền Đài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Việc đã diễn ra ngoài tưởng tượng,

Chuyện rồi nghĩ lại ngỡ chiêm bao!

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGỠ NGÀNG

Ngỡ ngàng là cảm thấy hơi bàng hoàng trước những điều mà trước đó không nghĩ tới, không ngờ tới.

Ngỡ ngàng, như chữ “Bỡ ngỡ”, là ngơ ngác, hay lúng túng vì chưa biết, chưa quen thuộc.

Như: Ngỡ ngàng trước những sự đổi thay của quê hương, đất nước.

Thầy hay thương mến lũ con hoang,

Song chớ ỷ y phải ngỡ ngàng.

(Đạo Sử).

Lai Châu tiếng hạc gáy reo vang,

Sao chẳng tỉnh mê giấc ngỡ ngàng.

(Đạo Sử).

 

 

NGỢ

Ngợ là ngờ, không chắc, chưa dám tin hẳn vào điều đã nghe, đã thấy.

Như: Ngợ giọng, nhìn mặt thấy quen nhưng còn ngợ, trông còn ngợ không biết có phải người quen hay không.

Nghĩ sợ hỏi đon còn ngợ giọng,

Nơi nầy phép Phật gọi danh kêu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGƠI

Ngơi là nghỉ, tạm ngừng làm việc, tạm ngừng hoạt động, hoặc hết.

Như: Làm việc chẳng hề ngơi, hoạt động liên tục không ngơi tay, ngơi khát.

Chung trà Hồ Địch chưa ngơi khát,

Ly rượu Hớn Ban dỡ tỉnh say.

(Thượng Phẩm Giáng).

Thể xác tuy già đâu dễ nghỉ,

Tinh thần mãi trẻ lẽ nào ngơi.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

NGƠI NGHỈ

Ngơi: Nghỉ, tạm ngừng hoạt động, tạm ngừng làm việc. Nghỉ: Tạm ngưng công việc.

Ngơi nghỉ, như chữ “Nghỉ ngơi”, là nghỉ để đỡ mệt, hoặc để hồi phục sức khoẻ.

Như: Phải có chế độ ngơi nghỉ hợp lý.

Công phu cực nhọc nhiều năm trước,

Ngơi nghỉ thanh nhàn mấy tháng nay.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

NGỢI

1.- Ngợi là khen. Như: Khen ngợi, ca ngợi người tài đức, ngợi khen người có công.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thời cuộc đương lúc khó khăn, nền tài chánh eo hẹp mà Hội Thánh Phước Thiện đã cố gắng thành công trong việc kiến tạo nói trên thì thật là một công trình đáng khen ngợi.

Thế thượng không người trăm tuổi sống,

Tiếng đời hằng ngợi kể nên lành.

(Đạo Sử).

Ướm hỏi Thánh linh đâu vắng dạng,

Mở lời miệng ngợi nói u ơ.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Ngợi do chữ “Nghĩ ngợi” nói tắt, có nghĩa là nghĩ, suy nghĩ, tính toán.

Như: Ngồi ngẫm ngợi những điều đã xảy ra.

Cái tánh thày lay hay kiếm ngợi,

Nhiều phen đành chịu tới cùng phương.

(Đạo Sử).

 

 

NGỢI KHEN

Ngợi: Khen. Khen: Đánh giá tốt rồi nêu lên.

Ngợi khen, như chữ “Khen ngợi”, là khen, tức nói lên sự đánh giá tốt về ai, về cái gì, việc gì với ý vừa lòng.

Văn Tế Đức Cao Thượng Phẩm có đoạn: Toàn trong sáu tỉnh để tiếng ngợi khen, khắp cả muôn dân riêng phổ độ. Trước từng trải Biên Hoà, Sài Gòn, Gia Ðịnh, mới lần qua cửa Tiểu, đã mấy buổi nắng mưa cam chịu, Ðấng Tạo Ðoan soi tỏ rõ tấm kiên trinh, rồi lại từ Mỹ Tho, Sa Ðéc, Long Hồ, mà thẳng tới Bạc Liêu, biết bao phen sương tuyết dãi dầu, ơn Thượng Phẩm đáng ghi vào nơi phế phủ.

Lòng công bình trên dưới ngợi khen,

Tâm chánh trực tha nhân sùng kính.

(Điếu Văn Đầu Sư).

 

 

NGỚT

Ngớt là giảm đi một phần về mức độ. Như: Gió đã ngớt, mưa ngớt nhưng vẫn nặng hạt.

Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung có câu: Ôi! Tuy vân, hồng ân của Ðại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đoạ hằng hà, mỗi ngày xem chẳng ngớt, là tại thiếu đức tin và lòng trông cậy nơi Thầy. Ðó là mấy đạo hữu tín đồ bị thất thệ.

Chung ly biệt con đưa tay rót,

Mối thương tâm chưa ngớt đeo sầu.

(Kinh Thế Đạo).

Càng nhớ đến lời nguyền buổi trước,

Thẹn non sông chưa ngớt tình nồng.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

NGU

Ngu là ngây dại, tối tăm, tức kém về trí lực, chẳng hiểu biết gì về cả những điều ai cũng hiểu, cũng biết. Như: Ngu ngốc, ngu si, ngu dại.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Theo thuyết Khổng Gíao, người ta ở đời phân biệt nhau ở nơi quân tử hay tiểu nhơn, hiền hay ngu là do người ta giữ cho còn cái tâm hay để cho mất cái tâm. Giữ cho còn cái tâm là đáng bậc Thánh Hiền, bỏ mất cái tâm con người vẫn là một cây thịt biết đi biết chạy mà thôi.

Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,

Phải coi nên chỗ để nên lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Quý cho những kẻ tánh thiên nhiên,

Chẳng phải là ngu thiệt bởi hiền.

(Đạo Sử).

 

 

NGU DẠI

Ngu: U mê, tối tăm. Dại: Không khả năng suy xét để ứng phó với hoàn cảnh và tránh những hành động, thái độ không nên.

Ngu dại là vừa ngu vừa dại.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đức Chí Tôn tạo nên hình tướng nó, để tạo nơi mình nó. Ngài còn sắp đặt một kỷ cương để cho tinh thần nó vi chủ hình hài của nó, còn để cho thân thể nó vi chủ tâm hồn của nó, nó sẽ ngây cuồng ngu dại, nó sẽ đi đến chỗ tự diệt nó mà thôi.

Thương chẳng biết biệt phân phải trái,

Dầu khôn ngoan ngu dại cũng là thương.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGU DỐT

Ngu: U mê, tối tăm. Dốt: Kém về trí lực, chậm hiểu, chậm tiếp thu.

Ngu dốt là người rất kém về trí lực, không hiểu biết gì và rất chậm hiểu. Như: Thằng ngu dốt.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Chúng ta đã ngó thấy làm người sanh trưởng từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến lớn khôn, chúng ta nhắc lại kể từ ngày sơ sanh dĩ chí tới 30 tuổi khi mới sanh chúng ta vẫn còn khờ khạo ngu dốt.

Chưa ai hiểu đặng một người tài tình quán chúng, trí não cao sâu phải hạ mình làm người ngu dốt.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGU ĐỘN

愚 鈍

Ngu: U mê, tối tăm, tức rất kém về trí lực, chẳng hiểu biết gì cả. Độn: Cùn, không sắc.

Ngu độn là ngu dốt, đần độn, tức không thông minh, không lanh lợi, trí lực tối tăm không hiểu biết gì hết.

Như: Bộ mặt của hắn trông ngu độn.

Lỡ gặp phải ông chồng ngu độn,

Đừng ỷ khôn nói hỗn ngang tàng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGU MUỘI

愚 昧

Ngu: Ngu dốt. Muội: Tối tăm.

Ngu muội là ngu dốt, tối tăm.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Nhưng than ôi! máy Thiên cơ buổi nọ, nếu phải chiều chuộng một ít vị công thần bị khép vào vòng những kẻ đã chịu sở bức, thì phải thay đổi, bôi xoá sự nghiệp non sông của những chúa tể ngu muội ấy chăng?

Thảo Xá tuỳ nhơn, ngu muội bần cùng nghinh nhập thất,

Hiền Cung trạch khách, thông minh phú quý cấm lai môn.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

NGU SI

愚 癡

Ngu: Kém trí lực, không hiểu biết gì những điều mà ai cũng hiểu biết. Si: Ngây dại, mê mẩn.

Ngu si là rất kém về khả năng nhận thức và ứng phó.

Như: Đầu óc của anh ta ngu si đần độn.

Tối tăm khờ khạo ngu si,

Sống càng đê tiện, ích chi cho người.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Đừng cậy sắc dọc ngang búng rảy,

Dầu ngu si cũng ngãi vợ chồng.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

NGU THUẤN

虞 舜

Ngu: Tên triều đại của vị vua cổ, gọi là Hữu Ngu. Thuấn: Vua Thuấn.

Ngu Thuấn là tên triều đại của vua Thuấn (2255-2206 trước Tây Lịch), một vị vua thời Thượng cổ của nước Trung Hoa.

Thuấn là cháu tám đời vua Huỳnh Đế, họ Diêu, tên Trùng Hoa, con ông Cổ Tẩu. Ông Thuấn rất hiếu thảo, được liệt vào một trong hai mươi bốn người con hiếu, mẹ mất sớm, cha cưới vợ khác sanh ra Tượng. Cha và mẹ ghẻ ghét ông, nhiều phen mưu giết, nhưng ông thoát khỏi chết và vẫn không oán hờn. Lòng hiếu nghĩa của ông động lòng cha, mẹ ghẻ và em.

Vua Nghiêu nghe tiếng cho người tìm, gả con gái và nhường ngôi cho ông. Vua Thuấn đóng đô ở Bồ Phan, làm vua 48 năm, theo gương vua Nghiêu, không truyền ngôi cho con là Thương Quân mà nhường ngôi lại cho vua Võ. Băng tại Thương Ngô, thọ 101 tuổi.

Kinh Thư viết: Vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho Thuấn, bèn gả hai nàng công chúa là Nga Hoàng, Nữ Anh cho, để xem cách tề gia của Thuấn. Ông Thuấn lấy ngũ điển ra đối đãi với mọi người, nên sau được vua Nghiêu nhường ngôi cho.

Ngu Thuấn được xếp vào một trong Nhị thập tứ hiếu và được Hội Thánh cho vẽ hình nơi hành lang mặt tiền của Báo Ân Từ.

Gặp Ngu Thuấn nhơn từ đức hạnh,

Làm ruộng mầu trong khoảnh non cao.

(Lược Thuật Toà Thánh).

Ngu Thuấn khổ vì cha Cổ Tẩu,

Nơi Lịch Sơn ruộng xấu đem đày.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Ngu Thuấn thật hiếu tâm kế mẫu,

Tượng là em, Cổ Tẩu thương hơn.

(Báo Ân Từ).

 

 

NGU XUẨN

愚 惷

Ngu: Ngu dốt, kém trí lực. Xuẩn: Dại dột.

Ngu xuẩn là ngu ngốc, dại dột đến mức như chẳng có chút trí khôn nào cả. Như: Hành động điên rồ, ngu xuẩn.

Thánh giáo Thầy có câu: Công Thầy bố hoá bị lũ học trò tham lam ngu xuẩn dục lợi cầu danh, làm cho Tà quái lẫn vào, dìu dắt vào chốn hang sâu vực thẳm.

Hồi trước còn ngu xuẩn, kẻ phò cơ không đủ tinh thần như mấy con.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGỦ

Ngủ là nhắm mắt lại để cho tinh thần và thể chất yên nghỉ, trái với thức. Như: Giấc ngủ, ngủ gà ngủ gật.

Trong lễ kỷ niệm ngày quy Thiên của Đức Hộ Pháp, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Suốt 5 năm công khó, ăn ngủ thất thường, đem hết trí não điều khiển công cuộc xây dựng. Ðền Thánh vừa mới tạo xong mặt ngoài thì chánh phủ Pháp ra lệnh cho nhân công phải ngưng hết mọi công việc xây cất.

Dựa cửa rán xem ngoài thế giái,

Nên danh nào phải ngủ nằm dài.

(Đạo Sử).

Tập quen thân ngủ sớm dậy trưa,

Chẳng hiểu đến mơi mưa chiều nắng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGŨ

1.- Ngũ là năm, thuộc số đếm. Như: Ngũ âm, ngũ giới cầm, ngũ hành, ngũ luân, ngũ kinh.

Thánh giáo Lý Gíao Tông có câu: Vì khi nãy, Lão thấy con cái Chí Tôn đông đảo dường ấy, may là một nước Việt Nam chưa đủ trọn mà dường nầy, ngày nào Ðạo đã truyền bá toàn trong nhơn loại, trọn khắp ngũ châu, mới sao nữa!

Về phần thực tế thì nhiều,

Tam cang thường ngũ làm điều luật chung.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

2.- Ngũ là hàng ngũ của nhà binh. Như: Binh tại ngũ, lính đào ngũ, hàng ngũ chỉnh tề.

Thánh giáo Thầy trong quyển Đạo sử của Bà Nữ Đầu sư Hương Hiếu có câu: Cả chư Môn Ðệ nam nữ hầu Thầy đặng phân hàng ngũ cho nghiêm trang.

Hàng hàng binh ngóng tờ Thiên Chiếu,

Ngũ ngũ quân hầu tướng một đao.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Quân lịnh nghiêm trang hàng ngũ chỉnh,

Ngựa voi rần rộ trót giờ lâu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGŨ ÂM

五 音

Ngũ: Năm. Âm: Âm thanh, chỉ âm nhạc.

Ngũ âm tức là năm âm thanh chính theo giọng cao thấp, trong đục mà phân chia trong nền âm nhạc cổ, gọi là ngũ âm.

Ngũ âm gồm có: Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ. Âm cung, thương là tiếng đục, thấp, âm chuỷ vũ là tiếng cao và trong.

Văng vẳng đâu đây điệu ngũ âm,

Đường tơ ai oán, lệ khôn cầm.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

NGŨ BÁ A LA HÁN

五 百 阿 羅 漢

Ngũ bá: Năm trăm. A La Hán: Nói tắt La Hán, là bậc Thánh đã đoạn trừ được tâm tham ái, chấp thủ và vô minh.

A La Hán là một quả cao nhất trong bốn quả Thánh của Phật giáo Nam Tông.

Ngũ bá A La Hán là chỉ năm trăm vị Thánh Tăng đã đắc được quả La Hán, sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, họp nhau lần đầu tiên gần Thành Vương Xá để kết tập kinh điển do lời Đức Phật thuyết pháp thành Tam Tạng kinh.

Ngũ bá A La Hán, cứu hộ đệ tử........ nhứt thân ly khổ nạn.

(Kinh Cứu Khổ).

 

 

NGŨ BỘ LÔI CÔNG

五 部 雷 公

Ngũ bộ: Năm bộ. Lôi Công: Chỉ Lôi Thần.

Ngũ Bộ Lôi Công là năm vị Thần thuộc Bộ Lôi Công hay Lôi Bộ.

Lôi Bộ có nhiệm vụ cai quản và điều hành các vị Lôi Thần trông coi về việc sấm sét.

Côn trùng còn đoạt được nhơn duyên,

Ngũ bộ Lôi công định sát liền.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGŨ CĂN

五 根

Ngũ: Năm. Căn: Căn bản, gốc rễ.

Ngũ căn là năm khả năng làm phát sinh và nuôi lớn các thiện pháp. Đó là:

Tín căn: Đức tn mạnh mẽ, vững chắc vào tam bảo, vào giáo lý của chư Phật.

Tấn căn: Tinh tấn siêng năng tu học và thực hành chánh pháp.

Niệm căn: Khả năng ghi nhớ chánh pháp không quên. Nhớ nghĩ đến các thiện pháp.

Định căn: Sự định tĩnh, tâm thu nhiếp, không tán loạn. Tâm an trụ tỉnh thức trong chánh niệm.

Tuệ căn: Trí tuệ sáng suốt, thấy biết được thực tướng của các pháp.

Ngũ căn được tu tập vững mạnh thì ngũ lực sẽ được phát sinh ra.

Lục dục khá qua trong sáu ải,

Ngũ căn hằng tưởng bảy điều lành.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

 

 

NGŨ CỐC

五 穀

Ngũ: Năm. Cốc: Tiếng dùng để gọi chung các loại hạt thực vật ăn được, như lúa.

Ngũ cốc là năm thứ hạt để làm lương thực: Đạo 稻: Lúa gạo, Lương 糧: lúa nếp, Thúc 菽: Đậu, Mạch 麥: lúa mì, Tắc 稷: hạt kê.

Nói về vật chất thực, sách Giáo Lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Vật chất thực là lê hoát, ngũ cốc do miệng vào tỳ vị và tiêu hoá thành khí huyết.

Từ Bi ngũ cốc đã ban,

Dưỡng nuôi con trẻ châu toàn mảnh thân.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

NGŨ CHÂU

五 洲

Ngũ: Năm. Châu: Phần đất rộng lớn trên địa cầu.

Ngũ châu là năm châu lục trên thế giới, gồm có châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Úc và châu Phi.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Vì khi nãy, Lão thấy con cái Chí Tôn đông đảo dường ấy, may là một nước Việt Nam chưa đủ trọn mà dường nầy, ngày nào Ðạo đã truyền bá toàn trong nhơn loại, trọn khắp ngũ châu, mới sao nữa!

Lục lạc khua ran cả Ngũ châu,

Nương chi vật chất phải âu sầu.

(Đạo Sử).

 

 

NGŨ CHI

五 支

Ngũ: Số năm. Chi: Nhánh.

Ngũ chi, hay “Ngũ chi Đại Đạo”, là năm chi nhánh của nền Đại Đạo.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thầy dạy về Ngũ chi Đại Đạo có câu như sau: Vốn từ trước Thầy lập Ngũ Chi Ðại Ðạo là: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo.

Tuỳ theo phong hoá của nhơn loại mà gầy Chánh giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi. Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định quy nguyên phục nhứt”.

Còn Đức Hộ Pháp giảng về Ngũ chi như sau: “Vì năm Đạo phân chia làm nhơn tâm bất nhứt, nhơn loại nghịch lẫn nhau. Chí Tôn đến đặng hiệp lại một nhà, ước cho con cái của Người biết thương yêu hoà thuận”.

Tam giáo Ngũ chi đồng thống nhứt,

Mong nhờ vận hội đặng hoà bình.

(Thơ Thân Dân).

Dùng huyền diệu Tiên gia cơ bút,

Lập chơn truyền quy phục Ngũ Chi.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

NGŨ CHI PHỤC NHỨT

五 支 復 一

Ngũ Chi: Năm nhánh của nền Đại Đạo. Phục nhứt (hiệp nhứt): Trở lại làm một, hợp lại làm một.

Ngũ Chi phục nhứt tức đem năm nhánh là Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo gom trở lại hiệp làm một gọi là Đại Đạo.

Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn mở ra tại Việt Nam có nhiệm vụ quy nguyên tam giáo, và phục nhứt ngũ chi là: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Tuỳ theo phong hoá của nhơn loại mà gầy Chánh giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi. Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định quy nguyên phục nhứt.

Đức Hộ Pháp cũng có nói như sau: “Thầy hiệp Ngũ Chi đặng làm một trường học năm lớp cho mình tu luyện, chẳng khác một trường học phàm kia vậy, lần lần bước đến đặng đoạt thủ địa vị của mình. Hễ ngồi đặng phẩm nào thì địa vị mình nơi ấy chẳng ai còn tranh giành ngược ngạo không nhìn nhận cho đặng”.

Xem: Hiệp Ngũ chi.

Ngũ Chi phục nhứt tùng chơn lý,

Triết thuyết hoằng dương Đạo chủ quyền.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

NGŨ DỤC

五 欲

Ngũ: Năm. Dục: Lòng dục, dục vọng.

Ngũ dục là năm thứ dục vọng, dục lạc, tức năm đối tượng ham muốn của con người ở thế gian này:

(a)- Tài: Tiền tài, tài sản vật chất.

(b)- Sắc: Sắc đẹp, tình dục.

(c)- Danh: Danh vọng, địa vị.

(d)- Thực: Ăn uống.

(e)-Thuỵ: Ngủ nhiều.

Có người lại cho ngũ dục là:

1.- Sắc dục: Sắc đẹp. Đối tượng tham dục của mắt.

2.- Thanh dục: Âm thanh êm ái. Đối tượng tham dục của tai.

3.- Hương dục: Mùi hương thơm. Đồi tượng tham dục của mũi.

4.- Vị dục: Đồ ăn ngon. Đối tượng tham dục của lưỡi.

5.- Xúc dục: Đụng chạm của da thịt. Đối tượng tham dục của thân.

Lòng Đạo dẫu rằng xa ngũ dục,

Thân phàm đâu dễ tránh tam tai.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGŨ ĐẾ

Ngũ: Năm. Đế: Vua.

Ngũ Đế là năm vị vua trị vì vào thời Thượng cổ nước Trung Hoa.

Theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh thì Ngũ Đế là năm vị vua là Phục Hy, Thần Nông, Huỳnh Đế, Đường Nghiêu và Ngu Thuấn.

Còn theo sách Ngũ Đế Bản Kỷ thì Tam Hoàng là ba vị vua Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đường Nghiêu và Ngu Thuấn.

Dựng đời Ngũ Đế Tam Hoàng,

Trăm nhà muôn họ vững vàng thảnh thơi.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGŨ GIỚI

五 戒

Ngũ: Năm. Giới: Điều răn cấm.

Ngũ giới, hay “Ngũ giới cấm 五 戒” là năm điều giới răn của Phật giáo và đạo Cao Đài, gồm có:

 

1- Nhất bất sát sanh

 

一 不 殺 生:

 

Không sát hại sinh vật.

 

2- Nhì bất du đạo

 

二 不 遊 盜:

 

Không trộm cướp.

 

3- Tam bất tà dâm

 

三 不 邪 婬:

 

Không được tà dâm.

 

4- Tứ bất tửu nhục

 

四 不 酒 肉:

 

Không uống rượu.

 

5- Ngũ bất vọng ngữ

 

五 不 妄 語:

 

Không nói dối.

Trong Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Mà tại sao Thầy lại buộc các con luyện Ðạo đều phải giữ tròn ngũ giới cấm? Tại phép luyện đơn là không phải dễ. Nếu các con phạm quy điều, không giữ giới, thì không bao giờ các con tu đắc quả đặng.

Tam cang ngũ lý nền nhân đạo,

Ngũ giới tam quy cội Thánh Tiên.

(Tăng Tử, Mạnh Tử).

Thọ sắc tam quy câu cứu khổ,

Trì tâm Ngũ giới tiếng nam mô.

(Thơ Thượng Sanh).

Trọn gìn Ngũ giới trau lòng tục,

Vẹn giữ Tam quy tắt lửa phiền.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGŨ GIỚI TAM QUY

五 戒 三 皈

Ngũ: Năm. Giới: Điều răn. Tam: Ba. Quy: Theo về, nương theo.

Ngũ giới là năm điều giới cấm mà người tu hành không được phạm vào: 1). Bất sát sinh: Không giết sinh vật, 2). Bất du đạo: Không trộm cắp, 3). Bất tà dâm: Không tà dâm, 4). Bất vọng ngữ: Không nói láo, 5). Bất tửu nhục: Không uống rượu.

Tam quy là trở về nương tựa với ba ngôi quý báu gọi là quy y Tam bảo: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Tam cang ngũ lý nền nhân đạo,

Ngũ giới Tam quy cội Thánh Tiên.

(Tăng Tử, Mạnh Tử).

Trọn gìn Ngũ giới trau lòng tục,

Vẹn giữ Tam quy tắt lửa phiền.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGŨ HÀNH

五 行

Ngũ: Năm. Hành: Hoạt động, chuyển vận.

Ngũ hành theo nghĩa đen là năm sự chuyển vận tự nhiên hay năm tác nhân, còn gọi là ngũ đức.

Theo thiên Hồng phạm trong Kinh Thư, thì ngũ hành là Kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ. Ngũ hành là năm thế lực hoạt động hay năm tác nhân chuyển vần tương sinh tương khắc lẫn nhau.

Xem: Ngũ hành sinh khắc.

Ngũ hành vận chuyển đoạt huyền Thiên,

Nương níu đôi năm khoẻ tự nhiên.

(Đạo Sử).

Ngũ hành luôn hiện trên hoàn vũ,

Vận chuyển đêm ngày nhựt nguyệt minh.

(Thơ Tử Quy).

 

 

NGŨ HỒ

五 湖

Ngũ: Năm. Hồ: Cái hồ, tức vũng nước rộng và sâu.

Ngũ hồ tức là năm hồ.

Sách Ấu Học viết: Nhiêu Châu chi Bà Dương, Nhạc Châu chi Thanh thảo, Nhuận châu chi Đơn Dương, Ngạc châu chi Động Đình, Tô Châu chi thái Hồ, thử vi thiên hạ chi ngũ hồ 饒 州 之 鄱 陽, 岳 州 之 青 草, 潤 州 之 丹 陽, 鄂 州 之 洞 庭, 蘇 州 之 太 湖, 此 為 天 下 之 五 湖, nghĩa là hồ Bà Dương ở huyện Nhiêu Châu, hồ Thanh Thảo ở huyện Nhạc Châu, hồ Đơn Dương ở huyện Nhuận Châu, Thái Hồ ở huyện Tô Châu, hồ Động Đình ở huyện Ngạc Châu, đấy là năm hồ lớn trong Thiên hạ, chỉ chung khắp nơi trong thiên hạ.

Ngũ hồ còn dùng để chỉ Thái hồ, vì hồ nầy có chu vi rộng trên năm trăm dặm, thông với năm nguồn nước khác, dùng để chỉ hồ ao sông nước.

Không toan sớm đói chiều no,

Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Trong đời Chiến Quốc gương phô,

Công thành thân thoái ngũ hồ thong dong.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

NGŨ KHÍ THANH

五 氣 清

Ngũ khí: Năm loại khí trong cơ thể con người do ngũ tạng sinh ra. Thanh: Trong sạch.

Ngũ khí thanh là năm khí trong con người do ngũ tạng sinh ra được trong sạch.

Thân thể con người có ngũ tạng tiếp xúc khí bên ngoài mà sinh ra ngũ khí: Tâm sinh khí hoả, Can sinh khí mộc, tỳ sinh khí thổ, phế sinh khí kim, thận sinh khí thuỷ. Ngũ tạng nếu tiếp dưỡng bằng vật thực chay lạt thì ngũ khí sẽ thanh và nhẹ nhàng.

Phép luyện của các Đạo gia đem ngũ khí này điều hoà để hiệp làm một gọi là “Ngũ khí triều nguyên”.

Ngũ khí thanh diệt trừ quả kiếp,

Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGŨ KHÍ TRIỀU NGUƠN

Hay “Ngũ khí triều nguyên”.

Con người muốn quy nguyên phản bản, thì tất cả phải quy hướng về Trời, về cái Một. Nên muốn đắc đạo phải luyện sao cho ngũ khí triều nguyên 五 氣 朝 原.

Triều nguyên tức là quy nguyên, hay hiệp nhứt. Luyện ngũ khí tức là luyện nguyên khí của ngũ hành làm cho nó trụ lại ổn định, không bị thất thoát hư hao.

Sách Tính Mệnh Khuê Chỉ viết: Thân bất động thì tinh ổn định, và Thuỷ triều nguyên; Tâm bất động thì khí ổn định, và Hoả triều nguyên; Chân tính tĩnh lặng thì tâm hồn ổn định và Mộc triều nguyên. Dục vọng không còn thì phách ổn định, và Kim triều nguyên; Bốn đại bình yên hài hoà thì ý niệm sẽ ổn định, và Thổ triều nguyên. Đó là ngũ khí triều nguyên, đều quy tụ tại đỉnh đầu. Doãn Chân Nhân nói: Năm khí quy nguyên thì tam nguyên đều tụ nơi Càn đỉnh.

Tóm lại ngũ khí triều nguyên tức là làm cho Tinh, Thần, Hồn, Phách và Ý, tất cả phải hợp lại thành một.

Ngũ khí triều nguơn linh giác hiện,

Tam huê tụ đỉnh huệ năng khai.

(Thơ Danh Nhân).

 

 

NGŨ LÔI ĐÀI

五 雷 臺

Hay “Ngũ Lôi”.

Ngũ Lôi: Năm vị Lôi Thần (Lôi Công), tức là năm vị Thần coi về sấm sét. Đài: Chỗ xây cao.

Ngũ Lôi Đài còn gọi là Bàn Ngũ Lôi là một cái bàn thờ được Đức Chí Tôn dạy vọng trước ngôi của ba vị Đầu Sư, trên có một bài vị đề “Cửu Thiên Cảm Ứng, Lôi Thinh Phổ Hoá Thiên Tôn” và một lá bùa “Kim Quang Tiên” để thòng ngay chính giữa.

Bàn Ngũ Lôi dành để các chức sắc, chức việc lập minh thệ mà thừa hành nhiệm vụ.

Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Con phải lập bàn Ngũ Lôi như Thầy dạy lúc trước, phải có bùa Kim Quang Tiên, còn con viết bùa Giáng Ma Xử để bàn vọng Hộ Pháp, rồi Cư chấp bút nhang cho Thầy triệu Ngũ Lôi đến, rồi nó xuống đứng gần bàn Hộ Pháp với Tắc và Sang, còn mấy đứa phò loan đứng vòng theo đó.

Xem: Ngũ Lôi tru diệt.

1.- Ngũ Lôi đài:

Nhơn Thánh vẹn gìn cơ Phổ độ,

Thọ phong thề trước Ngũ Lôi Đài.

(Thơ Huệ Phong).

2.- Ngũ Lôi:

Khuyên em bền chí chớ thôi,

Khuyên em khá biết Ngũ Lôi chẳng vì.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

NGŨ LÔI TRU DIỆT

五 雷 誅 滅

Ngũ Lôi: Năm vị Lôi Thần (Lôi Công), tức là năm vị Thần coi về sấm sét. Tru diệt: Giết cho tiêu mất.

Ngũ Lôi tru diệt là một hình phạt rất nặng nề dành cho những người phạm Thiên điều, hay phạm thệ.

Hình phạt nầy do Ngũ Lôi Thần dùng sấm sét để tiêu diệt chơn thần người phạm tội.

Quỷ giận, Thần hờn, Tiên Phật ghét,

Ngũ Lôi tru diệt lũ vô lương.

(Vô Danh Cư Sĩ).

 

 

NGŨ LUÂN

五 倫

Ngũ: Năm. Luân: Đạo thường.

Ngũ luân là năm đạo hằng của con người dùng để đối xử với nhau theo lẽ phải.

Ngũ luân gồm có:

- Quân thần là đạo vua tôi: Quân minh thần trung 君 明 臣 忠, nghĩa là vua sáng tôi hiền.

- Phụ tử là đạo cha con: Phụ từ tử hiếu 父 慈 子 孝, tức là Cha hiền con thảo.

- Phu phụ là đạo vợ chồng: Phu xướng phụ tuỳ 夫 唱 婦 隨, nghĩa là chồng hát vợ theo.

- Huynh đệ là đạo anh em: Huynh đệ hoà 兄 弟 和, nghĩa là anh em hoà thuận.

- Bằng hữu là đạo bè bạn: Bằng hữu tín 朋 友 信, nghĩa bè tin lẫn nhau.

Mạnh Tử nói: Phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu tín 父 子 有 親, 君 臣 有 義, 夫 婦 有 別, 長 幼 有 序, 朋 友 有 信, nghĩa là cha con có tình thân, vua tôi có nghĩa, vợ chồng có phân biệt, anh em có trật tự, bè bạn tin nhau.

Cũng vì lỗi đạo cang thường,

Ngũ luân mất hết theo đường vô minh.

(Thơ Thông Quang).

 

 

NGŨ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

五 娘 瑤 池 宮

Hay “Ngũ Nương”.

Ngũ Nương hay Ngũ Nương Diêu Trì Cung, là vị Tiên Nương đứng hàng thứ năm trong Cửu Vị Tiên Nương hay Cửu Vị Nữ Phật, hầu cận Đức Phật Mẫu. Nơi Chánh Điện thờ tại Báo Ân Từ, Ngũ Nương mặc áo màu đỏ, ngồi bên trái Đức Phật Mẫu, tay cầm cây Như Ý.

Ngũ Nương Diêu Trì Cung có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn đến tầng Xích Thiên là tầng Trời thứ năm trong Cửu Trùng Thiên. Nơi đây Chơn hồn được đưa đến đài Chiếu Giám để xem rõ những hành vi tội phước nơi thế gian, rồi tiếp tục dẫn đến cung Ngọc Diệt Hình để mở Kinh Vô Tự đặng thấy được quả duyên của mình. Sau đó, nhờ xe Như Ý đưa Chơn hồn tiếp lên tầng Trời trên.

Trong bài Kinh Đệ Ngũ Cửu có đoạn viết:

Đài Chiếu giám cảnh minh nhẹ bước,

Xem rõ ràng tội phước căn sinh.

Lần vào cung Ngọc Diệt Hình,

Khai kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên.

Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Ngũ Nương có tên Liễu, nhưng Bà không cho biết giáng sinh vào thời kỳ nào và ở đâu. Chúng ta chỉ được biết trong Bài thài hiến lễ Ngũ Nương trong lễ Hội Yến Diêu Trì Cung khởi đầu bằng chữ “Liễu”.

Liễu yểu điệu còn ghen nét đẹp,

Tuyết trong ngần khó phép so thân.

Hiu hiu nhẹ gót phong trần,

Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.

Ngũ Nương không thường giáng cơ dạy đạo cho Nữ phái, Bà chỉ ban thi chung trong Cửu Vị Tiên Nương.

