I-Y
益
Ích là thêm, lợi, có tác dụng tốt, đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người, trái với tổn.
Như: Người có ích cho xã hội, loài chim có ích.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngày qua thật đáng tiếc, nhất là khi sức đã mòn, tâm trí đã cằn cỗi mà công nghiệp đối với Ðạo và nhơn sanh vẫn còn là một con số không thì dầu có ân hận bao nhiêu cũng chỉ vô ích mà thôi.
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu, diễn ra ích gì?
(Kinh Sám Hối).
益 己
Ích: Làm lợi ích. Kỷ: Mình.
Ích kỷ là chỉ vì lợi riêng cho mình mà không biết đến người khác. Như: Những tính toán ích kỷ.
Thánh giáo Chí Tôn dạy: Có nhiễm trần, có lăn lóc mơi sương chiều gió, có kim mã ngọc đàng, có đai cân rực rỡ, có lấn lướt tranh đua, có ích kỷ hại nhân, có vui vẻ với mùi đỉnh chung lao lực, mới thấy đặng tỏ rõ bước đời gai chông khốn đốn, mới thấy cuộc nhục vinh, buồn vui không mấy chốc, chẳng qua là trả vay vay trả đồng cân, chung cuộc lại thì mối trái oan còn nắm, mà cũng vì đó mới thấy đặng đường hạnh đức trau mình, trò đời chẳng qua một giấc huỳnh lương.
Lợi không ích kỷ lợi Trời ban,
Phải tính trí kia xử vẹn toàn.
(Đạo Sử).
Nghe hạc tỏ bày lời chân lý,
Gà thấy mình ích kỷ tối tăm.
(Thơ Hộ Pháp).
Ích nước: Làm điều có ích cho đất nước. Lợi dân: Thi hành việc có lợi cho nhân dân.
Ích nước lợi dân, như câu “Ích quốc lợi dân 益 國 利 民”, là làm việc gì có tác dụng tốt cho đất nước và làm lợi ích cho nhân dân.
Làm sao cho rạng mười ân,
Làm cho ích nước lợi dân thì làm!
(Đại Thừa Chơn Giáo).
益 國 安 民
Hay “Ích nước lợi dân”.
Ích quốc (nước): Có ích cho đất nước. An dân: Làm cho nhân dân được an ổn. Lợi dân: Lợi ích cho nhân dân.
Ích quốc an dân là làm lợi ích cho quốc gia, làm yên ổn cho nhân dân.
Còn “Ích nước lợi dân” là làm lợi ích cho đất nước và nhân dân.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Những đấng minh quân đời trước thương dân như con đỏ, hằng chịu lao tâm tiêu tứ để lo hạnh phúc cho dân. Người trong nước không kể sang hèn, hễ ai có tài có đức là được cất nhắc lên làm quan giúp nước trị dân. Vua với quan đều lấy sự ích nước lợi dân làm chủ đích.
Hồng ân đã sẵn làm thao lược,
Ích quốc an dân dụng chữ hoà.
(Thơ Hộ Pháp).
Im: Ở trạng thái lặng yên, không hoạt động, không phát ra tiếng động.
Im đìm, như chữ “Im lìm”, là yên lặng, không có tiếng động.
Im đìm còn dùng để chỉ ở trạng thái tĩnh lặng, đem lại cảm giác dễ chịu.
Xem: Im lìm.
Khí trong trẻo dường như băng tuyết,
Thần im đìm dường nét thiều quang.
(Kinh Tận Độ).
Im: Ở trạng thái lặng yên, không hoạt động, không phát ra tiếng động.
Im lìm là yên lặng, lặng lẻ.
Im lìm còn dùng để chỉ ở trạng thái hoàn toàn không có tiếng động, tựa như chẳng có biểu hiện gì của sự sống.
Như: Đứng im lìm như pho tượng.
Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Đẩu,
Kìa im lìm phúc hậu Nam Tào.
(Kinh Tận Độ).
Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
1.- In là tạo ra nhiều bản bằng cách để giấy vào khuôn chữ dập thành bản.
Như: Khắc bản in, vải in bông hoa, nhà in, in ảnh.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy Ngài Thái Thơ Thanh có như sau: Ðược, nhưng Thánh Ngôn và Văn Thi đều phải trích lục cho kỹ càng, phải có Hội Thánh phê nhận rồi sẽ in thì khỏi điều sơ sót quan hệ.
Bần Đạo muốn viết cho khá khá,
Ngặt sách in dài quá nặng tiền.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tỷ khác nào tấm kiếng chụp hình,
Có bóng chói đã in mọi vật.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- In là được giữ lại trong tâm trí bằng cách để lại một hình ảnh, dâu vết lâu không phai mờ.
Như: Những hình ảnh đã in sâu vào trong tâm trí, nhớ mọi việc như in.
Chẳng khác nào dắt trẻ chụp hình,
Nơi đẹp đẽ đặng in vào trí.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- In là giống nhau như hệt.
Như: In rập, in hệt, hai anh em sinh đôi in như nhau, thằng nầy có tật in như cha nó.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy dạy về chơn thần có câu: Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh xác phàm như khuôn in rập.
Hễ là niệm Phật tụng kinh,
Rèn lòng sửa nết khá in như nguyền.
(Kinh Sám Hối).
Nhẫng là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bởi vẽ hình tướng tá cùng nhà,
Vợ ghê sợ đẻ ra in dạng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ít là không có nhiều, kém, chút đỉnh. Như: Ít tiền của, ít học, ít đức, một số ít.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thượng Kinh Thanh có đoạn: Cửa Bạch Ngọc Kinh ít kẻ, chớ chốn A Tỳ vốn nhiều người. Con liệu mà hành đạo.
Ra vòng thế tục ít người toan,
Vì chẳng ưa mua một chữ nhàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nói ít biết nhiều là trò giỏi,
Hay làm chẳng nạnh ấy là lo.
(Đạo Sử).
Ít: Không nhiều, chút đỉnh. Lâu: Phải nhiều thì giờ, trái với mau, chóng.
Ít lâu là một thời gian không lâu.
Trong Thiên Đạo hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Sau khi dạy dỗ một ít lâu sẽ có một cơ khảo thí nghĩa là “giám khảo” hạch hỏi. Những điều ấy là cơ thử thách do Ơn Trên cho lịnh các vì Thiêng Liêng khảo dượt.
Tam Kỳ khai mở Đạo lần ba,
Nương náu ít lâu rõ báu hoà.
(Tam Nương Giáng Bút).
Ít: Không nhiều, chút đỉnh. Nữa: Chưa hết, hãy còn.
Ít nữa có nghĩa là một thời gian không lâu nữa, sắp tới. Như: Ít nữa sẽ rõ, ít nữa là vài ba hôm.
Thánh giáo Thầy có câu: Còn chư môn đệ đã lập Minh Thệ rồi, ngày sau tuỳ âm chất mỗi đứa mà thăng hay là tội lỗi mà giáng, song buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa là mười hai người.
Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tuỳ Chơn thần thanh trược.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Ít: Không nhiều, chút đỉnh. Ra: Từ dùng để biểu thị một điều kiện hay giả thiết.
