T
Hay “Ta Bà thế giới”.
Ta Bà, còn đọc “Sa Bà 娑 婆”, do chữ Phạn là “Saha”, là một đại thiên thế giới, gọi là Ta Bà thế giới 娑 婆 世 界.
Theo Phật, thế giới Ta Bà là một đại thiên thế giới và địa cầu nơi con người ở chỉ là một nơi rất nhỏ bé trong thế giới Ta Bà.
Ta Bà Hán dịch là kham nhẫn 堪 忍, tức chỉ chúng sanh ở thế giới này phải nhẫn chịu nhiều điều khổ sở, phiền muộn.
1.- Ta Bà:
Nước non để bước Ta Bà,
Sô xiêm đem nhuộm màu dà gọi duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Ta Bà thế giới:
Ta Bà thế giới khắp đâu đâu,
Ngảnh lại trần gian lắm khổ sầu.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Hay “Sa Bà Ha”.
Ta Bà Ha, còn đọc là “Sa Bà Ha 娑 婆 訶”, là một câu nguyện mật ngữ ở cuối những câu Thần chú, gốc từ tiếng Phạn: “Svâhâ”, có nghĩa là thành tựu, kiết tường, tiêu tai tăng phước, viên tịch, xin được như nguyện.
Văn chung khấu hướng huệ trưởng càn khôn,
Pháp giới chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn.
Án Dà Ra Đế Dạ Ta Bà Ha.
(Kệ Chuông).
“Ta đây Đấng Ngọc Hoàng”, đây là lời xác nhận của Đức Chí Tôn trong một đàn cơ năm Ất Sửu (1925) do Yết Ma Luật, trụ trì Hội Phước Tự nghi ngờ có sự dối gạt, nên xin hầu đàn để thử thách.
Như chúng ta biết, Đạo Cao Đài được khai nguyên do Thượng Đế dùng cơ bút làm trung gian để thâu nhận đệ tử và truyền bá giáo lý, giáo luật và đạo pháp xuống thế gian. Qua cơ bút Thượng Đế đã thu phục được các Đấng khai sáng ra nền Đạo, trong đó Đức Ngài chọn các vị chức sắc đại Thiên phong Hiệp Thiên Đài là Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và chư vị Thời Quân để làm đồng tử truyền giáo.
Cơ bút được loan truyền nhanh chóng trong giới quan lại, trí thức và tu sĩ khiến cho dư luận lúc bấy giờ khá xôn xao. Nhiều người không tin tưởng đã tìm đến xin thử thách cơ bút.
Trong đó có ông Nguyễn Văn Luật, thọ phẩm Yết Ma bên Phật giáo, chủ chùa Hội Phước Tự ở làng Long Trạch, Cần Đước tiếp giáp với làng Phước Hậu, tổng Phước Điền quận Cần Giuộc.
Ngôi chùa Hội Phước Tự nguyên là một ngôi chùa cổ của gia tộc nhà họ Đặng, do không có người kế tục quản lý, nên sau đó ông Yết Ma Luật xin vào chùa trùng tu và trụ trì.
Nguyên Văn Luật sinh năm 1869, người gốc Phước Hậu trước đây đã thọ giới vị Hoà Thượng Kim ở chùa Long Huê, Gò Vấp, được ban đạo hiệu là Thích Chơn Truyền thuộc tông Lâm Tế đời thứ 39 và thọ phẩm Yết Ma.
Ngày 1 tháng 11 năm Ất Sửu (Dl. 16/12/1925) các vị Tiền khai Đại Đạo như Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm, Thượng Sanh... được lịnh Ơn Trên dạy phải làm lễ “Vọng Thiên Câu Đạo” và sau đó Đức Cao Đài Thượng Đế bèn ban cho một bài thi như sau:
Cứ níu theo phan Đức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt hoa căn cội tua xa lánh,
Vịnh lấy nhành dương hưởng đạo nhàn.
Từ đó tin đồn Đức Ngọc Hoàng và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thường giáng cơ cho thi tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư số 134 Bourdais (nay là Calmette) vang khắp mọi nơi, ông Yết Ma Luật nghe được tin nầy, Ông nghĩ rằng đây là những người trí thức bày ra chứ cơ bút nào linh hiển như vậy. Tuy nhiên, ông vẫn muốn tìm tới để thử một phen. Nên vào ngày 2 tháng 11 năm Ất Sửu, ông liền lên Sài Gòn tìm đến nhà Ông Cao Quỳnh Cư ở Bourdais để hầu đàn. Trước khi đi ông có đặt một bài thi như sau:
Ấm ức tâm tư suốt mộng tràng,
Có đâu Tiên Phật giáng trần gian.
Văn hay chữ giỏi bày thi phú,
Hoạ đặng thơ đây mới Ngọc Hoàng.
Bài thơ nầy ông niêm kín và để trong túi áo, rồi đến trước đàn cơ quỳ vái lầm thầm với Đức Thượng Đế, xin linh hiển hoạ lại bài thơ của ông.
Đức Thượng Đế bèn giáng cơ hoạ vận:
Hãy tỉnh cho mau giấc mộng tràng,
Đời cùng, Tiên Phật giáng phàm gian.
Chẳng ai hay giỏi bày thi phú,
Chính thật Ta đây Đấng Ngọc Hoàng.
Lúc đó Ông Yết Ma Luật mới hoàn toàn tin tưởng, xin nhập môn và hiến chùa Hội Phước cho Đạo Cao Đài.
Ngày 22 tháng 7 năm Bính Dần, trong buổi hầu đàn tại Hội Phước Tự, có mặt quý Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ngọc Lịch Nguyệt, Thái Thơ Thanh... Đức Chí Tôn chấp nhận Yết Ma Luật cầu đạo và ông được Thiên phong Giáo Sư phái Thái.
Từ đó Hội Phước Tự được Hội Thánh tiếp nhận làm Thánh Thất và tổ chức những đàn cơ nơi đó để phổ truyền giáo lý của Đức Chí Tôn.
Giáo Sư Thái Luật Thanh quy vị ngày 19 tháng 3 năm Mậu Tý (1948) được an táng cạnh bên Thánh Thất.
Người con út tên là Nguyễn Văn Ta và người cháu của ông kế thừa thờ Đức Chí Tôn, nhưng các tượng Phật vẫn để nguyên. Sau nầy, Thánh Tượng bị hư mục mà chùa lại không liên lạc với Hội Thánh, nên Hội Phước Tự trở lại thờ Phật.
Chẳng ai hay giỏi bày thi phú,
Chính thật Ta đây Đấng Ngọc Hoàng.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
嗟 乎
Ta: Tiếng than. Hồ: Lời tán thán, vậy ôi!
Ta hồ có nghĩa là than ôi, tức là lời than thở.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Lý Giáo Tông có câu: Đến chừng nào chư Đạo hữu không sức kềm chế vững với lũ tà tâm, chừng chúng nó tự quyết không sửa cải, tự đem mình hiến cho tà quái, thì đó là đường cùng của Đạo, đó là ngày những nguyên nhân hữu công bỏ xác Đạo lại trọn trong cả ba mươi sáu động Quỷ vương, lại cũng là ngày cửa Phong đô mở lớn đặng chờ rước kẻ vô đạo. Ta hồ tận chúng sanh!
Lộ vô nhơn hành,
Ðiền vô nhơn canh.
Ðạo vô nhơn thức,
Ta hồ tận chúng sanh!
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
嗟 嘆
Ta: Tiếng than. Thán: Than.
Ta thán là những lời than thở và oán trách, tức những lời kêu than. Như: Nhân dân ta thán về tội tham nhũng.
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có giáng cơ dạy: Bần Đạo thấy cơ khảo đảo rất đỗi đảo điên, chỉn sợ e rồi ngày kia trong chư hiền đệ có lời ta thán.
Nước Việt Nam là Thánh Ðịa của Chí Tôn mà tránh không khỏi cái nạn ta thán, hồi hộp, sợ sệt.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
佐 乩
Tá: Giúp, phụ giúp. Cơ: Một dụng cụ dùng để thông công cùng các Đấng Thiêng Liêng.
Tá cơ là phụ giúp trong việc phò cơ chấp bút.
Trước ngày khai nền đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn chọn những bậc tiền khai là Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng Sanh giúp đỡ về việc phò cơ, để Ngài dạy dỗ chúng sanh và mở Đạo. Vì vậy, những vị tiền khai đó được Chí Tôn phong là “Tá Cơ Đạo Sĩ”, tức là những vị Đạo Sĩ phụ giúp Ngài về cơ bút.
Cư, phong vi Tá Cơ Tiên Hạc Ðạo Sĩ.
Tắc, phong vi Hộ Giá Tiên Ðồng Tá Cơ Ðạo Sĩ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
借 名
Hay “Tá danh Cao Đài”.
Tá: Mượn. Danh: Danh hiệu, danh xưng, tên.
Tá danh là mượn một danh xưng khác.
Khi Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài mượn một danh xưng khác là “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”, danh xưng nầy gọi là “tá danh”.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn cũng có dạy: Thích Ca Như Lai thị Ngã, dục cứu chúng sanh, tá danh Cao Ðài Ðại Bồ Tát. Nhữ tri hồ? 釋 迦 如 來 是 我, 欲 救 眾 生, 借 名 高 台, nghĩa là Thích Ca Như Lai chính là Ta vậy, muốn cứu chúng sanh, mượn danh Cao Đài.
1.- Tá danh:
Tá danh là Đức Cao Đài,
Cầm quyền Quốc Đạo bền dai đời đời.
(Thơ Bảo Pháp).
2.- Tá danh Cao Đài:
Tá thế cứu dân trong nước lửa,
Danh truyền độ chúng khỏi hang thâm.
Cao huyền diệu lý dìu con dại,
Đài thượng xét xem thế chẳng lầm.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
借 田
Tá: Vay, mượn. Điền: Ruộng.
Tá điền là người nông dân thuê ruộng của người có nhiều ruộng đất để cày cấy, sau khi thu hoạch, tá điền phải nộp tô cho chủ ruộng.
Người chủ ruộng thường có nhiều đất đai để cho mướn nên được gọi là “Điền chủ 田 主”, hay “Chủ điền”.
Ép tá điền lễ vịt lễ gà,
Đến khi chết làm ma tu hít.
(Phương Tu Đại Đạo).
佐 理
Tá: Phụ giúp. Lý: Sắp đặt sửa sang công việc.
Tá lý là giúp đỡ, phụ việc.
Tá lý còn là một chức quan ở Lục bộ trong triều đình, làm việc ở dưới chức chính khanh.
Trong đạo Cao Đài, Tá Lý là một chức phẩm thuộc cơ quan Công thợ trong Toà Thánh Tây Ninh do Đức Hộ Pháp lập ra.
Tá Lý có nhiệm vụ cai quản một Sở, trong đó có nhiều công thợ, và chịu dưới quyền Phó Tổng Giám, và Tổng Giám.
Tá Lý đối phẩm với Chánh Trị Sự bên hành chánh Đạo, do vậy Tá Lý nếu đủ 5 năm công nghiệp thì được thăng lên Phó Tổng Giám.
Xem: Tổng Giám.
Tá Lý đắp thành khuôn sắc xảo,
Tổ đình nổi bậc nét huy hoàng.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
借 凡
Tá: Mượn. Phàm: Tầm thường, cõi phàm.
Tá phàm là mượn cõi phàm, tức chỉ các Chơn linh cao trọng giáng sanh xuống cõi trần để thực hành sứ mạng cứu giúp người đời.
Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn cho biết, những bậc có Chơn linh cao trọng giáng sinh xuống phàm là mượn cõi phàm (tá phàm) để cứu vớt sanh linh, còn kẻ tầm thường thì bị đoạ xuống phàm để trả quả.
Thầy biết có những chơn linh, vì lãnh mạng tá phàm, mà dìu dắt các con của Thầy...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
借 世
Tá: Mượn. Thế: Đời, cõi đời.
Tá thế là mượn đời hay mượn cõi đời, nói các Đấng Thiêng Liêng mượn cõi đời (thế) để giúp ích và cứu độ nhơn sanh.
Như: Những bậc thiêng liêng cao trọng thường tá thế để cứu giúp người đời.
Cao Đài tá thế xuống phàm gian,
Bạch ngọc Huỳnh kim cũng chẳng màng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thấy cuộc tang thương buồn trẻ dại,
Nên Thầy tá thế cứu nàn cho.
(Thánh Giáo Minh Thiện).
Mỗi nơi lố bóng Cao Đài,
Mượn danh tá thế là bài chánh chung.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
借 塵
Tá: Mượn. Trần: Bụi, chỉ cõi Trần.
Tá trần, đồng nghĩa với Tá thế, là mượn cõi trần gian để cứu độ nhơn sanh.
Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn, cõi trần gian là cõi đoạ của các bậc Thánh, Tiên, nhưng muốn thực thi lòng đại từ, đại bi, các Đấng phải mượn cõi trần (tá trần) để lập công lao lớn.
Thánh giáo Đức Phật Mẫu có câu: Dầu cho đến bực La Hán còn phải tá trần hầu lập thân để mong thành chánh quả.
Phạm Công Tắc tìm nơi giáng thế,
Ông tá trần vốn để an dân.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
1.- Tà 斜 là xế bóng, tức chỉ ánh mặt trời, mặt trăng chếch hẳn về một phía, khi ngày hoặc đêm đã quá muộn, đã sắp hết, chiều tà, trăng tà, rừng tà.
Như: Trăng đã xế tà, bóng tà dương, ánh chiều tà.
Cúc rải đường qua vang tiếng nhạn,
Rừng tà bóng khuất vẳng hơi thung.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tà nguyệt vườn thu ướm trở đông,
Nhạn về đảnh Bắc tiếng qua sông.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tà 邪 là cong queo, không ngay thẳng, không đúng đắn về mặt đạo đức, trái với chánh.
Như: Tà pháp, có chánh ắt có tà, bị dẫn dắt đi theo đường tà đạo, lòng tà.
Quấy rồi phải biết ăn năn,
Ở cho nhân hậu chế răn lòng tà.
(Kinh Sám Hối).
Lẽ Chánh tự nhiên có lẽ Tà,
Chánh Tà hai lẽ đoán sao ra.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Tà 邪 còn có nghĩa là ma quỷ hại người.
Như: Tà quái, tà tinh, tà mị.
Thánh giáo Thầy có câu dạy: Những sự phàm tục đều là mưu kế của Tà mị yêu quái, cốt để ngăn trở bước đường Thánh đạo của các con. Những mưu quỷ quyệt ấy do lịnh Thầy dùng để thử các con.
Ai hữu phước đặng để chân vào, kẻ vô phần phải bị Tà yêu cám dỗ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Hay “Tà chính”.
Tà: Cong queo, không ngay thẳng. Chánh (chính): Đúng đắn, không tà vạy.
Tà chánh, như chữ “Tà chính 邪 正”, là hai thế lực thường đối kháng nhau như nước lửa, Âm dương, luôn luôn hiện hữu trong các pháp, tạo thành hai lực để lôi cuốn theo hai chiều ngược nhau, hầu thúc đẩy sự tiến hoá của vạn vật.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Cang thường điên đảo, phong hoá suy vi, những mảng ghét lẫn nhau, giành xé nhau, mối tôn giáo phân chia, đạo nước nhà chẳng đoái, chánh tà tà chánh nan phân, còn chút hơi thở ở cõi trần mà tính tình dọc ngang chưa chịu dứt, một mai hồn xuống Diêm Ðài, khổ A Tỳ bảo sao không buộc trói.
Xem: Chánh tà.
Tà chánh thế gian không biện biệt,
Chánh tà tâm nội có đâu xa.
(Thơ Hộ Pháp).
Nên biết căn sanh để biết mình,
Biết đâu tà chánh lựa mà tin.
(Thơ Thượng Sanh).
Lưu thanh khử trược mới thuần dương,
Tà chánh, giả chơn đã tỏ tường.
(Thơ Thái Đến Thanh).
邪 婬
Tà: Cong vạy, gian trá. Dâm: Ham muốn khoái lạc xác thịt nam nữ.
Tà dâm là ham muốn khoái lạc xác thịt nam nữ một cách bất chính, bậy bạ.
Tà dâm cũng là một trong ngũ giới cấm.
Đức Chí Tôn giải về tà dâm như sau: Phàm xác thân con người, tuy mắt phàm coi thân hình như một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn một khối chất chứa vàn vàn muôn muôn sanh vật. Những sanh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối vật chất có tánh linh, vì vật chất nuôi nấng nó cũng đều là sanh vật, tỷ như: rau cỏ, cây trái, lúa gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh. Nếu không có chất sanh thì thế nào tươi tắn đặng mà chứa sự sống. Như nó khô rũ thì là nó chết, mà các con nào ăn vật khô héo bao giờ; còn như nhờ lửa mà nấu thì là phương pháp tẩy trược đó thôi, chớ sanh vật bị nấu chưa hề phải chết.
Các vật thực vào tỳ vị, lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết. Chẳng cần nói, các con cũng biết cái chơn linh khí huyết là thế nào? Nó có thể huờn ra nhơn hình, mới có sanh sanh tử tử của kiếp nhơn loại.
Vì vậy, một giọt máu là một khối chơn linh. Như các con dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác, thì nó đến tại Nghiệt Cảnh Ðài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội đặng. Phải giữ gìn Giới Cấm ấy cho lắm!
Vào đường tu niệm tránh tà dâm,
Đàng điếm hư danh phải hổ thầm.
(Thơ Thiên Vân).
斜 陽
Tà: Xiên, bóng xế. Dương: Mặt trời.
Tà dương là trời xế chiều, mặt trời đã ngả về tây, tức là trời sắp tối.
Như: Bóng tà dương đã khuất sau đồi núi.
Diềm dà rõ nét tà dương bóng,
Ấm áp uyên ương trỗi khúc thiều.
(Lục Nương Giáng Bút).
Nhành dâu khuất, bóng đưa mờ mệch,
Cội tà dương như hết reo chiều.
(Nữ Trung Tùng Phận).
邪 道
Tà: Trái với chánh, tà vạy. Đạo: Tôn giáo.
Tà Đạo, đồng nghĩa với “Tà giáo 邪 教”, là một tôn giáo dẫn dắt chúng sanh đến con đường mê tín, lầm lạc.
Kinh Phật dạy rằng: Dùng sắc tướng, mà tìm Như Lai là Tà đạo.
(Giáo Lý).
邪 奸
Tà: Trái với chánh, tà vạy. Gian: Dối trá.
Tà gian là chỉ bọn gian nịnh, xảo quyệt, dối trá, có ý gạt gẫm người.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Nhàn Âm Đạo Sĩ có câu: Cơ quyết thắng, Ngọc Hư đã sẵn định, có chiến đấu mới có mưu tận diệt tà gian, mặt anh hùng giữa chốn chiến tràng, hễ nhăn mặt mất gan hào kiệt.
Nguyện lời nói biến hình bác ái,
Nguyện chí thành sửa máy tà gian.
(Kinh Thế Đạo).
Chuyển luân thế sự đưa kinh Thánh,
Trừ diệt tà gian múa bút Thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vui nơi đổ bác là vui khổ,
Vui thói tà gian luỵ trọn đời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
斜 輝
Tà: Xế, xiên. Huy: Ánh mặt trời.
Tà huy là bóng chiều tà, chỉ ánh sáng mặt trời đã xế bóng, mặt trời lặn sắp tối.
Như:Trong Cung Oán Ngâm Khúc, Nguyễn Gia Thiều có câu: Cầu thệ thuỷ ngồi trơ cổ độ, Quán thu phong đứng rủ tà huy.
Bích ngọc phô trương màu lá biếc,
Tà huy trang điểm cánh môi son.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Bảng lảng tà huy nắng nhạt dần,
Bỗng đâu trời đổ giọt hồng ân.
(Thơ Chơn Tâm).
Ngơ ngác lòng quỳ chưa bến đỗ,
Không gian sầm sập bóng tà huy.
(Thơ Hoài Tân).
邪 氣
Tà: Lệch, cong vạy, không chánh, không ngay thẳng. Khí: Chất hơi, chất khí.
Tà khí là khí không chánh, thuộc về khí ma quỷ. Tà khí còn dùng để chỉ khí độc, khí ô trược, có thể làm cho sanh bịnh.
Thánh giáo Đức Thanh Tâm có câu: Ðường có người đi nhiều mà không ai là người phải, đường đi dập dìu thiên hạ mà toàn là ma hồn quỷ xác, tâm giả dối, hạnh hung bạo, mật chứa đầy tà khí, thế nào gọi là người!
Chiêu an tả đạo, trừ tà khí,
Độ tận quần sanh, chiếu cứu tinh.
(Lý Giáo Tông Giáng).
Tà mị có hai nghĩa:
1. Tà: Ma quỷ. Mị 媚: A dua, nịnh nọt.
Tà mị 邪 媚 là gian tà hay dua nịnh. Chỉ những người có lòng dạ không ngay thẳng hay a dua nịnh hót.
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.
(Đạo Sử).
2. Tà: Ma quỷ. Mị 魅: Yêu quái.
Tà mị 邪 魅, như chữ “Tà quái 邪 怪”, là chỉ bọn yêu tinh ma quái, luôn luôn bày trò giả dối để lừa gạt và hãm hại kẻ tu hành.
Thánh Ngôn Đức Chí Tôn có dạy: Các con đã từng nghe lời Thầy khuyên nhủ về chuyện ngừa Cơ Bút, thế mà một phần chẳng chịu sửa cải đường ngay cho khỏi lâm vào nẻo tà mị, đã vi lịnh Thầy mà dìu dắt các con lạc bước.
Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,
Cũng vì tà mị dẫn đường con thương.
(Tán Tụng Công Đức).
Xa phường trục lợi xu danh,
Kiếm phương tà mị dỗ dành đứa ngu.
(Bát Nương Giáng Bút).
斜 月
Tà: Xế, xiên. Nguyệt: Mặt trăng.
Tà nguyệt là bóng trăng xế lặn. Như: Đêm hầu tàn ánh tà nguyệt xuyên qua cửa sổ.
Tà nguyệt vườn thu ướm trở đông,
Nhạn về đảnh Bắc tiếng qua sông.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
邪 法
Tà: Không chánh, thuộc về tà ma quỷ quái. Pháp: Luật pháp, giáo lý, luật lệ.
Tà pháp là những giáo pháp, đạo lý hay luật lệ không ngay thẳng, không chơn thật.
Kỳ khai tạo nhứt Linh Đài,
Diệt hình tà pháp cường khai Đại Đồng.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Diệt trừ tà pháp ơn Trên định,
Biến chuyển càn khôn Đạo mới thành.
(Thơ Huệ Phong).
邪 怪
Tà: Ma quỷ. Quái: Yêu quái.
Tà quái, cũng như “Tà mị 邪 魅”, hay “Tà tinh 邪 精”, chỉ bọn tinh ma quỷ quái, luôn luôn phá hoại người tu hành và gian dối, lừa gạt người lương thiện.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Khắp trong nhân loại trên mặt địa cầu nầy, phần đông vì kính thờ Tà quái, mà Tà quái vốn chứa sự chết, thì tức nhiên chúng nó ở trong vòng sự chết là phải tiêu diệt, thì bao giờ biết đặng sự hằng sống là gì.
Tà quái sau lưng đeo mắt vẻ,
Ðánh thoi bổn Ðạo cũng làm thinh.
(Thiên Thai Kiến Diện).
邪 權
Tà: Thuộc về tà ma quỷ quái. Quyền: Quyền lực, quyền hành.
Tà quyền là quyền hành của bọn tà quái, tức quyền lực của quỷ vương.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Thấy vậy chẳng đành, Thầy phải sửa cải Thiên thơ mà để cho mỗi đứa được có ngày giờ và thế lực mà dìu dắt nhau cho tròn phận sự, nhưng rốt lại, tà quyền cũng lấn lướt chất Thánh, bước tục dẫn chơn phàm, Thầy rất đau lòng mà dòm thấy con cái líu xíu bị lầm vào đường tà quái.
Quyết dẹp tà quyền xây đảnh Thánh,
Nên binh chánh nghĩa múa gươm Thần.
(Thơ Hộ Pháp).
Lướt khổ đã mong hồi cựu vị,
Gieo nhân há để vướng tà quyền.
(Thơ Huệ Giác).
Tà: Lệch, cong vạy, trái với chánh, thuộc về ma quái. Tây: Riêng tư.
Tà tây là gian dối và thiên vị, ý muốn nói lòng tà vạy chỉ lo riêng cho mình.
Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết trong quyển Thiên Đạo như sau: Thành thật với mọi người, dầu trong đạo hay ngoài đời cũng vậy, trong tất cả hành vi động tác, nhứt nhứt đều ngay thẳng thật thà; không một lời giả dối, không một ý tà tây; xử sự chẳng mưu mô lừa đảo.
Gìn lòng chơn chánh chớ tà tây,
Thưởng phạt về sau cũng hội này.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ưa nghe đạo đức ghét tà tây,
Ngưỡng mộ thì nay đã gặp Thầy.
(Đạo Sử).
邪 心
Tà: Lệch, cong vạy, trái với chánh, thuộc về ma quái. Tâm: Cái tâm.
Tà tâm chỉ cái tâm gian tà, tức là cái lòng gian xảo, ác độc.
Thánh giáo Thầy dạy: Kẻ vô phước dụng tà tâm làm một món lợi riêng, quên cả điều hành phạt đã kế bên mình, chới với cả muôn triệu giữa dòng, mà chẳng chịu sớm tự hối đặng gỡ lần mối hoạ sau.
Nên chiều mặt thế mới nên danh,
Ðừng để tà tâm đến dỗ dành.
(Đạo Sử).
Khai khiếu huyền linh diệt tánh phàm,
Pháp điều khử mị dẹp tà tâm.
(Khai Pháp Giáng Bút).
邪 精
Tà: Thuộc về ma quái. Tinh: Yêu tinh.
Tà tinh là tà ma và yêu tinh, chỉ đám ma quái luôn thử thách hay cám dỗ người tu hành.
Như: Người tu hành phải chịu thử thách của lũ tà tinh quỷ quái,
Xem: Tà quái.
Xê bóng Đạo hơn xê tâm tánh,
Lánh tà tinh dục cảnh nên thuyền.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Nương huệ kiếm đoạn vòng oan nghiệt,
Thủ thanh long đặng diệt tà tinh.
(Lục Nương Giáng Bút).
Chơn linh gẫm cũng thật linh thay!
Cái sắc tà tinh phép quá tài.
(Thiên Thai Kiến Diện).
邪 神
Tà: Tà ma, không chánh. Thần: Đấng linh thiêng, hoặc những bậc công thần được vua phong, có sắc chỉ, có đền miếu và được phụng cúng.
Tà thần là không phải là chánh thần, thuộc quỷ thần, chuyên làm những điều bất chánh.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ấy vậy, Ðạo là vật rất hữu ích, như giáp hữu ích cho thân các con. Nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lỗ, còn bỏ Ðạo thì các con ở dưới phép tà thần.
Khuyên em bước tận trường thi,
Khuyên em dùng phép sợ chi tà thần.
(Bát Nương Giáng Bút).
Diệt khối tà thần trừ ảo vọng,
Ban ân Thánh thể phục chơn truyền.
(Thơ Huệ Phong).
邪 神 精 怪
Tà thần: Không phải là chánh thần, thuộc tả phái của quỷ vương. Tinh quái: Yêu tinh quỷ quái.
Tà thần tinh quái là những vị thần thuộc tả phái, tức phái của tà ma quỷ quái.
Thánh giáo Thầy có dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: Ðạo cốt để cho kẻ hữu duyên. Những kẻ nào đã làm môn đệ của Tà thần tinh quái thì không thế gì làm môn đệ Thầy đặng.
Ma thịt quỷ hồn chôn xác chết,
Tà thần tinh quái nuốt xương tan.
(Thiên Thai Kiến Diện).
邪 說
Tà: Bất chính, không ngay thẳng. Thuyết: Học thuyết, tức một chủ trương đem ra giải thích cho người khác rõ.
Tà thuyết là một học thuyết tà vạy, bất chính.
Đức Chí Tôn giáng cơ truyền chơn lý tại Việt Nam, bằng Pháp Văn có câu: Nơi xứ nầy, dân tình rất thuần hậu và ôn hoà, nên Thầy đến cũng như Chúa Cứu Thế đã đến với chúng con để bài trừ Tà thuyết và truyền bá Chơn đạo trên toàn cầu.
Chơn truyền hồi phục tiêu tà thuyết,
Tam Giáo Ngũ Chi giữ thực hành.
(Thơ Huệ Phong).
Tà: Bất chính, không ngay thẳng. Vạy: Cong vạy.
Tà vạy, như chữ “Tà nguỵ 邪 偽”, là gian xảo, dối trá không ngay thẳng.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Lý Giáo Tông dạy về “Tà vạy” như sau: Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy.
Dữ đoạ hiền thăng ấy luật Trời,
Lánh đường tà vạy hưởng an vui.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
1.- Tả 左 là phía bên trái, đối với hữu là bên phải. Như: Tả hữu, tả phái, khuynh tả.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Chấp hai tay lạy là tại sao? Tả là nhựt, hữu là nguyệt, vị chi âm dương. Âm dương hiệp nhứt phát khởi Càn khôn, sanh sanh hoá hoá, tức là Ðạo.
Chỉ đãi thời lai quang minh tụ,
Tả ban thiểu đức, hữu ban mang.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Kìa tả hữu mắt trông hiển hiện,
Hai khán đài đối diện rất xinh.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
2.- Tả 寫 là viết, chép ra.
Tả còn có nghĩa là vẽ ra, tức diễn đạt bằng ngôn ngữ để người đọc có thể hình dung được một cách rõ nét.
Như: Tả cảnh, tả chân, tả tình.
Nhớ Mẹ già cung xanh đợi trẻ,
Tả tâm thơ thỏ thẻ bên con.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Bồng đảo còn mơ khi bút múa,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,
Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
左 班
Tả: Trái, đối với hữu là phải, không chính đáng. Ban: Hạng, bậc, bày ra có từng thứ.
Tả ban là hạng, bậc bên tả, hay cánh bên tả (trái).
Như: Nơi chánh điện của Đình Thần hai bên là tả ban và hữu ban.
Chỉ đãi thời lai quang minh tụ,
Tả ban thiểu đức, hữu ban mang.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
左 支 右 翼
Tả: Bên trái, đối với hữu là bên phải. Chi: Cành, nhánh, chân, tay. Hữu: Bên mặt (phải). Dực: Cánh chim.
Tả chi hữu dực ý nói hai bộ phận bên trái, bên phải dùng để trợ giúp cho con người.
Như: Hai đạo quân tả chi hữu dực dựa thế liên hoàn mà gìn giữ cho nhau.
Đã là “Tả Chi Hữu Dực” của Đạo Trời thì hai cơ thể “Bí truyền” và “Phổ hoá” phải liên hoà tương tiếp, tương trợ lấy nhau...
(Đại Thừa Chơn Giáo).
左 道
Tả: Tay trái, ý chỉ sự bất chánh. Đạo: Con đường, hay tôn giáo.
Tả đạo là đường lối bất chính dẫn tới nẻo tà vạy, hoặc chỉ tôn giáo không ngay chính, bàng môn.
Trong lời thề trước Bàn Ngũ Lôi của hai vị Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt có câu: Thề Hoàng Thiên Hậu Thổ trước bửu pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên đạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là môn đệ của Cao Ðài Ngọc Ðế, nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo, như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt.
Xem: Tả đạo bàng môn.
Mượn Di Đà mà làm mối lợi danh,
Làm Chánh giáo đã đành thành Tả đạo.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Chiêu an tả đạo, trừ tà khí,
Độ tận quần sanh, chiếu cứu tinh.
(Lý Giáo Tông Giáng).
左 道 傍 門
Tả Ðạo: Ðạo không đúng đắn. Bàng Môn: Cửa bên hông chớ không phải cửa chánh, ý nói không phải Ðạo Chánh.
Tả đạo Bàng môn là chỉ các tôn giáo không chơn chánh, đưa người tu đến chỗ lầm lạc, không đắc thành Chánh quả, không giải thoát khỏi luân hồi.
Tả đạo Bàng môn thuộc khoản thứ 3 Đệ nhứt hình trong Thập Hình của Lý Giáo Tông. Ai phạm phải sẽ bị tội trục xuất.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Kẻ ngoại giáo, tả đạo bàng môn, người vô đạo, riêng nắm quyền hành thế tục, nghịch cùng chơn lý chánh truyền; mượn thế lực phàm tục mà diệt lành dưỡng dữ, mê hoặc nhơn sanh, lưu luyến trần thế.
Phép hành đạo Phật giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến Tả Ðạo Bàng Môn.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
左 傾
Tả: Trái, đối với hữu (mặt), không chính đáng. Khuynh: Nghiêng về.
Tả khuynh là khuynh hướng về tả phái (phái không chính đáng).
Như: Những tôn giáo hướng về tả khuynh thường đưa con người đến chỗ lầm lạc.
Hữu lệch chừng ly sai chánh giáo,
Tả khuynh nửa thí biến bàng môn.
(Thơ Huệ Phong).
左 右 幡 君
Tả: Bên trái. Hữu: Bên phải. Phan: Cây phướn. Quân: Người.
Tả Hữu Phan Quân là hai vị chức sắc đặc biệt trong đạo Cao Đài, có nhiệm vụ cầm phướn hướng dẫn các chức sắc vào Đền Thánh bái lễ Đức Chí Tôn.
Tả Phan Quân là vị chức sắc cầm phướn Thượng Sanh đứng bên tay trái của Đức Thượng Sanh khi chầu lễ Đức Chí Tôn.
Còn Hữu Phan Quân là vị chức sắc cầm phướn Thượng Phẩm, đứng bên tay mặt của Đức Thượng Phẩm.
Tả Hữu Phan Quân là hai vị chức sắc không thuộc Hiệp Thiên Đài và đối phẩm với Giáo Sư bên Cửu Trùng Đài.
Đạo phục của Tả Hữu Phan Quân giống hệt với Hộ Đàn Pháp Quân, nhưng hai vị Phan Quân không có buộc dây Sắc Lịnh ở lưng, nghĩa là mặc áo tràng trắng như Thời Quân, đội Nhựt Nguyệt Mạo, lưng không thắt dây Sắc lịnh như Hộ Đàn Pháp Quân.
Trong Đàn cơ tại Giáo Tông Đường, đêm 19 tháng 6 năm Bính Ngọ (Dl. 5/8/1966). Phò loan: Hiến Pháp - Khai Đạo. Tái cầu lúc 21 giờ 45, Đức Hộ Pháp giáng cơ dạy Hộ Đàn Pháp Quân và Tả Hữu Phan Quân không phải là chức sắc thuộc Hiệp Thiên Đài. Đoạn Thánh giáo được chép lại như sau:
Đức Thượng Sanh bạch: – Hội Thánh Hiệp Thiên Đài còn thắc mắc về trường hợp của ba vị: Hộ Đàn Pháp Quân, Hữu Phan Quân và Tả Phan Quân về việc sau đây, cầu xin Đức Ngài chỉ giáo.
a). Trong các phiên nhóm của Hội Thánh HTĐ để giải quyết về chánh trị đạo, ba vị trên đây có được mời dự nhóm và bàn cãi hay không?
– Mấy vị đó không phải là Chức sắc Hiệp Thiên Đài nên miễn mời hội.
b). Khi sắp hàng vào Nội Nghi đảnh lễ Đức Chí Tôn, ba vị nầy phải giữ trật tự như thế nào? Hiện giờ chỉ có từ phẩm Cải Trạng trở xuống Luật Sự, sau nầy có phẩm Chưởng Ấn và Tiếp Dẫn Đạo Nhơn thì thứ tự như thế nào?
– Dầu có hai phẩm ấy hay không, Hộ Đàn Pháp Quân và Tả Hữu Phan Quân cũng cứ ngoại vòng Chức sắc Hiệp Thiên Đài, nên khi đảnh lễ, xướng: Chức sắc Hiệp Thiên Đài nhập nội nghi, lễ bái rồi, phải xướng một lần nữa: Hộ Đàn Pháp Quân và Tả Hữu Phan Quân nhập nội nghi.
Như vậy đúng trật tự.
c). Khi thiết lễ bồi yến Hội Yến Diêu Trì Cung, ba vị nầy có quyền dự hay không?
– Tất cả bổn đạo đều nhớ Bần Đạo không bao giờ cho việc ấy.
Sau đây là sơ lượt về tiểu sử của Tả Phan Quân và Hữu Phan Quân.
TẢ PHAN QUÂN
Tả Phan Quân là vị chức sắc cầm cây phướn Thượng Sanh, đứng bên trái Thượng Sanh, được Đức Chí Tôn phong cho ông Trang Văn Giáo năm 1927.
Trang Văn Giáo, sanh ngày 27 tháng chạp Kỷ Hợi (1899) tại xã Long Thành, Tổng Hàm Ninh, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ ông là Trang Văn Keo (Hương Cả) và thân mẫu là bà Bùi Thị Khuê.
Hiền nội của ông là Nguyễn Thị Thơm, hai ông bà có bảy người con gồm sáu người con trai và một người gái.
Thời niên thiếu ông theo học quốc ngữ tại các trường thuộc tỉnh Tây Ninh. Sau khi tốt nghiệp Tiểu học, ông ra đời tìm việc mưu sinh, ngoài ra, ông cũng có tham gia nhiều chức vụ trong ban Hội Tề từ 1921 đến 1927.
Theo quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, trong một Đàn cơ ngày 21 tháng 10 năm Bính Dần (Dl. 26/11/1926), ông Trang Văn Giáo có đến hầu đàn. Đức Chí tôn thâu nhận ông làm Môn đệ và cho một bài thi như sau:
Làm song ngăn đón lũ gian hùng,
Mạnh yếu đánh thoi cũng gọi hùng.
Quyết lập thân danh tua sửa lưỡi,
Nói hiền kẻ dữ nịnh thành trung.
Thâu
Khi Hội Thánh Cao Đài tổ chức Lễ Khai Đạo tại chùa Gò Kén, với tinh thần hăng hái, đầy nhiệt huyết sẵn có, ông đã giúp ích một cách đắc lực trong buổi khai đàn mở Đạo năm 1926. Ông theo lịnh Đức Quyền Giáo Tông để giúp đỡ cho Đạo những nhu cầu và các thứ vật dụng cần thiết cho lễ và nhạc...
Do đó, ông được Đức Quyền Giáo Tông tín nhiệm, giao cho việc hầu bút, hoặc chép những Thánh giáo mà Đức Chí Tôn hay các Đấng giáng cho khi thâu nhận môn đồ trong các đàn cơ phổ độ lúc sơ khai.
Ngày 18 tháng chạp năm Đinh Mão (1927) ông thọ phẩm Tả Phan Quân tại chùa Gò Kén.
Từ đó ông lại càng tận tụy với công việc và hy sinh với Đạo hơn, ông theo Đức Thượng Phẩm, góp công vào việc khai phá rừng hoang, xây dựng Toà Thánh để tạo thành vùng Thánh địa ngày nay. Ông thường ở bên cạnh mấy vị tiền bối của Đạo như Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Hộ Pháp để phục vụ cho Đạo. Nền Đạo đã trải qua nhiều cuộc biến thiên, thăng trầm, nhưng trong lòng ông vẫn giữ một dạ sắc son, trung thành với Đạo. Hội Thánh đã gặp phải những nghịch cảnh, khó khăn nguy hiểm, ông đều có mặt để giúp đỡ hoặc chia đau sớt thảm.
Năm 1946, Đức Hộ Pháp hồi loan, sau hơn 5 năm đồ lưu nơi Hải ngoại, ông xin vào phục vụ nơi văn phòng Toà Đạo, tức Bộ Pháp Chánh bây giờ. Ông là người rất siêng năng cúng kính, mặc dù ban ngày phải làm việc mệt nhọc nhưng không bao giờ ông bỏ sót một thời cúng khuya nào cả. Ông là người làm việc rất tích cực, lúc nào cũng miệt mài với nhiệm vụ, cho đến lúc tuổi già sức yếu, ông mới vắng mặt ở văn phòng làm việc và trút hơi thở cuối cùng vào lúc 22 giờ đêm, mùng 2 tháng 5 năm Bính Thìn (Dl. 30/5/1976), hưởng thọ 78 tuổi.
HỮU PHAN QUÂN
Hữu Phan Quân là vị chức sắc cầm cây phướn Thượng Phẩm, đứng bên tay mặt Đức Thượng Phẩm. Chức Hữu Phan Quân được Lý Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ phong cho ông Lê Văn Thoại năm 1965.
Ông Lê Văn Thoại sinh năm Kỷ Mùi (1919) tại xã Hoà An, quận Cao Lãnh, tỉnh Sađéc, nay là Thị xã Kiến Phong, tỉnh Đồng Tháp.
Xuất thân từ một gia đình có đạo Cao Đài, được sự dạy dỗ của song thân nên ông đã giác ngộ đạo pháp rất sớm, từ năm 12 tuổi, ông được may duyên về Toà Thánh Tây Ninh làm công quả, tức vào khoảng năm 1931.
Tuy chưa đủ tuổi nhập môn, nhưng ông Thoại cầu xin Hội Thánh được nhập môn vào đạo. Vào ngày rằm tháng 7 năm Tân Mùi (Dl.28/08/1931), Đức Hộ-Pháp cho phép ông nhập môn, nghĩa là Ngài đã ban đặc ân cho ông thêm 9 tuổi, để ông được nhập môn theo luật Đạo đã quy định.
Lớn lên Lê Văn Thoại là một Thanh niên đầy nhiệt huyết, ông mong muốn phụng sự cho Đạo và giúp ích đất nước Việt Nam, nên ông đã gia nhập vào đội “Nội Ứng Nghĩa Binh”, do Trần Quang Vinh (tức Giáo-Sư Thượng Vinh Thanh) thành lập vào đầu năm 1943, hợp tác với quân đội Nhựt đảo chánh Thực dân Pháp.
Sau ngày đảo chánh Pháp thành công, Ngài Lê Văn Thoại trở về tiếp tục đời sống tu hành, lập công tại Toà Thánh Tây Ninh.
Khi tham gia vào quân đội Cao Đài với cấp bậc sau cùng là Thiếu Tá cho đến khi quân đội Cao Đài được quốc gia hóa dưới thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, vào khoảng năm 1956.
Ông Lê Văn Thoại là người tình nguyện nhận lịnh của Đức Hộ Pháp, hướng dẫn ba ông nữa là Kỳ, Đại, Lợi đem lá cờ Nhan Uyên (Bạch kỳ Nhan Uyên) ra cắm giữa cầu Hiền Lương (Bến Hải), thuộc vĩ tuyến 17 để phân ranh hai miền Nam Bắc.
Vào đêm mùng 4 tháng Giêng năm Ất Mùi (Dl.15/02/1956), Đức Hộ Pháp quyết định tự lưu vong sang Miên quốc, ông Lê Văn Thoại cũng tình nguyện xin theo hầu, Đức Ngài cho phép nên ông cũng được rời khỏi Hộ Pháp Đường đi trên chuyến xe đó.
Trong Đàn cơ tái cầu vào ngày 17 tháng 10 năm Ất Tỵ (Dl. 09/11/1965), Đức Lý Giáo Tông, Nhứt Trấn Oai Nghiêm, đã phong cho Ngài Lê Văn Thoại phẩm Hữu Phan Quân.
Khi Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý được thành lập, Hội Thánh bổ Ngài Khai Đạo Hiệp Thiên Đài làm Giám Đốc Cơ quan, còn ông Hữu Phan Quân Lê Văn Thoại làm Phó Giám Đốc để điều hành mọi việc như xây dựng cơ sở, quản lý máy móc, tuyển mộ chuyên viên, nhứt là kiểm tra những bài vở phát thanh hàng tuần của cơ quan.
Tuy rất bận rộn công việc hằng ngày, nhưng ông Lê Văn Thoại là người rất siêng năng cúng kính, hằng ngày ông thường xuyên đến Toà Thánh cúng Tứ Thời, cho đến khi tuổi già sức yếu, ông không còn đi dứng được nhiều nữa mới giảm dần các thời cúng. Vào cuối tháng 3, thình lình ông phát bệnh, qua đến ngày 25 tháng 6 năm Đinh Hợi (Dl. 07/08/2007), vào lúc 11 giờ 30 thì ông quy liễu, hưởng thọ 89 tuổi (tuổi trong giấy là 98 tuổi).
Buổi sinh thời ông Lê Văn Thoại có làm rất nhiều bài thơ, ký với bút hiệu là Tử Trước và Chánh Công. Sau đây xin chép lại vài bài thơ của ông.
|
AN PHẬN
Chẳng phải Hiệp Thiên, chẳng Cửu Trùng,
Tu hành lập chí đức trung dung.
Tứ thời lễ bái tâm minh định,
Ngũ giới Tam quy tánh huệ tùng.
Khổ hạnh đường dài khiêm niệm khiết,
Lìa xa sắc tướng Nhẫn hoà Cung
May duyên nay gặp kỳ Ân tứ,
Một kiếp bồi công kết quả chung.
Tử Trước
(15/04/Nhâm Tuất, 1982). |
|
|
|
CÁI KHÔNG
Từ thuở chào đời vẫn cái không!
Lớn lên danh lợi lại đèo bồng.
Kinh doanh sự nghiệp chưa bao thỏa,
Vợ đẹp nhà cao thẩm mỹ thông.
Bọc rắn, ôm hùm chưa tỉnh ngộ,
Diệt thân hại trí gọi là khôn.
Cho hay thế sự ba canh mộng,
Của trục phù du cứ mãi chồng.
Tử Trước |
Hộ Đàn Pháp Quân, Tả Hữu Phan Quân nhập nội nghi.
(Nghi Tiết Cúng Đàn).
Tả: Ở trạng thái không còn kết thành khối nữa, mà rời ra thành những mảnh vụn nhỏ. Tơi: Bị rời ra thành những hạt hoặc sợi nhỏ, không còn dính vào với nhau nữa.
Tả tơi là rách rưới tan nát, tức ở tình trạng bị rách bị rời ra thành nhiều mảnh nhỏ, trông rất thảm hại.
Như: Bị đòn tả tơi, quần áo bị rách tả tơi.
Chanh ranh làm rộn đến người mời,
Chẳng biết phận mình chịu tả tơi.
(Đạo Sử).
Còn thân thiếp chịu khốn nàn,
Tả tơi nỗi mẹ, truồng trần nỗi con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Tạ ân”.
Tạ: Bái nhận cái người ta cho. Ơn (ân): Ơn nghĩa.
Tạ ơn, như chữ “Tạ ân 謝 恩”, là cảm cái ơn của kẻ khác làm cho mình, mà có lời bày tỏ ra.
Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ. Chư Môn Ðệ bình thân. Kiệt lạy Thầy tạ ơn Thiên Phong Giáo Hữu.
Cảm tạ ơn trên đầu dìu đỡ,
Từ khi đi khi trở lộn về.
(Kinh Thế Đạo).