Đây là bài thi của Bà Ngũ Nương giáng tại Thảo Xá Hiền Cung, ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Thân (Dl. 15/9/1932), cùng với Đức Diêu Trì Kim Mẫu và tám vị Tiên Nương khác.

Bài thi đó như sau:

Liễu dựa bến lá cành dã dượi,

Hỏi buồn chi nên phải xơ rơ.

Trăng khuya dựa cửa đương chờ,

Tiếng kêu tình mộng bấy giờ mới trao.

Tại Giáo Tông Đường, ngày 4 tháng 8 năm Ất Hợi (Dl. 1/9/1935) Hộ Pháp và Tiếp Đạo phò loan, Bà Ngũ Nương giáng cho một bài thi cũng khởi đầu bằng tên “Liễu” như sau:

Liễu yếu ớt những lo gió dội,

Có mảnh thân e nỗi khổ thân.

Riêng lo tài sắc hồng quần,

Không nhơ bợn tục nợ trần lánh chơn.

Đêm 15 tháng 8 năm Ất Tỵ (Dl. 10-9-1965), tại Báo Ân Từ, do Thượng Sanh và Hiến Pháp phò loan, Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng đàn cho thi, trong đó bài thi của Ngũ Nương như sau:

Liễu chiều gió xung xăng màn hạnh,

Như để lời cửa Thánh nhắn tin.

Đạo tâm xin gắng vẹn gìn,

Đọa thăng hai lẽ nơi mình liệu toan.

Đức Phật Mẫu giáng cơ dạy Đạo, và Cửu Vị Tiên Nương mỗi vị kính tặng một bài thi, trong Đàn cơ ngày Rằm tháng 8 năm Nhâm Ngọ (Dl. 2/9/1942). Phò Loan: Khai Ðạo và Hiến Ðạo. Bài thi của Ngũ Nương như sau:

Ngũ hành vận chuyển đoạt huyền Thiên,

Nương níu đôi năm khỏe tự nhiên.

Kính có công tu nay gặp hội,

Tặng mình hữu hạnh phục quy nguyên.

Vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn khai mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với mục đích tận độ các nguyên nhân và chúng sanh còn đang mê muội trong kỳ Hạ nguơn mạt pháp nầy, nên Đức Phật Mẫu, dưới quyền có hằng hà sa số Phật trông nom về cơ phổ độ mà Quan Âm Bồ Tát là Đấng cầm đầu, ngoài ra Cửu Vị Tiên Nương có nhiệm vụ trông nom về cơ giáo hoá cho vạn linh.

Bà Ngũ Nương Diêu Trì Cung, cùng như các vị Tiên Nương khác đã lập được nhiều công quả trong thời kỳ khai đạo, lại dày công giáo hoá nữ phái nên các Bà đều đắc hàng Phật vị, gọi là Cửu Vị Nữ Phật.

Ngũ Nương đưa cao Như Ý,

Ra lịnh cùng chư vị Thần, Tiên.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

NGŨ NGUYỆN

五 願

Ngũ: Năm. Nguyện: Lời nguyền.

Ngũ nguyện là một bài kinh trong những bài Kinh Cúng Tứ Thời của Đạo Cao Đài.

Bài kinh Ngũ nguyện gồm có năm câu nguyện là:

Nam Mô Nhứt nguyện: Đại Đạo hoằng khai,

南 無: 一 願 大 道 弘 開.

Nhì nguyện: Phổ độ chúng sanh,

二 願 普 度 眾 生.

Tam nguyện: Xá tội đệ tử,

三 願 赦 罪 弟 子.

Tứ nguyện: Thiên hạ thái bình.

四 願 天 下 太 平.

Ngũ nguyện: Thánh thất an ninh.

五 願 聖 室 安 寧.

Nghĩa là:

Điều cầu nguyện thứ nhứt là con cầu xin Ơn Trên và quyết lòng mở mang nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được rộng khắp.

Điều nguyện thứ nhì là cầu xin cứu độ chúng sanh khắp mọi nơi.

Điều nguyện thứ ba là xin Đức Chí Tôn tha tội cho toàn thể chúng con.

Điều nguyện thứ tư là cầu xin nhân loại trên thế gian nầy được sống cảnh hoà bình thạnh trị.

Điều nguyện thứ năm là cầu xin cho Thánh Thất được an ninh và tâm của chúng sanh không bị tán loạn, điên đảo, hay phiền não, tức là được bình thản, an tịnh.

Thành tâm tụng Ngũ nguyện.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

Khuya sớm rèn lòng câu Ngũ nguyện,

Khen chê miệng thế gác ngoài tai.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

NGŨ NHẠC`

五 嶽

Ngũ: Năm. Nhạc: Núi cao.

Ngũ Nhạc là năm ngọn núi cao tiêu biểu cho năm phương hướng của Trung Quốc:

Sách Ấu Học Quỳnh lâm viết: Đông nhạc Thái Sơn, Tây nhạc Hoa Sơn, Nam nhạc Hành Sơn, Bắc nhạc Hằng Sơn, Trung nhạc Tung Sơn, thử vi thiên hạ chi ngũ nhạc 東 嶽 泰 山, 西 嶽 華 山, 南 嶽 衡 山, 北 嶽 恆 山, 中 嶽 嵩 山, 此 為 天 下 之 五 嶽, nghĩa là núi phía đông là Thái sơn, núi phía tây là Hoa Sơn, núi phía nam là Hành Sơn, núi phía bắc là Hằng Sơn, núi chính giữa là Tung Sơn, đây là năm hòn núi lớn (Ngũ Nhạc) trong thiên hạ.

Theo tín ngưỡng Đông phương, trên năm ngọn núi có các vị Thần trấn giữ, gọi là Thần Ngũ Nhạc, trong đó Đông Nhạc Đế Quân làm đầu Thần Ngũ Nhạc.

Tứ hướng trung ương hầu Ngũ nhạc,

Thiên binh thần tướng đến ngàn trùng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGŨ PHÚC

五 福

Ngũ: Năm. Phúc (Phước): Phúc đức, tốt lành.

Ngũ phúc tức là năm việc tốt lành. Như: Ngũ phúc lâm môn.

Theo Kinh Thư ngũ phúc gồm có: Thọ là sống lâu, phú là giàu có, khang ninh là mạnh khoẻ, du hiếu đức là làm được điều lành, khảo chung mạng là chết già chứ không bị tai nạn. Hoặc có người cho ngũ phúc gồm Phú, quý, thọ, khương, ninh.

Mừng hoa ngũ phúc lời trao tặng,

Chuốc chén tam dương bọt vẫy tràn.

(Thơ Huệ Phong).

Cọp rước tam đa mừng chủng tộc,

Hoa khai ngũ phúc rạng tinh thần.

(Thơ Hoàn Nguyên).

Viết chữ Tam dương trao cánh nhạn,

Tặng câu ngũ phúc mượn bình hoa.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGŨ QUAN

五 關

Ngũ: Năm. Quan: Giác quan.

Ngũ quan là năm giác quan của con người, đó là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân nghĩa là mắt, tai, mũi, lưỡi, và da của thân thể.

Theo Phật giáo, Ngũ quan hiệp cùng với ý của con người tạo thành Lục tặc, là sáu tên giặc hằng theo quấy phá thân tâm người tu hành.

Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,

Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Bế đặng ngũ quan thông xuất tánh,

Diệt tan lục dục rõ siêu hình.

(Cao Tiếp Đạo).

 

 

NGŨ TẠNG

五 臟

Ngũ: Năm. Tạng: Bộ phận trong vùng ngực và bụng. Ngũ tạng là năm cơ quan trọng yếu trong vùng ngực và bụng của con người. Đó là: Tâm, can, tỳ, phế, thận tức là tim, gan, lá lách, phổi và cật.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Tay chơn chưa cử động, hình thể còn tiêu mòn, mắt chưa muốn thấy, tai chưa muốn nghe, ngũ tạng lục phủ chưa thông đồng mà muốn vẫy vùng, lấn lướt thế nào đặng.

Ấy là lúc bịnh xung trong ngũ tạng lục phủ, nhập đến cao hoang, thì người bịnh dầu số Trời cứu cũng không qua đặng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGŨ THƯỜNG

五 常

Ngũ: Năm. Thường: Hằng có.

Ngũ thường là Năm hằng, tức năm đạo thường của người đàn ông.

Ngũ thường gồm có: Nhân 仁, Nghĩa 義, Lễ 禮, Trí 智, Tín 信. Như: Tam cang ngũ thường.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Thầy dạy Nữ phái biết trọng Tam Tùng, Tứ Ðức; Nam phái Tam Cang, Ngũ Thường. Hễ Nhơn đạo thành thì là phù hạp Thiên đạo, nghe à!

Xem: Năm hằng.

Nguyện tam cang gìn tâm trọn đạo,

Nguyện ngũ thường hiếu thảo làm khuôn.

(Kinh Thế Đạo).

Trách thay kẻ phá nền luân lý,

Hận bấy người xô đạo ngũ thường.

(Vô Danh Cư Sĩ).

Long Hoa kết lại mối tình thương,

Thực hiện cho ra đạo ngũ thường.

(Long Hoa Hội).

 

 

NGŨ TRƯỢC

Ngũ: Năm. Trược (trọc): Đục, không trong.

Ngũ trược, như chữ “Ngũ trọc 五 濁”, còn gọi “Ngũ trược ác thế”, là thế gian có năm điều dơ bẩn:

- Kiếp trược: Sự ô uế trong kiếp sống ngắn ngủi của chúng sanh, đầy dẫy vô thường, không có sự ổn định, tức cõi thế đầy sự độc ác, dơ bẩn.

- Kiến trược: Sự bẩn thỉu của nhận thức sai lầm, hay tà kiến.

- Phiền não trược: Sự ô uế của các thứ phiền não, những thứ làm cho tâm bị vẩn đục, như: Tham dục, sân hận, si mê, kiêu mạn...

- Chúng sanh trược: Thân và tâm chúng sanh đều không trong sạch, tức những lỗi lầm, tội ác của chúng sanh như không giữ giới, bất hiếu, bốc lột, áp bức lẫn nhau. Chúng sanh trở nên khổ nhiều phước ít.

- Mạng trược: Sự dơ bẩn của thọ mạng. Sự chìm đắm trong sanh tử luân hồi để theo đuổi danh lợi, ngũ dục. Đời sống ô trược, làm những nghề độc ác, xấu xa mà nuôi thân. Thọ mạng của con người càng ngày càng giảm thiểu.

Ngũ uẩn thạnh khổ, tức là năm yếu tố làm cho người không thấy chân thực, đâm ra triền miên trong ngũ trược và tạo nên khổ.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGŨ UẨN

五 縕

Ngũ: Số năm, số đứng trước sáu, và đứng sau bốn. Uẩn: Sự nhóm hợp theo từng loại có cùng tính chất giống nhau và ngăn che.

Ngũ uẩn là năm nhóm, năm yếu tố hay năm thành phần tập hợp thành con người.

Năm uẩn kết hợp thành sinh mạng và cũng có tác dụng ngăn che cái thấy về thực tại. Mê chấp vào năm uẩn cho đó là ta, của ta, do đó mới tạo ra khổ đau.

Ngũ uẩn gồm có:

- Sắc, Thân thể, yếu tố vật chất.

- Thọ, cảm thọ cảm giác vui khổ nhận chịu khi sau căn tiếp xúc sáu trần.

- Tưởng, tri giác, sự nhận biết, đối tượng của nhận thức. Tưởng tượng, hình dung ngoại cảnh bằng hình ảnh.

- Hành, ý chí, ý muốn thúc đẩy. Tâm hành là tất cả những hiện tượng tâm lý, gọi là tâm sở. Hành uẩn niệm sinh diệt, dòng suy nghĩ liên tục không ngừng.

- Thức, cái hay biết, nhận biết, là tư tưởng hay nhận thức có phân biệt.

Những đặc tính của ngũ uẩn là sinh, trụ, hoại, diệt. Chúng được coi là vô ngã, vô thường, không và khổ.

Thân ngũ uẩn là thân con người chúng ta chỉ là sự tập hợp của năm nhóm yếu tố vật chất và tinh thần nói trên, trong đó không có một thực thể nào bất biến và bất diệt, được gọi là cái ta. Nhưng vì si mê, con người lại chấp chặt năm uẩn là của mình nên phải chịu luân hồi sinh tử.

Bậc giác ngộ xem thân ngũ uẩn không có ngã, không có thực thể, nên không bị chi phối hay ràng buộc và được tự tại, giải thoát.

Bởi Tâm năng biến, năng hoá như vậy, cho nên việc gì cũng biết, việc gì cũng chứa; thành ra Tâm bị thân Ngũ uẩn lôi cuốn khuynh hướng về phàm trần phóng túng theo vật chất...

(Giáo Lý).

 

 

NGŨ UẨN THẠNH KHỔ

五 縕 熾 盛 苦

Hay “Ngũ uẩn xí thạnh khổ”.

Ngũ uẩn 五 縕: Năm nhóm, năm yếu tố hay năm thành phần tập hợp thành con người. Năm uẩn kết hợp thành sinh mạng và cũng có tác dụng ngăn che cái thấy về thực tại. : Lửa hừng. Thạnh: Mạnh mẽ, nhiều.

Ngũ uẩn gồm có: Sắc, thọ, tưởng, Hành, Thức.

Ngũ uẩn thạnh khổ, nói đầy đủ: Ngũ uẩn xí thạnh khổ”, là một trong “Bát khổ 八 苦”, tức tám cái khổ của giáo lý Phật giáo.

Ngũ uẩn xí thạnh khổ là cái khổ do năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức thiêu đốt.

Ngũ uẩn thạnh khổ, tức là năm yếu tố làm cho người không thấy chân thực, đâm ra triền miên trong ngũ trược và tạo nên khổ.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGỤ

1.- Ngụ là ở để làm ăn sinh sống tại một nơi không phải quê của mình.

Như: Người trong làng sang ngụ ở các làng khác, phiêu bạt mãi mới ngụ lại ở làng nầy.

Thuyết Đạo Thượng Sanh nói về Đức Khổng Tử có đoạn: Ðức Khổng Tử người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ thuộc tỉnh Sơn Ðông bên Trung Hoa. Dòng dõi Ngài ở nước Tống, nhưng ông Tổ ba đời của Ngài sang cư ngụ tại nước Lỗ.

Dò đon hỏi bước rừng thiền cũ,

Rằng Phật còn ngụ ở Lôi Âm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Ngụ là thác, hàm chứa bên trong để người ta ngầm hiểu.

Như: Lời khen ngụ vẻ mỉa mai, việc làm của anh ấy ngụ nhiều ý nghĩa.

Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,

Đem tấm tình để ngụ đài sen.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Vần nung phong hoá tâm hằng ngụ,

Thơ dệt non sông mộng chẳng rời.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

NGỤC

Ngục là nơi giam người có tội. Như: Lính gác ngục, vượt ngục, bị giam nơi ngục tối.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nả Phá Luân đã được cơ hội làm nên nghiệp đế, hồi buổi đó làm cho cả toàn dân Âu Châu, các nước chư hầu đều cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục Le Saint Hélène.

Cân câu tội phước sửa mình lành,

Cửa ngục Diêm Ðình chẳng kể danh.

(Đạo Sử).

Vui theo nẻo vạy đường tà,

Vợ con khám ngục cửa nhà xiềng gông.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGỤC ĐAO KIẾM

Ngục: Nhà giam. Đao kiếm: Gươm đao.

Ngục đao kiếm tức là “Đao kiếm ngục 刀 劍 獄”, theo bài kinh Sám Hối, là một nhà giam nơi Diêm Đình, trong đó có chứa nhiều đao kiếm, dùng để chém đâm những tội hồn mà khi còn ở thế làm điều dâm loạn và hung ác.

Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,

Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.

(Kinh Sám Hối).

 

 

NGỤC HÌNH

獄 刑

Ngục: Nhà giam. Hình: Hình phạt.

Ngục hình là hình phạt bị giam vào ngục.

Trong Thuyết đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong hai mươi hai năm qua, Hội Thánh chịu bao nhiêu điều thống khổ, phí biết bao nhiêu sanh mạng vì khảo đảo, tù tội ngục hình, phần thì kiệt lực vì trường trai khổ hạnh, chư Chức Sắc Thiên Phong không chịu nỗi phải bỏ mình chẳng phải chư Chức Sắc mà thôi, mà toàn cả con cái của Chí Tôn cũng vậy.

Nếu làm đặng Đường Ngu nào khác,

Dạy dân đen chẳng phạt ngục hình.

(Bát Nương Giáng Bút).

Danh giành lợi choán cho đầy túi,

Túi trọn trối ai phải ngục hình.

(Trương Quả Lão Giáng).

Bao phen khổ hạnh gầy cơ nghiệp,

Mấy lúc gian lao chịu ngục hình.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

NGỤC MÔN

獄 門

Ngục: Nhà giam, nơi giam giữ những người có tội. Môn: Cửa vào.

Ngục môn là cửa ngục, tức cửa đưa những tội nhơn vào đó giam giữ chờ xét xử, hoặc để thi hành án tù.

Trong tôn giáo, ngục môn dùng để chỉ Địa ngục, là nơi giam giữ và thi hành án của các tội hồn.

Giáo gươm bén nhọn tư bề,

Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.

(Kinh Sám Hối).

Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn.

Miền Âm cảnh ngục môn khai giải,

(Kinh Tận Độ).

 

 

NGỤC THẤT

獄 室

Ngục: Nhà giam, nơi giam giữ những người có tội. Thất: Nhà.

Ngục thất là nhà dùng để giam những người có tội, cũng gọi là nhà giam, nhà lao.

Như: Càng xây dựng nhiều ngục thất thì tội phạm càng nhiều thêm.

Cửa ngục thất cũng bì lầu các,

Hổ nhục hay gội mát anh hùng.

(Xuân Hương Giáng Bút).

Đời Trụ chăn dân bày ngục thất,

Đời Châu trị nước dẹp đề lao.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

NGUI NGÚT

Ngút: Bốc lên cao

Ngui ngút, như chữ “Nghi ngút”, là chỉ khói, hơi ngun ngút, tức bay lên nhiều và toả ra không ngớt.

Như: Khói bay lên cao ngui ngút.

Ðầy sông ngui ngút khói thuyền,

Ðầu non súng giữ, cuối triền gươm đoanh.

(Ngụ Đạo).

Báo Quốc Từ ngui ngút khói hương,

Nghi thờ trên hết Tổ Hùng Vương.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

NGÙI NGÙI

Ngùi ngùi, như chữ “Ngùi”, là vì thương cảm, nhớ tiếc mà buồn rầu, cảm động, gần như muốn khóc.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung có câu: Thiếp nhớ mơ màng lại thì chính bởi thương cha nhớ mẹ mà khổ lúc xuất hồn, còn các bậc Thần Tiên thì cũng ngùi ngùi nhớ kiếp sanh chịu khổ mới đoạt vị cao thăng.

1.- Ngùi ngùi:

Hạc về huê biểu tủi ngùi ngùi,

Nhạn lại hoành dương trông thẳm thẳm.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

2.- Ngùi:

Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,

Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngùi trông trăm họ vùi chung đỉnh,

Cương toả chừng bao thoát khỏi vòng.

(Thơ Cao Mỹ Ngọc).

 

 

NGUY BIẾN

危 變

Nguy: Có khả năng gây ra tai nạn, thiệt hại lớn. Biến: Việc bất ngờ xảy ra, thường là không hay.

Nguy biến là việc xảy ra bất ngờ có thể gây tai hoạ lớn lao. Như: Giúp đỡ nhau trong cơn nguy biến.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Lòng nhân của hai con mà Thầy vốn rõ rất hạp với tánh háo sanh của Tạo hoá. Chẳng những phải cứu trợ kẻ ngoại Ðạo mà lại cứu kẻ nghịch cùng mình trong cơn nguy biến.

Thảng gặp cơn nguy biến mà ba Chánh Phối Sư không đủ sức chống ngăn, thì Đầu Sư đặng dùng quyền thống nhứt ấy mà điều khiển Hội Thánh.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

NGUY NGA

巍 峨

Nguy: Cao ngất. Nga: Dáng núi cao.

Nguy nga là to lớn, lộng lẫy và uy nghi. Như: Toà lâu đài nguy nga tráng lệ.

Thánh giáo Đức Hộ Pháp có dạy: Tuy nhiên vì sự tận tâm của các em mà ngôi thờ được nguy nga đồ sộ, không lẽ buộc các em phá huỷ hay sao?

Nhìn lên vòi vọi nguy nga,

Có hình Thượng Phẩm cùng là Ngọc cơ.

(Lược Thuật Toà Thánh).

Ðẹp thay đây cõi Niết Bàn,

Kinh đô Cực Lạc rỡ ràng nguy nga.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

NGUY HIỂM

危 險

Nguy: Có khả năng gây ra tai nạn, thiệt hại lớn. Hiểm: Gây tai nạn.

Nguy hiểm là ngặt nghèo, hiểm trở, có thể hại đến tài sản hay tính mạng.

Như: Vết thương nguy hiểm đến tính mạng.

Thánh giáo của Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Tóm lại, thà cực mà được thong thả, còn hơn sướng mà phải chịu nguy hiểm.

Nguy hiểm tạo thành trang tuấn kiệt,

Thành kiên lũy cố định phong cương.

(Tôn Sơn Chơn Nhơn).

Vó kỳ từng trải đường nguy hiểm,

Cánh hộc quen chiều gió ngược xuôi.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGUY NAN

危 難

Nguy: Sợ. Nan: Khó khăn.

Nguy nan là ở vào tình trạng hết sức gay go hiểm nghèo. Như: Vận nhà gặp lúc nguy nan.

Diễn văn Đức Quyền Giáo Tông ngày 8 tháng 4 năm Giáp Tuất có câu: Như phải lập mấy cuộc để giúp thế đang nguy nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc học, nhà thương, nhà dưỡng lão cùng các nghề nghiệp cho đạo hữu có phương làm ăn...

Cổi thân ra mảnh áo tơi,

Che mưa đỡ nắng cho đời nguy nan.

(Bát Nương Giáng Bút).

Buổi Tề khán trận thế nguy nan,

Cậy có Tỳ Bà lập chiến tràng.

(Thơ Cao Liên Tử).

 

 

NGUY NGUY

巍 巍

Nguy: Cao ngất, hoặc chỉ núi cao, không dùng một mình. Như: Nguy nga, nguy nguy.

Nguy nguy là cao vòi vọi.

Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết,

Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

NGUY VONG

危 亡

Nguy: Sợ hãi. Vong: Mất.

Nguy vong là tình trạng đáng sợ, có thể diệt vong.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong lúc chinh nghiêng như vậy, tiếc thay: Đức Quyền Giáo Tông và Đức Cao Thượng Phẩm lại về cảnh Thiêng Liêng trước, còn lại có một mình Bần Đạo, Bần Đạo thấy rằng: Nạn nước nguy vong thân nô lệ, ra với hai bàn tay trắng, bắt gió nắn hình, muôn điều khổ não, lập nghiệp Đạo cho thành, cho con cái Đức Chí Tôn.

Vui chi kiếp sống không nhà,

Không lương không bổng thật là nguy vong.

(Thơ Hộ Pháp).

Vui thích chi mà thân trói buộc,

Để cho nòi giống chịu nguy vong.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGUỴ BIỆN

偽 辯

Nguỵ: Giả dối, xảo trá. Biện: Biện luận, bàn cãi.

Nguỵ biện là dùng lời lẽ có tính xảo trá để dối gạt, với ý đồ xuyên tạc sự thật, tức là biện luận làm cho người khác hiểu sai lầm.

Như: Nó dùng những lý lẽ để ngụy biện cho.

Đức Hộ Pháp có thuyết Đạo như sau: Giáng đây nói về sự hiển hiện, một cớ là các báo trên hoàn cầu đã đăng và khi ấy có Vi bằng kiết chứng, không phải là ngụy biện.

Dầu kẻ phạm tội dụng khôn lanh nguỵ biện để khỏi tội hữu hình, nhưng không tránh được hình phạt thiêng liêng.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGUỴ TÀO

魏 曹

Nguỵ: Nhà Nguỵ. Tào: Chỉ Tào Tháo.

Nguỵ Tào là nhà Nguỵ của Tào Tháo.

Dưới đời vua Hiến Đế nhà Hán, Tào Tháo làm Thừa Tướng, nhưng lại chuyên quyền xưng là Nguỵ Vương. Đến khi con của Tào Tháo là Tào Phi phế vua Hán rồi lên ngôi, tự xưng là Nguỵ Văn Đế, lập nên nhà Nguỵ, truyền ngôi được hai đời thì bị diệt.

Trung thành giữ cõi Nam trào,

Hùng anh trước đặng Ngụy Tào khiếp oai.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGUỴ TẠO

魏 造

Nguỵ: Giả dối, xảo trá. Tạo: Dựng lên, làm ra.

Nguỵ tạo là bày đặt ra cái giả nhằm lừa dối. Như: Tài liệu nguỵ tạo để qua mắt chánh quyền.

Quân vọng ngoại hàm hồ nối giáo,

Bọn xâm lăng ngụy tạo giấy tờ.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGUYÊN CĂN

元 根

Nguyên: Đầu tiên Căn: Gốc. rễ.

Nguyên căn là căn gốc đầu tiên.

Nguyên căn còn dùng để chỉ những người có căn gốc đầu tiên, tức từ lúc khai thiên lập địa, đó là những bậc nguyên nhân.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo của Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Muốn sưu tầm nguyên căn của Đạo giáo Cao Đài thì cần phải có một sự suy nghiệm rất sâu sắc, chỉ có lấy thực nghiệm đức tin thì chẳng có chi là khó mấy.

Xem: Nguyên nhân.

Linh Tiêu Điện, bảng danh nêu,

Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.

(Kinh Tận Độ).

 

 

NGUYÊN DO

原 由

Nguyên: Vốn. Do: Bởi, theo, noi.

Nguyên do là nguyên nhân sâu xa.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Các em có biết do đâu mà được vậy chăng? Nguyên do của nó là: Phận làm nữ phái phải lấy tình thương yêu đặng bù vào chỗ loạn ly, bởi lẽ nam phái tuy ngoài mặt đời trên quyền nữ phái, nhưng về nội dung phải chiều theo ý của nữ phái mà tạo nên căn quả.

Nguyên do kiếp trước không tu niệm,

Luân chuyển đời này gắng lập công.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Nước mạnh nguyên do là địa lợi,

Dân giàu căn cứ bởi nhơn hoà.

(Thơ Thông Quang).

 

 

NGUYÊN ĐÁN

元 旦

Nguyên: Ngày đầu. Đán: Mặt trời mới mọc.

Nguyên đán là ngày đầu tiên của một năm, tức là ngày đầu của năm mới.

Phong tục ta chọn ngày nguyên đán, tức ngày đầu năm làm một cái lễ, gọi là Tết Nguyên đán.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo xin không trả lời cho các cơ quan khác nhau như ngày Tết Nguyên đán, những lời của Bần Đạo sẽ nói ra đây xin cả toàn con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài để ý hiểu cho sâu xa một chút.

Nhấp ly nguyên đán say mùi đạo,

Vui cảnh thanh bình thấy bóng lân.

(Thơ Hoài Tân).

Nâng ly nguyên đán say mùi Đạo,

Cạn chén tân niên xoá bợn trần.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

NGUYÊN HANH LỢI TRINH

元 亨 利 貞

Nguyên Hanh Lợi Trinh là bốn đức trong quẻ Kiền (Càn) trong Kinh Dịch, có sáu hào đều dương cả có nghĩa cương kiện, tượng trưng cho Trời.

Trong quyển “Kinh Dịch, đạo của người quân tử”, Nguyễn Hiến Lê nói về bốn đức Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh như sau:

Nguyên là đầu tiên, lớn, trùm mọi điều thiện.

Hanh là hanh thông, thuận tiện, tập hợp các điều hay.

Lợi là nên, thoả thích, hoà hợp các điều phải.

Trinh là chính, bền chặt gốc của mọi vật.

Trời có bốn đức Nguyên Hanh Lợi Trinh thì người Quân tử cũng có bốn đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.

Nhân là một đức lớn nhất, gốc của lòng người, tức như đức Nguyên của Trời.

Lễ là hợp đạo lý, mà hợp đạo lý thì hanh thông, tức như đức Hanh của Trời.

Nghĩa là đức làm cho mọi người vui vẻ, sung sướng, tức như đức Lợi của Trời.

Trí là sáng suốt, biết rõ phải quấy, thị phi, nên nó là đức cốt cán, cũng như đức Trinh chính và bền của Trời.

Thể theo triết học Nho giáo, Đạo Trời có bốn đức là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh, tức là bốn lý pháp mầu nhiệm làm cho cơ sinh hoá vạn vật được điều hoà và thành tựu với tất cả những tốt đẹp thuần tuý thiên nhiên.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGUYÊN HÌNH

元 形

Hay “Nguyên hình tướng”.

Nguyên: Đầu. Hình (hình tướng): Hình dạng bề ngoài của người hay vật.

Nguyên hình là chỉ hình thù vốn có, tức là bộ mặt thật của người hay vật.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Nếu từ trước đến giờ còn giữ được khuôn khổ tổ chức của tổ phụ để lại, thì Bần Ðạo tưởng chẳng hề thấy sự tồi phong đương nhiên, và cầm chắc sự thống khổ loạn lạc chẳng hề có đặng. Ngày hôm nay, phong hoá quốc gia xã hội ta không còn nguyên hình tướng nữa, đã thay đổi ra thô tục gớm ghiếc quá chừng.

Chấn động Thần Tiên xem héo mặt,

Hai nhà Xiển Triệt lộ nguyên hình.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

NGUYÊN HỒN

元 魂

Nguyên: Đầu tiên. Hồn: Linh hồn.

1.- Nguyên hồn là một điểm hồn đầu tiên, chưa được tiến hoá.

Các con nghe: Như loại thảo mộc cũng có thọ nơi Thầy một điểm nguyên hồn. Nó cũng sống, nhưng trí hoá khờ ngây.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

2.- Nguyên hồn còn là linh hồn của những bậc được sinh ra từ lúc khai thiên, tức là linh hồn của những bậc nguyên nhân.

Mầng duyên nhân loại đường tu vững,

Mầng phước nguyên hồn chẳng chút hao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGUYÊN KHÍ

元 氣

Nguyên: Đầu tiên. Khí: Chất khí, chất hơi.

Nguyên khí hay nguơn khí là khí ban đầu để tạo hoá ra Càn khôn vạn vật.

Nguyên khí còn gọi là Hỗn nguơn khí, Hư vô khí hay Tiên thiên khí...

Khi thuyết về cô hồn, ngạ quỷ, Đức Hộ Pháp có câu: Người giáng linh nắm cả nguyên khí ấy luyện trong Càn Khôn Võ Trụ biết hoạt động nương theo cái sanh lực là chữ khí đó (Hộ Pháp chỉ ra Liên Đài Hộ Pháp có chữ khí) tượng hình của mình.

Chơn linh ta do Nguyên khí mà có, Nguyên khí là Tiên thiên khí.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGUYÊN LÝ

原 理

Nguyên: Gốc, vốn. Lý: Lý lẽ.

Nguyên lý là luận điểm cơ bản của một học thuyết, tức điều căn bản dùng để xây dựng nên một học thuyết.

Nguyên lý còn là một định luật cơ bản có tính chất tổng quát, chi phối cả một loạt hiện tượng. Như nguyên lý bảo toàn năng lượng.

Bát Nương Diêu Trì cung có câu: Em tỏ mấy lời xin mấy anh bình tâm cạn nghĩ, vì nên biết từ xưa lo cho quần chúng thì được quần chúng thương, ghét bỏ nhơn sanh thì nhơn sanh ghét bỏ lại, dầu Đạo hay đời, nguyên lý ấy vẫn không sai chạy.

Phép tu vị tha đừng vị kỷ,

Vạn vật đồng nguyên lý tạo đoan.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

Bổn tâm Thầy ngự người trau hạnh,

Nguyên lý đạo khai nước lắng phèn.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

NGUYÊN LINH

元 靈

Nguyên: Đầu tiên. Linh: Chơn linh, linh hồn.

Nguyên linh hay Nguơn linh, đồng nghĩa với nguyên hồn là những linh hồn được sinh ra từ lúc khai thiên, tức Linh hồn của các bậc nguyên nhân.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Càn Khôn Vũ Trụ vĩ đại thế nào thì cái nguyên linh của ta nó cũng phải đạt đặng nguơn linh nó mới chịu, vì cớ cho nên Bần Đạo đã thường nói cái tương lai của loài người họ sẽ đi đến mục đích làm chủ tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ nơi mặt thế hữu hình này, hay họ sẽ làm Ông Trời tại thế này đó vậy.

Nguyên linh dầu đặng cao thăng,

Nơi Cung Trí Huệ làm đàng thiện duyên.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

NGUYÊN NHÂN

 

1.- Nguyên nhân 元 人:

Nguyên: Đầu tiên. Nhân (nhơn): Người.

Nguyên nhân hay nguyên nhơn là người có chơn linh được sinh ra từ lúc khai thiên.

Theo quyển Ngọc Lộ Kim Bàn, Nguyên Nhân là những linh căn chơn tánh mà Đức Kim Bàn Phật Mẫu cho xuống thế gian để dạy dỗ chúng sanh. Nhưng khi xuống trần bị nhiễm mùi tục luỵ, mất hết bửu nang, nên không trở về ngôi cũ được.