Ít ra, đồng nghĩa với chữ “Ít nhất”, với mức cho là thấp thì cũng phải là như thế. Như: Ít ra là phải 5 người.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðời sống như vậy mới gọi là đời sống có ý nghĩa, một đời sống đáng sống, vì ít ra kiếp sanh của ta cũng phải là một kiếp sanh hữu dụng chẳng phải như những kẻ chỉ biết có thân mình, cứ xẩn bẩn ở xó nhà, lo việc ích kỷ bổn nhơn để rồi, một ngày kia, chết mòn trong chỗ tối tăm, không ai màng biết đến.
Đêm nay Bần Đạo lấy làm vui thấy kỳ đàn này được đông đảo, ít ra phải sốt sắng như vầy...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Y 衣 là áo, không dùng một mình. Như: Y bát, y phục, y quan, y thường.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta khi vào Ðại điện của Chí Tôn tức là Cửu Trùng Thiên đó, đứng trong hàng phẩm Cửu Thiên Khai hoá, có trật tự phẩm vị quyền hành, hạng thứ, nên phải mặt Thiên Phục vào chầu, còn vào Ðền Thờ Phật Mẫu đều bạch y tất cả.
Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,
Bận lòng con lại vấn nô y.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Miệng chào lại nhủ mặc Tiên y,
Mời đến Rừng Tre hội cuộc kỳ.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Y 依 là nương tựa theo, dựa vào. Như: Quy y, y phụ kẻ quyền thế.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bởi cớ cho nên Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, cạo đầu phế cả cái sống của mình gọi là quy y thọ phái vô chùa gởi thân trong cửa Phạm cửa Đức Phật Thích Ca đặng tìm phương an ủi hay là hay hơn nữa đủ trí thức, đủ tự giác để đào tạo cái quả kiếp tương lai của mình.
Ðộng đình trở gót lại ngôi xưa,
Tuổi ấy quy y nhắm đã vừa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Y 依 là theo, thuận theo, giống như. Như: Y án, giống y, chuẩn y, làm y như vậy.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Ngọc Lịch Nguyệt có đoạn: Tân Luật con lập có Thầy giáng đủ lễ hết. Vậy con truyền cho chư môn đệ đặng chúng nó y theo mà hành lễ.
Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y luật lệ Giáo Tông truyền dạy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
4.- Y 醫 là nghề làm thuốc để trị bệnh, không dùng một mình.
Như: Y học, tập thể y sĩ, y viện phước thiện, lương y như từ mẫu, bác sĩ y khoa.
Ðạo hiện giờ cũng chẳng khác chi người bịnh mà lương y coi chưa ra chứng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
衣 缽
Y: Áo, không dùng một mình. Bát: Tiếng Phạn patta, là vật để vị tu sĩ đựng thức ăn.
Y bát là áo Ca sa và bình bát.
Y bát là hai vật mà các nhà tu hành sử dụng hằng ngày và cũng là hai biểu tượng cho chánh pháp để các thầy truyền lại cho đệ tử (truyền y bát).
Y là áo quần nhà tu, không được dùng hàng lụa, màu sặc sỡ, mà phải dùng bằng gai, màu vàng, gọi là áo ca sa. Còn có loại áo do những miếng vải nhiều sắc ráp lại và may thành, gọi là áo bá nạp (bá nạp y), ý theo Phật, mặc áo ấy là dứt được tục trần và tỏ rằng áo hành khất do nhiều nhà cho, nên có đủ thứ màu và đủ hạng lớn nhỏ.
Bát là dụng cụ nhà tu dùng để đựng vật thực của thí chủ cúng dường cho. Xưa bình bát được làm bằng võ một thứ trái cây phơi khô hoặc bằng đất, hiện nay bằng thau, đồng.
Ngài Ma Ha Ca Diếp được Đức Phật trước khi nhập diệt, truyền lại cho chiếc áo Ca sa và cái bình Bát vu, nên bên Phật giáo gọi là “Truyền Y Bát”, tức là truyền ngôi Tổ Sư. Sau đó, Ma Ha Ca Diếp lại truyền Y Bát cho A Nan làm Đệ nhị Tổ Sư Phật giáo Ấn Độ.
Đâu người y bát với chân truyền?
Để mái chùa hư đã mấy niên!
(Thơ Chơn Tâm).
Y: Đúng như vậy, không thay đổi gì cả.
Y nguyên là hoàn toàn như thế, không sai, không có thay đổi gì cả.
Như: Nhà vẫn nằm trong khu nghĩa địa y nguyên như cũ, cửa bị trộm phá nhưng đồ đạc vẫn còn y nguyên.
Ðừng cho tan rã hao mòn,
Thì ngôi vị cũ vẫn còn y nguyên.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
伊 傅
Y, Phó là tên hai vị hiền thần của đời nhà Thương và đời nhà Ân.
Y: Tức là Y Doãn, một vị hiền tướng đời nhà Thương, tên Chí, cày cấy ở đất Hữu Sằn. Vua Thành Thang ba lần đem lễ vật đến mời mới theo về giúp, lập nên công lớn cho nhà Thương.
Phó: Tức là Phó Duyệt, một vị Tể tướng đời nhà Ân, sinh quán ở đất Bản Trúc. Tương truyền, thời hàn vi, ông phải đi cuốc đất ở Phó Nham để độ nhựt. Nhờ điềm mộng thấy trời ban cho vị hiền tài, vua Ân Cao Tông mới rước về đãi như bậc Thượng phụ. Từ đó, Phó Duyệt đem hết tài đức dốc lòng lo cho đất nước nhà Ân.
Cày mây Y Phó nêu gương trí,
Lánh tục Hứa Sào thích thú ghê.
(Thơ Hộ Pháp).
衣 服
Y: Áo. Phục: Đồ mặc vào thân.
Y phục dùng để gọi chung các thứ đồ mặc vào trong người che thân.
Nói về việc cầu cơ, Đức Chí Tôn dạy như sau: Trước khi thủ cơ hay là chấp bút, thì phải thay y phục cho sạch sẽ, trang hoàng, tắm gội cho tinh khiết, rồi mới đặng đến trước bửu điện mà hành sự, chớ nên thiếu sót mà thất lễ.
Đồ y phục cần lo chăm sóc,
Dưỡng song thân khó nhọc đừng sờn.
(Phương Tu Đại Đạo).
衣 冠
Y: Chỉ áo quần. Quan: Mũ, đội để bao trùm lấy tóc.
Y quan là những thứ mà sĩ phu ngày xưa thường mang mặc, dùng để chỉ người đỗ đạt, làm quan.
Luận Ngữ có nói: Người quân tử y quan phải cho ngay thẳng.
Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có dạy: Chừng xướng “Chỉnh túc y quan” thì cả thảy phải thay Thiên phục.
Y quan xanh đỏ trắng vàng,
Cân đai rỡ rỡ, địa hoàn đều hay.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
依 奏
Y: Dựa vào, theo, như cũ. Tấu: Tâu, tức trình hay cầu xin với vua hoặc Đức Thượng Đế.
Y tấu là y theo lời tâu xin, tức là vua hoặc Đức Thượng Đế ban cho theo đúng lời cầu xin.