Muôn tạ ơn lòng bạn lão mai,
Mừng cho đôi trẻ đẹp duyên hài.
(Thơ Thuần Đức).
謝 世
Tạ: Từ tạ đi. Thế: Thế gian, chỉ cõi đời.
Tạ thế là từ tạ cõi thế gian mà ra đi, ý chỉ sự chết. Tạ thế, đồng nghĩa với “Tỵ thế 避 世” là lánh đời.
Như: Người mẹ tạ thế vào lúc anh ấy mới mười tuổi.
Đổng Vĩnh nghèo cơn cha tạ thế,
Vay tiền chôn nào nệ bán mình.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
1.- Tác là vóc dáng, tướng tá, dáng vẻ bề ngoài của một người.
Như: Tác anh ta cao ráo và mập mạp, tác của nàng thon nhỏ, yểu điệu.
Tác nữ nhi chỉ đặng một tuần,
Cơn tốt đẹp hoa xuân đương nở nhụy.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tác là tuổi. Như: Tuổi tác, bạn tác (bạn cùng tuổi, trang lứa).
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngài nhờ thấy bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nghĩa của nhà Châu vua Văn Vương và Võ Vương dục khai “bổn thiện” nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn, mà dám chịu nhọc nhằn khổ cực giúp đạo đức, khử bạo tàn, thâu cơ nghiệp Thành Thang, cứu dân đen trong nước lửa.
Mình dầu đồng bạn tác cùng quan,
Đừng hổ phận bần hàn cha mẹ.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Tác 作 là làm, gây ra, dựng lên. Như: Tác ác, tác thành, tác hiệp, tự tác.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn khôn Thế giới, nên mới gọi là Pháp; Pháp có mới sanh ra Càn khôn Vạn vật rồi mới có người, nên gọi là Tăng. Thầy là Phật chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy.
Tuân hành đúng mức đường tu vững,
Tự tác sai chiều bước Ðạo nghiêng.
(Thơ Thượng Sanh).
Hay “Tác hợp”.
Tác: Làm. Hiệp (hợp): Hiệp lại.
Tác hiệp, như chữ “Tác hợp”, làm cho trai và gái kết đôi với nhau thành vợ chồng.
Như: Chú của cô ta đứng ra tác hiệp cho hai đứa tôi.
Xem: Tác hợp.
Tác hiệp sẵn nhờ xây bĩ thới,
Thành song trước định gặp thư hùng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
作 合
Hay “Tác hiệp”.
Tác: Làm. Hợp: Hiệp lại.
Tác hợp, còn đọc là “Tác hiệp”, là làm cho đôi trai gái hiệp lại với nhau thành vợ chồng.
Trong Kinh Thi có câu: Thiên tác chi hiệp 天 作 之 合, nghĩa là Trời làm cho hai bên trái gái hợp lại với nhau. Nghĩa bóng: Làm cho đôi trai gái thành vợ chồng.
Như: Duyên Trời tác hợp.
Vườn xuân đào lý buổi liên chi,
Tác hợp cho con lúc thiếu thì.
(Thơ Thuần Đức).
作 風
Tác: Làm ra, tạo nên. Phong: Cử chỉ, dáng dấp.
Tất cả những hành động, cử chỉ, cách ăn ở hay cư xử biểu lộ ra thói tục, phong cách của một người, gọi là tác phong.
Huấn từ của Đức Thượng Sanh có dạy: Được như vậy, tác phong của người chức sắc Cao Đài mới vượt lên đến mức siêu nhiên và mới hẳn thật là tác phong của bậc Thánh nhơn tại thế nầy.
Tuy xa nguồn Đạo tác phong còn,
Trăm giũa ngàn mài một tấm son.
(Thơ Thuần Đức).
作 弊
Tác: Làm. Tệ: Hư, xấu.
Tác tệ làm những điều xấu xa, tức là làm những việc có hoạ hại về sau.
Như: Càng ngày anh ấy càng làm những điều tác tệ.
Đoạ trầm luân chưa chịu thoát, mà điều tình tội lại chác thêm, buộc thảm đeo phiền, cũng tự mình tác tệ, chờ ăn năn rất muộn về sau.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
作 成
Tác: làm, tạo nên. Thành: Nên việc.
Tác thành là làm nên, làm nên công việc, hoặc làm nên công việc cho người.
Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Tâm Chơn Nhơn có câu: Phàm Pháp luật lập thành đều tuỳ sở dụng, buộc kẻ chung công hiệp trí tác thành một cơ sở vĩ đại, đông tây tương thân tương ái.
Bồ liễu nhứt thân sanh biến hoá,
Tác thành kim thể đắc trường sanh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
鑿
Tạc là xoi, đục, chạm vào gỗ hoặc trên vật rắn một hình tượng mỹ thuật định sẵn.
Như: Tạc tượng Phật, tạc bia thờ nơi miếu, con giống mẹ như tạc.
Tạc còn dùng với nghĩa bóng là ghi nhớ. Như ghi lòng tạc dạ.
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,
Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chia gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tạc dạ: Khắc vào lòng dạ. Ghi xương: Ghi vào xương cốt.
Tạc dạ ghi xương có nghĩa là khắc vào xương cốt ghi vào lòng dạ, ý nói khắc ghi vào tâm khảm.
Chẳng nệ đường xa bước thẳng đến đây mà chia sự nhà. Ơn ấy tôi hằng tạc dạ ghi xương đó.
(Thánh Giáo Thượng Phẩm).
Tạc tượng: Đúc hình khuôn tượng. Lầu chuông: Lầu để gác chuông U minh, tức Bạch Ngọc Chung Đài.
Tạc tượng lầu chuông ý chỉ bức Tượng bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh được tạc nơi lầu chuông.
Bà Lâm Ngọc Thanh, tục danh bà Huyện Xây, một nghiệp chủ giàu có ở Vũng Liêm, nhập môn vào đạo Cao Đài năm Bính Dần 1926. Bà có công lớn giúp đỡ trong việc xây dựng và truyền bá mối đạo Trời, nên sau lúc quy tiên, được Đức Chí Tôn ân tứ lần sau cùng Phẩm Đầu Sư Nữ phái, Hội Thánh cho xây Bửu tháp phía Tây Lang và tạc tượng bà trên Lầu chuông mặt tiền ngôi Đền Thánh.
Xem: Lâm Hương Thanh.
Tạc tượng lầu chuông gìn Thánh thể,
Chưởng quyền Nữ phái độ nhơn sanh.
(Thơ Huệ Phong).
酢 酬
Tạc: Khách rót rượu mời lại chủ. Thù: Chủ rót rượu mời khách.
Tạc thù, hay thù tạc là nói chủ khách mời rượu lẫn nhau. Nghĩa rộng: Vui vẻ quan hệ, mời mọc nhau.
Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên có câu: Lão để lời cho hiền hữu biết rằng, trong môn đệ của Ðức Từ Bi phần nhiều đã chẳng giữ lời Thầy mà xử cho tròn phần Nhơn đạo, giao tiếp cùng nhau cho có nét yêu dấu, tạc thù trong niềm đạo hữu, lại có dạ ghét lẫn tương phân.
Chén rượu tạc thù vui buổi tết,
Câu thi ngâm vịnh hứng khi nhàn.
(Ngọc Triệu Thanh).
Anh về sưởi ấm tình thân thuộc,
Tôi đến nâng cao chén tạc thù.
(Thơ Hoàn Nguyên).
1.- Tách là chia, rời, chẽ, tức làm cho rời hẳn ra, không còn gắn liền với nhau nữa.
Chim về cội, nước tách nguồn, từ xưa kiếp con người giữa thế chẳng qua là khách đi đường. Phận sự muốn cho hoàn toàn cần phải có bền chí và khổ tâm. Có bền chí mới đạt phẩm vị thanh cao, có khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh.
Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.
(Kinh Tận Độ).
Tôi từ lúc tách mình thoát tục,
Không ra tay tiếp xúc với đời.
(Thơ Hộ Pháp).
Đuốc huệ rạng soi đường tấn hoá,
Thuyền từ nhẹ tách bến luân hồi.
(Thơ Tiếp Đạo).
2.- Tách là vật dùng để uống nước, thường làm bằng sứ, miệng rộng, có quai cầm.
Như: Tách cà phê, bộ ly tách.
Nơi mỗi ghế xếp chung thật đủ,
Tách, chén, ly, muỗng, đũa trên bàn.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Tách: Chia, rời, chẽ, tức làm cho rời hẳn ra, không còn gắn liền với nhau nữa. Dời: Thay đổi, làm thay đổi.
Tách dời, như chữ “Tách rời”, là tách rời hẳn ra, không còn chung với nhau nữa.
Ác lồng nhựt rạng tản sương mơi,
Gặp lối đường quanh khó tách dời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
1.- Tai là một bộ phận ở hai bên đầu người hay động vật dùng để nghe. Như: Tai nghe mắt thấy, tai vách mạch rừng, trái tai gai mắt.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Các con nghe cho rõ, thường ngày các con trông thấy những điều trái tai gai mắt, các con có biết vì tại sao chăng?
Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh đảo nghiêng tai Thánh khảy đờn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Khổ hạnh chí mong quy nẻo chánh,
Ngoài tai chớ chác miếng hư vinh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tai 災 là cái rủi ro, hay cái hoạ nạn xảy đến bất thình lình. Như: Tai qua nạn khỏi, phải ai tai nấy.
Thánh giáo Thầy có dạy: Nếu cả thế gian nầy biết tu thì thế gian có lẽ cải lý Thiên đình mà làm cho tiêu tai tiêu nạn đặng, huống lựa mỗi cá nhân biết tu thì Thiên đình cầm bộ Nam Tào cũng chẳng ích chi.
Vì chưng tựu thiểu thành đa,
Hoạ tai báo ứng chẳng qua mảy hào.
(Kinh Sám Hối).
Thi ân, tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Tai 哉 là một tiếng trợ từ, có nghĩa là vậy thay.
Như: Ai tai! Khâm tai, hảo tai.
Hảo tai một gái nữ anh tài,
Mới biết mà tâm Ðạo quá hay.
(Đạo Sử).
災 厄
Tai: Hoạ hại to lớn. Ách: Tai ương bao trùm cho nhiều người.
Tai ách là tai hoạ nặng nề phải chịu đựng. Như: Hôm ấy chị tôi thoát khổi một tai ách.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thầy dạy: Thương thương ghét ghét, các con đặng biết, trong khi các con lâm nàn tai ách, các con vì Đạo mà phải buộc ràng tay chân trong quan lại.
Thời cuộc tuần hoàn tai ách khởi,
Liệu mà xông lướt, liệu đua tranh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cõi tục can qua dầu phải rứa,
Xứ thần tai ách có vầy sao?
(Thiên Thai Kiến Diện).
Tai: Hoạ lớn. Bay: Bay đến, ý chỉ xảy đến thình lình.
Tai bay là tai nạn xảy đến một cách thình lình và bất ngờ cho mình.
Như: Tai bay hoạ gởi.
Gặp lúc tai bay hơ hẫng chịu,
Lần theo đường Ðạo nợ đời rồi.
(Đạo Sử).
Tai bay: Tai nạn xảy đến bất ngờ cho mình. Hoạ gởi (gửi): Hoạ hại gửi vào thân.
Tai bay hoạ gởi ý nói tai hoạ đến một cách thình lình, vô can mà phải nhận lãnh.
Tai bay hoạ gởi có ai dè,
Xe đạp, xe đèo: Xe ủi xe.
(Thơ Hoàn Nguyên).
災 變
Tai: Cái tai hoạ bất ngờ xảy tới. Biến: Thay đổi.
Đang yên ổn bỗng nhiên có sự thay đổi bất ngờ đem đến điều hoạ hoạn, gọi là tai biến. Như: Đề phòng tai biến trong mùa khô hạn.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn bằng Pháp văn, được Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Nhơn loại hiện chịu đau khổ bởi nhiều cuộc tai biến.
Đời còn tai biến thảm than,
Người người ưa chuộng theo đàng hư danh.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tham tàn chúng đã gây tai biến,
Oan khúc mình vương lấy thảm sầu.
(Thơ Thuần Đức).
災 害
Tai: Cái tai hoạ bất ngờ xảy tới. Hại: Bị tổn thất, tổn thương.
Tai hại là tai vạ và tổn hại, tức nạn tai gây ra nhiều mất mát, thiệt hại. Như: Hậu quả tai hại khi nói dối.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Sự hiện diện đông đủ của toàn thể Chức Việc Nam Nữ trong buổi lễ nầy làm cho Hội Thánh thấy rõ cái thiện chí của quý vị là dốc lòng học hỏi cho thông hiểu luật pháp và các nghi lễ về Quan, Hôn, Tang, Tế của nền Ðại Ðạo hầu dìu dắt nhơn sanh cho khỏi sai đường lạc lối, tránh điều đổ vỡ tai hại vô phương cứu vãn tức là sự thất kỳ truyền nơi ngày mai hậu.
Lời ngọt ngon trí để đừng xiêu,
Lòng nhi nữ lắm điều tai hại đến.
(Phương Tu Đại Đạo).
Thần oai chẳng nể, mang tai hại,
Thánh giáo không kiêng gánh hoạ sâu.
(Thơ Thái Đến Thanh).
災 禍
Tai: Cái tai hoạ bất ngờ xảy tới. Hoạ: Điều tổn hại.
Tai hoạ là những thứ rủi ro lớn lao đưa đến khiến người ta phải chịu tổn hại và khốn khổ. Như: Gieo tai hoạ.
Trong quyển Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có câu: Tất cả nạn nhơn của một tai hoạ lớn như động đất, bảo lụt, chìm tàu, hoả hoạn, dịch khí, chiến tranh, vân vân... đều là những người chịu một quả báo chung vì họ đã đồng tạo một ác nghiệp.
Nếu vội trách người trên thì đọa,
Cũng có khi tai hoạ trả liền.
(Kinh Sám Hối).
Tai: Lỗ tai, chỉ sự nghe. Mắt: Con mắt, chỉ sự thấy.
1.- Tai mắt là lỗ tai, con mắt chỉ hai bộ phận nghe và thấy của con người.
Tai mắt còn dùng để ví với kẻ chuyên nghe ngóng, tìm hiểu, cung cấp tin tức giúp cho người khác nắm bắt tình hình.
Cầu danh chác lợi mờ tai mắt,
Mua chức bán quyền nám phổi gan.
(Thơ Hoàn Nguyên).
2.- Tai mắt còn dùng để chỉ người có danh vọng, có địa vị trong xã hội.
Như: Ông ấy là người tai mắt trong làng nầy.
Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
Nghĩa anh em cư xử thuận hoà.
(Kinh Sám Hối).
Hay “Tai nạn”.
Tai: Cái hoạ hại to lớn bất ngờ xảy tới. Nàn (nạn): Những mối hại nguy hiểm.
Tai nàn, như chữ “Tai nạn 災 難”, là mối hoạ lớn đem lại sự khốn khổ, hiểm nguy.
Xem: Tai nạn.
Sống dương thế hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
(Kinh Sám Hối).
Cõi trần trung giái thinh thinh,
Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.
(Xưng Tụng Công Đức).
災 難
Tai: Cái hoạ hại to lớn bất ngờ xảy tới. Nạn: Những mối hại nguy hiểm.
Tai nạn là việc rủi ro bất ngờ xảy ra gây thiệt hại lớn cho con người.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Kỳ Hạ nguơn hầu mãn, nhơn vật vì tai nạn mà phải tiêu tận, mười phần còn đoái lại có một mà thôi.
Nếu muốn khử tiêu tai nạn đến,
Thì nên khẩn nguyện sợ oai quyền.
(Đạo Sử).
Khuyên anh sớm lánh lần hậu hoạn,
Tránh những điều tai nạn về sau.
(Thơ Hộ Pháp).
災 危
Tai: Cái tai hoạ bất ngờ xảy tới. Nguy: Những mối hại ngặt nghèo, nguy hiểm.
Tai nguy tức là tai nạn nguy hiểm.
Thánh giáo Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ có câu: Thuyền gần bến để độ khách trần lúc tai nguy, còn cơ thoát khổ gần ngày để cho khách trần một bài kinh nghiệm. Đạo mầu huyền bí cao sâu là phương cứu khổ.
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn.
(Kinh Sám Hối).
Tai: Cái hoạ hại to lớn. Qua: đi qua. Nạn khỏi: Hoạn nạn đã qua khỏi.
Tai qua là tai nạn đã đi qua. Như: Tai qua nạn khỏi là tai nạn đã qua khỏi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phải giữ trọn nghĩa nhân Ðạo Ðức bền lòng thiện niệm để cầu nguyện Ðức Chí Tôn cho tai qua nạn khỏi.
Lâm nguy nguyện vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
(Kinh Sám Hối).
Tai: Cái tai hoạ bất ngờ xảy tới. Trời: Chỉ sự tự nhiên hoặc chỉ Đấng Tạo hoá.
Tai Trời, như chữ “Thiên tai 天 災”, là hiện tượng thiên nhiên gây tác hại lớn đến sản xuất và đời sống, như bão lụt, hạn hán, động đất, sóng thần...
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phương chi nạn chiến tranh đang dầy xéo đất nước, suốt phần tư thế kỷ nay; tai Trời ách nước còn dồn dập gieo thêm tang tóc làm cho giống Việt Thường đã quá thống khổ, đoạ đày, đã phải chịu thêm nổi điêu linh tàn tạ.
Hoàn cảnh nguy nan lôi cuốn mãi,
Tai Trời chung chịu đổi dời thay.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
災 殃
Tai: Cái hoạ hại to lớn. Ương: Hoạ hại.
Tai ương tức là tai nạn hoạ ương, như cháy nhà, đại hạn, bảo lụt...
Kinh thư có câu: Tác bất thiện thọ chi bá ương 作 不 善 受 之 百 殃, nghĩa là làm việc chẳng lành thọ lấy trăm điều tai hoạ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo xin được giải chữ Từ bi ai ai cũng đều có sẵn trong tâm, trẻ con nên năm bảy tuổi thì nó đã biết sự thương yêu cha mẹ, thương yêu anh em là người thân tộc gần gũi của nó, khi nó đã trưởng thành có vợ con, bậu bạn thì nó lại thương yêu rộng ra hơn nữa, một khi đã thấy sự đau khổ hoạn nạn, tai ương của quần chúng thì nó cảm hoá xúc động đến tâm thương yêu lan tràn ra, không biết đâu là giới hạn, ấy là tánh từ bi đó.
Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại.
Độ kẻ lành chế cải tai ương.
(Kinh Tận Độ).
Sang cả mặc người đừng bợ đỡ,
Hoạnh tài trơ mắt khỏi tai ương.
(Giới Tâm Kinh).
Như nhiên lành phước dữ tai ương,
Một trả một vay cũng lẽ thường.
(Đạo Sử).
再
Tái là lại lần nữa. Như: Tái bút, tái kiếp, tái sinh, xuân bất tái lai.
Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có đoạn: Ðức Chí Tôn đã lấy từ bi mà châm chế, mong ngày Ðạo được hoà bình. Vậy khá chung trí hiệp tâm mà tái dìu mối Ðạo. Ấy là phương chuộc lỗi sửa mình mà trở về ngôi cũ đó.
Lão đợi chư Ðạo hữu đặng tái lãnh trách nhậm, nếu chẳng thi hành thì luôn Ðức Chí Tôn cũng phải theo Lão mà ra khỏi kỳ phổ độ nầy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
再 求
Tái: Lại một lần nữa. Cầu: Yêu cầu, cầu cơ.
Tái cầu là yêu cầu lại, hoặc cầu cơ lại một lần nữa, tức là đã cầu một lần rồi, tiếp tục cầu thêm lần nữa.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có câu: Trước ngực ngay trán phải để chữ cung Càn, chữ vàng, chữ Bát Quái. Còn cái áo con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy cung kia trên áo.
Khi Chí Tôn thăng, quý anh quý chị cả thảy phải lạy đưa, rồi tái cầu, có Ðức Mẹ giáng đàn.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Bàn ngưng chuyển người ra giải khát,
Lúc tái cầu thao tác khoan thai.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
再 演
Tái: Lại một lần nữa. Diễn: Trình bày ra.
Tái diễn là diễn lại lần nữa, tức là trình bày lại thêm một lần nữa.
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn dạy: Nền chơn giáo sắp trở thay, đó là một nhiệm mầu, chỉ còn sắp tái diễn nhiều màn càng thêm khó cho chúng ta, những kẻ Đạo tâm thì vững bước, còn tâm linh không vững thì trở ngang rồi thêm hận.
Trước mắt toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy cái tấn tuồng chia đôi Hoàng Đồ của Tổ Quốc nó đã tái diễn.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Hay “Tái hợp”.
Tái: Lại một lần nữa. Hiệp (hợp): hợp lại.
Tái hiệp, như chữ “Tái hợp 再 合”, là sum họp trở lại sau những ngày chia ly, cách biệt.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có đoạn: Thiếp xin để lời mừng ngày tái hiệp hôm nay. Xin nghe. Chư hiền hữu khá lưu ý, thoảng có điều gì chưa vừa ý, xin nói nghe.
Quan thành tái hiệp Hớn triều phong,
Thánh đức mạc vong hám thế trần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nầy là chỗ đôi ta tái hiệp,
Nầy là nơi vừa kịp hoà vui.
(Nữ Trung Tùng Phận).
再 劫
Tái: Lại một lần nữa. Kiếp: Một đời người.
Tái kiếp là một kiếp sống ở cõi trần nữa, tức là đầu thai trở xuống cõi trần một lần nữa.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Bởi vậy cho nên, nhiều bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật cam lòng thủ phận, chẳng dám vọng cầu đem thân vào cảnh đoạ, nhưng mà chẳng tái kiếp thì như nhu sĩ trốn thi, thế nào giữ vững địa vị cao thượng?
Tái kiếp lao đao Thầy cám cảnh,
Đến cho con một Đạo linh phù.
(Thanh Sơn Giáng Bút).
Khi răn dạy cũng là thừa dịp,
Dầu ông Tiên tái kiếp cũng không bì.
(Phương Tu Đại Đạo).
再 立
Tái: Lại một lần nữa. Lập: Làm, dựng nên.
Tái lập là làm lại, hay dựng lại một lần nữa.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy Hội Thánh Cửu Trùng Đài như sau: Phải tái lập Sổ cầu phong và cầu thăng. Sau khi lập xong, gởi hết hồ sơ cho Hiệp Thiên Đài minh tra công nghiệp.
Uổng thay! Nền Ðạo chẳng phải hư, ngày nay không phương tái lập.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
再 遇
Tái: Lại một lần nữa. Ngộ: Gặp gỡ.
Tái ngộ là gặp gỡ trở lại.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hẹn cùng nhau hội hiệp trong ngày tái ngộ, Hội Thánh chỉ ước mong quý vị vững bước trên đường tu tập, dồi trau đức tính hầu trở nên những Chức Sắc ưu tú trong cửa Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Một bóng luống chờ ngày tái ngộ,
Chơn thần gìn đặng vẹn tinh anh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mong ngày tái ngộ dưới trăng sao,
Dầu phải hy sinh đến thế nào.
(Thơ Thuần Đức).
Hay “Tái nhiệm”.
Tái: Lại một lần nữa. Nhậm (nhiệm): Gánh vác.
Tái nhậm, như chữ “Tái nhiệm 再 任”, là nhậm chức trở lại, tức là một lần nữa gánh vác chức vụ đó.
Trong Bát Đạo Nghị Định, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt có yêu cầu Đức Lý như sau: Ðệ tử cùng cả Chức Sắc đều hết lòng lo lắng, cúi xin Ðức Giáo Tông từ bi tái nhậm quyền hành hầu chỉnh đốn nền Ðạo.
Lão vì Chí Tôn nài nỉ cầm mối Thiên thơ sửa nền Chánh giáo, mà tái nhậm quyền hành Giáo Tông.
(Thánh Ngôn Sưu Tập).
Tái ông: Ông lão ở gần quan ải. Mất ngựa: Ngựa đi khỏi nhà bị lạc mất.
Tái ông mất ngựa, bởi câu “Tái ông thất mã 塞 翁 失 馬”, là ông lão nhà gần nơi quan ải bị mất ngựa.
Do tích: Tái ông là một người ở gần nơi quan ải. Con ngựa ông vô cớ đi mất. Mọi người nghe tin, đến chia buồn. Ông lão nói: Không có chi, biết đâu chẳng phải là điều may. Mấy tháng sau, ngựa trở về mang theo một con ngựa tốt khác. Mọi người nghe tin đến chúc mừng, ông lão nói: Không có gì vui, biết đâu chẳng phải là điều hoạ. Ít lâu sau, con Tái ông bắt con ngựa hay cỡi, ngựa té gãy đùi. Mọi người nghe tin đến chia buồn. Tái ông nói: Không có gì, biết đâu chẳng phải là điều may? Năm sau, giặc Hồ tràn vào cửa ải, trai tráng phải ra chiến đấu. Người ở làng mười chết hết chín, con Tái ông vì cỡi ngựa bị què chân nên không bị ra chiến trận, vì thế vẫn còn sống sót. Cho nên người xưa nói: Trong phúc có hoạ, trong hoạ có phúc.
Tái ông mất ngựa điềm đưa đến,
Hoạ phước hay đâu tránh được nào.
(Thơ Thiên Vân).
再 犯
Tái: Lại một lần nữa. Phạm: Phạm lỗi, tức mắc phải điều quấy với người.
Tái phạm là phạm tội một lần nữa.
Thánh giáo Hộ Pháp dạy: Mầm tạo loạn nơi pháp luật là điều đáng tiếc, các em không làm gương đạo hạnh lại dùng áp lực đối với bề trên. Bần Đạo cấm hẳn tự hậu không đặng làm như vậy. Nếu tái phạm sẽ có hình phạt. Đó là lời cảnh cáo của Bần Đạo, nghe à!
Thầy cũng lấy từ bi dung cho, bằng tái phạm sẽ bị Toà Tam Giáo trục xuất.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Hay “Tái sinh”.
Tái: Lại một lần nữa. Sanh (sinh): Sanh ra đời.
Tái sanh, như chữ “Tái sinh 再 生”, tức là sinh lại một lần nữa trong kiếp sau.
Tái sinh là chỉ về kiếp sau.
Thánh giáo Thầy có câu: Cái phẩm vị của các con phải buộc tái sanh nhiều kiếp mới đến địa vị tối thượng mình là nơi Niết Bàn.
Tái sanh sửa đổi Chơn truyền,
Khai cơ tận độ Cửu tuyền diệt vong.
(Kinh Tận Độ).
Dầu đoạt vị ở an Thiên cảnh,
Dầu tái sanh mở cảnh siêu phàm.
(Kinh Thế Đạo).
再 造
Tái: Lại một lần nữa. Tạo: Dựng lên, làm ra.
Tái tạo là gây dựng lần nữa, tức tạo dựng lại cơ đồ hay sự nghiệp lần thứ hai.
Tái tạo còn dùng để chỉ lời cám ơn người cứu sống mình được khỏi chết. Như: Ơn tái tạo.
Tam giáo một nhà xem chẳng lạ,
Khai nguơn tái tạo chuyển Tông Nho.
(Thơ Tiếp Đạo).
Tái: Nước da đã mất sắc, trở nên xám. Tê: Trạng thái mất hết cảm giác ở một bộ phận nào đó trong cơ thể.
Tái tê, như chữ “Tê tái”, là trong lòng đau xót mất cả hứng thú, tức cảm giác hay cảm xúc quá mạnh, quá sâu sắc, đến mức làm như không có khả năng cảm giác, cảm xúc gì khác nữa.
Bắt ốc hái rau phương đỡ dạ,
Dầm mưa dãi gió tái tê lòng.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Chờ đợi tái tê lòng muối xát,
Tới lui e ngại bức tường xây.
(Thơ Võ Thành Lượng).
再 世
Tái: Lại một lần nữa. Thế: Đời.
Tái thế là đến thế gian một lần nữa, tức ra đời lần thứ hai, sống lại lần thứ hai.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Vậy Thầy cũng nói luôn để cho anh em nhìn nhau, thương yêu nhau. Nó là Văn Thù Bồ Tát tái thế, nghe à! Nó lập ngôi vị cho con, nó đi một đường với con mà hành đạo cho tới ngày hai con đến đắc quả đặng trở về cùng Thầy.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế ngựa trâu công đền.
(Kinh Sám Hối).
Lễ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tái thế tử vô ưu.
(Bài Thài Thất Nương).
Đòi phen tái thế dìu sanh chúng,
Lắm lúc siêu hồn rưới huệ ân.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
再 誓
Tái: Lại một lần nữa. Thệ: Thề.
Tái thệ là thề lại lần nữa.
Theo tôn chỉ đạo Cao Đài, những tín đồ của Đạo đều đã được Minh thệ trước Chánh điện Đức Chí Tôn. Nếu người nào đã lỗi thệ, tức là bỏ Đạo, phản loạn chơn truyền, sau muốn trở về thì phải tái thệ, tức là thề lại một lần nữa.
Hội Thánh thể lòng đại từ đại bi của Đức Chí Tôn, mở kỳ ân xá cho họ đặng nhập môn tái thệ.
(Đạo Luật Mậu Dần).
再 設
Tái: Lại một lần nữa. Thiết: Đặt.
Tái thiết là sắp đặt gầy dựng trở lại. Như: Dự án công trình được tái thiết.
Thánh Điện kỳ quan chói Ngọc Đài,
Chầy năm tái thiết đạo hoằng khai.
(Thơ Chơn Tâm).
再 守 權 衡
Tái thủ: Nắm giữ lại một lần nữa. Quyền hành: Quyền có thể thi hành được nhiều việc.
Tái thủ quyền hành nghĩa là trở lại với chức vụ cầm quyền một lần nữa.
Trong Đạo Cao Đài, Đức Lý Thái Bạch kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, muốn dùng quyền hành để trục xuất những vị Đại Thiên phong phân chi lập phái, nhưng Ðức Chí Tôn cản không cho. Do đó, Đức Ngài xin từ chức ngôi Giáo Tông.
Như chúng ta biết, trong ngày Ðại Lễ Khai Ðạo ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần (1926) tại Thánh Thất Từ Lâm Tự Gò Kén, Ðức Chí Tôn dự định ban cho Ngài Ngô Văn Chiêu chức Giáo Tông, nhưng Ngài Chiêu không nhận, Ngài rút về lập ra phái Chiếu Minh tại Cần Thơ để lo việc tu đơn. Ðức Chí Tôn mới giao chức Giáo Tông lại cho Nhứt Trấn Oai Nghiêm Lý Thái Bạch kiêm nhiệm.
Rồi sau đó, cơ Đạo bị phân chia, một số Chức sắc tách khỏi Toà Thánh Tây Ninh như: Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh lập phái Tiên Thiên ở Cai Lậy, Phối Sư Thái Ca Thanh lập phái Minh Chơn Lý ở Cầu Vỹ (Mỹ Tho), và Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh lập phái Cầu Kho ở Thánh Thất Cầu Kho Sài gòn.
Ðức Lý Giáo Tông muốn dùng quyền của mình để trục xuất những vị Chức sắc phân chi lập phái, nhưng Ðức Chí Tôn cản không cho, ý muốn để Ngài cố gắng kêu gọi quý Chức sắc ấy trở về Toà Thánh. Vì vậy, Đức Lý không điều hành được nền Ðạo nên xin từ chức Giáo Tông.
Sau đó, Ðức Chí Tôn đành triệu Ðức Lý trở lại cầm quyền Giáo Tông để xử trị các Chức sắc ấy.
Và trong một Đàn cơ vào ngày 04 tháng 11 năm Canh Ngọ (Dl. 24/12/1930) Đức Lý giáo Tông cho một bài thi tứ tuyệt và một bài Thánh giáo dạy như sau:
|
Cửu tử kiêm triêu đắc phục huờn, |
|
久 死 今 朝 得 復 還 |
|
Hạnh phùng Thiên mạng đáo khai Nguơn. |
|
幸 逢 天 命 到 開 元 |
|
Thế trung kỵ tử hà tri tử, |
|
世 中 忌 死 何 知 死 |
|
Tử giả hà tồn, chủ Tịch Hương? |
|
死 者 何 存 主 籍 香 |
Lão đã mang một cảm tình rất nặng cùng chư hiền hữu, hiền muội rồi đó.
Lão là người đã đứng ngoài vòng thế sự hèn lâu, nên đòi phen bợ ngợ, phải tìm tàng lượng tri lý mỗi người, ôi! nghĩ nên rất khó!
Vì khi nãy, Lão thấy con cái Chí Tôn đông đảo dường ấy, may là một nước Việt Nam chưa đủ trọn mà dường nầy, ngày nào Ðạo đã truyền bá toàn trong nhơn loại, trọn khắp ngũ châu, mới sao nữa!
Ngán thay cho cái trách nhậm nặng nề, vì trót đã hứa lời cùng Từ Bi ra tế độ, hễ trách phận đàn anh, tuy nhiên lấy oai quyền khuyến nhủ trừng trị lấy em mặc dầu, chớ cũng nên hiểu tâm của mỗi đứa.
Lão chỉ sợ một điều là Lão không phương gần kẻ tà tâm toan dạy dỗ; còn như gần kẻ đạo đức chơn thành thì rất dễ, song chẳng cần ích.
Tâm Thánh là ngôi vị của Ðấng thiêng liêng, không lo trau giồi thì cũng còn tự nhiên vì vẻ đẹp, còn vẻ đẹp thiên nhiên đã mang nặng thi hài nơi khổ cảnh nầy mà không mất thì đoạt vị đã đặng rồi, lại cần ai nâng đỡ.
Ấy vậy, Lão đến mà gieo hột Thánh cốc nơi lòng kẻ tà tâm, mong cho đơm bông kết quả, đặng liệu thế hồi tâm, chớ chẳng phải đến rước người hiền ngõ.
Chư hiền hữu, chư hiền muội xem trong năm Khai Ðạo, biết bao khổ não truân chuyên. Lão, vì đã thấy rõ, nên không nỡ ngồi an xem cơ thắng bại. Lão nhứt định đứng chung vai đâu cật cùng chư hiền hữu, chư hiền muội, mà chia bớt khổ tâm.
Lão chẳng phải sợ, vì chưa có quyền hành hữu vi nào mà phạm đến Lão đặng, chỉ sợ giùm cho chư hiền hữu, chư hiền muội mang nặng thi phàm, mà chịu cường quyền đè nén. Chư hiền hữu, chư hiền muội có đạt được phép tiên tri như vậy đâu mà mong tránh khỏi.
Lão nghĩ như thế nên nhứt định Tái thủ quyền hành, đem cặp nhãn thiêng liêng thay vì cặp nhãn của Thầy, đặng thấy giùm mọi điều cho chư hiền hữu, chư hiền muội, đặng quyết thắng chúng sanh trong kỳ Khai Ðạo nầy, thì Lão tưởng khi Lão chưa phải là người vô dụng vậy.
Khi Lý Giáo Tông đồng ý trở lại tái thủ quyền hành, Ðức Chí Tôn bèn giáng cơ dạy Hội Thánh phải làm lễ Ðăng điện cho Ðức Lý thật long trọng để chào mừng Ngài trở lại làm việc.
Bài thi trên được Ðức Phạm Hộ Pháp giải nghĩa trong bài Thuyết đạo nói về công nghiệp của Ðức Lý Giáo Tông, tại Ðền Thánh trong đêm 18 tháng 8 năm Kỷ Sửu (Dl. 9/10/1949) sau khi cúng Vía Ðức Lý, trong đó có đoạn:
Ðức Chí Tôn thường nhắc toàn Hội Thánh Hiệp Thiên và Cửu Trùng làm lễ Ðăng điện cho long trọng khi Ngài (Ðức Lý Giáo Tông) tái nhậm phận sự, rồi Ngài lên ngôi vị của Ngài, Ngài cầm cơ viết. Bần Đạo tưởng không có vị vua chúa nào viết được bài diễn văn như Ngài.
Cửu tử kiêm triêu đắc phục huờn: là cảnh trần ta chết đã lâu rồi, mà hôm nay ta được phục sanh lại trong Thánh Thể của Ðức Chí Tôn.
Hạnh phùng Thiên mạng đáo khai Nguơn: là còn hạnh phúc đặng Thiên mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến? Bần Đạo đã thuyết cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển khởi Thượng Nguơn Tứ Chuyển, Ngài đến khai Nguơn là có duyên cớ. Bần Đạo dám chắc rằng, Ðấng nào khác hơn Ngài thì không thi hành được. Ngài đến đặng mở Thượng Nguơn Tứ Chuyển.
Thế trung kỵ tử hà tri tử: Thế gian sợ chết mà không biết cái chết là gì? Chính Ngài hỏi rồi nói:
Tử giả hà tồn, chủ Tịch Hương?: Hương là tịch đạo của Nữ phái. Nữ phái là nguồn sống của nhơn loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của Nữ phái nghĩa gì? Cầm cái giống của thế gian nầy đặng chi?
Em nên cho chị hiểu rằng, Nữ phái lập thành, Nam phái chỉnh đốn lại hoàn toàn thì Lý Giáo Tông mới giảm nộ và tái thủ quyền hành.
(Thánh Giáo Bát Nương).
1.- Tài 才 là cái hay, cái giỏi của người ta. Như: Người có tài, tài ngoại giao, cậy tài.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Tâm cứng cỏi, Ðạo điều hoà thì cứ bước tới Thầy; tâm trí bất định, đạo hạnh không hoàn toàn thì con đường hám lợi xu danh tới hang sâu vực thẳm đó, vì sức các con đã rã rời thì tài nào níu kéo đỡ nâng khuyên nhủ nhau được.
Trau tài trau phận tua trau đức,
Biết thế biết nhân mới biết mình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðức cao thì mới đáng nên người,
Ðức thắng tài kia đã mấy mươi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đừng hờn cha mạnh cú nặng đòn,
Ấy tài diệu cha trui con ra bén.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tài 財 là của cải, tiền bạc. Như: Tiền tài, gia tài, tài sản, tài nguyên.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thái Thơ Thanh có đoạn: Lòng đạo đức con, Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến. Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà gìn giữ sự giả dối.
Trượng tài khinh nghĩa đã bao phen,
Làm mất số sang chịu khó hèn.
(Đạo Sử).
Đừng tranh phát gia tài đặng thất,
Nếu cha ngu của mất hồi mô.
(Phương Tu Đại Đạo).
才 葩
Tài: Chỉ người hay, giỏi. Ba: Như chữ hoa, rực rỡ.
Tài ba là người tỏ ra có rất nhiều tài năng lỗi lạc, phát lộ ra bên ngoài.
Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Đạo thạnh đời suy, Đạo suy đời lấn áp, song chi chi cũng do sự sắp bày của Thiên cơ cả. Chưa ai tài ba lỗi lạc mà đủ năng lực sửa đổi bao giờ.
Xem: Tài hoa.
Huệ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.
(Bài Thài Lục Nương).
Dồi trí thức tinh thần đẹp đẽ,
Trau tài ba vẹn vẽ anh thư.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Anh là kẻ bất tài vô dụng,
Tôi là người anh dũng tài ba.
(Thơ Hộ Pháp).
栽 培
Tài: Trồng cây. Bồi: Vun đất.
Tài bồi là vun đắp, hoặc vun trồng, tức vun đất để trồng cây.
Trong Kinh Lễ có câu: Cố tài giả bồi chi 故 栽 者 培 之, nghĩa là cho nên người trồng trọt thì phải vun bồi.
Tài bồi có nghĩa bóng là đạo đức của mình ngày một trau dồi, lúc đó trời mới vun đắp thêm.
Như: Tài bồi cho nền văn hoá nước nhà.
Chung sứctài bồi nền cổ học,
Ra công nâng đỡ bạn tao đàn.
(Thơ Huệ Giác).
Xuân vẫn tài bồi nền vật chất,
Xuân chưa tô điểm nét tinh thần.
(Thơ Huệ Giác).
才 幹
Tài: Tài giỏi, tức cái khả năng làm được việc. Cán: Đảm đang.
Tài cán là có khả năng, tài giỏi để đảm đang được mọi công việc.
Như: Anh ta có tài cán gì đâu.
Hiền đệ nên nhớ rằng khi xưa Qua có tài cán gì đâu, bất quá là một học trò khó...
(Thánh Giáo Quyền Giáo Tông).
Hay “Tài chính”.
Tài: Tiền bạc. Chánh (chính): Quản lý, sắp đặt.
Tài chánh, như chữ “Tài chính 財 政”, là việc quản lý chi thu về tiền bạc.
Khi nói về nền Đạo Cao Đài, trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có có câu: Bây giờ Bần Đạo thuyết về tài chánh của Đạo đương buổi loạn ly này.
Thiên cơ hà lộ khuynh tài chánh,
Nhứt nhựt dĩ nhàn nhứt nhựt thanh.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
才 名
Tài: Tài giỏi, hay. Danh: Tiếng tăm, được nhiều người biết tiếng.
Tài danh là người tài giỏi, danh tiếng vang dội khắp mọi nơi, mọi người đều biết.
Như: Ông ấy là bậc tài danh trong nền văn học.
Nam khí hưng suy dân khí phát,
Nên trang anh tuấn mặt tài danh.
(Đạo Sử).
Ngoài gia tộc, nước non vầy bạn,
Lựa tài danh giao cạn tâm tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nước Việt Thường ghi tạc mặt tài danh,
Nòi Hồng Lạc roi truyền gương tiết nghĩa.
(Văn Tế Tiểu Tường).
才 德
Tài: Tài giỏi, hay. Đức: Đạo đức, phước đức.
Tài đức là tài năng và đạo đức.
Bài Diễn Văn của Ðức Quyền Giáo Tông đọc tại Toà Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất có câu: Một mảnh thân phàm nầy, cô thân bạc nhược nầy, yếu ớt hèn mọn nầy, có đủ tài đức chi mà Ðại Từ Phụ lại tin giao một cái giang san sự nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu đặng cho gánh vác.
Hiệp tài đức dồi dào tánh thiện,
Noi Ðạo Trời tân tiến đường tu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Ấy là Thất Thánh cộng đồng,
Đủ đầy tài đức khỏi trong phong thần.
(Lược Thuật Toà Thánh).
才 華
Tài: Hay, giỏi. Hoa: Rực rỡ.
Tài hoa là người tài giỏi, có tài năng rực rỡ phát lộ ra bên ngoài, nhất là về văn chương, nghệ thuật.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Tuy nhiên trong xã hội cũng còn rất nhiều phần tử tài hoa thoát khỏi mức thường tình, yêu chuộng công lý và nghĩa nhân, lánh xa vòng trụy lạc. Những phần tử đó, nếu gặp người dẫn bước theo về chánh đạo họ sẽ hấp thụ giáo lý cao siêu và sẽ trở nên những trang ưu tú cũa xã hội hữu dụng cho đời và cho Ðạo.
Sen Trắng vóc tinh vi đảnh Hớn,
Nêu tiết trong soi sáng tài hoa.
(Bát Nương Giáng Bút).
Còn anh lại tìm nơi vắng vẻ,
Chôn cuộc đời son trẻ tài hoa.
(Thơ Hộ Pháp).
材 料
Tài: Gỗ dùng làm đồ đạc. Liệu: Vật liệu, đồ vật.
Tài liệu là nguyên liệu để làm việc, tức là chỉ chung những thứ làm ra đồ vật, sách vở, như giấy tờ, văn bản...
Tài liệu còn là giấy tờ, vật liệu dùng để nghiên cứu hay chứng minh một vấn đề gì.
Như: Phim tài liệu, tài liệu nghiên cứu lịch sử.
Người hành Đạo có đủ tài liệu, phương chước sửa mình và trau dồi hầu treo gương sáng cho người đời noi bước.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
才 力
Tài: Hay, có khả năng làm được việc. Lực: Sức lực.
Tài lực là tài năng và sức lực.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Thượng Phẩm có câu: Vậy, đối về phần tài lực bạo tàn, chúng ta không thể sánh với kẻ vô thần, mà trái lại một điều là nhược thắng cường, ấy là ý định của Chí Tôn cho nhơn loại nhìn Đạo Trời mà tùng lương cải ác.
Chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội đã đủ tài lực, đạo đức mà hành chánh rồi, thì Lão cũng nhứt định giữ nghiêm luật pháp.
(Bát Đạo Nghị Định).
才 藐
Tài: Cái hay, giỏi của người ta. Mạo: Dáng dấp bề ngoài, mặt mày.
Tài mạo là nói người có tài hoa và dung mạo, tức có tài năng lẫn dáng vẻ trang nhã bên ngoài.
Như: Tài mạo kiêm toàn.
Khi gặp đặng phải trang tài mạo,
Hoặc trao trâm đắp áo làm tin.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Tài mệnh ghét nhau”.
Tài mạng (mệnh): Tài năng và vận mạng. Ghét nhau: Đố kỵ, hay khắc nhau.
Tài mạng ghét nhau, như chữ “Tài mệnh tương đố 才 命 相 妒” nghĩa là tài năng và vận mệnh hay khắc với nhau, tức người tài giỏi thường gặp phải mạng xấu, hay vận bĩ.
Minh Thi có câu: Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương 古 來 才 命 兩 相 妨, nghĩa là xưa nay tài mệnh không ưa nhau.
Tài mạng thường hay ghét lẫn nhau,
Hễ là có nhọc mới danh cao.
(Đạo Sử).
才 能
Tài: Cái hay, giỏi của người ta. Năng: Tài giỏi, có thể được, sức làm việc.
Tài năng là tài giỏi, tức năng lực xuất sắc, hoặc khả năng làm giỏi và có sáng tạo một công việc gì.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Mở rộng trường thi công quả để tiếp đón nhơn tài, Hội Thánh chỉ mong ước quý vị thấm nhuần đạo đức, lập chí tu thân, trước thì lo tròn bổn phận làm người, sau nữa có thể thi thố tài năng giúp đời trợ Ðạo tuỳ theo địa vị hoàn cảnh của mỗi người.
Tóc xanh ai bảo tài năng kém,
Đầu bạc đừng khinh chí khí già.
(Thơ Thông Quang).
財 產
Tài: Của cải. Sản: Của cải sinh ra.
Tài sản là của cải và sản nghiệp, tức chỉ tất cả của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn giáng cơ bằng Pháp văn, do Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Còn tài sản là tổng quát các vật quý giá của con người đã thu nhặt trên thế gian nầy.
Nên hay hư đừng kể quan dân,
Tài sản tính chia phần đều đủ.
(Phương Tu Đại Đạo).
才 色
Tài: Cái hay, giỏi của người ta. Sắc: Sắc đẹp, chỉ sắc diện bên ngoài.
Tài sắc là người có tài năng và sắc đẹp.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
Riêng lo tài sắc hồng quần,
Không nhơ bợn tục nợ trần lánh chơn.
(Tam Nương Giáng Bút).
Hồng quần tài sắc đa truân,
Vào vòng bạc phận, chi mong trọn quyền.
(Nữ Trung Tùng Phận).
才 疏
Tài: Tài năng làm được việc. Sơ: Thưa, ít.
Tài sơ là kém tài năng.