Theo Cao Đài, Nguyên Nhân là các Chơn linh do Chí Tôn, Phật Mẫu sai xuống có nhiệm vụ độ rỗi chúng sanh, nhưng vì mê luyến hồng trần, nên 100 ức nguyên nhân xuống đầu kiếp, Phật giáo và Tiên giáo chỉ độ đặng 8 ức, còn 92 ức đang mê muội nơi cõi trần này.

Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu vì lòng Đại từ Đại bi, giáng cơ khai Đạo kỳ ba nầy với tôn chỉ Đại ân xá để tận độ toàn chúng sanh và 92 ức nguyên nhân được trở lại ngôi xưa vị cũ như lời dạy trong Phật Mẫu Chơn Kinh.

Phục Nguyên nhân huờn tồn Phật tánh,

Giáo hoá hồn hữu hạnh hữu duyên.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Đã gầy dựng nên quyền Tạo Hoá,

Phòng hiệp vầy trọn cả Nguyên nhân.

(Kinh Thế Đạo).

Ơn Tạo hoá tha tiền khiên trước,

Đưa linh phan tiếp rước Nguyên nhân.

(Kinh Thế Đạo).

 

2.- Nguyên nhân (nhơn) 原 因:

Nguyên: Nguồn, cội. Nhân (nhơn): Duyên do.

Nguyên nhân là chỉ cái duyên cớ sinh một việc gì.

Như: Nguyên nhân của sự thất bại là bất cẩn, mọi người tìm nguyên nhân nhà sập.

Đừng giận lẫy cằn rằn tính bỏ,

Các nguyên nhân hỏi ngỏ cùng ai.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

NGUYÊN SANH

Hay “Nguyên sinh”.

Nguyên: Đầu tiên. Sanh (Sinh): Sinh ra.

Nguyên sanh, như chứ “Nguyên sinh 元 生” là sinh ra từ ban đầu.

Nguyên sanh, đồng nghĩa với chữ “Nguyên nhân 元 人”, là bậc có chơn linh được Đức Chí Tôn sinh trong lúc mới tạoThiên lập địa.

Thánh giáo Chí Tôn có câu: Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu Nguyên sanh hay Hoá sanh cũng vậy, đến thế nầy lâu mau đều định trước.

Dầu Nguyên sanh, hoá sanh hay quỷ sanh, nếu biết tu hành và lập công quả đầy đủ thì đắc đạo.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGUYÊN TÁC

原 作

Nguyên: Cái gốc, lúc ban đầu của sự việc. Tác: Làm ra, viết ra.

Nguyên tác là tác phẩm gốc.

Như: Bài dịch trung thành với nguyên tác, quyển tiểu thuyết nầy nguyên tác bằng Anh ngữ.

Muốn xem giá ngọc thế nào,

Hãy tìm nguyên tác thấp cao hẳn tường...!

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGUYÊN TÁNH

Hay “Nguyên tính”.

Nguyên: Đầu tiên. Tánh (Tính): Phần Trời ban cho con người.

Nguyên tánh hay “Nguyên tính 元 性” là cái tánh Trời ban cho lúc ban đầu của mỗi người, nên còn gọi là Thiên tánh. Nguyên tánh là cái bản tánh lành, Mạnh Tử mới nói: Nhân chi sơ tánh bản thiện 人 之 初 性 本 善, tức là con người mới sinh ra thì tánh vốn lành.

Lớn lên con người tiêm nhiễm những cấu trược nơi cõi trần, khiến cái bản tánh lành ban đầu mất đi, nên con người lúc nào cũng phải trau dối tâm tánh để cái nguyên tánh ban đầu trong sáng hiện ra.

Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,

Cõi Đào nguyên cỡi hạc thừa long.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

NGUYÊN TẮC

Nguyên: Cái gốc, lúc ban đầu của sự việc.

Nguyên tắc là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm.

Như: Nguyên tắc sử dụng tủ lạnh, nguyên tắc của toán pháp.

Không trấn áp là vì nguyên tắc,

Bởi lòng nhân luật sắc Pháp triều.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGUYÊN TIÊU

1.- Nguyên: Đầu. Tiêu: Đêm.

Nguyên tiêu 元 宵 là đêm đầu tiên có trăng tròn của một năm, tức là đêm rằm tháng giêng Âm lịch, còn gọi là Tiết Nguyên tiêu.

Nguyên tiêu là chỉ đêm rằm tháng giêng âm lịch.

Thượng nguơn hành hiến lễ Nguyên tiêu,

Chư Phật, chư Tiên giáng ngự triều.

(Thơ Thanh Hương).

2.- Nguyên: Đầu. Tiêu: Tầng Trời.

Nguyên tiêu 元 霄 là tầng Trời đầu tiên trên cõi thượng giới, tức Thiên cung.

Đẩu Tinh chiếu thấu Nguyên Tiêu,

Kim Quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư.

(Kinh Tận Độ).

 

 

NGUYÊN TỬ

原 子

Nguyên: Toàn vẹn, không sai, không khác nhau. Tử: Con, hạt.

Nguyên tử là phần nhỏ nhất của nguyên tố hoá học, gồm một hạt nhân ở giữa và một hay nhiều electron ở chung quanh.

Nguyên tử còn dùng để chỉ loại bom tối tân hiện nay, dùng nguyên lý phản ứng tan vỡ của hạt nhân nguyên tử nặng, phóng ra năng lượng lớn, có sức giết người rộng và phá hoại mạnh gấp nhiều lần bom thông thường.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong vạn quốc nắm được báu vô giá là nguyên tử, thay vì để cho nó được trường sanh bất tử, mà trái ngược lộn lại là món tận diệt với nhau.

Mong sao thế giới ngưng nguyên tử,

Cho cả sanh linh hưởng phước nhàn.

(Thơ Huệ Phong).

Cảnh giới Hư linh chê lại có,

Thời kỳ nguyên tử sợ rồi chơi.

(Thơ Thái Phong).

 

 

NGUYÊN THỂ

元 體

Nguyên: Đầu tiên. Thể: Hình thể.

Nguyên thể là hình thể lúc đầu tiên.

Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Hột lúa được gieo xuống đất thì nó nương theo Tứ Đại (Địa, Thuỷ, hoả, Phong) mà biến thành cây mạ. Cây mạ khi được cấy xuống ruộng thì cây mạ biến thành cây lúa, đến lượt cây lúa đơm bông trổ hột lúa khác. Nếu hột lúa mới nầy được gieo nữa thì nó cũng thay đổi như hột lúa trước. Có điều lạ là: Khi hình thể nầy biến ra hình thể khác thì cái nguyên thể của nó không còn nữa.

Ý Thầy muốn nó được giữ nguyên thể như vậy mãi.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGUYÊN ỦY

原 委

Nguyên: Nguồn. Ủy: Ngọn.

Nguyên ủy, như câu “Cùng nguyên cánh ủy 窮 原 竟 委”, nghĩa là cùng nguồn hết ngọn, ý chỉ đầu đuôi gốc ngọn của sự tình.

Như: Nguyên ủy của việc đó như thế nào.

Đó là nguyên ủy phát biểu những lời ca, lời dao, mà người ta sưu tập thành bộ Kinh Thi.

(Giáo Lý).

 

 

NGUYÊN VĂN

原 文

Nguyên: Toàn vẹn, không sai, không khác. Văn: Hình thức ngôn ngữ được trau chuốt cho hay, đẹp.

Nguyên văn là bản văn chính của người ta, chưa ai sửa chữa, thêm bớt hoặc chưa dịch ra tiếng khác.

Như: Nguyên văn bài Sớ viết bằng chữ Nho, trích nguyên văn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

Sợ Bần Đạo dịch ra có trật,

Cứ nguyên văn viết tất ra đây.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGUYÊN VẸN

Nguyên: Được giữ hoàn toàn như thế, không khác trước và không thay đổi. Vẹn: Đầy đủ, không biến đổi, không thiếu sót một chút nào.

Nguyên vẹn là hoàn toàn đầy đủ, không bị suy suyển, mất mát.Sau cơn bão nhà cửa vẫn nguyên vẹn như xưa.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Hộ Pháp khi còn tại thế đã thường nhắc nhở cho Ðạo hữu phải giữ cho nguyên vẹn cái tinh thần tốt đẹp của phong hoá nước nhà, cái tinh ba của nền triết lý trong Ðạo Nhơn luân trót bốn ngàn năm do tổ tiên lưu lại.

Hồi loan Thánh cốt còn nguyên vẹn,

Tái kiến Liên Đài sắc dẫu phai.

(Thơ Thượng Hoà Thanh).

 

 

NGUYỆN

Nguyện, có khi đọc là nguyền, là cầu, xin, ước muốn.

Như: Nguyện với Trời Phật cứu vớt chúng sanh.

Thánh giáo Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Vậy chư hiền hữu cũng phải cầu khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng nầy thì khởi nguyện, dặn các Thánh Thất, các đạo hữu phải để lòng thành khẩn, hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh luật, nghe à!

Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,

Hộ thương sanh u hiển khương ninh.

(Kinh Tận Độ).

Nguyện lời nói biến hình bác ái,

Nguyện chí thành sửa máy tà gian.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

NGUYỆN ƯỚC

願 約

Nguyện: Cầu xin. Ước: Mong cầu.

Nguyện ước, như chữ “Ước nguyện 約 願”, là cầu xin để đạt được những sự mong cầu.

Như: Thoả điều mộng ước.

Xem: Ước nguyện.

Mấy kiếp lâm phàm mấy kiếp xong,

Vẹn lời nguyện ước đặng thành công,

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGUYỆN VÁI

Nguyện: Tự nhủ, tự cam kết sẽ làm đúng như vậy. Vái: Tỏ lòng cung kính, hoặc cầu xin.

Nguyện vái là tự nhủ sẽ làm đúng như lời vái van, cầu xin các Đấng Thiêng liêng.

Như: Nguyện vái Trời Phật hộ trì cho thoát cơn nguy.

Lâm nguy nguyện vái làm lành,

Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.

(Kinh Sám Hối).

 

 

NGUYỆN VỌNG

願 望

Nguyện: Những điều mong mỏi trong lòng. Vọng: Trông, mong.

Nguyện vọng, đồng nghĩa với mong ước, tức là điều mong muốn.

Huấn từ Đức Thượng Sanh có dạy: Giờ nầy nguyện vọng của quý vị được thoả mãn, lẽ dĩ nhiên Hội Thánh để cho quý vị thư thả liệu định, tuỳ cơ hội, tuỳ dịp may mà thực hành.

Nguyện vọng như Anh đã thoả rồi,

Cố tâm kế chí có thằng tôi.

(Thơ Hộ Pháp).

Cảnh Thiên nay đến cõi Hằng sanh,

Nguyện vọng như anh đã đạt thành.

(Thơ Thuần Khiết).

 

 

NGUYỆT

1.- Nguyệt là mặt trăng. Như: Bóng nguyệt, vầng nguyệt, nhật nhu nguyệt nhiễm.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Chiều thu nguyệt xế, non nhạn ngày thâu, lẩn thẩn ngày tháng qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc. Nếu chẳng bền lòng theo nẻo chánh mà thoát lối sông mê thì căn quả trả vay, chẳng biết ngày nào tiêu tận đặng.

Lòng thành một tấm Trời soi xét,

Gương rạng nghìn thu nguyệt chiếu minh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tranh khoe nguyệt rọi làu sông Vị,

Mây toả sương phơi bạc đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Nguyệt, còn đọc là “Ngoạt”, có nghĩa là tháng.

Như: Tuế nguyệt (năm tháng), niên nguyệt nhựt thời (năm tháng ngày giờ), nguyệt kỵ (ngày kiêng trong tháng).

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nếu không gặp thời thì chịu mai một, sống đời ẩn dật, vui thú lâm tuyền bạn với gió trăng, thi gan cùng tuế nguyệt, chớ không màng đến danh lợi đen tối.

Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,

Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.

(Đạo Sử).

Nhìn non chỉ nước làm hơn,

Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGUYỆT CẦM

月 琴

Nguyệt: Mặt trăng. Cầm: Cây đàn.

Nguyệt cầm là đàn nguyệt, hay Hồ cầm, còn gọi là đàn tỳ bà. Theo sách Văn hiến thông khảo thì nguyệt cầm và hồ cầm là cùng một loại đàn như nhau.

Xem: Hồ cầm.

Trong thế sự, giọng thinh âm,

Khoan nhặt nào hơn đoá nguyệt cầm.

(Thơ Cao Liên Tử).

 

 

NGUYỆT CÚC

月 菊

Nguyệt: Trăng. Cúc: Bông cúc.

Nguyệt cúc hay cúc nguyệt là tháng cúc, tức là tháng có hoa cúc nở.

Mỗi năm hoa cúc nở vào tháng 8 âm lịch, nên người ta gọi tháng 8 âm lịch là cúc nguyệt.

Như vậy, nguyệt cúc là cúc tháng tám, tức là bông cúc của mùa thu. Nguyệt cúc đồng nghĩa với thu cúc.

Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương,

Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

NGUYỆT ĐIỆN

月 殿

Nguyệt: Trăng, mặt trăng. Điện: Đền đài.

Nguyệt điện là đền đài trên cung trăng, dùng để chỉ mặt trăng.

Theo truyền thuyết dân gian thì trên mặt trăng có nhiều đền đài, cung điện của Hằng Nga ở.

Sách Sử ký nói vua Đường Minh Hoàng được du Nguyệt điện.

Long cung yến đãi đèn hoa tỏ,

Nguyệt Điện gương soi sắc ngọc làu.

(Thơ Hoàng Nguyên).

Nhẹ cuốn thang mây làu Nguyệt Điện,

Khẽ buông cần ngọc đón Minh Hoàng.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGUYỆT HOA

月 花

Nguyệt: Mặt trăng. Hoa: Bông.

Trai gái thường hẹn hò nhau dưới ánh trăng hay bên khóm hoa, nên chữ “Nguyệt hoa” thường dùng trong văn chương để nói về trai gái tình tứ, hội họp với nhau một cách bất chính.

Các chữ: Trăng hoa, phong nguyệt, gió trăng, hoa tình, phong tình đều cùng một nghĩa với chữ “Nguyệt hoa”, dùng để chỉ sự lả lơi không đứng đắn giữa nam nữ hay cuộc ái ân giữa trai gái.

Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển,

Thói dâm phong rù quến nguyệt hoa.

(Giới Tâm Kinh).

Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,

Vịn lấy nhành dương hưởng Ðạo nhàn.

(Đạo Sử).

Dạy em đừng chồng một vợ ba,

Dạy cho hiểu nguyệt hoa là nghiệp báo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGUYỆT LÃO

月 老

Nguyệt: Trăng. Lão: Ông già.

Nguyệt lão tức là “Nguyệt hạ lão nhân 月 下 老 人” nghĩa là ông già dưới trăng. Tục truyền là vị Thần xem việc hôn nhân.

Đường thư chép: Vi Cố đời nhà Đường trọ ở Tống Thành thấy một ông lão ngồi dưới trăng đang lật xem một quyển sách, bên cạnh có một số dây tơ đỏ. Vi Cố hỏi dây gì, thì ông lão đáp: “Dây xích thằng” (Chỉ đỏ) dùng để cột chân những người có duyên nợ vợ chồng với nhau.

Xem: Xích thằng.

Nguyệt lão đem xe mối chỉ hồng,

Cho duyên bèo nước một nguồn thông.

(Thơ Thuần Đức).

Tơ đỏ nhờ tay Nguyệt lão,

Cửa vàng trộm sánh Lang quân.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

NGUYỆT TÀ

月 斜

Nguyệt: Mặt trăng. Tà: Xiên, không đứng thẳng.

Nguyệt tà là trăng đã chếch (xế) qua đầu, ý nói trăng gần tàn, trời sắp sáng.

Nguyệt tà bóng lặn ngã Tây hiên,

Hỏi cớ gì đâu chịu nỗi phiền.

(Đạo Sử).

Chừ sao để lụn canh gà,

Vắng hoe gối phụng, nguyệt tà hoa thưa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN

月 心 真 人

Hay “Nguyệt Tâm”.

Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, hay “Nguyệt Tâm 月 心”, là Đạo hiệu của là một nhà thi sĩ trứ danh của nước Pháp trong thế kỷ thứ 19, đó chính là Victor Hugo.

Theo Đức Hộ Pháp, Victor Hugo tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là một Đấng Thiêng Liêng tại Quảng Hàn Cung. Khi tái kiếp Ngài sanh tại thành Besançon Pháp Quốc nhằm ngày 26-02-1802, Ngài từ trần tại Paris ngày 22-05-1885, hưởng thọ được 83 tuổi.

Từ buổi Đạo khai tại Tần Quốc, thì Ngài thọ lịnh Đức chí Tôn lãnh quyền Chưởng Đạo, cầm đầu Hội Thánh Ngoại Giáo, Ngài thường giáng cơ giáo hoá và phong thánh cho chư chức sắc Ngoại giáo.

Xem: Victor Hugo.

1.- Nguyệt Tâm Chơn Nhơn:

Bần Ðạo đã vấn nạn Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn một vấn đề khó giải mà từ xưa đến nay chắc chưa có vị Giáo Chủ nào đã hỏi như Bần Ðạo.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Nguyệt Tâm:

Đức Nguyệt Tâm chân tình trạng tỏ,

Cho Hộ Pháp dịch rõ từng câu.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

Nguyệt Tâm người Pháp siêu phàm,

Cộng đồng lại với Tôn Văn người Tàu.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

NGÚN

Ngún là bén lửa, đã cháy ngầm, cháy âm ỉ bên trong sắp thành ngọn.

Như: Củi đã dập tắt nhưng còn ngún lửa, than còn ngún nơi bếp lò.

Than chưa ngún lửa cuộc đời qua,

Nhưng bởi mến con hứa đặng nhà.

(Đạo Sử).

 

 

NGÙN NGỤT

Ngụt (ngút): Bốc lên cao.

Ngùn ngụt, như chữ “Ngun ngút”, là nói khói, lửa bốc cao lên thành ngọn.

Như: Nhà cháy khói bốc lên cao ngùn ngụt.

Kể từ nước Việt chia đôi,

Can qua ngùn ngụt như hồi Đông Châu.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

 

 

NGUÔI

Nguôi là giảm bớt dần mức độ mạnh của một trạng thái cảm xúc hay tình cảm.

Như: Nỗi buồn khôn nguôi, mãi mới nguôi cơn giận, đã nguôi phiền não.

Cợt người ra dạ dể duôi,

Sanh điều chích mích đâu nguôi dạ hờn.

(Kinh Sám Hối).

Nhơ bợn lợi danh đã hết mùi,

Nạn dân Tần nhớ đến không nguôi.

(Tiêu Diêu Đạo Sĩ).

Chạnh lòng Hiền Muội xót thương ôi!

Nhắc nhở khôn nguôi những chuyện rồi.

(Thơ Cao Quỳnh Cư).

 

 

NGUÔI NGOAI

Nguôi: Ngớt, lui, giảm bớt đi.

Nguôi ngoai là giảm bớt dần mức độ mạnh của một trạng thái cảm xúc hay tình cảm.

Như: Lâu dần rồi cũng nguôi ngoai lòng thù hận.

Trường đời ngán ngẩm vòng đa sự,

Cửa Đạo nguôi ngoai nỗi bất bình.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGUỒN

1.- Nguồn là chỗ dòng nước khởi đầu phát ra.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Chim về cội, nước tách nguồn, từ xưa kiếp con người giữa thế chẳng qua là khách đi đường.

Ðường trần dù muốn dừng chơn tục,

Nguồn suối tìm nơi rửa bụi hồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Nguồn còn có nghĩa bóng là nơi khởi đầu, chỗ phát sinh ra.

Thánh giáo Thầy có câu: Phần nhiều trong các con chẳng để lòng thờ kính Thầy, tưởng cho đem thờ Thầy vào nhà là chủ ý cầu một việc lợi riêng chi cho gia quyến vậy thôi, chớ chẳng hiểu là một nguồn trong sạch để rửa các lỗi phàm tục của các con.

Học thiện là nguồn gieo Chánh Ðạo,

Nghe chi miệng quỷ luận tam xàm.

(Đạo Sử).

Bến tục thuyền từ dìu độ chúng,

Đưa vào nguồn sống khởi tò mò.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

NGUỒN ÂN

Nguồn: Nguồn cội. Ân: Ơn.

Nguồn ân là ân huệ của Tổ tiên ông bà.

Do Tổ tiên là nguồn cội của con cháu, nên nguồn ân của con cháu dùng để chỉ ân tổ tiên.

Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm,

Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương.

(Kinh Thế Đạo).

Nguồn ân bể ái xao từ thuở,

Kẻ đợi người chờ trót bấy lâu.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGUỒN CỘI

Nguồn: Suối nguồn, chỉ nơi phát sinh dòng nước. Cội: Cội gốc, chỉ gốc của cây.

Nguồn cội tức là “Cây cội nước nguồn”, dùng để chỉ cái nguồn gốc, hay nơi phát tích.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy bây giờ chỉn để phú Thiên điều hành luật. Ai biết nguồn cội, vội sửa mình, mới mong tránh khỏi lũ tà ma mà đi cho cùng bước Ðạo.

Nguồn cội khá gìn lòng hiếu hạnh,

Tu thân trước phải sửa nhà hơn.

(Đạo Sử).

Cao Đài dẫn giải thông nguồn cội,

Hậu thế lưu truyền rạng ngọc châu.

(Thơ Thượng Sanh).

Tông Nho nguồn cội Thánh truyền roi,

Bởi tại đời mê mới đổi dời.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

NGUỒN CƠN

Nguồn: Nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra. Cơn: Cơn cớ, chỉ nguyên nhân, lý do trực tiếp của sự việc.

Nguồn cơn là đầu đuôi, ngọn ngành của sự việc.

Như: Hỏi anh ấy cho biết rõ nguôn cơn.

Chừ mới rõ nguồn cơn kiếp sống,

Tấc thây phàm rất mỏng số căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGUỒN ĐÀO

Nguồn: Dòng nước suối. Đào: Hoa đào.

Nguồn đào, bởi chữ “Đào nguyên 桃 源” tức là suối hoa đào. Chỉ nơi Tiên ở.

Do bài “Đào hoa nguyên ký” của Đào Uyên Minh kể lại một người quê ở Võ Lăng làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà chèo thuyền đi, quên mất đường về, nên chèo lạc vào một cái động trồng đầy hoa Đào. Trong động ấy, có một nhóm người đang sinh sống, mà trước đây tổ tiên của họ trốn loạn đời nhà Tần, đến đó ở biệt lập hẳn với người đời bên ngoài động đã từ lâu rồi.

Sau khi tìm cách ra khỏi động Đào nguyên, người đánh cá trở về quê có kể lại sự tình cho viên Thái thú. Viên Thái thú sai người đánh cá trở lại, tìm những chỗ trước đã đánh dấu, nhưng không tìm được lối vào nữa.

Vì vậy, Nguồn đào, Động đào, hay Suối hoa đào đều được dùng để chỉ nơi Tiên ở, hay động Tiên.

Hay là lạc bước nguồn Đào,

Để thương cho mặt anh hào đeo mang.

(Kinh Thế Đạo).

Nguồn đào lạc lối ấy duyên may,

Gặp đạo nương theo bước dặm dài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cái bả vinh huê đời rối rắm,

Nguồn đào thong thả đã là đâu.

(Đạo Sử).

 

 

NGUỒN ĐẠO

Nguồn: Nguồn gốc. Đạo: Tôn giáo.

Nguồn Đạo là nguồn gốc của Đạo, chỉ nền Đạo hay nền Tôn giáo.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Nguồn đạo đã gội khắp sanh linh mà nơi đây vẫn còn mơ màng trong mộng điệp.

Trần thế hầu gây náo nhiệt trường,

Lánh nguy nguồn Đạo vẹn tìm phương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tìm hiền lắm lúc gieo nguồn đạo,

Cải dữ đòi phen cổi mạch sầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nguồn Đạo xưa trông đôi cảnh nghịch,

Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

NGUỒN LÀNH

Nguồn: Chỗ khởi đầu, phát sinh. Lành: Hiền lành.

Nguồn lành là gốc của việc lành.

Nguồn lành, đồng nghĩa với chữ “Nguồn đạo”, là chỉ nền Đạo, nền tôn giáo.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Các con ngày hôm nay mà đặng nắm mối Ðạo vào trong thì rất là hạnh phúc. Từ cổ chí kim đã biết bao nhiêu là lời Thánh, Hiền để lại mà khuyến thế độ nhơn, ngặt vì đời không chịu tầm chỗ u huyền thâm viễn, thành thử thế tục ngày luống biến thiên nhơn tâm ngày càng trụy lạc, Ðạo đức ngày một lu lờ, bèn xô đẩy con người cứ mãi xa lần cội phước, nguồn lành, mà vướng phải vào vòng luân hồi, lục đạo.

Thành bại lẽ thường lo cũng uổng,

Ðể công dạy kẻ biết nguồn lành.

(Đạo Sử).

Nguồn lành là chốn rất an nhàn,

Trước mắt đâu xa hỏi nẻo sang.

(Đạo Sử).

 

 

NGUỒN LỢI

Nguồn: Chỗ khởi đầu, phát sinh ra. Lợi: Có lợi, mang lại cho con người nhiều hơn phải bỏ ra.

Nguồn lợi là gốc của lợi, tức chỗ phát sinh ra những điều lợi lộc.

Như: Con sông nầy là nguồn lợi cho dân đánh cá.

Trường đời chẳng quản bao nguồn lợi,

Cửa Thánh há cầu một chữ danh.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

NGUỒN NHÂN

Nguồn: Nguồn gốc, chỗ phát sinh. Nhân: Thương người mến vật.

Nguồn nhân, đồng nghĩa với “Cội ái”, chỉ cái nguồn gốc của sự thương yêu.

Xem: Cội ái.

Linh dược đầy bầu là cội ái,

Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGUỒN TIÊN

Nguồn: Chỗ khởi đầu, phát sinh. Tiên: Hàng Tiên.

Nguồn Tiên, đồng nghĩa Nguồn Thánh, ý chỉ một nền đạo đức cao siêu huyền diệu, tức nguồn Đạo.

Nguồn Tiên còn dùng để chỉ cõi Tiên.

Xem: Nguồn Thánh.

Lo lường nền hạnh đặng lên cao,

Cao đức nguồn Tiên mới bước vào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hiền lành là phước dẫn nguồn Tiên,

Chưa đặng trọn chưng khách cửu tuyền.

(Đạo Sử).

Động Thánh khuyên người lần bước đến,

Nguồn Tiên là nẻo để công tầm.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

NGUỒN TIÊN NẺO PHẬT

Nguồn Tiên: Ý chỉ một nền đạo đức cao siêu huyền diệu, tức cõi Tiên. Nẻo Phật: Đường dẫn đến cõi Phật.

Nguồn Tiên nẻo Phật, như câu “Đường Tiên nẻo Phật”, là chỉ cõi trở về theo Phật, hay tầm Tiên của những chơn linh đắc đạo, đó là cõi Phật hay Tiên cảnh.

Xem: Nẻo Phật đường Tiên.

Nguồn Tiên, nẻo Phật, từ trước đến giờ, vẫn chờ kẻ hữu phần hữu đức hữu công, tu thân dưỡng tánh, mà lánh khỏi thói đời mê muội nầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGUỒN THÁNH

Nguồn: Chỗ khởi đầu, phát sinh. Thánh: Tiếng tôn xưng, hay chỉ bậc Thánh.

Nguồn Thánh hay nguồn nước Thánh, là dòng nước Thiêng liêng, mầu nhiệm, dùng để rửa sạch các oan khiên, nghiệt chướng nơi cõi trần.

Vì vậy, nguồn Thánh còn dùng để chỉ nguồn Thánh Đạo, tức là nguồn Đạo.

Thánh giáo có câu: Ðạo Trời khai ba lượt, nguồn Thánh độ muôn người. Thìn lòng để bước vào nẻo thẳng đường ngay mà kiếm cho thấu đáo mối huyền vi Tạo hoá đã sắp bày độ dẫn, nhuần gội ơn huệ cho sanh linh đương buổi Hạ nguơn nầy.

Xem: Nguồn trong.

Nhành dương nước rưới tan lòng tục,

Nguồn Thánh Đạo dìu lại cõi Tiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Noi dấu đường ngay Trời tế độ,

Chen chơn nguồn Thánh bước lần vào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đưa gươm trí huệ khai nguồn Thánh,

Cứ ngóng Bạch Vân để định chừng.

(Thanh Sơn Đạo Sĩ).

 

 

NGUỒN TRONG

Nguồn: Chỗ phát tích ra dòng nước, dòng nước. Trong: Trong sạch.

Nguồn trong là dòng nước trong sạch, dùng để lau rửa các vết bẩn ô trược, bám vào thân tâm của con người, chỉ nguồn Đạo. Đồng nghĩa với “Nguồn Thánh”.

Thánh giáo Thầy có câu: Các bậc Thần, Thánh, nếu chẳng biết mối đạo là phương châm tìm nguồn trong rửa bợn tục, thì biển trần khổ nầy cũng khó mong thoát đặng.

Xem: Nguồn Thánh.

Thuyền chờ bến tục buồm trương sẵn,

Ðưa đến nguồn trong rửa bợn sầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đạo như đuốc huệ rọi đường tu,

Đạo vốn nguồn trong rửa mạch sầu.

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

NGUƠN CHẤT

Hay “Nguyên chất”.

Nguơn (nguyên): Đầu tiên, mới khởi đầu. Chất: Bản chất của sự vật.

Nguơn chất, như chữ “Nguyên chất 元 質” là cái chất ban đầu.

Nguơn chất (Nguyên chất) còn là một chất nơi Kim Bồn ở Diêu Trì Cung, Tạo Thiên mà Đức Phật Mẫu dùng để tạo thành muôn vật.

Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,

Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.

(Kinh Tận Độ).

 

 

NGUƠN ĐÁN

Nguơn (nguyên): Đầu tiên. Đán: Buổi sáng, mặt trời mới mọc.

Nguơn đán, như chữ “Nguyên đán 元 旦”, là ngày đầu tiên của một năm, tức là ngày đầu của năm âm lịch.

Như: Tết nguơn đán đã sắp đến.

Xem: Nguyên đán.

Trước thềm nguơn đán trầm hương ngát,

Ngưỡng cửa tân niên phúc lộc tràn.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGUƠN HỘI

元 會

Nguơn: Khoảng một thời gian dài hình thành Càn Khôn Vũ Trụ, vạn vật và sự tiến hoá của nhơn loại.

Hội: Giao hội, tức là từ Thượng nguơn qua Trung nguơn, đến Hạ nguơn, rồi trở lại Thượng nguơn nữa.

Ba nguơn là một Chuyển, hay nói rõ hơn một Chuyển gồm Thượng nguơn hay nguơn Thánh đức, Trung nguơn hay nguơn Tranh đấu (Tấn hoá), Hạ nguơn hay Tái tạo (Bảo tồn).

Hiện nay nhơn loại đang ở vào thời kỳ Hạ nguơn Tam chuyển, sắp bước qua Thượng nguơn Tứ chuyển.

Biển trần dìu bước tùng nguơn hội,

Chẳng thẹn ngàn xưa một chữ tâm.

(Thơ Tiếp Đạo).

Nguơn hội chót lập thành cơ Ðạo đức,

Ðể độ đời thoát vực biển sông mê.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGUƠN KHÍ

Hay “Nguyên khí”.

1.- Nguơn (nguyên): Đầu tiên. Khí: Chất khí.

Nguơn khí, như chữ “Nguyên khí 元 氣”, là khí ban đầu để tạo hoá ra Càn khôn vạn vật.

Nguyên khí còn gọi là Hỗn nguơn khí, Hư vô khí hay Tiên thiên khí...

Trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp có viết: Nhờ sanh sanh tử tử thâu đoạt Nguơn Khí tạo đặng Pháp Thân của mình với cả muôn muôn triệu triệu kiếp sanh của chúng ta, đặng đoạt cả huyền vi bí mật quyền phép tạo đoan, cho nên cái lúc đoạt được Pháp Thân rồi, tức nhiên đoạt được Phật Vị vậy.

Xem: Nguyên khí.

Long Tu Phiến có thể vận chuyển Càn Khôn Vũ Trụ, do nguơn khí đào độn sanh ra đó vậy.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Nguơn (nguyên): Đầu tiên. Khí: Là chất sinh để bảo tồn sự sống, gọi là sinh khí, cũng là nguồn sinh lực của con người.

Khí này nếu ở ngoài là thanh khí, thuộc khí tiên thiên từ khí hư vô của Trời đất, gọi là “Nguơn khí”.

Nguơn khí qua sự hô hấp của con người, đi vào phổi để lưu thông huyết mạch, nên khí này bị nhiễm lấy vật chất xác phàm mà hoá ra khí hậu thiên, đó là trược khí.

Hễ khí này mạnh thì thân thể cường tráng, hễ khí yếu thì thân thể suy nhược. Khí thuộc chơn thần.

Có điều hữu dụng của sự cúng tế là lòng thành, cảm động tình ái lẫy lừng, làm cho nguơn khí của Chơn thần trở nên thơm tho đẹp đẽ...

(Thượng Phẩm Giáng).

 

 

NGUƠN LINH

Hay “Nguyên linh”.

Nguơn (nguyên): Đầu tiên. Linh: Chơn linh, linh hồn.

Nguơn linh, như chữ “Nguyên linh 元 靈”, đồng nghĩa với nguyên hồn là những linh hồn được sinh ra từ lúc khai thiên, tức Linh hồn của các bậc nguyên nhân.

Xem: Nguyên linh.

Trùng huờn phục vị Thiên môn,

Nguơn linh hoá chủng quỷ hồn nhứt thăng.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

NGUƠN TIÊU

Hay “Nguyên tiêu”.