Y tấu đồng nghĩa với chữ “Chuẩn tấu 準 奏”.
Nếu Thầy không vì Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy thì Thầy đã y tấu lời xin của Giáo Tông mà huỷ trường công quả của các con hết thảy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
醫 濟
Y: Nghề làm thuốc chữa bệnh. Tế: Cứu giúp.
Y tế là một cơ sở lo việc chữa bệnh cho công chúng.
Ngoài ra, y tế còn là một cán bộ có trình độ sơ cấp hoặc trung cấp, chuyên chăm sóc bệnh nhân theo sự chỉ dẫn của y, bác sĩ.
Hiện giờ Hội Thánh Phước Thiện cũng đã tạo lập được trong nội ô một ít cơ sở về phương tiện y tế giúp ích cho người Ðạo trong cơn bệnh hoạn.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Y Tông Tâm Lĩnh nói đầy đủ là “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh 海 上 醫 宗 心 領”, còn gọi là Lãn Ông Tâm Lĩnh.
Y Tông Tâm Lĩnh là một bộ sách y học cổ xưa, do vị Hậu tổ của y học nước Việt Nam ta là Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác biên soạn.
Sách gồm sáu mươi ba quyển, soạn năm 1772, mãi đến năm 1868 mới được in ra, là một bộ sách quý giá của nền y học Việt Nam.
Y Tông Tâm Lĩnh làu phương thuật,
Y đức tâm truyền rạng nghĩa nhân.
(Thơ Hoàn Nguyên).
醫 院
Hay “Y viện Hành chánh”.
Y viện là một trong Cửu viện, thuộc quyền quản lý của Thượng Chánh Phối Sư, có nhiệm vụ nghiên cứu cách chữa bịnh và thuốc trị bịnh để chăm sóc sức khoẻ cho các chức sắc và nhân viên công quả trong Đạo.
Đứng đầu Y viện là một Thượng Thống, phẩm Phối Sư, dưới có Phụ Thống, Quản Văn Phòng và các thư ký giúp việc.
Trong Nội Ô Toà Thánh, trước có hai Y Viện: Y Viện của Hội Thánh Cửu Trùng Đài, gọi là Y Viện Hành Chánh 醫 院 行 政 và Y Viện của Hội Thánh Phước Thiện gọi là Y Viện Phước Thiện 醫 院 福 善.
Văn phòng Y Viện Hành Chánh nằm trên góc lộ Phạm Hộ Pháp và lộ Oai Linh Tiên, kế bên Văn Phòng Hội Thánh Hàm Phong.
1.- Y viện:
Ngang bên tả văn phòng Y viện,
Bộ Lễ kề hiển hiện không xa.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
2.- Y viện hành chánh:
Y Viện Hành chánh đây mà,
Oai Linh Tiên lộ lần qua cạnh này.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
意
Ý là điều nẩy ra trong đầu óc mỗi khi suy nghĩ. Như: Ý tưởng, ý tốt, ý xấu, ý nó không thuận.
Thánh giáo Thầy có câu dạy: Chúng sanh là toàn cả nhơn loại chớ không phải lựa chọn một phần người, như ý phàm tục các con tính rỗi.
Lợi danh đã đoạ biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dể ngươi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chánh tà con đủ thấy con đường,
Biết ý rằng Thầy để dạ thương.
(Đạo Sử).
意 志
Ý: Điều mình nghĩ trong lòng. Chí: Quyết tâm thực hiện điều gì.
Ý chí là một sức mạnh của tinh thần, nhờ đó mà con người có thể quyết tâm thực hiện một việc gì.
Như: Anh ấy có một ý chí mạnh mẽ.
Ngoài ý chí đạo đức của con, con còn có ý tìm hiểu Giáo lý mới mẻ nầy, giáo lý mà một vài đồng bào của con đã giải thích xuyên tạc dưới một hình thức tinh ranh.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
意 合 心 投
Ý hiệp (ý hợp): Điều mình nghĩ trong lòng hợp nhau. Tâm đầu: Chỉ lòng giống như nhau.
Ý hiệp tâm đầu là tâm và ý của hai người hoàn toàn hoà hiệp với nhau.
Như: Hai người là bạn ý hiệp tâm đầu.
Nào những mộng nợ chàng duyên thiếp,
Nào những mơ ý hiệp tâm đầu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
意 合 心 同
Ý hợp: Điều mình nghĩ trong lòng hợp nhau. Tâm đồng: Lòng giống như nhau.
Ý hợp tâm đồng, như chữ “Ý hợp tâm đầu 意 合 心 投”, là tâm ý của hai người hoàn toàn hoà hiệp với nhau.
Xem: Ý hiệp tâm đầu.
Chọn nơi ý hợp với tâm đồng,
Cho trẻ vui vầy nghĩa núi sông.
(Thơ Thuần Đức).
意 見
Ý: Cái trong lòng suy nghĩ. Kiến: Thấy.
Ý kiến là sở kiến của ý mình, cái do mình phát biểu ra, tức cách nhìn, cách nghĩ, cách đánh giá riêng của mình về sự việc, về một vấn đề nào đó.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong bữa tiệc thân mật hôm nay, những lời tôi tỏ bày với quý bạn Ðạo, là những lời tâm huyết chơn thành, những ý kiến xây dựng cố ý trấn an tinh thần của quý vị nhứt là Chức Sắc nơi Ðịa phương khi trở về với trách nhiệm.
Nếu có điều chi trọng yếu giải quyết không đặng, Bần Ðạo giúp chút ý kiến chớ không dự biết gì trong quyền lực đặc biệt của Hội Thánh.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
意 馬
Ý: Sự phát hiện ra của tâm. Mã: Con ngựa.
Thành ngữ trong Phật học thường có câu: “Tâm viên ý mã 心 猿 意 馬”.
Ý mã là cái ý quay cuồng như con ngựa.
Con ngựa tượng trưng cho sự buông lung, phóng dật của ý thức con người.
Tâm ý con người thường hay thay đổi, chạy nhảy như con khỉ hay con ngựa, do đó cần phải điều phục tâm ý cho được định tĩnh, tập trung không tán loạn để được an lạc và có thể quán chiếu sâu sắc mọi sự vật.
Dụng ý trụ thần, sanh ý mã,
Để tâm luyện đạo, hoá tâm viên.
(Thơ Huệ Phong).
意 業
Ý: Ý nghĩ, sự suy nghĩa trong lòng. Nghiệp: Từ Phật giáo, chỉ con đường đi từ nhân tới quả.
Theo Phật giáo, có ba loại nghiệp, gọi là Tam nghiệp, đó là Thân nghiệp, Ý nghiệp và Khẩu nghiệp
Ý nghiệp là nghiệp do bởi ý nghĩ của con người mà sinh ra. Nếu ý thiện thì sẽ sinh nghiệp lành, nếu ý ác thì sẽ sinh ra nghiệp dữ.
Thân nghiệp, Ý nghiệp, Khẩu nghiệp gọi là tam nghiệp, làm cho cong người luân hồi từ kiếp này đến kiếp khác.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
意 思
Ý: Sự phát hiện ra của tâm. Tứ: Suy nghĩ.