Tài sơ trí thiển là tài năng thưa thớt, trí hiểu biết nông cạn. Đây là lời nói tự khiêm, không dám nhận mình là người tài trí.
Đức Quyền Giáo Tông dạy về Đức Chí Thành có câu: Dầu bậc Thiên Phong mà tài sơ tuổi nhỏ hơn mình đi nữa, hàng Tín Ðồ cũng chẳng nên hổ mình tùng sự, hoặc là vượt bực khinh khi ganh gổ tức là buộc vào mình một cái tội vi lịnh cùng Thượng Ðế vậy.
Tài sơ chưa toại lòng ưu thế,
Chuyện cũ thêm buồn cảnh xuất gia.
(Thơ Thuần Đức).
Đức bạc há bì trang nhả ngọc,
Tài sơ đâu sánh bực phun châu.
(Thơ Hiến Pháp).
Tài tai: Tài năng và tai nạn. Luôn vần: Lúc nào cũng một vần với nhau.
Tài tai luôn vần là chữ tài với chữ tai cùng một vần, nghĩa bóng người tài giỏi thường gặp nạn tai xảy đến.
Nguyễn Du trong Truyện Kiều có viết: Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Tài kia tai nọ luôn vần,
Đức tài trau luyện đồng cân mới mầu.
(Bát Nương Giáng Bút).
才 情
Tài: Tài năng làm được việc. Tình: Tình cảm.
Tài tình là có tài lại đa tình. Nghĩa bóng: Chỉ người tài trí, tài giỏi.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Hiền hữu biết rằng trong trận trí binh nầy, nếu không đủ tài tình oai dõng thì chẳng hề thắng đặng.
Huyền diệu mũi kim qua chẳng lọt,
Đừng đừng xảo mị gọi tài tình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lựa những mặt tài tình thọ giáo,
Học cho thông mối đạo quân thần.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Khi dắt trẻ đi chơi lựa chỗ,
Có văn nhơn thái độ tài tình.
(Phương Tu Đại Đạo).
才 子 佳 人
Tài tử: Người có tài năng xuất sắc. Giai nhân: Người con gái đẹp đẽ.
Tài tử giai nhân dùng để chỉ trai tài gái sắc.
Cổ ngữ có câu: Minh quân lương tể tao phùng dị, tài tử giai nhân tế ngộ nan 明 君 良 宰 遭 逢 易, 才 子 佳 人 際 遇 難, nghĩa là vua sáng tôi hiền gặp nhau dễ, tài tử giai nhân khó hội ngộ.
Dây oan tài tử tình lưu luyến,
Khuấy rối giai nhân tiếng khẽ khầm.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
Phải trang tài tử sánh giai nhân,
Trương, Phạm thành hôn xiết nỗi mừng!
(Thơ Chơn Tâm).
才 臣
Tài: Tài giỏi, tức có khả năng đặc biệt. Thần: Bề tôi, quan của một nước quân chủ.
Tài thần là những bề tôi giỏi, hay các quan trong triều đình tài ba, lỗi lạc.
Học cho đúng bậc tài thần,
Ưu quân ái quốc vua cần dân nghinh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
才 智
Tài: Tài năng, có thể làm việc được. Trí: Hiểu rõ sự lý, thông minh.
Tài trí là tài năng và trí tuệ.
Giải về chữ “Nho”, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chữ Nho của Hán tự là bởi chữ “Nhân” đứng kế bên chữ “Nhu” mà thành ra. Nhân là người, Nhu là cần dùng, tức là một hạng người lúc nào cũng cần có để giúp cho nhân quần xã hội, biết cư xử và hành động cho hợp với lẽ Trời. Chữ “Nhu” lại có nghĩa là chờ đợi, tức là người học giỏi đợi người cần dùng đến, là đem tài trí mình ra hiến cho quốc gia để làm cho ích nước lợi dân.
Kính lượng bề trên ban đức tánh,
Tặng người tài trí hứng Ðài cao.
(Đạo Sử).
Nặng chở con thuyền tua rộng lớn,
Thiệt tài trí để khá cao sâu.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
財 物
Tài: Tiền bạc của cải. Vật: Vật dụng, đồ vật.
Tài vật là tiền bạc của cải hay các thứ vật dụng.
Trong Đạo Luật Năm Mậu Dần có câu: Trước khi xướng lập cơ sở Lương điền, Công nghệ, thì chỉ nhờ nơi lòng từ thiện của toàn Đạo Hữu trợ giúp. Ngoài ra, những vị nào hảo tâm dâng thêm tài vật chi xứng đáng thì đặng nêu tên vào bảng danh dự để làm kỷ niệm nơi cơ sở.
Tài vật của người, dầu ít nhiều, dầu lớn nhỏ đều do người làm nhọc nhằn mới tạo ra được.
(Giáo Lý).
在
1.- Tại là ở, nơi. Như: Sinh tại Nam Kỳ, quỳ tại Điện tiền, tại chức, tại ngoại.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo. Con hiểu “Thần cư tại Nhãn”. Bố trí cho chư Ðạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.
Hành đến chết huờn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh lâu.
(Kinh Sám Hối).
Sắm nghiệp trần gian còn phải khó,
Lựa là nghi trưởng tại Bồng Sơn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thiên Thai nào phải tại trần nầy,
Chẳng phải giữa Trời, chẳng phải mây.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tại là bởi. Như: Tại anh ấy làm, tại ta sơ ý, tại làm sao, tại lẽ gì?
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Chấp hai tay lạy là tại sao? Tả là nhựt, hữu là nguyệt, vị chi âm dương. Âm dương hiệp nhứt phát khởi Càn khôn, sanh sanh hoá hoá, tức là Ðạo.
Ðắc thất đều do tại máy Trời,
Làm sao qua đặng chốn non khơi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hoạ phước vô môn, chỉ tại người,
Thỉnh mời rồi đổ bởi nơi Trời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nước vốn đầy sông tuỳ kẻ xách,
Lộc kia đầy đất tại người dời.
(Đạo Sử).
3.- Tại là đang, đương. Như: Hiện tại, tại chức.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Bức tranh xã hội thường ngày vẽ cho chúng ta thấy nhiều chuyện trớ trêu khúc mắc và chỉ cho chúng ta biết rằng đời hiện tại là đời mạt kiếp, nên cang thường đảo ngược, luân lý suy đồi.
Bần Đạo giảng về Luật Yêu Thương và Quyền Công Chánh đối với lẽ sống hiện tại của nhơn loại.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
在 家
Tại: Ở tại, đang ở. Gia: Nhà.
Tại gia là ở tại nhà.
Tu tại gia là người vào Đạo tu hành nhưng còn ở trong gia đình, còn lo sinh sống, bên Phật giáo gọi là Cư sĩ hay Cư sĩ tại gia. Trái lại, Xuất gia là người lìa hẳn gia đình vào nơi Phật tự để chuyên lo tu hành.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Gần đây ta thấy có Phật Giáo Hoà Hảo, phái đi tu tại gia ta thấy Minh Sư, Minh Đường v.v... đều có ảnh hưởng của Phật Giáo mà thành tượng ra.
Tu thiền thị, tu thành mới đúng,
Tu tại gia, chẳng dụng của ai,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
在 位
Tại: Ở, tại. Vị: Ngôi vị, chỗ ngồi.
Tại vị là đương giữ chức vị, tức là đương ở chức quan, hay đương ở ngôi vua.
Như: Hiện nay, ông ấy mới biết thương dân, chớ lúc còn tại vị ông ấy hà khắc với dân lắm.
Chúng ta thấy trước khi lên cầm quyền vì một sơn hà xã tắc, một nhà đương quyền tại vị, hay đã thoái vị cũng vậy...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Tay là bộ phận phía trên của cơ thể con người, từ vai đến các ngón, dùng để cầm, nắm.
Như: Tay chân, tay làm hàm nhai.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Ấy vậy, cái vấn đề tự lập là vấn đề các con phải lo đó. Thầy vì công lý mà khai đạo cho các con, cũng là một phúc hạnh lớn cho các con. Nếu Thầy còn đưa tay bồng ẵm thì các con chẳng còn để ý chịu nhọc vì Ðạo.
Giựt giành rốt cuộc cũng tay không,
Nhân quả đeo mang tội chất chồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh, Tiên, Phật đạo vốn như nhà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Công dân đắp lũy bồi thành,
Tay mình lại cột lấy mình thảm thay.
(Ngụ Đời).
2.- Tay, nghĩa rộng là biểu tượng cho người. Như: Tay anh hùng, tay tướng cướp, tay phàm.
Thánh giáo Thầy có câu: Nếu các con phủi trần thế mà lo cho Ðạo thì sao Toà Thánh còn thiếu tay giúp Ðạo, để cho đến đỗi càng ngày càng tiều tuỵ mà ra một cảnh điêu tàn.
Ðạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sau ra vạn dặm trường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nắng mưa kia vốn chưa vừa kẻ,
Phàm tục nhiều tay quá lỗi lời.
(Đạo Sử).
Dưới mắt thấy lắm tay đánh bóng,
Theo gái giàu như bóng theo chàng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tay: Bộ phận ở thân thể con người, nối liền với đầu vai ra đến ngón. Nghĩa rộng chỉ người. Co: Rút lại, kéo lại.
Tay co là cây cọc buộc mái chèo, hình cong như cánh tay co lại, dùng để chỉ cánh tay hay bộ phận đắc lực cho một công việc hoặc một người nào đó.
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du có câu: Như chàng có vững tay co, Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
Mình mỏng mảnh sức non nớt yếu,
Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nếu ông chồng đủ vững tay co,
Vợ đau bịnh giả đò cũng hốt thuốc.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tay: Bộ phận phía trên của cơ thể con người, từ vai đến các ngón, dùng để cầm, nắm. Nhúng: Cho vào một chất lỏng, rồi lấy ra ngay. Chàm: Loại cây nhỏ, lá cho chất màu xanh sẫm, dùng để nhuộm, in.
Tay nhúng chàm là tay đã lỡ nhúng vào màu chàm, ý nói đã lỡ phạm vào tội ác.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Trót vì tay đã nhúng chàm, Dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
Lỡ tay nên chịu nhúng chàm,
Rủi ro mang lấy vóc phàm bấy lâu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tay: Cánh tay, biểu tượng cho người. Sai: Khiến, bảo làm việc gì đó.
Tay sai là người chịu cho kẻ khác sai khiến làm những việc trái đạo, phi nghĩa.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Thời nay, quý vị thử nhìn quanh sân khấu đời coi những nhân vật hoạt động chính trị có bao nhiêu người vì nước, vì dân, biết lo quốc kế dân sinh, mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào. Hay là phần đông chỉ là những kẻ tay sai cho thế lực kim tiền?
Bên ngoài chúng mướn tay sai của Pháp buổi nọ bắt buộc, giam cầm, bị nhục một cách không thể tưởng tượng.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Tay: Bộ phận nối liền với vai. Trắng: Không có gì.
Tay trắng là tay không. Nghĩa bóng: Chỉ không có tài sản, của cải.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy nhớ xưa, kẻ mộ Ðạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhọc mình, giày gai áo bả, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giậu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy không bợn nhơ, mới có thể lập ngôi cho mình đặng; có đâu lấy của lấn nhân, mượn quyền xua đức, kẻ chân thành lánh mặt, đứa tà mị áp vào, rồi cúm núm mang hơi tà, lại đua nói rằng thờ Chánh giáo.
Công trình tay trắng lập nên nhà,
Chẳng kể quyền quan vụ nết tà.
(Đạo Sử).
Mộng đời mở mắt hai tay trắng,
Nắm mối nhơn luân sạch não phiền.
(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).
Trăm năm rồi có gì đâu,
Chỉ hai tay trắng về chầu Diêm Vương.
(Thơ Hộ Pháp).
Tay: Bộ phận nối liền với vai của con người. Trơn: Không có gì, hết sạch.
Tay trơn, đồng nghĩa với “Tay trắng”, là tay không, không tiền, không bạc. Nghĩa bóng: Chỉ không có tài sản, không của cải.
Như: Đi với hai bàn tay trơn.
Làm trai ví gìn lòng chí khí,
Dầu tay trơn mưu trí lập thân mình.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tày là bằng, đều, có thể sánh với.
Như: Tày đình, sánh tày, to tày đình, học thầy không tày học bạn.
Công lao sanh dưỡng nặng nề thay,
Ruộng biển, cao non chẳng sánh tày.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ơn cha mẹ sánh tày Trời Đất,
Nỗi hiếu thân đừng thất đạo hằng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tày non: Sánh bằng núi non. Tợ biển: Như biển cả.
Tày non tợ biển là bằng với núi tựa như biển, ý nói tình cảm, hay ơn nghĩa cao nặng như núi non, sâu rộng như biển cả.
Tình huynh đệ tày non tợ biển,
Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.
(Giới Tâm Kinh).
三
Tam là ba. Như: Tam bản, tam bảo, tam cấp, tam kỳ, tam khôi, tam cang, tam tùng.
Thánh giáo Thầy có câu: Các con có cả ba Chánh đạo là Tam giáo, các con biết tôn trọng, ngày nay lại thêm Chánh đạo nữa, các con biết ít nước nào đặng vậy?
Muốn cho đặng cao nhơn trọng ngãi,
Nhứt bộ dầu tam bái cũng cam đành.
(Phương Tu Đại Đạo).
三 彭
Tam: Ba. Bành: Tên vị Thần.
Theo Thái Thượng Tam Thi Trung Kinh của Đạo gia, thì mỗi con người chúng ta đều có ba vị Thần là Bành Kiêu, Bành Cứ và Bành Chất ở trong người, chúng thường xúi giục ta nổi giận, làm điều xằng bậy.
Do đó, những sự hung ác, giận dữ của con người là do Thần Tam Bành gây ra. Tam bành dùng để chỉ cơn giận dữ của người đàn bà.
Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: “Mụ nghe nàng nói hay tình, Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên”.
Diệt trừ phiền não phục hồi,
Tam bành, lục tặc, khử rồi tâm minh.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Nổi tam bành xô hất khỏi mùng,
Chừng ấy khóc lo chung xuống ghế.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tam: Ba. Bảo (bửu): Quý báu.
1.- Tam bảo, còn gọi là “Tam bửu 三 寶”, là ba món quý báu: Đó là Phật, Pháp, Tăng.
Theo Phật Giáo, chư vị Phật là Phật bảo, giáo pháp của Phật là Pháp bảo, những người theo giáo pháp đó mà tu là Tăng bảo.
Theo Cao Đài, Đức Chí Tôn là Phật bảo, Phật Mẫu là Pháp bảo, Chúng sanh là Tăng bảo.
Quy y Tam bảo lòng thanh tịnh,
Chứng ngộ nhiệm mầu cảnh giới phăng.
(Thơ Thanh Hương).
2.- Tam bảo, như chữ “Tam bửu”, là ba món báu của Trời, Đất và người.
Xem: Tam bửu.
Hình Toà Thánh tượng trưng Tam bảo,
Tinh, Khí, Thần Cơ Đạo hiển nhiên.
(Lược Thuật Toà Thánh).
三 寶
Tam: Ba. Bửu (bảo): Quý báu.
Tam Bửu (bảo) là ba món quý báu, của Trời là Nhật, Nguyệt, Tinh, của Đất là Thuỷ, Hoả, Phong, của người là Tinh, Khí, Thần.
- Tam bửu của Trời là Nhựt, Nguyệt, Tinh. Mặt trời, mặt trăng và các vì sao là ba báu phát ra ánh sáng mà dưỡng dục muôn loài, hoá sanh vạn vật, luân chuyển Càn khôn, chia ra ngày đêm sáng tối.
- Tam bửu của Đất là Thuỷ, Hoả, Phong. Thuỷ, Hoả, Phong là nước, lửa, gió là ba món báu của Đất. Nhờ ba báu ấy mà mưa hoà gió thuận, cây cối tươi nhuận và chia ra bốn mùa tám tiết.
- Tam bửu của người Tinh, Khí, Thần. Tinh là thân xác, Khí là chơn thần, Thần là chơn linh. Người tu hành muốn đắc Đạo phải luyện cho ba báu ấy hiệp nhứt, tức là luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần, luyện Thần huờn hư.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho Thần hiệp Tinh, Khí đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
Bông Tinh, Rượu Khí, Trà Thần,
Gọi là Tam Bửu kính dâng đủ rồi.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Hay “Tam cương”.
Tam: Ba. Cang (cương): Giềng lươi, tức sợi dây lớn của cái lưới.
Tam cang, như chữ “Tam cương 三 綱”, là ba giềng mối chính.
Người xưa quan niệm rằng cái giềng lưới rất quan trọng, chỉ cần nắm bốn cái giềng lưới thì tất cả các mắt lưới đều dương ra hết.
Nghĩa bóng: Ba giềng mối quan hệ trong đạo nhân luân, đó là quân thần (Vua tôi), Phụ tử (Cha con), Phu phụ (Vợ chồng).
Trong sách Lễ Vĩ có câu: Quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi phụ cương 君 為 臣 綱, 父 為 子 綱, 夫 為 婦 綱, nghĩa là vua là giềng cho bề tôi, cha là giềng cho con, chồng làm giềng cho vợ.
Trong Tân Luật, Điều thứ ba về phần Thế Luật có quy định: Phải giữ Tam cang Ngũ thường là nguồn cội của nhơn đạo; nam thì hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa liêm sỉ, nữ thì tùng phu, tùng phụ, tùng tử và công, dung, ngôn, hạnh.
Nguyện tam cang gìn tâm trọn đạo,
Nguyện ngũ thường hiếu thảo làm khuôn.
(Kinh Thế Đạo).
Tam cang ngũ lý nền nhân đạo,
Ngũ giới tam quy cội Thánh Tiên.
(Tăng Tử, Mạnh Tử).
三 功
Tam: Ba. Công: Sự khó nhó nhọc, hiệu quả của một công việc gì.
Tam công là ba cách lập công, gồm: Công phu, công quả, công trình.
Lập công là một trong Tam lập, còn gọi là Tam bất hủ, đó là lập đức, lập công và lập ngôn.
Xem: Tam lập.
Tam công hằng bữa lo bòn mót,
Hạnh đức suốt đời gắng luyện trau.
(Thơ Thiên Vân).
三 洲 八 部 護 法 天 尊
Khi Cúng Đàn, chúng ta thường có thượng Sớ, trong Sớ Văn có câu: “Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn”. Đây cũng là câu chú dùng để niệm danh hiệu của Đức Hộ Pháp.
Tam Châu là ba Châu lớn nằm trong “Tứ Đại Bộ Châu”.
Trước hết chúng ta thử tìm hiểu về “Tứ Đại Bộ Châu”.
Xét về giáo lý Cao Đài, trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy như sau: “Tam thập lục thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải tinh tú, còn lại Thất thập nhị địa và Tam thiên thế giới thì đều là tinh tú, Tính lại ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao”.
Và đoạn khác, Ngài dạy: “Đứng bực Đế vương nơi trái địa cầu này chưa đặng vào bực chót của Địa cầu 67. Trong Địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quý trọng của mỗi Địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới đệ nhứt cầu, Tam thiên thế giới, qua khỏi Tam thiên thế giới thì mới đến Tứ Đại Bộ châu, qua Tứ Đại Bộ Châu mới vào đặng Tam thập lục thiên, vào Tam thập lục thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng lên đến Bạch Ngọc Kinh”.
Như vậy, Tứ Đại Bộ Châu trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Chí Tôn dạy không phải tinh tú, nằm ở không không trên không khí, dưới Tam thập lục thiên và trên Tam thiên thế giới, tức là Tứ Đại Bộ Châu trong cõi thiêng liêng.
Khi nói về cái chết của Ngài Chưởng Pháp Thượng Tương Thanh, Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy hai Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt vào ngày 7 tháng 11 năm Bính Dần (Dl. 11-12-1926) như sau: “Trung, Lịch, hai con phải dụng Ðại lễ mà an táng cho Tương, nghe! Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào đem Tương vào Tam thập lục Thiên, phải để nó đợi nơi Ðông Ðại Bộ Châu mà chờ Toà Tam Giáo phát lạc”.
Qua đoạn Thánh ngôn nầy, chúng ta suy ra được rằng: Đông Đại Bộ Châu là một cõi dưới Tam thập lục Thiên, nhưng trên Tam Thiên thế giới về phía Đông của Tứ Đại Bộ Châu nơi cõi Thiêng liêng nầy.
Còn theo Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế thì hai câu: “Thượng chưởng Tam thập lục thiên, Tam thiên thế giới; Hạ ốc Thất thập nhị đia,Tứ Đại Bộ Châu”, có nghĩa là Thượng Đế, trên thì chưởng quản ba mươi sáu tầng Trời, ba ngàn Thế giới; dưới thì chưởng quản bảy mươi hai Địa cầu và bốn Đại Bộ Châu.
Như vậy theo ý nghĩa của Kinh, Tứ Đại Bộ Châu này, khác với Tứ Đại Bộ Châu trên, thuộc cõi trung giới, nằm bên Thất thập nhị địa, chia ra theo bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc của Thất thập nhị địa:
|
Phía đông là Đông Thắng Thần Châu |
|
東 勝 神 洲. |
|
Phía tây là Tây Ngưu Hoá Châu |
|
西 牛 貨 洲. |
|
Phía nam là Nam Thiệm Bộ Châu |
|
南 贍 部 洲. |
|
Phía bắc là Bắc Câu Lư Châu |
|
北 俱 閭 洲. |
Trong Tứ Đại Bộ Châu nầy, Địa cầu 68 của nhơn loại chúng ta thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, cho nên trong “Bài Xưng Tụng Công Đức Phật Tiên Thánh Thần” có câu:
Lòng sở vọng lâm dâm tụng niệm,
Xin giải nàn Nam Thiệm Bộ Châu.
Trong Tứ Đại Bộ Châu nầy, Đức Hộ Pháp vâng lệnh Đức Chí Tôn cầm quyền giáo hoá ba châu và tám Bộ, nên người ta xưng tụng Ngài là “Tam Châu Bát Bộ Hô Pháp Thiên Tôn”.
Tam Châu:
Hộ Pháp cải quản ba châu là: Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Nam Thiệm Bộ Châu. Còn Bắc Câu Lư Châu không thuộc quyền giáo hoá của Ngài mà dành chỗ ở của hàng quỷ vị.
Bát Bộ:
Bát bộ là Tám bộ, mỗi bộ cai quản một phẩm chơn hồn, nên Bát bộ cai quản bát phẩm chơn hồn. Bát phẩm chơn hồn gồm: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.
Đức Hộ Pháp thay Đức Chí Tôn mở cơ tận độ chúng sanh nơi cõi trần, nên Ngài có nhiệm vụ cai quản Bát bộ nầy.
Thuyết về “Bí Pháp”, Đức Hộ Pháp có giải thích về Tam Châu Bát Bộ như sau: “Tam Châu là: Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Nam Thiệm Bộ Châu đều thuộc quyền hạn của Hộ Pháp, còn Bắc Câu Lư Châu để cho các phẩm chơn hồn quỷ vị nó định phận tại nơi đó, định nơi cư trú tại đó. Nó có một quyền năng vô định, chẳng cần chỉ giáo, để đặc biệt một châu cho quỷ vị, ăn năn tu học đặng đoạt vị.
Ba Bộ Châu kia thuộc về quyền hạn của Hộ Pháp giáo hoá. Duy có Bắc Châu, Ngài không thường ngó tới lắm, để cho nó tự do làm gì thì làm, khôn nhờ dại chịu.
Bát Bộ là gì? Là nơi Bát phẩm chơn hồn chớ có chi đâu. Tám hồn là gì? Là vật chất hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, Nhơn hồn, dĩ chí cho đến Thần, Thánh, Tiên, Phật hồn.
Tám Bộ ấy thuộc quyền hạn của Hộ Pháp Thiên vị, nơi Đức Chí Tôn gọi đến tạo cơ quan tận độ chúng sanh, không còn ai khác hơn Hộ Pháp, chính Hộ Pháp trách nhiệm ấy.
Đức Hộ Pháp đến cốt yếu đem Bát phẩm chơn hồn thăng vị, nhiều hoặc ít, có thể một đẳng cấp, từ vật chất Hộ Pháp đem lên thảo mộc, thảo mộc đem lên thú cầm, thú cầm đem lên Nhơn loại, dĩ chí Phật vị. Hộ Pháp có thể định cho họ đặng”.
Tóm lại “Tam châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn” có nghĩa là Hộ Pháp là vị Thiên Tôn nắm quyền Tam Châu, Bát Bộ.
Theo Đức Hộ Pháp, đáng lý câu Chú của Ngài phải đọc là “Tam Thiên Thế Giái Hộ Pháp Giáng Lâm”, nhưng vì người xưa thường dùng câu “Tam châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn” nên cho đến nay phải giữ như vậy.
Điều nầy, khi thuyết về “Hộ Pháp Hành Pháp Mỗi Khi Vô Cúng Đàn”, Ngài có dạy như sau: “Mỗi phen nhập đàn, hễ trống chuông rồi, thì tất cả đi vô, cả thảy đi vô thong thả, chỉ có Bần Ðạo thật bối rối, bước lên ngai rồi, trụ pháp lại, vẽ bùa niệm chú. Câu chú mà khi thượng sớ, chúng ta thường nghe đọc “Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn”. Thật sự thì như vầy “Tam Thiên Thế Giái Hộ Pháp Giáng Lâm”. Từ trước đến giờ, các bậc tiền bối của chúng ta đã để như nói trên nên không thể sửa cải được, phải để y như vậy”.
Đức Hộ Pháp coi về ba Châu, tám Bộ, nên được tôn xưng là Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.
Trong bài Kệ Chuông U Minh, lời nguyện thứ 29 có câu: Nam Mô Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn 南 無 三 洲 八 部 護 法 天 尊.
Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.
(Sớ Văn).
三 陽
Tam: Ba. Dương: Khí dương.
Tam dương là ba khí dương, chỉ một cái tiết thuộc về mùa xuân.
Nhất dương chỉ tháng mười một, Nhị dương chỉ tháng chạp, Tam dương chỉ tháng giêng.
Ngũ phúc hoa khai mừng vận thới,
Tam dương liễn chúc đẹp hình lân.
(Thơ Huệ Phong).
Trừ tịch pháo ngời hoa Ngũ phúc,
Giao thừa lân hiện nét Tam dương.
(Thơ Vạn Năng).
三 多
Tam: Ba. Đa: Nhiều.
Tam đa là ý mong được ba cái nhiều: Đa tử 多 子 nhiều con, đa thọ 多 壽 nhiều tuổi thọ, đa phú quý 多 富 貴 nhiều sang giàu.
Có người lại cho tam đa là nhiều phúc, nhiều tuổi thọ và nhiều con trai.
Khánh hỷ chờ thêm trung, thượng thọ,
Lục tuần xin chúc chữ “Tam đa”.
(Thơ Hoàng Nguyên).
三 途
Tam: Ba. Đồ: Con đường.
Tam đồ là ba con đường.
Theo giáo lý Phật giáo, những người sống trên dương thế có hành vi hung bạo, ác đức, phải chịu đoạ Tam đồ là ba đường: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Trong kinh Phật nói rằng: Địa ngục tên là hoả đồ, ngạ quỷ tên là đạo đồ, súc sanh tên là huyết đồ.
Thoát thân cho khỏi đoạ tam đồ,
Cánh cửa nhà Tiên mặc sức xô.
(Thơ Bảo Pháp).
Cho mau lánh gót khỏi tam đồ,
Mặc khách hồng trần tự lấn xô.
(Thơ Thông Quang).
三 毒
Tam: Ba. Độc: Độc chất làm hại người.
Tam độc là ba loại độc hại trong tâm thức, Phật giáo gọi đó là tham, sân, si, là ba loại phiền não căn bản thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp ác, gây ra đau khổ trói buộc chúng sanh vào vòng sinh tử luân hồi cho chính mình và cho người khác.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta bị lôi cuốn vào những nghiệp xấu rất nhanh, vì thế nên chúng ta phải thường xuyên loại trừ những thứ phiền não độc hại, đồng thời chúng ta phải thực hành chánh niệm để tâm bớt dong ruổi vào đường xấu, ác.
Trong các thứ phiền não, Tam độc là ba loại độc hại nhứt về tâm thức, mà Phật giáo gọi: Tham, sân, si, ba loại phiền não căn bản thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp ác, gây ra đau khổ trói buộc chúng sanh vào vòng sinh tử luân hồi cho chính mình và cho người khác.
1 - Tham hay ái dục, tức là lòng ham muốn được nhiều tiền của, danh vọng, sắc dục, ăn uống. Lòng tham là cái túi không đáy, cho nên không biết đến đâu mà đủ.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy về lòng tham như sau: “Các con có hiểu vì sao nhơn sanh có lòng tham lam chăng? Thì cũng muốn có nhiều kẻ phục tùng dưới quyền lợi của mình. Vã lại, người đời cần nhứt là cơm với áo. Nay muốn có nhiều kẻ phục tùng không chi bằng nắm chặt quyền phân phát áo cơm, phải dùng đủ mưu chước quỷ quyệt thâu đoạt lợi lộc, quyền thế. Vì vậy, mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh đấu, giựt giành; mạnh được, yếu thua, mất hẳn công bình, thiên nhiên Tạo hoá.
Ấy vậy, phải biết rằng: Tham lam vào tâm, tâm hết đạo đức; tham lam vào nhà, nhà hết chánh giáo; tham lam vào nước, nước mất chơn trị. Tham lam lộng khắp thế giới, thế giới hết Thần Tiên: Lòng tham lam có thể giục các con lỗi đạo cùng Thầy”.
2 - Sân là oán giận, thù ghét những cái gì không làm cho mình thích ý.
Trong các loại phiền não thì sân hận là thứ phiền não có tướng trạng rất thô bạo, và nó có thể phá hoại sự nghiệp hành trì của người tu một cách nặng nề nhất. Một khi sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kềm chế, không tự khắc phục được, thì biết bao chuyện đau khổ, chướng ngại xảy đến cho ta. Do vậy mới có câu: “Nhất niệm Sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai 一 念 嗔 心 起, 百 萬 障 門 開”, có nghĩa là khi khởi một niệm giận hờn tức là đã mở ra muôn ngàn cửa chướng ngại.
Trong kinh Phật cũng có câu: Một niệm lửa sân đốt tan cả rừng công đức.
3 - Si, tức ngu si, mê muội, rồi đưa đến vô minh.
Theo Phật, từ sân hận con người bị đưa đến ngu si, mê muội. Một khi tức giận đã nhiễm vào tâm thì si mê sẽ nổi lên, lúc đó chúng ta sẽ sống trong cảnh giới vô minh, rất dễ lầm đường lạc nẻo, và rất dễ dàng gây nên tội ác, mà không lường được hậu quả đau khổ.
Những giây phút tức giận trở thành ngu si, lầm lẫn thường là nguyên nhân của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, cho mình và cho người khác, có khi kéo dài triền miên suốt cả cuộc đời. Bởi vậy phải diệt tận gốc cài sân hận thì cuộc sống mới an lạc và hạnh phúc.
Trên đây là ba căn ác có tính bẩm sinh và di truyền của nghiệp bất thiện làm mê mờ tâm thức khiến cho con người không thấy được chân tâm, Phật tánh vốn thường có nơi mình.
Trong Kinh Pháp Cú, bài kệ số 251 có nói:
Lửa nào bằng lửa tham!
Chấp nào bằng sân hận!
Lưới nào bằng lưới si!
Sông nào bằng sông ái.
Trong Thuyết Đạo, Đức Thượng Sanh cũng có đoạn dạy: Biết bao nhiêu người trong cảnh giới tu hành vì lòng trần còn nặng, dục vọng chưa tan nên lắm khi vướng vào lưới Tam Độc, tức là Tham, Sân, Si chạy theo bả lợi mồi danh tranh đua giành giựt. Rốt cuộc, tu hành bị lỡ dở mà danh lợi cũng mơ màng.
Chúng ta thấy nguyên nhân của mọi tệ nạn trong xã hội như bạo hành, ma túy, xung đột, trộm cướp, chiến tranh... đều có từ Tam độc. Ô nhiễm môi trường, hủy hoại sinh thái, rối loạn xã hội đều bắt nguồn từ nội tâm con người bị ô nhiễm. Vì vậy phải đối trị ba món độc là tham, sân, si, tức lòng tham lam, lòng hận thù, và vô minh tiềm ẩn trong thân tâm của mỗi chúng ta.
Phương pháp để đối trị với tam độc.
- Muốn trừ Tam độc, phải quán chiếu vô thường, tức là lấy trí tuệ suy xét thấy sự sống thân mạng nầy mong manh, thường biến đổi, nên lòng ham muốn, sân hận phải giảm bớt, dừng lại.
- Quán chiếu duyên khởi tức là thấy mọi sự vật đều là giả tưởng, đều do nhân duyên hiệp lại, không phải là thực thể, nên tâm không còn chấp chặt.
- Vun trồng, trau luyện hạnh từ bi hỷ xả để vượt qua lòng sân hận.
- Thực hành hạnh bố thí để diệt trừ lòng tham.
- Đừng để việc nhập vào tâm, bởi tâm chúng sinh thường y theo cảnh, nên khi cảnh đã vắng thì tâm mất chỗ nương tựa, lần lần sẽ phai nhạt.
- Dùng sám hối để đối trị, tức lấy việc trì tụng kinh sám hối thường để giới tâm, khiến lòng sợ sệt mà không nhiễm vào tham sân.
Mở mang trí huệ trừ tam độc,
Giải thoát thân tâm dứt não phiền.
(Thơ Thiên Vân).
三 教
Tam: Ba. Giáo: Tôn giáo.
Tam Giáo là ba nền Tôn giáo lớn ở Trung Hoa và Việt Nam, đó là Nho giáo hay Khổng giáo, Đạo giáo hay Lão giáo, Phật giáo hay Thích giáo.
Thánh giáo Thầy có dạy: Ðại Ðạo Tam Kỳ hoằng khai tại cõi Nam, đã chiếu theo Thiên thơ, hội Tam giáo, mà vớt chúng sanh thoát vòng ly khổ, thiệt thiệt, hư hư, một mảy chi, cũng chẳng qua là máy Thiên cơ mà thôi.
Nam Mô Tam Giáo diệu huyền,
Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.
(Kinh Tận Độ).
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam Giáo đoạ đày thế ni.
(Kinh Sám Hối).
Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng làm phải làm lành.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
三 教 臺
Tam Giáo: Ba nền Tôn giáo lớn ở Trung Hoa và Việt Nam, đó là Nho giáo, Đạo giáo và Thích giáo. Đài: Đồng nghĩa với chữ “Toà”, là cái nhà làm cao có thể đứng trông xa được.
Tam Giáo Ðài còn gọi “Tam Giáo Toà 三 教 座”, là Toà Án nơi cõi Thiêng liêng, dành để xử đoán các Chức sắc ba phái (Thái, Thượng, Ngọc) trong tôn giáo Cao Đài phạm tội.
Chúng nó đã gieo ác cảm lừng đến Tam Giáo Ðài, thế thì bước đường sau nầy Thầy khó cứu rỗi được.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tam giáo: Ba nền tôn giáo lớn. Một nhà: Ý chỉ một gốc, tức đồng nguyên.
Tam Giáo một nhà là một tư tưởng cho rằng Tam Giáo đồng nguyên hay Tam Giáo đồng tông, tức Phật Giáo, Lão Giáo và Nho Giáo cùng một gốc Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế mà sinh ra.
Vì vậy, trong bài Khai Kinh mới có câu: “Một cội sanh ba nhánh in nhau”. Ba nhánh tức là Tam Giáo, tuy khác nhau, nhưng cũng từ một gốc là Thượng Đế mà phát sinh ra.
Tam Giáo từ xưa vốn một nhà,
Người sau lầm tưởng vọng chia ba.
(Khổng Phu Tử Giáng).
三 教 歸 元
Tam Giáo: Phật Giáo, Tiên Giáo, Thánh giáo, hoặc Thích Giáo, Đạo Giáo, Nho Giáo. Quy nguyên: Về nguồn, tức về nguồn cội Đức Thượng Đế.
Tam Giáo quy nguyên là Đức Thượng Đế quy hiệp ba nền Giáo lý và triết lý Phật, Tiên Thánh vào một mối chơn truyền duy nhứt, lập thành một hệ thống Giáo lý, triết lý phù hợp với mức tiến hoá của chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Vậy Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Quy Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt là muốn dung hoà tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên nhân, vì thế mà phải bị sa đoạ nơi đây.
Tường quang nhứt khí chiếu minh đông,
Tam giáo quy nguyên dữ cộng đồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tam Giáo quy nguyên đồng nhứt lý,
Dạy người cải dữ gắng làm lành.
(Thơ Thông Quang).
三 教 座
Tam Giáo: Ba nền tôn giáo lớn là Phật, Tiên, Nho. Toà: Toà án, dinh thự, ngôi.
Tam Giáo Toà, tức Toà Tam Giáo, là một Toà án đặc biệt của Đạo Cao Đài để xét xử các chức sắc, chức việc và đạo hữu vi phạm luật pháp nặng nề của Đạo.
Xem: Toà Tam Giáo.
Vậy Lão nhứt định lập Tam Giáo Toà kể từ đầu tháng chạp năm nay...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Hay “Tam hoa tụ đỉnh”.
Muốn Tam huê tụ đỉnh (Tam hoa tụ đỉnh 三 花 聚 頂), phải luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần, luyện Thần hườn Hư.
Khi luyện được Thần huờn hư, thì lúc ấy Tam hoa là Tinh, Khí, Thần hội tụ nơi thượng điền, cũng như cây cỏ nở hoa sắp kết trái mà tinh hoa tụ nơi đỉnh.
Tổ Tam Phong nói: Nhị khí ngưng thai diên tự giảm, tam hoa tụ đỉnh hống lai tăng.
Ngũ khí triều nguơn linh giác hiện,
Tam huê tụ đỉnh huệ năng khai.
(Thơ Danh Nhân).
三 皇
Tam: Ba. Hoàng: Hoàng Đế, vua.
Tam hoàng là ba vị vua Thánh thời thượng cổ của Trung Quốc.
Về Tam Hoàng có nhiều thuyết khác nhau, theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh thì Tam Hoàng là Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhơn Hoàng.
Theo sách Thượng Thư Đại Truyện thì Tam Hoàng là Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông.
Dựng đời Ngũ Đế Tam Hoàng,
Trăm nhà muôn họ vững vàng thảnh thơi.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
三 會 龍 花
Tam hội: Hội lần thứ ba. Long Hoa: Một Đại Hội tuyển chọn người hiền lương đạo đức.
Tam Hội Long Hoa là Đại Hội lần thứ ba vào Tam Kỳ Phổ Độ, gọi là Bạch Vương Đại Hội do Đức Di Lạc Vương Phật làm Giáo Chủ.
Trong bài Kệ Chuông U Minh, lời nguyện thứ 33 có câu: Nam Mô Tam Hội Long Hoa Bạch Vương Đại Hội, Di Lạc Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn 南 無 三 會 龍 花, 彌 勒 古 佛 掌 教 天 尊.
Nam Mô Tam Hội Long Hoa Bạch Vương Đại Hội, Di Lạc Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn.
(Kệ U Minh).
三 魂
Tam: Ba. Hồn: Phần vô hình trong con người, theo đạo Cao Đài, là điểm thiêng liêng linh diệu trong con người. Ấy là điểm Linh quang của Đức Chí Tôn ban cho. Nó vốn bất tiêu bất diệt.
Tam hồn là ba bực hồn của con người: Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn.
Vạn vật và con người đều có bẩm thụ một điểm Chơn linh của Chí Tôn phân tánh, song mỗi vật đều có một hình thể hữu hình khác nhau, tuỳ theo trình độ tiến hoá của từng Chơn linh đó.
Loài vật chất thấp nhứt là kim thạch, vốn loài vô tri vô giác, không phân biệt được đầu ngọn; kim thạch tiến lên thảo mộc thì có một hồn là sanh hồn, có sự sống, song chưa có cảm giác, có gốc (đầu) quay xuống đất, ngọn (đuôi) hướng lên trời; thảo mộc tiến lên thú cầm thì có được hai hồn là sanh hồn, giác hồn, có sự sống và có cảm giác, có đầu và đuôi ngang nhau; thú cầm tiến lên con người thì có ba hồn: Sanh hồn, giác hồn, linh hồn, đầu hướng lên trời, chân quay xuống đất.
Nhờ có Linh hồn mà con người, so với muôn vật, có tánh linh hơn hết, và cũng nhờ Linh hồn mà con người biết phân biệt được phải quấy, tội phước nên có thể tu hành mà đạt Đạo được.
Luôn đó Ngài lấy triết lý cao siêu mà dạy Bần Ðạo trong một con người có ba xác thân gọi là tam hồn và bảy vía gọi là thất phách liên hệ mật thiết cùng nhau.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
三 期
Tam: Ba. Kỳ: Thời kỳ.
Tam Kỳ là trong thời kỳ thứ ba.
Kể từ Thái cổ đến nay trên quả Địa cầu này Đức Thượng Đế mở ra ba thời kỳ phổ độ, nhứt kỳ ứng với thời Thượng nguơn, Nhị kỳ ứng với thời Trung nguơn và Tam kỳ ứng với thời Hạ nguơn.
Do vậy, Tam Kỳ, Đại Đạo Tam Kỳ, hay Tam Kỳ Phổ Độ được dùng để chỉ đạo Cao Đài.
Xem: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Phước gặp Tam Kỳ Trời phổ độ,
Gắng tu kịp buổi lướt đài vân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đấng Thượng Đế cao thâm huyền diệu,
Khai Đạo Trời lấy hiệu Tam Kỳ.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
Tam Kỳ rộng mở ban huyền diệu,
Đại Đạo hoằng khai đủ nhiệm mầu.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Tam kỳ: Thời kỳ thứ ba. Đây chỉ Đạo Cao Đài, một tôn giáo được khai mở trong thời kỳ thứ ba để phổ độ chúng sanh. Khai hiệp: Khai mở ra để hiệp lại. Thiên Thi: Hay Thiên thư (Thiên thơ), là quyển sách Trời. Trong đó ghi chép về luật pháp, thiên cơ, nguyên lý vận hành vũ trụ và sự tiến hoá của vạn vật.
Tam Kỳ khai hiệp Thiên thi, như câu “Tam Kỳ khai hợp Thiên thư 三 期 開 合 天 書”, nghĩa là việc khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ở nước Việt Nam cũng do Thiên thơ tiền định.
Thánh giáo Thầy có nói: “Đại Đạo Tam Kỳ hoằng khai tại cõi Nam, đã chiếu theo Thiên thơ, Hội Tam Giáo, mà vớt chúng sanh thoát vòng ly khổ, thiệt thiệt, hư hư, một mảy chi, cũng chẳng qua là máy thiên cơ mà thôi”.
Tam Kỳ khai hiệp Thiên thi,
Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
三 期 普 度
Tam kỳ: Thời kỳ thứ ba. Phổ độ: Cứu giúp nhơn sanh khắp mọi nơi.
Tam Kỳ Phổ Độ là trong thời kỳ thứ ba, bày ra để cứư giúp tất cả chúng sanh khắp mọi nơi, mọi chốn.
Thánh giáo Thầy có dạy: Chư môn đệ nghe dạy: Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên Đồ đệ, chưởng quản thâu Tam Giáo hiệp nhứt.
Xem: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Vậy mới có Tam Kỳ Phổ Độ,
Đại Đạo khai cứu khổ khắp nơi.
(Thơ Bảo Pháp).
Tam Kỳ Phổ Độ tùng Thiên lịnh,
Nhị Trấn Oai Nghiêm ngự Bửu toà.
(Thơ Huệ Phong).
三 立
Tam: Ba. Lập: Gầy dựng nên.
Tam lập là ba điều lập nên, gồm: Lập công, lập đức và lập ngôn.
Tam lập còn gọi là “Tam bất hủ 三 不 腐”, tức là ba điều không bao giờ hư hoại, mà cứ truyền mãi về sau.
Trong “Lời Tựa” quyển Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp, Ngài Hiến Pháp cho rằng: Ðức Hộ Pháp là một trong các vị tiền bối khai sáng nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, đã thực hiện trước hết chủ thuyết Tam Lập: “Lập đức, lập công, lập ngôn”.
Niệm hương tế độ hành tam lập,
Lần chuỗi từ bi tịnh lục trần.
(Thơ Thuần Đức).
Đạo khuyên tam lập nên lo trước,
Đạo dạy thất tình phải diệt sau.
(Thơ Chơn Tâm).
三 昧
Tam: Ba. Muội: Tăm tối, mê tối.
Tam muội là ba điều mê tối là tham, sân, si. Nếu không diệt được ba điều này, nó sẽ trở thành thứ lửa mà Phật gọi là lửa tam mụội. Vì thế người tu phải vượt khỏi ba điều mê muội ấy.
Theo Phật, Tam muội do chữ Phạn “Samadhi”, tức là dứt hết mọi duyên nợ trần, chuyên nhứt một niềm hư vô tịch mịch.
Theo Cao Đài, Tam muội là lửa Tam Muội, một loại lửa được luyện bằng cách lấy chơn hoả của ngũ hành trong cơ thể con người mà luyện thành.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có nói: Ðạo tuy cao, song nên biết sức Quỷ cũng chẳng hèn. Nếu không ngăn ngừa, dằn lửa nóng trong tâm thì lửa Tam muội của Quỷ vương đốt cháy.
Cửa lầu Bát Quái chun ngang,
Hoả Tinh Tam muội thiêu tàn oan gia.
(Kinh Tận Độ).
Lửa Tam muội đốt tiêu dòng khổ,
Nước Tứ sanh lau sạch thiện đàng.
(Bát Nương Giáng Bút).
三 年 乳 哺
Tam niên: Ba năm. Nhũ: Vú. Bộ: Bú.
Tam niên nhũ bộ là ba năm bú mớm, ý nói sự săm sóc khổ cực của bà mẹ hiền, nuôi nấng con thơ suốt ba năm trường.
Như: Cửu nguyệt hoài thai, tam niên nhũ bộ.
Cửu tự cù lao ân cao thẳm,
Tam niên nhũ bộ nghĩa sâu dày.
(Thơ Thiên Vân).
三 娘 瑤 池 宮
Hay “Tam Nương”.
Tam Nương, hay Tam Nương Diêu Trì Cung là vị Tiên Nương đứng hàng thứ ba trong Cửu Vị Tiên Nương, hay Cửu Vị Nữ Phật. Nơi Chánh Điện thờ tại Báo Ân Từ, Tam Nương mặc áo màu xanh, ngồi bên phải Đức Phật Mẫu, tay cầm bửu pháp là Quạt Long Tu.