Nguơn (nguơn): Đầu. Tiêu: Đêm.

Nguơn tiêu, như chữ “Nguyên tiêu 元 宵”, là đêm đầu tiên có trăng tròn của một năm, tức là đêm rằm tháng giêng Âm lịch, còn gọi là Tiết Nguyên tiêu.

Nguơn tiêu là chỉ đêm rằm tháng giêng âm lịch.

Xem: Nguyên tiêu.

Tiết Nguơn tiêu vầng trăng thật tỏ,

Liễu buông tơ mừng gió lai rai.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

NGUƠN TINH

Hay “Nguyên tinh”.

Nguơn (nguyên): Ban đầu. Tinh: chất nước rất tinh anh của nhục thể. Nhờ có tinh, con người mới có sức lực, tạo ra nòi giống, và nhứt là người tu nếu biết bảo tinh thì có thể tạo ra đệ nhị xác thân hay tượng hình Linh thể đắc Đạo.

Nguơn tinh, như chữ “nguyên tinh 元 精”, là phần tinh ban đầu, trong sạch, chưa bị dục niệm, người tu sẽ luyện nguơn tinh nầy theo nghịch chuyển để hoá ra khí rồi hiệp với thần mà ngưng kết thành nhị xác thân.

Tu thì khá giữ nguơn Tinh,

Tu thì phải giữ phải gìn hồn linh.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

Bảo tồn tịnh luyện nguơn tinh,

Hiệp cùng thần khí điểm linh phục huờn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGUƠN THÁNH ĐỨC

Nguơn: Một khoảng thời gian dài hình thành Càn khôn Vũ trụ, vạn vật.

Thánh đức: Đức của bậc Thánh. Đời Thánh đức là đời trong đó con người hoàn toàn thuần lương.

Một Chuyển chia thành ba nguơn: Thượng nguơn, Trung nguơn và Hạ nguơn.

Hiện nay nhơn loại đang ở vào thời kỳ Hạ nguơn Tam Chuyển, sắp bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển.

Hạ nguơn là nguơn bảo tồn hay nguơn tái tạo. Con người sống trong thời Hạ nguơn vì tiến hoá cao về vật chất, nhiều dục vọng nên sinh ra sự tranh đấu quyết liệt đưa đến tận diệt. Do đó, con người trong Hạ nguơn này lo bảo tồn lẫn nhau để cùng tồn tại và tiến hoá, lập lại đời Thượng nguơn Tứ Chuyển, tức Thượng nguơn Thánh đức.

Nhơn loại cộng hoà nguơn Thánh đức,

Thế gian chung hưởng cảnh Đường Ngu.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

NGUƠN THỈ

Nguơn Thỉ đọc đầy đủ là Nguơn Thỉ Thiên Tôn, hay “Nguyên Thuỷ Thiên Tôn 元 始 天 尊” là vị Giáo Chủ phái Xiển giáo trong Đạo giáo, đứng thứ nhứt trong Tam Thanh, với ngôi vị Ngọc Thanh. Hai vị kia là Thượng Thanh, Linh Bảo Thiên Tôn và Thái Thanh, Đạo Đức Thiên Tôn (Thái Thượng Đạo Quân).

Theo Lão Quân Nội Truyện của Doãn Hỷ thì Lão Tử đi về xứ Tây Tạng, khi đến ải Hàm Cốc, gặp Doãn Hỷ, Ngài lưu lại ở đây để viết quyển Đạo Đức Kinh đưa cho ông rồi bảo tu theo đó thì đắc đạo.

Nguyên chơn linh ông Doãn Hỷ là Ðức Nguơn Thỉ giáng trần, nên khi đắc đạo, Chơn linh Doãn Hỷ trở về với Nguơn Thỉ Thiên Tôn.

Theo truyện Phong Thần, Hồng Quân Lão Tổ có ba vị học trò: Lão Tử, Nguơn Thỉ là Giáo chủ Xiển giáo, còn Thông Thiên Giáo Chủ là Giáo Chủ Triệt giáo.

Học trò của phái Xiển giáo là những người tu hành chân chính, có đạo hạnh cao, nên hầu hết đắc vị Tiên.

Ðạo Tiên Nguơn Thỉ chưa ra đời thì có Hồng Quân Lão Tổ, Lão Tử, Thông Thiên Giáo chủ truyền đạo.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGÚT

1.- Ngút là bốc lên cao. Như: Vượt ra ngoài tầm mắt.

Thánh giáo Thầy có câu: Ðạo mầu tìm đến, lấy hạnh đức giồi tâm, mượn nâu sồng lánh thế, càng dìu sanh chúng, càng bước bước càng cao, lên tột mây xanh, vẹt ngút trông vào cảnh cực lạc an nhàn, non chiều hạc gáy, động tối quy chầu, ấy là khách Tiên gia lánh khỏi đoạ luân hồi nơi cõi thế vậy.

Vẹt ngút mây xanh Trời tỏ rõ,

Quét lằn bụi đỏ thế phui pha.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trăm hạnh để lần sanh chúng dẫn,

Non Thần vẹt ngút tới tìm phương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Ngút là trải rộng và ngày càng xa ra như vượt khỏi tầm mắt.

Như: Biển lúa xanh trông ngút mắt, khói toả lan ra trong ngút mắt.

Về nam đỗ cánh rừng tòng,

Ngút xem tủa án cây đông khoả rèm.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

NGƯ

1.- Ngư là cá, loại vật có mang, sống ở nước sông, nước biển.

Như: Ngư thuỷ tương phùng, ngư trầm nhạn lạc, ngư long biến hoá.

Ta than lỗi bậc cung cầm,

Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Thảnh thơi biển rộng ngư mừng nước,

Thanh tịnh rừng sâu thú lập làng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Ngư là đánh bắt cá, tôm, mực.

Như: Ngư thuyền, ngư công (ông chài hay người đánh cá), ngư phủ.

Kinh luân đứt nối khó truyền,

Gãy câu Khương Tử, đắm thuyền Ngư công.

(Ngụ Đời).

 

 

NGƯ ÔNG

漁 翁

Ngư: Đánh bắt cá, tôm, mực. Ông: Chữ dùng để chỉ người đàn ông, lớn tuổi.

Ngư ông là ông câu hay người đánh cá. Ngư ông đồng nghĩa với “Ngư phủ”, chỉ ông câu.

Sản nghiệp ngư ông chở một thuyền,

Tháng ngày thong thả cũng là Tiên.

(Thơ Thông Quang).

 

 

NGƯ PHỦ

漁 父

Ngư: Đánh bắt cá, tôm, mực. Phủ: Chữ dùng để gọi người đàn ông một cách tôn trọng.

Ngư phủ là ông câu hay chỉ chung người đàn ông đánh bắt tôm, cá.

Thương công ngư phủ dầm khơi,

Đò nhơn rước khách, lập đời an nguy.

(Thất Nương Giáng Bút).

Giục sầu đêm quạnh nghe ngư phủ,

Gợi thảm sương mơi giục trở lèo.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

NGƯ TIỀU CANH MỤC

漁 樵 耕 牧

Ngư: Người đánh bắt cá. Tiều: Người đốn củi. Canh: Người làm ruộng. Mục: Người chăn nuôi.

Ngư tiều canh mục là bốn nghề nghiệp của thời xưa, gồm: Ngư là nghề đánh cá, tiều là nghề đốn củi, canh là nghề cày ruộng, mục nghề chăn nuôi súc vật.

Sĩ, nông, công, cổ sanh nhai,

Ngư, tiều, canh, mục làm bài bảo thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGỮ

Ngữ: Nói, lời nói. Như: Thường ngữ, ngôn ngữ, thành ngữ, phương ngữ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: chúng ta chẳng biết Minh Ðường Minh Sư họ có phương pháp chi mà luyện hay lắm, sự triết lý đã để truyền giáo một cách vững chắc, chúng ta cũng nhìn nhận có nhiều chơn lý đặc sắc, tưởng tượng ra câu thường ngữ khi thuyết pháp họ thuyết pháp nơi câu đại hùng, đại lực, đại từ bi.

Cổ ngữ vạn ban đô thị giả,

Kim ngôn bá kế nhứt trường không.

(Quan Âm Giáng Bút).

Chuốt trau đẹp dạng tốt hình,

Ngữ ngôn dụng thói bạc tình gọi khôn.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

NGỮ NGÔN

語 言

Ngữ: Nói chuyện. Ngôn: Nói, tiếng nói.

Ngữ ngôn là tiếng nói, tức những âm, những từ và những quy tắc kết hợp chúng mà những người trong cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau.

Xem: Ngôn ngữ.

Chuốt trau đẹp dạng tốt hình,

Ngữ ngôn dụng thói bạc tình gọi khôn.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

NGỰ

1.- Ngự là ngồi ở nơi cao nhất, trang trọng nhất. Như: Vua ngự nơi ngai vàng, Phật ngự toà sen.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có lời dạy: Hiệp Thiên Ðài là nơi Thầy ngự cầm quyền thiêng liêng mối Ðạo. Hễ Ðạo còn thì Hiệp Thiên Ðài vẫn còn.

Nơi lòng Thầy ngự động Thầy hay,

Ngặt nỗi là xưa chẳng thế bày.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thà xuống Âm Cung chia khổ tội,

Cha vầy, ai nỡ ngự đài cao!

(Thất Nương Giáng Bút).

2.- Ngự là từ dùng riêng để nói với ý tôn kính về những hoạt động đi lại của vua hay Thượng Đế. Như: Giá ngự, ngự trần gian, ngự tiền, ngự lãm.

Từ bi giá ngự rạng môn thiền,

Đệ tử mừng nay hữu huệ duyên.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Hạnh ngộ Cao Ðài truyền Ðại Ðạo,

Hảo phùng Ngọc Ðế ngự trần gian.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Ngự, còn có thể viết , có nghĩa là cai trị.

Như: Chí Tôn ngự trị chư Thần Thánh Tiên Phật, thống ngự muôn loài.

Hoá dục quần sanh,

Thống ngự vạn vật.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

NGỰ BAN

御 頒

Ngự: Thuộc về vua. Ban: Tặng cho.

Ngự ban là từ chỉ vua tặng cho bề tôi.

Trong tôn giáo Cao Đài, ngự ban là tiếng tôn xưng để chỉ Đức Chí Tôn, hoặc Đức Phật Mẫu ban tặng xuống cho chúng sanh.

Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,

Chén trường sanh có lịnh ngự ban.

(Kinh Tận Độ).

 

 

NGỰ GIÁNG

御 降

Ngự: Chỉ những thứ gì thuộc về vua hay Trời. Giáng: Đi xuống.

Ngự giáng là chỉ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế, hay Đức Phật Mẫu đi (giáng) xuống cõi trần.

Trên Điện Ngọc Vua Trời ngự giáng,

Trước đền vàng phán đoán phân minh.

(Xưng Tụng Công Đức).

 

 

NGỰ MÃ THIÊN QUÂN

御 馬 天 君

Hay “Ngự Mã”.

Ngự: Thuộc về vua, hay cầm cương ngựa. Mã: Ngựa. Thiên Quân: Phẩm do Chí Tôn phong thưởng.

Ngự Mã Thiên Quân, hay “Ngự Mã 御 馬”, là một vị Thiên Quân theo hộ giá Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Theo Thánh giáo, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là Chơn linh của Ngự Mã Thiên Quân giáng trần để khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

1.- Ngự Mã Thiên Quân:

Cương lĩnh hoà bình tình bác ái,

Mong nhờ quyền Ngự Mã Thiên Quân.

(Thơ Huệ Phong).

2.- Ngự Mã:

Quyền cao Ngự Mã là vinh bấy,

Phận mỏng Hiệp Thiên biết giữ còn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGỰ TỬU

御 酒

Ngự: Từ dùng riêng để nói với ý tôn kính về những hoạt động hay đồ của vua hay Thượng Đế. Tửu: Rượu.

Ngự tửu là rượu của vua ban.

Như: Vua ban ngự tửu cho quần thần.

Tiệc trà Tôn Tẫn xưa chưa cạn,

Ngự tửu Châu Vương uống chẳng say.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

NGỰ TRỊ

御 治

Ngự: Ngồi ở nơi cao nhất, trang trọng nhất. Trị: Cai quản, cai trị.

Ngự trị là chiếm vị trí cao hơn hết vùng chung quanh.

Ngự trị còn dùng để chỉ chiếm địa vị chi phối đối với tất cả những cái khác.

Như: Đặt đài quan sát ngự trị trên cao, đồng tiền ngự trị lên tất cả mọi thứ.

Ðức Khổng Tử nói rằng: Ðấng Thượng Đế ngự trị trong thâm tâm của mỗi người dưới hình thức lương tâm.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGỰ TRIỀU

御 朝

Ngự: Thuộc về vua, hay cầm cương. Triều: Triều đình, nơi vua ngự trị.

Ngự triều là nói vua đến triều đình họp quần thần để lo việc triều chánh.

Trong tôn giáo Cao Đài, ngự triều là nói Đức Chí Tôn họp Thiên triều nơi Ngọc Hư Cung.

Ngọc Hư đại hội ngự triều,

Thiều quang nhị bá Thiên Kiều để chơn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thượng nguơn hành hiến lễ Nguyên tiêu,

Chư Phật, chư Tiên giáng ngự triều.

(Thơ Thanh Hương).

 

 

NGỰ UYỂN

御 苑

Ngự: Thuộc về vua. Uyển: Vườn hoa.

Ngự uyển là vườn của nhà vua, hay vườn hoa trong cung nhà vua.

Bên thềm quế lần ra ngự uyển,

Vút thu phong lưu luyến tầng cao.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

NGỪA

1.- Ngừa là phòng giữ trước. Như: Ngăn ngừa, phòng ngừa, ngừa kẻ trộm.

Thánh giáo Thầy có câu: Các con đã từng nghe lời Thầy khuyên nhủ về chuyện ngừa Cơ Bút, thế mà một phần chẳng chịu sửa cải đường ngay cho khỏi lâm vào nẻo tà mị, đã vi lịnh Thầy mà dìu dắt các con lạc bước.

Ðưa chân đến cửa Khổng Trình xưa,

Nét hạnh muốn nên phải gắng ngừa.

(Đạo Sử).

Quốc dân ăn thãi uống thừa,

Khôn ngăn bán lận khó ngừa buôn gian.

(Ngụ Đời).

2.- Ngừa là chờ, đợi, đón.

Như: Thuyền ngừa ngoài bến sông. Ngừa thuyền đợi khách sang sông.

Ngừa thuyền Thầy đợi kẻ sang chơn,

Khổ hạnh khuyên con chớ dạ hờn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðưa khách thuyền Tiên ngừa trước ngõ,

Phân minh tội phước khá nên dành.

(Đạo Sử).

 

 

NGỪA THUYỀN

Ngừa: Đợi, chờ đợi. Thuyền: Ở đây chỉ thuyền Bát nhã, tức con thuyền Đạo.

Ngừa thuyền là đợi thuyền, đồng nghĩa với câu “Ngừa thuyền Bát nhã”.

Trong tôn giáo, Thuyền Bát nhã được ví như trí huệ đưa con người từ bến mê sang bờ giác, tức là nói con thuyền Đạo.

Xem: Ngừa thuyền Bát nhã.

Theo bước kịp thì tìm ánh sáng,

Ngừa thuyền ấy lúc lánh dòng sâu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngừa thuyền Thầy đợi kẻ sang chơn,

Khổ hạnh khuyên con chớ dạ hờn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGỪA THUYỀN BÁT NHÃ

Ngừa: Đợi, chờ đợi. Thuyền Bát nhã: Được ví như trí huệ đưa con người từ bến mê sang bờ giác, tức là chỉ con thuyền Đạo.

Ngừa thuyền Bát nhã ý nói chờ đợi con thuyền Đạo đến cứu giúp đưa lên bờ giác.

Hứng giọt Ma Ha lau tục lụy,

Ngừa thuyền Bát Nhã thoát mê tân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngừa thuyền Bát Nhã theo Tương thuỷ,

Hoạ giúp Thiên Tôn đóng cửu tuyền.

(Đoàn Thị Điểm Giáng).

 

 

NGỬA NGHIÊNG

Ngửa: Phơi mặt lên trên. Nghiêng: Lệch một bên.

Ngửa nghiêng do chữ “Nghiêng ngửa”, dùng để chỉ trạng thái chao đảo, nghiêng qua ngả lại, thường ví với tình huống điêu đứng.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Lý Giáo Tông có dạy: Lão phải chấp chánh quyền hành, công thưởng, tội trừng, cho đáng lý. Chẳng phải bởi ngửa nghiêng cơ Đạo mà buộc Lão tùng đời.

Còn chi hai chữ thái bình,

Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu.

(Ngụ Đời).

Như đô dời đổi nghiệp vua truyền,

Mình một phong quan mặc ngửa nghiêng.

(Đạo Sử).

Nhìn thấy đạo Trời lúc ngửa nghiêng,

Biển khơi ra sức lái con thuyền.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

NGỰA

Ngựa là loài thú thuộc lục súc, chân chỉ có một ngón, chạy nhanh, nuôi để cỡi, để kéo xe. Như: Trâu cày ngựa cỡi, ngựa chiến.

Thánh giáo Thầy có câu: Còn nước Hạng, ngươi Trọng Sơn sạch mình đến đỗi cho ngựa uống nước rồi vãi tiền xuống sông mà trả, trong sạch đến đỗi của Trời Ðất cũng không nhơ bợn, con hiểu à?

Mộng ảo trò đời đâu mấy chốc,

Ngựa qua cửa sổ cuộc tan tành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,

Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

NGỰA HỒ

Ngựa: Loài thú thuộc lục súc, chân chỉ có một ngón, chạy nhanh, nuôi để cỡi, để kéo xe. Hồ: Rợ, mọi, một giống dân chưa được khai hoá ở phương bắc Trung Hoa.

Ngựa Hồ do điển: Xưa rợ Hồ dâng cho vua Hớn Võ Đế một con ngựa hay, khi đưa sang đến Hớn thì ngựa không ăn bỏ uống, đợi đến khi có gió Bắc thì mới hý mà hý một cách buồn thảm. Do vậy cổ thi có câu: Hồ mã tê bắc phong 胡 馬 嘶 北 風, tức là ngựa Hồ hý gió bắc.

Ngựa Hồ ý nói ở nơi tha phương mà sinh lòng nhớ quê hương cũ.

Xem: Ngựa Hồ chim Việt.

Người sông Dịch tiếc mài gươm sắc,

Chuyện ngựa Hồ thương rít gió xa.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

NGỰA HỒ CHIM VIỆT

Ngựa Hồ: Ngựa của rợ Hồ ở đất Bắc cống sang nhà Hớn. Chim Việt: Chim của nước Việt ở trời Nam.

Ngựa Hồ chim Việt ý nói ngựa Hồ nơi đất bắc, chim Việt ở trời nam, chỉ sự xa cách nam bắc và lòng thương nhớ quê hương.

Thơ cổ có câu: “Hồ mã tê bắc phong, Việt điểu sào nam chi 胡 馬 嘶 北 風, 越 鳥 巢 南 枝, tức là ngựa Hồ hý gió bắc, chim Việt đậu cành nam.

Chim Việt đậu cành Nam do điển nước ta: Đời Hùng Vương đem cống sứ sang Trung Hoa một con chim bạch trĩ. Chim bạch trĩ tìm nhánh cây ngó về hướng Nam mới chịu đậu.

Xem: Chim Việt ngựa Hồ.

Ngựa Hồ nhớ nước day phương Bắc,

Chim Việt thương nhà đậu nhánh Nam.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

NGỰA QUA CỬA SỔ

Ngựa qua: Ngựa chạy thoáng qua. Cửa sổ: Cửa ở lưng chừng tường vách để lấy ánh sáng hay thoáng khí.

Ngựa qua cửa sổ, như chữ “Bạch câu quá khích 白 駒 過 隙”, là bóng ngựa trắng chạy qua kẻ hở, dùng để chỉ thời gian trôi qua mau.

Do câu nói của Trương Lưu Hầu: Nhân sinh nhất thế gian như bạch câu quá khích, hà chí tự khổ như thử 人 生 一 世 間 如 白 駒 過 隙, 何 至 自 苦 如 此, nghĩa là người ta sinh ra trong đời như bóng bạch câu qua khe hở, cần gì phải làm khổ mình đến như vậy?

Mộng ảo trò đời đâu mấy chốc,

Ngựa qua cửa sổ cuộc tan tành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGỰA TRÂU CÔNG ĐỀN

Ngựa trâu: Làm thân trâu và ngựa. Công đền: Lấy công để đền tội.

Ngựa trâu công đền tức là làm kiếp trâu ngựa để lấy công mà đền cái tội lỗi do tiền kiếp mình đã gây ra.

Luân hồi thưởng phạt rất mầu,

Chuyển thân tái thế ngựa trâu công đền.

(Kinh Sám Hối).

 

 

NGỰA VÀNG THỎ NGỌC

Ngựa vàng: Chỉ mặt trời. Thỏ ngọc: Tục truyền trên mặt trăng có con thỏ giã thuốc, nên văn cổ dùng ngọc thố để chỉ mặt trăng.

Ngựa vàng thỏ ngọc, như chữ “Ngựa vàng thỏ bạc”, dùng để chỉ mặt trời và mặt trăng.

Xem: Ngựa vàng thỏ bạc.

Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,

Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.

(Đạo Sử).

 

 

NGỰA VÀNG THỎ BẠC

Ngựa vàng: Chỉ mặt trời. Thỏ bạc: Tục truyền trên mặt trăng có con thỏ giã thuốc, nên văn cổ dùng bạch thố, hay ngọc thố để chỉ mặt trăng.

Ngựa vàng thỏ bạc, đồng nghĩa với câu “Ác vàng thỏ bạc”, dùng để chỉ đêm ngày nối tiếp nhau trôi qua.

Trong văn chương, người ta lấy “Ngựa vàng”, “Thỏ ngọc” để chỉ mặt trời và mặt trăng, vì hai con thú ấy chạy mau, con này rượt con kia, ví như hết ngày tới đêm, hết đêm tới ngày, chỉ ngày giờ qua mau lẹ.

Ngựa vàng lố bóng tâm khoan khoái,

Thỏ bạc thu hình cảnh tốt tươi.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

NGƯNG

1.- Ngưng là dừng, ngừng, không hoạt động nữa.

Như: Công việc đang làm được ngưng lại, trong chiến tranh, ngày tết hai bên thường ngưng bắn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Toà Tam Giáo đã xin ngưng phổ độ nơi đây nhiều lần, song vì Thầy thấy lòng chí đức của các con mà chẳng nỡ.

Bút Bần Đạo ngưng khoan viết nữa,

Đặng phân tường có chửa dạy con.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ngưng là đóng lại, không lưu chuyển.

Ngưng còn có nghĩa là chuyển từ trạng thái khí sang trạng thái lỏng.

Như: Ngưng kết, ngưng trệ, ngưng tụ.

Tâm thần phát hiện kết ngưng,

Võ văn chế luyện có chừng thì thôi.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGƯNG DƯƠNG

Ngưng Dương là tên hiệu của Lý Thiết Quả, một vị Tiên đứng đầu trong Bát Tiên.

Trong đạo Cao Đài, theo Đức Hộ Pháp trong quyển Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Ngài quyền Giáo Tông Lê Văn Trung là chơn linh của Lý Ngưng Dương giáng trần để truyền đạo cho nhơn sanh.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp về Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống có câu: Liền khi ấy ngó thấy Đức Lý Ngưng Dương trong Pháp thân của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt cầm cây gậy cà thọt nhảy ra chiến đấu với Kim Quang Sứ.

Xem: Thiết Quả.

Bảy bạn còn chờ nên khí liệt,

Ngưng Dương danh tạc giữa trời đông.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

NGƯNG QUYỀN ĐỊA PHỦ

Ngưng quyền: Chấm dứt quyền hành. Địa phủ: Hay Địa ngục, Diêm cung, chỉ nơi đày đoạ linh hồn người có tội ở dưới Âm phủ.

Ngưng quyền Địa phủ là đạo Cao Đài được mở ra để cứu giúp người đời trong thời kỳ Hạ nguơn mạt Pháp, Đức Chí Tôn quyết định ngưng quyền hành của các Diên vương ở cõi Địa phủ, ý muốn nói đóng cửa Địa ngục, không còn Địa ngục nữa. Điều nầy chính trong Phật Mẫu Chơn Kinh có cho biết:

Vô Địa ngục, vô Quỷ quan,

Chí Tôn Đại xá nhứt trường quy nguyên.

Vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn khai nền Đại Đạo để cứu thế, cũng là mở kỳ Đại ân xá lần ba, nên ra lịnh đóng cửa các cõi Địa ngục và mở rộng cửa Thiên đường để cho tất cả chúng sanh được giải hết oan nghiệt, tu một kiếp mà có thể quy nguyên, tức là trở về nguồn cội. Mà nguồn cội là cái gốc ban đầu của con người là khối Đại linh quang của Đức Chí Tôn. Con người xuất phát từ nguồn cội đó, luân hồi sanh tử hằng hà sa số kiếp nơi cõi thế gian, nếu mê mờ thì mãi bị chìm sâu vào khổ não, còn nếu giác ngộ chịu học hỏi, tu hành thì có thể đoạt được phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tùy theo công đức. Đến ngôi Phật vị con người còn phải tu nữa để được quy nguyên, tức là trở về cùng Khối Đại Linh Quang của Đức Thượng Đế. Còn các vong hồn có tội tình thì vào cõi Âm quang, chờ ngày thoát hoá.

Tại sao lại đóng địa ngục, mở tầng Thiên?

Chúng ta biết, Đức Chí Tôn mở nền Đại Đạo Cao Đài ở phương Đông, ban ân huệ lớn lao là Đại ân xá cho tất cả chúng sanh và các đẳng linh hồn. Vì thế, khi mới khai Đạo, Hội Thánh thường gọi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là nền đạo “Đại ân xá kỳ ba của Thượng Đế ở Phương Đông” và dịch ra pháp văn như sau: Troisième Amnistie de Dieu en Orient.

Theo các kinh sách của Đạo Cao Đài, kỳ Đại ân xá này Chí Tôn cho chúng sanh được hưởng những đặc ân như sau:

1- Tha thứ các tội lỗi và oan khiên kiếp trước của những người biết hồi đầu hướng thiện, nhập môn cầu đạo, lập minh thệ với Đức chí tôn để nhứt tâm tu niệm.

Kinh Giải Oan có viết:

May đặng gặp hồng ân chan rưới,

Giải trái oan sạch tội Tiền khiên.

Trong Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Quy Liễu có câu:

Ơn Tạo hoá tha tiền khiên trước,

Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.

Và Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối viết:

Chí Tôn xá tội giải oan,

Thánh, Thần, Tiên, Phật cứu nàn độ vong.

Hay:

Ăn năn sám hối tội tình,

Xét câu minh thệ gởi mình cõi thăng.

2- Đóng Địa ngục, Phong đô và mở cửa Thiên đường để các con cái Chí Tôn được về hội hiệp cùng Ngài. Những vong hồn có tội được đưa đến cõi Âm quang để giải thân định trí, chờ ngày thoát hoá.

Kinh Giải Oan có câu:

Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,

Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây Phương.

3- Tu một kiếp có thể đắc Đạo mà trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại trong Càn Khôn Vũ Trụ, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng”.

Tóm lại, điều đại hạnh cho chúng sanh ngày nay là chúng sanh được hưởng ân Đại xá và khi giáng huyền cơ khai mở nền Đại Đạo, thì chính Đức Chí Tôn ra lịnh ngưng quyền Địa phủ, tức không còn Địa ngục phong đô nữa để chúng sanh, người nào quyết chí tu hành, thì trong một kiếp có thể đắc Đạo được.

Cứu thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ,

Ðộ đời cố tạo phước nhơn gian.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGƯỚC

Ngước là đưa mắt nhìn lên cao.

Như: Ngước mắt nhìn lên, Hắn ngồi cúi đầu thỉnh thoảng ngước lên dòm dáo dác.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lúc chưa biết Ðạo, tôi cũng không tin điều ấy, đến lúc ở chùa Gò Kén trước mấy ngàn người, tôi bước lên giảng đài đi qua lại đến 16 vòng mà hễ ngước mặt lên thấy đầu người lố nhố, sợ hải không thuyết được.

Ngước mặt nhìn tường người chẳng lạ,

Hỏi rằng: bạn đến trước hồi nao?

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGƯỢC

Ngược là nghịch không thuận, theo chiều trái lại. Như: Hai xe đi ngược chiều, treo ngược bức tranh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trước khi nhập Ðạo, ta đã từng quan sát, kiếm hiểu lẽ mầu nhiệm sâu sa, cân phân điều chánh lẽ tà, rõ biết rồi ta dọn mình, lập ý cho thành, tâm cho định, mới đến khắc kỹ tu thân, khi ấy người hành Ðạo đã có sẳn chí hướng, đi từ bước một, mỗi bước mỗi dè dặt cân phân và nên mãi đinh ninh rằng người nơi cửa Ðạo phải làm sao cho thoát khỏi thường tình, phải đi ngược với thế sự.

Cột trói ngược quá kinh rất lạ,

Quỷ Dạ xoa đánh vả kẹp cưa.

(Kinh Sám Hối).

Bền lòng thiện niệm bồi căn trước,

Trễ bước thuyền e bị ngược dòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGƯỢC ĐÃI

虐 待

Ngược: Độc ác, tai hại. Đãi: Đối đãi.

Ngược đãi là đối đãi một cách tệ bạc, đối xử tàn nhẫn, trái với lẽ phải, lẽ công bằng.

Như: Giám đốc ngược đãi công nhân, chủ nhân ngược đãi đầy tớ.

Cái đời sống của ta hiện giờ giàu sang hay nghèo hèn, liền lạc hay tật nguyền, xinh đẹp hay xấu xa được yêu vì hay bị ngược đãi...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGƯỢC NGANG

虐 昂

Ngược: Nghịch, không thuận. Ngang: Không thuận theo lẽ thường, mà cứ theo ý riêng mình trong cách nói năng, đối xử.

Ngược ngang, như chữ “Ngang ngược 昂 虐”, là bất chấp lẽ phải, tỏ ra không kể gì đến bất cứ ai.

Như: Tánh hắn ngược ngang lắm, khó khuyên bảo.

Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,

Tra tội nhơn, gian giảo ngược ngang.

(Kinh Sám Hối).

 

 

NGƯỢC NGẠO

虐 傲

Ngược: Nghịch, không thuận. Ngạo: Xem thường, hay bất chấp một ai.

Ngược ngạo là trái với lẽ thường, lẽ phải. Như: Những người thiếu đạo đức thường ăn nói ngược ngạo.

Chớ oán chạ tham lam ngược ngạo,

Bội nghĩa ân trở tráo chước sâu.

(Kinh Sám Hối).

 

 

NGƯỢC XUÔI

Ngược: Nghịch, không thuận. Xuôi: Thuận chiều.

Ngược xuôi là nghịch và thuận chiều, chỉ sự tới lui.

Ngược xuôi, như chữ “Xuôi ngược” còn dùng để chỉ sự khổ sở, gian nan, vất vả.

Như: Xe cộ tấp nập ngược xuôi, chị ấy chạy ngược xuôi kiếm tiền để nuôi hai đứa nhỏ.

Vó kỳ từng trải đường nguy hiểm,

Cánh hộc quen chiều gió ngược xuôi.

(Thơ Hộ Pháp).

Nhường nhịn gắng qua cơn khảo lớn,

Ngược xuôi mong vững chiếc thuyền con.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

NGƯƠI

1.- Ngươi là tiếng dùng để chỉ người dưới, hoặc kẻ nào mà mình có ý không xem trọng.

Như: Bảo ngươi mà ngươi chẳng nghe, ngươi đến đây hồi nào.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ngươi đâu hiểu rõ làm ra lẽ Trời Phật vốn con buôn. Tội tình ấy lớn là thế nào? Ngươi hiểu chăng?

Cải hạnh đố ngươi về tập thử,

Tháng sau sẽ đến trước trình Ta.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Xảnh xẹ hay lo gánh việc người,

Công linh chẳng để tỉnh thân ngươi.

(Đạo Sử).

2.- Ngươi còn dùng để chỉ đồng tử của mắt.

Như: Trêu ngươi, xuýt chạm vào con ngươi, nói xỉ vào tận con ngươi làm cho xốn mắt.

Các em con chỉ để con ngươi,

Coi con bước mấy dời nối gót.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Oai linh cửa Ðạo sấm rền Trời,

Thương kẻ có tròng lại chẳng ngươi.

(Đạo Sử).

 

 

NGƯỜI

1.- Người là động vật tiến hoá nhất, có khả năng nói, tư duy, sáng tạo. Như: Loài người, mặt người dạ thú.

Thánh giáo Thầy có dạy: Hỡi nầy dân tộc có diễm phước, Thầy sẽ làm thoả mãn tánh hiếu kỳ của con. Là loài người, các con có biết tự đâu các con đến chăng?

Ra để rước người lành đến ở,

Ở chung một cõi lại chung nhà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vạc ngã người đày trâu ngựa kéo,

Gia tàn yến rủ gió mưa tuông.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

2.- Người là tiếng dùng để chỉ kẻ khác, đối với mình. Như: Đất khách quê người, suy bụng ta ra bụng người.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Biết Ðạo, biết ta biết người, biết thế biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt, rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối.

Công của đôi bên trao múc đủ,

Ðừng như kẻ yếu đợi người binh.

(Đạo Sử).