Ý tứ là ý nghĩa và tư tưởng. Như: Bài văn ý tứ rất bình dị, không cao kỳ, dễ hiểu.
Ý từ thường dùng để chỉ sự giữ gìn cẩn thận, không để cho sơ suất.
Đức Hộ Pháp Trong Phương Tu Đại Đạo có viết: Tôi xin chư đạo hữu coi cách hành văn của Thầy, đọc lại mấy bài thi Thầy dạy đạo thì sẽ thấy rõ, ý tứ dầu cao kỳ, mà câu văn ai cũng hiểu. Tôi dám chắc rằng tuy vậy mặc dầu mà cái ngòi văn tuyệt bút rõ ràng, hễ càng thấu tứ lại càng thâm thúy nơi lòng.
Ta thử hỏi Chí Tôn Ngài muốn chính mình Ngài đến với con cái của Ngài, là ý tứ gì vậy?
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
意 味
Ý: Điều nghĩ ngợi, điều mong muốn. Vị: Thú vị.
Ý vị là điều thú vị trong lòng, trong ý tưởng.
Thánh giáo Thầy có câu: Cuộc đời khó khăn tỷ như bài thi, nếu dễ thì ai thi cũng đặng, cuộc thi có ý vị gì đâu? Hễ bài càng khó thì đậu càng cao, đậu cao mới ra có giá.
Bá tước công khanh ý vị gì?
Mà đời dám đổi kiếp sầu bi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
May thay nên lúc thủ ngao đầu,
Ðạo đức của con ý vị sâu.
(Đạo Sử).
倚
Ỷ là nương, tựa, cậy. Như: Ỷ quyền, ỷ thế, ỷ sức.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Phải hiểu rõ rằng: Thiên Ðịa vô tư, đừng ỷ là có Ðại Từ Phụ mà lờn oai, nghe các con!
Mười voi chưa đủ gọi mình sang,
Huống ỷ khôn lanh cứ hiếp làng.
(Đạo Sử).
Đối cùng em êm tiếng thuận lời,
Đừng ỷ lớn buông hơi tuồng lỗ mãng.
(Phương Tu Đại Đạo).
倚 功
Ỷ: Dựa vào, cậy vào. Công: Công lao.
Ỷ công là cậy vào công lao của mình mà làm những việc thái quá. Như: Ỷ công kiêu ngạo.
Đức Hộ Pháp nói về Lý Giáo Tông có câu: Bần Đạo xin khuyên một điều, lớn, nhỏ phải yên tâm giữ Đạo, đừng sơ sót, nhứt là đừng có ỷ công khi lịnh coi chừng Ngài, Ngài trừng trị một cách oai quyền, trước mắt Bần Đạo đã thấy, hai mươi mấy năm lập Đạo cùng Ngài, Bần Đạo quả quyết như vậy.
Lão chỉ vì tình nhau mà cho chư hiền hữu chư hiền muội biết trước rằng: Đừng ỷ công mà cả lòng khi lịnh.
(Thánh Giáo Lý Giáo Tông).
倚 眾 脅 孤
Ỷ chúng: Ỷ lại có được đông người. Hiếp cô: Hiếp đáp kẻ cô thế.
Ỷ chúng hiếp cô là ỷ đông hiếp yếu, tức dựa vào số đông người, hoặc thế lực để hiếp đáp kẻ cô thế
Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn có câu: Chớ không phải vào Ðạo rồi cậy lấy phần đông, kết phe lập đảng ỷ chúng hiếp cô, kẻ vào Ðạo mà chỉ mưu việc quấy như vậy, là kẻ lợi dụng danh Ðạo mà làm cho rối loạn chơn truyền, tức là kẻ phản nghịch với chánh lý của Ðạo vậy.
Chớ không phải vào đạo để lấy phần đông, rồi kết phe lập đảng mà ỷ chúng hiếp cô cùng là xúi mưu làm loạn.
(Phương Châm Hành Đạo).
倚 權
Ỷ: Dựa vào, cậy vào. Quyền: Quyền hành.
Ỷ quyền là cậy vào quyền lực của mình hay quyền hành của kẻ khác mà làm hại người.
Thánh giáo Chí Tôn dạy: Như kẻ làm quan ỷ quyền hiếp bức dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con có biết vì tại sao chăng? Tại vô đạo.
Người nghèo khổ biết sao than kể,
Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền,
(Kinh Sám Hối).
Hễ làm chồng chồng chớ ỷ quyền,
Còn làm vợ vợ hiền đành phải nhịp.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ỷ: Dựa vào, cậy vào. Sức: Khả năng hoạt động hay sức làm việc.
Ỷ sức là dựa vào sức lực, hay sức mạnh.
Thánh giáo Thầy có câu: Kiêu hãnh thái thậm, vào muốn có người trình, ra muốn có kẻ cúi, khoát nạt, đè ép, biết mình mà chẳng màng biết đến người, hay ỷ sức mà chẳng dòm xem thời thế chẳng thâu phục nhân tâm, chẳng biết dùng khiêm từ mà đãi khách, là những nét của các bậc Vương Bá xưa dùng mà phải tan tành vũ trụ đó.
Dầu có của dạy đừng ỷ sức,
Đừng cậy tiền ép bức kẻ cô thân.
(Phương Tu Đại Đạo).
倚 勢
Ỷ: Dựa vào, cậy vào. Thế: Thế lực.
Ỷ thế dựa vào thế lực của mình hay cậy thế của người khác để hại người.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Luật Nhơn quả cũng gọi là Luật Ðiều hoà hay là Luật Công Bình, và nếu người ta có hành động nào bất chánh làm cho mất sự điều hoà của Ðạo lý hay là mất sự công bằng thiêng liêng (ví dụ gạt người lấy của, thâu đa nạp thiểu, hại người để lợi cho mình, ỷ thế hiếp cô, mưu mô để làm việc bất chánh..v.v...) thì Ðấng Tạo Ðoan sẽ lập lại sự thăng bằng, đem một cái quả để báo ứng vào kẻ đã phạm pháp cho đúng theo Luật quân bình của Trời Ðất.
Ðều đặn một lời cần đạo đức,
Ðừng lòng ỷ thế cũng như không.
(Đạo Sử).
Đừng dựa chồng ỷ thế ỷ thời,
Vinh một thuở trọn đời còn để tiếng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ỷ y là ỷ lại, dựa vào hoặc trông chờ sự giúp đỡ của người khác một cách quá đáng, không tự phấn đấu, không chịu cố gắng.
Ỷ y còn có nghĩa là lơ đễnh, không tập trung, chú ý, dẫn đến mất cảnh giác.
Như: Nó ỷ y có ba làm quan nên chẳng sợ ai, thằng hay ỷ y bỏ nhà bỏ cửa.
Thầy hay thương mến lũ con hoang,
Song chớ ỷ y phải ngỡ ngàng.
(Đạo Sử).
淹 隱
Yêm: Ngầm dưới nước, mất. Ẩn: Giấu.
Yêm ẩn là giấu kín mất.