Tam Nương có nhiệm vụ tiếp dẫn Chơn hồn lên tầng Trời Thanh Thiên, là tầng Trời thứ ba của Cửu Trùng Thiên, để được rưới nước Cam Lộ cho tiêu hết thất tình lục dục hầu vào Cung Như Ý bái kiến Thái Thượng Lão Quân. Sau đó, đưa Chơn hồn đến Hội Thánh Minh học sách Trường Xuân để Chơn hồn có thể tiếp tục lên cõi Huỳnh Thiên. Chính trong bài kinh Đệ Tam cửu có đoạn viết:
Cung Như Ý Lão Quân tiếp khách,
Hội Thánh minh giao sách Trường xuân.
Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn,
Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.
Tam Nương còn có bổn phận chèo chiếc thuyền Bát Nhã đi trong biển khổ để đưa khách trần từ bến mê sang bờ giác.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Tam Nương có tên Tuyến, nhưng Bà không cho biết giáng sinh vào thời kỳ nào và ở đâu. Do đó bài thài hiến lễ Tam Nương trong lễ Hội Yến Diêu Trì Cung khởi đầu bằng chữ “Tuyến”.
Tuyến đức năng thành đạo,
Quảng trí đắc cao huyền.
Biển mê lắt lẻo con thuyền,
Chở che khách tục, cửu tuyền ngăn sông.
Tam Nương Diêu Trì Cung là vị Tiên Nương ít khi giáng cơ dạy đạo riêng, Bà chỉ cho thi chung với Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Đây là bài thi của Bà Tam Nương giáng tại Thảo Xá Hiền Cung, ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Thân (Dl. 15/9/1932), cùng với Đức Diêu Trì Kim Mẫu và tám vị Tiên Nương khác.
Bài thi đó như sau:
Tuyến đẹp vẻ thêu bông nổi mặt,
Đoạt kinh luân nặng thắt túi thơ.
Kìa ai nhớ lúc khua tơ,
Tài ba có biết đã nhờ ở ai?
Đức Phật Mẫu giáng cơ dạy Đạo, và Cửu Vị Tiên Nương mỗi vị kính tặng một bài thi, trong Đàn cơ ngày Rằm tháng 8 năm Nhâm Ngọ ((Dl. 2/9/1942). Phò Loan: Khai Ðạo và Hiến Ðạo. Bài thi kính tặng của Tam Nương như sau:
Tam Kỳ khai mở Ðạo lần ba,
Nương náu ít lâu rõ báu hoà.
Kính lượng bề trên ban đức tánh,
Tặng người tài trí hứng Ðài cao.
Đàn cơ tại Toà Thánh, ngày 15 tháng 8 năm Bính Tuất (Dl. 10/9/1946), Tý thời. Phò loan: Hộ Pháp - Bảo Văn Pháp Quân, Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng cơ cho thi, sau đây là bài thi của Bà Tam Nương:
Nay đầm ấm con đường hạnh phúc,
Cõi phong trần gội chút hồng ân.
Tiêu diêu phai lợt mùi trần,
Tỉnh say với giọt nước ngần tẩy mê.
Tại Báo Ân Từ, đêm 15 tháng 8 năm Ất Tỵ (Dl. 10-9-1965), Phò loan: Thượng Sanh - Hiến Pháp. Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng đàn cho thi, trong đó bài thi của Tam Nương như sau:
Tuyến nghiệp phàm vô vị,
Đạo khai dĩ định kỳ.
Hồng ân chan rưới mấy khi,
Bến mê há để lỡ thì độ sanh.
Vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn khai mở đạo Cao Đài với mục đích tận độ các nguyên nhân và chúng sanh còn đang mê muội trong kỳ Hạ nguơn mạt pháp nầy, nên dưới quyền Đức Phật Mẫu có hằng hà sa số Phật trông nom về cơ phổ độ mà Quan Âm Bồ Tát là Đấng cầm đầu, ngoài ra Tam Nương cũng như tám vị Tiên Nương khác có nhiệm vụ trông nom về cơ giáo hoá cho vạn linh.
Bà Tam Nương cùng với các vị Tiên Nương khác đã lập được nhiều công quả trong thời kỳ khai đạo, lại dày công giáo hoá nữ phái nên các Bà đắc hàng Phật vị, gọi là Cửu Vị Nữ Phật.
Cô Tam Nương thuyền từ nhẹ thả,
Cầm Long Tu độ cả khách trần.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Lãnh lịnh chèo khuôn Bát Nhã thuyền,
Tam Nương cứu độ khách trần duyên.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Tam: Ba. Nguyên: Đầu.
Tam nguyên 三 元 (nguơn) là đỗ đầu luôn hết ba khoa: Thi hương, thi hội, và thi đình, nghĩa rộng chỉ nhà thơ Yên Đỗ.
Thi sĩ Nguyễn Khuyến là người ở đất Yên Đỗ, lúc đi thi ông đỗ đầu ba khoa: Thi hương, thi hội, và thi đình, nên người ta thường gọi ông là Tam nguyên Yên Đỗ.
Phẩm vào Thập nhị chen hàng Thánh,
Thơ sánh Tam nguyên múa bút Thần.
(Thơ Chơn Tâm).
Hay “Tam nguyên”.
Tam: Ba. Nguơn (nguyên): Một khoảng thời gian dài.
1.- Tam nguơn, như chữ “Tam nguyên 三 元”, dùng để chỉ một khoảng thời gian dài, chia ra thành Thượng nguơn, Trung nguơn và Hạ nguơn.
Theo Chú Giải Pháp Chánh Truyền của đạo Cao Đài thì Tam nguơn là:
Thượng nguơn là nguơn Tạo hoá hay nguơn Thánh đức, tức nguơn Vô tội.
Trung nguơn là nguơn Tấn hoá, hay nguơn Tranh đấu, tức nguơn Tự diệt.
Hạ nguơn là nguơn Bảo tồn, hay nguơn Tái tạo, tức nguơn Quy cổ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Bần Đạo thuyết tiếp về tam nguơn, tại sao trong Càn Khôn Võ Trụ chia làm tam nguơn, là khi Càn Khôn Võ trụ chưa lập ra, ban đầu cả tinh khối sanh lực của Càn Khôn bao trùm hết, khi biến thiên mới tạo ra vạn vật, hồi lúc Đức Chí Tôn giáng linh gọi là Thượng Nguơn. Người giáng linh nắm cả nguyên khí ấy luyện trong Càn Khôn Võ Trụ biết hoạt động nương theo cái sanh lực là chữ khí đó (Hộ Pháp chỉ ra Liên Đài Hộ Pháp có chữ khí) tượng hình của mình.
Kế tiếp nữa là Trung Nguơn Đức Chí Tôn tạo vạn vật dầu cho loài người cũng ở trong vạn vật ấy. Giờ phút Đức Chí Tôn đến cho loài người được cái linh, tức nhiên cho họ cái khôn ngoan hiển hách khác hơn vạn loại kia, gọi là giáng khí vì cớ Đức Hộ Pháp bắt Ấn Trung Nguơn hai bàn tay phải hiệp lại với nhau là âm dương tương hiệp, theo cái thiên linh của Đức Chí Tôn đến cái nhơn linh của loài người.
Đến Hạ Nguơn Đức Chí Tôn giáng Thần, tức nhiên là cái thiên vị Đức Chí Tôn mở ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật cho Vạn Linh đặng cho các chơn hồn đạt vị của mình, chuyển luân trong quả kiếp sanh sanh tử tử mà đạt pháp lập thiên vị; Đức Chí Tôn giáng trần Hạ Nguơn là cốt yếu như vậy.
Cao Đài Đại Đạo chấn hưng,
Tam nguơn dựng lại phong thuần âu ca.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Tam nguơn, như chữ “Tam nguyên 三 元”, còn dùng để chỉ ba khoảng thời gian trong một năm: Thượng, Trung và Hạ nguơn.
Ngày 15 tháng 1 Âm lịch gọi là rằm Thượng nguơn.
Ngày 15 tháng 7 Âm lịch gọi là rằm Trung nguơn.
Ngày 15 tháng 10 Âm lịch gọi là rằm Hạ nguơn.
Theo luật pháp của Đạo Giáo, nhất là triết lý của nhà Phật, trước khi lập thành mối Đạo, mỗi năm phân ra Tam nguơn là: Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
三 業
Con người có tánh linh hơn loài vật, nên phải tự làm chủ hành động của mình và cũng chịu trách nhiệm về hậu quả hành động của mình, không ai chịu thay cho mình được, do đó nếu có làm lỗi thì mọi sự cầu nguyện van xin Trời Phật cũng vô ích thôi.
Vì vậy con người tạo ra nghiệp thiện hay ác, cũng chính con người phải chịu nhận lấy hậu quả của việc làm ấy.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng có viết:
Đã mang lấy nghiệp vào thân.
Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa.
Vậy Tam nghiệp là gì
Tam nghiệp là con đường đi từ nhân đến quả, tức là do việc làm thiện ác của kiếp sống mà nhận được nghiệp lành hay dữ.
Tam nghiệp là ba cái nghiệp được gây ra bởi thân thể, lời nói, ý nghĩ, có hậu quả tạo ra các nghiệp lành hay ác. Tam nghiệp gồm có: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp.
Nếu Tam nghiệp thân, khẩu, ý hướng theo những điều xấu xa, hung dữ, gây tạo ra ác nghiệp, hay bất thiện nghiệp thì phải chịu ác báo.
Kinh Phật có câu: “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương 三 業 恆 清 淨, 同 佛 往 西 方”, tức là ba nghiệp mà thanh tịnh thì cùng với Phật sanh về Tây phương. Như vậy để nuôi dưỡng thiện nghiệp, ta cần phải hướng ba nghiệp về các việc lành.
Nếu hành động, lời nói hay ý nghĩ của ta thể hiện trọn vẹn điều lành thì thân tâm ta sẽ nhẹ nhàng, không bị phiền não, khổ đau, và nhứt là tạo được nghiệp lành để thoát khỏi luân hồi sanh tử.
Để nuôi dưỡng ba thiện nghiệp, người tu tập cần phải hướng ba nghiệp về các việc lành. Trong Kinh Pháp Cú, bài kệ số 234, Phật có dạy:
Bậc trí bảo vệ thân,
Bảo vệ luôn lời nói,
Bảo vệ cả tâm tư
Ba nghiệp khéo bảo vệ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh cũng có nói về tam nghiệp như sau: Ðời của người hành Ðạo là một đời học hỏi tu tập không ngừng. Bởi vậy, mặc dầu đạt tới chỗ hoàn thiện là một việc quá khó, nhưng nếu muốn tự giải thoát, chúng ta phải rán sức, bền chí kiên tâm, chịu hy sinh cuộc đời vật chất xa hoa, lánh bả lợi danh, sống hoàn toàn trong mặt Ðạo, thì một ngày kia cũng đi đến kết quả, dầu không nên được bậc Chí thánh, cũng đứng vào bậc Chơn tu, đáng mặt phi thường. Chí ư gọi là khó rồi bỏ qua, không gắng công phu kềm chế cái vọng tâm, không vững chí sửa mình, đạt tới chỗ hoàn thiện thì người tu dựa vào căn bản nào mà đi cho cùng bước Ðạo, công viên quả mãn?
Tự cổ chí kim, vì không giữ mình được trong sạch cho nên con người phải chịu làm nô lệ cho xác thịt để cho dục vọng lôi cuốn gây thành Tam nghiệp tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, phải bị chìm đắm trong vòng sanh tử luân hồi, chẳng khác chi tự mình trói buộc vào một cái bánh xe, cứ quay cuồng mãi mãi không biết bao giờ tháo mở được.
Tự cổ chí kim, vì không giữ mình được trong sạch cho nên con người phải chịu làm nô lệ cho xác thịt để cho dục vọng lôi cuốn gây thành tam nghiệp...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
三 派
Tam: Ba. Phái: Nhánh hoặc dòng, như phái nam, phái nữ.
Tam phái là ba phái.
Trong đạo Cao Đài, Chức sắc Cửu Trùng Đài Nam phái được chia ra làm ba phái: Thái, Thượng và Ngọc.
Phái Thái chủ màu vàng, thuộc về Phật, coi về ba viện: Hộ viện, Lương viện và Công viện.
Phái Thượng chủ màu xanh, thuộc về Tiên, nắm giữ ba viện: Học viện, Y viện và Nông viện.
Phái Ngọc chủ màu đỏ, thuộc về Thánh, cầm quyền ba viện: Hoà viện, Lại viện, Lễ viện.
Rồng ba sắc tỏ ra Tam Phái,
Hiện sắc vàng là Phái Thái Phật Tôn.
(Lược Thuật Toà Thánh).
三 分
Tam: Ba. Phân: Chia.
Tam phân là phân ba, ý chỉ cái nguyên vẹn mà bị chia xẻ ra. Như: Đất nước tam phân.
Tam phân, còn do chữ “Đỉnh túc tam phân 鼎 足 三 分”, là nói cái thế chia ba thiên hạ như hình chân vạc, ý chỉ ba nước có thế lực ngang nhau, đó là Thục của Lưu Bị, Nguỵ của Tào Tháo, Ngô của Tôn Quyền, nên lịch sử gọi là đời Tam Quốc.
Chước thế thiếu văn vùa giúp võ,
Phàm thân chịu nhọc lúc tam phân.
(Đạo Sử).
Ðộc lập gần ngày vui sắp đến,
Bỏ cơn đất Việt chịu tam phân.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
1. TAM QUAN 三 官
Tam: Thứ ba. Quan: Chức quan nơi triều đình.
Tam quan là chức quan thuộc Tam phẩm thời xưa, tức vị quan đứng hàng thứ ba trong triều đình.
Tam phẩm gồm có Chưởng Viên Học Sĩ, Thị Lang, Đại Lý Tự Khanh, Thái Thường Tự Khanh, Phủ Doản...
Lý Thái Bạch lúc sinh tiền được vua Đường phong làm Đại Học Sĩ thuộc hàng Tam phẩm.
Ðường trào hạ thế hưởng Tam quan,
Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2. TAM QUAN 三 關
Tam: Ba. Quan: Cửa cổng.
Tam Quan là tên một cái cửa lớn (cổng), phần nhiều là cửa chùa, cửa các phủ thờ, có ba lối đi: Cửa giữa rộng, hai bên là cửa tả hữu, trên thì có mái che.
Chung quanh Nội ô Toà Thánh có mười hai cổng ra vào, hiện nay xây dựng được một số cổng theo kiểu Tam quan, trong đó có một cổng chánh trước Toà Thánh lớn hơn hết, gọi là cổng Chánh Môn.
Dìu dắt qua cầu Cửu Cấp,
Lần hồi tới cửa Tam Quan.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Bát Cảnh Cung quỳ xinh áo trắng,
Tam Quan Cửa mở lộng mây xanh.
(Thơ Hoàn Nguyên).
三 光
Tam: Ba. Quang: Ánh sáng.
1.- Tam Quang hay “Tam Quang Mạo”, là một loại mão dành thêm cho chức sắc Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài khi mặc tiểu phục.
Sở dĩ gọi là Tam Quang Mạo bởi vì trên cái mão có thêu: Nhựt, Nguyệt, Tinh.
Tiểu phục của chức sắc Hiệp Thiên Đài về sau, thêm một Tam Quang Mạo nữa.
(Giáo Lý).
2.- Tam Quang còn là ba nguồn ánh sáng của nhựt, nguyệt, tinh tức mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Đó chính là Tam bửu của Trời.
Trong quyển Ngọc Lịch Minh Kinh có viết: “Đổ đồ nhơ uế xuống sông, phơi áo quần dơ giọi bóng Tam quang là mặt nhựt, mặt nguyệt, ánh sao, hoặc nhơ uế mà để lên chỗ thờ phượng, vào bếp núc. Các tội trên đều bị xô xuống Tạp trì (hay huyết ô trì), là ao huyết dơ mà lặn hụp, tuỳ theo tội nhiều ít phạt ở lâu mau”.
Như vậy, theo Ngọc Lịch Minh Kinh thì chữ Tam Quang 三 光 (có chữ g) có nghĩa là nhựt, nguyệt, tinh, tức là không phơi áo quần dơ trực tiếp dưới ánh mặt trời, mặt trăng và ánh sao
Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quan.
(Kinh Sám Hối).
Chú thích: Đúng ra chữ “Tam quan 三 關” trong câu kinh Sám Hối trên phải viết là “Tam quang 三 光”, nhưng vì giữ theo nguyên bản kinh Thiên Đạo và Thế Đạo của Hội Thánh.
三 皈
Tam: Ba. Quy: Theo về, nương theo.
Tam quy là trở về nương tựa với ba ngôi quý báu gọi là quy y Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
Người mới vào đạo Phật, đến chùa làm lễ quy y, phát nguyện trước Phật, Pháp, Tăng xin quy y tam bảo.
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.
Tam cang ngũ lý nền nhân đạo,
Ngũ giới Tam quy cội Thánh Tiên.
(Tăng Tử, Mạnh Tử).
Trọn gìn Ngũ giới trau lòng tục,
Vẹn giữ Tam quy tắt lửa phiền.
(Thơ Chơn Tâm).
三 皈 五 戒
Tam: Ba. Quy: Theo về, nương theo. Ngũ: Năm. Giới: Điều răn.
Tam quy là trở về nương tựa với ba ngôi quý báu gọi là quy y Tam bảo: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Ngũ giới là năm điều giới cấm mà người tu hành không được phạm vào: 1). Bất sát sinh: Không giết sinh vật, 2). Bất du đạo: Không trộm cắp, 3). Bất tà dâm: Không tà dâm, 4). Bất vọng ngữ: Không nói láo, 5). Bất tửu nhục: Không uống rượu.
Thọ sắc tam quy câu cứu khổ,
Trì tâm ngũ giới tiếng nam mô.
(Thơ Thượng Sanh).
Hay “Tam sinh”.
Tam: Ba. Sanh (sinh): Kiếp sống.
Tam sanh, như chữ “Tam sinh 三 生”, là nhân duyên ba kiếp sống.
Tam sanh hữu hạnh là nhờ tu ba kiếp rồi nên nay mới có duyên may.
Do điển: Viên Trạch đời nhà Đường đi chơi với bạn là Lý Nguyên ở núi Tam Giáp, gặp một người đàn bà gánh nước giếng.Viên Trạch nói: Bà này có mang đã ba năm, đợi tôi vào làm con, tôi xin hẹn anh mười ba năm sau sẽ gặp nhau ở chùa Thiên Trúc, tỉnh Hàng Châu. Đêm đó Viên Trạch mất. Mười ba năm sau, Lý Nguyên tìm đến nơi đã hẹn, gặp một đứa bé chăn trâu, nghêu ngao hát rằng: Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn, Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân. Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng, Thử thân tuy dị tính trường tồn 三 生 石 上 舊 精 魂, 賞 月 吟 風 不 要 論. 慚 愧 情 人 遠 相 訪. 此 身 雖 異 性 長 存, nghĩa là ba sinh đá ấy cựu tinh hồn, Ngâm gió thưởng trăng khó nỗi bàn. Thẹn gặp người xưa thăm hỏi tớ, Thân này tuy khác, tính linh còn. Hát xong, đứa bé bèn quày quả đi. Lý Nguyên biết đứa bé
chăn trâu đó chính là hậu thân của Viên Trạch.
Xem: Ba sinh.
Làm người dễ có mấy lần,
Tam sanh hữu hạnh mới gần Phật Tiên.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
三 牲
Tam: Ba. Sinh: còn đọc “Sanh”, là con vật còn sống đem làm để cúng tế. Như: Cúng tam sinh, hy sinh.
Tam sinh là chỉ ba con vật: Trâu, heo, dê.
Nguyên ngày xưa người ta thường dùng trâu, heo, dê để tế Thần và tế các vong linh ông bà, nên ba con vật nầy được gọi là “Tam sinh”.
Khi ta đã xem tế Nam Giao, từ Thượng Cổ nhà Vua dâng cho Đức Chí Tôn ba cái vật là: Trâu, heo, và dê gọi là Tam sinh.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
三 山
Tam: Ba. Sơn: Núi, non.
Tam sơn, một loại binh khí thời xưa, là cây chĩa gồm có ba ngạnh.
Trong đạo Cao Đài, khi Đức Hộ Pháp, một vị chức sắc Đại Thiên Phong Hiệp Thiên Đài, ngự trên ngai, hoặc chầu lễ Đức Chí Tôn thì Ngài mặc giáp ở trong, choàng áo mãng bào phía ngoài, tay phải cầm Giáng Ma Xử, tay trái nắm xâu Chuỗi Từ Bi, đầu đội Kim khôi vàng, trên Kim khôi có thể Tam sơn, giống như cái chĩa ba ngạnh, tượng trưng cho chưởng quản Tam Thiên bên cõi Tây Phương Cực Lạc.
Bộ Đại phục, người mặc giáp, đầu đội kim khôi toàn bằng vàng, trên Kim khôi có thể Tam sơn, giống như cái chĩa ba ngạnh...
(Pháp Chánh Truyền CG).
三 災
Tam: Ba. Tai: Nạn tai.
Tam tai là ba loại tai hoạ:
Nước gây ra lụt lội, gọi là thuỷ tai; Lửa gây ra cháy nổ gọi là hoả tai; Gió gây ra bão tố gọi là phong tai. Có hai thứ “Tam tai”:
- Đại Tam tai: Lụt, lửa, gió bão.
- Tiểu tam tai: Giặc giã, đói khát, bệnh dịch.
Trong Di Lạc Chơn Chơn Kinh có câu: Năng cứu khổ ách, năng cứu Tam tai, năng cứu tật bệnh 能 救 苦 厄 能 救 三 災 能 救 疾 病, nghĩa là có thể cứu giúp những tai ách khổ sở, có thể cứu giúp được tam tai, có thể cứu giúp được bịnh tật.
Lòng đạo dẫu rằng xa ngũ dục,
Thân phàm đâu dễ tránh tam tai!
(Thơ Thuần Đức).
三 才
Tam: Ba. Tài: Ngôi.
Tam tài là ba ngôi. Người xưa thường nói: Thiên địa dữ nhân vị chi Tam tài 天 地 與 人, 謂 之 三 才, tức là trời đất và người, gọi là ngôi Tam tài.
Trời có công năng che muôn vật, đất có công năng đỡ muôn vật, bậc Thánh nhân tự đặt thành người phụ tá, để giúp vào cái chỗ bất cập của trời đất mà thành tựu muôn vật.
Muôn vật quần trong trời đất, chỉ có con người là quý hơn hết, cho nên con người khôn thiêng hơn muôn vật, bẩm thụ đầy đủ âm dương, nắm giữ đạo đức, hoá dục, giúp muôn vật sinh sôi nảy nở không ngừng, sánh bằng trời đất, nên được liệt vào ngôi Tam tài.
Lập Tam tài là lập ra Thiên, Địa nhơn (Trời, đất, người), ý chỉ việc Đức Phật Mẫu tạo lập ra Càn khôn Vũ trụ và con người.
Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp,
Lập Tam tài định kiếp hoà căn.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Dụng nhị khí chuyển cơ hoá trưởng,
Lập Tam tài định phẩm nguyên nhân.
(Thơ Huệ Phong).
Tam tài: Ba ngôi: Thiên, Địa, Nhân. Ngũ khí: Ngũ hành chi khí.
Trong đạo Cao Đài, nơi Chánh điện thờ Đức Chí Tôn luôn luôn đốt năm cây hương xếp thành hai hàng: Hàng trong ba cây, gọi là án Tam tài, hàng ngoài hai cây, gọi là tượng Ngũ khí.
Ở đây, chúng ta thử tìm hiểu về ý nghĩa của Tam Tài và Ngũ Khí.
Tam tài:
Tam tài là ba ngôi. Người xưa thường nói: Thiên địa dữ nhân vị chi Tam tài 天 地 與 人, 謂 之 三 才, tức là trời đất và người, gọi là Tam tài, đó là ba yếu tố quan trọng nhứt, cao quý nhứt trong vũ trụ, Nếu trong ba yếu tố đó mà mất đi một thì cuộc đại hoà điệu trong vũ trụ không còn nữa.
Đổng Trọng Thư viết rằng: Người với trời tương đồng từng điểm cho nên vũ trụ mà không có người thì vũ trụ không còn hoàn toàn, không thành được vũ trụ nữa. Bởi vì vũ trụ là một đại hoà điệu Tam Tài Thiên, Địa Nhân, nếu mất một yếu tố thì hoà điệu cũng không còn.
Xem thế thì con người chiếm một địa vị vô cùng quan trọng trong Trời đất vậy. Nhưng tạo sao con người đạt được địa vị ấy? Đó là vì con người được Trời đất sinh ra và ban cho một đức tính rất cao quý, rất thiêng liêng. Ngoài ra con người còn được hấp thụ hoàn toàn cái tinh thần linh diệu và cái khí chất tinh túy của Trời đất, nên con người linh hơn, sáng suốt hơn muôn vật. Chính nhờ cái sáng suốt nầy mà con người phân biệt được điều hay điều dở, lẽ phải lẽ trái, nếu không thì con người cũng sẽ mờ mịt như tất cả sinh vật khác. Cái sáng suốt ấy có sẵn trong mỗi con người và được gọi là trực giác, lương tri, hay minh đức. Trực giác ấy chỉ được bén nhạy khi nào ta giữ cái tâm của mình cho trong sáng sáng, không bị vật dục cám dỗ, không bị ngoại vật chi phối, nghĩa là phải
giữ cho tâm hư tĩnh.
Tóm lại, ba cây nhang tượng trưng cho Tam Tài là nhằm nhắc lại cái địa vị cao quý của Trời đất người trong vũ trụ, đồng thời cũng nhằm nhắc nhở cho người tín đồ phải luôn cố giữ cái tâm được hư tĩnh để trực giác được mẫn huệ, lương tri sáng suốt hầu cảm được, hầu cảm được, thấy được cái thiên lý lưu hành khắp vũ trụ. Nếu con người chỉ biết chạy theo vật dục, hưởng thụ cho riêng mình thì trực giác phải mờ tối đi. Vậy người tín đồ phải cố giữ lấy linh tâm, lương tri mà Trời đã phú cho con người thì mới hiệp nhứt được với Trời đất.
Ngũ khí:
Ngũ khí hay Ngũ hành chi khí là năm yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Nhờ năm yếu tố nầy mà vạn vật mới hình thành, sinh trưởng và tồn tại. Ngũ hành được tạo thành là do luân chuyển biến hoá của hai yếu tố Âm Dương.
Ông Chu Liêm Khê trong Thái Cực Đồ Thuyết có giảng: Thái Cực có hai thể: Động và tĩnh. Động thì sinh ra Dương, động cực rồi lại tĩnh. Tĩnh thì sinh ra Âm, tĩnh cực rồi lại động. Cứ một động một tĩnh thay đổi nhau, cái nọ lấy cái kia làm gốc chia làm Âm Dương, lập thành hai nghi vậy.
Dương động thì biến hoá ra, Âm tĩnh thì đông hợp lại. Bởi sự biến, sự hợp ấy mà sinh ra Ngũ hành là Thủy, Hoả, Mộc, Kim, Thổ. Năm khí ấy thi ra mà thuận là bốn mùa lưu hành vậy.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo tại Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng 8 năm Ðinh Hợi (1947) giải thích như sau: Nói về 5 cây nhang, từ thử Bần Ðạo để cho các Nho gia tự do giảng nghĩa sao thì giảng, còn Bần Ðạo hiểu rõ là Ngũ khí. Chí Tôn dùng Ngũ khí mà biến thành Ngũ hành vận chuyển cả Càn khôn Thế giới, tức là Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Mỗi chất đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi khí. Mùi vị và sanh quang của nó chúng ta không thể hưởng được, nghe được.
Nên chi, khi làm lễ đốt đủ 5 cây hương là đúng theo phép tín ngưỡng là quy pháp lại, mọi vật trong Ngũ khí dâng lễ cho Chí Tôn chỉ có người vui hưởng quy pháp ấy mà thôi, cắt nghĩa rõ rệt ra là Ngũ khí đó vậy. Ðúng hơn nữa là trong Bát Hồn vận chuyển được phải nhờ đến Ngũ khí cùng một ý nghĩa với “Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn”.
Khi cúng Thầy, phải đốt cho đủ năm cây hương, cắm hàng trong ba cây gọi là Án Tam tài, thêm hàng ngoài hai cây nữa gọi là Tượng Ngũ khí.
(Tiểu Dẫn Kinh Thiên, Thế Đạo).
三 藏
Tam tạng, như chữ Tam Tạng kinh 三 藏 經”, là ba tạng kinh điển của đạo Phật, gồm: Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng.
Kinh tạng: Những bài thuyết pháp của Phật hoặc các đại đệ tử.
Luật tạng: Những giới luật làm khuôn phép cho sinh hoạt tu học của tăng chúng.
Luận tạng: Những bộ sách giải thích rõ ràng thêm nghĩa lý, triết học và trình bày giáo lý đạo Phật một cách có hệ thống.
Tam Tạng còn là hiệu của một vị Thánh tăng đời Đường (Trung Quốc), tên Trần Huyền Trang, có công qua Tây Trúc thỉnh kinh.
... kinh luật đem về xứ để truyền bá, thì mấy vị nầy chẳng khác như Ðức Tam Tạng ngày xưa đến Ấn Ðộ thỉnh kinh.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
三 宗 真 教
Tam tông: Ba nền tôn giáo (tông giáo) lớn. Chơn giáo: Đạo chơn chánh.
Tam Tông Chơn Giáo, như chữ “Tam giáo”, là ba nền chơn Đạo lớn đã được truyền bá trong thời Nhứt và Nhị Kỳ Phổ Độ. Đó là Nho giáo, Đạo giáo và Thích giáo.
Trong các bài Sớ Văn đều có câu: Tam Tông Chơn Giáo, Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.
Xem: Tam giáo.
Thể hình đủ Tam Tông Chơn Giáo,
Chiều đứng thì ba sáu thước cao.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
三 從
Tam: Ba. Tùng: Theo.
Tam tùng, còn đọc Tam tòng, là ba điều mà người đàn bà, con gái theo lễ giáo xưa phải giữ, đó là:
- Tại gia tùng phụ 在 家 從 父, nghĩa là tại nhà tòng theo cha, tức phải nghe lời dạy dỗ, khuyên răn của cha dù đã trưởng thành.
- Xuất giá tùng phu 出 嫁 從 夫, nghĩa là có chồng thì theo chồng, tức để chồng giữ vai trò quyết định mọi việc trọng yếu trong gia đình. Vợ có nhiệm vụ giúp ý kiến cho chồng và giúp chồng nên sự nghiệp.
- Phu tử tùng tử 夫 死 從 子, nghĩa là chồng chết theo con, tức khi chồng đã quá vãng, bổn phận người vợ phải thủ tiết, ở vậy thờ chồng, nuôi dạy con cái và gầy dựng gia thất cho con.
Chuyên gìn Tứ đức với tam tùng,
Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.
(Đạo Sử).
Thôi đành gởi tâm hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết tam tùng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
三 從 四 德
Tam tùng: Ba điều cần phải theo của người phụ nữ. Tứ đức: Bốn đức tính tốt, rất cần thiết của người đàn bà.
Tam tùng tứ đức là ba điều mà người phụ nữ ngày xưa cần phải theo và bốn đức tính tốt cần phải trau luyện.
Tam tùng gồm: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử 在 家 從 父, 出 嫁 從 夫, 夫 死 從 子, nghĩa là ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con.
Tứ đức gồm: Công, dung, ngôn, hạnh 工 容 言 行.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Thầy dạy Nữ phái biết trọng Tam Tùng, Tứ Ðức; Nam phái Tam Cang, Ngũ Thường. Hễ Nhơn đạo thành thì là phù hạp Thiên đạo, nghe à!
Phận gái tam tùng cùng tứ đức,
Tề gia nội trợ vẹn là ngoan.
(Giới Tâm Kinh).
Dạy rõ nghĩa tam tùng tứ đức,
Trăm việc nhà sau trước nhắm xem.
(Phương Tu Đại Đạo).
三 清
Tam: Ba. Thanh: Cao quý, trong sạch.
Tam Thanh là ba ngôi phẩm trong đạo Cao Đài gồm Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh. Thái Thanh màu vàng, thuộc Phật, Thượng Thanh màu xanh, thuộc Tiên, Ngọc Thanh màu đỏ thuộc Thánh.
Đạo Cao Đài thường dùng Tam Thanh để đối với Tam Giáo và tam sắc. Nên lá cờ của Đạo gọi là cờ Tam Thanh, gồm ba màu đỏ, xanh, vàng.
Chức sắc Cửu Trùng Đài của Hội Thánh Cao Đài được chia là ba phái: Phái Ngọc, mặc Đạo phục màu đỏ, thuộc Nho giáo, nguơn tinh; phái Thượng, mặc Đạo phục màu xanh, thuộc Tiên giáo, nguơn khí; phái Thái, mặc Đạo phục màu vàng, thuộc Phật giáo, nguơn thần.
Lão Quân ứng hoá Tam Thanh,
Khuyến răn nhơn vật lòng lành chớ xao.
(Xưng Tụng Công Đức).
Chuyển pháp kinh văn ban nhứt bộ,
Trừ yêu nộ khí ứng Tam Thanh.
(Thơ Huệ Phong).
三 聖 記 和 約
Tam Thánh: Ba vị Thánh thuộc Bạch Vân Động, đó là Thanh Sơn Đạo Sĩ, tức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người Việt Nam, đứng đầu Bạch Vân Động, Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức văn hào Victor Hugo, người nước Pháp, và Tôn Trung Sơn Chơn Nhơn, tức Tôn Văn hay Tôn Dật Tiên, nhà cách mạng Trung Hoa. Ký Hoà ước: Ghi chép bản Hoà ước.
Tam Thánh ký Hoà ước là ba vị Thánh ở Bạch Vân Động ghi chép bản Đệ tam Thiên nhơn Hoà ước để công bố cho toàn nhơn loại.
Đệ tam Thiên nhơn Hoà ước là bản Hoà ước lần thứ ba (tương ứng với ba thời kỳ phổ độ) giữa Trời và người, tức giữa Thượng Đế và nhân loại.
Nội dung bản Đệ tam Thiên nhơn Hoà ước là thực thi “Bác ái 博 愛 và Công Bình 公 平”.
1.- Tam Thánh Ký Hoà Ước:
Nên Tam Thánh ký tờ hoà ước,
Cầu Chí Tôn rưới phước ban ơn.
(Lược Thuật Toà Thánh).
2.- Tam Thánh:
Hình Tam Thánh tạc rành trên vách,
Tiền căn đều ở Bạch Vân Am.
(Lược Thuật Toà Thánh).
三 十 六 洞
Tam thập lục: Ba mươi sáu. Động: Hang núi, nơi ở của chư vị Thần Tiên hay hang động của yêu quỷ.
Tam thập lục Động là ba mươi sáu Động do Quỷ vương lập ra để mạo danh cõi Thiên cung là Thập lục Thiên. Ngoài ra, nơi Tam thập lục Động, chúng còn lập thành phẩm trật quỷ vị để giả danh chư Thần Thánh Tiên Phật để lừa gạt người tu hành.
Vì thế kẻ hành giả phải có trí huệ và bền tâm mới tránh được cơ thử thách của bọn quỷ vương.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Còn phẩm trật Quỷ vị cũng như thế ấy. Nó cũng noi chước Thiên cung mà lập thành Quỷ vị, cũng đủ các ngôi, các phẩm, đặng đày đoạ các con, hành hài các con, xử trị các con. Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.
Chúng nó hiệp Tam thập lục Ðộng toan hại các con, nên Thầy sai Quan Thánh và Quan Âm đến gìn giữ các con...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
三 十 六 聖
Tam thập lục: Ba mươi sáu. Thánh: Bậc Thánh.
Tam thập lục Thánh là ba mươi sáu vị Thánh.
Trong Đạo Cao Đài, Chức sắc Cửu Trùng Đài Nam phái có phẩm Phối Sư gồm ba mươi sáu vị, chia làm ba phái: Thái, Thượng, Ngọc, mỗi phái mười hai vị.
Phối Sư lại đối phẩm với hàng Thiên Thánh, nên được gọi là Tam thập lục Thánh.
Thánh giáo Thầy dạy về Chức sắc Cửu Trùng Đài Nam Phái có câu: Còn nay, Thầy giáng thế chọn đến: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ.
Trong Ba phái có Tam thập lục Thánh, tuy nay chưa đủ số ấy nhưng đã đặng tám, chín người rồi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
三 十 六 天
Tam thập lục: Ba mươi sáu. Thiên: Trời, từng Trời.
Tam thập lục thiên là ba mươi sáu từng Trời. Trong bài “Kinh Khi Đã Chết Rồi” gọi là “Ba mươi sáu cõi Thiên tào”.
Tam thập lục thiên thuộc về cõi vô hình, phần cao nhất, tinh khiết nhất trong Càn khôn Vũ trụ. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: “Tam thập lục thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải tinh tú, còn lại Thất thập nhị địa và Tam thiên thế giới thì đều là tinh tú, tính lại 3072 ngôi sao”.
Theo lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp: Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, tức là Tam Thiên Vị, dưới ba ngôi ấy có Tam thập tam thiên (Ba mươi ba tầng Trời), cộng với ba ngôi trên (tức Tam Thiên Vị) là ba mươi sáu tầng Trời, nên gọi là “Tam thập lục thiên”.
Thượng chưởng Tam thập lục thiên,
Tam thiên Thế giới.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Huệ đăng bất diệt,
Chiếu Tam thập lục thiên chi quang minh.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
三 世
Tam: Ba. Thế: Đời.
Tam thế là ba kiếp sống, hoặc ba đời.
Ba kiếp sống là Tiền thế: Kiếp trước, Hiện thế: Kiếp hiện tại, Hậu thế: Kiếp sau.
Ba đời là đời ông, đời cha, đời con; hoặc đời quá khứ, đời hiện tại và đời vị lai.
Tam thế tứ sanh chi nội các miễn luân hồi.
(Kệ U Minh).
三 世 佛
Tam thế: Ba đời. Phật: Đức Phật.
Tam thế Phật là các vị Phật trong ba đời.
Theo Phật giáo
Tam thế Phật gồm có:
1. Phật quá khứ như Nhiên Đăng Cổ Phật.
2. Phật hiện tại là Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật.
3. Phật vị lai là Đức Di Lặc Vương Phật.
Trong các chùa bên Phật giáo phái Bắc tông cũng có lối thờ Tam thế Phật (Còn gọi là Tam thế Tôn) như sau: Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni là Phật hiện tại, ở giữa nên cũng còn gọi Ngài là Đức Trung Tôn; bên phải Ngài thờ tượng A Di Đà Phật là Phật quá khứ; bên trái Ngài thờ Di Lặc Vương Phật là Phật tương lai.
Theo Cao Đài
Tam thế Phật là ba vị Phật lãnh lịnh Đức Chí Tôn điều khiển ba nguơn của Trời đất là Thượng nguơn, Trung nguơn và Hạ nguơn. Ba vị Phật đó là:
Brahma Phật 梵 摩 佛
Brahma Phật, Hán dịch Phạm Ma Phật 梵 摩 佛, là vị Phật giáng trần trong thời kỳ Thượng nguơn hay nguơn Thánh đức tức là nguơn vô tội.
Brama Phật trên nóc Bát Quái Đài, Toà Thánh Tây Ninh, Ngài đứng trên mình con Huyền Nga, tay mặt bắt ấn khai nguơn, tay trái nắm bửu châu, mặt nhìn về phía Tây, tức hướng mặt trời lặn, biểu tượng cho sự lo lắng của Ngài khi cõi trần sắp chìm sâu trong nguơn tranh đấu điêu tàn.
Brahma Phật thuộc ngôi thứ nhứt, điều khiển Thượng nguơn Thánh đức, chủ về cơ sanh hoá.
Trong Lược thuật Toà Thánh, thi tập của Võ Thành Lượng, được sự Kiểm duyệt Kinh Sách của Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài và Phê kiến của Đức Thượng Sanh có câu:
Phật Brama day mặt Tây Phang.
Phò nguy tế chúng cứu nàn,
Cỡi Thiên Nga đến trần-gian Nhứt Kỳ.
Civa Phật 濕 婆 佛
Civa Phật, Hán phiên âm Thấp Bà Phật 濕 婆 佛, là vị Phật điều khiển Trung Nguơn, tức nguơn Tranh Đấu. Vị Phật nầy được giáng trần trong nguơn tranh đấu của nhơn loại. Civa Phật trên nóc Bát Quái Đài mặt nhìn về phương Bắc, mình đứng trên lưng rắn bảy đầu, ấy là tượng trưng Phật diệt thất tình cho nhân loại khỏi bị mê muội ở trần gian tục lụy mà tranh đấu, huỷ diệt lẫn nhau, miệng Ngài thổi sáo để thức tỉnh nhơn sanh hồi tâm hướng thiện. Civa Phật có bộ tinh nhũ trước ngực, là ngôi thứ hai trong Tam thế Phật.
Nói về Đức Phật Mẫu, Đức Hộ Pháp có thuyết như sau: “Bần Đạo cũng nên chỉ rõ Đức Phật Mẫu đến tại mặt thế gian này, đã tượng trưng bên Ấn Độ. Phật giáo Ấn Độ gọi Ngài là Civa Phật, là cái hình ở trên Bát Quái Đài, chúng ta để trên nóc đó, thấy có tinh nhũ nơi ngực Ngài.
Hồi buổi Chí Tôn phân định, phân tánh của Ngài, lấy khí, tức nhiên là Ngài dùng cái linh pháp của Ngài biến tướng ra Phật Mẫu. Phật Mẫu thuộc về Âm, Chí Tôn thuộc về Dương, Âm Dương hiệp lại mới biến hoá ra Càn khôn Vũ trụ và sanh ra vạn vật.
Đức Civa Phật, Ấn Độ làm một cái hình phân nửa giống đàn bà, còn cái tướng thì đàn ông, bởi hồi đó con người chưa phân rõ chắc chắn nam nữ, Âm Dương. Đức Civa trong huyết khí, tức là huyết, còn chơn linh đào tạo là do Đức Chí Tôn.
Đức Chí Tôn là Phật, Đức Phật Mẫu là pháp, pháp mới sanh ra Càn khôn Vũ trụ và vạn vật, vạn vật ấy do nơi tinh mà ra, tức là Tăng. Thần tức nhiên là Đức Chí Tôn, Thần phân định Khí, Khí mới sanh ra Tinh. Phật là Chí Tôn, Pháp là Civa tức Phật Mẫu, Tăng là vật loại trên Càn khôn Vũ trụ này”.
Trong Lược Thuật Toà Thánh có câu:
Phật Civa day về hướng Bắc,
Thổi ống tiêu đạp Thất Đầu-Xà.
Trừ lục tặc, thập tam ma,
Giục lòng người biết khử tà tầm chơn.
Christna Phật (Vichnou Phật).
Christna Phật hay Vichnou Phật, Hán phiên âm Tỳ Nữu Phật 毘 紐 佛, là vị Phật điều khiển Hạ Nguơn tức là nguơn Bảo Tồn hay nguơn Tái Tạo. Vị Phật nầy được giáng sanh trong thời Hạ Nguơn, hay nguơn Tái Tạo. Trên Bát Quái Đài Toà Thánh, Phật Christna Vichnou mình trần, tay mặt chống gươm, tay trái chống nạnh, đứng trên mình con Giao Long, mặt hướng về phương Nam. Ngài là ngôi thứ ba của Tam thế Phật, tượng trưng cho ngôi bảo tồn.
Khi nói về Phật Christna Vichnou, Đức Hộ Pháp cho biết như sau: “Dầu cho những chơn linh nào chết nơi chân trời hay góc biển đi nữa, mà đầy đủ công nghiệp, tâm đức thì Phật Christna Vichnou cũng lãnh lịnh Chí Tôn tuần du trên mặt thế mà rước chơn linh ấy về ngay nơi Bạch Ngọc Kinh”.
Trong Lược Thuật Toà Thánh, thi phẩm của Võ Thành Lượng có câu:
Phật Chrisna mình trần chống nạnh,
Cỡi Giao Long nhìn chánh hướng Nam.
Cổi thân tế độ người phàm,
Chơn trời góc bể chưa nhàm dấu chân.
Tóm lại, Brahma Phật, Civa Phật, Christna hay Vichnou Phật là Tam Thế Phật của đạo Cao Đài, có nhiệm vụ lãnh lịnh Đức Chí Tôn điều khiển ba nguơn: Thượng nguơn, Trung nguơn và Hạ nguơn của Trời đất. Theo Di Lạc Chơn Kinh, Tam Thế Phật là ba vị Phật ở tầng Trời Thượng Thiên Hỗn Nguơn do Đức Di Lạc Vương Phật chưởng quản.
Nóc Bát Quái có Tam thế phật,
Phật Brama day mặt Tây Phang.
(Lược Thuật Toà Thánh).
三 千 徒 弟
Tam thiên: Ba ngàn. Đồ đệ: Học trò.
Tam thiên đồ đệ là ba ngàn người học trò.
Đức Khổng Tử được đời xưng tụng là “Vạn thế sư biểu 萬 世 師 表”, tức là người thầy của muôn đời, bởi vì Ngài là người học rộng, lại có tâm chí lo cho đời, nên khi Ngài dạy học, học trò càng ngày càng nhiều.
Sử chép rằng Ngài có đến ba ngàn người học trò, tức tam thiên đồ đệ, trong đó có bảy mươi hai người tài giỏi hơn hết, đời gọi thất thập nhị hiền.
Khi mở Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền và Thiên phong Chức sắc để lập thành Hội Thánh, tượng cho Thánh thể của Ngài nơi mặt thế, trong đó Chức sắc nhỏ nhất là bậc Địa Thánh, tức phẩm Giáo Hữu gồm ba ngàn người, chia làm ba phái, mỗi phái một ngàn người, mà Ngài gọi là tam thiên đồ đệ.
Còn nay, Thầy giáng thế chọn đến: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
三 千 世 界
Tam thiên: Ba ngàn. Thế giới: Theo Phật, một cõi trong Càn khôn vũ trụ.
Tam Thiên Thế giới là ba ngàn Thế giới ở bên trên Thất thập nhị địa, nên rất nhẹ nhàng. Tam Thiên Thế giới chính là ba ngàn tinh tú, hợp với Thất thập nhị địa thành 3072 ngôi sao mà Đức Chí Tôn bảo vẻ lên quả Càn Khôn thờ nơi Toà Thánh.
Đức Chí Tôn dạy về Tam thiên thế giới trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: “...còn lại Thất thập nhị địa và Tam thiên thế giới thì đều là tinh tú, tính lại 3072 ngôi sao. Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ...”.
Thượng chưởng Tam thập lục thiên,
Tam thiên thế giới.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
三 乘
Tam: Ba. Thừa: Cỗ xe.
Thừa là chữ của nhà Phật, tam thừa là ba cỗ xe dùng để chuyên chở. Vì các tu sĩ năng lực khác nhau, nên mới chia làm ba thừa, gồm có Bồ tát thừa, Tích chi thừa, và Thanh văn thừa. Tích chi và Thanh văn chỉ đủ sức để tự độ mình, còn Bồ tát thừa thì giúp cả chúng sanh.