Sắc son nhuộm tánh đượm màu tươi,

Hay dở khen chê để miệng người.

(Thơ Hộ Pháp).

Thương người nào khác thể thương ta,

Nhơn loại thờ chung một Ðấng Cha.

(Thơ Huệ Giác).

3.- Người là tiếng để gọi người mà mình tôn trọng. Như: Người là Đấng tạo Thiên lập Địa, Tiểu sử Hộ Pháp và công nghiệp của Người.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Chúa Cứu Thế đã đến với các con. Người đã phải chịu đổ máu Thánh để chuộc tội cho loài người.

Phần du Tiên gẫm cũng tại Thiên cơ,

Người khuất bóng thiếu tay rường trụ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

NGƯỜI DƯNG

Người: Chỉ người khác, trong quan hệ với mình. Dưng: Không dính dáng, không bà con.

Người dưng, cũng như chữ “Người ngoài”, là người không có quan hệ gia đình, họ hàng, thân thích với mình.

Như: Người dưng nước lã.

Mượn tay hay của đám người dưng,

Làm thiệt hại vài lần đủ tởn.

(Phương Tu Đại Đạo).

Lựa là kẻ lạ người dưng,

Đến ngày thi đỗ quá chừng hân hoan.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGƯỜI ĐỜI

Người: Chỉ người khác, trong quan hệ với mình. Đời: Nói chung về cuộc thế gian.

Người đời là người ta ở đời, nói chung. Như: Anh làm như vậy, người đời sẽ phê phán.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Phẩm tước là sự tổng hợp các chức tước đã bày ra để quyến rũ người hoặc ít hoặc nhiều. Những chức tước ấy do người đời tạo ra phong thưởng kẻ khác.

Bố hoá người đời gây mối đạo,

Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trọng mình trước hết trọng người đời,

Cả khí Càn Khôn kẻ hưởng hơi.

(Đạo Sử).

Dạy trẻ hiểu những mưu những mẹo,

Của người đời khôn khéo đua tranh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGƯỜI LỚN

Người: Từ chỉ cá thể người thuộc tầng lớp nào đó. Lớn: Trưởng thành.

Người lớn là người có độ tuổi trưởng thành, được coi là đứng đắn, đủ tư cách. Như: Nhà nầy toàn người lớn, không có trẻ con.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Bây giờ nói tiếp qua cái giá trị chữ Hiếu, văn minh Nho Tông của chúng ta là gì? Tưởng cũng không cần gì nói cho mấy người lớn nghe, Bần Đạo chỉ giảng cho đám thanh niên Nam, Nữ mà thôi.

Thưởng tên Xoài đáng mặt học trò,

Học thông thái dám so người lớn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGƯỜI NƯỚC KỶ LO TRỜI SẬP

Nước Kỷ, là một nước nhỏ, ở vào thời Xuân Thu, sau bị nước Sở diệt.

Sách Liệt Tử chép: Có một người nước Kỷ thường lo trời sập, rồi không biết nương tựa nơi đâu, đến nỗi bỏ cả việc ăn uống. Có người giải thích cho y biết: Trời là tinh khí tụ lại, làm sao mà sập được.

Người nước Kỷ nói: Nếu trời chỉ là tinh khí, thế còn mặt trời, mặt trăng, các vì sao lại không rớt xuống à? Người kia giải thích: Mặt trăng, mặt trời, các vì sao cũng chỉ là tinh khí tụ lại, nếu sập cũng không sao. Người Kỷ nghe nói thế mới yên lòng.

Thương người nước Kỷ lo Trời sập,

Xót kẻ ghe chìm sợ sóng cao.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

NGƯỠNG MỘ

仰 慕

Ngưỡng: Ngẩng đầu lên, cử chỉ tỏ lòng kính trọng. Mộ: Thương mến.

Ngưỡng mộ là kính trọng và yêu mến. Như: Tôi rất ngưỡng mộ những bậc anh hùng hào kiệt.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Huệ Mạng Kim Tiên có câu: Mừng mấy em nam nữ. Bần Đạo nhìn thấy lòng ngưỡng mộ đạo đức của mấy em nên nhơn lúc rảnh ghé để đôi lời chỉ biểu.

Ưa nghe đạo đức ghét tà tây,

Ngưỡng mộ thì nay đã gặp Thầy.

(Đạo Sử).

 

 

NGƯỠNG NGUYỆN

仰 願

Ngưỡng: Ngẩng đầu lên, cử chỉ tỏ lòng kính trọng. Nguyện: Cầu nguyện.

Ngưỡng nguyện ngẩng đầu lên mà cầu nguyện, ý chỉ sự thành tâm cầu nguyện.

Như: Ngưỡng nguyện các Đấng Thiêng liêng ban bố cho tai qua nạn khỏi.

Ngưỡng nguyện Đức Thái Thượng Lão Quân vận chuyển Huyền vi diệu pháp, bố hoá chư Đệ tử tu chơn luyện tánh...

(Sớ Văn).

 

 

NGƯỠNG NGHĨA

仰 義

Ngưỡng: Ngửa mặt lên với lòng kính trọng. Nghĩa: Đối xửa tốt đẹp theo lẽ phải.

Ngưỡng nghĩa tức ngửa mặt trông chờ với sự kính mến và tôn trọng.

Bát Nương đến cho hay rằng mấy anh đương ngưỡng nghĩa nên vội đến hầu.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGƯỠNG THIÊN MẠO

仰 天 帽

Ngưỡng thiên: Ngửa lên trời. Mạo: Cái mão.

Ngưỡng thiên mạo là cái mão tròn, cao 0m150, phía trước mão có thêu Thiên Nhãn được bao quanh bởi ba vòng vô vi.

Pháp Chánh Truyền quy định phẩm Giáo Hữu đội Ngưỡng thiên mạo tuỳ theo sắc phái mà đội mão màu vàng, xanh, hay đỏ.

Đầu (Giáo Hữu) đội Ngưỡng Thiên Mạo, cũng tuỳ theo sắc phái.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

NGƯỠNG VỌNG

仰 望

Ngưỡng: Ngẩng đầu lên. Vọng: Trông mong.

Ngưỡng vọng là ngửa đầu trông lên với tấm lòng kính trọng.

Như: Một bậc anh hùng được cả nước ngưỡng vọng.

Trong Sớ văn cúng Đức Chí Tôn ngày sóc hoặc ngày vọng có câu: Ngưỡng vọng vô trung Từ Phụ, phát hạ hồng ân, quảng thi đại đức... 仰 望 無 中 慈 父 發 下 洪 恩, 廣 施 大 德, nghĩa là ngưỡng mong Đức Từ Phụ trong cõi Hư vô, ban xuống ân sâu, rộng thi đức lớn.

Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước,

Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường.

(Bài Dâng Trà).

Quá sức trí người đừng ngưỡng vọng,

Thành gia nhiều kẻ đã nên chưa?

(Đạo Sử).

 

 

NGƯU

Ngưu là trâu, cũng là tên một vì sao, gọi là sao ngưu, hay sao ngâu. Như: Ngưu nữ, ngưu chức.

Hai sao ngưu và nữ, theo truyền thuyết là đôi vợ chồng ngưu lang, chức nữ, bị phạm lỗi nên Thượng Đế đày ra ở hai bên sông Ngân Hà, mỗi năm vào đêm thất tịch nhờ quạ bắc cầu ô thước mới được gặp nhau một lần.

Mưa chiều chia cách đường Ngưu Chức,

Nắng sớm khuất dần dặm vó câu.

(Thơ Minh Phát).

 

 

NGƯU LANG

牛 郎

Ngưu: Trâu, sao Ngưu. Lang: Chàng.

Ngưu lang là “Chàng Ngưu”, tức chàng Khiên ngưu.

Tục truyền rằng Ngưu lang và Chức nữ bị Thượng Đế đày ở hai bên sông Ngân, mỗi năm chỉ được gặp nhau vào đêm thất tịch (Mồng 7 tháng7) do lũ quạ đen bắc cầu cho hai người đến với nhau.

Xem: Ngưu lang chức nữ.

Chức Nữ khóc thầm biệt Ngưu Lang,

Trăng soi thêm chạnh lá gan vàng.

(Đạo Sử).

 

 

NGƯU LANG CHỨC NỮ

牛 郎 織 女

Ngưu Lang: Chàng chăn trâu. Chức Nữ: Người con gái dệt lụa.

Do điển trong sách Tục Tề Hài Ký chép: Ở phía đông sông Thiên hà có nàng Chức Nữ, cháu của vị Thiên Đế, nàng thường siêng năng với việc nữ công, nên được Thiên Đế thương gả cho chàng Khiên Ngưu ở phía Tây sông Thiên hà. Lễ cưới rồi, nàng Chức Nữ bỏ phế việc nữ công, Thiên Đế giận, ra lịnh đày hai vợ chồng Ngưu Lang Chức Nữ ở hai bên sông Ngân Hà, chỉ đến đêm thất tịch mới cho hợp nhau một lần mà thôi.

Trên hành lang Báo Ân Từ bên Nữ phái có vẽ một khuôn hình lấy tích “Ngưu Lang Chức Nữ”.

Đêm thất tịch bên sông lại gặp,

Quạ đội cầu cho cặp vợ chồng.

Ngưu Lang Chức Nữ toại lòng,

Giáp năm ước hẹn theo vòng Hà Ngân.

(Báo Ân Từ).

 

 

NGHE

1.- Nghe là cảm giác bằng lỗ tai mà phân biệt được tiếng, âm thanh.

Như: Nghe tiếng đàn, nghe lời ca tiếng nhạc, nghe tiếng đọc kinh giọng trầm bổng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy: Dầu cho sắt đá cỏ cây, mà nghe đến Thánh Ngôn nơi Thầy do con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người.

Rừng tòng tìm đến lánh cay chua,

Ðêm lặng lóng nghe tiếng khánh chùa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nghe giọng tỳ khêu mấy đoạn buồn,

Chạnh cơn thất thố với ly hương.

(Đạo Sử).

2.- Nghe là vâng lời, thuận theo. Như: Nghe lời dạy của cha mẹ, hắn không chịu nghe ai cả.

Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Thầy sanh ra các con thì phải yêu trọng các con chẳng cùng, mà Thầy cho các con đến thế giới nầy với một Thánh thể thiêng liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con lại không chịu, nghe điều cám dỗ, mê luyến hồng trần, ăn cho phải bị đọa, dâm cho phải bị đày, nên chịu nạn áo cơm, dục quyền cầu lợi.

Tiên cảnh nét đường không rước tục,

Thành không con dại cứ nghe lời.

(Đạo Sử).

 

 

NGHÉ

1.- Nghé là trâu bò mới sinh ra, hoặc trâu bò còn non.

Như: Bò nghé mới sinh ra, mua trâu nghé về nuôi dưỡng, sẩy đàn tan nghé.

Lại cũng thấy người ta mà đẻ,

Đứa con đầu giống nghé giống bò.

(Phương Tu Đại Đạo).

Xuồng nan cỡi sóng đu đưa,

Trên bờ trâu nghé hàng dừa tươi xanh.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

2.- Nghé là nghiêng mắt mà trông, hoặc nghiêng tai mà nghe. Như: Nghé mắt nhìn, nghé tai nghe.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Bóng tà như giục cơn buồn, Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.

Nghé nghe thì lóng tiếng hiền lương,

Ðạo đức con tua giữ một đường.

(Đạo Sử).

 

 

NGHÉN

Nghén là dấu hiệu có thai, có chửa.

Như: Thai nghén, ăn uống không được vì có nghén, đã ốm nghén hơn hai tuần.

Nghén ba trăng phải gắng gia công,

Dạy con trẻ còn trong bụng mẹ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHẼN

Nghẽn là tắc lại, không thông, không đi lại được.

Như: Cây cối ngã đổ làm nghẽn lối đi, kênh bị nghẽn bởi đám lục bình chận lại.

Xáo trộn tinh thần qua vạ gió,

Phũ phàng bão tố nghẽn đường mây.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGHẸN

Nghẹn là bị tắc trong cổ họng. Như: Mắc nghẹn, nghẹn họng, nghẹn lời, nghẹn ý.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Cùng mấy chị mấy em, từ thử tới giờ chúng ta vẫn sống với đời, chúng ta thường thấy điều gì trái với nguyên do, tức nhiên phải tìm cho thấu đáo hoặc đoán cho được. Tỉ như đường may mà mũi kim không ăn vải, máy sẽ ắt có sứt mẻ chi đó, còn như xay bột thấy nghẹn không xuống thì biết thiếu nước. Cái gì cũng có nguyên do của nó, phải tìm cho biết hoặc đoán cho ra lẽ.

Nói ra thêm nghẹn chẳng thà câm,

Đành chịu hàm oan há chịu lầm.

(Thơ Thái Phong).

Mực tủi nghiên hờn thơ nghẹn ý,

Thương đưa tiếc gởi cánh phù vân.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

NGHẸN NGÀO

Nghẹn: Bị ứ nơi cổ họng, không nuốt trôi, hay không nói nên lời.

Nghẹn ngào ý nói gặp tình cảnh biệt ly, xa cách, khiến buồn thương hay sầu khổ nên bị tắc nghẹn nơi cổ họng, không thể nói thành lời.

Như:Trước cảnh kẻ còn người mất, cả nhà đều nghẹn ngào không nói nên lời.

Đổ lụy Thầy phân cũng nghẹn ngào,

Các con đau Thầy há vui sao?

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Đã chầy chẳng gặp nhẫng trông nhau,

Hằng ngó non sông lại nghẹn ngào.

(Tiêu Diêu Đạo Sĩ).

Trùng trùng oan quỷ chạy lao xao,

Thấy khổ lòng ta bắt nghẹn ngào.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGHÈO

1.- Nghèo là không tiền, không của, cùng khổ, trái với giàu. Như: Nghèo cực, nghèo khó, nghèo xơ xác.

Thánh giáo Thầy có dạy: Mỗi phen Thầy đến lập Ðạo thì là phải cam đoan và lãnh các con, chẳng khác nào kẻ nghèo lãnh nợ. Các con làm tội lỗi bao nhiêu, oan nghiệt bấy nhiêu, Thầy đều lãnh hết.

Nghèo sạch rách thơm mới đáng người,

Nệ chi cực nhọc buổi xuân mơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðong đầy đức cả hoá kho vàng,

Ðừng thấy phận nghèo chiếp miệng than.

(Đạo Sử).

Nghèo nhịn ăn nhịn sắm,

Để cho con đặng tấm thân lành.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Nghèo còn dùng để chỉ sự nguy bách. Như: Hiểm nghèo, nghiêng nghèo.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cho hay một miếng khi đói bằng một gói khi no, nhà nghiêng nghèo thì lòng con thảo thêm sáng tỏ.

Theo đặng bước nào gìn bước nấy,

Trở lui e vướng lúc nghiêng nghèo.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Khôn lanh cho biết Ðạo mà theo,

Theo đặng kịp người khỏi ngặt nghèo.

(Đạo Sử).

 

 

NGHÈO ĐÓI

Nghèo: Không tiền, không của, cùng khổ. Đói: Lâm vào tình trạng thiếu lương thực.

Nghèo đói là nghèo đến mức không có ăn, đôi khi phải nhịn đói. Như: Nhà bị nghèo đói có đâu làm nhà cửa.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu ngày nào con cái của mấy em nghèo đói khổ não quá, Qua dám lấy từ miếng gạch, miếng gói của Đạo đem bán đặng nuôi con cái của mấy em.

Đừng ghét tánh già hay lòn lỏi,

Ấy nhớ cơn nghèo đói phải chiều người.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHÈO HÈN

Nghèo: Không tiền, không của, cùng khổ. Hèn: Đê tiện, thấp kém.

Nghèo hèn là nghèo và hèn hạ, tức là nghèo và ở địa vị thấp kém trong xã hội.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cho nên kẻ nhân giả không thấy người sang giàu mà ham muốn, không thấy mình nghèo hèn mà sợ, vì kẻ kia cậy ở cái giàu của nó, ta đây cậy ở cái nghĩa của ta, ta có điều gì bất mãn đâu?

Thầy dặn biết tu Thầy cải số,

Nghèo hèn có thuở dựa cao ngôi.

(Đạo Sử).

Lớn thế thường hay xô đẩy kẻ,

Nghèo hèn đạo hạnh chịu đeo sầu.

(Đạo Sử).

Dầu chẳng may gặp chỗ nghèo hèn,

Dạy cho biết nhúm nhen ra sự nghiệp.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHÈO KHÓ

Nghèo: Không tiền, không của, cùng khổ. Khó: Nghèo túng.

Nghèo khó là nghèo, thiếu thốn về đời sống vật chất. Như: Xuất thân từ nhà nghèo khó nên nói cố học.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nơi bến chợ đời, người ta không còn trông thấy sự cấu xé giết hại nhau vì một miếng ăn hay mảnh áo. Lễ nghĩa ngập tràn trong xã hội, trẻ biết kính già, lớn biết thương nhỏ, đi đường nhường bước, của rơi không mất. Kẻ nghèo khó được đỡ nâng, thì đạo tặc phải vắng bóng.

Hai nẻo nên hư thì ắt một,

Hễ không nghèo khó chắc vinh sang.

(Đạo Sử).

Môn đệ Thầy để dạ lo chung,

Thương nghèo khó lao lung con giúp đỡ.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Đừng sang trọng phụ phàng nghèo khó,

Gặp hầu xinh vội bỏ thê hèn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHÈO KHỔ

Nghèo: Không tiền, không của, cùng khổ. Khổ: Quá khó khăn, thiếu thốn về vật chất, hoặc bị giày vò, đau đớn về tinh thần.

Nghèo khổ là nghèo đến mức khổ cực.

Nói về Đức Khổng Thánh Tiên Sư, Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Ngài trở về nước dạy học cho đến năm 51 tuổi, vua nước Lỗ mới dùng ngài làm quan Trung Ðô Tể. Cách một năm Ngài được thăng Ðại Tư Khấu. Ngài đặt ra luật lệ cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc lớn nhỏ phân biệt, trai gái đều có bổn phận, ngoài đường không lượm của rơi, kẻ gian phi vắng bóng, hình pháp có đặt ra mà không dùng đến.

Vân đài có thuở đặng nêu tên,

Nghèo khổ hiền lương giữ dạ bền.

(Đạo Sử).

Cứu bịnh hoạn giúp người nghèo khổ,

Thế cho chồng cứu độ muôn dân.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHÈO NÀN

Nghèo: Thiếu thốn nhu cầu cần thiết về vật chất trong đời sống. Nàn: Như chữ nạn.

Nghèo nàn là ở trong cảnh nghèo và khó khăn, tức thiếu thốn đủ mọi thứ về nhu cầu đời sống vật chất của con người. Như: Tình cảnh nghèo nàn.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Phước Thiện lại có nhiệm vụ tối cao, tối trọng của Ðức Chí Tôn: Giải khổ vừa xác vừa hồn, Ngài mượn mấy em nuôi nấng con cái của Ngài, nuôi đói, nuôi khát, bảo trợ giúp đỡ cho kẻ nghèo nàn cô độc.

Quốc gia nghèo nàn, dân khó mở mang,

Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,

(Ngụ Đời).

Gia đình sự nghiệp ra sao,

Trông anh có vẻ khổ lao nghèo nàn.

(Thơ Hộ Pháp).

Rủi đụng chồng đói khó nghèo nàn,

Đừng lấn lướt làm ngang nhiếc lúng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHÈO NGẶT

Nghèo: Ở tình trạng thiếu thốn lương thực hay các thứ nhu cầu về vật chất. Ngặt: Khó khăn không lối thoát.

Nghèo ngặt là nghèo hoặc gặp cảnh khó khăn đến mức không thể tìm thấy lối thoát.

Như: Đời sống nghèo ngặt, tình thế nghèo ngặt.

Xem: Ngặt nghèo.

Nào phải người nghèo ngặt chết thèm,

Phòng hưởng chút hơi hèm cho đỡ đói.

(Phương Tu Đại Đạo).

Càng đau khổ trong cơn nghèo ngặt,

Càng yêu nhau giữ chặt chung tình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHÈO SẠCH RÁCH THƠM

Nghèo sạch: Tuy nghèo nhưng lòng phải trong sạch. Rách thơm: Tuy rách rưới nhưng phải giữ tiếng thơm.

Nghèo sạch rách thơm, bởi câu tục ngữ “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”, ý muốn nói tuy đời sống nghèo khổ, thiếu thốn nhưng thân phải trong sạch, nhà cửa, quần áo tuy rách nát nhưng tiếng tăm phải giữ cho thơm tho.

Nghèo sạch rách thơm mới đáng người,

Nệ chi cực nhọc buổi xuân mơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bô vải bốn mùa che ấm lạnh,

Nghèo mà cho sạch, rách cho thơm.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGHẸT

Nghẹt là ở tình trạng bị vướng, tắc, không thông, vì chật quá, sít quá.

Như: Rạp hát đầy nghẹt người, cống bị nghẹt nước không thông, quấn khăn chật quá bị nghẹt cổ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Diễn văn phải giữ chặt niêm luật có mực thước như một bài viết, phải khép vào một khuôn luật nhứt định, nếu không, nghẹt lối, không ngỏ ra.

Trong núi lửa bay hơi tanh khét,

Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài!

(Kinh Sám Hối).

Chẳng khác mắt mù đi cảnh tối,

Cũng như mũi nghẹt hửi mùi hôi.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGHÊ THƯỜNG

霓 裳

Nghê: Ráng trời. Thường: Xiêm y.

Nghê thường là bộ xiêm y bằng lông chim năm sắc, như sắc cái mống màu ráng trời.

Nghê thường cũng là một khúc nhạc. Do sách Đường Dật Sử chép: La Công Viễn có pháp thuật, đưa vua Đường Minh Hoàng lên chơi Cung trăng. Vua thấy cung nữ đều mặc áo nghê thường nhảy múa giữa sân điện. Đó là khúc “Nghê thường Vũ Y”.

Xem: Đường Minh Hoàng.

Non Thần hạc múa Nghê thường khúc,

Nước Trí thi ngâm điệu thoát trần.

(Thơ Tiếp Pháp).

Tiên nga vũ khúc Nghê thường,

Nhờ La Công Viễn gậy trường phong đưa.

(Báo Ân Từ).

 

 

NGHỀ

Nghề là công việc của một người chuyên làm để sinh nhai. Như: Nghề nông, nghề đi buôn, nghề tự do.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Các nghề dưới thế không có nghề nào là vô dụng, mà vô dụng là tại người không chuyên vậy.

Hàng ngày kiếm kiểu hay mới lạ,

Dục cho chồng nghề khá nghiệp hay.

(Phương Tu Đại Đạo).

Cũng có ngày con phải ra riêng,

Lo học tập cho yên nghề nội trợ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHỀ NGHIỆP

Nghề: Công việc một người thường chuyên làm để sinh nhai. Nghiệp: Nghề chuyên làm của một người.

Nghề nghiệp, như chữ “Nghệ nghiệp 藝 業”, là cái nghề chuyên môn của một người, nhờ đó mà làm ăn kiếm sống được. Như: Phải thường trau giồi nghề nghiệp.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Theo quan niệm của nhà hiền triết thời xưa, thì ngày Tết Nguyên Ðán không phải là ngày để chơi Tết, hay chơi Xuân mà chính là một dịp để cho con người lo tròn bổn phận trong gia đình, tưởng nhớ đến những đấng Tổ Tiên Phụ Mẫu đã khuất bóng, kính cẩn bái lễ trước bàn thờ, giữ tròn đạo hiếu đúng theo Nho giáo tức là thờ người quá vãng cũng như người còn tại thế. Ngoài ra, người ta chúc lành cho thân quyến, bạn bè và đi đến Chùa, Miếu, Ðền thờ để cầu phúc cho gia tộc, rồi thì tính toán đường, lối xoay trở trong nghề nghiệp để thi thố cho có kết quả tốt đẹp, khi bắt tay vào công việc sẽ tới.

Nghề nghiệp cũ từ xưa giữ vậy,

Việc cày bừa phải quấy để ông chồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trăm nghề nghiệp dầu nghề hát bội,

Tập ông chồng nói lối cho hay.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHỆ HƯƠNG ÁN TIỀN

詣 香 案 前

Nghệ: Đến, bước tới. Hương án: Cái bàn để thắp hương. Tiền: Trước.

Nghệ hương án tiền là đến trước bàn hương án.

Trong lễ cúng Đàn tại các Thánh Thất, hay trong tang lễ, Bàn hương án là bàn ngoại nghi.

Khi Cặp lễ đứng ở bàn ngoại nghi xướng: Nghệ hương án tiền, thì cặp lễ sĩ đăng và đài đến trước bàn hương án.

Nghệ hương án tiền.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

 

 

NGHÊNH

Nghênh, còn đọc là “Nghinh”, là đón rước.

Như: Nghênh xuân tiếp phước, làm lễ nghênh hôn, vua ngự vào miền Nam các quân thần đi nghênh giá.

Nếu có kẻ an bang tế thế,

Quỳ mà nghênh lấy lễ trọng người.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

NGHÊU NGAO

Nghêu ngao là có tính chất không cố định, không có mục đích định hướng nào cho hành động. Như: Không có việc gì làm sao mà đi nghêu ngao vậy?

Nghêu ngao còn có nghĩa là hát hoặc đọc một cách vẩn vơ, không nhứt định, tức hát để mà hát, đọc để mà đọc, không chú ý gì đến nội dung.

Rèm gió đêm trăng bóng rạng thinh,

Nghêu ngao non Tuý thú riêng mình.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Trời nước nghêu ngao một chiếc thuyền,

Thú câu gẫm lại thú thần tiên.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

NGHI

1.- Nghi là văn vẻ trong lễ, không dùng một mình. Như: Nghi tiết, nghi thức, lễ nghi, nội nghi, ngoại nghi.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngoài ra phải biết xét mình, biết so sánh mình với người, phải noi theo những phong tục tập quán tốt, những lễ nghi đương thời.

Lễ nghi Thánh dạy gieo cùng xứ,

Ân huệ Trời ban rải khắp nơi.

(Thơ Thái Đến Thanh).

2.- Nghi là ngờ, không tin. Như: Sinh nghi, đa nghi, nghi ngờ, nghi kỵ.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Trung, mặc kệ nó, chúng nghi cho các con lo Quốc sự. Thầy vì các con xin lắm mới ép lòng chịu vậy, chớ Chánh trị với Ðạo chẳng buổi nào liên hiệp cùng nhau. Thầy nói ít, các con hiểu nhiều.

Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,

Thường dạn làm tội lại hằng hà.

(Kinh Sám Hối).

Ðừng bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,

Tự nhiên rõ thấu Ðạo cao thâm.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Nghi là nên, không dùng một mình. Như: Nghi gia (nói người đàn bà về chủ trương việc nhà bên chồng), tiện nghi (thích đáng vừa phải).

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Ta đã hưởng hột cơm, manh áo cùng trăm món vật liệu để cho đời sống ta có đủ tiện nghi, không thiếu thốn.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGHI DUNG

儀 容

Nghi: Mặt bên ngoài. Dung: Dáng mạo.

Nghi dung là dung mạo bề ngoài, tức vẻ mặt và hình dáng bên ngoài của con người.

Như: Cô ấy tính tình diệu hiền, nghi dung đẹp đẽ.

Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,

Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.

(Kinh Thế Đạo).

Nghi dung chớ mượn màu son phấn,

Để trong gương mà hứng non sông.

(Bát Nương Giáng Bút)).

Soi bóng nước đặng nhìn thấy dạng,

Thấy nghi dung hết mặn nét ngài.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHI GIA

宜 家

Nghi: Nên. Gia: Nhà.

Nghi gia tức là thành gia thất.

Bởi vì có vợ chồng tất phải lo việc gia thất, nên chữ “Nghi gia” là nói người đàn bà về chủ trương việc nhà chồng, mượn để chỉ có đôi bạn.

Kinh Thi cũng có câu: Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa, chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia 桃 之 夭 夭, 灼 灼 其 華. 之 子 于 歸, 宜 其 室 家, Dịch vần: Đào tơ mơn mởn xinh tươi, Hoa hồng đơm đặc dưới trời xuân trong. Hôm nay nàng đã theo chồng, Nên bề gia thất ấm nồng thuận vui (Tạ Quang Phát dịch).

Mồng một tháng hai cháu ngoại nhà,

Nhân ngày khánh hỷ chữ nghi gia.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGHI HOẶC

疑 惑

Nghi: Ngờ, không tin. Hoặc: Ngờ vực.

Nghi hoặc là nghi ngờ, không tin hẳn. Như: Kể hết mọi việc nhưng nó vẫn còn nghi hoặc.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Xứ nầy mới tiếp Thầy lần đầu nên có nhiều đứa còn để lòng nghi hoặc.

Nên chăng cũng tại ở lòng mình,

Nghi hoặc vì chưng kém đức tin.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGHI KỴ

Nghi: Ngờ, không tin. Kỵ: Không ưa, không hợp.

Nghi kỵ là nghi ngờ và ghen ghét. Như: Do bên ngoài tác động nên nội bộ nghi kỵ lẫn nhau.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Không có gì nghi kỵ nữa, Bần Ðạo quyết đoán phải đặng, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc chầy, hoặc kíp, Thánh Thể của Ngài tức là Hội Thánh sẽ làm chủ tinh thần thiên hạ.

Tài chánh lại eo hẹp, thêm chính quyền thực dân để ý nghi kỵ làm khó dễ đủ mọi phương diện, nhưng mặc cho đường Ðạo gay go, mặc tình đời khắc khổ.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGHI LỄ

儀 禮

Nghi: Cách thức. Lễ: Phép tắc, cung kính.

Nghi lễ, như chữ “Lễ nghi 禮 儀”, là cách thức về lễ. Nghi lễ đồng nghĩa với chữ “nghi thức 儀 式”.

Như: Đám tang tín đồ đạo Cao Đài thường theo một nghi lễ đặc biệt.

Cảm nhắc lúc sanh tiền độ thế,

Đạo hằng năm nghi lễ phô trương.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

Đoàn em ngưỡng mộ ơn tiền bối,

Nghi lễ trông qua quý bội phần.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

NGHI NAN

疑 難

Nghi: Ngờ vực. Nan: Khó.

Nghi nan là nghi ngờ không đoán định được.Như: Hành động ấy đáng nghi nan lắm.

Trong Đạo Sử của bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Đức Lý Giáo Tông có câu: Trên Chánh Phủ hằng để mắt nghi nan, dưới bọn ma hồn quỷ xác theo kích bác, chư Hiền Hữu phải chịu và sẽ phải chịu hổ nhục trăm điều.

Nghi nan chớ chác lấy lòng phàm,

Hễ biết Ðạo mầu mới biết ham.

(Đạo Sử).

Làm cho cuộc thế nghi nan,

Nhơn tình náo động Đạo tràng đảo điên.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

NGHI NGẠI

疑 礙

Nghi: Không tin, ngờ vực. Ngại: E, sợ.

Nghi ngại là nghi ngờ, e ngại, chưa dám có thái độ, hành động rõ ràng.

Như: Chưa rõ điều đó nên còn nghi ngại, trong việc ấy nhiều điều đáng nghi ngại.

Chớ có ơ hờ mà nghi ngại,

Rồi sau khó biết đặng phân minh.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

 

 

NGHI NGỜ

Nghi: Không tin, còn ngờ. Ngờ: Cảm thấy khó tin và nghĩ có lẽ không phải như thế, chưa khẳng định.

Nghi ngờ là nghi nan và ngờ vực, tức nghi và chưa tin hẳn vì cho rằng không đúng sự thật. Xem lại những chỗ đáng nghi ngờ.

Thánh giáo Thầy dạy Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Cư! kêu hai anh lớn vào chầu Thầy, phò đại ngọc cơ kẻo nó nghi ngờ nữa, nghe con!

Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh,

Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHI TIẾT

儀 節

Nghi: Phép tắc để tỏ lòng kính trọng. Tiết: Có đoạn mạch thứ tự.

Nghi tiết, như chữ “Nghi thức 儀 式”, là cách thức làm cho đúng phép tắc.

Nghi tiết còn có nghĩa là những nghi thức cúng tế để thực hành cho có thứ tự trong đàn lễ.

Thánh giáo Thầy có dạy Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu như sau: Mỹ Ngọc, biểu đọc trọn các Nghi Tiết về Lễ Nhạc cho Thầy nghe.

Thầy dạy Thượng Trung Nhựt Hiền Hữu lo sắp đặt cho ra nghi tiết.

(Đạo Sử).

 

 

NGHI THỨC

儀 式

Nghi: Phép tắc để tỏ lòng kính trọng, lễ phép. Thức: Cách thức.

Nghi thức là cách thức làm cho đúng phép tắc.

Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Từ trước đến giờ quý vị vẫn được các bậc đàn anh như: chư Ðầu Phận Ðạo hoặc vị Khâm Thành Thánh Ðịa, nhắc nhở và chỉ dẫn trong việc thừa hành phận sự về mặt hành chánh cũng như về các nghi lễ của Ðạo, nhưng trong những cuộc hành lễ nơi nhiều Phận Ðạo cũng còn có sự sai biệt nhau, không đồng một nghi thức duy nhất theo lời chỉ dạy của Hội Thánh.

Nhìn qua chẳng kém phần nghi thức,

Kẻ đến non Vu, kẻ Dạ đài.

(Thơ Thành Toại).

 

 

NGHI TRƯỢNG

儀 仗

Nghi: Buổi lễ. Trượng: Dùng nói chung các loại khí giới thời xưa.

Ngày xưa, trong những buổi lễ lớn, các loại khí giới được dàn hầu để tăng phần long trọng, gọi là nghi trượng.