Nói về quyền hành của Chánh Trị Sự, Chú Giải Pháp Chánh Truyền có câu: Như có điều chi sái luật Đạo, mà Chánh Trị Sự đã nhiều phen tư tờ cho Cửu Trùng Đài, song Cửu Trùng Đài yêm ẩn, thì Chánh Trị Sự đặng phép tư tờ thẳng lên Hiệp Thiên Đài kêu nài định đoạt.
Thiếp tưởng Bí Pháp của Cựu Luật vẫn yêm ẩn lắm điều khó minh đoán cho đặng, song sự chơn thật quả có hẳn trong ấy.
(Đạo Sử).
Yêm điềm, như chữ “Êm đềm”, là từ cổ, có nghĩa là thuận hoà, êm đẹp với nhau.
Như: Con cái ông ấy đối xử với nhau rất yêm điềm.
Xem sóc ngôi thứ, chẳng cho giành giựt lẫn nhau, ắt giữ cho Cửu Trùng Đài đặng hoà nhã yêm điềm.
(Pháp Chánh Truyền CG).
Yếm là đồ mặc lót bên trong dùng để che ngực, che bụng của người đàn bà. Như: Yếm dãi, yếm đào, yếm mang quần vận.
Người đàn bà ngày xưa phải mang yếm, mặc quần vận và quấn khăn, nên được gọi là phận “khăn yếm”, hoặc phận “Quần vận yếm mang”.
Nỗi mình mỏng mảnh yếm khăn,
Khó khăn chẳng giúp cho chàng đỡ tay.
(Bát Nương Giáng Bút).
Yếm mang: Mang một loại trang phục mặc lót để che ngực của phụ nữ thời xưa. Quần vận: Mặc quần không có dây lưng, chỉ vận chặt lại.
Ngày xưa, người đàn bà con gái do phải mang yếm và mặc quần vận, nên thành ngữ “Yếm mang quần vận”, được người ta dùng để chỉ người đàn bà, con gái.
Phận “yếm mang quần vận” là chỉ phận đàn bà.
Dạy em phận yếm mang quần vận,
Phải buộc mình núp lẩn dưới tay chồng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Còn chịu tiếng yếm mang quần vận,
Đành cho ai hiếp lẫn cứ theo chiều.
(Phương Tu Đại Đạo).
厭 世
Yếm: Chán, ghét. Thế: Đời, cuộc đời.
Yếm thế là chán đời. Như Bi quan yếm thế.
Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có viết: Tóm lại mà nói, ngoại trừ những phương pháp tu dưỡng cao siêu dành riêng cho bực thượng thừa, còn thì những quy tắc vừa kể ra đây rất hạp với người ta tu tại gia không điều chi bó buộc khó khăn, và cũng không mảy may nào gọi là yếm thế, là dị đoan, là mê tín.
Người ta cho Lão Tử có tư tưởng yếm thế tiêu cực, hoặc tư tưởng của Ngài là độc thiện kỳ thân...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
掩 欲
Yểm: Che đậy, đóng lại. Dục: Lòng dục tức lòng ham muốn về vật dục.
Yểm dục là đè nén lòng ham muốn.
Lòng dục hay lòng ham muốn của con người có sáu thứ gọi là lục dục: Sắc dục, thinh dục, hương dục, vị dục, xúc dục và ý dục.
Mắt ưa sắc đẹp, tai thích âm thanh, mũi ham ngửi mùi thơm tho, lưỡi thèm vị ngon ngọt, thân ưa cảm xúc êm ái, ý thích lòng thoả mãn. Tất cả đều gây nên nghiệp thức rồi lôi kéo con người đắm chìm vào luân hồi sinh tử mà thọ khổ nghiệp triền miên.
Ngó chi khổ hải sóng xao,
Đoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.
(Kinh Tận Độ).
1.- Yên, còn đọc “An 安”, là ở trạng thái không động đậy, không xê dịch, hoặc thay đổi tư thế.
Như: Ngồi yên một chỗ, nằm yên không động đậy, đứng yên chẳng nhút nhít.
Trong giấc mộng nghỉ yên hồn phách,
Đấng Thiêng Liêng năng mách bảo dùm.
(Kinh Thế Đạo).
2.- Yên, còn đọc “An 安”, là hoà bình, yên ổn. Như: Dẹp yên giặc cỏ, đất nước yên ổn.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Ðạo chưa yên là tại người hành đạo kém bề hạnh đức; kẻ được hạnh mất phần minh mẫn; người thông hiểu Ðạo kém đức, thiếu khiêm cung; kẻ trọn tâm thành, mạnh phần ham danh lợi.
Điều khôn dại thì mình đã hiểu,
Định chước mưu khéo liệu yên nhà.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Yên 煙 là khói, chỉ quang cảnh có mây khói. Như: Yên ba (khói sóng), yên hà (khói ráng).
Trong bài “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu có câu: Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu, 日 暮 鄉 關 何 處 是, 煙 波 江 上 使 人 愁 nghĩa là Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai! (Tản Đà dịch).
Ước chi sớm đặng vòng vay trả,
Mượn thú yên ba tạo cảnh nhàn.
(Thơ Thuần Đức).
煙 霞
Yên: Khói. Hà: Ráng trời.
Yên hà là khói và ráng, chỗ núi non cùng tịch, chỉ thấy hơi đá như khói bốc lên và ráng trời bay lơ lửng.
Nghĩa bóng: Chỉ nơi ở ẩn.
Yên hà miễn đặng vui hôm sớm,
Lọ phải lao thân chốn bụi thành?
(Thơ Thuần Đức).
Yên hà bút hoạ tranh trăm thức,
Bình thuỷ duyên trao mộng bốn phương.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Yên: Ở trạng thái ổn định, không có biến động. Ổn: Yên, không có gì lôi thôi, vướng mắc.
Yên ổn là ở tình trạng không có gì rối loạn trật tự, mà cũng không có gì đe dọa.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Riêng về Chức sắc, Chức việc Nam Nữ ở địa phương, tôi cầu chúc Chư quý vị được hành trình yên ổn và tất cả công việc Ðạo trong năm đều được hanh thông, có kết quả hoàn toàn tốt đẹp.
Não phiền nếu dứt tâm yên ổn,
Tham dục mà ngưng trí nhẹ nhàng.
(Thơ Thiên Vân).
Yên: Ở trạng thái không động đậy, không xê dịch, hoặc thay đổi tư thế. Tịnh: Im lặng.
Yên tịnh, như chữ “An tĩnh 安 靜”, là ở trạng thái không có tiếng ồn, tiếng động, hoặc không bị xáo trộn.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Thầy đã nói, Thiên cơ phải do nơi tâm hạnh của các con mà xây đổi máy huyền vi. Vì vậy, Thầy phải đổi cơ mầu, dụng sự hoà bình yên tịnh để dẫn các con cho vẹn bước đường đạo đức.
Sự yên tịnh và sự hoà bình là hai điều Thầy dụng mà gieo mối Ðạo.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Yến là tiệc, bữa tiệc.
Như: Vua thết yến ban cho quần thần, yến ẩm, yến tiệc linh đình.