Ở đây, “Tam thừa” theo Đạo Cao Đài, là trong Cửu Phẩm Thần Tiên có chín bậc phẩm từ Thần đến Tiên, trong đó “Tam thừa” gồm ba bậc Thần, ba bậc Thánh, và ba bậc Tiên được kể như sau: Địa Thần, Nhơn Thần, Thiên Thần, Địa Thánh, Nhơn Thánh, Thiên Thánh, Địa Tiên, Nhơn Tiên, Thiên Tiên.
Do vậy, Cửu phẩm Thần Tiên còn được gọi là Tam thừa cửu phẩm.
Ngũ giới Tam Quy răn cõi tục,
Tam Thừa Cửu Phẩm đắcThần Tiên.
(Thơ Thiên Vân).
三 鎮 威 嚴
Tam: Ba. Trấn: Trấn giữ, tức gìn giữ cho an ổn. Oai nghiêm (uy nghiêm): Uy quyền đáng kính sợ.
1.- Tam Trấn Oai Nghiêm, hay “Tam Trấn”, là ba Đấng Thiêng liêng thay mặt cho Giáo Chủ Tam Giáo, cầm quyền Tam Trấn trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Tam Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Tam giáo là:
Nhất Trấn Oai Nghiêm: Lý Đại Tiên Trưởng (Lý Thái Bạch), kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, cầm quyền Tiên giáo.
Nhị Trấn Oai Nghiêm: Quan Thế Âm Bồ Tát, cầm quyền Phật giáo.
Tam Trấn Oai Nghiêm: Quan Thánh Đế Quân, cầm quyền Nho giáo.
a.- Tam Trấn Oai Nghiêm:
Tam Kỳ Phổ Độ Tam Trấn Oai Nghiêm.
(Sớ Văn).
b.- Tam Trấn:
Nam Mô Tam Trấn Hư Vô,
Oai Nghiêm độ rỗi Cao Đồ quy nguyên.
(Kinh Tận Độ).
Tam Trấn Ngũ Chi cầu tế độ,
Cửu Huyền Thất Tổ nguyện siêu an.
(Thơ Huệ Phong).
2.- Tam Trấn Oai Nghiêm còn dùng để chỉ Đức Quan Thánh Đế Quân, thay mặt cho Đức Khổng Thánh, cầm quyền Nho giáo.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hôm nay là ngày lễ vía Ðức Quan Thánh Ðế Quân, một đấng Thiêng liêng cầm quyền Tam Trấn oai nghiêm Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Tam Trấn Oai Nghiêm nghi Phật vị,
Tứ thời ngưỡng vọng điểm thiên lương.
(Thơ Huệ Phong).
三 尺 土
Tam xích: Ba thước. Thổ: Đất.
Tam xích thổ là ba thước đất, ý nói đào sâu xuống đất ba thước để chôn xác người chết.
Người xưa chôn người chết, đặt quan tài sâu xuống đất ba thước (đơn vị ngày xưa), nên thường có câu: Táng an tam xích thổ 葬 安 三 尺 土, nghĩa là chôn vùi xuống ba thước sâu.
Cảnh Hành Lục có câu: Vị quy tam xích thổ, nan bảo nhất sinh thân, ký quy tam xích thổ, nan bảo bách niên phần 未 歸 三 尺 土, 難 保 一 生 身, 既 歸 三 尺 土, 難 保 百 年 墳, nghĩa là chưa về ba thước đất, khó giữ toàn thân thể, đã về ba thước đất, khó giữ nấm mồ trăm năm.
Hài cốt tuy mai tam xích thổ,
Tinh thần siêu thoát Cửu Trùng Thiên.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Tám: Số đếm, đứng trước số chín, sau số bảy. Đấu (đẩu 斗): Vật dùng để đong lường.
Tám đấu, do chữ “Bát đẩu 八 斗”, dùng để chỉ những người tài giỏi.
Do câu nói của Tạ Linh Vận khen Tào Thực: Tài năng trong thiên hạ cộng lại là một thạch tức mười đấu, riêng Tào Tử Kiến (tức Tào Thực) chiếm hết tám đấu, ý muốn nói Tào Thực là người đọc nhiều hiểu rộng.
Trong Ngư Tiều Vấn Đáp, Nguyễn Đình Chiểu có viết: Nhà nho đèn sách công dày, Tài kiêm tám đấu, sách đầy năm xe.
Mong tài tám đấu nưng thành lở,
Quyết chí năm xe lấp hải hà.
(Thơ Nguyễn Hượt Hải).
Tám: Số đếm, đứng trước số bảy dưới số chín. Tiết: Mùa tiết.
Tám tiết, như chữ “Bát tiết 八 節”, là tám mùa tiết trong một năm.
Tám tiết gồm có: Xuân phân, thu phân, hạ chí, đông chí, lập xuân, lập hạ, lập thu và lập đông.
Thành ngữ thường có câu: Bốn mùa tám tiết dùng để chỉ trọn một năm.
Tám tiết chống Trời lòng chẳng mỏi,
Bốn mùa cản gió chí không nao.
(Quyền Giáo Tông).
Bốn mùa no dạ nhờ dưa muối,
Tám tiết che mình với vải bô.
(Thơ Thượng Sanh).
蠶
Tàm là con tằm, ấu trùng của loài bướm, ăn lá dâu, lá sắn, nuôi để lấy tơ.
Như: Tàm tang (dâu tằm). tàm thực (tằm ăn dâu).
Trong bài “Vô Đề” của Lý Thương Ẩn có câu: Xuân tàm đáo tử ty phương tận, Lạp cự thành hôi lệ thuỷ can 春 蠶 到 死 絲 方 盡, 蠟 炬 成 灰 淚 始 幹, nghĩa là Tằm xuân đến chết tơ vừa dứt, Nến sáp thành tro lệ mới tan.
Ngoài ra toàn vạn vật đều có tình hữu ái đối với ta “Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tàm thổ tư, phong nhưỡng mật“.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
暫
Tạm là đỡ trong chốc lát, không lâu dài, tức khi có điều kiện sẽ có thay đổi.
Tạm là chưa đạt yêu cầu mong muốn, nhưng chấp nhận coi là được.
Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy vì lấy từ bi mà dìu dắt các con, nên tạm sửa chút máy huyền vi, là để cho các con lấy chí thành của Thầy un đúc bấy lâu mà đối đãi với kẻ nghịch cho đến ngày mãn công quả.
Ðộng đình chạnh lúc tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ăn nhờ, ở tạm, mua thương,
Tiếc chi những thói hoa tường buôn ong.
(Nữ Trung Tùng Phận).
暫 別
Tạm: Đỡ vậy trong chốc lát, không lâu dài. Biệt: Từ giã đi nơi khác.
Tạm biệt là từ giã để ra đi trong một thời gian ngắn, rồi sẽ gặp lại nhau.
Chia đường tạm biệt buổi hôm nay,
Đi ở dường khêu mối cảm hoài.
(Thơ Thượng Sanh).
Rẽ bước phương trời tạm biệt nay,
Nâng cao khí phách nhớ nhau hoài.
(Thơ Tiếp Đạo).
暫 隔
Tạm: Đỡ vậy trong chốc lát, không lâu dài. Cách: Cách biệt, chia cách.
Tạm cách, đồng nghĩa với chữ “Tạm biệt 暫 別”, là từ biệt ra đi, xa cách nhau trong một thời gian ngắn rồi sẽ gặp lại nhau.
Tổ Đình hội ngộ đã lâu ngày,
Tộc Đạo đăng trình tạm cách nay.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Tan là rã rời, thành nước, thành bột, tức chỉ vật gì tụ lại thành khối, thành bọn, mà lại rã rời ra.
Như: Mây tan, muối tan, chén vỡ tan, sương tan.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có day: Vậy Thầy khuyên các con cứ thìn lòng thìn nết cho có trật tự trong Ðạo, thì tức nhiên muôn điều khó nhọc cũng tan như giá.
Sang giàu chẳng khác như mây,
Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.
(Kinh Sám Hối).
Cần lo học Ðạo chí đừng lơi,
Phú quý sương tan lố bóng Trời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Niên cao chưa đủ trí phen đời,
Nương đỡ nhà tan ngó biển khơi.
(Đạo Sử).
Hay “Tan hợp”.
Tan: Rời ra. Hiệp (hợp): Hợp lại, sum hợp.
Tan hiệp, như chữ “Tan hợp”, là chia ra và hợp lai, tức khi xa lìa khi hiệp lại.
Tan hiệp đồng nghĩa với “ly hiệp 離 合”.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðây là một cuộc hội hiệp đầy thân ái, chân thành mà mỗi chức sắc đều có ý trông đợi, vì sau buổi hội, khi chia tay, kẻ ở lại vùng Thánh Ðịa, người tản mát nơi tứ phương, mỗi vị còn giữ lại một kỷ niệm tốt đẹp gọi là nỗi an ủi trong cuộc đời tan hiệp.
Nhiệm vụ lo tròn là quý nhứt,
Sá chi tan hiệp lẽ thường hoài.
(Thơ Thượng Sanh).
Xông pha biết mấy tuần mưa gió,
Tan hiệp thêm nhiều hội nước mây.
(Thơ Thuần Đức).
Tan: Rã rời, thành nước, thành mảnh vụn. Hoang: Bỏ trống, bỏ không.
Tan hoang là hư hao, tan nát hoàn toàn, không còn một thứ gì nữa.
Như: Chiến tranh gây cho nhà cửa tan hoang.
Gái xướng kỵ, trai thì du đảng,
Phá tan hoang gia sản suy vi.
(Kinh Sám Hối).
Đốt nhà, tháo cống, phá mương,
Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.
(Kinh Sám Hối).
Bập bồng Tần quốc tan hoang,
Hoàng cung không chúa, ngai vàng không vua.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
Tan: Rã rời, sụp đổ. Nát: Tan vỡ thành mảnh vụn, hư hỏng, rời rạc.
Tan nát là tan, vỡ nát, tức ở trạng thái bị phá huỷ hoàn toàn đến mức như chỉ còn là những mảnh vụn.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tam Bửu là ba khí chất tạo nên hình hài xác thịt, cái xác là con kỵ vật, thiên hạ lầm tưởng hễ xác chết là mất, vậy thì thử hỏi Trời Ðất vạn vật một khi đã hoại thì tan nát không còn sanh hoá nữa hay sao?
Hoặc tính nghe chi cơn lửa động,
Mà thiêu tan nát nghĩa phu thê.
(Bát Nương Giáng Bút).
Dụng quyền hơn đức quyền tan nát,
Tạo thế kém nhân thế đoạ đày.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Tan: Rã rời, thành nước. Như giá: Như băng giá, như nước đá.
Tan như giá tức là tan ra thành nước như băng giá gặp nóng, chỉ sự dễ sụp đổ, dễ tan biến.
Nho có câu: “Thế dị tận giả nhược băng sơn 勢 易 盡 者 若 崩 山” nghĩa là thế lực dễ tiêu tan như núi giá.
Thánh giáo Thầy có câu: Các con, nền Ðạo bề ngoài coi diềm dà sung túc, mà chẳng thấy rõ cái mạch bịnh trong tâm, chẳng khác chi thế Sở chế bạo Tần, ham cái mạnh bề ngoài, biết sợ cái mặt chớ chẳng rõ lòng người ra sao, mà không độ cái mạnh cấp thời đó sẽ dần dần tan như giá mà đổi ra yếu hèn thấp nhược.
Xem: Băng sơn.
Vậy Thầy khuyên các con cứ thìn lòng thìn nết cho có trật tự trong Ðạo, thì tức nhiên muôn điều khó nhọc cũng tan như giá.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tan: Rã rời, thành nước.
Tan tác là rời rã, tả tơi mỗi nơi mỗi mảnh.
Như: Bọn giặc bị đánh chạy tan tác, tấm gương bị vỡ tan tác mỗi nơi mỗi mảnh.
Tơ chùng phím lạc cung đờn,
Tình ta tan tác keo sơn rã rời.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Tan tành là tan nát, hư hỏng hết, không còn gì.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy quyết lấy đức háo sanh mở Ðạo, cứu rỗi sanh linh cho kịp trước kỳ Hạ nguơn nầy, nhưng Ðạo chẳng hoàn toàn, con đường đi chưa cùng bước, là vì tại nơi lòng nhiều đứa chưa để hết tín ngưỡng mà nghe lời Thánh giáo, cho nên lần hồi, nền Ðạo phải ra tan tành manh mún.
Mộng ảo trò đời đâu mấy chốc,
Ngựa qua cửa sổ cuộc tan tành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thìn dạ chờ châu về hiệp phố,
Nơi mình sự nghiệp mới tan tành.
(Đạo Sử).
Trăm năm con cứ giữ tròn,
Nếu con bội tín, thân con tan tành.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
散
Tán là tan ra, tức chuyển từ trạng thái rắn sang trạng thái lỏng.
Tán còn có nghĩa là tan, tức vỡ vụn thành từng mảnh nhỏ, không còn nguyên vẹn nữa.
Như: Giải tán, tiêu tán, kinh tâm tán đảm.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Người đời chẳng khác con buôn trong buổi chợ, cả sức lực, trí não, tinh thần đều bị tiêu tán nơi ấy, vì vậy mới hoại chơn linh, thất ngôi diệt vị.
Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,
Bộ Lôi Công giải tán trược quang.
(Kinh Tận Độ).
贊 揚
Tán: Khen ngợi. Dương: Đưa lên cao.
Tán dương là khen ngợi để đề cao.
Như: Nghe xong bài thuyết đạo mọi người đều tán dương, làm xong công việc gì anh không cầu tán dương.
Có lẽ toàn thể Chức sắc lưỡng phái cũng đồng nhận thức điều nầy, vì vậy tán dương tài đức và công nghiệp của ông là một sự thừa.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Tán: Tan ra. Đởm: Hay “Đảm 膽” là mật.
Tán đởm, như chữ “Tán đảm 散 膽”, là tan mật, dùng để chỉ sự sợ hãi.
Người xưa cho rằng nếu sợ thái quá thì mật trong con người sẽ tan ra hết. Thành ngữ có câu: “Kinh tâm tán đởm 驚 心 散 膽” là lòng kinh sợ đến tan mật.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có đoạn: Khi Đức Chí Tôn mở Đạo trong thời kỳ Hạ nguơn nầy thì đã định trước. Mấy em nên hiểu rằng: Cây Giáng Ma Xử của Hộ Pháp không phải là một vật thường, đến buổi sử dụng thì chị e cho mấy em kinh tâm tán đởm, đừng tưởng không có nghe!
Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy dùn mình tán đởm rất ghê.
(Kinh Sám Hối).
Tán (tản): Thong thả, không bị bó buộc. Tiên: Một trong bốn phẩm ở cõi thiêng liêng là Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Tán Tiên, như chữ “Tản tiên 散 仙”, là nói đến những vị Tiên nhàn nhã, không bị ràng buộc, tức những vị Tiên không có phận sự trong cõi Thiêng liêng.
Truyền thuyết cho rằng ở Đông Hải có vị Tán Tiên là Đông Phương Sóc.
Ngư ông nhàn nhã thú câu thuyền,
Hải đảo làm quen những Tán Tiên.
(Thơ Thái Phong).
讚 頌
Tán: Khen ngợi. Tụng: Ca ngợi.
Tán tụng, đồng nghĩa với “Tán dương 贊 揚”, là khen ngợi và ca tụng.
Trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo có bài Kinh: Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu là bài kinh ca tụng đạo đức và công nghiệp của Đức Phật Mẫu.
Tán tụng công đức hiền nhân,
Bao biếm thiện ác, cân phân rõ ràng.
(Báo Ân Từ).
1.- Tàn là đồ nghi vệ dùng để che cho bậc vua chúa thời xưa, hoặc trong tôn giáo Cao Đài dành để lập nghi trượng trước Chánh điện thờ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu. Ngoài ra tàn còn dùng để rước các nhà lãnh đạo hay Hội Thánh.
Như: Tàn lọng, tàn vàng lọng tía.
Lọng tàn vui rước người ba miệng,
Nghi trượng hoan nghinh Mắt một tròng.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Tàn là cành và lá của cây xòe ra trên cao như hình cây tàn.
Như: Tàn cây cổ thụ, học sinh cắm trại dưới tàn cây trong rừng.
Kìa đào lý tàn già đã cỗi,
Nhắc tượng chàng dựa cội trông hoa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Tàn 殘 là ác. Như: Tàn khốc, tàn bạo, tàn hại, tàn nhẫn, hung tàn bạo ngược.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Hoạ Âu tai Á sẽ vì Thiên điều mà phạt kẻ bạo tàn tội lỗi. Càn khôn tiều tuỵ mà bước tục hỡi chần chờ. Nếu chẳng sớm xét mình, để buổi ác xế trăng tà, nước dời cạn bực, thuyền Bát Nhã đã lướt qua, nhành dương liễu hết rơi giọt từ bi thì ăn năn rất muộn.
Sang thì giữ vững ngai vàng,
Hèn thì trừ đảng bạo tàn hại dân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hạnh hiền đức mỗi ngày mỗi nhắc,
Thói bạo tàn làm gắt chẳng nghe.
(Phương Tu Đại Đạo).
4.- Tàn 殘 là suy mòn, còn thừa lại, còn sót lại một chút. Như: Hoa tàn, tro tàn, canh tàn, hơi tàn.
Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Xuân tàn xuân đến, cái xuân của người đã sắp lụn hao, mà rồi cái xuân của Trời Ðất nước non cũng chưa chắc là vô cùng vô tận.
Sen tàn cúc nở qua ngày tháng,
Nhặt bước đường hoa đến cội tùng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðông tàn cảnh ướm trở nên xuân,
Xuân nở vườn mai há mấy lần?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nhạn chiu chít phận một phương Trời,
Kêu bạn canh tàn chẳng mỏi hơi.
(Đạo Sử).
殘 暴
Tàn: Hung ác. Bạo: Dữ dội.
Tàn bạo là độc ác và hung bạo. Như: Hành động của ông ta rất tàn bạo.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Dân tàn bạo ấy tưởng là khôn ngoan hơn hết, dùng chánh sách cường quyền áp bức đồng bào. Bần Ðạo thử hỏi đặng hay chăng? Xin trả lời: Không hề khi nào đặng.
Đời tàn bạo chẳng thương nhân loại,
Tìm kế mưu sát hại lẫn nhau.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Tạo đời mỹ tục phong thuần,
Diệt loài tàn bạo lẫy lừng hại dân.
(Thơ Thông Quang).
殘 更
Tàn: Gần hết, còn sót lại. Canh: Một phần năm của đêm, vì đêm năm canh.
Tàn canh là gần hết đêm, chỉ canh đã gần hết, tức là trời sắp sáng.
Như: Đêm thất tịch ngồi đến tàn canh mà không thấy mưa ngâu xảy đến.
Đêm chầy nghe đã tàn canh,
Vừng đông tin nhắn đất lành tự do.
(Xuân Hương Giáng Bút).
Thà cầm đèn thủ tiết tàn canh,
Hơn thụt ló như mèo rình ăn vụng.
(Phương Tu Đại Đạo).
殘 害
Tàn: Làm hại, hung ác. Hại: Hao tổn.
Tàn hại là làm cho hư hại, hay làm hại nhau một cách dữ dội, tàn ác.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Nay các con lập một Ðạo, cũng chẳng khác chi lập một nước, phận sự lại càng khó khăn hơn, liệu mà sửa cải, liệu mà điều đình, mới có thể chống ngăn sự tàn hại mà làm cho nền Ðạo được vững.
Vì có ghét nhau, vạn loại mới khi nhau, khi lẫn nhau mới tàn hại hại nhau, mà tàn hại lẫn nhau là cơ diệt thế.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
殘 衣
Tàn: Còn thừa lại. Y: Quần áo.
Tàn y là áo người chết còn để sót lại, tức là những kỷ vật của người đã chết.
Khi người vợ đã chết, người chồng thường thấy lại những kỷ vật của vợ mà khiến lòng thêm đau buồn, nhứt là nhìn lại tấm gương soi hay mảnh tàn y.
Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,
Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.
(Kinh Thế Đạo).
Quả phụ dầu xa manh áo chế,
Tàn y còn giữ mảnh hương nồng.
(Thơ Hoàn Nguyên).
殘 殺
Tàn: Làm hại, hung ác. Sát: Giết chết.
Tàn sát là giết hại hàng loạt người không có khả năng tự vệ, một cách dã man, ác độc. Như: Tàn sát dân lành.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Vì vậy nên ta phải có đủ đức tin nơi Chí Tôn, phải trọng mạng sống của con người, bởi Ðức Chí Tôn hoá sanh một người là một vật báu của Ngài. Nếu ai tàn sát cho tiêu loài vật báu ấy thì phạm Thiên điều tức là đại tội.
Nhân loại tàn sát lẫn nhau bởi không biết dùng khoa học vào việc phải, nên nó mới biến thành chia rẽ và chiến tranh.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
殘 謝
Tàn: Suy mòn, hư, héo, Tạ: Hoa lá héo rụng.
Tàn tạ là tàn, héo úa, rơi rụng. Như sắc đẹp tàn tạ.
Tàn tạ còn chỉ cảnh long đong, khổ sở.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phương chi nạn chiến tranh đang giày xéo đất nước suốt phần tư thế kỷ nay, tai trời ách nước còn dồn dập gieo thêm tang tóc cho giống Việt Thường đã quá thống khổ, đoạ đày, đã phải chịu thêm điêu linh tàn tạ.
Cho hương sắc diễm kiều tàn tạ,
Cho tay phàm vọc đoá mẫu đơn...
(Phù Kiều Hận Sử).
Tản là rời nhau ra, di chuyển nhiều phía làm cho thưa ra và ở trên diện tích rộng.
Như: Đám đông tản ra hai bên đường, ánh sáng tản ra nhiều hướng.
Ác lồng nhựt rạng tản sương mơi,
Gặp lối đường quanh khó tách dời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
傘 沱
Tản Đà tức Nguyễn Khắc Hiếu, một nhà thơ sinh tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, một làng trù phú bên dòng Đà Giang và cánh đồng bát ngát chạy dài đến chân núi Tản Viên.
Vì nơi quê hương của ông có núi Tản sông Đà, nên nhà thơ mới lấy bút hiệu là Tản Đà.
Tản Đà sống nổi nhờ thơ, rượu,
Tớ chỉ thơ thôi đủ dựa kề.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Nổi chìm bể hoạn thương Công Trứ,
Cao vút hồn thơ nhắc Tản Đà.
(Thơ Chơn Tâm).
Tản: Di chuyển ra nhiều phía, làm cho sự phân bố thưa đi và ở trên diện tích rộng hơn.
Tản mạn là tình trạng rời rạc, không có sự liên hệ với nhau, không tập trung.
Như: Sách vở không tập trung, bỏ tản mạn khắp nơi.
Mây lủng lẳng ven trời bảng lảng,
Nước lênh đênh tản mạn mênh mông.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Tản: Di chuyển ra nhiều phía, làm cho sự phân bố thưa đi và ở trên diện tích rộng hơn.
Tản mát, như chữ “Tản mác”, là rải rác ra nhiều nơi, mỗi chỗ một ít, không có tập trung lại một chỗ.
Huấn dụ Thượng Sanh nhơn bữa tiệc thường niên tại Giảng đường ngày 22 tháng giêng năm Nhâm Dần (1962) có dạy: Cuộc hội hiệp vui vẻ này đã biến thành cái lệ bất di bất dịch, in sâu vào trí não của mọi người trong chúng ta, vì đó là một cuộc hội hiệp đầy thiện cảm chân thành, nồng đượm bao nhiêu vẻ thân mật khắng khít và sẽ ghi lại một kỷ niệm êm dịu trong tâm hồn của những người đến dự khi mà mỗi vị đều ý thức trong một vài ngày nữa đây sẽ có cuộc chia tay, kẻ ở lại nơi đại gia đình, người tản mát nơi tứ phương, để làm phận sự của người con thảo đối với Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ.
Một số Chức sắc Hội Thánh tản mát nơi bốn phương vì nhiệm vụ, dù là nơi cách trở xa xôi cũng tề tựu đông đủ về Tổ Ðình để trình diện với Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Tạn là tận, đối diện, trực tiếp, ngay tại chỗ.
Như: Tôi đến nhà thấy tạn mặt mày nó, quan lớn vào chầu gặp tạn mặt rồng.
Ðặng sống ngày nay xem tạn mắt,
Công phu dành để dạ làm lành.
(Đạo Sử).
Tạn: Tận, đối diện, trực tiếp, ngay tại chỗ. Mặt: Phần phía trước đầu, gồm có mày, mắt, mũi.
Tạn mặt là giáp mặt, tức là gặp mặt nhau, tiếp xúc trực tiếp với nhau. Như: Sao không nói tạn mặt nó.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thái Thơ Thanh có câu: Thầy đã khiến con đi Ðế Thiên Ðế Thích đặng xem cho tạn mặt hữu hình.
Công quả ấy Thầy đà chép trước,
Nay xem tạn mặt thấy tu đành.
(Đạo Sử).
Tuy biết phàm duyên là tục trái,
Nay nhìn tạn mặt nghĩ càng đau.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Sầu chàng cô thế vơi lưng ngựa,
Ngẩn thiếp khôn phương tạn mặt rồng.
(Thơ Cao Liên Tử).
1.- Tang 喪 là sự đau buồn khi có người thân mới chết. Như: Nhà có tang, cư tang, điếu tang, tâm tang.
Thánh giáo Thầy dạy về quyền hành của Giáo Sư có đoạn: Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em. Chúng nó cầm sổ bộ của cả tín đồ. Chúng nó phải chăm nom về sự tang, hôn của mỗi đứa.
Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?
Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.
(Kinh Thế Đạo).
Cặp liễn tang còn câu long ám,
Hạc quy hồi lãnh đạm trần ai.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tang 桑 là cây dâu, không dùng một mình.
Như: Tang bộc, tang du, tang thương, nghề nông tang, tang bồng hồ thỉ.
Chồng giàu có ruộng sâu trâu cả,
Sự nông tang lúa mạ phải rành nghề.
(Phương Tu Đại Đạo).
Viếng lại Linh Sơn buổi ác vàng,
Bồi hồi đứng ngắm cảnh thương tang.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Tang biến: Ruộng dâu thay đổi. Thương dồn: Biển xanh dồn dập.
Tang biến thương dồn, do câu thành ngữ “Tang điền thương hải 桑 田 蒼 海” là ruộng dâu biến thành biển xanh, dùng để chỉ việc đời luôn luôn biến đổi dồn dập một cách bất thường.
Xưa đã lắm phen nhơn sanh phải khổ tâm hy sinh vì nền Ðạo, nhưng mà tàn lối ngưỡng trông rồi thì phân vân dời đổi, tang biến thương dồn...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
桑 蓬
Tang: Cây dâu. Bồng: Cỏ bồng.
Tang bồng, do thành ngữ “Tang bồng hồ thỉ 桑 蓬 弧 矢” là cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng.
Tang bồng dùng để chỉ người con trai có chí khí tung hoành, ngang dọc.
Xem: Tang bồng hồ thỉ.
Đại quân tử tang bồng gánh nợ,
Nhờ vợ hiền mới đỡ đôi vai.
(Phương Tu Đại Đạo).
Cho duyên cầm sắt hoà muôn điệu,
Cho chí tang bồng toại bốn phương.
(Thơ Thuần Đức).
Hè chí thu sang tiết trở Đông,
Ướm Xuân thoạt nhớ đến tang bồng.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
桑 蓬 弧 矢
Tang bồng: Gỗ dâu, cỏ bồng. Hồ thỉ: Cung tên.
Tang bồng hồ thỉ là cung làm bằng gỗ dâu, tên làm bằng cỏ bồng.
Do tục Trung Hoa ngày xưa hễ đẻ con trai thì dùng cung bằng cành dâu, tên bằng cỏ bồng bắn sáu phát trên trời dưới đất và ra bốn phương. Vì thế người ta dùng thành ngữ “Tang bồng hồ thỉ” để nói về sự vẫy vùng của người con trai có chí khí.
Xem: Cung dâu tên cỏ.
Tang bồng hồ thỉ trĩu đôi vai,
Trang trải cho xong giấc mộng dài.
(Thơ Hàn Sinh).
喪 制
Tang: Đám ma. Chế: Định ra lễ tang.
Tang chế là phép tắc quy định việc để tang cho người chết và việc hành đám, nói chung về việc tang. Như: Tang chế nhiều nơi sinh ra rất phiền phức.
Trong quyển Giáo Lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Cha mẹ mất thì phải tận tâm đoái hiếu. Cổ nhơn bảo: “Tang tắc trí kỳ ai”: Việc tang chế phải hết lòng thương xót.
Não nùng thay toàn đạo thở than,
Thống thiết bấy tín đồ tang chế.
(Điếu Văn Đầu Sư).
喪 主
Tang: Đám ma. Chủ: Người làm chủ.
Tang chủ là người chủ gia đình có tang, tức người đứng ra tổ chức đám tang cho người chết.
Trong Tân Luật, phần Thế đạo, điều thứ mười lăm có câu: Người làm đầu trong Họ, khi tang chủ mời, phải đến hiệp với chư tín đồ trong Họ, làm lễ cầu siêu cho vong linh theo Tân Luật và đưa xác đến mộ phần.
Tang chủ dĩ hạ giai xuất.
(Nghi Tiết Tang Lễ).
Tang: Cây dâu. Dâu: Như chữ “Tang 桑”. một loại cây trồng để lấy lá nuôi tằm.
Tang dâu, do nghĩa câu “Tang điền thương hải 桑 田 蒼 海”, nghĩa là ruộng dâu biến thành biển xanh, chỉ cảnh đời thay đổi.
Xem: Tang điền thương hải.
Nhặt thúc quang âm xuân đã lụn,
Liệu qua cho khỏi cuộc tang dâu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Biết bao mấy nỗi tang dâu,
Bóng trăng kia đã đứng đầu tuổi xanh.
(Thanh Tâm Tài Nữ).
桑 榆
Tang du là tên một loại cây giống như cây dâu, mọc ở góc trời tây, dùng để nói về mặt trời xế chiều, trời lặn.
Trong Sử Ký chép: Niên tuế hữu ngật, tang du hành tận 年 歲 有 汔 桑 榆 行 盡, nghĩa là năm tháng đã hết, cảnh trời chiều tắt.
Tang du còn dùng để ví với tuổi già.
Có sách lại chép: Ở góc biển phương tây, có cây tang du, hễ mặt trời đến đó thì lặn, nên người ta nói cảnh tượng người già gần chết thì nói: “Tang du vãn cảnh 桑 榆 晚 境”.
Nối Tông Tổ biết bao nghĩa trọng,
Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.
(Kinh Thế Đạo).
Thương những kẻ vì hiền khổ phận,
Cửa tang du khó lấn đầu hiên.
(Thất Nương Giang Bút).
桑 田 蒼 海
Tang điền: Ruộng dâu. Thương hải: Biển xanh.
Tang điền thương hải, do câu Hán văn: “Tang điền biến vi thương hải” nghĩa là ruộng dâu biến thành biển xanh. Ý nói cuộc đời có sự thay đổi lớn lao.
Theo Thần tiên truyện: Tam thập niên vi nhất biến, thương hải vi tang điền 三 十 年 為 一 變, 蒼 海 為 桑 田, nghĩa là cứ ba chục năm lại có một lần thay đổi, biển xanh hoá thành ruộng dâu.
Xem: Thương hải tang điền.
Tang điền thương hải chẳng bao xa,
Khuyên thế lo tu kịp tuổi già.
(Tiếp Dẫn Đạo Nhơn).
喪 婚
Tang: Việc đám ma. Hôn: Việc cưới vợ gả chồng.
Tang hôn là việc tang và việc cưới vợ gả chồng, là hai lễ trong “Quan, hôn, tang, tế”, hai việc quan trọng của đời sống một con người.
Trong đạo Cao Đài, mỗi chức sắc hay chức việc đều có bổn phận chăm lo về việc tang hôn của tín đồ nơi địa phương mình để thể hiện sự quan tâm, đoàn kết với tín đồ hầu thực hiện cơ phổ độ.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải có đoạn: Quan, hôn, tang, tế là điều cần nhứt của kiếp sống người đời, mà Thầy chỉ định giao cho Giáo Sư có sự tang hôn mà thôi.
Giáo Sư cầm sổ bộ của cả tín đồ, phải chăm nom về sự tang hôn của mỗi người.
(Tân Luật).
喪 衣
Tang: Đám tang, cử hành lễ người chết. Y: Áo quần.
Tang y là loại quần áo mặc trong lúc nhà có người thân chết.
Tang y đồng nghĩa với “Tang phục 喪 服”.
Xem: Tang phục.
Một thân goá tang y lại mặc,
Chống gậy lê nhúc nhắc đưa linh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
喪 禮
Tang: Đám tang, cử hành lễ người chết. Lễ: Nghi lễ.
Tang lễ là nghi thức làm lễ đám tang.
Trong Đạo Cao Đài, Nghi thức tang lễ được Hội Thánh nói trong “Lời nói đầu” của tài liệu Hạnh Đường như sau: “Nghi lễ là cái hình thức phô diễn bên ngoài, tính cách quy củ chuẩn thằng của tổ chức Tôn giáo.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một Tôn giáo có tôn chỉ quy Tam Giáo hiệp Ngũ Chi, tức là một sự phối hợp của tất cả các triết lý Đạo Giáo, tất cả các hình thức tổ chức Tôn giáo từ xưa đến nay. Vì vậy, nghi lễ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ rất phù hợp với phong hoá nhà Nam và vừa trình độ tấn hoá của quần chúng, không quá xưa mà cũng không quá tân thời.
Vậy Thánh ý của Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng, những bậc Tiền Bối trong nền Đạo đã dầy công nghiên cứu, châm chước và biên soạn ra các nghi lễ dùng việc Quan, Hôn, Tang, Tế. Ấy vậy, nghi lễ trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chẳng phải do ai tự ý bày vẻ ra mà là một công trình chung, trong một lề lối tổ chức đồng nhứt áp dụng cho tất cả các Châu, Tộc trên toàn quốc. Những sự sửa đổi về nghi lễ do ý riêng của mình rất tai hại vì nó làm cho tổ chức một Tôn giáo tại mỗi địa phương có hình thức một nhóm riêng, chẳng khác nào mỗi nơi đạo hữu tự ý bày ra thêm những kiểu vở, màu sắc đạo phục khác để mặc vậy, dần dần theo thời gian những sự khác biệt ban đầu nhỏ bé sau sẽ lớn dần ăn sâu vào tâm trí của nhơn sanh, thì sự thất kỳ truyền cũng do nơi đó mà ra”.
Tang lễ trong nền Đại Đạo gồm các phần chánh yếu sau đây: 1- Tẩn liệm; 2- Thành phục phát tang; 3- Cáo Từ tổ; 4- Chánh tế, phụ tế và cầu siêu; 5- Di quan và an táng.
Tang lễ không nên xa xí, không nên quàn Linh cữu lâu ngày, không nên dùng đồ màu sắc, không nên yến ẩm.
(Giáo Lý).
喪 服
Tang: Đám ma. Phục: Quần áo.
Tang phục, cũng như “Tang y 喪 衣” là loại quần áo dành cho người có tang mặc.
Chúng ta nên biết, ân nghĩa và tình cảm đối với người đã khuất được Nho giáo thể hiện những nỗi niềm bi thống bằng cách chế định các hạng tang phục. Song chế độ tang phục chỉ định cho những người vốn có quan hệ thân thuộc như Ông bà, cha mẹ, anh em, vợ chồng...
Tùy theo thân sơ mà Nho giáo định năm loại tang phục gọi là Ngũ phục (五 服), chia ra thời gian để tang lâu mau khác nhau, có năm bậc, gọi là Ngũ phục:
Trảm thôi 斬 衰: Áo chế cho hạng đại tang, thường dùng vải trắng thô, bên dưới gấu áo bỏ xủ xuống, không viền, mặc quần xổ lai. Thời gian để tang là 3 năm. Thọ Mai Gia Lễ chế lại còn 27 tháng.
Tư thôi 齊 衰: Áo tang có lên trôn, khâu bằng phẳng, mặc quần không xổ lai. thời gian để tang 3 năm hay 1 năm (Cơ niên).
Đại công 大功: Tang phục bớt thô hơn dành cho để tang 9 tháng.
Tiểu công 小功: Tang phục dùng vải được chế tinh vi hơn vải Đại công dành cho tang 5 tháng.
Tư ma 緦 麻: Áo tang dùng vải tơ tinh vi hơn áo Tiểu công dành cho tang 3 tháng.
Ý nghĩa để tang do theo sách Lễ Ký nói rằng: “Phàm lễ chi đại thể, thể Thiên địa, pháp tứ thời tắc âm dương, thuận nhân tình cố vị chi lễ 凡 禮 之 大 體, 體 天 地, 法 四 時 則 陰 陽, 順 人 情, 故 之 謂 禮”, Người xưa chế định lễ dựa theo lý nhứt định của Trời đất mà phân biệt cấp bậc theo tôn ty thượng hạ; nhân theo sự biến thiên của thời tiết bốn mùa mà đo lường ân tình, đối đãi, lý âm dương để phân đoán kiết hung; thuận theo nhơn tình hậu bạc mà chế ra trọng hay khinh.
Chẳng những lễ nghi mà thôi, tang phục cũng phải căn cứ theo phẩm trật tôn ty thượng hạ và ân tình trọng khinh, hậu bạc mà chế định ra.
Như ta biết quần áo tang lễ là loại trang phục để mặc khi có người thân chết, thời hạn để tang chính là thời hạn mặc quần áo tang. Quần áo tang và thời hạn để tang phải phối hợp với nhau, để khi mặc loại quần áo gì thì để tang bao lâu, song cũng có trường hợp vì điều kiện ân nghĩa khác nhau thì quần áo vẫn vậy, mà thời hạn lại thay đổi.
Ví dụ như thọ tang Tư thôi, cùng mặc tang phục giống nhau nhưng thời hạn chịu tang là 3 năm hay 1 năm.
Chúng ta biết, tùy theo hình thức và loại vải thô dày thưa mà người xưa chế định năm loại tang phục, gọi Ngũ phục để biểu thị sự cách biệt về quan hệ họ hàng thân thiết xa gần và tình cảm nông sâu.
Như vậy, có thể nói người sống dùng tang phục để biểu lộ tình cảm với người quá cố. Tình cảm có thân, có sơ, cho nên mới có người thân và người không thân, lễ sẽ định sự khác biệt ít nhiều. Đương nhiên người thân thiết thì tình cảm sẽ sâu nặng hơn, thì thọ tang phục sẽ tương đối phức tạp hơn; trái lại người thân xa, tình cảm cũng xa, tang phục do đó cũng đơn giản hơn. Tóm lại, Thánh hiền nghị chế ra tang phục là để đo lường cái nhơn tình trọng khinh, hậu bạc mà định phân thể thức bề ngoài để thể hiện tấm lòng con người đối xử lẫn nhau.
Chính vì thế mà người ta cho rằng chế độ tang phục của người xưa chế định là thước đo tình cảm sâu nặng, hay thân sơ, nó cũng biểu thị sự thân thiết xa gần của họ hàng gia tộc.
Một đại gia tộc, gồm bà con họ hàng là một tổ hợp có sự quan hệ vô cùng phức tạp, thế mà chế độ tang phục của người xưa có thể phân hoạch một cách rõ ràng, tỉ mỉ, từ đó hình thành một đạo lý để duy trì được sinh hoạt quần thể với nhau mà vẫn giữ được sự chung sống hoà bình, đoàn kết nhất trí trong dòng họ. Đó là thể hiện nền luân lý đạo đức trong gia tộc của người xưa.
Việc thọ tang lâu mau cũng được người dựa theo nguyên do mà đặt để. Ví dụ như tại sao người xưa nghị chế thọ tang cho cha mẹ phải là ba năm? Ấy là do lời nói của Đức Khổng Tử: “Tử sinh tam niên, nhiên hậu miễn vu phụ mẫu chi hoài, phù tam niên chi táng, thiên hạ chi đạt táng dã 子 生 三 年, 然 後 免 于 父 母 之 懷, 夫 三 年 之 喪, 天 下 之 達 喪 也”, tức là trẻ con sau ba năm mới được rời khỏi vòng tay bế ẵm của cha mẹ, cho nên khi cha mẹ mất đi, con cái phải báo đáp cái ân huệ vất vã nhứt của cha mẹ trong ba năm, để tang cha mẹ ba năm là lễ tang thông thường của mọi người trong thiên hạ. Vì vậy, Thánh hiền chỉ căn cứ vào chỗ trọng yếu đó mà chế ra tang phục ba năm dành cho người con hiếu để tang cha mẹ.
Hễ nói rằng công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ ví tợ biển rộng trời cao thì cha là ân trọng, thì mẹ cũng phải là ân trọng, lại nữa con phần nhiều nghiêng về tình cảm với mẹ hơn. Thế mà tại sao lễ xưa chế thọ tang cho bà mẹ có chỗ kém hơn ông cha? Chúng ta biết theo Nho giáo, ngày xưa mỗi gia đình đều phải có thứ bậc tôn ty thượng hạ, ông cha nắm quyền duy nhứt để sửa trị trong gia đình, nếu chẳng may bà mẹ chết trước ông cha thì con vì hiếu mà để tang cho mẹ chỉ thọ Tư thôi, chớ không đặng thọ Trảm thôi. Đó là thể hiện trong gia đình chẳng có hai người làm chủ vậy.
Cảm thấy linh sàng, đây thiết nhỉ,
Ngẩn nhìn tang phục, đó tha nha.
(Thơ Thông Quang).
喪 眷
Tang: Đám xác, đám ma. Quyến: Bà con, thân tộc.
Tang quyến là thân nhân của người chết, hoặc bà con thân thuộc trong đám xác.
Tang quyến còn gọi là tang gia hiếu quyến. Như: Tang quyến đứng ra đáp từ.
Tang quyến sầu thương lần vĩnh biệt,
Đàn văn cảm kích mối tương thông.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Tang tóc nói chung việc tang ma.
Nghĩa bóng: Tang tóc dùng để chỉ cảnh buồn thảm như có việc tang. Ví dụ: Màu tang tóc.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phương chi nạn chiến tranh đang giày xéo đất nước suốt phần tư thế kỷ nay, tai trời ách nước còn dồn dập gieo thêm tang tóc cho giống Việt Thường đã quá thống khổ, đoạ đày, đã phải chịu thêm điêu linh tàn tạ.
Hai năm khởi sự màu tang tóc,
Một đoạn đường gai đã mãn rồi.
(Bát Nương Giáng Bút).
Võ lực gây bao tang tóc lại,
Nhuộm màu hoà giải nghiệt oan tiêu.
(Thơ Hộ Pháp).
Chiến tranh đất nước còn đau khổ,
Tang tóc nhơn sanh vẫn hãi hùng.
(Thơ Huệ Giác).
桑 蒼
Tang: Cây dâu. Thương: Màu xanh, chỉ màu xanh của biển.
Tang thương là dâu bể.
Tang thương do chữ: “Tang điền thương hải 蒼 海 桑 田”, tức ruộng dâu biển xanh.
Theo Thần tiên truyện: Tam thập niên vi nhất biến, thương hải vi tang điền 三 十 年 為 一 變, 蒼 海 為 桑 田, nghĩa là cứ ba chục năm lại có một lần thay đổi, biển xanh hoá thành ruộng dâu. Nghĩa bóng: Một cuộc biến đổi lớn lao.
Xem: Thương hải tang điền.
Lục Nương phất phướn truy hồn,
Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.
(Tán Tụng Công Đức).
Đau khổ rán gìn nhơn nghĩa vẹn,
Tang thương chờ hưởng huệ ân riêng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đạo chồng vợ duyên Trời đã buộc,
Giữa trần hoàn gây cuộc tang thương.
(Phương Tu Đại Đạo).
葬 安
Táng: Chôn cất xác người chết. An: Yên ổn.
Táng an, bởi chữ “An táng 安 葬”, là chôn cất xong một cách yên ổn.
Như: Nhờ Hội Thánh và quý chức sắc, chức việc giúp đỡ, thi hài của cha mới được táng an nơi phần mộ.
Xem: An táng.
Thể xác táng an nơi phước địa,
Chơn hồn siêu thoát cõi Bồng lai.
(Thơ Mai Ngọc Nhiểu).
Hay “Táng đảm”.
Táng: Mất. Đởm (đảm): Mật.
Táng đởm, như chữ “Táng đảm 喪 膽”, là mất mật. Vì mật là một bộ phận chủ chốt giúp cho con người trở nên gan dạ. Nghĩa bóng: Hết sức sợ hãi, hoảng sợ.
Người ta thường dùng thành ngữ “Kinh tâm táng đởm 驚 心 喪 膽” để chỉ sự sợ hãi.
Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy dùn mình táng đởm rất ghê.
(Kinh Sám Hối).
Mơ một giấc eo ôi dậy xóm,
Cả Tha La táng đởm kinh hồn.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
喪 盡 良 心
Táng tận: Mất hết. Lương tâm: Tâm lành, còn gọi là Thiên tánh, do Trời ban cho con người. Nhờ lương tâm, con người mới phân biệt lẽ phải trái, lẽ thiện ác.
Táng tận lương tâm là mất hết lương tâm, ý chỉ người hung ác như loài cầm thú, không có lương tâm của con người do Trời ban cho.
Hằng trau tánh thiện chờ siêu thoát,
Táng tận lương tâm khó phục hoàn.
(Thơ Thiên Vân).
1.- Tàng, do chữ “Tường” đọc trại ra, có nghĩa là rõ.
Như: Hiểu được tàng tận, nói ra cho mọi người nghe để hiểu tàng sự việc.
Phong cảnh hỏi qua xin khá tỏ,
Căn do hiểu thấu nói cho tàng.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Tàng 藏 là giấu, chứa. Như: Tàng kinh, tàng hình, ẩn tàng, hành tàng.
Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy đã lấy lòng từ bi và đức háo sanh mà dìu dắt các con của Thầy, chẳng dụng sự khinh trọng mà làm cho chinh lòng các con, chẳng lấy hành tàng bất chánh mà làm cho mất điều hoà nhã.
Khi dương thế không phân phải quấy,
Nay Hư linh đã thấy hành tàng.
(Kinh Thế Đạo).
Cõi thọ là đâu khó độ chừng,
Ẩn tàng lội lạc bậc kinh luân.
(Đạo Sử).
藏 隱
Tàng: Ẩn náu, chứa trữ. Ẩn: Giấu kín.
Tàng ẩn là ẩn náu một cách kín đáo, hay giấu kín bên trong khó trông thấy được.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Đạo hoá sanh trời đất, lưu hành trong võ trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào cũng có phần linh diệu bên trong để điều hoà trưởng dưỡng cho nó.
Hại nữa là các con lại bị nó tàng ẩn, xô cho dang nhau, bứt nghiến tình đoàn thể, chặt lìa dây liên lạc, giành xé cắn rứt nhau...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
臟 腑
Tạng: Ngũ tạng, là năm cơ quan trong con người. Đó là Tâm, can, tỳ, phế, thận. Phủ: Lục phủ, tức là sáu cơ quan trong bụng của người. Đó là: Vị, đởm, tam tiêu, bàng quang, đại trường, tiểu trường.