Nghi trượng trong tôn giáo Cao Đài, thì dùng Bát Bửu hoặc Lỗ Bộ đặt trước chánh Điện để tăng sự uy quyền, hay tôn nghiệm nơi thờ phượng.

Lọng tàn vui rước người ba miệng,

Nghi trượng hoan nghinh Mắt một tròng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGHỈ

Nghỉ là tạm đình công việc lại cho đỡ mệt, hay để làm một việc khác. Như: Nghỉ chân, nghỉ học, nghỉ ngơi.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Cái ý nghĩa chánh của Xuân chỉ hướng về mặt tinh thần. Ngoài ra sự cúng Tổ Tiên, các giới Sĩ, Nông, Công, Thương dùng dịp tạm nghỉ để kiểm điểm việc làm đã qua hầu lo tính công việc sắp tới, tìm phương thế làm cho nghề nghiệp được tinh xảo hơn, sự sản xuất sung túc và tốt đẹp hơn, trước là đem thắng lợi cho mình sau giúp ích xã hội trong mọi phương diện.

Một nỗi tang thương ngơ ngán thế,

Tánh còn chẳng nghỉ thói dần dà.

(Đạo Sử).

Hương tàn gió tối hiu hiu,

Dở chơn hỏi nợ buổi chiều nghỉ đâu?

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHỈ NGƠI

Nghỉ: Tạm ngừng công việc hoặc ngưng hoạt động. Ngơi: Nghỉ, không hoạt động hay làm việc.

Nghỉ ngơi là nghỉ làm việc, ngưng hoạt động. Nghỉ ngơi còn có nghĩa nghỉ để hồi phục sức khoẻ. Như: Ngồi nghỉ ngơi ít phút, về nhà nghỉ ngơi dưỡng bệnh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong mấy ngày Tết, ngoài ra phận sự đối với gia đình, thờ cúng Tổ tiên, chúng ta nên dùng dịp nghỉ ngơi để ôn lại những việc đã làm, cùng những thành tích đã thâu thập trong một năm qua trên đường hành đạo.

Nhị Châu chẳng hiệp với Bộ Châu,

Như chỗ nghỉ ngơi với điện hầu.

(Đạo Sử).

Trời đã tối cung lầu trống đổ,

Các thú chim tìm tổ nghỉ ngơi.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Kìa cụm liễu gió đêm xao xác,

Đám chim chiều tìm mát nghỉ ngơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHĨ

1.- Nghĩ là suy xét, trù tính, tức vận dụng trí tuệ vào những gì đã nhận biết được, rút ra nhận thức mới để có ý kiến, sự phán đoán, thái độ. Như: Nghĩ rồi hãy nói, dám nghĩ dám làm, nghĩ mưu kế.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Các con coi kinh điển lại, rồi thử nghĩ lại sự công bình thiêng liêng mà suy gẫm cho hay lẽ phải.

Ai ôi! Tự nghĩ biết lo xa,

Xa bốn phương Trời cũng kiếm ra.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Liên trì mai nở sắc sen sưa,

Cải ác ngày nay nghĩ cũng vừa.

(Đạo Sử).

2.- Nghĩ còn nghĩa là việc đó có trong tâm trí, nhớ đến, tưởng tới.

Như: Nghĩ về quê hương tổ quốc, nghĩ công ơn cha mẹ, nghĩ đến ơn thầy sâu nặng, nghĩ tình bạn bè.

Duyên may chồng đã nghĩ tình,

Còn cha còn mẹ có đành phận đâu?

(Nữ Trung Tùng Phận).

Hễ làm vợ để lòng xét kỹ,

Nhọc thân chồng càng nghĩ trọng ân tình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHĨ NGHỊ

擬 議

Nghĩ: Suy xét, trù tính. Nghị: Bàn bạc.

Nghĩ nghị là suy xét bàn bạc công việc. Thí dụ như: Học lý cao siêu quá không thể nghĩ nghị được.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Hễ theo nghĩ nghị cho vừa phàm tánh thì mấy anh ở đây cho tới tận thế cũng phải nghĩ hoài. Thôi bỏ phứt đi cho khỏi nhọc trí.

Cho nên khi tâm tịnh thường cảm hoài, hằng tìm nơi u huyền mà nghĩ nghị trong trí khôn, ấy là kẻ có sẵn tình ý thiên nhiên Tạo hoá.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGHỊ

1.- Nghị là bàn bạc. Như: Dị nghị, nghị án, nghị định, nghị luận, nghị viên, thương nghị.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy cấm không cho dị nghị việc người, nhứt là đạo hữu của các con thì đừng phạm đến kẻo tội nghiệp.

Thầy có hội chư Tiên, Phật lại mà thương nghị về sự lập Ðạo tại Ðại Nam Việt quốc.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2.- Nghị là tình nghĩa, tình giao kết. Như: Hữu nghị, khế nghị.

Hữu nghị là tình giao kết thân thiện như bạn bè.

Hữu nghị thường được nói về sự quan hệ giữa các quốc gia với nhau, như quan hệ bang giao hữu nghị.

Hội hiệp Đàn văn biết tự ngày,

Trong tình hữu nghị mấy năm nay.

(Thơ Huệ Ngàn).

3.- Nghị là quả quyết, bền vững, không đứng một mình. Như: Nghị lực, cương nghị.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trái lại, một phần Chức sắc dù là thiểu số, vì cơ thử thách quá nặng nề, nên không đủ nghị lực để cượng nỗi với sự quyến rũ của những kẻ biết lợi dụng thời cơ nên phải sa ngã vào chỗ lạc lầm, có lẽ.

Thế tục là nét dìu dắt cho mất tánh thiêng liêng, phải lấy nghị lực cang tâm mà kềm chế thì cái lối diệt vong, mới chẳng làm uổng công phu hành đạo cho.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGHỊ ÁN

議 案

Nghị: Thảo luận, bàn bạc. Án: Vụ thưa kiện.

Nghị án là đem cái dự án ra bàn. Như: Thảo cái dự án để đưa ra Hội đồng.

Nghị án còn nói những người ngồi xử án phải bàn bạc, thảo luận để quyết định mức hình phạt cho được công bằng và đúng pháp luật.

Toà Tam Giáo có Đức Giáo Tông làm đầu. Ba vị Chưởng Pháp nghị án.

(Tân Luật).

 

 

NGHỊ ĐỊNH

Nghị: Thảo luận, bàn bạc. Định: Quyết định.

Những người trong một cuộc hội nghị thảo luận và bàn bạc rồi đưa ra một quyết định, gọi là nghị định.

Nghị Định còn là một công văn của người có thẩm quyền quy định về một vấn đề gì.

Trong tôn giáo Cao Đài, những Nghị định được gọi là Đạo Nghị Định.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Ngọc Chánh Phối Sư, mỗi Đạo Nghị Định của Lão viết ra phải chính mình hiền hữu đọc lại cho toàn Chức sắc Thiên phong có mặt tại đây nghe rõ.

Mỗi việc nghị định đều biên chép để lại đành rành, sau khỏi điều dị nghị.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGHỊ LUẬN

議 論

Nghị: Bàn bạc. Luận: Bàn.

Nghị luận là bàn bạc, và đánh giá cho rõ về một vấn đề nào đó.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có dạy: Trời không vì người ta sợ rét mà thôi mùa đông, Đất không vì người ta sợ xa mà thâu hẹp lại, người quân tử không vì lời nghị luận, xuyên tạc của tha nhân mà thôi việc làm chánh trực của mình.

Om sòm nghị luận khắp nơi,

Người thời kích bác, kẻ thời hiềm nghi.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

Điều hay dở thường ngày nghị luận,

Khải trí em dễ hứng sự khôn ngoan.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHỊ LỰC

毅 力

Nghị: Quả quyết. Lực: Sức.

Nghị lực là cái sức bền vững để tiến bước.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trong cảnh tang thương, giữa đời gió bụi, chúng ta phải cùng nắm tay nhau, nương nhờ nhau, giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta mới có đủ nghị lực vượt qua những nỗi gay go hiểm trở để nhặc tiến trên đường nhiệm vụ.

Muốn an tâm tỉnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị lực vô biên...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGHỊ SỰ

議 事

Nghị: Bàn bạc để quyết định vấn đề gì đó. Sự: Việc.

Nghị sự là bàn việc, tức đem vấn đề đó ra phiên họp để trao đổi ý kiến hay bàn thảo sự việc.

Như: Chương trình trong phiên họp chiều nay.

Hội Công Đồng có Đầu Sư một phái làm đầu và hai chức sắc hai phái kia nghị sự phán đoán về hình trục xuất theo lời của người làm đầu trong Họ xin.

(Tân Luật).

 

 

NGHỊ TRƯỜNG

議 場

Nghị: Bàn bạc, thảo luận, hội nghị. Trường: Nơi có nhiều người tụ họp.

Nghị trường là chỗ hội họp của các nghị viên để bàn luận một một quyết định gì.

Như: Cả nghị trường đều hoan nghênh việc đó.

Nghị trường thương thuyết gần xa,

Ngoại giao chính trị sáng loà nơi nơi.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGHỊ TRƯỞNG

議 長

Nghị: Bàn bạc, thảo luận, hội nghị. Trưởng: Lớn, đứng đầu.

Nghị trưởng là người đứng đầu trong cuộc hội nghị.

Trong đạo Cao Đài có ba hội nhóm do bên Cửu Trùng Đài triệu tập:

- Hội Nhơn Sanh, vị Thượng Chánh Phối Sư làm Nghị trưởng.

- Hội Thánh, Thái Chánh Phối Sư làm Nghị trưởng.

- Thượng Hội, Đức Giáo Tông làm Nghị trưởng.

Ngoài ra, bên Phước Thiện cũng có nhóm Đại Hội Phước Thiện, Nghị trưởng là vị Chưởng Quản Phước Thiện Nam phái.

Trước giờ mở Hội, thì Nghị trưởng phái vài Hội viện đi rước Giáo Tông và Hộ Pháp đến dự lễ.

(Chánh Trị Đạo).

 

 

NGHỊ VIÊN

議 員

Nghị: Bàn bạc, thảo luận, hội nghị. Viên: Người.

Nghị viên là người tham dự trong cuộc hội nghị, có quyền thảo luận, biểu quyết những điều khoản của hội nghị đưa ra.

Trong Hội Nhơn Sanh, mỗi Tộc Đạo cử ra ba Nghị viên nam và ba Nghị viên nữ: Một Nghị viên Chánh Trị Sự, một Nghị viên Phó Trị Sự và một Nghị viên Thông Sự, đại diện cho tất cả chức việc trong Tộc Đạo.

Trong Đại Hội Phước Thiện, Nghị viên là những người đại diện cho các vị Hành Thiện trong Tộc Đạo.

Luật công cử Nghị Viên thì phải hội hiệp tất cả Chức Việc trong Quận bỏ thăm...

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

NGHĨA

1.- Nghĩa (ngãi) là đạo phải, tức điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội, như làm việc nghĩa, trọng nghĩa khinh tài.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Thầy chẳng khi nào dụng những kẻ ấy vào nền Ðạo bao giờ. Than ôi! Tiền lớn bạc nhiều, món ngon vật quí, hay xiêu lòng phàm phu. Của bất nghĩa kẻ trần còn chẳng chịu dùng thay!

Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,

Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Giữ nghĩa hay quên lo nỗi hiếu,

Nương đường đạo đức khó trăm bề.

(Đạo Sử).

2.- Nghĩa là quan hệ tình cảm thuỷ chung, phù hợp với quan niệm đạo đức nhất định.

Như: Nghĩa quân thân, nghĩa sinh thành, nghĩa thầy trò, nghĩa vợ chồng.

Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,

Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cái nghĩa đệ huynh là nghĩa trọng,

Thâm tình cố cựu mấy thu đông.

(Đạo Sử).

3.- Nghĩa là ý của tiếng, của chữ, của câu. Như: Nghĩa bóng, nghĩa câu, nghĩa là.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Các con đừng tưởng quấy rằng: vì chia phái mà riêng đạo. Thầy rán cắt nghĩa cho các con nghe.

Ngã kim thính văn đắc thọ trì,

Nguyện giải Tân kinh chơn thiệt nghĩa.

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

NGHĨA BINH

義 兵

Nghĩa: Điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người. Binh: Quân lính.

Nghĩa binh, như chữ “Nghĩa quân 義 軍”, là binh sĩ vì việc nghĩa như trừ gian khử bạo mà nổi lên, hoặc chỉ quân đội được tổ chức nên trong cuộc khởi nghĩa.

Xây cơ chuyển thế danh lừng lẫy,

Cầm máy nghĩa binh thắng vẹn toàn.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

NGHĨA CỬ

義 舉

Nghĩa: Điều được coi là hợp lẽ phải. Cử: Cử chỉ, hành động.

Nghĩa cử là việc làm hay hành động vì nghĩa.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn viết: Trong dịp gặp gỡ nầy, Hội Thánh nhận thấy và thông cảm những nỗi khó khăn của nhiều vị Khâm Châu, Ðầu Tộc từ chỗ xa xôi, diệu vợi cũng không nài cực nhọc, không quản đường sá gian lao quyết về với Tổ đình để chiêm bái Ðức Phật Mẫu cho tròn câu hiếu Ðạo. Ðó là một nghĩa cử đáng khen. Người hành Ðạo được có chí thành vững mới làm tròn sứ mạng.

Đầy lòng yêu ái đám quần sanh,

Nghĩa cử chỉ trông một tấc thành.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

NGHĨA ĐÀO VIÊN

義 桃 園

Nghĩa: Điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người. Đào viên: Vườn đào, ý chỉ kết nghĩa tại vườn đào của ba anh em Lưu, Quan, Trương.

Nghĩa Đào viên tức là nơi vườn Đào Lưu, Quan, Trương kết nghĩa.

Lưu Bị tự là Huyền Đức, là dòng dõi Trung Sơn Tỉnh Vương Lưu Thắng nhà Hậu Hán, thân phụ là Lưu Hoằng, đậu Hiếu Liêm ra làm quan, nhưng mất sớm. Lưu Bị mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu, tính siêng học, nhà nghèo nên phải tạm làm nghề đóng dép, dệt chiếu để sinh sống.

Quan Võ, tự là Vân Trường, người đất Giải Lương tỉnh Hà Đông, là một vị anh hùng hảo hán, đứng lên giết chết tên thổ hào ỷ thế hiếp bức dân lành, nên phiêu bạt giang hồ hơn 5 năm.

Trương Phi, tự là Dục Đức, người ở Trác Quận, làm nghề bán rượu mổ thịt.

Ba anh em Lưu, Quan, Trương đều mang chí lớn, khi gặp nhau muốn kết nghĩa anh em, nên cùng chọn vườn đào để tế cáo Trời đất. Lưu Bị lớn tuổi được tôn là anh cả, kế đó là Quan Võ, và sau cùng là Trương Phi làm em út.

Sau đó, ba anh em Lưu Bị tạo dựng được thanh thế mạnh mẽ và nhờ có Gia Cát Khổng Minh ra giúp làm Quân sư, nên làm vua một vùng đất rộng lớn ở phía Tây nước Tàu, gọi là Tây Thục, chống với Bắc Nguỵ của Tào Tháo và Đông Ngô của Tôn Quyền, tạo thành thế chia ba thiên hạ, gọi là thời Tam Quốc.

Bên trong hành lang Báo Ân Từ nơi phía sau có khuôn hình lấy tích “Đào viên kết nghĩa 桃 園 結 義”.

Nghĩa Đào viên Lưu, Quan, Trương kết,

Tình anh em sống chết không rời.

(Báo Ân Từ).

 

 

NGHĨA ĐỊA

義 地

Nghĩa: Làm vì việc phải. Địa: Đất.

Nghĩa địa, cùng nghĩa với “Nghĩa trang”, là một vùng đất dành riêng để chôn xác những người chết.

Nghĩa địa thường được chọn ở những vùng đất xa khu dân cư.

Mỗi Họ cũng nên lập một Nghĩa địa riêng.

(Tân Luật).

 

 

NGHĨA HIỆP

義 俠

Nghĩa: Điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội. Hiệp: Người có hào khí hay giúp người.

Nghĩa hiệp là có tinh thần quên mình vì việc nghĩa, cứu giúp người khi gặp khó khăn hoạn nạn.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp dạy Quân đội Cao Đài có câu: Quân Ðội Cao Ðài phải hiểu cái mạnh của mình, mạnh vì lòng nhơn nghĩa và tánh nghĩa hiệp cứu đời.

Tình chung nào trọng chung đôi vú,

Nghĩa hiệp chi hơn hiệp một sàng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHĨA KHÍ

義 氣

Nghĩa: Điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội. Khí: Tinh thần phát hiện ra ngoài.

Nghĩa khí là tinh thần ưa chuộng điều nghĩa được thể hiện ra bên ngoài.

Như: Anh ấy là một con người giàu nghĩa khí.

Hớn trào Quan Thánh bia danh,

Trung can nghĩa khí háo sanh giúp đời.

(Xưng Tụng Công Đức).

Chỉ một tâm trung nên đặng hưởng,

Xuân Thu nghĩa khí trọn lòng ngay.

(Quan Thánh Đế Quân).

Dầu cơn độc mã đơn đao,

Tâm trung nghĩa khí, Ngô Tào cũng kiêng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHĨA LÝ

義 理

Nghĩa: Ý nghĩa một chữ, một câu. Lý: Lẽ.

Nghĩa lý là ý nghĩa và lý lẽ.

Nghĩa lý còn có thể hiểu là ý nghĩa hợp với lẽ phải, tức chính nghĩa và công lý.

Như: Việc làm chẳng có nghĩa lý gì hết.

Thánh giáo Thầy có câu: Huống lựa là các Ðấng ấy phải bị đoạ trần mà biết mình hằng giữ, thì mầu nhiệm thử Thần, Thánh, Tiên, Phật, chẳng có nghĩa lý gì hết.

Kinh báu một pho đầy nghĩa lý,

Ắt là nhơn loại đứng ngồi yên.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGHĨA MẶN TÌNH NỒNG

Nghĩa mặn: Ơn nghĩa mặn mà. Tình nồng: Tình cảm mặn nồng.

Nghĩa mặn tình nồng là một thành ngữ dùng để chỉ tình cảm giữa vợ chồng, hay đôi trai gái rất thắm thiết, mặn nồng.

Lạc hoan chưa phải buổi cho mình,

Nghĩa mặn tình nồng chớ dể khinh.

(Đạo Sử).

 

 

NGHĨA NHÂN

義 仁

Nghĩa: Điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội. Nhân (nhơn): Lòng thương người.

Nghĩa nhân là đối xử với người theo điều phải và có lòng thương người.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ruổi giong trên đường tục lụy, người ta chạy theo danh vọng tiền tài, chúng ta chạy theo nghĩa nhân đạo đức, người ta đạp đổ lầu đài tinh thần trong sự tranh giành quyền lợi, mưu hại lẫn nhau, chúng ta củng cố đạo tâm, vun trồng cội phúc.

Buộc yêu thương bạn đồng môn,

Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

NGHĨA NHƠN

Hay “Nghĩa nhân”.

Nghĩa: Điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội. Nhơn (nhân): Lòng thương người.

Nghĩa nhơn, như chữ “Nghĩa nhân 義 仁”, là đối xử với người theo điều phải và có lòng thương người.

Xem: Nghĩa nhân.

Đạo Nho truyền dạy nghĩa nhơn,

Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời.

(Xưng Tụng Công Đức).

Lợi lộc xôn xao rồi một kiếp,

Nghĩa nhơn tích trữ để muôn đời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đừng ngần ngại cửa quyền sấm chớp,

Giữ nghĩa nhơn đặng họp giống nòi.

(Xuân Hương Giáng Bút).

 

 

NGHĨA PHƯƠNG

義 方

Nghĩa: Điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội. Phương: Phép tắc.

Nghĩa phương là lẽ phải. Sách Tả Truyện viết: Giáo tử dĩ nghĩa phương 教 子 以 義 方, nghĩa là dạy con phải chỉ bảo nó đi theo con đường phải.

Không dua nịnh vương gia quyền lịnh,

Cũng Yên Sơn Đậu tánh nghĩa phương.

(Văn Tế Đốc Học).

Hai chữ nghĩa phương thường nắm giữ,

Dạy nuôi rèn đúc chí Di Tề.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGHĨA SĨ

義 士

Nghĩa: Việc theo đường lối phải, việc nên làm. Sĩ: Người học trò, người hào hiệp.

Nghĩa sĩ là người có nghĩa khí, hay hy sinh làm việc nghĩa, vì nước hoặc vì nhân loại.

Khi nói về lòng trung của Đức Quan Thánh Đế Quân, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Tào Tháo nghe được than rằng: “Thờ chúa chẳng quên căn bổn, ấy thiệt là người nghĩa sĩ trong thiên hạ”.

Hùng khí từng nêu danh nghĩa sĩ,

Ưu hương đâu thiếu bậc trung can.

(Thơ Thượng Tuy Thanh).

 

 

NGHĨA THẦY TRÒ

Nghĩa: Làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội. Thầy:trò: Người dạy học và người đi học.

Nghĩa thầy trò là chỉ mối quan hệ về ơn nghĩa giữa người thầy và người học trò. Chính do cái ơn nghĩa nầy mà các bậc Thánh hiền đã lập thành cái “Đạo thầy trò”.

Chúng ta biết con người được sinh ra nơi cõi thế gian này, ai cũng phải học, dù đó là học nghề nghiệp, học chữ nghĩa hay học đạo lý.

Mạnh Tử nói rằng: Nhân chi hữu đạo dã, bão thực noãn y, dật cư nhi vô giáo, tắc cận ư cầm thú 人 之 有 道 也, 飽 食 煖 衣, 逸 居 而 無 教, 則 近 於 禽 獸, nghĩa là người ta tuy có đạo lý, nhưng cứ ăn no mặc ấm, ngồi rồi mà không dạy dỗ, thì gần như giống cầm thú. Thánh nhân đời trước lấy làm lo điều đó, nên xem việc giáo hoá là hàng đầu cho con người. Do vậy, Thầy dạy học được coi là người có ơn nghĩa rất lớn đối với học trò. Ơn nghĩa của thầy được Nho giáo xếp đứng vào hàng thứ nhì sau ơn của vua và trước ơn của cha mẹ (Quân, sư, phụ).

Tại sao ơn của thầy được coi trọng như vậy? Bới vì, việc học của cổ nhân không phải như sự học của bao nhiêu người ngày nay vẫn hiểu. Cổ nhân học là cốt học đạo của Thánh hiền để hiểu nghĩa lý, biết phải trái mà sửa mình cho thành người có đức hạnh. Chính thầy Tử Lộ đã xác định điều đó: Quân tử học dĩ trí kỳ đạo 君 子 學 以 致 其 道, tức là người quân tử học để hiểu rõ cái đạo, để biết cách cư xử cho phải phép, để có cái phẩm hạnh đạo đức hơn người thường.

Trái lại, trong xã hội hiện thời, thầy được xem như là một nghề để truyền thụ kiến thức lại cho con em, do vậy tình thầy trò không thấy gì thấm thiết. Ơn thầy xem như ơn hướng dẫn kiến thức, chứ không như ông thầy học ngày xưa có trách nhiệm khai tâm, khai hoá nên một con người.

Theo quan niệm xưa, công ơn của cha mẹ đào tạo ra hình hài thể xác thì to lớn như trời biển, song đã có tấm thân mà không có thầy khai hoá thì con người chỉ như một khối thịt tùng theo vật dục mà hành động, không có tri giác, không hiểu lễ giáo như người xưa đã gọi “Thây đi thịt chạy”, tức là một khối thịt, không trọn bổn phận là một con người sống trong gia đình và xã hội. Đức Hộ Pháp trong Phương Tu Đại Đạo có dạy phận làm trai như sau:

Đêm thanh khá xét suy mọi việc,

Hỏi coi mình có biết phận làm trai.

Đừng cố lo hai chữ sắc tài,

Không biết đạo dầu trai cũng hoá gái.

Đừng chịu phận “thây đi thịt chạy”,

Uổng hột cơm tấm vải của đời.

Vì vậy người xưa cho rằng công lao thầy đào tạo nên người bằng công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, nên lập thành cái đạo: Đạo thầy trò, và xếp trước đạo cha con, sau đạo vua tôi, ấy là đạo: Quân, sư, phụ.

Đạo “Quân Sư Phụ” là ơn cha mẹ tạo ra hình hài xác thịt, ơn của thầy giáo hoá cho nên người và ơn ngọn rau tấc đất là ba cái công ơn rất sâu dày: Một đàng tạo cái hình chất, một đàng khai hoá tinh thần và một đàng có vật thực để nuôi dưỡng cho con người. Chính vì thế, Loan Cung Tử mới nói rằng: Người ta ở đời có ba người phải thờ kính như một là cha sinh, thầy dạy, vua nuôi; không có cha thì không có ai sinh, không có nuôi thì không có lớn được, không có dạy thì không thể nên được người vậy (Dân sinh ư tam sự chi như nhứt, phụ sanh chi, sư giáo chi, quân tự chi; phi phụ bất sanh, phi tự bất trưởng, phi giáo bất tri, sanh chi tộc dã 民 生 於 三 事 之 如 一, 父 生 之, 師 教 之, 君 食 之, 非 父 不 生, 非 食 不 長, 非 教 不 知, 生 之 族 也).

Đời Tống một triết gia Trung Quốc là Chu Đôn Di mới lập Sư đạo (Đạo của thầy trò), ông cho rằng: Cái đạo của Thánh nhân rất quý, nhưng phải có thầy dạy mới biết được. Ông đặt vấn đề: Làm sao khiến cho thiên hạ đều thiện cả? Rằng phải có thầy dạy, tức là kẻ tiên giác dạy kẻ hậu giác, kẻ mờ tối học kẻ sáng suốt, như thế thì đạo thầy được thành lập vậy.

Chính vì người xưa xem đạo thầy trò cao trọng như vậy, nên khi Khổng Tử mất, các môn đồ của Ngài phải để tâm tang ba năm (Bằng tang cha mẹ), mãn tang họ họp nhau lần cuối cùng ở trước mộ để khóc Ngài, rồi mới chia tay nhau mỗi người đi mỗi nơi. Riêng Tử Cống còn ở lại trong một căn nhà lá để giữ mộ cho thầy thêm ba năm nữa.

Trong Đạo Cao Đài, Đấng Tiên Nương Đoàn Thị Điểm xét thấy ơn của Thầy cũng như ơn vua và ơn sinh thành của cha mẹ rất cao trọng như vậy, nên đã giáng cơ ban cho chúng sanh đạo Cao Đài bài Kinh Tụng Khi Thầy Quy Vị để dành những người học trò tế những vị thầy kính yêu hầu trả được phần nào ân sâu nghĩa nặng của sự giáo huấn cho nên người. Bà viết:

Dầu hoạn lộ chưa vừa sở nguyện,

Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân.

Ơn cha sanh hoá ra thân,

Ơn thầy huấn giáo cũng gần như nhau.

Và trong tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận Bà cũng cho rằng ơn nghĩa của thầy dạy học sánh bằng với công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ:

Con nhờ thầy công danh mới toại,

Như nhờ cha mới giỏi hình dung.

Hai ơn ấy gẫm so đồng,

Nghĩa kia như hiếu, mặn nồng cả hai.

Tóm lại, trong đạo Cao Đài nghĩa thầy trò rất sâu đậm, được dựa theo “Đạo quân sư phụ” của Nho giáo.

Đường công danh càng nhìn quảng đại,

Nghĩa thầy trò nghĩ lại khó quên.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

NGHĨA TRẢ ƠN ĐỀN

Nghĩa trả: Việc nghĩa phải lo báo trả. Ơn đền: Điều ơn phải tính đền đáp.

Nghĩa trả ơn đền là nói thọ ơn nghĩa của người phải lo báo đáp, đền trả.

Ăn ngay ở thật đường tu dưỡng,

Nghĩa trả ơn đền nợ kiếp sinh.

(Thơ Hiến Đạo).

 

 

NGHĨA TRANG

義 莊

Nghĩa: Điều được coi là hợp lẽ phải. Trang: Cơ sở ở ngoại thành.

Nghĩa trang, như chữ “Ngĩa địa”, khu đất chung dùng làm nơi chôn cất cho người chết.

Xem: Nghĩa địa.

Đất ấy Bần Đạo đã hứa cho làm Nghĩa Trang thì cứ làm, nhưng đó là Nghĩa Trang chung cho tất cả bổn đạo.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGHĨA TRỌNG

義 重

Nghĩa: Đường lối phải tuân theo để cư xử theo lẽ phải. Trọng: Nặng.

Nghĩa trọng là tình nghĩa nặng nề.

Như: Nghĩa trọng tình thâm.

Nối Tông Tổ biết bao nghĩa trọng,

Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.

(Kinh Thế Đạo).

Cái nghĩa đệ huynh là nghĩa trọng,

Thâm tình cố cựu mấy thu đông.

(Đạo Sử).

Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,

Đạo nhơn luân gầy sống của đời.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHĨA TRỌNG TÀI KHINH

Nghĩa trọng: Xem nặng điều nghĩa, Tài khinh: Coi nhẹ về tiền tài.

Nghĩa trọng tài khinh, bởi câu “Trọng nghĩa khinh tài 重 義 輕 財”, là chỉ người quân tử có tính coi trọng về việc nghĩa, xem nhẹ về tiền tài.

Xem: Trọng nghĩa khinh tài.

Khuyên con coi nghĩa trọng tài khinh,

Lòng quảng đại mới điều đình thế sự.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHĨA VỤ

義 務

Nghĩa: Việc làm theo lẽ phải. Vụ: Công việc.

Nghĩa vụ là bổn phận mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm tròn.

Nghĩa vụ thường đi đôi với quyền lợi, có nghĩa vụ thì phải có quyền lợi, hay ngược lại.

Thánh giáo Thầy dạy: Mối Ðạo Thầy đưa cho các con phăng đầu hết, thì các con phải biết trách nhậm các con lớn lao, cao thượng là chừng nào! Nếu các con không biết nghĩa vụ của Ðạo thì sao cho xứng đáng?

Này sự nghiệp nhà Nam đầy nghĩa vụ,

Anh lòng nào bỏ phú cho đám em khờ?

(Văn Tế Tiểu Tường).

Phải dạy biết những điều nghĩa vụ,

Gìn tục phong quy củ nước nhà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHỊCH

1.- Nghịch là chơi đùa trái lễ phép, tức những trò đáng lẽ không nên chơi vì có thể gây hại.

Như: Học trò nghịch, không cho trẻ nghịch dao, lũ trẻ tắm sông nghịch nước.

Bần Đạo nghịch nhất thử hỏi độc lập chúng ta giờ phút này phải bánh vẽ hay chăng?

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Nghịch là ngược, trái với thuận. Như: Nghịch cảnh, chuyển động theo chiều nghịch.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Từ đây phải tin tưởng một Thầy và nghe lời Thầy dặn, giữ đạo đức cho bền, còn ngoại trừ sự chi nghịch với Chơn đạo thì là mưu chước Tà quái.

Cùng trên với dưới giữ khiêm cung,

Kẻ nghịch con toan kế phục tùng.

(Đạo Sử).

Toan để bút ngăn vòng chồng vợ,

Thì lại e nghịch nợ tiền khiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Phận nuôi dưỡng tuy vân cần ích,

Phải dạy răn kẻo nghịch lòng Trời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHỊCH CẢNH

逆 境

Nghịch: Trái ngược, trái với thuận. Cảnh: Hoàn cảnh, chỉ tình trạng cuộc sống.

Nghịch cảnh là nói cảnh ngộ éo le, trắc trở, tức gặp cảnh trái ngược với ý muốn, hoặc trái ngược với chuyện thường tình.

Như: Gia đình gặp phải nghịch cảnh.

Ấy là bài học để lòng,

Gặp khi nghịch cảnh long đong con phòng.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Lướt khó, gắng chiều cơn nghịch cảnh,

Nâng nguy nhờ hiệp bạn đồng thinh.

(Thơ Thượng Sanh).

Nghịch cảnh cam bề xa cửa Đạo,

Ngược chiều đưa bước đến nhà giam.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGHỊCH ĐẠO

逆 道

Nghịch: Trái ngược, trái với thuận. Đạo: Tôn giáo.

Nghịch Đạo là phản nghịch lại với tôn giáo.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Trong vạn vật có quyền cãi chối cái sống của họ chăng? Mà gọi họ chối Đạo? Có người không biết chữ Đạo là gì xưng rằng nghịch Đạo, cãi Đạo là mâu thuẩn, là dốt nát, chính mình họ không biết họ, thì luận với ai chớ.

Kẻ vào Đạo chỉ mưu việc quấy như vậy là muốn gây rối cho nền Đạo, tức là kẻ nghịch Đạo đó.

(Phương Châm Hành Đạo).

 

 

NGHỊCH LÝ

逆 理

Nghịch: Trái ngược, trái với thuận. Lý: Lẽ thường, điều hợp bình thường.

Nghịch lý là trái với lẽ thường.

Như: Trời nóng thì ở trần, chứ ai lại nghịch lý đi mặc áo ấm bao giờ.

Nếu gặp cảnh nghịch lý thì lòng hờn ghét nổi lên và xô đuổi những sự vật không thích ý đi cho xa thật xa.

(Giáo Lý).

 

 

NGHỊCH MẠNG

Hay “Nghịch mệnh”.

Nghịch: Chống lại, đi ngược lại. Mạng (Mệnh): Mệnh lệnh, tức lịnh của cấp trên.

Nghịch mạng, như chữ “Nghịch mệnh 逆 命”, là chống lại mạng lịnh của cấp trên.