Long cung yến đãi đèn hoa tỏ,
Nguyệt điện gương soi sắc ngọc làu.
(Thơ Hoàng Nguyên).
燕 鸚
Yến: Én, một loài chim nhỏ, mỏ ngắn, đuôi chẽ đôi như mũi tên, lưng đen bụng trắng, mùa ấm đến, mùa lạnh đi. Anh: Chim oanh.
Yến anh là chim yến, chim anh, là hai loại chim thường bay từng đàn, từng lũ, nên thường dùng để chỉ sự đông đúc, rộn rip.
Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Yến anh còn dùng để chỉ việc trăng hoa, chơi bời.
Xem: Én anh.
Đừng học chiều rước yến mời anh,
Kìa nhục chốn lầu xanh xem những kẻ.
(Phương Tu Đại Đạo).
宴 飲
Yến: Tiệc rượu có nhiều thức ăn trân quý. Ẩm: Uống.
Yến ẩm là bày tiệc rượu thịnh soạn để cùng nhau ăn uống một cách linh đình.
Như: Bày tiệc thịnh soạn để mọi người yến ẩm.
Tang lễ không nên xa xí, không nên quàn Linh cữu lâu ngày, không nên dùng đồ màu sắc, không nên yến ẩm.
(Giáo Lý).
Yến 宴: Tiệc. Tiệc: Bữa ăn đặc biệt có nhiều món ngon và có đông người dự.
Yến tiệc là tiệc lớn, tiệc thịnh soạn. Như: Tổ chức yến tiệc linh đình.
Ban cho vàng bạc đủ đầy gái tốt hầu hạ sớm khuya, yến tiệc linh đình, tước cao lộc quý.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
晏 子
Yến (hay Án) Tử, tức là Yến Anh 晏 嬰, tự là Bình Trọng, người nước Tề, đời Chiến Quốc. Tánh cần kiệm và trung chánh, làm Tể tướng nước Tề, thờ ba đời vua: Linh Công, Trang Công và Cảnh Công.
Ở triều đình, vua hỏi điều gì thì tâu lời rất thẳng, vua không hỏi tới thì giữ mình rất nghiêm. Nước hữu đạo thì thuận lịnh mà làm, vô đạo thì châm chước lịnh mà làm. Nhờ vậy mà làm quan ba triều, hiển danh trong các nước chư hầu.
Một hôm, Tể Tướng đi ngang qua nhà anh lính cầm lọng, người vợ của anh núp ở kẹt cửa thấy chồng mình đã thân cao lớn, lại có bộ mặt nghinh ngang, vênh váo, trong khi đó, Yến Tử tuy là Tể Tướng đầu triều, nhưng người ông rất nhỏ thó, lại có tánh nho nhã, nề nếp nhà quan, không kiêu hãnh, gương mặt có vẻ khoan hoà.
Khi anh lính về nhà, người vợ đòi làm tờ để. Anh ta hỏi tại sao? Người vợ nói rằng: “Thiếp núp sau cửa, thấy chàng và Tể Tướng đi ngang qua, nhìn quan Tể Tướng thì thấy người nhỏ thó, gương mặt nho nhã, tỏ vẻ hạ mình, còn chàng thân hình to lớn mà lại có vẻ nghinh ngang coi trái mắt quá lẽ, vì thế, thiếp lấy làm hổ ngươi không thể ở với chàng nữa”.
Nhờ vậy, Anh lính ấy biết cảm hoá, sau sửa mình lập thân trong hàng ngũ quân binh lên đến bực Tướng.
Ông Yến Tử tuy là Tể Tướng đầu triều, nhưng con người có tánh cách nho nhã, nề nếp nhà quan, không kiêu hãnh...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Yến Tử Hà là người đời Xuân Thu, một bề tôi trung thành của nước Hàn. Khi Hàn bị nước Tần tiêu diệt, Yến Tử Hà đi phiêu lưu khắp các nơi để tìm người báo thù, rửa nhục cho đất nước mình.
Ông đến đầu Sở Bá Vương, bị Hạng Võ chê không dùng người Hàn, vì vậy Yến Tử Hà gặp cảnh lận đận, nghèo khổ phải ăn mặc rách rưới tìm đến Quan Trung để đầu Hán Bái Công.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Yến Tử Hà là tôi của nước Hàn, nước Hàn mất đi tìm nơi cầu cứu hầu rửa nhục cho nước mình, Sở Bá Vương chê người Hàn không dùng, nên Yến phải lận đận, nghèo khổ phải mang dép rách đến Quan Trung tìm Hớn Bái Công.
Yến Tử Hà xưa lúc vận cùng,
Còn mang dép rách đến Quan Trung.
(Đạo Sử).
1.- Yêu là quyến luyến, thương mến, ưa thích. Như: Vợ yêu chồng, cha mẹ yêu con, bức ảnh trông đáng yêu.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có đoạn: Con biết rằng Thầy thương yêu nhơn loại là dường nào chưa? Những điều ngăn trở đều do nơi tiền khiên của cả chúng sanh.
Sắp út thương hơn cũng thế thường,
Cái yêu cái dại mới là thương.
(Đạo Sử).
Coi thân vợ như em nhỏ dại,
Đem lòng yêu phận gái đơn cô.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Yêu 妖 là tinh ma quỷ quái. Như: Yêu tinh, yêu quái, yêu đạo, yêu thuật, yêu tà.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Thầy có câu: Ai hữu phước đặng để chân vào, kẻ vô phần phải bị Tà yêu cám dỗ.
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Yêu 夭 là non, không dùng một mình. Như: Yêu đào, đào chi yêu yêu (đào non).
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có viết: Vẻ chi một đoá yêu đào, Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
Chẳng như thiếp nhớ ơn giải cấu,
Mến từ khi mở nụ đào yêu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Yêu: Quyến luyến. Ái: Mến thương.
Yêu ái là mến thương quyến luyến.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hơn nữa Bần Ðạo có phương tiện tỏ ra một đức tin dị thường của một Ðấng yêu ái, một Ðấng tạo Càn Khôn Võ Trụ, Ðấng tự hữu hằng hữu, Ðấng quyền năng vô tận vô biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo cái thâm tình của Ngài đối với ta và ta đối với Ngài dường nào.
Đầy lòng yêu ái đám quần sanh,
Nghĩa cử chỉ trông một tấc thành.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Yêu: Mến yêu. Dấu: Yêu thương.
Yêu dấu là thương yêu quý mến.Nó là người con yêu dấu của anh tôi.
Thánh giáo của Đức Quan Âm Như Lai dạy nữ phái có câu: Nhiều đạo muội chẳng để trọn lòng về nền Ðạo. Phải rán công thêm nữa đặng làm cho đáng nét yêu dấu của Ðấng Chí Tôn cho nở mày khách quần thoa cõi Việt.
Thầy rất đẹp lòng đặng môn đệ ái kính như các con yêu dấu nơi Thánh địa nầy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
夭 桃
Yêu: Đẹp đẽ, dễ thương. Đào: Cây đào.
Yêu đào là đào non, mới nở hoa, chỉ con gái đẹp.
Do câu trong Kinh Thi: Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa 桃 之 夭 夭, 灼 灼 其 花, nghĩa là cây đào non và đẹp, bông hoa sặc sỡ.