Tạng phủ là ngũ tạng và lục phủ, chỉ chung các cơ quan trọng yếu của con người.
Trong Giáo Lý cúa Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Chí như chúng ta từ nhỏ đã quen dùng vật thực để nuôi sống. Nay, thoạt nhiên đổi món ăn cấp kỳ thì tạng phủ không quen mà sanh loạn. Lẽ như vậy, cho nên Tân luật buộc mỗi người phải tập ăn chay, mỗi tháng 6 ngày, hoặc 10 ngày. Mãi đến khi tạng phủ quen dần rồi sẽ tiến tới nữa.
Đến đỗi như thân của người có tạng có phủ, tạng phủ ấy nếu chẳng hoà thì con người chẳng hề sống bao giờ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Tanh là có mùi và vị khó chịu, dễ gây lợm giọng, như mùi tôm, cá sống. Ví dụ: Hôi tanh, hôi cơm tanh cá.
Ca dao Ta có câu: Nhuỵ vàng bông trắng lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Sô sa chi xác cũng hôi tanh,
Gớm mặt mà chê dạ chẳng đành.
(Đạo Sử).
2.- Tanh là chỉ quang cảnh vắng vẻ, lạnh lẽo, buồn bã không còn tí gì cả.
Như: Nhà cửa vắng tanh, đêm tối nhà cửa lạnh tanh, lòng buồn tanh.
Bao thuở đầu non chim vắng dạng,
Thị thiềng càng thấy bắt buồn tanh.
(Đạo Sử).
Còn ta luống những đoạn trường,
Gối chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tanh: Có mùi và vị khó chịu, dễ gây lợm giọng, như mùi tôm cá sống. Hôi: Có mùi khó ngửi.
Tanh hôi, cũng như chữ “Hôi tanh”, là tanh và hôi, thường dùng để nói đến cái xấu xa, nhơ nhuốc, đáng ghê tởm. Ca dao Việt Nam có câu: Nhuỵ vàng bông trắng lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có câu: Người tu hành mà ăn thịt là thiếu đức từ bi đã đành, mà chư Thần Thánh cũng không thể thân cận đặng quyến niệm hộ trì, vì cái hơi tanh hôi xông lên xúc phạm.
Xem: Hôi tanh.
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống gậy cây đánh đầu.
(Kinh Sám Hối).
Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
(Kinh Sám Hối).
Tanh: Có mùi và vị khó chịu, dễ gây lợm giọng, như mùi tôm cá sống. Khét: Mùi bốc ra do vật bị cháy khô, khét.
Tanh khét là mùi tanh và mùi khét do thi hài bị đốt cháy bốc ra. Như: Lại gần lò thiêu nghe mùi tanh khét xông lên khó chịu.
Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài!
(Kinh Sám Hối).
1.- Tánh, như chữ “Tính 性”, là cái bản nhiên của Trời phú cho con người. Ví dụ: Tánh thiện, tánh ác.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ông Latapie, một người Pháp có câu: Nhưng đối với con, Thầy được hiểu lòng nhân đức, tánh từ thiện của con, nên Thầy cho con được thoả nguyện.
Xem: Tính.
Tánh tự thông minh hỏi của ai?
Ban cho nên mới rạng cân đai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Sửa tánh cũng như toan vá áo,
Gìn tâm như tối cửa then gài.
(Đạo Sử).
2.- Tánh, còn đọc “Tính 性”, là thói, nết. Như: Tánh hay ăn vặt, tánh hay lười biếng, tánh ham chơi.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Hỡi nầy dân tộc có diễm phước, Thầy sẽ làm thoả mãn tánh hiếu kỳ của con. Là loài người, các con có biết tự đâu các con đến chăng?
Nén hương đưa đủ nguyện lòng đưa,
Thầy khá khen cho tánh dối lừa.
(Đạo Sử).
Đừng ghét tánh già hay lòn lỏi,
Ấy nhớ cơn nghèo đói phải chiều người.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Tánh, như chữ “Tính 姓”, là họ, nối liền với tên. Như: Danh tánh, bách tánh, quốc tánh, mẫu tánh.
Như: Làm đơn nộp cơ quan công quyền phải ghi danh tánh rõ ràng, bá tánh xôn xao vì tiếng nổ lớn.
Xem: Tính.
Nắng hạ héo khô vườn bá tánh,
Dắt nhau tìm núp bóng Cao Ðài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Tính chất”.
Tánh (tính): Đặc điểm tâm lý riêng của mỗi người, biểu hiện trong hành vi, cử chỉ. Chất: Tính cơ bản của sự vật, làm cho sự vật nầy phân biệt với sự vật kia.
Tánh chất, như chữ “Tính chất 性 質”, là bản chất của mỗi người, mỗi vật.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu quyền ấy không chỉnh đốn lại phong hoá của con người đem vào khuôn khổ thuần phong mỹ tục thì cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ chạy theo hưởng ứng với sự tự do mà đi đến địa vị con vật, là mất hết tánh chất làm người đó.
Thông minh tánh chất đặng ôn hoà,
Nhớ hiểu Phật Trời chẳng ở xa.
(Đạo Sử).
Ấy là nhờ tánh chất mẹ cha,
Gặp phải phép hiệp hoà sanh đặng vậy.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Tính danh”.
Tánh (tính): Họ. Danh: Tên.
Tánh danh, như chữ “Tính danh 姓 名”, là họ và tên của một người. Như: Đừng làm nhơ nhuốc tánh danh.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Có một Ðấng Chơn linh Tam Thế Chí Tôn, nhơn loại đều biết tánh danh đó. Nhứt Thế Brahma Phật, tức nhiên là Tạo Hoá, Nhị Thế Civa Phật tức nhiên Tấn Hoá, Tam Thế Christna Phật tức nhiên Bảo Tồn, Ðấng trọn quyền bảo tồn ấy là lòng ái tuất thương sanh vậy.
Biết mặt tánh danh chưa nhớ chắc,
Tưởng mình quen thuộc cũng e khi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại,
Gái lộn chồng đã hoại tánh danh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Tính hạnh”.
Tánh (tính): Cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người, bản chất, nết. Hạnh: Hạnh kiểm.
Tánh hạnh, như chữ “Tính hạnh 性 行”, là tánh nết và cách cư xử ở đời của mỗi con người.
Trong quyển Đạo Sử của bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thầy có dạy Ngài Thái Thơ Thanh như sau: Con là một chơn linh cùng Quan Âm Bồ Tát; con đã hiểu rồi vậy từ đây phải biết mình trân trọng mà trau dồi tánh hạnh nghe.
Trên đầu có bủa giăng Thần, Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
(Kinh Sám Hối).
Tánh hạnh khá trau thuần hậu lại,
Nên danh có thuở đặng nên thời.
(Đạo Sử).
Đờn bà hay quen tánh nhúng trề,
Ở chiều dạ đừng chê tánh hạnh.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Tính hiệp vô vi”.
Tánh (tính): Tánh thực của chúng sanh, tức là phần Thiêng liêng Trời ban cho con người, nên còn gọi là Thiên tánh, Phật tánh.
Phật và chúng sanh không khác gì nhau, cùng một tánh, tức là Phật tánh. Nhưng Phật là bậc đã giác ngộ bản thể sáng suốt, trong lặng, còn chúng sanh vì bị vọng tưởng, phiền não che lấp nên chưa thấy được bản thể đó.
Hiệp vô vi: Hiệp với hư không.
Tánh hiệp vô vi, như chữ “Tính hiệp vô vi 性 合 無 為”, là tánh hiệp với hư không.
Bản thể của Tánh vốn là không, khi tịnh, nó không là gì hết, nhưng khi động thì nó ứng hoá muôn vật. Thể Tánh hư tịch, vô vi ứng dụng ra cái biết khi đối tiếp với cơ duyên, tánh tức là biết, một cái biết tức thì, thuần tuý. Cho nên Đạt Ma Tổ Sư dạy: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật 教 外 別 傳, 不 立 文 字, 直 指 人 心, 見 性 成 佛. (Truyền ngoài giáo lý, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật), và Phật cũng có dạy: “Minh tâm kiến tánh” tức là làm sáng tâm thấy tánh. Nhưng ta phải hiểu sáng là sáng cái “tâm không”, thấy là thấy cái tánh tịch.
Mạnh Tử cũng nói: “Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tánh, sở dĩ sự Thiên dã 存 其 心, 養 其 性, 所 以 事 天 也”: Giữ gìn cái tâm, bồi dưỡng cái tính, tức là thờ Trời vậy.
Tánh hiệp vô vi,
thống tam tài chi bí chỉ.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Hay “Tính lành”.
Tánh (tính): Cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người, bản chất, tánh hạnh. Lành: Hiền, tốt.
Tánh lành, như chữ “Thiện tính 善 性” là tánh hiền lành, tánh tốt.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðiều cần nhứt là phải trọn hiếu với Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ, giữ trọn trung thành với Hội Thánh, ngoài ra gắng công học hỏi, noi gương Thánh trước Hiền xưa mà rèn luyện đức tốt tánh lành.
Xem: Tính thiện.
Suối lành đổ nước hoá sông thanh,
Ðức hạnh muốn trau vẹn tánh lành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chuyển xây thế sự đang ly loạn,
Xoay trở thời gian với tánh lành.
(Thơ Hộ Pháp).
Đau lòng nhìn thấy khổ nhơn sanh,
Toà Thánh về trau vẹn tánh lành.
(Thơ Thượng Sanh).
Hay “Tính linh”.
Tánh (tính): Cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người, bản chất, tánh hạnh. Linh: Thiêng liêng.
Tánh linh, như chữ “Tính linh 性 靈”, là các bản tánh thiêng liêng của con người sẵn có.
Con người là một yếu tố trong Tam tài: Thiên, địa, nhơn (Trời, đất, người). Sở dĩ con người đạt được địa vị ấy là vì con người được Trời đất sinh ra và ban cho một đức tính rất cao quý, rất thiêng liêng, hay nói khác đi người chịu cái đức của Trời đất. Ngoài ra, con người còn được hấp thụ hoàn toàn cái tinh thần linh diệu và cái khí chất tinh tuý của Trời đất, nên con người linh hơn, sáng suốt hơn vạn vật. Chính nhờ cái sáng suốt này mà con người phân biệt được điều hay dở, lẽ phải trái. Cái sáng suốt ấy có sẵn trong mỗi người được gọi là trực giác, hay lương tri, hay minh đức.
Theo triết lý Cao Đài, con người có tam hồn: Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn. Con người nhờ Sanh hồn mới có được sự sống, Giác hồn mới có cảm giác, biết đau đớn khổ sở và Linh hồn mới khôn ngoan, biết đạo lý, suy xét đủ điều, cho nên con người tánh linh hơn loài vật.
Dạy về Bất tà dâm, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Những sanh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối vật chất có tánh linh, vì vật chất nuôi nấng nó cũng đều là sanh vật, tỷ như: rau cỏ, cây trái, lúa gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh.
Loài người phúc có tánh linh,
Ấm no sao chẳng đoái tình đồng hương.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
Con người là một sinh vật trong vũ trụ, cũng như sinh vật khác, nó có sự sinh ra, có sự trưởng thành và có sự hủy diệt. Nhưng con người có ý thức, có trực giác, biết suy tư và nhứt là biết đường nhơn nghĩa, đạo lý. Như vậy, con người là một sinh vật cao hơn với những sinh vật khác về phần hiểu biết.
Vì vậy, Tuân Tử có nói: Thủy hoả hữu khí nhi vô sinh, thảo mộc hữu sinh nhi vô tri, cầm thú hữu tri nhi vô nghĩa, duy nhơn giả hữu khí, hữu sinh, hữu tri diệc hữu nghĩa, cố vi thiên hạ quý 水 火 有 氣 而 無 生, 草 木 有 生 而 無 知, 禽 獸 有 知 而 無 義, 惟 人 者 有 氣, 有 生, 有 知 亦 有 義, 故 為 天 下 貴 nghĩa là nước lửa có khí mà không sinh, cây cỏ có sinh mà không hiểu biết, cầm thú có hiểu biết mà vô nghĩa, duy chỉ có con người có khí, có sinh, có hiểu biết và cũng có nghĩa, cho nên người là quý nhứt trong thiên hạ.
Sự cao quý của con người là nhờ cái linh năng sáng suốt, linh năng nầy Phật giáo gọi là Phật tánh, Nho giáo gọi là Thiên tánh và Lão giáo gọi là Linh quang. Cái Linh năng nầy, theo triết lý Cao Đài, là một Tiểu Linh quang tách ra từ khối Đại Linh quang của Đấng Tạo Hoá hay Đức Chí Tôn.
Con người là một Tiểu Thiên địa hay Tiểu Vũ trụ, nên thân người cũng gồm đủ âm dương, tam bửu, ngũ hành. Sở dĩ con người là một Vũ trụ nhỏ, là vì thân người cũng gồm đủ Thái cực, Âm dương, Tam bửu, Ngũ hành và các lẽ mầu nhiệm của Trời Đất, vì vậy mà sách Lễ Ký nói rằng: Nhơn giả kỳ vi Thiên địa chi đức, Âm dương chi giao, Quỷ thần chi hội, Ngũ hành chi tú khí dã 人 者 其 為 天 地 之 德, 陰 陽 之 交, 鬼 神 之 會, 五 行 之 秀 氣 也, nghĩa là người ta là đức Trời Đất, chỗ giao cảm khí Âm dương, chỗ hội tụ Quỷ thần, và những tú khí Ngũ hành.
Trời đất (Càn khôn) do Âm Dương sinh hoá thì con người cũng do Âm Dương phối hợp mà thành.
Hễ Trời có tam bửu là Nhựt Nguyệt Tinh, đất có tam bửu là Thủy hoả Phong, thì con người cũng có tam bửu là Tinh Khí Thần.
Hễ Trời có Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, hoả, Thổ, Đất có Ngũ phương là Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung ương, thì người cũng có Ngũ tạng là Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận. Nếu không có ngũ hành và ngũ phương thì không có Càn khôn Thế giới, còn nếu không có ngũ tạng thì cũng không có con người.
Tóm lại, con người cũng giống như trời đất, cho nên mới được gọi là một “Tiểu Thiên Địa”.
Con người còn là một yếu tố trong Tam tài là thiên, địa, nhơn (Trời, đất, người). Sở dĩ con người đạt được địa vị ấy là vì con người được Trời đất sinh ra và ban cho một đức tính rất cao quí, rất thiêng liêng, hay nói khác đi người chịu cái đức của Trời đất. Ngoài ra, con người còn được hấp thụ hoàn toàn cái tinh thần linh diệu và cái khí chất tinh túy của Trời đất, nên con người linh hơn, sáng suốt hơn vạn vật. Chính nhờ cái sáng suốt này mà con người phân biệt được điều hay dở, lẽ phải trái. Cái sáng suốt ấy có sẵn trong mỗi người được gọi là trực giác, lương tri, hay lương tâm.
Nói theo triết lý đạo Cao Đài, con người có tánh linh hơn vật, có trí khôn ngoan, biết điều nhơn nghĩa là vì:
Thứ nhứt là bởi vì con người phải qua muôn nghìn kiếp tiến hoá, từ vật chất, thảo mộc, thú cầm, rồi mới chuyển hoá đến nhơn loại.
Đức Chí Tôn giảng về sự tiến hoá của muôn vật như sau: “Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn năm, muôn năm lần mới đến địa vị nhơn phẩm”.
Thứ nhì là vì con người có ba phần hồn: Sanh hồn, giác hồn, linh hồn, mà loài vật chất thấp nhứt là kim thạch, loài vô tri vô giác, không phân biệt được đầu và ngọn; kim thạch tiến lên thảo mộc thì có một hồn là sanh hồn, có sự sống, nhưng còn thấp, gốc quay xuống đất, ngọn hướng lên trời; thảo mộc tiến lên thú cầm thì được hai hồn là sanh hồn, giác hồn, tức có sự sống và biết cảm giác, đầu và đuôi ngang nhau; thú cầm tiến lên con người thì có ba hồn: Sanh hồn, giác hồn, linh hồn, tức có sự sống, có cảm giác, có tánh linh, đầu hướng lên trời, chân quay xuống đất.
Con người nhờ Sanh hồn mới có được sự sống, Giác hồn mới có cảm giác, biết sung sướng, đau đớn khổ sở và Linh hồn mới khôn ngoan, biết đạo lý, suy xét đủ điều, tức là nhờ Lương tâm cho nên con người có tánh linh hơn muôn vật.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn dạy như sau: Tâm là một nguồn sáng Thiêng Liêng, một điểm linh quang của Ðức Chí Tôn ban bố cho con người để khuyên lơn dìu dắt và soi sáng bước đường đời cũng như bước đường Ðạo của mỗi cá nhân trong kiếp sanh, hầu lúc rời bỏ xác phàm, mỗi nguyên nhân hay hoá nhơn được hoặc quy hồi cựu vị, hoặc thăng đẳng cấp, hoặc bị trừng trị theo Luật Thiên Ðiều.
Dầu cho Thần Thánh Tiên Phật khi xuống thế mang xác phàm thì buổi chung quy được hay phạt, thăng hay đọa đều do nơi Tâm cả, và nếu người được Tánh linh hơn muôn vật là nhờ có Lương tâm vậy.
Con người có trí khôn ngoan,
Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi.
(Kinh Sám Hối).
Hay “Tính mệnh”.
Mạng (mệnh): Số mệnh.
1.- Tánh mạng, như chữ “Tính mệnh 性 命”, tức là mạng sống của con người.
Như: Hy sinh tánh mạng, nguy hiểm đến tánh mạng.
Thánh giáo Thầy có dạy: Nếu thế gian dữ thì thế nào đặng bảo toàn, còn mong mỏi gì đặng bền vững. Cá nhân dữ thì thế nào bảo toàn tánh mạng.
Hay lo những chuyện gọi bao đồng,
Một tánh mạng mình tính chẳng xong.
(Đạo Sử).
2.- Nho có câu: Tánh tự tâm sanh 性 自 心 生 nghĩa là Tánh do cái Tâm sinh ra.
Tánh biểu thị của tâm: Tâm bên trong, biểu thị ra ngoài là Tánh. Tâm là chơn linh thì tánh là chơn thần.
Mạng con người gắn liền cái thân, cái thân chết, nhưng cái Tánh không mất (vì tánh là chơn thần), chơn thần cùng chơn linh sẽ xuất ra khỏi cái thân về cõi vô vi.
Thân con người có tinh và khí, nên Mạng ấy cũng là tinh khí. Người xưa chưa biết về chơn thần con người nên gọi cái chơn thần ấy là Tánh. Như vậy Tánh và Mạng con người chính là Tinh, Khí, Thần, tức là Tam bửu vậy.
Cho nên nói Tánh Mạng song tu là nói về phép luyện Đạo mà trong Cao Đài gọi là luyện tinh khí thần hiệp nhứt, tạo chơn thần huyền diệu để được đắc đạo.
Thuận Thiên thì tánh mạng còn,
Nghịch Thiên hồn xác tiêu mòn chẳng chơi!
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tánh mệnh (tính mệnh): Cái tánh và cái mạng sống của con người. Song tu: Hai lối tu thực hành song song với nhau.
Tánh mệnh song tu, như chữ “Tính mệnh song tu 性 命 雙 修”, tức là vừa tu tánh vừa luyện mạng, hai lối tu cùng thực hiện song hành với nhau.
Tánh mệnh song tu là một pháp môn luyện đạo của Đạo Giáo, còn được gọi là tu tánh luyện mạng, tức là luyện tam bửu Tinh, Khí, Thần cho hiệp nhứt.
Thần thuộc về Tiên thiên, gọi là Tánh, còn xác thân là Tinh, Khí đều thuộc về Hậu thiên nên gọi là mạng.
Tánh mệnh Trời ban vốn ở ta,
Song tu đạo đức lý tương hoà.
(Thơ Huệ Phong).
Hay “Tính phàm”.
Tánh (tính): Cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người, bản chất, tánh hạnh. Phàm: Tầm thường thấp kém.
Tánh phàm, như chữ “Phàm tánh 凡 性”, là cái tánh tầm thường, thấp kém của kẻ phàm phu, tục tử.
Tánh này thường xu hướng theo vật dục, nên có tính hẹp hòi ích kỷ, đầu mối của vô minh.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thầy có dạy: Thầy đã giao cho mỗi đứa một quyền hành, thì Thầy cũng tưởng rằng các con biết trọng phẩm giá thiêng liêng mà bớt tánh phàm chút ít, nào dè nhiều đứa lại coi thế trọng hơn Thầy, coi Thầy dường như kẻ vô hình vô ảnh.
Trường phổ tế khó khăn lắm nỗi,
Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm.
(Kinh Thế Đạo).
Nghiêng vai gánh vác đạo nhà Nam,
Gắng khổ chiều tâm độ tánh phàm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Tính tình”.
Tánh (tính): Bản nhiên của con người khi sinh ra và sẽ tuỳ theo hoàn cảnh mà thay đổi. Tình: Tính tự nhiên của mỗi người do sự cảm xúc mà phát lộ.
Tánh tình, như chữ “Tính tình 性 情”, là tính chất, và tình cảm riêng của mỗi người đã có sẵn.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Phần nhiều đạo hữu vì tánh tình tục phàm mà làm cho gay trở bước Ðạo, lại e chẳng khỏi sanh ra một trường náo nhiệt trong Ðạo về buổi sau nầy.
Nâng đời khá gắng trau nhơn đức,
Học Ðạo tua năng luyện tánh tình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Trời Ðất trăm ngôi đà chín chín,
Tánh tình dường ấy vốn là Tiên.
(Đạo Sử).
Hay “Tính tục”.
Tánh (tính): Cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người, bản chất, tánh hạnh. Tục: Thấp kém.
Tánh tục, như chữ “Tính tục 性 俗”, là cái tánh thấp kém của kẻ phàm phu tục tử.
Thánh giáo Thầy có dạy Đức Quyền Giáo Tông như sau: Trung con ôi! Thầy đã chẳng có xác phàm mà dìu dắt các con, chỉ nhờ ngọn cơ bút hèn hạ nầy mà dạy dỗ các con, hầu làm cho tâm phàm tánh tục các con giảm bớt đặng chen nhét vào đó mảy mún Thánh đức của Thầy trông cậy cho nên phẩm hạnh, dạy lại cả chúng sanh mà các con xét mình thử coi, Thầy đã đặng thoả nguyện cùng chăng?
Cái hạnh tốt là thang vạch ngút mây xanh, tâm thành là để dồi trau tánh tục.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
性 誠
Hay “Tính thành”.
Tánh (tính): Cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người, bản chất, tánh hạnh. Thành: Thành thực.
Tánh thành, như chữ chữ “Tính thành 性 誠”, là tính tình thành thật, ngay thẳng.
Tuân Tử cũng cho rằng đức tánh thành thật cảm hoá được con người và vạn vật, là một cái Đạo của Trời đất, của Thánh nhân.
Ông nói: Thiên địa vi đại hỹ, bất thành tắc bất năng hoá vạn vật; Thánh nhân vi tri hỹ, bất thành tắc bất năng hoá vạn dân; phụ tử vi thân hỹ, bất thành tắc sơ; quân thượng vi tôn hỹ, bất thành tắc ti. Phù thành giả, quân tử chi sở thủ dã 天 地 為 大 矣, 不 誠 則 不 能 化 萬 物, 聖 人 為 知 矣, 不 誠 則 不 能 化 萬 民, 父 子 為 親 矣, 不 誠 則 疏, 君 上 為 尊 矣, 不 誠 則 卑. 夫 誠 者, 君 子 之 所 守 也, nghĩa là trời đất lớn thật, nhưng nếu không thành thực thì không cảm hoá được vạn vật; Thánh nhân sáng suốt thật, nhưng nếu không thành thực thì không cảm hoá được vạn dân; tình cha con thân thật, nhưng nếu không thành thực thì hoá sơ; bậc vua và bề trên đáng tôn kính thật, nhưng nếu không thành thực thì hoá thấp.
Thành là cái người quân tử phải giữ.
Ngày ngày tập sửa tánh thành,
Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.
(Kinh Sám Hối Ngắn).
Hay “Tính thần”.
Tánh (tính): Cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người, bản chất, tánh hạnh. Thần: Thiêng liêng.
Tánh thần, như chữ “Tính thần 性 神”, là cái tánh thiêng liêng, gọi Thiên tánh hay Linh tánh, do Trời ban cho con người.
Trau gương hạnh đức pha lòng tục,
Dồi trí thanh cao giữ tánh Thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ân điển đày hưởng tròn câu phúc,
Trí huệ vui trau vẹn tánh Thần.
(Thơ Thượng Sanh).
性 善
Hay “Tánh thiện”.
Tánh (tính): Cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người, bản chất, tánh hạnh. Thiện: Lành.
Tánh thiện, như chữ “Tính thiện”, là bản tánh lành của con người.
Theo Nho giáo, Mạnh Tử có nói “Nhân chi sơ tính bản thiện 人 之 初, 性 本 善”, nghĩa là con người mới sinh ra tánh vốn lành.
Theo triết lý Cao Đài, con người sinh ra đước Chí Tôn ban cho một Thiên tánh.
Như vậy, tính thiện có sẵn trong mỗi con người, nhưng vì tham dục, vô minh khiến con người mê mờ mà sinh ra hung dữ.
Tâm thành Phật độ đầy linh ứng,
Tánh thiện Trời ban đủ diệu huyền.
(Thơ Thông Quang).
Tánh (tính): Cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người, bản chất, tánh hạnh. Thiện lương 善 良: Hiền lương, hiền lành.
Tánh thiện lương, đồng nghĩa với chữ “Tính thiện 性 善”, là cái bản tánh hiền lương của con người.
Xem: Tánh thiện.
Sửa sang cho vẹn đạo cang thường,
Phải giữ cho toàn tánh thiện lương.
(Đạo Sử).
1.- Tao là tiếng tự xưng mình đối với người dưới hoặc với người có ý không trọng. Như: Tao bảo mầy.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Chí Tôn đến đặng kêu gào lòng yêu ái của toàn nhơn loại biết nhìn nhau là anh em, biết thương yêu nhau, binh vực nuôi nấng và tôn trọng nhau, đem hoà ái gieo truyền vào tâm lý loài người mà nói rằng: “Tao là Cha bây, đến đây làm cho bây biết tao, đặng bây biết bây, bao giờ anh em bây biết thương yêu nhau, tức là ông Cha bây giải khổ cho bây về phần hồn và phần xác đó vậy”.
Lập thân phải chịu cố lỳ,
Ðể cho mầy kéo tao trì mới nhanh.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Tao 遭 có nghĩa là vòng, lần, lượt. Như: Chu tao (khắp vòng), kỷ tao (mấy lượt, mấy lần), buộc mấy tao lạt, cân mấy tao hàng.
Tao còn là sợi dây, tức sợi dây thắt thành quang, võng hay buộc nối, thường bện bằng dây đay hay dây mây. Như: Tao võng, quang có bốn tao.
Mặc áo tràng trắng, đầu đội Nhứt Nguyệt Mạo, lưng buộc đường lụa trắng đánh ba tao, dưới có hai trắng, chơn mang giày trắng.
(Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài).
3.- Tao 遭 là gặp, tình cờ mà gặp, không dùng một mình. Như: Tao phùng, tao nạn, tao ngộ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Vì cớ cho nên Kinh Phật có nói: “Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ” chúng ta mới ngộ Đạo mà gặp Đức Chí Tôn đem hồng ân Thiêng Liêng của Ngài đại ân xá cho toàn con cái của Ngài.
Một năm một hội tao phùng,
Càng nhiều xa cách, càng nồng tấm yêu.
(Thơ Thuần Đức).
4.- Tao 糟, thường đọc “Tào”, là hèm, bã rượu, không đứng một mình.
Như: Tao khương (thường đọc tào khang).
Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: Tin nhà ngày một vắng tin, Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang.
Thà cháo rau trọn đạo tàokhương,
Hơn sang cả người thương đành phụ rãy.
(Phương Tu Đại Đạo).
5.- Tao 騷 là lo buồn, không dùng một mình. Như: Tiêu tao.
Tao, nghĩa rộng nói về thi thơ có giọng ưu sầu như bài ly tao (Khuất Nguyên) đời Đông Châu, để chỉ người có tài văn chương, phong lưu, thanh lịch.
Như: Tao nhã, tao nhân, tao khách, thanh tao.
Gỡ xong thế cuộc rối nùi,
Trăng thanh gió mát là mùi thanh tao.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
騷 壇
Tao: Thi ca có giọng ưu sầu do Khuất Nguyên nước Sở, nhân khi buồn viết nên khúc Ly Tao. Đàn: Nơi xây cất bằng gỗ hay đất, dùng để tế lễ, hội họp hay diễn giảng.
Tao đàn là chỉ nơi hội họp của các thi nhân, hoặc chỉ nhóm nhà thơ, nhà văn.
Như: Các nhà thơ tham dự hội tao đàn.
Trong, bực bao nhiêu ngày thảm cảnh,
Ngoài, mười sáu hội tao đàn.
(Thơ Thuần Đức).
Rạng rỡ màu trời cảnh lạc hoan,
Đêm thu mừng hợp bạn Tao đàn.
(Thơ Chơn Tâm).
騷 亂
Tao: Quấy rối, rối loạn. Loạn: Lộn xộn, không có trật tự, nề nếp bình thường.
Tao loạn, như chữ “Loạn lạc” là rối loạn, tức tình trạng xã hội không còn có trật tự, an ninh, do có nổi loạn.
Như: Gặp thời tao loạn.
Tuồng đời ai chớp phim tao loạn,
Cửa Đạo người mong cảnh trị bình.
(Thơ Thuần Đức).
遭 遇
Tao: Gặp gỡ, gặp lại thình lình. Ngộ: Gặp.
Tao ngộ gặp gỡ thình lình.
Người xưa có quan niệm rằng gặp gỡ nhau cũng có duyên phần: Hữu duyên thiên lý năng tao ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng 有 緣 千 里 能 騷 遇, 無 緣 對 面 不 相 逢, nghĩa là có duyên ngàn dặm cũng hội ngộ, không duyên đối mặt cũng chẳng gặp nhau.
Như: Mười năm rồi đôi bạn mới được tao ngộ.
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
(Di Lạc Chơn Kinh).
騷 雅
Tao: Do chữ Ly Tao của Khuất Nguyên, dùng để chỉ thi ca. Nhã: Thanh cao.
Tao nhã chỉ người có tất cả mọi hành động, cử chỉ tỏ ra tế nhị, lịch sự. Như: Phong độ tao nhã.
Huấn từ của Đức Thượng Sanh Nhân lễ khánh thành Học Ðường Bộ Nhạc Trung Ương: Thưởng thức một bài đờn hay như nghe một bài thi sắc sảo, một câu đờn tao nhã có điêu luyện như một câu thi tuyệt bút có mãnh lực gợi cảm làm cho xúc động tâm hồn.
Đàm luận ôn hoà đầy khí phách,
Ngôn từ tao nhã, đủ tinh thần.
(Thơ Thông Quang).
騷 人
Tao: Có nghĩa thi ca. Nhân: Người.
Tao nhân là người văn hay, phong cách tao nhã.
Thành ngữ Việt Hán có câu: Tao nhân mặc khách 騷 人 墨 客, dùng để chỉ chung những người sành về sáng tác hoặc thưởng thức văn chương.
Rượu sớm, mượn mùi khuây thế sự,
Thi chiều, lựa vận ngóng tao nhân.
(Thơ Thuần Đức).
Mặc khách dùng khoan mà đãi khách,
Tao nhân lấy lễ để hoà nhân.
(Thơ Hoàng Nguyên).
遭 逢
Tao: Gặp gỡ. Phùng: Gặp nhau.
Hai người xa cách nhau lâu, tình cờ gặp gỡ nhau gọi là tao phùng.
Cổ ngữ có câu: Minh quân lương tể tao phùng dị, tài tử giai nhân tế ngộ nan 明 君 良 宰 遭 逢 易, 才 子 佳 人 際 遇 難, nghĩa là vua sáng tôi hiền gặp nhau dễ, tài tử giai nhân khó hội ngộ.
Tao phùng vận hội gắng tầm phương,
Thành bại xưa nay ấy lẽ thường.
(Thơ Tiếp Đạo).
Nhắc nhở đường tu em cố gắng,
Hư linh chờ dự hội tao phùng.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Táo 灶 là bếp. Như: Ông Táo, Táo quân.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Luôn dịp Bần Ðạo giải nghĩa tại sao phong tục nhà Nam gọi theo Ðạo Phật là đưa Ông Táo về Trời, chớ thật sự là đưa chư Thần, Thánh, Tiên, Phật về triều thiên, tinh thần từ trước vẫn vậy.
Chị vắng mặt vô rờ ông Táo,
Bốc tay dơ trã cháo trách canh.
(Phương Tu Đại Đạo).
Cậy nấu cơm đổ nước đầy vung,
Sôi tắt lửa gây cùng ông Táo.
(Phương Tu Đại Đạo).
灶 君
Táo: Bếp nấu ăn. Quân: Vua.
Táo Quân tức là vua bếp, vua Táo.
Theo phong tục dân gian, hằng năm cứ ngày 23 tháng chạp Âm lịch mọi nhà có lệ cúng đưa Ông Táo về Trời để tấu trình với Thượng Đế tình hình một năm qua ở cõi thế gian. Táo Quân tức là vua bếp, vua Táo. Theo sách xưa có nhiều thuyết nói về Táo Quân:
Sách Châu Lễ cho Táo Quân là Thần Chúc Dung, thường tế vào mùa hạ.
Sách Hoài Nam Tử thì cho rằng vua Hoàng Đế đặt ra việc nấu nướng, nên khi chết hoá thành Táo Quân.
Nhưng ở Việt Nam, truyền thuyết trong dân gian nói rằng thần Táo quân có ba người: Hai ông một bà, nên ca dao mới có câu:
Thế gian một vợ một chồng,
Nào như vua bếp hai ông một bà.
Tích viết rằng: Ngày xưa có hai vợ chồng nọ, chồng tên là Trọng Cao, vợ là Thị Nhi bị thất lạc nhau khá lâu, mỗi người ở một nơi.
Sau nàng Thị Nhi mới có một ông chồng khác tên là Phạm Lang, hai vợ chồng thương yêu nhau, sống rất hạnh phúc.
Một hôm, có người hành khất đến nhà vợ chồng Thị Nhi xin ăn, nàng mới nhận ra người ăn xin là chồng cũ của mình, liền đem cơm ra cho ăn. Sợ chồng sau biết được, Thị Nhi bèn cho chồng cũ tạm ẩn vào một cây rơm ngoài vườn.
Không ngờ người chồng sau về, vô tình làm cháy cây rơm, thiêu chết Trọng Cao. Nàng Thị Nhi nghĩ đến tình nghĩa xưa, đau đớn mà nhảy vào đống lửa để chết theo chồng cũ. Và người chồng sau thấy cảnh thương tâm, cũng nhảy vào lửa để chết theo. Thế là ba người đều bị chết cháy nơi đống rơm.
Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho linh hồn ba người làm Thần Táo quân, có nhiệm vụ cai quản bếp núc và cứ hằng năm vào ngày 23 tháng chạp về chầu Thượng Đế.
Riêng trong tôn giáo Cao Đài, ngày mà dân gian đưa Ông Táo về Trời, đó chính là ngày toàn Đạo thiết lễ Đưa Chư Thánh triều Thiên, tức là đưa chư Thần, Thánh, Tiên, Phật có nhiệm vụ điều độ nhơn sanh nơi thế gian, sau một năm trở về Ngọc Hư Cung để trình tấu với Đức Chí Tôn tất cả mọi việc.
Trong quyển Thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp có giải thích việc nầy như sau: “Luôn dịp Bần Ðạo giải nghĩa tại sao phong tục nhà Nam gọi theo Ðạo Phật là đưa Ông Táo về Trời, chớ thật sự là đưa chư Thần, Thánh, Tiên, Phật về triều thiên, tinh thần từ trước vẫn vậy.
Chơn truyền buổi Ðức Chí Tôn tạo Càn Khôn Thế Giái, Ngài nắm Thập Thiên Can, Thập Nhị Ðịa Chi trong tay, để định Pháp Chánh Càn khôn Vũ trụ. Trong thời buổi định Pháp Chánh ấn định vào khoảng từ ngày 23 đến 30 sáng mồng 1, họp tại Ngọc Hư Cung đặng định luật giới hạn vi diệu cho trái địa cầu, chạy theo khuôn khổ hữu định trong năm cho chí Tân niên là 12 giờ đêm 30, khởi điểm 1 giờ sáng ngày 1 tháng Giêng năm sau.
Luật Thiên Ðiều trị thế, trị nơi địa cầu nầy là hình luật thiêng liêng là ngày giờ nầy nơi Ngọc Hư Cung kiểm soát định tội phước đó vậy”.
Trót năm sanh chúng gội ơn nhuần,
Ba lạy tiễn hành kỉnh Táo Quân.
(Thơ Cao Mỹ Ngọc).
Chúc nhau muôn việc đều như ý,
Lọ phải dài dòng sớ Táo Quân.
(Thơ Hoàn Nguyên).
1.- Tào 曹 là các bộ phận làm việc quan. Như: Tào binh, tào hình, Thiên tào, Nam tào Bắc Đẩu.
Thánh giáo Thầy có dạy: Nếu cả thế gian nầy biết tu thì thế gian có lẽ cải lý Thiên đình mà làm cho tiêu tai tiêu nạn đặng, huống lựa mỗi cá nhân biết tu thì Thiên đình cầm bộ Nam tào cũng chẳng ích chi.
Xem: Nam tào.
Ba mươi sáu cõi Thiên tào,
Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.
(Kinh Tận Độ).
Rủi Thiên số Nam tào đã định,
Giải căn sinh xa lánh trần ai.
(Kinh Thế Đạo).
2.- Tào, còn đọc “Tao 糟”, là hèm, bã rượu, không đứng một mình.
Như: Tào khương chi thê bất khả hạ đường (thường đọc tào khang).
Xem: Tao.
Tống Hoằng vẫn đạo tào khang giữ,
Quyết từ duyên phụng sự vợ mù.
(Báo Ân Từ).
Hay “Tao khương”.
Tào (tao): Hèm rượu. Khang (khương): Cám.
Tào khang, đọc cho đúng “Tao khương 糟 糠”, là tấm cám hoặc hèm rượu và cám, thức ăn của những người nghèo khổ.
Vợ tấm cám (Tao khương chi thê 糟 糠 之 妻) là vợ lấy nhau từ lúc còn nghèo khổ, từng chịu ăn tấm cám với nhau, tức đồng cam cộng khổ.
Lời của Tống Hoằng trả lời với vua nhà Hán: Tao khương chi thê bất khả hạ đường 糟 糠 之 妻 不 可 下 堂, nghĩa là vợ chồng hồi lúc tấm mẳn đã sống chung, chẳng khá bỏ nhau.
Xem: Tào khương.
Nhặt khoan tiếng ngọc thoảng bên tai,
mới biết tào khang nghĩa cũ.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Chung thuỷ sắt son gìn trọn đạo,
Trăm năm bền chặt chữ tào khang.
(Thơ Hàn Sinh).
糟 糠
Tào (tao): Hèm rượu. Khương: Cám gạo.
Tào khương, còn đọc “Tao khương 糟 糠”, là tấm cám hoặc hèm rượu và cám, dùng để chỉ thức ăn hèn mọn của những người nghèo khổ.
Tào khương chỉ người vợ lấy từ buổi đầu nghèo túng, tình nghĩa chồng đối với vợ.
Đạo vợ chồng là đạo tào khương,
Mình đi nỡ cậy nương ai lập sẵn.
(Phương Tu Đại Đạo).
曹 國 舅
Tào: Họ Tào. Quốc cựu (cữu): Em vợ vua, nên được tôn xưng cậu của bá tánh (Quốc cữu).
Vốn là em ruột của Tào Thái Hậu đời nhà Tống, tên thật là Tào Hữu, nên người đời thường gọi là Tào Quốc Cựu. Tào Hữu thường hay làm phước, ngày kia, bán hết tài sản, đem tất cả tiền thâu được bố thí cho dân nghèo, rồi bỏ vào núi tu hành.
Sau gặp được Hớn Chung Ly và Lữ Đồng Tân truyền đạo nên thành Tiên ở núi Bồng Lai, là một trong Bát Tiên. Người đời thường gọi Tào Hữu là Tào Quốc Cựu.
Tào Quốc Cựu thường cỡi một con thú, tên là Mai Hoa Lộc.
Hớn Chung Ly, Thể Hoà, Tương Tử,
Tào Quốc Cựu, với Lữ Đồng Tân.
(Lược Thuật Toà Thánh).
曹 操
Tào Tháo, tự Mạnh Đức, tiểu tự là A Man, vốn họ Hạ Hầu, vì làm con nuôi Tào Đằng, nên đổi thành họ Tào. Tháo là người giỏi quyền biến, nhiều cơ mưu, nhưng có tánh đa nghi, nổi tiếng là gian hùng.
Khi Đổng Trác âm mưu làm loạn triều đình, Tháo bán hết gia tài, mộ binh đánh Trác. Sau Tháo về Lạc Dương, Hiến Đế ban cho Tháo coi toà Thượng Thư. Bấy giờ Lạc Dương bị bắn phá, Tháo bức Hiến Đế dời Kinh về Hứa Đô. Tháo khuynh loát triều đình nhà Hán từ đó. Khi đánh thắng Viên Thiệu, Viên Thuật, Tháo được phong làm đại tướng quân, rồi dần giữ chức Thừa tướng.
Tào Tháo cùng với Lưu Bị và Tôn Quyền chia ba thiên hạ, nên sử gọi là thời Tam Quốc.
Trong bài Thuyết Đạo về Quan Thánh Đế Quân, Đức Thượng Sanh có nói về Tào Tháo như sau: Khi tạm nghỉ nơi quán dịch, Tào Tháo cố ý làm cho loạn lễ quân thần, để cho Ðức Ngài ở chung với nhị tẩu. Ðêm ấy Ðức Ngài cầm đuốc đứng ngoài cửa từ đầu hôm cho tới sáng, làm cho Tào Tháo càng thêm kính phục hơn nữa.
Khi Ðức Ngài (Quan Thánh) thất thủ thành Hạ Bì vì binh cô tướng quả, bị Tào Tháo vây tại hòn Thổ Sơn thì có tướng Tào là Trương Liêu đến dụ hàng.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Tảo 早 là sớm, buổi sớm, không dùng một mình.
Như: Tảo khai, chế độ tảo hôn vẫn còn, tảo đắc siêu sanh tịnh độ.
Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tảo 藻 là một loại rau mọc ở dưới nước. Như: Rau tảo rau tần, tảo tần nuôi con ăn học.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Qua cũng hiểu cái khổ não của mấy em lo tảo lo tần mà nuôi con cái của mấy em, có ngày Hội Thánh cũng biết.
Xem: Tảo tần.
Có thân thiệt khổ cho thân,
Sớm khuya buôn tảo bán tần đủ đâu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
早 得
Tảo: Sớm. Đắc: Được.
Tảo đắc là sớm được.
Trong Sớ Văn có câu: “Nguyện cầu các đẳng vong hồn tảo đắc siêu thăng Tịnh độ” hoặc “Xây cuộc thế giới chiến tranh tảo đắc hoà bình”.
Tảo đắc siêu thăng là vong hồn sớm được siêu thăng nơi cõi Tịnh độ.
Tảo đắc hoà bình là đất nước dứt được cảnh chiến tranh để sớm được hoà bình.
Hoàn tu thử nhựt cơ quy thống,
Tảo đắc lai niên nghiệp hợp châu.
(Bát Nương Giáng Bút).
早 婚
Tảo: Sớm. Hôn: Việc cưới vợ hay gả chồng.
Tảo hôn là việc kết hôn sớm, ý chỉ kết hôn trong độ tuổi vị thành niên.
Như: Thời buổi hiện nay còn nhiều gia đình theo tục lệ tảo hôn.
Người Tàu, người Việt hay có lệ dựng vợ gả chồng cho con sớm, gọi là tảo hôn.
(Quan Hôn Tang Lễ).
掃 墓
Tảo: Quét. Mộ: Mồ mả.
Tảo mộ là quét dọn mồ mả cho sạch sẽ, hoặc sơn phết mộ lại cho mới.
Thường thường vào tiết thanh minh (tháng ba), hay trước tết âm lịch, người xưa có tục đi tảo mộ.
Như: Người miền nam thường có tục tảo mộ.
Kìa xóm rẫy nấm mồ lố xố,
Nơi đôi ta tảo mộ đạp thanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
藻 蘋
Tảo: Một loại rau. Tần: Rau tần.
Tảo tần là rau tảo rau tần, chỉ đức tính đảm đang việc nhà của người đàn bà. Như: Mẹ tảo tần nuôi con.
Bài “Thái Tần” trong Kinh Thi có câu: Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân, vu dĩ thái tảo, vu bỉ hàng lạo, 于 以 釆 蘋, 南 澗 之 濱. 于 以 釆 藻, 于 彼 行 潦, nghĩa là Đi hái rau tần, bên bờ khe phía nam. Đi hái rau tảo, bên lạch nước kia.
Bài Kinh Thi trên ca ngợi người vợ hiền, dâu thảo, chăm hái rau tảo rau tần về nhà lo làm lễ cúng tổ tiên.
Ngoài ra, chữ tảo tần còn dùng để chỉ sự vất vả, cực khổ của những người vợ hiền.
Tảo tần con khá gắng chung lo,
Ðẹp thiếp mới ra nở mặt trò.
(Đạo Sử).
Càng bạc phước càng than con dại,
Lo tảo tần mảy mạy dưỡng nuôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Thà tảo tần mơi cháo, chiều rau,
Biết thủ nghĩa hơn nhà cao cửa rộng.
(Phương Tu Đại Đạo).
掃 清
Tảo: Quét. Thanh: Trong sạch.
Tảo thanh là quét sạch hết không còn gì. Tiếng dùng để chỉ việc thanh lọc những tệ nạn xã hội.
Như: Những tệ nạn xã hội hôm nay được tảo thanh.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo của Lý Giáo Tông có dạy: Lão lấy làm vui hứng thấy chí hướng của hiền hữu đương tìm chước tảo thanh, nhưng trong số tội nhơn của Đạo có một phần ít xu thời mưu cầu danh vọng mà phạm Thiên điều.
Nơi Tây phương Cực Lạc cũng vậy, tảo thanh không còn ma hồn quỷ xác đến đây nữa.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
造
Tạo là dựng lên, làm ra. Như: Tạo lập cơ nghiệp, tạo thiên lập địa, tạo đời Thánh đức. Như: Tạo điều kiện.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Thầy có câu: Các con coi đó mà hiểu rằng, các con có sự mà thiên hạ từ tạo thế đến chừ chưa hề có chăng?
Tạo đời cải dữ ra hiền,
Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.
(Kinh Tận Độ).