Trong tôn giáo Cao Đài, kẻ nghịch mạng là kẻ chống lại mạng lịnh của Hội Thánh hoặc làm trái lịnh Hội Thánh.

Theo Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, những kẻ công kích Hội Thánh hoặc nghịch mạng thì phạm vào tội Đệ nhứt hình thì bị phạt trục xuất.

Nên buộc toàn Đạo phải tùng quyền không đặng một việc chi nghịch mạng.

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

NGHỊCH NỢ TIỀN KHIÊN

Nghịch: Làm trái ngược. Nợ tiền khiên 前 愆: Nợ nần với nhau từ kiếp trước.

Nghịch nợ tiền khiên tức là làm trái ngược lại sự vay trả nợ nần từ kiếp trước.

Toan để bút ngăn vòng chồng vợ,

Thì lại e nghịch nợ tiền khiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHỊCH THIÊN

逆 天

Nghịch: Trái ngược, phản lại. Thiên: Trời.

Nghịch Thiên là trái nghịch lại với lẽ Trời.

Trong Minh Tâm Bửu Giám có câu: Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong 順 天 者 存, 逆 天 者 亡, nghĩa là thuận theo Trời thì còn, nghịch với Trời thì mất.

Trong Đạo Sử Xây Bàn của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Đức Lý Giáo Tông có câu: Có một điều đáng trách là một phái yêu dấu của Chí Tôn dám cả gan nghịch Thiên mà phải đoạ trầm luân muôn kiếp.

Nghĩ những việc bạo tàn, làm điều tội lỗi, ấy là những kẻ nghịch Thiên, không biết luân hồi là chi cả.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGHỊCH THÙ

逆 讎

Nghịch: Trái ngược, phản lại. Thù: Căm ghét.

Nghịch thù là người căm ghét và chống đối mình.

Thánh giáo Tôn Sơn Chơn Nhơn có câu: Trong không người chưởng quản, ngoài nhiều kẻ nghịch thù, thì thế nào làm an phận cho đặng.

Lục Nương chị ngựa bêu cứu nước,

Quân nghịch thù mua được thiêu thân.

(Lục Nương Giáng Bút).

Hèn ganh sang, gây lẽ nghịch thù,

Dở làm giỏi, đồ mưu phản phúc.

(Bát Nương Giáng Bút).

Bước công danh quen lẽ nghịch thù,

Bả quyền lộc nhuộm màu cừu hận.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGHIÊM

1.- Nghiêm là đoan trang, chính đính, đúng đắn, không hay cười đùa, giỡn hớt.

Như: Vẻ mặt nghiêm, thầy giáo giữ nghiêm nét mặt, tướng đi nghiêm nghị.

Xấu xa rách rưới lõa lồ,

Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Giữ trang nghiêm nết hạnh hẳn hòi,

Đặng em gái thường coi bắt chước.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Nghiêm là chặt chẽ, gắt gao. Như: Lệnh nghiêm, nghiêm nhặt, luật pháp rất nghiêm.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy dặn các con, như đàn nội chẳng nghiêm, Thầy không giáng, ba con nhớ nghe!

Che đậy kín tường đông ong bướm,

Giấu nhặt nghiêm nhụy tướng hương hình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Anh em nhiều cha mẹ dầu thương,

Gia nghiêm giữ thường thường đừng rẻ rúng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHIÊM CHÁNH

Hay “Nghiêm chính”.

Nghiêm: Đúng đắn, chặt chẽ. Chánh (chính): Ngay thẳng, đứng đắn.

Nghiêm chánh, như chữ “Nghiêm chính 嚴 正”, là nghiêm trang và chính trực, tức là đúng đắn và ngay thẳng.

Như: Làm quan phải giữ dạ nghiêm chánh vô tư.

Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGHIÊM CHỈNH

嚴 整

Nghiêm: Đúng đắn, chặt chẽ. Chỉnh: Ngay ngắn, có thứ tự.

Nghiêm chỉnh là trang nghiêm và đứng đắn (từ cách ăn mặc hay đi đứng).

Nghiêm chỉnh còn tỏ ra tuân theo các nguyên tắc và các quy định, không cho phép mình vượt ra ngoài.

Như: Ăn mặc nghiêm chỉnh, phát biểu một cách nghiêm chỉnh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Lễ và Nhạc cùng họp nhau và nếu giữ đúng nề nếp thì đàn cúng mới nghiêm chỉnh, được bao trùm một bầu không khí huyền diệu, Thiêng liêng khiến cho chúng ta cảm tưởng là có Ðức Chí Tôn và Chư Tiên Phật giáng ngự để ban ơn cho toàn Ðạo.

Gặp mấy cô nghiêm chỉnh ít cười,

E lỡ tiếng chọc cười trổ quạu.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHIÊM ĐƯỜNG

嚴 堂

Nghiêm: Chỉ người cha. Đường: Nhà, nơi cha mẹ ở.

Nghiêm đường là tiếng dùng để chỉ người cha. Còn Huyên đường là tiếng dùng để chỉ người mẹ.

Cha vốn có tính nghiêm nghị, mẹ có tính hiền từ, nên người ta thường gọi cha là “nghiêm đường”, “nghiêm phụ”, mẹ là “từ mẫu”, “từ thân”.

Nghiêm đường thức trời mai hé bóng,

Sắp việc nhà điều động mấy con.

(Thơ Thái Phong).

Ngày giỗ nghiêm đường khách đến đông,

Nhìn lên bửu ảnh thấy yên lòng.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

NGHIÊM HÌNH

嚴 刑

Nghiêm: Gắt gao, chặt chẽ. Hình: Pháp luật để trừng trị kẻ có tội.

Nghiêm hình là hình luật gắt gao chặt chẽ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu không muốn đợi để thú tội với Ðức Chí Tôn thì hiện giờ vì biết mình có tội đến thú tội với chư Ðại Thiên Phong Hiệp Thiên Ðài cầm quyền Pháp Chánh đó đi, rồi quyết chắc đã đền xong tội phạm ắt cửa Thiêng Liêng cũng khó định nghiêm hình, vì cớ cố nhiên là một án chỉ có một hình.

Chồng ví đặng cửa quyền nắm phép,

Phàm chăn dân phải ép giữ nghiêm hình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHIÊM HUẤN

嚴 訓

Nghiêm: Chỉ người cha, hay đúng đắn, gắt gao. Huấn: Lời dạy dỗ.

Nghiêm huấn là lời răn dạy và giáo huấn của cha.

Nghiêm huấn còn là lời răn dạy của người bề trên có tính gắt gao.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có dạy: Vậy từ nay các em phải lập tâm ghi nhớ những lời Người (Đức Lý Giáo Tông) căn dặn. Nếu hờ hẫng như lúc trước thì tránh không khỏi nghiêm huấn của Người đa.

Hội Thánh đã từng nhắc cho bổn đạo ghi nhớ mấy lời nghiêm huấn nầy...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGHIÊM KHẮC

嚴 刻

Nghiêm: Gắt gao, tức không cho phép có vi phạm dù nhỏ, đối với những điều quy định. Khắc: Nghiêm gấp lắm.

Nghiêm khắc là có yêu cầu rất chặt chẽ, không dễ dàng tha thứ hoặc bỏ qua một sai sót nào.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo đã thường giảng rằng: Dầu cá nhân, dầu gia đình, dầu quốc gia, xã hội, dầu cho toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy phải chịu trong khuôn luật quả kiếp của toà chánh trị và Ngọc Hư Cung, là Toà Tam Giáo đang nắm quyền Càn Khôn Thế Giái rất nghiêm khắc và oai quyền, oai lực ấy vô đối, không quyền năng nào đối thủ đặng.

Không nghiêm khắc cũng là làm bộ,

Lúc giao ngôn phải chỗ nên lời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHIÊM LĂNG

嚴 陵

Nghiêm Lăng là một cao sĩ đời nhà Đông Hán, bạn của Lưu Tú. Sau khi Lưu Tú diệt được nhà Tân, giết Vương Mãn, rồi lên ngôi vua xưng là Quang Võ.

Nhiều lần vua Quang Võ sai người đến rước Nghiêm Lăng, nhưng Lăng đều từ chối. Vua Quang Võ phong quan tước, Lăng cũng không nhận.

Vua tôi thân thiện như bạn thuở nào, hai người ngủ chung một giường, chuyện trò vui vẻ. Nghiêm Lăng gác chân lên bụng vua, vua vẫn tươi cười, không nói điều gì.

Noi gương Đỗ Phủ vài hàng mực,

Dõi chí Nghiêm Lăng ít mảnh tre.

(Thơ Tiếp Đạo).

Nữa cần Lữ Vọng dò kho nước,

Sợi chỉ Nghiêm Lăng với lộc trời.

(Thơ Hoàn Nguyên).

Bàn Thạch nhàn ngâm thơ Lữ Vọng,

Gành nghê nhẹ thả chỉ Nghiêm Lăng.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

NGHIÊM LỆNH

嚴 令

Nghiêm: Chặt chẽ, gắt gao, khó dung tha. Lệnh: Mệnh lệnh, sai khiến.

Nghiêm lệnh tức là mệnh lệnh sai khiến rất chặt chẽ, nghiêm ngặt.

Từ đây, hiền hữu cứ ra nghiêm lịnh coi.

(Lý Giáo Tông).

 

 

NGHIÊM LUẬT

嚴 律

Nghiêm: Chặt chẽ, khó dung tha. Luật: Luật pháp.

Nghiêm luật là luật pháp gắt gao, chặt chẽ.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Còn nói về phụ nữ nhứt là gia đình nào con hát bè, hát bộ, thì có dọn mà đi luôn. Ðến nghiêm luật gái chửa hoang, đẻ lạnh thì cha ông, con cháu, đều bị đòi ra giữa làng hết thảy.

Buổi đó Chức Sắc Thiên Phong chưa rõ thông nghiêm luật, thường mỗi ngày hội hiệp cùng...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGHIÊM LỮ

嚴 呂

Nghiêm Lữ tức là Nghiêm Lăng và Lữ Vọng.

Nghiêm Lăng là một ẩn sĩ đời Đông Hán, bạn của thân của vua Quang Võ, không chịu ra làm quan mà chỉ về cày ruộng ở núi Phú Xuân.

Lữ Vọng tức Thái Công Vọng, tự là Tử Nha, họ Khương tên Thượng. Lúc còn hàn vi, ngồi câu trên sông Vị, sau được Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương) rước về làm Tướng quốc, và trở thành vị khai quốc công thần cho nhà Châu.

Móc mồi Nghiêm Lữ gieo từng chập,

Đón gió Cơ Liêm hứng một bầu.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGHIÊM MINH

嚴 明

Nghiêm: Gắt gao, chặt chẽ, riết róng. Minh: Công minh, sáng suốt.

Nghiêm minh là nghiêm ngặt rõ ràng, tức giữ chặt chẽ nhưng công minh, sáng suốt.

Pháp luật nghiêm minh là pháp luật gắt gao nhưng rất công bằng và sáng suốt.

Như: Thưởng phạt nghiêm minh.

Nghiêm minh Thiên Đạo luật hình chung,

Có tội thì răn chớ lạ lùng.

(Thơ Thuần Đức).

Tinh thần tu niệm gìn phong cách,

Luật pháp nghiêm minh giữ đạo hằng.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

NGHIÊM NGHỊ

嚴 毅

Nghiêm: Chặt chẽ khó dung. Nghị: Cương quyết.

Nghiêm nghị là nghiêm trang và quả quyết.

Thánh giáo Chơn Cực Lão Sư có câu: Ðược, nhưng còn sơ sót, món nào liệu chẳng có ích thì nên chế giảm, trừ ra Nhạc phải giữ cho toàn, đi lễ cho có vẻ nghiêm nghị. Ấy là 2 món đại khái đó.

Chín tầng cửa đóng then cài,

Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHIÊM NHẶT

Nghiêm: Gắt gao.

Nghiêm nhặt, như chữ “Nghiêm ngặt”, là yêu cầu hết sức chặt chẽ, gắt gao với tính chất công việc.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đền Vua của Ngài “Palais Louis XIV” quân lính canh từng bảy vòng, cấm cái chết vô trong Hoàng Gia của Ngài mà không đặng, chết cả con cháu của Ngài cho đến nỗi gần hết trong Hoàng Gia. Rốt chuyện Ngài truyền ngôi báu lại cho đứa cháu nội mà thôi. Ngài than rằng: Hại thay! Hoàng Thành của ta mấy vòng canh nghiêm nhặt mà không cản được cái chết đến nhà ta.

Luật lệ ấy phải xem xét một cách nghiêm nhặt, coi phải có ích cho nhơn sanh chăng.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

NGHIÊM PHỤ

嚴 父

Nghiêm: Chỉ người cha. Phụ: Cha.

Nghiêm phụ, cũng như “Nghiêm đường 嚴 堂”, “Nghiêm quân 嚴 君”, dùng để chỉ người cha.

Năm xưa nghiêm phụ biệt gia đình,

Nương chuyến về Tiên tránh thoát sinh.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

NGHIÊM TỊNH

嚴 浄

Nghiêm: Đoan trang, chặt chẽ. Tịnh: Trong sạch.

Nghiêm tịnh là trang nghiêm và thanh tịnh, ý chỉ giữ đàn lễ cho nghiêm và thanh tịnh.

Như: Vào đàn cúng mọi người phải giữ nghiêm tịnh.

Xin chỉnh đàn cho nghiêm tịnh đặng tiếp rước Đức Lý Giáo Tông.

(Bát Đạo Nghị Định).

 

 

NGHIÊM THIẾT

嚴 設

Nghiêm: Trang nghiêm, đoan trang. Thiết: Sắp đặt.

Nghiêm thiết ý nói sắp đặt đàn cúng tế một cách trang nghiêm.

Chư Thiên phong nghiêm thiết Đàn tràng: Hương, đăng, hoa, trà, quả, thanh chước chi nghi thành tâm hiến lễ.

(Sớ Văn).

 

 

NGHIÊM TRANG

嚴 裝

Nghiêm: gắt gao, chặt chẽ. Trang: Trau dồi, sửa sang.

Nghiêm trang là sửa sang tô điểm cho được nghiêm chỉnh, tức là đoan chính, không lả lơi khiến người ta phải kính trọng, nể vì. Như: Vẻ mặt nghiêm trang.

Cổ Thi có câu: Kê minh ngoại dục thự, tân phụ khởi nghiêm trang 雞 鳴 外 欲 曙, 新 婦 起 嚴 裝, nghĩa là gà gáy trời gần sáng, dâu mới dậy nghiêm trang.

Khi tế tự chớ lờn chớ dể,

Việc quan, hôn thủ lễ nghiêm trang.

(Kinh Sám Hối).

Dạy đi đứng nghiêm trang bộ tịch,

Dạy nói năng cho lịch cho ngoan.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHIÊM TRỊ

嚴 治

Nghiêm: Gắt gao, chặt chẽ. Trị: Trừng phạt.

Nghiêm trị là trừng phạt một cách nghiêm khắc.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Bát Nương Diêu Trì Cung có dạy: Chị ước mong cả Thánh thể và toàn con cái Chí Tôn biết tự hối sửa mình cho xứng phận để khỏi phụ lòng của Chí Tôn và tránh khỏi luật nghiêm trị của Lý Đại Tiên.

Thương không nghiêm trị là thương dối,

Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.

(Đạo Sử).

 

 

NGHIÊM TRỌNG

嚴 重

Nghiêm: Quá, lắm. Trọng: Nặng.

Nghiêm trọng là khẩn cấp và quan hệ lắm. Như: Tình hình rất nghiêm trọng.

Đức Hộ Pháp trong Thuyết Đạo có câu: Bần Đạo xin để lời kiếu lỗi, và cho phép Bần Đạo nói chuyện cùng các con cái của Bần Đạo tức nhiên cùng các chiến sĩ trong giờ phút nghiêm trọng này.

Mặc dầu phận sự quá nhọc nhằn, việc nước đa đoan, trong khi tình trạng quốc gia đương hồi nghiêm trọng...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGHIÊM TRỪNG

嚴 懲

Nghiêm: Gắt gao, chặt chẽ. Trừng: Phạt.

Nghiêm trừng, cùng nghĩa với “Nghiêm trị 嚴 治”, là trừng trị một cách gắt gao, nghiêm khắc.

Như: Hễ con cái trong nhà có lỗi thì cha tôi gọi đến nghiêm trừng ngay.

Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,

nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.

(Kinh Sám Hối).

 

 

NGHIỄM NHIÊN

儼 然

Nghiễm: Trang nghiêm. Nhiên: Một chữ đệm.

Nghiễm nhiên là trang nghiêm. Nghiễm nhiên còn có nghĩa là tự nhiên, hay tình cờ.

Như: Anh ấy thừa hưởng sự nghiệp của người anh, nghiễm nhiên trở thành người giàu có.

Giờ này chư quý vị đã nghiễm nhiên là chức sắc Ban Thế Ðạo Toà Thánh Tây Ninh, lẽ dĩ nhiên là quý vị đã có ít nhiều nhiệm vụ đối với Ðạo.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

NGHIÊN

Nghiên là đồ dùng để mài mực hoặc son để viết chữ. Như: Nghiên đá, nghiên mực, bút nghiên.

Ca dao có câu: Chẳng ham ruộng cả ao liền, Chỉ ham cái bút, cái nghiên anh đồ.

Ðứa cầm dùi đục, thằng nghiên mực,

Cậu bận áo nâu, chú khố hồng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGHIÊN BÚT

Nghiên (do chữ nghiễn 硯): Cái nghiên mài mực. Bút: Cây viết.

Nghiên bút, như chữ “Nghiễn bút 硯 筆”, là cái nghiên mực và cây viết.

Nghiên bút còn dùng để chỉ sự nghiên cứu, học tập, sáng tác thi văn...

Trúc mai cảm nghĩa thương đồng điệu,

Nghiên bút mến tình chúc vạn an.

(Thơ Chơn Tâm).

Dẫu cho bận bịu vòng nghiên bút,

Cũng gắng trau tria chữ nghĩa tình.

(Thơ Hàn Sinh).

Hoa tiên trải đợi tình nghiên bút,

Cầm nguyệt rao chờ nghĩa trúc tơ.

(Thơ Hồng Ân).

 

 

NGHIÊN CỨU

研 究

Nghiên: Tìm tòi. Cứu: Tra xét.

Nghiên cứu là xem xét, tìm hiểu kỹ lưỡng để nắm vững vấn đề, giải quyết vấn đề hay để rút ra những hiểu biết mới. Như: Nghiên cứu khoa học.

Nói về Đức Khổng Tử, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Lúc Ngài được 29 tuổi nhờ Lỗ Hầu giúp cho xe ngựa và tiền lộ phí nên Ngài cùng một ít môn đệ sang qua Lạc Ấp là kinh sư nhà Châu để khảo cứu và xem xét những chế độ nơi miếu đường và nơi nào có việc gì quan hệ đến sự tế lễ là Ngài đến nghiên cứu.

Ta để tâm nghiên cứu coi cái phong hoá của đệ nhị chủ quyền nắm đó ra thế nào?

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

NGHIỀN

1.- Nghiền là tán vụn, tán nhỏ ra.

Như: Nghiền thức ăn cho gia súc, nghiền đậu và gạo lứt thành bột dinh dưỡng.

Nấu trách canh đổ nước nổi thuyền,

Kho trã mắm nát nghiền xương cá.

(Phương Tu Đại Đạo).

Nghiền xương trộn cát tô then cửa,

Nặng máu hoà vôi quét vách nhà.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Nghiền là đọc kỹ, học hỏi, tìm tòi, và suy nghĩ cho tinh, cho thông.

Như: Làm bài toán phải nghiền ngẫm một lúc, nghiền sách vở, nghiền môn toán.

Lâng lâng tách khỏi vòng cương toả,

Chân lý nghiền suy giác ngộ lần.

(Thơ Huệ Ngàn).

 

 

NGHIỀN NGẪM

Nghiền: Tán vụn ra, ham mê, miệt mài. Ngẫm: Nghĩ đi nghĩ lại cho thật kỹ.

Nghiền ngẫm là suy nghĩ lâu và kỹ càng, trở đi trở lại nhiều lần để tìm tòi, hiểu biết cho thấu đáo.

Như: Nghiền ngẫm từng câu từng chữ, nghiền ngẫm về dịch lý.

Bốn phương tràn ngập sắc hương xuân,

Nghiền ngẫm mà xem cuộc chuyển vần.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGHIÊNG

1.- Nghiêng là lệch về một bên, không ngay, tức lệch so với chiều thẳng đứng hoặc với mặt phẳng nằm ngang.

Như: Bóng trời nghiêng, viết chữ nghiêng.

Chờ trưa e nỗi bóng Trời nghiêng,

Lỡ bước e đưa chẳng gặp thuyền.

(Đạo Sử).

2.- Nghiêng còn có nghĩa làm cho nghiêng về một bên. Như: Nghiêng đầu, nghiêng vai...

Thánh giáo Thầy có câu: Ngày nay đã mất hết một người môn đệ của Thầy, lại là một đạo hữu của các con, đã cùng các con nghiêng vai gánh vác một trách nhậm trong Ðại Ðạo Tam Kỳ.

Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,

Dinh đảo nghiêng tai Thánh khảy đờn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGHIÊNG ĐỔ

Nghiêng: Lệch về một bên, xiêu đổ. Đổ: Ngã xuống, rớt, bỏ, vứt đi.

Nghiêng đổ là nghiêng và ngả đổ xuống.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Chỉ tranh quyền lợi mà nhơn loại đã tương tàn tương sát với nhau, chúng ta lấy theo tâm lý của loài người mà luận thì chưa có buổi nào mà trình độ tâm hồn của nhơn loại đã nghiêng đổ thái quá như buổi hôm nay.

Sá chi giống hoa tường liễu ngõ,

Hại nghiệp nhà nghiêng đổ như chơi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHIÊNG MÌNH

Nghiêng: Lệch về một bên, không ngay. Mình: Thân thể người ta.

Nghiêng mình là cúi mình để tỏ lòng kính phục.

Nghiêng mình còn có nghĩa là cúi đầu tưởng niệm người đã khuất.

Như: Xin nghiêng mình cảm phục bạn, nghiêng mình tưởng niệm trước đài liệt sĩ.

Khô rồi xe thoát đến Trời vàng,

Bên mặt nghiêng mình mới hỏi han.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

NGHIÊNG NGỬA

Nghiêng: Lệch về một bên, xiêu đổ. Ngửa: Bật ngửa, té ngửa.

Nghiêng ngửa là không vững, ở trạng thái nghiêng qua ngả lại, hoặc chỉ sự xiêu đổ.

Nghiêng ngửa thường dùng để ví với cảnh điêu đứng. Như: Cuộc đời nghiêng ngửa.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Ôi! Tấc bóng quang âm nhặt thúc, mà xem lại tâm hạnh của mỗi con của Thầy thì nét Ðạo vẫn kém hơn, đức chưa thêm được, tâm chí mòn mỏi lối đường ngay mà nấu nung về nẻo vạy, e cho nền tảng thiêng liêng đồ sộ phải nghiêng ngửa.

Bể khổ mênh mang lo giải khổ,

Nền công nghiêng ngửa gắng nên công.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Gióng dây lìa nhạn sầu nghiêng ngửa,

Dở ngón rơi loan thảm chập chồng.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGHIÊNG SỤP

Nghiêng: Lệch về một bên so với chiều thẳng đứng. Sụp: Sập, bị đổ xuống.

Nghiêng sụp là nghiêng triềng và sụp đổ, ý chỉ không đứng vững mà bị sập đổ xuống.

Như: Nhà nghiêng sụp, nền Đạo nghiêng sụp.

Tuy nền Đạo mấy lần nghiêng sụp,

Bát nhã còn ẩn núp bến trần.

(Xuân Hương Giáng Bút).

 

 

NGHIÊNG TRIỀNG

Nghiêng: Lệch về một bên so với chiều thẳng đứng. Triềng (hay trành): Nghiêng hẳn về một bên, mất thăng bằng (thường nói về thuyền bè).

Nghiêng triềng là rất nghiêng, tức nghiêng và lệch hẳn về một bên.

Như: Dựng cây cột nghiêng triềng.

Nghiêng triềng hiếu nghĩa gánh đôi vai,

Phải xử cân phân nết gái tài.

(Đạo Sử).

 

 

NGHIÊNG VAI

Nghiêng: Lệch về một bên, không ngay. Vai: Bộ phận ở hai bên cổ, nối liền thân với cánh tay.

1.- Nghiêng vai là vai lệch một bên vì gánh nặng. Như: Gánh nặng nên phải nghiêng vai đi một mạch.

Ðồ thơ oằn oại gánh nghiêng vai,

Mặc khách làng văn nhọc chớ nài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Nghiêng vai còn có thể hiểu là tham dự vào để lãnh trách nhiệm.

Thánh giáo Thầy có dạy: Ngày nay đã mất hết một người môn đệ của Thầy, lại là một đạo hữu của các con, đã cùng các con nghiêng vai gánh vác một trách nhậm trong Ðại Ðạo Tam Kỳ.

Những kẻ chí sĩ lãnh trách nhậm nghiêng vai gánh vác cả non sông đều làm phận sự.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGHIỆP

1.- Nghiệp là nói chung về những của cải, ruộng đất của một người hay một nhà.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ngọn lửa chiến tranh thảm khốc đã bao trùm khắp đất nước, đã lan tràn từ thành thị đến thôn quê gây nên cảnh chết chóc tang thương, nhà tan nghiệp nát.

Sắm nghiệp trần gian còn phải khó,

Lựa là nghi trưởng tại Bồng Sơn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Nghiệp là công nghiệp dài lâu và hiển hách của một đời người.

Thánh giáo Thầy có câu: Con ôi! Thầy thấy con đau thảm bấy nhiêu, một phen lầm lỗi lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm. Con coi đó mà coi, Thầy thương con là bao nhiêu?

Vào cung Vạn Pháp xem qua,

Cho tường cựu nghiệp mấy toà Thiên nhiên,

(Kinh Tận Độ).

Tâm thành có thuở nghiệp nhà nên,

Ðạo đức khuyên con cứ giữ bền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Nghiệp là cái nghề chuyên làm để sinh nhai. Như: Nghề nghiệp, nông nghiệp, an cư lạc nghiệp.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thần Hoàng Bổn Cảnh có câu: Từ thuở ta vâng chiếu chỉ đến trấn nhậm nơi đây, ta một tấm lòng lo cho lê thứ đặng an cư lạc nghiệp, thạnh vượng mùa màng, mỗi mỗi đều hằng lo lắng cho chúng sanh nơi phần trách nhậm.

Nêu danh trí sĩ nhà quan nghiệp,

Có thuở ơn ban nghiệp sách đèn.

(Đạo Sử).

Hàng ngày kiếm kiểu hay mới lạ,

Dục cho chồng nghề khá nghiệp hay.

(Phương Tu Đại Đạo).

4.- Nghiệp là cái tự mình gây ra làm cái nhân để sau chịu lấy quả báo. Như: Nghiệp báo, nghiệp quả.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Cứ nghiệp trước tàn, nghiệp sau nối kế tiếp không ngừng, đó là do nơi tâm tạo. Vì tâm động là phát ra tư tưởng, có tư tưởng rồi mới có nói và làm theo.

Lắm kẻ còn xuân chẳng tiếc xuân,

Tạo thành nghiệp dữ biết bao lần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGHIỆP BÁO

業 報

Nghiệp: Điều tự mình tạo ra lúc sinh tiền hay trong đời quá khứ làm cái nhân để sau chịu quả. Báo: Trả lại.

Nghiệp báo tức là do mình làm ra nghiệp (lành, dữ) thì sẽ nhận được quả báo (lành dữ).

Như: Hắn gây việc hung dữ thì nhận chịu nghiệp báo ở kiếp sau.

Ðời nên lánh cho xa nghiệp báo,

Ðời phải tầm chơn Ðạo tu thân,

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Dạy em đừng chồng một vợ ba,

Dạy cho hiểu nguyệt hoa là nghiệp báo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHIỆP CẢ

Nghiệp: Sự nghiệp, nghề nghiệp, tài sản. Cả: Lớn.

Nghiệp cả là sự nghiệp to tát.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Biết thương yêu nhau thì nhiệm vụ của mỗi người được thực thi dễ dàng, vì trên thương dưới, dưới kỉnh trên, nếu có lỗi thì thành thật chỉ bảo cho nhau, đỡ nâng nhau như tình thủ túc, xúm nhau vun bồi nghiệp cả thì tưởng lại cái hạnh phúc của người tu trong cửa Ðại Ðạo không còn hạnh phúc nào sánh kịp.

Suy thời dầu quý cũng ra hèn,

Nghiệp cả khuyên con lửa nhúm nhen.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phụng gáy núi Kỳ nên nghiệp cả,

Gà bươi nền hạnh ngã non cao.

(Thơ Cao Liên Tử).

 

 

NGHIỆP CĂN

業 根

Nghiệp: Những cái gì do mình tạo ra. Căn: Gốc rễ.

Nghiệp căn là cái gốc rễ tạo thành nghiệp, do gốc rễ của hành vi thiện ác trước mà kiếp sống hiện tại con người phải thọ lãnh, nếu kiếp trước làm những điều thiện, thì tạo căn lành cho kiếp sống hiện tại, nếu bây giờ ta làm những việc ác, thì tạo ác căn cho kiếp lai sinh.

Như vậy, căn hay cái gốc rễ tạo thành cái nghiệp cho con người, vì thế người ta thường gọi nghiệp căn.

Hung hoang tội báo nghiệt căn,

Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.

(Kinh Sám Hối).

Tiền khiên đã mãn nghiệp căn xưa,

Phải biết ăn năn chiếm thượng thừa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Từ bi hứng giọt nhành dương,

Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHIỆP CHƯỚNG

業 障

Nghiệp: Điều do mình gây nên làm thành cái nhân để sau nhận lấy quả. Chướng: Làm trở ngại.

Việc ác gây ra từ kiếp trước tạo thành nghiệp báo làm chướng ngại cho kiếp sau này.

Trong Di Lạc Chơn Kinh có câu: Tri khổ nghiệp chướng luân chuyển hoá sanh 知 苦 業 障 輪 轉 化 生, nghĩa là biết rõ sự khổ não do nghiệp chướng gây nên, luân hồi chuyển kiếp mà hoá sanh ra.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Thường người ta chỉ lo tìm kiếm những điều ở ngoài mình, chớ không tìm kiếm những cái ở trong con người của mình, thế nên dây oan kết mãi, nghiệp chướng càng mang, biết chừng nào mới tỉnh ngộ đặng phản bổn huờn nguyên.

Mấy mối oan gia còn trước mắt,

Chẳng ghê nghiệp chướng kiếp mình sau.

(Đạo Sử).

Tức thì bờ giác cận kề,

Tức nhiên nghiệp chướng lầm mê chẳng còn.

(Thơ Hộ Pháp).

Oan khiên ví biết đời là mộng,

Nghiệp chướng xa dần Đạo ấy xuân.

(Cao Tiếp Đạo).

 

 

NGHIỆP DUYÊN

業 緣

Nghiệp: Tiếng nhà Phật, chỉ con đường đi từ nhân tới quả. Duyên: Mối dây ràng buộc vô hình từ kiếp trước.

Nghiệp duyên chỉ mối nhân quả do kiếp trước để lại báo ứng cho kiếp sau này.

Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Cuộc biến chuyển nơi Miên Quốc là cái nạn chung của đồng bào Việt Kiều nơi đó, cũng như cuộc chiến tranh tàn khốc trên đất nước Việt Nam trong hai mươi năm nay, là cái hoạ vô thường của nòi giống Hồng Lạc chúng ta cùng chung chịu một hoàn cảnh bi đát như nhau, nếu có khác nhau chăng là do nghiệp duyên cá nhân người chịu nhiều, kẻ chịu ít mà thôi.

Phật tâm độ chúng tiêu oan trái,

Mẫu hoá quần sanh định nghiệp duyên.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Trả vay vay trả liền liền,

Nhơn nào quả nấy, nghiệp duyên buộc mình.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGHIỆP HỒNG

業 洪

Nghiệp: Sự nghiệp. Hồng: To lớn.

Nghiệp hồng, hay “Hồng nghiệp 洪 業”, là sự nghiệp to lớn, sự nghiệp vĩ đại.

Nghiệp hồng vận tử hồi môn,

Chí Công định vị vĩnh tồn Thiên cung.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

NGHIỆP KHIÊN

業 愆

Nghiệp: Điều mà một người gây ra ở kiếp nầy, tạo thành nhân để kiếp sau phải trả. Khiên: Tội lỗi, lỗi lầm.

Nghiệp khiên là những tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống trước của con người đã tạo thành cái nghiệp để kiếp nầy phải lãnh.

Thượng nhơn sanh trần tục xuống miền,

Thâu chúng đệ nghiệp khiên mang tội chướng.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

 

 

NGHIỆP NHÀ VONG PHẾ

Nghiệp nhà: Sự nghiệp trong gia đình. Vong phế: Bỏ cho tiêu mất.

Nghiệp nhà vong phế là làm cho sự nghiệp trong gia đình bị tiêu tan mất hết.

Ghen sợ nỗi nghiệp nhà vong phế,

Ghen sợ mê chẳng kể vợ con.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

NGHIỆP NHÂN

業 因

Nghiệp: Điều do mình gây nên làm thành cái nhân để sau nhận lấy quả. Nhân: Nguyên do, mầm mống.

Nghiệp nhân là cái nguyên nhân của nghiệp báo, tức là cái hạt hay mầm mống gây ra nghiệp.