Yêu đào dùng để chỉ người con gái trẻ đẹp, đang tuổi lấy chồng.
Xem: Đào yêu.
Mây gió đành thân đem chứa giọt,
Ngàn năm trinh tiết phận yêu đào.
(Đạo Sử).
Cứ nâng niu trao đoá yêu đào,
Sợ rủi úa phai màu chồng chẳng ngó.
(Phương Tu Đại Đạo).
Yêu: Quyến luyến, mến thương nhiều.
Yêu đương là tình yêu thương.
Thánh giáo Đức Chí Tôn đã dạy: Phần nhiều hữu công mà chưa tận chí, không vì sanh chúng giữ phẩm hạnh hoàn toàn, cho đáng nét yêu đương của Thầy đã vì các con mà bố hoá.
Hiện nay, tiếng “yêu đương” thường dùng để chỉ tình yêu thương giữa nam và nữ.
Người tình ái lòng thương như biển,
Cả nước non hoà tiếng yêu đương.
(Thất Nương Giáng Bút).
妖 嬌
Yêu: Đẹp một cách mý miều. Kiều: Có ý mềm mại đáng yêu.
Yêu kiều là tiếng dùng để nói về người đàn bà có hình vóc đẹp đẽ và thướt tha, mềm mại.
Như: Cô thiếu nữ có vóc dáng yêu kiều.
Biết tâm cao thượng là Tiên Thánh,
Biết sắc yêu kiều ấy quái tinh.
(Thơ Thượng Sanh).
Rạng vẻ yêu kiều dáng thướt tha,
Nhẹ nhàng chiếc bướm lượn la đà.
(Thơ Thuần Đức).
Yêu: Thương mến, quyến luyến. Mến: Ưa, thương.
Yêu mến, cùng nghĩa với chữ “Thương mến”, là có tình cảm thân thiết, thích gần gũi.
Thánh giáo Thầy có dạy: Từ khai Thiên lập Ðịa, Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao nhiêu điều khổ hạnh, mấy lần lao lý, mấy lúc vang mày, nuôi nấng các con hầu lập nền Ðạo, cũng tưởng cho các con lấy đó làm đuốc soi mình đặng cải tà quy chánh.
Chị với em hiệp đàng chung sức,
Yêu mến nhau cho được thấm duyên.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Đừng quá chắc miệng người yêu mến,
Mà đem mình nạp đến bến nhơ.
(Phương Tu Đại Đạo).
妖 孽
Yêu: Ma quỷ. Nghiệt: Yêu hại, vật quái.
Yêu nghiệt là tai vạ quái gỡ.
Yêu nghiệt còn dùng để chỉ chung loài yêu tinh, ma quái hại người.
Hại thay! Trải qua tám chục năm nay những tánh tình yêu nghiệt ấy lại truyền sang đến nòi giống chúng ta.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
妖 怪
Yêu: Ma quỷ. Quái: Quỷ quái.
Yêu quái là tiếng dùng để chỉ chung loài yêu ma quỷ quái. Yêu quái cùng nghĩa với “Yêu tinh”.
Thánh giáo Đức Chí Tôn cho biết: Thầy nói cho các con hiểu trước rằng: Cả môn đệ Thầy đã lựa chọn lọc lừa, còn lối nửa phần, vì Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám dỗ.
Những sự phàm tục đều là mưu kế của Tà mị Yêu quái, cốt để ngăn trở bước đường Thánh đạo của các con.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
妖 精
Yêu: Ma quỷ. Tinh: Loài yêu quái.
Yêu tinh, cùng nghĩa với chữ “Yêu quái 妖 怪”, là tiếng dùng để chỉ loài tinh ma quỷ quái.
Lấy mắt thiêng liêng xem Thánh Ðạo,
Ðừng ngờ ngoài ngõ đón yêu tinh.
(Đạo Sử).
Trừ hung mở cuộc dấy loàn,
Kẻ không nhìn Đạo nhập đoàn yêu tinh.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Yêu: Mến thương, quyến luyến. Thương: Trìu mến.
Yêu thương là có tình cảm gắn bó tha thiết và sự quan tâm hết lòng.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Lê Văn Trung có đoạn: Con ôi! Thầy biết bao phen săn sóc các con mà chịu đau thảm. Thầy chỉn có lòng mơ ước cho các con biết yêu thương trong Thánh đức của Thầy.
Buộc yêu thương bạn đồng môn,
Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.
(Kinh Thế Đạo).
1.- Yếu là không được mạnh, trái với khoẻ. Như: Sức yếu, ăn yếu, tay chân yếu nhấc không nổi.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Các con hiền mà dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà các con hành phạt, cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần ngôi Tiên, Phật đó.
Mạnh yếu rồi đây yếu được phần,
Ðược phần máy Tạo khéo cầm cân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mạnh đặng yếu thua ấy lẽ thường,
Phải lo đồng chủng để lòng thương.
(Đạo Sử).
Mình mỏng mảnh sức non nớt yếu,
Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Yếu 要 là cốt, chính. Như: Đánh vào chỗ yếu, yếu điểm, yếu nhân, trọng yếu.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Thầy khuyên các con phải thương yêu giúp đỡ lấy nó. Thầy lại dặn các con, như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó.
Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu,
Học cho hay trọng yếu miếu đường.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Yếu: Có sức lực và tinh thần kém dưới mức bình thường. Đuối: Kém đến mức phải cố gắng lắm mới đạt yêu cầu được.
Yếu đuối là ở trạng thái thiếu hẳn sức mạnh về thể chất hoặc tinh thần, khó có thể chịu đựng được những khó khăn, thử thách.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hoặc có một người bạn thiệt thà yếu đuối bị một kẻ mạnh mẽ oai quyền hiếp đáp thì lại có một người đứng gần bên kẻ ấy nói: Em tôi yếu ớt bạc nhược không thể gì đương đầu với người, nếu người muốn ra mặt anh hùng với người này, thì đương đầu với tôi, tôi có đủ sức đương đầu với người, đem cân công lý chỉnh đốn sự bất công của đời mà ai làm đặng, tức là làm trọn phận sự đối với đời đó vậy.
Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ,
Yếu đuối biết ai để cậy nhờ.
(Đạo Sử).
Yếu: Sức kém, không mạnh. Hèn: Khiếp nhược.
Yếu hèn, như chữ “Hèn yếu”, là khiếp nhược và yếu kém, không làm được việc quan trọng.
Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Ta phải mở lòng bác ái, thương xuống đến các vật yếu hèn, một là tránh khỏi sa vào luật quả báo, vì luật Thiên điều chẳng hề vị ai. Tuy mắt thịt không bao giờ thấy được, chớ kỳ thiệt, một mảy lành dữ không qua được.
Biết thốn thiếu thôi đừng gây nên nợ,
Phận yếu hèn mong đỡ nâng ai.
(Phương Tu Đại Đạo).
Yếu hèn: Kém cỏi về tinh thần lẫn thể chất. Thấp nhược: Thấp kém và yếu đuối.