造 工
Tạo: Làm ra. Công: Thợ, khéo léo.
Tạo công là thợ Tạo, tức chỉ cha mẹ tạo ra hình hài xác thịt hay Đấng Tạo Hoá (Trời) ban cho chơn linh.
Tạo công đồng nghĩa với Tạo hoá.
Ai là người đã mang mảnh xác thịt ở trong vòng võ trụ nầy, cũng nhìn rằng đã thọ ân của hai Đấng Tạo Công.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Tạo: Gầy dựng nên. Dựng: Gây, lập nên.
Tạo dựng, như chữ “Gây dựng”, là tạo ra cái cơ sở để từ đó phát triển thêm lên.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Muốn đi con đường thứ ba phải tập mình đừng ham muốn chi cho mình nữa, hành tàng của Chí Tôn là phận sự của mình, phải yêu ái hiếu hạnh cùng Chí Tôn và Phật Mẫu. Cái yêu ái và hiếu hạnh ấy phải là phi thường do tâm linh điều khiển, phải thương yêu nhơn sanh và vật loại hơn mình và coi đồng thể, đồng sanh với mình. Phải tạo dựng cố thủ Thánh tâm cho nên Chí Thánh, và đạt cho đủ ba ngàn công quả thì sẽ đi đến, lướt đặng và vững vàng thắng muôn điều trở ngại.
Tạo dựng cơ đồ cho chánh nghĩa,
Rưới chan hạnh phúc bởi lòng tin.
(Thơ Hộ Pháp).
造 定
Tạo: Làm ra, dựng nên. Định: Sắp đặt, quyết định.
Tạo định là sắp đặt mà làm thành.
Hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên Thi tận độ Chúng Sanh đắc quy Phật Vị.
(Di Lạc Chơn Kinh).
造 端
Tạo: Mở đầu. Đoan: Mối.
1.- Tạo đoan là mở đầu mối, tức tạo ra cái mối đầu của sự vật. Chỉ dùng để nói về vợ chồng, vì vợ chồng dựng mối đầu nhân loại.
Sách có câu: Thiên địa chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ 天 地 之 道 造 端 乎 夫 婦, nghĩa là đạo trời đất gây ra cái mối đầu từ đạo vợ chồng.
Dâu Nam giản, rể Đông Sàng,
Tơ nguyệt săn bền mối tạo đoan.
(Thơ Hương Phụng).
2.- Tạo Đoan cùng nghĩa với Tạo Hoá, chỉ ông Trời hay Đức Chí Tôn.
Diễn văn chúc tết năm Mậu Tuất của Đức Thượng Sanh có câu: Cầu xin hai Đấng Tạo Đoan tối cao hỷ xả tất cả những cái gì còn thô sơ thiếu kém và trợ giúp chúng ta đi đến chỗ thành công mỹ mãn.
Nhứt khí tạo đoan cả Ðịa Cầu,
Nương theo Mẹ cả giảng vài câu.
(Đạo Sử).
Cồn dâu hoá biển nghĩ kinh hoàng,
Phàm thể dụng quyền chủ tạo đoan.
(Thơ Huệ Phong).
造 化
Tạo: Làm ra. Hoá: Thay đổi.
Tạo hoá là tiếng dùng để chỉ ông Trời tạo ra càn khôn vũ trụ và biến hoá ra con người và muôn vật.
Phú Giả Nghị có câu: Thiên địa vi lô hề, tạo hoá vi công, âm dương vi thán hề, vạn vật vi đồng 天 地 為 爐 兮, 造 化 為 工, 陰 陽 為 炭 兮, 萬 物 為 銅, nghĩa là trời đất làm lò hề, tạo hoá làm thợ, âm dương làm than hề, vạn vật làm đồng.
Ơn Tạo hoá tha tiền khiên trước,
Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
(Kinh Thế Đạo).
Đại Từ Phụ từ bi Tạo hoá,
Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn.
(Kinh Tận Độ).
À Ðất Trời kia ai Tạo hoá,
Hoá sanh chung hưởng há quên già.
(Đạo Sử).
Hiệp Tạo hoá cầm quyền chuyển thế,
Dạy vạn linh dụng thế từ bi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
造 化 天
Hay “Tạo Hoá Thiên”.
Tạo hoá: Tạo và hoá sanh ra Vũ trụ, vạn vật. Thiên: Trời, từng trời.
Tạo Hoá Thiên là Từng trời Tạo hoá, một tầng Trời do Đức Diêu Trì Kim Mẫu chưởng quản.
Theo lời thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp, ngày rằm tháng 8 năm Đinh Hợi (1947), khi Ngài giải thích bài “Phật Mẫu Chơn Kinh”, Ngài có nói: “Từng Trời thứ chín gọi là cung Tạo Hoá Thiên, có vị cầm quyền năng tạo đoan gọi là Thiên Hậu...”
Như vậy, tầng Tạo Hoá Thiên thuộc tầng thứ chín của Cửu Trùng Thiên, nên Bà Cửu Nương Diêu Trì Cung có nhiệm vụ tiếp dẫn Chơn hồn đến tầng Tạo Hoá Thiên để vào Diêu Trì Cung bái kiếng Đức Phật Mẫu.
Theo Di Lạc Chơn Kinh, tầng Tạo Hoá Thiên còn gọi là Tầng Tạo Hoá Huyền Thiên có các vị Phật: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, Cửu Vị Nữ Phật...
1.- Tạo Hoá Huyền Thiên:
Tạo Hoá Huyền Thiên hữu: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, Cửu Vị Nữ Phật...
(Di Lạc Chơn Kinh).
2.- Tạo Hoá Thiên:
Tạo Hoá Thiên huyền vi Thiên Hậu,
Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,
Tạo Hoá Thiên sanh biến vô cùng,
(Kinh Tận Độ).
造 化 玄 天 九 位 女 佛
Tạo Hoá Huyền Thiên: Tầng Trời Tạo Hoá Thiên huyền diệu, nơi có Cung Diêu Trì là chỗ ngự của Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Cửu Vị Nữ Phật: Tức là Cửu Vị Tiên Nương. Chín vị Tiên Nương này có nhiều công nghiệp trong thời khai Đạo và có công giáo hoá chúng sanh nên được đắc hàng Phật vị.
Tạo Hoá Huyền Thiên Cửu Vị Nữ Phật là câu xưng tụng Thánh hiệu của Cửu Vị Tiên Nương ở Tầng Trời Tạo Hoá Thiên.
Nam Mô Tạo Hoá Huyền Thiên Cửu Vị Nữ Phật.
(Tán Tụng Công Đức).
造 化 玄 天 瑤 池 金 母
Tạo Hoá Huyền Thiên: Tầng Trời Tạo Hoá Thiên huyền diệu, nơi có Cung Diêu Trì là chỗ ngự của Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Diêu Trì Kim Mẫu: Chỉ Đức Phật Mẫu ngự nơi Diêu Trì Cung, ở tầng Tạo Hoá Thiên.
Tạo Hoá Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu là câu xưng tụng Thánh hiệu của Đức Phật Mẫu.
Nam Mô Tạo Hoá Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu.
(Tán Tụng Công Đức).
造 立
Tạo: Làm ra. Lập: Dựng nên.
Tạo lập là làm thành, tạo dựng nên.
Thánh giáo Thầy có dạy: Vốn Thầy tạo lập nền Chánh giáo cho dân Nam Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu. Các con ví biết Ðạo là quý thì phải ân cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu, các con mới thấy rõ Thiên cơ, thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng, vì mỗi việc khó khăn trắc trở là lúc sơ khai.
Ðời cũng có giàu nghèo cao thấp,
Tại nơi người tạo lập nó ra,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tạo: Xây dựng. Nhà cõi Thiên: Mái nhà nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, ý chỉ ngôi vị.
Tạo nhà cõi Thiên là xây dựng ngôi nhà nơi Thiên cảnh, ý chỉ tạo lập ngôi vị ở cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Càn khôn để bước ta bà,
Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.
(Kinh Thế Đạo).
造 作
Tạo: Làm ra, dựng nên. Tác: Làm.
Tạo tác là tạo dựng nên.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Về việc xây dựng Chánh môn, mặc dù sự phỏng định tạo tác hơi lớn lao, nhưng đối với thanh danh của Ðạo, cuộc kiến thiết cũng phải có một giá trị xứng đáng để tượng trưng cái thể thống của một nền tôn giáo do Ðức Thượng Ðế sáng lập.
Trí Huệ Cung bên Phạm Môn tạo tác đây là nhà tu của nữ phái...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
造 世
Tạo: Làm ra. Thế: Thế gian, đời.
1.- Tạo thế là tạo lập cõi thế gian, chỉ thời kỳ mới tạo lập Càn khôn vũ trụ và vạn vật.
Như: Từ khi tạo thế cho đến nay đã trải qua ba thời kỳ mở đạo.
Các con coi đó mà hiểu rằng, các con có sự mà thiên hạ từ tạo thế đến chừ chưa hề có chăng?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Tạo thế còn có nghĩa là tạo ra cuộc đời.
Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Lão đây cũng vậy, mà chư hiền hữu cũng vậy, chúng ta đã đến tạo thế sửa đời, vẫn là phận sự của chúng ta đã hẳn, hãy biết phận mình mới an tâm liệu thế chuyển xây, đã có khó ắt có hay, đã có gay thì có thuận, bền chí xem mảy mún cơ đời.
Tạo thế phải toan phương lấy đức,
Dìu đời nắm chặt lấy tình thương.
(Bát Nương Giáng Bút).
Dụng quyền hơn đức quyền tan nát,
Tạo thế kém nhân thế đoạ đày.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
造 天 立 地
Tạo Thiên: Tạo thành Trời. Lập địa: Dựng nên đất.
Tạo Thiên lập Địa là tạo dựng thành Trời đất, tức là tạo lập nên Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.
Thánh giáo Thầy có câu: Từ tạo Thiên lập Ðịa, chưa nước nào dưới quả Ðịa cầu 68 nầy đặng vậy. Cốt để ban thưởng các con, thì các con hưởng phần hơn đã đáng, lẽ nào Thầy đã để phần nhiều cho các nước khác sao!
Nguyên hồi Vô thỉ, nghĩa là khi chưa Tạo Thiên lập Địa, cõi Thái Hư mờ mờ mịt mịt...
(Thiên Đạo).
造 時 改 世
Hay “Tạo thời hoá thế”.
Tạo thời: Tạo ra một thời kỳ tốt đẹp. Cải thế (đồng nghĩa hoá thế): Sửa đổi hay biến đổi cuộc đời cho được hiền lương đạo đức.
Tạo thời cải thế đồng nghĩa với câu “Tạo thời hoá thế 造 時 化 世” là nói người tài ba đứng ra cải tạo thời thế cho được tốt đẹp.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu là một đạo Thiên binh mà đã đứng ra bãi chiến trường chém tướng đoạt cờ bảo tồn quốc vận, ấy là tướng quân tạo thời cải thế đã đành còn những kẻ tàn hại dân lành với phương tàn ác tức là quân cường đồ cướp đảng.
1.- Tạo thời cải thế:
Sức quyền tương đắc mới mong tạo thời cải thế.
(Pháp Chánh Truyền CG).
2.- Tạo thời hoá thế:
Hễ là người phải biết làm người,
Dạy em rán tạo thời hoá thế.
(Phương Tu Đại Đạo).
造 物
Tạo: Làm ra, dựng nên. Vật: Muôn vật, gồm con người và loài vật.
Tạo vật, như chữ “Tạo hoá”, chỉ Đức Thượng Đế tạo ra vũ trụ và muôn vật.
Như: Muôn loại dưới thế gian nầy đểu do Đấng tạo vật gầy dựng nên.
Một khi chúng ta khám phá những lẽ bí mật của Tạo vật rồi, ắt chúng ta sẽ giải quyết được đời sống của chúng ta với một cách ứng đáng.
(Giáo Lý).
雜
Tạp là lẫn lộn nhiều thứ và chất lượng không tốt.
Như: Nguyên một đống gỗ toàn là cây tạp, cửa hàng tạp hoá, nó không có nghề nghiệp chỉ đi tạp dịch.
Đến đây Bần Đạo nói đến việc chỉnh đốn nội dung nền Chánh Trị Đạo trong buổi hỗn tạp này...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
雜 念
Tạp: Nhiều thứ lẫn lộn. Niệm: Tưởng nghĩ.
Tạp niệm là tư tưởng tạp nhạp, không thuần nhất, tức là điều tưởng nghĩ lung tung, qua lại bất nhất.
Như: Khi vào đàn cúng không để tạp niệm xen vào trong tâm.
Kẻ giữ Đạo không muốn đầy, tức không cố chấp tư tưởng tạp niệm.
(Giáo Lý).
Tạp: Nhiều thứ lẫn lộn. Nhạp: Không gọn.
Tạp nhạp là có nhiều thứ lẫn lộn, nhưng lặt vặt, linh tinh, ít có giá trị, hoặc không đáng kể.
Như: Tủ chứa toàn đồ tạp nhạp không có gì đáng giá.
Khi ấy Bần Ðạo chưa tín ngưỡng, bởi lẽ nòi giống nước Nam còn tín ngưỡng tạp nhạp lắm.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
雜 訟
Tạp: Nhiều thứ lẫn lộn. Tụng: Thưa kiện.
Tạp tụng là các vụ kiện tụng linh tinh, tạp nhạp.
Trong Đạo Sử, ghi lại Châu Tri Số I của Đức Quyền Giáo Tông có câu: Mỗi việc chi thuộc quyền chánh trị đều giao cho Chánh Phối Sư như là quyền thay mặt cho toàn Ðạo mà giao thông cùng Chánh Phủ và cả Tín đồ, quyền giáo dục nhơn sanh, quyền xem xét các nơi, chăm nom Ðạo Hữu, quyền trị Chức Sắc phần Ðạo và phần Ðời, buộc Chức Sắc làm y phận sự, quyền tạp tụng, quyền điều đình sự phổ độ, tài liệu của Ðạo, quyền chủ trương Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh...
Ngọc Chánh Phối Sư, cầm quyền sửa trị cả Chức Sắc, Tín Ðồ, thì quyền tạp tụng cũng nơi người nắm chặt.
(Bát Đạo Nghị Định).
Tát là đưa nước nơi chỗ thấp lên chỗ cao, hoặc bớt mực nước ở ruộng hay mương.
Như: Tát nước vào ruộng, tát mương bắt cá, tát cạn biển Đông.
Nguyên tình chớ khá để riêng lòng,
Muốn tát cho cùng nước biển Ðông.
(Đạo Sử).
Tát: Đưa nước từ chỗ thấp vào chỗ cao hoặc tát bớt nước. Biển Đông: Một trong bốn biển.
Tát biển Đông, bởi câu tục ngữ “Đồng vợ đồng chồng, tát biển Đông cũng cạn”, dùng để nói vợ chồng hoà hợp, yêu thương, đồng lòng cùng nhau làm việc thì có thể làm nên việc lớn.
Hiệp sức làm đôi tát biển Ðông,
Tuy không phải vợ cũng ông chồng.
(Đạo Sử).
Dầu nghèo hèn chồng của vợ công,
Hiệp sức tát biển đông cũng cạn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tạt là ghé vào, rẽ ngang, tức trên đường di chuyển nghỉ lại chơi một cách tình cờ tại một điểm nào đó, hoặc đang đi bên nầy, rẽ sang bên bên kia.
Tạt còn có nghĩa là hắt vào, tức chuyển động mạnh lệch theo một hướng nào đó, mưa tạt vào nhà.
Như: Mưa tạt vào hiên nhà, thuyền tạt vào bờ.
Tách bến sông mê sóng tạt thuyền,
Lọc lừa nghiệp quả kẻ may duyên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,
Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.
(Đạo Sử).
Ái hà gió tạt trì tâm lướt,
Khổ hải sóng xao gắng chí dò.
(Thơ Thái Đến Thanh).
1.- Tàu là từ chỉ chung người Hoa, hoặc theo kiểu Trung Quốc. Như: Người Tàu tại Sài Gòn, bút lông và mực Tàu, buổi sáng uống trà Tàu.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ðến da vàng là nước Tàu, đừng tưởng nước Tàu do một sắc dân mà ra, họ gồm nhiều sắc dân hiệp lại thành nước Tàu, thành thử tiếng nói thì khác chỉ có chữ giống nhau mà thôi.
Nhựt Đức lại với Tàu Tây,
Gây trường huyết chiến tại đây bây giờ.
(Thất Nương Giáng Bút).
Rộn rực tới lui xem lố xố,
Da vàng sắc nước giống người Tàu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Tàu tên gọi chung các phương tiện vận tải lớn và hoạt động bằng máy móc trên sông, biển.
Như: Tàu bè qua lại trên sông, bến tàu đông đúc.
Bần Đạo còn nhớ, khi Bần Đạo bị lưu đày đi trên chiếc tàu Combattant đi đến Đảo Ile de la Réunion.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Tắc 則 là phép, phép tắc, quy tắc. Như: Nguyên tắc, vô phép vô tắc.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Tu thân cũng không phải chỉ có một quan niệm hoàn toàn về cá nhân, vì phép tắc đối với mình tức là “Xử kỷ” phải luôn luôn đi kèm với phép tắc đối với người và việc tức là “Tiếp vật”.
Gương hiếu hạnh giữ mình dè dặt,
Với mẹ cha phép tắc để nên gương.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tắc 則 là thì, thời, ắt là. Như: Cẩn tắc vô ưu, phi dâm tắc đạo, hữu cầu tắc ứng.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Áo thật là áo đạo mà tâm tánh của người thì xảo trá, gian dối đủ điều, thử hỏi người như vậy cầu nguyện có cảm động Trời Phật được chăng? Như thế câu: “Hữu cầu tắc ứng” là vô nghĩa đối với trường hợp nầy.
Hoá đức thiên tâm tắc Ðạo khai,
Hà do ngạ loại quỷ đương tài.
(Đạo Sử).
Quảng trí minh tâm tắc thức thì,
Hành tàng huyền diệu thế nan tri.
(Đạo Sử).
3.- Tắc 稷 là hạt kê, một thứ hạt trong ngũ cốc. Nghĩa rộng: Nền tế Thần Nông, tức vị thần chủ về cày cấy.
Như: Nền tắc, xã tắc.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Xưa biết bao vua chúa dùng lầm hạng tiểu nhơn mà phải chịu xã tắc khuynh nguy, muôn dân đồ thán.
Nắm mối xa thơ ra sức gánh,
Thâu giềng xã tắc sửa đầu cân.
(Đạo Sử).
稷 伊
Tắc, Y là hai vị hiền thần đời vua Ngu Thuấn và đời nhà Thương.
Tắc là Hậu Tắc tên Khí, thuỷ tổ của nhà Châu, làm quan nông sư, tức coi về việc nông đời vua Thuấn.
Y là Y Doãn, một vị khai quốc công thần của nhà Thương, tên là Chí, cày ruộng ở đất Hữu Sằn. Vua Thành Thang đem lễ vật ba lần đến rước, mới chịu theo về. Ông có công giúp vua Thang đánh đuổi vua Kiệt, diệt nhà Hạ mà lập nên nhà Thương.
Xem: Hậu Tắc và Y Doãn.
Nghe danh ông Tắc, Y lìa ruộng,
Mến đức vua Nghiêu, Thuấn bỏ cày.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tăm là dấu vết, nhìn thấy, nghe thấy được, nhờ đó có thể biết về sự có mặt của một người nào hoặc một việc gì.
Như: Bặt tăm, biệt tăm, bỏ làng đi mất tăm, tìm không thấy tăm đâu cả.
Xa thơ khuất dấu ngọn cờ bặt tăm.
Nòi anh phong đó, cơ nghiệp hỏi ai cầm?
(Ngụ Đời).
Tăm: Chỉ dấu vết, tin tức. Cá: Loài vật ở nước.
Tăm cá, do thành ngữ “Bóng chim tăm cá”, là tăm tích của loài cá, dùng để chỉ về thư từ, tin tức.
Như: Bặt tăm cá là bặt tin tức, mất liên lạc với nhau.
Xem: Tin chim thư cá.
Cách trở ngàn trùng khôn giáp mặt,
Bóng chim tăm cá bặt từ lâu.
(Thơ Thiên Vân).
Tăm: Chỉ dấu vết, tin tức. Hơi: Khí, mùi.
Tăm hơi là dấu hiệu nhờ đó có thể biết về sự có mặt của người nào hoặc cái gì đang tìm kiếm, đang mong đợi.
Như: Anh ấy hẹn đến mà chờ mãi không thấy tăm hơi đâu cả, nó đi bặt tăm hơi.
Tưởng khúc Nghê thường mơ bóng dáng,
Chờ người cung Quảng bặt tăm hơi.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Tăm: Biệt mù, không thấy điểm, đích đến. Tối: Mờ, không sáng.
Tăm tối, như chữ “Tối tăm”, là không có ánh sáng, không ai biết tới, ngu muội.
Thánh giáo Thầy dạy ba Ngài Cư, Tắc, Sang có câu: Ba con đã lãnh mạng lịnh lớn lao vẹt đường tăm tối trong buổi ban sơ, Thầy lại khiến cả ba đứa phải liên hiệp nhau mới có thể xây đắp nền Ðạo cho đến cùng.
Đường tu nối bước cho quen,
Xa trần tăm tối cận đèn Thiêng Liêng.
(Kinh Thế Đạo).
Mấy nơi đài các chỗ riêng chung,
Tăm tối ai ai chẳng trọng mùng.
(Thơ Thuần Đức).
Tắm là giội nước vào người hay ngâm người vào nước mà kỳ cọ cho sạch sẽ, mát mẻ.
Như: Tắm biển, tắm suối nước nóng, ăn no tắm mát.
Thánh giáo Thầy có câu: Trước khi thủ cơ hay là chấp bút, thì phải thay y phục cho sạch sẽ, trang hoàng, tắm gội cho tinh khiết, rồi mới đặng đến trước bửu điện mà hành sự, chớ nên thiếu sót mà thất lễ.
Tắm và lau thì dụng bông gòn,
Trẻ mới đẻ da non đừng động mạnh.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tắm: Giội nước vào người hay ngâm người vào nước mà kỳ cọ cho sạch sẽ, mát mẻ. Rửa: Dùng nước làm cho sạch vết bẩn.
Tắm rửa, nói khái quát là tắm cho sạch. Như: Đừng tắm rửa vào lúc ban đêm, tắm rửa sạch sẽ.
Vợ dầu buồn cũng rán theo chiều,
Con tắm rửa nôi niêu cho sạch sẽ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tắm Thánh là một trong những phép bí tích của Đạo Cao Đài, tức dùng nước Ma Ha thuỷ rưới lên đầu đứa bé để làm phép “Tắm Thánh”.
Muốn được Tắm Thánh, cha mẹ đứa bé phải là một tín đồ của Đạo và phải đem đứa bé ấy vào Thánh Thất để một vị chức sắc hành pháp Tắm Thánh cho đứa bé.
Đứa bé đã được Tắm Thánh rồi, về mặt hữu hình, thì đứa bé được Hội Thánh công nhận là con nhà Đạo, ghi tên vào Bộ sanh và cấp cho một giấy chứng nhận Tắm Thánh, về mặt vô vi, thì đứa bé được hai Đấng phụ mẫu chơn linh nhìn nhận con nhà Đạo Cao Đài, và được các Đấng Thiêng liêng tẩy trược chơn thần để thân thể được an lành và tinh thần sáng suốt.
Đứa con nít được một tháng sắp lên phải đem đến Thánh Thất sở tại mà xin làm lễ “Tắm Thánh” và ghi vào bộ sanh của bổn đạo.
(Tân Luật).
Tằm là một loài ấu trùng của loài bướm, ăn lá dâu, hoặc lá sắn, nuôi để lấy tơ.
Như: Trồng dâu nuôi tằm, trăm dâu đổ đầu tằm, ăn như tằm ăn dâu.
Vuông tròn nghĩa vụ há rằng chơi,
Cái kiếp tằm dâu gắng vẹn mười.
(Thơ Vạn Năng).
Tằm: Một loài ấu trùng ăn lá dâu, nhả ra tơ. Tơ: Sợi trong ruột tằm nhả ra dùng dệt lụa.
Tằm tơ, do chữ “Tàm ty 蠶 絲”, là chỉ việc nuôi tằm và ươm tơ.
Tằm ăn dâu nhả ra tơ, vì vậy, “Tằm tơ” còn dùng để chỉ nghiệp hay nợ phải trả.
Bút mực từ đây duyên thắt chặt,
Đôi lòng tri kỷ, nghiệp tằm tơ.
(Thơ Hàn Sinh).
1.- Tăng 僧 là người đàn ông xuất gia tu theo Phật giáo. Như: Tăng đồ, tăng già, chúng tăng.
Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai có dạy: Ta đến chẳng phải cứu một mình chư tăng mà thôi, vì trong thế hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật phải đoạ hồng trần, Ta đương lo cứu vớt.
Bớt phương giải nạn tinh ma,
Lập nên danh phận cho nhà quỷ tăng.
(Lục Nương Giáng Bút).
Hạc Ðạo đón đưa bay xạo xự,
Nai Tăng tiếp rước chạy lao xao.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Tăng 增 là thêm, thêm lên. Như: Tăng giá hàng, tăng lương, tăng thuế.
Thánh giáo Thầy có câu: Còn bực chơn tu, tỉ như một hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, rồi sanh trái mà biến biến sanh sanh càng tăng số.
Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,
Lời tăng quá vốn kẻ nghèo xiết than.
(Kinh Sám Hối).
Xin Từ Phụ ra ơn cứu độ,
Tăng huyền linh giác ngộ chí thành.
(Kinh Thế Đạo).
僧 眾
Tăng: Do chữ tăng già có nghĩa là nhiều tỳ kheo hoà hợp thành đoàn thể. Chúng: Đông.
Tăng chúng là tiếng kết hợp giữa chữ Phạn là tăng và chữ Hán là chúng, để chỉ các nhà sư tu theo Phật.
Như: Tăng chúng là người thay Phật để dìu dẫn người theo tu học.
Lập chùa chiền Phật Giáo kệ kinh,
Thay tăng chúng khai minh đường đạo hạnh.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
僧 徒
Tăng: Người xuất gia tu hành, nói chung là các Thầy tu. Tăng đối với Đạo Cao Đài chỉ những chức sắc, chức việc hiến thân hành Đạo. Đồ: Chỉ tất cả các tín đồ.
Tăng đồ, cũng như “Tăng chúng 僧 眾”, là từ chỉ chư tăng và chư tín đồ, tức là các hàng chức sắc và tín đồ của một tôn giáo.
Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai, kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát có câu: Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu.
Các con cúi đầu trình Sư Phụ,
Gìn từ tâm khuyến nhủ tăng đồ.
(Kinh Thế Đạo).
Lấy Âm quang tạo phách tăng đồ,
Muôn vật cả lo cho sanh chúng.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Phước Thiện cứu cấp đơn cô,
Phước Thiện lựa những tăng đồ Chí Tôn.
(Thất Nương Giáng Bút).
增 加
Tăng: Thêm lên. Gia: Thêm.
Tăng gia là tăng thêm. Như: Tăng gia sản xuất.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thánh đạo của Ðức Chúa Cứu Thế (vì sự hiểu lầm) làm tăng gia dục vọng của kẻ mạnh đối người yếu và giúp giáo cho bọn trên hiếp dưới.
Tôi tưởng muốn tạo dựng cả tinh thần nòi giống nước nhà cần phải tăng gia năng lực thêm nữa.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
曾 隆 得 壽
Tăng long: Tăng thêm điều thịnh, điều tốt. Đắc thọ: Được sống lâu.
Tăng long đắc thọ là tăng thêm điều tốt lành, thịnh vượng và được sống lâu.
Bố hoá Chư Đệ tử Thánh thể tinh anh, tăng long đắc thọ, phụng thừa mạng lịnh, thể Thiên hành hoá,...
(Sớ Văn).
曾 參
Tăng Sâm, tự là Tử Dư, người nước Lỗ, đời Xuân Thu, học trò giỏi của Đức Khổng Phu Tử, tác giả quyển Đại học.
Tăng Sâm được liệt vào hàng tứ phối, thờ chung với đức Khổng Tử. Tăng Tử là người rất có hiếu, được liệt vào một trong hai mươi bốn người con hiếu (Nhị thập tứ hiếu).
Truyện kể rằng: Ông thờ cha mẹ rất có hiếu, bữa ăn nào cũng có rượu thịt. Khi cha mẹ ăn xong, còn thừa lại món ăn, ông hỏi cha mẹ bảo để cho ai, thì ông vâng theo lời mà cho người ấy. Một hôm ông đi vào rừng đốn củi, ở nhà có khách đến chơi, mẹ không biết làm thế nào cho ông về nhà ngay, bèn cắn ngón tay mình, để cho động lòng con, quả thật, ông ở trong rừng thấy quặn đau trong dạ, ông vội gánh củi về ngay. Sách có bài thơ: Mẫu chỉ tài phương khiết, Nhi tâm thống bất câm. Phụ tân quy vị vãn, Cốt nhục chí tình thâm 母 指 纔 方 喫, 兒 心 痛 不 禁. 負 薪 歸 未 晚, 骨 肉 至 情 深. Dịch nôm: Mong con vừa cắn ngón tay, Trong rừng con bỗng dạ này quặn đau. Vội vàng đội củi về mau, Cho hay cốt nhục tình sâu lạ nhường.
Tăng Sâm nghèo hết lòng thờ mẹ,
Chọn thức ăn bữa sẽ được ngon.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Tăng Sâm hiếu nạp mình cha đánh,
Gậy lỡ tay, khó tránh miệng đời.
(Báo Ân Từ).
增 進
Tăng: Thêm lên. Tiến: Đi tới.
Tăng tiến là càng tiến thêm lên.
Trong bài Diễn văn của Đức Quyền Giáo Tông đọc vào ngày vía Đức Thích Ca Mâu Ni có câu: Trước đây, Tệ Huynh có nói Thầy lập Ðạo kỳ nầy phù hạp với dân trí ngày nay đã tăng tiến khỏi Nguơn Tấn Hoá đến địa vị tối cao, cho nên chủ nghĩa Cựu Luật của các Tôn Giáo hiện thời không đủ sức kềm chế đức tin của toàn nhơn loại.
Theo Bí Pháp Chơn Truyền thì mỗi chuyển của địa cầu là một bước tăng tiến.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
贈 封
Tặng: Cho người, phong chức cho người chết. Phong: Ban phẩm tước cho người có công.
Phong chức cho người chết gọi là tặng, phong chức cho người sống gọi là phong. Như vậy, Tặng phong là ban phẩm tước cho người đã chết và phong chức cho người còn sống có công.
Tặng phong còn có nghĩa là do con cháu làm quan, nên cha ông được phong tước.
Xem: Phong tặng.
Mình Thánh mình Hiền mình biết lấy,
Tặng phong quá tiếng chớ nhờ ai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nên danh khai quốc công thần,
Nêu tên hậu thế xa gần tặng phong.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tắt là làm cho lửa không còn cháy nữa, hoặc ánh sáng không còn sáng nữa.
Như: Bếp lửa đã dập tắt, thổi tắt ngọn đèn dầu, lửa lòng chưa tắt.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Các con có trách nhậm thắp đuốc dẫn đường cho kẻ u ám, nếu lẫy mà tắt đuốc thì còn dẫn ai nữa.
Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,
Gió lay đèn tắt, nguyệt làu làu.
(Giới Tâm Kinh).
Tình ái nhành dương đem rưới tắt,
Nắm tay dìu lại cõi Tiên bang.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tắt: Làm cho lửa không còn cháy nữa. Lửa lòng: Một trạng thái tinh thần, tình cảm sôi sục, mạnh mẽ, chỉ về dục vọng hay uất hận. Người ta thường ví dục vọng hay uất hận như một ngọn lửa cháy trong lòng, khiến trở nên nóng nảy, hay điên cuồng.
Tắt lửa lòng tức là dập tắt ngọn lửa đang nung nấu, thiêu đốt trong lòng người.
Người tu hành trước hết phải dập tắt lửa lòng. Nếu lửa lòng chưa tắt thì khó bước vào đường tu được.
Biển trần ví bẳng dầu ai hỏi,
Một hột linh đơn tắt lửa lòng.
(Thơ Tiếp Đạo).
Con lo dục tắt lửa lòng,
Mượn bầu tịnh thủy ở trong rưới vào.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
1.- Tấc là một phần mười của thước. Như: Mười tấc bằng một thước, tấc đất tấc vàng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Sanh đứng làm người, trót đã mang vào mình một vai tuồng đặc biệt, đã chẳng lo bước hành trình cho xong mà đắp bồi nợ mảnh hình hài, ngọn rau tấc đất, lại chác lắm điều phiền não ưu sầu, lấy Thánh đức gọi là chơi, mượn hành tàng vô nghĩa mà làm cho vừa lòng ái mộ bất lương.
Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,
Đạo quân vương chữ dặn nơi lòng.
(Kinh Thế Đạo).
Quyền là chi? Lợi là chi?
Dứt hơi ba tấc có gì gọi hay.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tấc, nghĩa rộng dùng để chỉ tấm lòng người. Như: Tấc gan, tấc lòng, tấc son, tấc riêng, tấc thành.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy đã lấy từ bi mà dìu dắt từ bước đường, hôm nay các con đặng lấy chí thành của Thầy đã un đúc mà dìu dắt lại sanh linh, lớn nhỏ phải cần tương thân tương ái nhau, kỉnh yêu chỉ dẫn nhau, đem tấc lòng thanh bạch để làm mảnh gương soi sáng bước đường hậu tấn.
Phong trần thương kẻ mang thân đọa,
Bồng đảo vì ai giữ tấc thành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Người đâu biết đặng tấc lòng mình,
Hoạ hỏi đến Trời mới biết linh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tấc: Một phần nhỏ. Bóng: Ánh sáng soi xuống.
Tấc bóng là chỉ bóng cây trên mặt đất, do ánh sáng mặt trời chiếu xuống, dùng để nói thời gian, ngày giờ.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ôi! Tấc bóng quang âm nhặt thúc, mà xem lại tâm hạnh của mỗi con của Thầy thì nét Ðạo vẫn kém hơn, đức chưa thêm được, tâm chí mòn mỏi lối đường ngay mà nấu nung về nẻo vạy, e cho nền tảng thiêng liêng đồ sộ phải nghiêng ngửa. Rồi đây, các con cũng chưa chắc hết tranh cạnh giành xé nhau mà làm cho nền Ðạo phải chia tan tành.
Gang tay đo khó bằng gang miệng,
Tấc bóng soi khôn thẹn tấc lòng.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Tấc: Một phần nhỏ, chỉ tấm lòng. Dạ: Bụng, tượng trưng cho tâm lý. Tình cảm.
Tấc dạ, như chữ “Tấc lòng”, là tấm lòng hay lòng dạ.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung có câu: Mấy em mong cho hàng phụ nữ để trọn tấc dạ thương nhau thì dầu cho mấy từng Trời nhặt nhiệm thế nào cũng đi tới.
Ðừng khuây những tiếng thiện lời thành,
Tấc dạ con gìn một chữ trinh.
(Đạo Sử).
Tấc đất: Một tấc đất, chỉ mảnh đất nhỏ hẹp. Ngọn rau: Một cọng rau.
Trong chế độ vương quyền ngày xưa, đất đai thuộc về nhà vua, vua mới ban cấp lại cho dân để có điều kiện sinh sống. Do vậy, dù một ngọn rau hay một tấc đất cũng là thọ ơn của nhà vua.
Ngọn rau tấc đất chỉ ơn nghĩa của nhà vua hay của đất nước.
Xem: Ơn tấc đất ngọn rau.
Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,
Đạo quân vương chữ dặn nơi lòng.
(Kinh Thế Đạo).
Tấc đất ngọn rau ơn đã trót,
Chén cơm manh áo nợ còn neo.
(Thơ Thành Đức).
Móm cơm vú sữa ơn khôn tả,
Tấc đất ngọn rau nghĩa khó quên.
(Thơ Huệ Phong).
Tấc: Một phần nhỏ. Hơi: Hơi thở.
Tấc hơi tức là hơi thở, chỉ sự sống.
Do câu: Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhất đán vô thường vạn sự hưu 三 寸 氣 在 千 般 用, 一 旦 無 常 萬 事 休, nghĩa là “ba tấc hơi” còn thì mình còn dùng làm ngàn việc, một sớm không thường thì muôn việc phải thôi nghỉ, ý nói còn sống thì lo ngàn thứ, chết rồi thì muôn việc buông bỏ.
Như: Còn tấc hơi cuối cũng phải gìn giữ đạo đức.
Nỗi lo gia đạo, nỗi lo đời,
Một phút qua mòn một tấc hơi.
(Thơ Thuần Đức).
Tấc: Một phần nhỏ, chỉ tấm lòng. Lòng: Lòng dạ.
Tấc lòng, bởi chữ “Thốn tâm 寸 心” dùng để chỉ tấm lòng, hay lòng dạ, dùng với ý khiêm nhường.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Lão chưa hề thấy ai để trọn tấc lòng mà làm nên danh thể cho Ðạo, mà kẻ phá Ðạo hư rất nhiều. Hiền hữu ráng mà trừ tà diệt mị cùng Lão, kẻo ngày sau tránh không qua lời tiên tri của Lão đa nghe.
Đồng nghĩa với “Tấc dạ”.
Tấc lòng đòi đoạn đau thương,
Chơn mây vái với hương hồn hiển linh.
(Kinh Thế Đạo).
Trợ nguy tế hiểm con ra sức,
Ðạo đức chung lo trọn tấc lòng.
(Đạo Sử).
Tấc: Một phần nhỏ, chỉ tấm lòng. Son: Màu đỏ.
Tấc son, lấy nghĩa từ “Đan tâm 丹 心”, là tấc lòng son để chỉ tấm lòng như màu son, không bao giờ phai lợt, ý chỉ tấm lòng gắn bó sắt son, không bao giờ thay đổi.
Xem: Lòng son.
Mấy mươi năm phơi trải tấc son,
Trọn một kiếp bảo tồn phong hoá.
(Thơ Đức Hộ Pháp).
Tấc son phong chặt niềm giao hảo,
Góp nhặt lời quê tạ mấy vần.
(Thơ Thuần Đức).
Tấc: Một phần nhỏ, chỉ tấm lòng. Thành: Thành thật.
Tấc thành là tức tấc lòng thành thật, hay lòng chân thành. Như: Nguyền giữ tấc thành đến phút cuối.
Trong Thánh Ngôn, Đức Chí Tôn có dạy: Từ nền Ðạo khai sáng đặng gieo truyền mối Chánh giáo đến nay, thì phần nhiều môn đệ đã có trọn tấc thành mà dìu dắt sanh linh và đắp vun mối Ðạo Trời, ấy là những đứa Thầy đã tin cậy đặng gia công dọn lối chông gai để mở trống nẻo thiêng liêng, dẫn lần dân sanh khỏi sông mê bến khổ, tất là cõi trần vô vị nầy.
Giữa đền để một tấc thành,
Đồng sanh, đồng tịch đã đành nương nhau.
(Kinh Thế Đạo).
Phong trần thương kẻ mang thân đọa,
Bồng đảo vì ai giữ tấc thành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vì Đạo trọn dâng một tấc thành,
Đặng lo phục vụ cả nhơn sanh.
(Thơ Hộ Pháp).
1.- Tây là một tiếng Nôm có nghĩa riêng, tư.
Như: hai người ngồi nói chuyện riêng tây, anh ta ngồi thố lộ nỗi niềm tây.
Đợi bạn thuyền từ chưa tách bến,
Nhớ nhau xin cạn chút niềm tây.
(Thơ Huệ Giác).
2.- Tây 西 là một trong bốn phương chính, ở về phía mặt trời lặn, như phía Tây, Tây phương, Tây vức.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thời thế đã đổi dời, hoạ Thiên điều hầu kế cận. Từ Nam chí Bắc, khắp Ðông qua Tây, thỉnh thoảng trường náo nhiệt khởi động, diệt tàn kẻ vô đạo.
Lần lựa chỉ sầu tay gỡ rối,
Trời tây bóng nhựt đã hầu chinh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chỉ vì lan tất không duyên hợp,
Mảng đứng bờ đông vọng bến tây.
(Thơ Thuần Đức).
3.- Tây 西 chỉ phần đất của thế giới, nằm về phía Tây Châu Á, như văn minh phương Tây, hoặc chỉ riêng dân tộc Pháp, một trong quốc gia ở phương Tây.
Như: Dân Tây, người Tây, du học bên Tây.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Con giở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Ðẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Ðẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Ðẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu chăng?
Nhựt Đức lại với Tàu Tây,
Gây trường huyết chiến tại đây bây giờ.
(Thất Nương Giáng Bút).
Người Tàu lại có lộn người Tây,
Một việc xuôi mưu đến bốn thầy.
(Thiên Thai Kiến Diện).
西 歐
Tây: Một trong bốn phương chính, ở về phía mặt trời lặn, đối diện với phương đông. Âu: Tên một châu trong Ngũ đại châu (năm châu).
Tây Âu là chỉ những quốc gia nằm về phía Tây của Châu Âu.
Như: Người Tây Âu thích sang du lịch ở Việt Nam.
Mùi hương sen Phật đã bay,
Từ bên Đông Á phô bày Tây Âu.
(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).
西 歐 開 民 氣
Tây Âu: Chỉ những quốc gia nằm về phía Tây của Châu Âu. Khai dân khí: Dân khí 民 氣, là tinh thần của nhân dân. Khai dân khí là mở một tinh thần cho dân, tức sự truyền bá Gia Tô giáo.
Tây Âu khai dân khí là trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ ở những nước thuộc Tây Âu, Đức Chí Tôn khai mở ra một tinh thần triết lý cho người dân, đó là sự khai sáng của nền Gia Tô Giáo.
Tây Âu thuở nọ khai dân khí,
Nam Việt ngày nay ký Diệu Đài.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
西 霸 侯
Tây: Phía tây. Bá Hầu: Một nước làm Bá trong các chư Hầu thời nhà Thương.
Tây Bá Hầu, hay “Tây Bá 西 霸”, một vị vua chư hầu đặt thủ phủ ở Tây Kỳ, có tên là Cơ Xương, sau chính là vua Văn Vương nhà Châu.
Trụ Vương là vị vua hôn ám, nghe lời gièm pha của bọn nịnh thần là Vưu Hồn và Bí Trọng, xuống chiếu đòi Tây Bá Hầu Cơ Xương về triều kiến, rồi bắt tội Cơ Xương bói quẻ Tiên Thiên nhạo báng làm nhục nhà vua bèn truyền đem chém. Các vị đại thần trong triều tâu xin, vua chịu tha nhưng buộc Cơ Xương bói thử một quẻ sắp xảy ra nơi triều đình.
Tây Bá vâng lịnh xủ quẻ cho biết giờ ngọ ngày mai lửa cháy nhà Thái Miếu. Quả nhiên đến giờ ngọ ngày mai, mặc dầu Thái Miếu cấm thắp nhang đèn và được canh phòng nghiêm nhặt, nhưng đúng ngọ bỗng có tiếng sấm nổ thinh không, ngọn lửa phát ra cháy tiêu nhà Thái Miếu.
Trụ Vương nghe lời tên gian thần là Bí Trọng không để cho Cơ Xương về nước, mà bắt giam ở thành Dũ Lý hết bảy năm.
Bên trong hành lang Báo Ân Từ về phía nam phái, có khuôn hình lấy tích “Châu Văn Vương ngồi ngục”.
Xem: Văn Vương.
1.- Tây Bá Hầu:
Tây Bá Hầu về triều bái yết,
Trụ Vương mời định giết, thử tài.
Đoán Thái Miếu cháy trưa ngày,
Tuy đúng nhưng nạn chịu đày bảy năm.
(Báo Ân Từ).
2.- Tây Bá:
Nóng quá Trương Phi, Tào lại khiếp,
Hiền như Tây Bá, Trụ còn giam.
(Thơ Thái Phong).
Tây Bích, Đông Lao là tên hai nhân vật ngày xưa ở cùng một xóm. Tây Bích là một người giàu có, bạc vàng dư giả, nên ông cho đúc một cặp rùa vàng để bày nơi phòng khách. Còn Đông Lao là người nghèo khó, nhưng nổi tiếng trong làng người thuần hậu, chơn thật.
Một hôm nhà Tây Bích có giỗ, Đông Lao, dân làng và các hương chức được mời đến dự. Sau buổi tiệc linh đình, mọi người về hết, Tây Bích mới phát hiện mất cặp rùa vàng. Tây Bích nghĩ rằng người nghèo thiếu thốn, thường hay có lòng tham, nên nghi Đông Lao trộm rùa vàng. Do vậy hôm sau, Tây Bích mời Đông Lao đến nhà nói rằng: Tôi tưởng cặp rùa vàng của tôi bị trộm mất, ai dè anh mượn về nhà xem, thôi thì để đó, khi nào xem xong trả lại tôi. Đông Lao giật mình, biết chắc Tây Bích nghi mình trộm rùa vàng nên nói như vậy. Ngồi làm thinh suy nghĩ giây lát, Đông Lao bèn nói: Cảm ơn anh cho tôi mượn xem bao lâu cũng được, sau tôi sẽ giao hoàn lại anh.
Trong khi hai người nói chuyện với nhau, con của Tây Bích rình nghe được, lấy cặp rùa vàng chạy đến hai người nói: Thưa cha, con lấy cặp rùa vàng đem giấu, Bác Đông Lao đâu có lấy. Bởi vì con thấy bác Đông Lao thương và hay giúp đỡ người, mà lại có lòng tự trọng, nên mẹ và con định lấy cặp rùa vàng tặng cho bác Đông Lao.
Tây Bích nghe con nói thì sửng sốt, ngồi suy nghĩ một hồi, rồi chẩm rãi nói với Đông Lao: Gương chơn thật và vị tha của anh làm cho vợ con tôi kính phục anh và điều đó giúp cho tôi giác ngộ nhơn nghĩa đáng quý hơn tiền bạc, do vậy, từ nay tôi nguyện xuất gia tu hành. Gia tài tôi chia làm hai, một nửa tôi giao cho vợ con tôi để có phương tiện xin sống, còn lại một nửa tôi giao cho anh sử dùng để làm việc nhơn nghĩa.
Sau khi làm giấy nhượng gia tài xong, Tây Bích từ giã vợ con và mọi người để xuất gia. Đông Lao đến tặng cho Tây Bích mười đòn bánh, trong đó mỗi đòn có một thoi vàng. Tây Bích nhận bánh rồi ra đi, dọc đường ghé nhà mười người tá điền, tặng mỗi nhà một đòn bánh. Nhưng cả mười người tá điền chẳng ai nhận hết, bèn đem lại giao hoàn cho Đông Lao.
Tây Bích quyết chí đi tu, nên sau thành chánh quả. Còn Đông Lao hằng ngày lo việc nhơn nghĩa, sau tu hành cũng đắc Đạo.
Trên hành lang Báo Ân Từ về phía nam phái có khuôn hình vẽ lấy tích “Tây Bích Đông Lao”.