Nếu tạo nên nhân hiền thì sinh ra thiện nghiệp, nếu là điều hung dữ thì sinh ra ác nghiệp.

Tiếng chuông giác ngộ tan lòng tục,

Giọt nước trừ oan rưới nghiệp nhân.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

NGHIỆP QUẢ

業 果

Nghiệp: Điều do mình gây nên làm thành cái nhân để sau nhận lấy quả. Quả: Trái, kết quả.

Nghiệp quả là cái kết quả của nghiệp báo, đó là cái trái được sanh ra do việc gây tạo nên nghiệp. Nếu làm điều hung dữ thì tạo ra ác nghiệp, nếu làm điều đạo đức thì tạo ra thiện nghiệp.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung dạy: Còn nói về nghiệp quả thì phải chịu nợ của kẻ đã phải hy sinh kiếp sống, ấy là sự nhờ vả lẫn nhau trên đường sanh nghiệp.

Tách bến sông mê sóng tạt thuyền,

Lọc lừa nghiệp quả kẻ may duyên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trả rồi nghiệp quả chốn dương trần,

Thượng Thiện Phối Sư hết nhọc thân.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

NGHIỆT

Nghiệt là mầm mống. Như: Ác nghiệt, căn nghiệt, oan nghiệt, nghiệt chướng.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Các con làm tội lỗi bao nhiêu, oan nghiệt bấy nhiêu, Thầy đều lãnh hết.

Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,

Cướp giựt rồi chém giết mạng người.

(Kinh Sám Hối).

Cương toả đương thời đã giải vây,

Ðừng mơ oan nghiệt một đời nầy.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGHIỆT ÁC

Nghiệt: Mầm ác, hung dữ, ác độc. Ác: Dữ, trái với thiện, nghịch đạo lý.

Nghiệt ác, do chữ “Ác nghiệt 惡 孽”, là độc ác và cay nghiệt, tức là rất hung dữ, rất ác độc.

Như: Đối xử ác nghiệt.

Xem: Ác nghiệt.

Làm lành thì chẳng mấy ai,

Những tay nghiệt ác tà tây lại nhiều.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

NGHIỆT BÁO

孽 報

Nghiệt: Mầm ác, hung dữ. Báo: Đáp trả, đền lại.

Nghiệt báo là do cái mầm ác nghiệt gây ra từ kiếp trước, mà ngày nay ta phải đền trả bằng những tai hoạ, bệnh tật hay khổ đau.

Làm cho chồng vợ lìa xa,

Cả đời nghiệt báo oan gia chẳng rời.

(Kinh Sám Hối).

Oan khiên lưu lại bao năm trước,

Nghiệt báo roi truyền mấy kiếp sau.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

NGHIỆT CẢNH

孽 鏡

Nghiệt: Mầm ác. Cảnh (Kính): Tấm gương soi.

Nghiệt cảnh là tấm gương soi căn nghiệt.

Toà Nghiệt cảnh hay Đài Nghiệt cảnh là nơi ở cõi thiêng liêng, có đặt một tấm kính huyền diệu dùng để soi lại những hành vi thiện ác của con người trong kiếp trước.

Các chơn hồn khi đứng trước Toà Nghiệt cảnh hay Đài nghiệt cảnh đều hiện ra những việc lành dữ của mình trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần để định phân tội phước mà quyết định chơn hồn đó sẽ được thăng hay đoạ.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ðài Nghiệt cảnh rọi chẳng biết bao nhiêu tội tình, mà chốn tội tình lắm người đưa chân tìm đến.

Ai giữ trọn bực phẩm thì đặng Toà Nghiệt cảnh tương công chiết tội, để vào địa vị cao hơn chốn Ðịa cầu 68 nầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

NGHIỆT CẢNH ĐÀI

孽 鏡 臺

Hay “Nghiệt đài”.

Nghiệt: Mầm ác, ác nghiệp. Cảnh (kính): Tấm gương. Đài: Cái đài cao.

Nghiệt cảnh đài hay “Nghiệt đài 孽 臺” là một cái đài, trong ấy có một tấm kiếng mầu nhiệm để soi hành vi những tội hồn khi còn trên dương thế gây những điều tàn ác.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn dạy về tội tà dâm có đoạn như sau: Vì vậy, một giọt máu là một khối chơn linh. Như các con dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy.

Khi các con thoát xác, thì nó đến tại Nghiệt Cảnh Ðài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội đặng. Phải giữ gìn Giới Cấm ấy cho lắm.

1.- Nghiệt Cảnh đài:

Công bình thưởng phạt không sai chạy,

Nghiệt Cảnh đài linh rọi sáng ngần.

(Thơ Ngọc Hiền).

2.- Nghiệt đài:

Đường hung ác, nẻo chông gai,

Lấn chen vào chốn nghiệt đài gọi ngoan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Bao đành sớm tách miền Tiên cảnh,

Nỡ để nhơn sanh chốn Nghiệt đài.

(Thơ Thượng Trí Thanh).

 

 

NGHIỆT CĂN

孽 根

Nghiệt: Mầm ác, hung dữ, ác độc. Căn: Gốc rễ.

Nghiệt căn là cái gốc rễ của nghiệp ác, tức những việc hung ác gây ra từ kiếp trước (nghiệt) làm gốc rễ (căn) của các tai hoạ xảy đến trong kiếp này.

Gần điều nên, lánh lẽ hư,

Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.

(Kinh Thế Đạo).

Hung hoang tội báo nghiệt căn,

Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.

(Kinh Sám Hối).

Từ bi hứng giọt nhành dương,

Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

NGHIỆT CHƯỚNG

孽 障

Nghiệt: Gây tai hoạ, mầm ác, mầm xấu. Chướng: Làm trở ngại.

Nghiệt chướng là những mầm ác, nghiệp xấu gây chướng ngại cho cuộc sống và việc tu hành của con người, tức là sự ngăn trở của các nghiệp ác.

Dầu nghiệt chướng số căn quả báo,

Đừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.

(Kinh Tận Độ).

Gươm huệ chặt rời dây nghiệt chướng,

Bầu linh chất chứa lớp sầu than.

(Bát Nương Giáng Bút).

Quay về chung sống tang thương dứt,

Hướng đến hoà bình nghiệt chướng tiêu.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGHIỆT OAN

孽 冤

Nghiệt: Mầm ác, nghiệp ác. Oan: Thù giận.

Nghiệt oan, như chữ “Oan nghiệt”, là những thù giận do mình gây ra những điều ác trong cuộc sống nầy hay trước, sẽ tạo thành ác nghiệp báo ứng lại trong kiếp sống hiện tại.

Nghiệt oan báo đáp cho con người xảy ra thường là những hoạn nạn đau khổ, hay bịnh tật không thuốc nào chữa trị đặng.

Lánh nơi tranh đấu giựt giành,

Nghiệt oan khỏi vướng thân danh vẹn phần.

(Lục Nương Giáng Bút).

Võ lực gây bao tang tóc lại,

Nhuộm màu hoà giải nghiệt oan tiêu.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGHIỆT TRÁI

孽 債

Nghiệt: Mầm ác, ác nghiệp. Trái: Nợ nần.

Nghiệt trái là cái nợ hung ác.

Kiếp trước gây những điều tội lỗi, hung ác, làm thành cái mầm xấu tạo nên mối nợ để hiện kiếp phải trả, đó gọi là “Nghiệt trái”.

Nghiệt trái khuyến quân tu tuyệt tận,

Thiên đình hữu lộ dĩ khai môn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGHIỆT TRẦN

孽 塵

Nghiệt: Mầm ác, ác nghiệp. Trần: Cõi trần.

Nghiệt trần là oan nghiệt nơi cõi trần, tức là những mầm độc ác mà con người gây tạo lúc sống ở cõi trần.

Như: Nếu tu hành chân chính thì có thể làm giảm bớt nghiệt trần.

Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,

Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.

(Tán Tụng Công Đức).

Tiếng chuông giác thế tan lòng tục,

Giọt nước trừ oan dứt nghiệt trần.

(Thơ Phạm Mộc Bổn).

 

 

NGHIÊU

Nghiêu là vị vua trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, được các nhà Nho coi là mẫu mực, đã theo được đạo trời mà trị dân.

Theo sách Thông Chí: Nghiêu họ Doãn, con vua Đế Hiệu, được phong ở đất Đào, nên lấy họ là Đào Đường thị, hiệu là Đường Nghiêu. Nghiêu là ông vua có lòng nhơn đức, coi sự đau khổ, đói rét của nhân dân là do chính mình tạo ra, nên thường hết lòng với chính sự.

Nhơ thế, trong thời vua Nghiêu cầm quyền đất nước được hưng thịnh, nhân dân được thái bình.

Trời Nghiêu đổi lại miền Nam Việt,

Đất Thuấn phục hồi cõi Á Đông.

(Thơ Thông Quang).

 

 

NGHIÊU ĐẾ CẦU HIỀN

堯 帝 求 賢

Nghiêu đế: Vua Nghiêu, một vị Thánh vương Trung Quốc đời Thượng cổ. Cầu hiền: Tìm kiếm bậc hiền tài.

Nghiêu đế cầu hiền tức là vua Nghiêu, một vị Thánh vương không muốn truyền ngôi báu cho con, mà đi tìm người hiền để truyền lại ngôi báu.

Xưa kia Nghiêu Ðế cầu hiền,

Bao phen khó nhọc mà truyền kế ngôi.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

NGHIÊU THIÊN THUẤN NHẬT

堯 天 舜 日

Nghiêu Thuấn: Hai vị vua trong đời Thượng cổ, đất nước được thái bình, thịnh trị. Thiên nhật (nhựt): ý chỉ ngày tháng.

Nghiêu thiên Thuấn nhựt là ngày Nghiêu tháng Thuấn, ý chỉ đời thái bình, thịnh trị như thời của vua Nghiêu và vua Thuấn.

Xem: Nghiêu Thuấn.

Nho Giáo Nghiêu thiên Thuấn nhựt roi,

Trải qua Mạnh Tử đã sai đời.

(Thơ Thông Quang).

 

 

NGHIÊU THUẤN

堯 舜

Vua Nghiêu và vua Thuấn là hai vị vua thời thượng cổ của nước Trung Hoa, sau Phục Hy, Thần Nông và Huỳnh Đế, rất nhân từ minh chánh.

Dưới thời của hai vua Nghiêu, Thuấn, thiên hạ thái bình, đất nước thạnh trị, nhân dân no ấm, người không tham lam, nên trong thời đó “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di” 家 無 閉 戶, 路 不 拾 遺, tức là nhà không đóng cửa, lộ chẳng lượm của rơi. Vì vậy đời sau mới gọi thời ấy là: Nghiêu thiên Thuấn nhựt.

Trông thời Nghiêu Thuấn dễ chi trông,

Nên mặc ai chưa biết gã Tòng.

(Đạo Sử).

Nghe danh ông Tắc, Y lìa ruộng,

Mến đức vua Nghiêu,Thuấn bỏ cày.

(Bát Nương Giáng Bút).

Khải ca lập lại đời Nghiêu Thuấn,

Vạn loại đồng tông đức thắng tài.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

NGHÌN

1.- Nghìn, còn đọc là “ngàn”, số đếm, bằng mười trăm, còn đùng để chỉ số nhiều.

Như: Hai nghìn đồng, bốn nghìn năm văn hiến, muôn nghìn cảm kích.

Văn Hiến bốn ngàn năm có sẵn,

Chi cần dị chủng đến dâng công.

(Đạo Sử).

2.- Nghìn hay ngàn còn dùng để chỉ một số lượng rất lớn, không xác định. Như: Nước non nghìn dặm, đáng giá nghìn vàng.

Thánh giáo Thầy có câu: Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn năm, muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.

Lòng thành một tấm Trời soi xét,

Gương rạng nghìn thu nguyệt chiếu minh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

NGHINH

Nghinh, như chữ “Nghênh 迎”, là đón, tiếp rước.

Như: Nghinh xuân tiếp phước, làm lễ nghinh hôn, ra trận nghinh địch, hoan nghinh tinh thần tự nguyện.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy: Dầu cho sắt đá cỏ cây, mà nghe đến Thánh Ngôn nơi Thầy do con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người.

Xem: Nghênh.

Thiên Quân diêu động linh phan,

Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.

(Kinh Tận Độ).

 

 

NGHINH HÔN

迎 婚

Nghinh: Rước. Hôn: Lấy vợ.

Nghinh hôn, như chữ “Thân nghinh 親 迎”, là một lễ trong hôn lễ, tức là lễ rước dâu.

Như: Hôm nay họ nhà trai làm lễ nghinh hôn.

Bông trao sính lễ mai vàng rực,

Pháo nổ nghinh hôn tiếng nhặt lơi.

(Thơ Hoàn Nguyên).

Chén rượu nghinh hôn còn đợi khách,

Câu thi thù tạc vẫn chờ ghi.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

NGHINH NGANG

Nghinh (nghênh): Nhìn với ý muốn gây gổ. Ngang: Ngang tàng.

Nghinh ngang, như chữ “Nghênh ngang”, là ngang tàng, phách lối, không kiêng sợ ai.

Nghinh ngang còn có nghĩa là lộn xộn, không có thứ lớp, mất trật tự.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thầy có câu: Đã gọi là Quốc Đạo mà sự hành chánh chẳng phân minh, người Đạo chẳng tùng theo một Luật, tự tung tự liệu, tự tác tự quyền. Ôi! Nghinh ngang nào tưởng trên đầu có ai? Thế thì tôn chỉ Đạo Trời thế nào Đạo mong hiệp nhứt.

Gìn dạ nhớ chồng là chúa vợ,

Ðừng lời phạm thượng thói nghinh ngang.

(Đạo Sử).

Trường xuân quạnh quẽ đưa ngưu đẩu,

Nẻo hoạn nghinh ngang điểm bạch đầu.

(Quyền Giáo Tông Giáng).

 

 

NGHINH PHONG

迎 風

Nghinh: Đón, tiếp rước. Phong: Gió.

Nghinh phong là đón gió. Toà nghinh phong hay nghinh phong các là gác, ngôi nhà để hứng gió mát.

Lung linh giải ánh trăng ngà,

Đây lầu Vọng nguyệt đây toà nghinh phong.

(Phù Kiều Hận Sử).

Mở lòng sẵn dựng nghinh phong các,

Mỏi mắt thêm buồn vọng nguyệt lâu.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

NGHINH PHONG ĐÀI

迎 風 臺

Nghinh: Đón, tiếp rước. Phong: Gió. Đài: Cái đài.

Nghinh Phong Đài là một cái đài được xây trên nóc Toà Thánh, nhô lên nằm ở giữa Cửu Trùng Đài.

Tầng dưới của Nghinh Phong Đài là một hình vuông, tầng trên là một hình tròn. Nóc Nghinh Phong Đài là một bán cầu úp xuống, trên có vẽ bức đồ Ngũ châu và Ngũ Đại dương, để tượng trưng cho địa cầu của nhơn loại. Trên bán cầu nầy có đắp hình một con Long mã trên lưng có mang bức Hà đồ. Long mã cất vó chạy về hướng Tây, nhưng đầu lại quay về hướng Đông, ý chỉ Đạo xuất nơi hướng Đông và truyền qua hướng Tây, nhưng đầu quay lại Đông có nghĩa là cuối cùng Đạo cũng trở về Đông, vì hướng Đông là gốc của Đạo.

Bát Quái Đài sững cao vòi vọi,

Nghinh Phong Đài chan chói huyền cơ.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

NGHINH TÂN TỐNG CỰU

迎 新 送 舊

Nghinh tân: Đón tiếp những điều mới. Tống cựu: Đưa tiễn các cái cũ.

Nghinh tân tống cựu là đón tiếp những điều mới (năm mới) và đưa tiễn những cái cũ (năm cũ).

Ngày xưa, vào dịp cuối năm mỗi nhà đều dọn cỗ bàn để cùng nhau ăn uống, rồi mới thức suốt đêm trừ tịch để chờ đón năm mới và đưa tiễn năm cũ, gọi là “Nghinh tân tống cựu”.

Hồi trống nghinh tân rền Điện ngọc,

Tiếng chuông tống cựu dội cung vàng.

(Thơ Phạm Mộc Bổn).

 

 


 )
 )(
 __)_(__
 __(_____)__
(((_________)))
 )    ׀    (

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Danh mục vần NG-NGH

 

NGA

Nga

Nga Hoàng Nữ Anh

Nga my

Nga Nữ

 

NGÀ

Ngà

 

NGẢ

Ngả

Ngả ngớn

Ngả nghiêng

 

NGÃ

Ngã

Ngã chấp

Ngã gục

Ngã kiến

Ngã lòng

Ngã tướng

 

NGẠ

Ngạ quỷ

Ngạ quỷ vô thường

 

NGẠC

Ngạc kình

Ngạc nhiên

 

NGẠCH

Ngạch

 

NGAI

Ngai

Ngai Thần

Ngai vàng

 

NGÀI

Ngài Trầm

 

NGẢI

Ngải

 

NGÃI

Ngãi

 

NGẠI

Ngại

Ngại ngần

Ngại ngùng

 

NGAY

Ngay

Ngay chánh

Ngay thẳng

Ngay thật

 

NGÀY

Ngày

Ngày nay

Ngày Nghiêu tháng Thuấn

Ngày sau

Ngày tháng

Ngày xưa

 

NGÁN

Ngán

Ngán lòng

Ngán ngẩm

 

NGÀN

Ngàn

Ngàn cay muôn đắng

Ngàn dâu

Ngàn hồng muôn tía

Ngàn tứ muôn chung

Ngàn thu

Ngàn trùng

 

NGẠN

Ngạn uyển

 

NGANG

Ngang

Ngang dọc

Ngang tàng

 

NGẢNH

Ngảnh

Ngảnh lại

 

NGAO

Ngao

Ngao du

Ngao đầu

Ngao ngán

Ngao trụ

 

NGÀO

Ngào ngạt

Ngào ngọt

 

NGẠO

Ngạo

Ngạo báng

 

NGÁP

Ngáp

 

NGẠT

Ngạt

 

NGẮM

Ngắm

 

NGĂN

Ngăn

Ngăn cản

Ngăn cấm

Ngăn chống

Ngăn ngừa

Ngăn rào

Ngăn trở

 

NGẮN

Ngắn

Ngắn ngủi

Ngắn ngủn

 

NGẰN

Ngằn

 

NGẮT

Ngắt

 

NGẶT

Ngặt

Ngặt nghèo

 

NGÂY

Ngây

Ngây dại

Ngây ngô

 

NGÂM

Ngâm

Ngâm nga

Ngâm phong vịnh nguyệt

Ngâm vịnh

 

NGẬM

Ngậm

Ngậm cay nuốt đắng

Ngậm cơm ơn ngậm

Ngậm cơm vỗ bụng

Ngậm đau nuốt thảm

Ngậm đắng trêu cay

Ngậm miệng

Ngậm ngùi

Ngậm sầu nuốt thảm

Ngậm vành

 

NGÂN

Ngân

Ngân cầu

Ngân hà

Ngân hán

Ngân kiều

 

NGẦN

Ngần

Ngần ngại

 

NGẨN

Ngẩn

Ngẩn bút

Ngẩn ngơ

 

NGẬP

Ngập

Ngập ngừng

 

NGẤT

Ngất

Ngất ngưởng

 

NGẪU

Ngẫu nhiên

 

NGÓ

Ngó

Ngó Cực Lạc theo huờn Xá lợi

Ngó ngàng

 

NGỎ

Ngỏ

Ngỏ ý

 

NGÕ

Ngõ

Ngõ hầu

Ngõ hậu

Ngõ Khổng Trình

 

NGOAI

Ngoai

 

NGOÁI

Ngoái

 

NGOÀI

Ngoài

 

NGOẠI

Ngoại

Ngoại bang

Ngoài Càn khôn

Ngoại đạo

Ngoại giao

Ngoại giáo

Ngoại giáo Công truyền

Ngoại giới

Ngoại lân

Ngoại nghi

Ngoại quốc

Ngoại tình

Ngoại tộc nữ sanh

Ngoại tông nương phận

Ngoại vật

Ngoại xâm

 

NGOAN

Ngoan

Ngoan cố

Ngoan đạo

Ngoan ngạnh

 

NGOẠN

Ngoạn mục

Ngoạn tâm

 

NGOẢNH

Ngoảnh

 

NGOẠT

Ngoạt

 

NGỌC

Ngọc

Ngọc ấn

Ngọc các

Ngọc cát lầm

Ngọc cận hương thân

Ngọc cầu Lam

Ngọc cơ

Ngọc Cung

Ngọc đá

Ngọc Đế

Ngọc giai

Ngọc Hoà Lại Lễ

Ngọc Hoàng Thượng Đế

Ngọc Hoàng Kinh

Ngọc Hư Cung

Ngọc Kinh

Ngọc Lam điền

Ngọc lành đáng giá

Ngọc lành giá quý

Ngọc Lầu

Ngọc lìa Hiệp Phố

Ngọc Lịch Nguyệt

Ngọc mã kim đàng

Ngọc nát châu chìm

Ngọc nữ

Ngọc ngà

Ngọc ngà đạo đức

Ngọc thạch

Ngọc thốt

Ngọc vẩn châu trầm

 

NGOE

Ngoe

 

NGÒI

Ngòi

Ngòi bút

Ngòi văn

 

NGON

Ngon

Ngon ngọt

 

NGÓN

Ngón

 

NGỌN

Ngọn

Ngọn gió Các Đằng

Ngọn ngành

Ngọn nguồn

Ngọn rau tấc đất

 

NGÓNG

Ngóng

Ngóng trông

 

NGỌT

Ngọt

Ngọt bùi

Ngọt dịu

Ngọt ngào

Ngọt ngon

 

NGÔ

Ngô Đồng

Ngô Khởi

Ngô Mãnh

Ngô ông tức nhược

Ngô Tào

Ngô Thục Nguỵ

Ngô Văn Chiêu

 

NGỖ

Ngỗ ngang

Ngỗ nghịch

 

NGỘ

Ngộ

Ngộ kiếp

Ngộ kỳ Phật duyên

 

NGÔI

Ngôi

Ngôi báu

Ngôi cao phẩm quý

Ngôi linh

Ngôi phẩm

Ngôi Tiên

Ngôi Thái Cực

Ngôi Thần

Ngôi Thiên

Ngôi thứ

Ngôi vị

Ngôi xưa

 

NGỒI

Ngồi

Ngồi lê đôi mách

 

NGÔN

Ngôn

Ngôn luận

Ngôn ngữ

Ngôn từ

 

NGỔN

Ngổn ngang

 

NGÔNG

Ngông cuồng

 

NGỖNG

Ngỗng

 

NGỘP

Ngộp

Ngột ngạt

 

NGƠ

Ngơ

Ngơ ngáo

Ngơ ngẩn

Ngơ ngơ ngáo ngáo

 

NGỜ

Ngờ

Ngờ đâu

Ngờ ngờ

Ngờ vực

 

NGỠ

Ngỡ

Ngỡ ngàng

 

NGỢ

Ngợ

 

NGƠI

Ngơi

Ngơi nghỉ

 

NGỢI

Ngợi

Ngợi khen

 

NGỚT

Ngớt

 

NGU

Ngu

Ngu dại

Ngu dốt

Ngu độn

Ngu muội

Ngu si

Ngu Thuấn

Ngu xuẩn

 

NGỦ

Ngủ

 

NGŨ

Ngũ

Ngũ âm

Ngũ bá A La Hán

Ngũ Bộ Lôi Công

Ngũ căn

Ngũ cốc

Ngũ châu

Ngũ chi

Ngũ Chi phục nhứt

Ngũ dục

Ngũ Đế

Ngũ giới

Ngũ giới Tam quy

Ngũ hành

Ngũ hồ

Ngũ khí thanh

Ngũ khí triều ngươn

Ngũ Lôi Đài

Ngũ Lôi tru diệt

Ngũ luân

Ngũ Nương Diêu Trì Cung

Ngũ nguyện

Ngũ Nhạc

Ngũ phúc

Ngũ quan

Ngũ tạng

Ngũ thường

Ngũ trược

Ngũ uẩn

Ngũ uẩn thạnh khổ

 

NGỤ

Ngụ

 

NGỤC

Ngục

Ngục đao kiếm

Ngục hình

Ngục môn

Ngục thất

 

NGUI

Ngui ngút

 

NGÙI

Ngùi ngùi

 

NGUY

Nguy biến

Nguy nga

Nguy hiểm

Nguy nan

Nguy nguy

Nguy vong

 

NGUỴ

Nguỵ biện

Nguỵ Tào

Nguỵ tạo

 

NGUYÊN

Nguyên căn

Nguyên do

Nguyên đán

Nguyên Hanh Lợi Trinh

Nguyên hình

Nguyên hồn

Nguyên khí

Nguyên lý

Nguyên linh

Nguyên nhân

Nguyên sanh

Nguyên tác

Nguyên tánh

Nguyên tắc

Nguyên tiêu

Nguyên tử

Nguyên thể

Nguyên ủy

Nguyên văn

Nguyên vẹn

 

NGUYỆN

Nguyện

Nguyện ước

Nguyện vái

Nguyện vọng

 

NGUYỆT

Nguyệt

Nguyệt cầm

Nguyệt cúc

Nguyệt điện

Nguyệt hoa

Nguyệt lão

Nguyệt tà

Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

 

NGÚN

Ngún

 

NGÙN

Ngùn ngụt

 

NGUÔI

Nguôi

Nguôi ngoai

 

NGUỒN

Nguồn

Nguồn ân

Nguồn cội

Nguồn cơn

Nguồn đào

Nguồn Đạo

Nguồn lành

Nguồn lợi

Nguồn nhân

Nguồn Tiên

Nguồn Tiên nẻo Phật

Nguồn Thánh

Nguồn trong

 

NGUƠN

Nguơn chất

Nguơn đán

Nguơn hội

Nguơn khí

Nguơn linh

Nguơn tiêu

Nguơn tinh

Nguơn Thánh đức

Nguơn Thỉ

 

NGÚT

Ngút

 

NGƯ

Ngư

Ngư ông

Ngư phủ

Ngư tiều canh mục

 

NGỮ

Ngữ

Ngữ ngôn

 

NGỰ

Ngự

Ngự ban

Ngự giáng

Ngự Mã Thiên Quân

Ngự tửu

Ngự trị

Ngự triều

Ngự uyển

 

NGỪA

Ngừa

Ngừa thuyền

Ngừa thuyền Bát nhã

 

NGỬA

Ngửa nghiêng

 

NGỰA

Ngựa

Ngựa Hồ

Ngựa Hồ chim Việt

Ngựa qua cửa sổ

Ngựa trâu công đền

Ngựa vàng thỏ ngọc

Ngựa vàng thỏ bạc

 

NGƯNG

Ngưng

Ngưng Dương

Ngưng quyền Địa phủ

 

NGƯỚC

Ngước

 

NGƯỢC

Ngược

Ngược đãi

Ngược ngang

Ngược ngạo

Ngược xuôi

 

NGƯƠI

Ngươi

 

NGƯỜI

Người

Người dưng

Người đời

Người lớn

Người nước Kỷ lo Trời sập

 

NGƯỠNG

Ngưỡng mộ

Ngưỡng nguyện

Ngưỡng nghĩa

Ngưỡng thiên mạo

Ngưỡng vọng

 

NGƯU

Ngưu

Ngưu lang

Ngưu Lang Chức Nữ

 

NGHE

Nghe

 

NGHÉ

Nghé

 

NGHÉN

Nghén

 

NGHẼN

Nghẽn

 

NGHẸN

Nghẹn

Nghẹn ngào

 

NGHÈO

Nghèo

Nghèo đói

Nghèo hèn

Nghèo khó

Nghèo khổ

Nghèo nàn

Nghèo ngặt

Nghèo sạch rách thơm

 

NGHẸT

Nghẹt

 

NGHÊ

Nghê thường

 

NGHỀ

Nghề

Nghề nghiệp

 

NGHỆ

Nghệ hương án tiền

 

NGHÊNH

Nghênh

 

NGHÊU

Nghêu ngao

 

NGHI

Nghi

Nghi dung

Nghi gia

Nghi hoặc

Nghi kỵ

Nghi lễ

Nghi nan

Nghi ngại

Nghi ngờ

Nghi tiết

Nghi thức

Nghi trượng

 

NGHỈ

Nghỉ

Nghỉ ngơi

 

NGHĨ

Nghĩ

Nghĩ nghị

 

NGHỊ

Nghị

Nghị án

Nghị Định

Nghị luận

Nghị lực

Nghị sự

Nghị trường

Nghị trưởng

Nghị viên

 

NGHĨA

Nghĩa

Nghĩa binh

Nghĩa cử

Nghĩa Đào viên

Nghĩa địa

Nghĩa hiệp

Nghĩa khí

Nghĩa lý

Nghĩa mặn tình nồng

Nghĩa nhân

Nghĩa nhơn

Nghĩa phương

Nghĩa sĩ

Nghĩa thầy trò

Nghĩa trả ơn đền

Nghĩa trang

Nghĩa trọng

Nghĩa trọng tài khinh

Nghĩa vụ

 

NGHỊCH

Nghịch

Nghịch cảnh

Nghịch Đạo

Nghịch lý

Nghịch mạng

Nghịch nợ tiền khiên

Nghịch Thiên

Nghịch thù

 

NGHIÊM

Nghiêm

Nghiêm chánh

Nghiêm chỉnh

Nghiêm đường

Nghiêm hình

Nghiêm huấn

Nghiêm khắc

Nghiêm Lăng

Nghiêm lệnh

Nghiêm luật

Nghiêm Lữ

Nghiêm minh

Nghiêm nghị

Nghiêm nhặt

Nghiêm phụ

Nghiêm tịnh

Nghiêm thiết

Nghiêm trang

Nghiêm trị

Nghiêm trọng

Nghiêm trừng

 

NGHIỄM

Nghiễm nhiên

 

NGHIÊN

Nghiên

Nghiên bút

Nghiên cứu

 

NGHIỀN

Nghiền

Nghiền ngẫm

 

NGHIÊNG

Nghiêng

Nghiêng đổ

Nghiêng mình

Nghiêng ngửa

Nghiêng sụp

Nghiêng triềng

Nghiêng vai

 

NGHIỆP

Nghiệp

Nghiệp báo

Nghiệp cả

Nghiệp căn

Nghiệp chướng

Nghiệp duyên

Nghiệp hồng

Nghiệp khiên

Nghiệp nhà vong phế

Nghiệp nhân

Nghiệp quả

 

NGHIỆT

Nghiệt

Nghiệt ác

Nghiệt báo

Nghiệt cảnh

Nghiệt Cảnh Ðài

Nghiệt căn

Nghiệt chướng

Nghiệt oan

Nghiệt trái

Nghiệt trần

 

NGHIÊU

Nghiêu

Nghiêu đế cầu hiền

Nghiêu thiên Thuấn nhựt

Nghiêu Thuấn

 

NGHÌN

Nghìn

 

NGHINH

Nghinh

Nghinh hôn

Nghinh ngang

Nghinh phong

Nghinh Phong Đài

Nghinh tân tống cựu

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Nga | Ngà | Ngả | Ngã | Ngạ | Ngạc | Ngạch |
Ngai | Ngài | Ngải | Ngãi | Ngại | Ngay | Ngày |
Ngán | Ngàn | Ngạn | Ngang | Ngảnh |
Ngao | Ngào | Ngạo | Ngáp | Ngạt |
Ngắm | Ngăn | Ngắn | Ngằn | Ngắt | Ngặt |
Ngây | Ngâm | Ngậm | Ngân | Ngần | Ngẩn |
Ngập | Ngất | Ngẫu |

Ngó | Ngỏ | Ngõ |
Ngoai | Ngoái | Ngoài | Ngoại |
Ngoan | Ngoạn | Ngoảnh | Ngoạt |
Ngọc | Ngoe | Ngòi | Ngon | Ngón | Ngọn | Ngóng | Ngọt |
Ngô | Ngỗ | Ngộ | Ngôi | Ngồi |
Ngôn | Ngổn | Ngông | Ngỗng | Ngộp |
Ngơ | Ngờ | Ngỡ | Ngợ | Ngơi | Ngợi | Ngớt |

Ngu | Ngủ | Ngũ | Ngụ | Ngục |
Ngui | Ngùi | Nguy | Nguỵ | Nguyên | Nguyện | Nguyệt |
Ngún | Ngùn | Nguôi | Nguồn | Nguơn | Ngút |
Ngư | Ngữ | Ngự | Ngừa | Ngửa | Ngựa | Ngưng |
Ngước | Ngược | Ngươi | Người | Ngưỡng | Ngưu |

Nghe | Nghé | Nghén | Nghẽn | Nghẹn | Nghèo | Nghẹt |
Nghê | Nghề | Nghệ | Nghênh | Nghêu |

Nghi | Nghỉ | Nghĩ | Nghị | Nghĩa | Nghịch |
Nghiêm | Nghiễm | Nghiên | Nghiền | Nghiêng |
Nghiệp | Nghiệt | Nghiêu | Nghìn | Nghinh |


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cập nhật ngày: 09-06-2020

NGA | NGĂ | NGÂ | NGO | NGÔ | NGƠ | NGU | NGƯ | NGHE | NGHÊ | NGHI


A | B | C | CH | D | Đ | E | G | H | I-Y | K-KH | L | M | N | NG | NH | O | P | Q | R | S | T | TH | TR | U | V | X


[ MỤC LỤC ]

Ấn bản (v.2018)

TỪ NGỮ ĐIỂN CỐ CAO ĐÀI
Soạn giả: Hiền Tài Quách Văn Hoà

DOWNLOAD
E-book-PDF