Yếu hèn thấp nhược là yếu kém và khiếp nhược, tức nói kém về thể chất lẫn tinh thần, không thể làm được việc quan trọng.
Không độ cái mạnh cấp thời đó sẽ dần dần tan như giá mà đổi ra yếu hèn thấp nhược.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
要 理
Yếu: Quan trọng. Lý: Lý lẽ.
Yếu lý là lý lẽ cốt yếu, quan trọng.
Trong sách Phương Tu Đại Đạo, Đức Hộ Pháp có dạy: Cái hay của đạo chẳng phải ở tại nơi yếu lý mà ở nơi cuộc kết quả sự giáo truyền.
Mà chư nhu chẳng mong tầm yếu lý của Đạo Vô Vi, lấy trọn tinh thần mà hành đạo thì lý yếu chư nhu làm sao rõ đặng.
(Thánh Giáo Quan Thánh).
Yếu 要: Cốt, chính, quan trọng, thiết đáng. Nhiệm: Sâu, kín, tức có khả năng ứng nghiệm một cách thần kỳ bằng lẽ thường không thể hiểu được.
Yếu nhiệm là điểm cốt yếu để có thể ứng nghiệm sự mầu nhiệm.
Bố trí cho chư Ðạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Yếu: Không khoẻ, không mạnh.
Yếu ớt, như chữ “Yếu đuối”, là không có sức khoẻ, tức yếu đến mức sức lực hoặc tác dụng coi như không đáng kể.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Biết bảo trọng mạng sống như muôn vật, như trâu ăn cỏ, khỉ ăn trái cây, giác tánh tạo hình xu hướng theo vật loại thì đè pháp thân xuống, muốn tìm hạnh phúc mà thôi, mà tiềm tàng hạnh phúc ta tưởng thế gian nầy nhiều tượng hình, tương đối với Càn khôn, xác thịt yếu ớt tìm phương để bảo vệ không có phương nào không làm, so sánh với vạn vật thì con người thua nhiều con vật khác, thua công khai, như con cọp mà mình kêu ông cọp.
Liễu yếu ớt những lo gió dội,
Có mảnh thân e nỗi khổ thân.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Phần phụ nữ liễu đào yếu ớt,
Phải chung vai gánh vác Đạo Thầy.
(Thơ NĐS Hương Thanh).
Yếu: Không mạnh mẽ. Tâm: Lòng.
Yếu tâm là lòng dạ yếu ớt không đủ quyết tâm, muốn nản lòng, thối chí.
Yếu tâm đồng nghĩa với “Yếu lòng”.
Ðen trắng hai màu, chánh tà đôi nẻo, mạnh sức trì chí thì nhờ, yếu tâm lơi bước thì chịu.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Yếu: Sức lực kém, không mạnh, không khoẻ. Thế: Cách, cuộc bày ra.
Yếu thế là ở vào cái thế yếu, đành phải chịu thua.
Trong Thánh Ngôn HiệpTuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã lấy lòng từ bi và đức háo sanh mà dìu dắt các con của Thầy, chẳng dụng sự khinh trọng mà làm cho chinh lòng các con, chẳng lấy hành tàng bất chánh mà làm cho mất điều hoà nhã. Con một nhà, đãi đồng một bực, đứa thua sút yếu thế, lại đỡ nâng dìu dắt nhiều hơn đứa thế trọng sức nhiều.
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Đỡ nâng yếu thế binh quyền mồ côi.
(Kinh Sám Hối).
要 重
Yếu: Cốt yếu. Trọng: Quan trọng.
Yếu trọng là những điều rất quan trọng, không thể thiếu được.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Vậy sự yếu trọng của con người là nạn cơm áo. Nắm chặt quyền phân phát cơm áo thì chưa ai đã chịu thọ sanh nơi thế nầy lánh khỏi.
Năm Ðạo nhiệm mầu răn thế giái,
Chín Trời yếu trọng độ nhơn duyên.
(Thiên Thai Kiến Diện).
1.- Yểu 夭 là chết non, cũng viết là 殀.
Như: Yểu tử, yểu tướng (tướng người chết non), nhà nó có hai người chết yểu.
Hạng thứ tư là hạng ta bà du hí, du thực đến chơi rồi về, mà cái hạng ấy ít lắm, nếu có đi nữa thì phần nhiều chết yểu hết.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
2.- Yểu 窈 là sâu xa, u nhàn. Như: Yểu điệu 窈 窕 là nói dáng người con gái đẹp đẽ thuỳ mị dịu dàng.
Xem: Yểu điệu.
Thân yểu điệu chịu danh thục nữ,
Để cho ai rộng chữ hảo cừu.
(Phương Tu Đại Đạo).
窈 窕
Yểu: Sâu xa, yểu điệu. Điệu: Nhỏ, yểu điệu.
Yểu điệu chỉ dáng người con gái đẹp, mềm mại dịu dàng và thướt tha.
Kinh Thi có câu: Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu 窈 窕 淑 女, 君 子 好 逑. Dịch nôm: U nhàn thục nữ thế nầy, Xứng cùng quân tử sánh vầy lửa duyên.
Liễu yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
(Bài Thài Ngũ Nương).
Chẳng còn yểu điệu hình mai,
Da mồi tóc đã ướm thay nửa vàng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ngửa nghiêng chén cúc hơi ngào ngạt,
Yểu điệu nàng nga sắc điểm trang.
(Thơ Thuần Đức).
)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |
Danh mục vần I-Y
ÍCH
• Ích
• Ích kỷ
• Ích nước lợi dân
• Ích quốc an dân
IM
• Im đìm
• Im lìm
IN
• In
ÍT
• Ít
• Ít lâu
• Ít nữa
• Ít ra
Y
• Y
• Y bát
• Y nguyên
• Y Phó
• Y phục
• Y quan
• Y tấu
• Y tế
• Y Tông Tâm Lĩnh
• Y viện
Ý
• Ý
• Ý chí
• Ý hiệp tâm đầu
• Ý hợp tâm đồng
• Ý kiến
• Ý mã
• Ý nghiệp
• Ý tứ
• Ý vị
Ỷ
• Ỷ
• Ỷ công
• Ỷ chúng hiếp cô
• Ỷ quyền
• Ỷ sức
• Ỷ thế
• Ỷ y
YÊM
• Yêm ẩn
• Yêm điềm
YẾM
• Yếm
• Yếm mang quần vận
• Yếm thế
YỂM
• Yểm dục
YÊN
• Yên
• Yên hà
• Yên ổn
• Yên tịnh
YẾN
• Yến
• Yến anh
• Yến ẩm
• Yến tiệc
• Yến Tử
• Yến Tử Hà
YÊU
• Yêu
• Yêu ái
• Yêu dấu
• Yêu đào
• Yêu đương
• Yêu kiều
• Yêu mến
• Yêu nghiệt
• Yêu quái
• Yêu tinh
• Yêu thương
YẾU
• Yếu
• Yếu đuối
• Yếu hèn
• Yếu hèn thấp nhược
• Yếu lý
• Yếu nhiệm
• Yếu ớt
• Yếu tâm
• Yếu thế
• Yếu trọng
YỂU
• Yểu
• Yểu điệu

|