Tây Bích giàu, Đông Lao nghèo khổ,
Mời kỵ cơm sanh chỗ nghi nan.
Buộc Lao mượn trộm rùa vàng,
Con trai của Bích minh oan tỉnh thần.
(Báo Ân Từ).
西 度
Tây: Phía Tây. Độ: Cứu giúp.
Tây độ là đi độ rỗi phía Tây, tức cứu giúp dân chúng ở các nước phía Tây.
Đây nói về Đức Lão Tử khi từ biệt ải Hàm Cốc, cởi trâu qua các vùng sa mạc phía Tây. Đến miền Tây vực, Ngài đem đạo Vô vi tế độ cho chúng sanh nơi ấy để dìu dẫn chúng sanh vào con đường đạo đức.
Theo hai Ngài Đầu Sư, trong giai đoạn phổ độ nơi vùng lưu sa này, Lão Tử đã độ được vị Huyền Nguyên đắc thành Tiên vị.
Lưu sa Tây độ,
Pháp hoá tướng tông.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Tây: Phía Tây. Phang (phương): Hướng, phía.
Tây phang, như chữ “Tây phương 西 方”, là thuộc về hướng tây, dùng để chỉ một trong bốn hướng, đối diện với hướng đông.
Tây phang còn dùng để chỉ cõi Tây phương Cực Lạc, hay Cực Lạc Quốc của Đức Phật A Di Đà.
Xem: Tây phương.
Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị,
Cõi Tây Phang đuổi quỷ trừ ma.
(Kinh Tận Độ).
西 方
Tây: Phía Tây. Phương: Hướng, phía.
1.- Tây phương là hướng tây, dùng để chỉ một trong bốn hướng, đối diện với hướng đông.
Như: Mỗi ngày, mặt trời mọc ở phương đông, và lặn ở tây phương.
Khuê tinh chiếu diệu tại Tây phương,
Phải biết ăn năn Ðạo liệu lường.
(Đạo Sử).
2.- Tây phương còn dùng để chỉ cõi Tây phương Cực Lạc, hay Cực Lạc Quốc của Đức Phật A Di Đà.
Như: Người tu ai cũng mong cầu về cõi Tây phương.
Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương.
(Kinh Thế Đạo).
Tây phương Phật Tổ Di Đà,
Nam Hải Phổ Đà cứu khổ Quan Âm.
(Giới Tâm Kinh).
Tây phương: Chỉ cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Cõi Phật: Như chữ Phật quốc, là nước Phật.
Tây phương cõi Phật tức là cõi Phật ở Tây phương, gọi là Cực Lạc Thế Giới, một cõi do Đức Phật A Di Đà chưởng quản. Cõi này ở về phía tây đối với Ta Bà Thế Giới, nên còn được gọi là “Tây phương Cực Lạc 西 方 極 樂”, hay “Cực Lạc Quốc 極 樂 國”.
Xem: Tây phương Cực Lạc.
Tây phương cõi Phật chói loà,
Từ bi Phật Tổ hải hà độ dân.
(Xưng Tụng Công Đức).
西 方 極 樂
Tây phương: Hướng Tây. Cực Lạc: Nghĩa đen rất vui, rất sung sướng.
Tây Phương Cực Lạc là một cõi của Đức A Di Đà Phật, ở về phương tây, nơi đó không có những điều khổ, chỉ toàn những điều vui sướng mà thôi.
Trong A Di Đà Kinh, Phật có thuyết: “Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc? Kỳ quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc 彼 度 何 故 名 為 極 樂? 其 國 眾 生 無 有 眾 苦, 但 受 諸 樂, 故 名 極 樂”, nghĩa là cõi ấy vì sao tên là Cực Lạc? Chúng sanh trong cõi ấy không có các sự khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên gọi là Cực Lạc.
Vì Tam Kỳ Phổ Ðộ, Thiên Ðịa hoằng khai, nơi Tây Phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
西 方 教 主
Tây phương: Hướng Tây, hay vùng đất ở phía Tây, cõi ở hướng Tây. Giáo Chủ: Vị sáng lập ra một tôn giáo và cầm quyền tôn giáo đó.
Như vậy Tây phương Giáo chủ tùy theo Thánh danh Đấng đi kèm mà chỉ vị Giáo chủ của tôn giáo đó.
- Nếu Tây phương là chỉ các nước ở về phía Tây, như Ấn Độ, Tây Tạng đối với Phật giáo Việt Nam, Trung Quốc... thì “Tây Phương Giáo Chủ” dùng để chỉ Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật.
Trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo bài “Kệ Chuông U Minh”, lời nguyện thứ 21 có câu như sau: “Nam Mô Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn 南 無 西 方 教 主 釋 伽 牟 尼 世 尊”.
- Nếu Tây Phương là chỉ những nước nằm về phía Tây Châu Á, thì Tây Phương Giáo Chủ còn dùng để chỉ Đức Jésus Christ.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp, Ngài dùng từ “Tây Phương Giáo Chủ” để chỉ Đức Jésus Christ như sau: Trước buổi Ðức Thích Ca gần quy liễu, Ananda và A Nan Ca Diếp đến bên Ngài khóc lóc hỏi Ngài rằng: Thầy quy vị rồi ai dạy chúng con, Ðức Thích Ca nói: Có một Ðấng đến sau ta, oai quyền hơn ta nữa. Ðức Phật Thích Ca đã nói một vị Tây Phương Giáo Chủ Jésus Christ đó vậy.
Riêng bài viết nầy, Đức Thích Ca Mâu Ni sau khi tu thành Phật, sáng lập và làm Giáo Chủ Phật giáo ở Phương tây thuộc nước Ấn Độ, nên bên Phật giáo gọi Ngài là Tây Phương Giáo Chủ.
Thích Ca Mâu Ni
Thích Ca (Sãkya) là tên một dòng họ quý tộc cai trị một trong 16 vương quốc của Ấn Độ thời bấy giờ.
Mâu Ni (Muni) dịch là Ẩn sĩ. Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là bậc trí giả trầm lặng của dòng Thích Ca. Người Trung Hoa dịch là Năng nhân (người hay phát khởi lòng nhân), Tịch mặc (tâm luôn luôn an tịnh, không bị phiền não làm xao động, dứt bặt mọi đau khổ).
Thích Ca Mâu Ni là một vị thái tử ở Ấn Độ, phụ hoàng tên là Tịnh Phạn, mẫu hoàng tên là Ma Da. Ngài tên là Tất Đạt Đa (Siddhartha), giòng họ Cồ đàm (Gautama), được sinh ra vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, năm 623 trước Chúa Giáng Sinh, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), ở Thủ đô Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) của một nước nhỏ ở miền bắc Ấn Độ, gần biên giới Népal ngày nay.
Sau khi hạ sanh được 7 ngày, Hoàng Hậu Ma Da từ trần, em Bà Maha Pạjapati cũng kết duyên với vua Tịnh Phạn, thay thế người chị ruột, nuôi dưỡng Thái Tử Tất Đạt Đa cho đến khôn lớn.
Ngài vốn là người thông minh, sáng suốt và có tài năng phi thường. Đến 16 tuổi, theo phong tục thời bấy giờ, Thái Tử kết duyên cùng công chúa Da Du Đà La (Yasodhara), một người em cô cậu cùng tuổi với Ngài.
Thái Tử được sinh ra và lớn lên trong đời sống vương giả, nên không hay biết đến những nỗi thống khổ của dân chúng bên ngoài cung điện. Có một lần Ngài xuất cung cùng với quan hầu cận đi du ngoạn bên ngoài Hoàng thành, chứng kiến được những nỗi vất vả khổ cực của kiếp sống con người, những sự tranh giành giết hại lẫn nhau vì sự sống của chúng sanh, hoặc chứng kiến được các cảnh khổ não của sanh, già, bệnh, chết.
Ngài quyết chí tu hành, tìm đường giải thoát cho chính bản thân mình (tự độ), và cho hầu hết chúng sanh (tha độ) được lên bờ giác ngộ.
Ngài thành Đạo dưới gốc cây bồ đề trải qua 49 ngày đêm thiền định, Ngài đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lúc đó Ngài được 35 tuổi, lấy hiệu là “Thích Ca Mâu Ni”.
Trong đạo Cao Đài, Đàn cơ ngày 26 tháng 2 năm Bính Dần (Dl. 8/4/1926), Đức Thích Ca Mâu Ni giáng cơ ban cho bài Thánh giáo bằng chữ Nho được trích từ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau:
Chuyển Phật Ðạo,
Chuyển Phật Pháp,
Chuyển Phật Tăng,
Quy nguyên Ðại Ðạo,
Tri hồ chư chúng sanh?
Khánh hỷ! Khánh hỷ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Ðộ, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đại hỷ phát đại tiếu!
Ngã vô lự Tam đồ chi khổ. Khả tùng giáo Ngọc Ðế viết Cao Ðài Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nghĩa là:
Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn chuyển Phật Ðạo, chuyển Phật Pháp, chuyển Phật Tăng, quy nguyên nền Ðại Ðạo.
Chư chúng sanh biết chăng?
Vui mừng thay! Vui mừng thay! Gặp được Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật quá vui mừng, nên phát ra tiếng cười lớn.
Ta không còn lo lắng về ba đường luân hồi khổ sở của chư chúng sanh. Khá tùng theo lời dạy bảo của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, gọi là Đấng Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Thế Tôn
Thế Tôn là tiếng dùng để xưng tụng những bậc có các Đức tánh tốt đẹp được vạn linh tôn thờ và kính ngưỡng.
Theo Phật giáo, Đức Thích Ca Mẫu Ni là vị Phật Thế Tôn, vì Ngài đầy đủ các đức tính tròn lành để được vạn linh tôn sùng và kính bái.
Tam Tông Chơn Giáo, Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.
(Sớ Văn).
Tây Phương: Hướng tây của nước Việt Nam. Phật Tổ: Tổ sư của Phật Giáo.
Đức Thích Ca Mâu Ni sau khi tu thành Phật, Ngài sáng lập ra Phật giáo và được tôn là vị Tổ Sư của Phật giáo, nên người sau gọi Ngài là Phật Tổ, hay Tây Phương Phật Tổ.
Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,
A Di Đà Phật độ chúng dân.
(Kinh Tận Độ).
西 山 道
Tây Sơn Đạo là bút hiệu đầu tiên của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
Sau nầy, khi soạn ra tác phẩm “Phương Tu Đại Đạo” Ngài mới lấy bút hiệu là “Ái Dân”.
Ngài sáng tác thập thủ liên hoàn có tựa là “Tây Sơn Giải Tục” ký bút hiệu là Tây Sơn Đạo.
Nghe “Tây Sơn Đạo” nương Tần Quốc,
Nên đến thăm nhau thử một lần.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
西 子
Tây Tử tức nàng Tây Thi, là một người con gái có nhan sắc đẹp tuyệt trần ở Trữ La thôn.
Sau Tây Tử được tiến cung dâng cho vua Ngô, nàng được Ngô Phù Sai sũng ái rồi bỏ phế việc triều đình, khiến cho Việt Vương Câu Tiễn đánh đại bại.
Xem: Tây Thi.
Nhái duyên Tây Tử cười môi méo,
Đoạt điệu Đường Phi bước trẹo giò.
(Bát Nương Giáng Bút).
Thành xưa tuy chẳng so Tây tử,
Nghiệp cũ ghe phen sánh ả đào.
(Bát Nương Giáng Bút).
西 施
Tây Thi, là một người con gái ở Trữ La thôn, có nhan sắc đẹp tuyệt trần.
Đời Xuân Thu, Việt Vương Câu Tiễn đánh thua vua Ngô Phù Sai, mới dùng mỹ nhân kế, nhờ Phạm Lãi đi kiếm gái đẹp dâng cho vua Ngô, trong ấy tuyển được nàng Tây Thi làm cho vua Ngô say mê mà bỏ phế việc triều chính, nhờ vậy Việt Vương Câu Tiễn mới đánh bại được Ngô Phù Sai mà báo thù.
Tương truyền Tây Thi có chứng đau bụng, mà mỗi lần đau thì nhăn mặt, mà nhăn mặt lại càng đẹp thêm. Vì thế, nhiều người bắt chước nàng làm duyên cho đẹp.
Sau khi diệt được vua Ngô, Phạm Lãi mới mang nàng Tây Thi đi chơi Ngũ hồ, rồi mất tích. Có sách cho rằng Tây Thi bị vứt xuống sông chết chìm, còn Phạm Lãi đi khắp ngũ hồ.
Bởi Cung Quảng bóng Hằng nhấp nhoá,
Bởi đền Ngô nghe gã Tây Thi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tưởng sắc đẹp Tây Thi là quý,
Chẳng học đòi mưu trí Lệ Quân.
(Phương Tu Đại Đạo).
西 竺
Tây: Hướng tây. Trúc: Do chữ Thiên Trúc là tên gọi nước Ấn Độ ngày xưa.
Tây trúc là chỉ nước Ấn Độ nằm về hướng Tây Việt Nam, chỉ quê hương của Đức Phật Tổ.
Tỉnh Tây Ninh nào thua Tây Trúc,
Ngôi Tổ Đình cao vút mấy trùng.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Hay “Tây Vực”.
Tây: Hướng Tây. Vức (Vực): Vùng đất.
Tây Vức, như chữ “Tây Vực 西 域”, là cõi Tây phương, nơi Phật ngự. Đồng nghĩa với các chữ Tây thiên, Tây trúc, chỉ Tây phương Cực Lạc.
Riêng trong Tôn giáo Cao Đài, Tây Vức được mượn để chỉ vùng Toà Thánh Tây Ninh như lời của Đức Lý Giáo Tông đã dạy: Toà Thánh là cội nguồn, ngày nào được sừng sựng đứng vững nêu trên miền Tây vức nầy, ấy là ngày họ cầu thỉnh các đạo hữu đó.
Nẻo đường Tây Vức khó đưa chơn,
Phật trước Tiên xưa luống ngậm hờn.
(Đạo Sử).
Cảnh u nhàn rước kẻ hiền lương,
Đò cứu khổ buồm trương miền Tây Vức.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Màu sen Tây Vức ngắm thêm tươi,
Hỏi khách Hỗn Nguơn đặng mấy người.
(Thơ Tiếp Đạo).
西 王 母
Tây: Hướng Tây. Vương Mẫu: Tiếng tôn xưng Đức Mẹ của chúng sanh.
Tây Vương Mẫu tức là Phật Mẫu, còn gọi là Diêu Trì Kim Mẫu hay Kim Bàn Phật Mẫu.
Theo Hán Cổ sử, Vua Hán Võ Đế được vị Tiên là Đông Phương Sóc tiến dẫn gặp Bà Tây Vương Mẫu ban cho bốn quả đào Tiên tại sân Hoa Điện.
Đối với Cao Đài, Tây Vương Mẫu chính là Đức Diêu Trì Kim Mẫu cai quản Diêu Trì Cung, ở tầng Trời Tạo Hoá Thiên.
Xem: Phật Mẫu.
Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,
Chén trường sanh có lịnh ngự ban.
(Kinh Tận Độ).
洗
Tẩy là rửa, làm cho tinh sạch, làm cho hết mùi khét, mùi hôi thúi.
Như: Tẩy uế, tẩy nhơ. tẩy trần, tẩy vết mực, tẩy mùi hôi thúi, tấy oan khiên.
Tiêu diêu phai lợt mùi trần,
Tỉnh say với giọt nước ngần tẩy mê.
(Tam Nương Giáng Bút).
Cải ác tùng lương tẩy nghiệp trần,
Hồi đầu trước hết phép tu thân.
(Thơ Huệ Phong).
Tẩy: Rửa, làm cho sạch, làm cho hết mùi hôi thúi. Nhơ: Bẩn, hay chỉ xấu xa về phẩm chất.
Tẩy nhơ là làm cho sạch mọi dơ bẩn, hay rửa sạch những nhơ bợn của oan trái.
Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,
Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.
(Kinh Thế Đạo).
Hay “Tẩy trọc”.
Tẩy: Rửa cho sạch. Trược (trọc): Đục, dơ bẩn.
Tẩy trược, như chữ “Tẩy trọc 洗 濁”, là rửa sạch các thứ ô uế, dơ bẩn tanh hôi.
Còn như nhờ lửa mà nấu thì là phương pháp tẩy trược đó thôi, chớ sanh vật bị nấu chưa hề phải chết.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
心
1.- Tâm là trái tim, bộ phận tuần hoàn huyết trong cơ thể con người.
Nhu: Tâm can, tỳ phế thận, tâm huyết.
Kể ra hại chất bằng non,
Đốt tiêu phế phủ, xoi mòn tâm can.
(Thơ Bảo Pháp).
2.- Tâm là lòng, biểu tượng cho tâm lý, tình cảm con người. Như: Tâm niệm, tâm huyết, tâm lý, quan tâm.
Thánh giáo Thầy giáng cơ bằng Pháp văn được Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Lời hứa của Thầy với Tổ tiên các con về việc xin chuộc tội cho các con và ngày Giáng sinh của Chúa Cứu Thế là việc đã có sấm tiên tri rồi mà các con không chịu quan tâm đến.
Thiếp nay cũng giống như nàng,
Thân Hồ tâm Hớn đôi đàng khó nguyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Cam tâm nín nẩm gia đàng,
Vì con chưa giữ vững vàng quy mô.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Tâm là phần ở giữa. Như: Trung tâm, tâm điểm.
Dạy về quả Càn Khôn, Thánh giáo Thầy có câu: Một trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm 3 thước 3 tấc (3m30), nghe con, lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo hoá trong ấy, sơn màu xanh da trời, cung Bắc Ðẩu và Tinh tú vẽ lên Càn Khôn ấy.
Giữa thế kỷ 20 nầy, tâm lý nhơn sanh thất đạo, đem một cái hoà bình nêu cao lên làm trung tâm điểm cho tinh thần đạo đức nơi cõi Á Ðông...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
4.- Tâm chỉ cái lương tâm con người, tức cái chơn linh hay linh hồn. Như: Tâm tánh, tâm truyền, tâm pháp.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thánh tâm dầu phải chịu khổn trần đi nữa thì chất nó cũng vẫn còn. Các con khác hơn kẻ phàm là duy tại bấy nhiêu đó mà thôi.
Lợt điểm Thánh tâm trần tục khảo,
Vẻ tươi bợn thế nét dò đon.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Trau tâm hiệp sức vun nền Thánh,
Dưỡng tánh chờ khi sạch bợn trần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tâm ấy: Chỉ cái tâm. Toà sen: Nơi ngự của Phật.
Tâm ấy toà sen có nghĩa là tâm là nơi ngự của các Đấng Thiêng Liêng, hay nói cách khác tâm tức Phật.
Phật giáo có câu: Phật tại Tây phương tâm bất viễn 佛 在 西 方 心 不 遠, nghĩa là Phật ở cõi Tây phương nhưng lòng không xa, ý muốn nói tâm là Phật, hay Phật tức tâm.
Chúng sanh vì điên đảo, vọng động chấp Phật ở bên ngoài mà lìa bỏ cái tâm Phật vốn có sẵn của mình.
Như vậy, tìm Phật ở trong chính tự tâm, tự tánh của chúng ta không đâu khác, ngoài tâm không có Phật.
Câu chuyện sau đây nói lên điều đó.
Nguyên trong một ngôi chùa nọ có vị Hoà thượng rất siêng năng và rất thành tâm cúng Phật. Mội hôm có vị thiền sư tên là Đan Hà đến xin tạm trú tại ngôi chùa đó, thấy hoà thượng chỉ biết có cúng lạy, chứ không lo trau giồi tự tánh, nên nhân lúc mùa đông, thời tiết đang lạnh, thiền sư bèn đem bức tượng Phật gỗ mà hoà thượng thường hay lạy ra chẻ làm củi để sưởi ấm.
Hoà thượng thấy vậy, lớn tiếng trách rằng: Thiền sư, sao ngài dám đốt tượng Phật, huỷ hoại Tam bảo, tội sẽ sa địa ngục.
Thiền sư Đan Hà nói: Bần tăng nào dám hủy hoại Tam bảo, chẳng qua chỉ đốt để lấy xá lợi tử mà thôi.
Hoà thượng bèn nói: Tượng gỗ làm sao có xá lợi tử được?
Thiền sư Đan Hà đáp: Đã không có xá lợi tử thì hoà thượng tối ngày lạy tượng gỗ đó có ích gì, chi bằng để Bần tăng đốt đi lấy lửa sưởi ấm còn hơn.
Hoà thượng nghe xong, hoát nhiên đại ngộ.
Bình luận:
Hoà thượng lạy Phật rất kiền thành, nhưng chỉ biết có Phật ngoài mà không rõ Phật tự tánh (tức Phật tại tâm). Thiền sư Đan Hà đốt tượng Phật với mục đích phá sự chấp tướng của Hoà thượng mà thôi.
Cũng một hành động như vậy, nhưng đối với một người chưa ngộ đạo, cố ý đốt tượng Phật sẽ phạm vào hủy hoại tam bảo.
Bần sang trối mặc tâm là quý,
Tâm ấy toà sen của Lão ngồi.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
心 隱 愛
Tâm: Lòng. Ẩn ái: Lòng trắc ẩn và yêu thương.
Tâm ẩn ái là tấm lòng trắc ẩn và thương yêu tất cả mọi người.
Mạnh Tử cho rằng: Khi trông thấy một đứa bé sắp rơi xuống giếng, mỗi người đều có lòng run sợ, đó gọi là “Trắc ẩn chi tâm 惻 隱 之 心”.
Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,
Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Tâm bệnh”.
Tâm: Lòng, biểu hiện ý chí tình cảm con người. Bịnh (bệnh): Cơ thể hoặc các bộ phận cơ thể hoạt động không bình thường.
Tâm bịnh, như chữ “Tâm bệnh 心 病”, là trạng thái tinh thần không bình thường do có điều buồn bực hoặc lo nghĩ nhiều.
Như: Sau cơn sốc nặng tâm bịnh anh ấy đã khởi phát.
Thuốc nào cũng thấy trấm trơ,
Vì là tâm bịnh bao giờ trị xong.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
心 肝
Tâm: Trái tim, lòng. Can: Lá gan, bạo dạn.
Tâm can có hai nghĩa:
1.- Tâm can là trái tim và buồng gan, chỉ sự khổ não, đau đớn trong lòng.
Thấy ai thảm lòng vàng xót xáy,
Nghe kẻ sầu như cháy tâm can.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Của phí nhà dư khoe phú hậu,
Gạo lưng kẻ khó nát tâm can.
(Thơ Thượng Sanh).
2.- Tâm can dùng để chỉ tình ý chân thật trong con người, hay những điều chất chứa trong lòng mà không ai rõ thấu, tức tình cảm sâu kín tận đáy lòng của con người.
Nét ngài mày ngọc càng tươi,
Thương anh thỏ thẻ những lời tâm can...
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Tâm: Lương tâm. Cơ: Máy móc.
Tâm cơ, như chữ “Cơ tâm”, là tâm biến trá khéo léo, giống như máy móc.
Người xưa nhận thấy sự phát động của tâm như máy móc nên gọi là cơ tâm 機 心, tức tâm con người ẩn bên trong những mưu mô xảo quyệt để đối xử nhau, giết hại lẫn nhau, không chút thương yêu, không lòng đạo đức. Đấy là bản tâm con người trong thời hạ nguơn mạt Pháp, trong thời xu hướng theo văn minh vật chất, mà quên đi luân thường đạo đức.
Trang Tử có câu: “Hữu cơ giới giả, tất hữu cơ sự, hữu cơ sự giả tất hữu cơ tâm 有 機 械 者, 必 有 機 事, 有 機 事 者, 必 有 機 心”: Có cơ giới tất có cơ sự, có cơ sự tất có cơ tâm.
Thành Huyền Anh chú rằng: Có đồ máy móc tất có chuyện chuyển đổi, có việc chuyển đổi tất sinh lòng đổi thay theo việc.
Dùng khí tiết vàng thoi đúng chữ,
Gộp tâm cơ danh dự Nho phong.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Hay “Tâm chính”.
Tâm: Cái tâm của con người. Chánh (chính): Đúng đắn, ngay thẳng, trái với tà.
Tâm chánh, như chữ “Tâm chính 心 正” là tâm ngay thẳng, đúng đắn, không hướng theo vạy tà.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Về phần quan lại Phụ mẫu chi dân quyền hành rất rộng rãi, một tay sanh sát, ra có kẻ bẩm, người trình, đối với dân đen là bậc thánh thần bất khả xâm phạm, nếu chẳng giữ tâm chánh, để dục vọng lôi cuốn, thì trăm họ lầm than muôn dân khổ sở.
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối đạo cầm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh,
Lòng thành nhờ lẫn lóng hơi thanh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lấy tâm chánh làm cân đong thế,
Cậy lòng lành làm kế dìu đời.
(Nữ Trung Tùng Phận).
心 志
Tâm: Cái tâm của con người. Chí: Ý muốn bền bỉ theo đuổi một việc gì tốt đẹp.
Tâm chí là tâm tư và ý chí, tức chỉ người có lòng, có chí. Như: Rèn luyện tâm chí.
Thánh giáo Chí Tôn dạy: Thầy hằng biết công của các con, nhưng Thầy phải cực lòng chiều ý của mỗi đứa mà xây đắp nền Ðạo. Vì vậy mà nhiều sự xảy ra đều do nơi tâm chí của nhiều đứa.
Trước biết sửa mình tâm chí vẹn,
Sau nương cảnh tịnh mới nên hay.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bước đời chìm nổi bấy nhiêu niên,
Tâm chí ghe phen dập lửa phiền.
(Đạo Sử).
Thử đem tâm chí làm công quả,
Mới rõ thời cơ dựng thái bình.
(Thơ Thượng Sanh).
Rừng tòng xuân hé điểm tươi cành,
Tâm chí rèn trau đượm vẻ thanh.
(Thơ Huệ Giác).
Hay “Tâm chân chính”.
Tâm: Cái tâm của con người. Chơn chánh (chân chính): Chân thật và ngay thẳng.
Tâm chơn chánh, như chữ “Tâm chân chính 心 真 正”, là tâm thật thà, ngay thẳng.
Như: Chức sắc lúc nào cũng phải giữ cái tâm chơn chánh để làm gương cho tín đồ.
Đời hay Đạo cũng vậy, muốn lập nền tảng cho sự thái bình, phải cần lập Tâm chơn chánh, đỉnh đạt, để gieo sự hoà nhã yêu đương, rồi mới mong tề gia, trị quốc.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Tâm: Cái tâm con người. Đạo: Tôn giáo.
Tâm Đạo, như chữ “Đạo tâm 道 心”, là chỉ lòng tín ngưỡng vào tôn giáo một cách mạnh mẽ.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo nhận thấy muốn giải quyết tình thế thì phải dùng tâm Đạo và tinh thần cương quyết mới mong định vận mạng cho nước nhà.
Hảo tai một gái nữ anh tài,
Mới biết mà tâm Ðạo quá hay.
(Đạo Sử).
Lễ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tái thế tử vô ưu.
(Thất Nương Giáng Bút).
Tâm: Cái tâm, lòng dạ. Đắc: Được.
Tâm đắc là biết được chắc chắn ở trong lòng. Tâm đắc còn có nghĩa là hiểu sâu sắc, hay hiểu lòng nhau, hợp ý với nhau. Như: Điều tâm đắc nhứt.
Trong Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có nói: “Trí Nhân Dũng” là ba cái trạng thái của Tâm linh phát hiện mà học giả luôn luôn phải học tập cho đến Tâm đắc.
Thần cảnh thông Ðạo do tâm đắc,
Diệt lục trần, lục tặc ngoài trong.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
心 燈
Tâm: Cái tâm, chỉ lương tâm. Đăng: Ngọn đèn.
Tâm đăng là ngọn đèn của tâm. Tâm được ví như ánh sáng của ngọn đèn xoá tan bóng tối của mê vọng, vô minh.
Muốn cho tâm như ngọn đèn toả sáng thì tâm thức của con người phải vắng lặng (vô niệm), tức là tâm giác ngộ hoàn toàn.
Tâm đăng đồng nghĩa với “Huệ đăng”.
Ngọn đăng các con thờ chính giữa đó là giả mượn làm tâm đăng. Phật Tiên truyền Ðạo cũng do đó, các con thành Ðạo cũng tại đó.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
心 投
Tâm: Lòng, dạ, biểu tượng cho tâm lý, tình cảm. Đầu: Hợp nhau.
Tâm đầu là tâm tư hoà hợp nhau.
Thành ngữ thường có câu: “Tâm đầu ý hợp 心 投 意 合” là hợp ý với nhau, cùng có những tình cảm và cách suy nghĩ như nhau.
Xem: Tâm đầu ý hợp.
Dầu phải nợ ba sanh hương lửa,
Kết bạn nhau phải lựa khách tâm đầu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Chừ sao phụ nghĩa sơ giao,
Phòng toan ném gánh tâm đầu sông Ngân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Tâm đầu ý hợp”.
Tâm đầu: Tâm tư hoà hợp nhau. Ý hiệp (hợp): Ý tưởng hoà hiệp.
Còn hai người cùng giao thiệp nhau có tâm ý hoà hợp, tức tư tưởng và tình cảm xuôi thuận thì được gọi là “Tâm đầu ý hiệp”.
Tâm đầu ý hiệp, như câu “Tâm đầu ý hợp 心 投 意 合”, thường được dùng để chỉ giữa đôi lứa hoặc vợ chồng hoà hợp nhau.
Khi giải nghĩa hai câu thơ: “Bắc Ngụy quan vân tâm mộ hữu, Giang Ðông khán thụ lụy triêm y”, Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, có câu: Khi Như Hoành ở Bắc Ngụy đi thuyết chiến bên Giang Ðông gặp Bạch Hàm thì tâm đầu ý hiệp, kết làm anh em.
Duyên dầu đặng tâm đầu ý hiệp,
Cũng ngại lo chầy kíp phụ phàng nhau.
(Phương Tu Đại Đạo).
心 地
Tâm: Cái Tâm, lòng dạ. Địa: Đất.
Tâm địa là đất tâm, tức nội bộ bản tâm của mình, đó là nền tảng của tư cách con người.
Tâm là nguồn gốc của tất cả suy niệm, hành động, nên có thể sinh ra mọi thứ pháp, như thiện pháp, ác pháp, thế pháp...
Tâm địa có thể gieo đủ loại hạt giống, như hạt giống tham sân, si mê, khổ đau, hoặc các hạt giống của hạnh phúc, thương yêu, giác ngộ...
Việc tu tập được ví như cày bừa miếng đất tâm, gieo hạt giống bồ đề, giác ngộ.
Thiền Sư Bách Trượng có câu: “Tâm địa nhược không, tuệ nhựt tự chiếu 心 地 若 空, 慧 日 自 照”, nghĩa là khi tâm thức vắng lặng, thông suốt thì mặt trời trí huệ tự nhiên chiếu sáng.
Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp ngày 5/3/1928 định nghĩa Hội Thánh có câu: Hội Thánh tức là đám Lương sanh của Thầy tom góp lại làm một. Cả Lương sanh ấy, Thầy đã dùng quyền thiêng liêng dạy dỗ, trước un đúc nơi lòng một khiếu từ bi cho tâm địa có mảy mún tình ái vật ưu sanh theo Thánh đức háo sanh của Thầy, dùng làm lợi khí phàm tục để độ rỗi người phàm tục.
Bình sanh tâm địa náo trung can,
Nhược thể nan tri thế đạo tàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tâm địa của Trời đời ắt biết,
Phải toan sợ tội cải tà gian.
(Đạo Sử).
心 田
Tâm điền là ruộng tâm, tức nói cái tâm con người ví như miếng ruộng.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Thanh Tâm đã giải thích chữ Tâm điền như sau: Ruộng đây là tỷ với Tâm, Tâm không ai dồi trau. Ðạo nơi Tâm, thì Tâm ví như Ðiền, có Ðiền mà chẳng cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột thì ruộng tất phải bỏ hoang, bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú.
Dù ai có hỏi bao tư sản,
Rằng: Miếng tâm điền đủ cấy gieo.
(Thơ Thuần Đức).
Gieo truyền Thánh cốc mau đơm trái,
Vun quén tâm điền sớm trổ hoa.
(Thơ Thông Quang).
心 德
Tâm: Lòng, dạ. Đức: Đạo đức, là cách cư xử, thái độ hợp với đạo lý.
Tâm đức là tâm đạo đức, tức thể hiện tấm lòng tốt đẹp hợp với đạo lý.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhắc ra đây chẳng phải để so sánh mà chỉ để cho chư quý vị noi theo gương người xưa hầu giữ gìn thể thống, giồi trau tâm đức đặng giúp đời và nâng đạo.
Hương thề khắc dạ tròn tâm đức,
Hoa thắm khoe tươi vẹn sắc thần.
(Thơ Hàn Sinh).
心 交
Tâm: Cái tâm, lòng dạ. Giao: Qua lại với nhau.
Tâm giao là giao tình một cách thân mật, tức chỉ tình bạn giao thiệp rất mật thiết.
Như: Hai người kết bạn tâm giao với nhau.
Hoà điệu tâm giao ta nắn phím,
Tình thơ đồng tịch chẳng đồng sàng.
(Thơ Hoàn Nguyên).
心 行
Tâm: Cái tâm, lòng dạ. Hạnh: Tánh nết.
Tâm hạnh là chỉ lòng dạ và tánh nết.
Người có tâm hạnh là người đã trau luyện tinh thần đạt tới chỗ thiện mỹ.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ngày qua thấm thoát, nhặt thúc bóng quang âm, xuân mãn kế xuân về, nước non màu cũng vẫn như xưa mà tâm hạnh nhơn tình biết bao thay đổi.
Thầy đã nói, Thiên cơ phải do nơi tâm hạnh của các con mà xây đổi máy huyền vi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
心 火
Tâm: Trái tim. Hoả: Lửa.
Nỗi uất hận, bực tức hoặc dục vọng nung nấu trong cõi lòng không khác gì bị ngọn lửa thiêu đốt, đó gọi là “Tâm hoả”.
Nguyên Chân có câu: Tâm hoả tự sinh hoàn tự diệt 心 火 自 生 還 自 滅, nghĩa là tâm hoả tự nó sinh ra rồi tự nó tắt mất.
Bế nhãn quan thì tâm hoả không bừng cháy.
Bế nhĩ quan thì thận thuỷ mới lưu hành.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
心 魂
Tâm: Cái tâm, lòng dạ. Hồn: Chỉ cái tinh thần của con người.
Tâm hồn là tâm tư và linh hồn, tức chỉ chung những ý nghĩ, tình cảm trong đời sống của con người.
Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Kịp đến tâm hồn bất hoà thì thất tình lục dục đều phát khởi tranh ngôi với thần lương tâm, nếu kém lực thì con người ấy duy có sanh hoạt trong vòng vật dục, chớ chẳng hề biết Thiên lý là gì?
Công chinh chiến nay lần tỏ rạng,
Đuốc từ bi rọi sáng tâm hồn.
(Kinh Cúng Chiến Sĩ).
Chữ rằng huyết mạch đồng môn,
Riêng chưng thân thể, tâm hồn cũng con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay là giận nhơn tình tráo chác,
Bến Ngân Hà tắm mát tâm hồn.
(Văn Tế Tiểu Tường).
Tâm hồn: Tâm tư và linh hồn. Gió tuyết: Gió và băng tuyết, chỉ sự lạnh lùng.
Tâm hồn gió tuyết, cũng như thành ngữ “Tâm hồn băng giá”, ý nói tâm hồn lạnh lẽo băng giá, tức tình yêu trong tâm hồn không còn sôi nổi, hứng thú nữa.
Thôi đành gởi tâm hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết tam tùng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
心 血
Tâm: Trái tim, lòng. Huyết: Máu huyết.
Tâm huyết là huyết ở trong trái tim, ý nói lòng sốt sắng ân cần, hay chỉ lời nói hết sức chơn thật, xuất phát tận đáy lòng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Các con xa Thánh giáo của Thầy đã lâu, tưởng lòng hằng ước mơ hoài vọng, mà Thầy lâu đến để lời tâm huyết chỉ giáo cho các con, Thầy cũng buồn lòng mà thấy bầy con lao nhao lố nhố lặn hụp chìm đắm giữa cõi hư sanh nầy.
Một nắm tro tàn khôn lẽ bới,
Mấy lời tâm huyết khó lòng khui.
(Thơ Thuần Đức).
Văn chương vẫn gói bao tâm huyết,
Sự nghiệp còn lưu mấy thể biền.
(Thơ Hàn Sinh).
心 香
Tâm: Lòng. Hương: Thơm tho.
Tâm hương là tấm lòng thơm tho, tức là lấy cái lòng thành thật để làm hương dâng cúng.
Lời Phật dạy: Lòng tinh thành tức nhiên cảm đến Phật, không khác nào đốt hương để dâng Phật vậy.
Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm,
Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương.
(Kinh Thế Đạo).
Nhớ ngày Khai Pháp sớm về Tiên,
Dâng nén tâm hương lễ kỉnh Thiềng.
(Thơ Võ Thành Lượng).
心 經
Tâm: Lương tâm, tức chơn linh. Kinh: Sách chép các lời của Thánh hiền hoặc các Đấng Thiêng liêng.
Tâm kinh là kinh dạy về tâm, phải dùng tâm mới có thể lãnh hội hết ý nghĩa của kinh được.
Những bài thuộc về tâm kinh chúng ta không thể lấy trí mà xét đoán ý nghĩa của câu kinh, mà chúng ta phải dùng tâm để thoát ngoài văn tự thì mới có thể cảm nhận ý nghĩa cao siêu của kinh.
Thành kỉnh tụng Phật Giáo Tâm Kinh.
(Nghi Tiết Cúng Lễ).
心 坎
Tâm: Trái tim. Khảm: Cái lỗ, cái hang.
Tâm khảm là cái lỗ ở trong quả tim, ý chỉ chỗ sâu kín trong lòng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Muốn làm Chúa thời phải thiệt hiện hoà bình tâm lý trước đã và hoà bình hình chất sau. Nhưng chỉ có Đức Thương Yêu của Đức Chí Tôn để nơi tâm khảm của chúng ta làm khí cụ, làm môi giới dìu dắt và nâng đỡ họ, thì họ mới có thể hưởng cái hạnh phúc ấy mà thôi.
Lời vàng cha dạy ghi tâm khảm,
Có lúc đem ra ứng xử đời.
(Thơ Thiên Vân).
Tâm không lìa Đạo tức là lúc nào Đạo cũng phải có luôn trong tâm con người.
Đạo nghĩa đen là đường đi, còn theo nghĩa bóng thì Đạo là đường lối, phép tắc đối nhơn xử thế của con người. Chữ Đạo ở đây được hiểu theo Đạo làm người hay nhân đạo trong hình nhi hạ của Nho giáo. Đến thời Lão Tử, một Đạo gia đầu tiên của Trung Quốc đưa ra thuyết bản căn của Vũ trụ và đề xướng Đạo luận. Từ đó Đạo được hiểu với nghĩa hình nhi thượng, tức là Thiên Đạo.
Theo Đạo Đức Kinh, Đạo là bản căn của Càn Khôn Thế Giới, là nguyên lý từ đó mà vạn vật được sinh ra, muôn loài noi theo, là cái quy luật chi phối sự sinh thành biến hoá của Trời đất và muôn vật.
Theo Cao Đài, Đạo là con đường của Đức Chí Tôn dẫn đến bờ giải thoát gọi là Đại Đạo. Đạo của Đức Chí Tôn dạy trong thời Tam Kỳ, là phổ độ chúng sanh để lập công hầu đoạt được cơ giải thoát, là con đường chuyển hoá khỏi mọi khổ đau.
Thánh giáo Đức Chí Tôn nói về chữ Đạo như sau: “Đạo là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm”.
Như vậy, Đạo rất cần ích cho cá nhân và xã hội. Người có Đạo sợ luật Trời, kiêng phép nước, biết trọng luân thường đạo đức, biết thương yêu đồng loại.
Một nước có Đạo, xã hội sẽ trật tự, an ninh, dân chúng sẽ được hoà bình và hạnh phúc.
Do đó, sách Trung Dung có dạy: Đạo giả dã, bất khả tu du ly dã, khả ly, phi đạo dã 道 者 也, 不 可 須 臾 離 也. 可 離, 非 道 也 nghĩa là “Đạo phải có luôn luôn trong lòng, chẳng khá lìa ra trong giây phút nào, nếu lìa ra được thì không phải là Đạo”. Thật vậy, mỗi con người sống ở thế gian, nếu muốn giữ cái bản tánh trong sáng, thuần khiết như ban đầu thì tâm tánh mình phải hiệp một với Đạo, nếu tách ra thì các mối mê dục xen vào, còn chi là Đạo? Đạo là cái lý, là lẽ phải, là con đường mà mọi người phải đi theo.
Người theo Đạo ví như xe lửa chạy theo đường rầy, như thuyền bè lướt trên sông nước, như máy bay nương vào không khí. Nếu xe lửa trượt đường rầy, thuyền rời nước, máy bay thiếu không khí đều rất nguy hiểm, vì đã rời đạo (con đường). Người xa rời Đạo, ở xã hội thì bị pháp luật trừng phạt, xuống Âm quang thì bị khổ hình, phải sa vào luân hồi, chạy vào con đường tứ sanh lục đạo, không được siêu thoát.
Đức Khổng Tử có dạy: Người quân tử giữ lấy cái chết để trọn Đạo và vui với lẽ Đạo, chỉ lo Đạo mà không lo nghèo. Thầy Nhan Hồi ngộ Đạo mà ôm ấp trong lòng không bao giờ rời. Thầy Tăng Tử theo Đạo, một ngày phải xét mình ba lần, lo âu vì sợ Đạo sẽ rời xa mình. Đạo mật thiết với con người, chỉ vì vật dục che lấp mà con người không thấy rõ, Do vậy, Đức Không Tử mới than rằng: Ai đi ra ngoài mà không do cửa chính. Đạo vốn là cửa chính, sao không chọn Đạo mà đi!
Người theo Đạo chớ sợ nghèo khổ, đã vào cửa Phật thì giàu nghèo, thọ yểu đều giao cho Trời. Đức Khổng Tử khen Thầy Nhàn Hồi có câu: Hiền tai! Hồi dã, nhất đan tự, nhất biều ẩm, tại lậu hạng, nhân bất kham kỳ ưu, Hồi dã bất cải kỳ lạc. Hiền tai! Hồi dã 賢 哉! 回 也. 一 簞 食, 一 瓢 飲, 在 漏 巷, 人 不 堪 其 憂, 回 也 不 改 其 樂. 賢 哉! 回 也, nghĩa là hiền thay Nhan Hồi! Một giỏ cơm, một bầu nước, ở nơi ngõ hẹp, người ta không chịu nổi cảnh nghèo hèn mà lo buồn, còn Nhan Hồi không thay đổi điều vui của mình. Hiền thay, Nhan Hồi! Đó là chỉ biết có Đạo mà không biết đến ngoại vật, nên không bị ngoại vật làm lụy.
Tâm không lìa Đạo, hằng trau mãi,
Tánh đặng chơn như, quyết giữ bền.
(Thơ Thiên Vân).
心 理
Tâm: Lòng. Lý: Lý lẽ, nguyên lý.
Tâm lý là những lý lẽ của tâm hồn, tức là những ý nghĩ trong lòng.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Tựu trung cái tâm lý chung của người đời là sợ đau khổ và sợ cả sự nghĩ đến đau khổ, luôn luôn có thái độ lẩn tránh, che đậy hay muốn quên đi bằng cách ẩn mình trong những vui thú nhất thời.
Trăm năm dầu sống mảnh hình,
Thì trong tâm lý đã đành tiêu tan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Quy tâm lý đem nhơn sanh vế một bổn,
Lấy thiện lương làm thiên hạ hiệp trăm nhà.
(Văn Tế Tiểu Tường).
心 靈
Tâm: Trái tim, lòng. Linh: thiêng liêng.
Tâm linh là cái tâm thiêng liêng.
Theo Nho Giáo, Tâm chính là cái thần minh làm chúa tể hành động cùng tư tưởng con người. Thần minh ấy là tinh thần sáng suốt, cái khí tinh anh, hay nói khác đi là cái minh đức, lương tri, lương năng, trực giác, tri giác mà Trời đã phú cho mỗi người chúng ta, khiến chúng ta linh hơn muôn vật, hiểu biết mọi vật. Sau khi chết, cái khí tinh anh ấy không tiêu tan mà vẫn tồn tại, nên được coi như tâm linh.
Theo Cao Đài, lương tâm chính là do Chí Tôn ban cho con người, tức chơn linh hay linh hồn của mỗi con người nên cũng được coi như tâm linh.
Tên tuổi đây nhục nhục vinh vinh,
Nào còn nhớ tâm linh “bổn thiện”.
(Thơ Hộ Pháp).
Hiền lương thường đặng tấc tâm linh,
Quảng đại Càn Khôn hiệp tánh tình.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Hay “Tâm mệnh”.
Tâm: Cái tâm, lòng dạ. Mạng (mệnh): Số mạng, vận mạng.
Tâm mạng, như chữ “Tâm mệnh 心 命”, tức là cái tâm và cái số mạng.
Số mạng của con người do nghiệp quả, mà nghiệp quả được định bởi cái tâm. Chính vì thế Thánh hiền mới có nói: Tâm hảo mệnh hựu hảo, phát đạt vinh hoa tảo, tâm hảo mệnh bất hảo, nhất sanh dã ôn bão, Mệnh hảo tâm bất hảo, tiền trình khủng nan bảo, Tâm mệnh đô bất hảo, cùng khổ trực đáo lão 心 好 命 又 好, 發 達 榮 華 早, 心 好 命 不 好, 一 生 也 溫 飽, 命 好 心 不 好, 前 程 恐 難 保, 心 命 都 不 好, 窮 苦 直 到 老, nghĩa là lòng tốt mạng lại tốt, phát đạt vinh hoa sớm, lòng tốt mạng không tốt, một đời được ấm no. Mạng tốt tâm không tốt, đường tương lai khó giữ được, tâm mạng đều chẳng tốt, nghèo khó đến tuổi già.
Cho thanh tâm mạng mới vững vàng,
Ðến ngó Phật Trời khỏi thắp nhang.
(Đạo Sử).
心 念
Tâm: Cái tâm, lòng dạ. Niệm: Nghĩ tưởng.
Tâm niệm là ý niệm trong tâm, tức là điều tưởng nghĩ trong lòng.
Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Hẳn mấy em đã rõ đại cương về Thế Ðạo là gì? Nam thì Tam Cang Ngũ Thường; Nữ thì Tam Tùng Tứ Ðức, song đó chỉ là thế của Nhơn Ðạo hữu hình mà thôi. Nếu mấy em hằng ngày tâm niệm có bấy nhiêu thì làm sao cho trọn vẹn được.
Hôn mê chẳng quản một thân hiền,
Tâm niệm tự nhiên đặng thấy Tiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mở cửa tương tư chờ huyễn mộng,
Đốt lò tâm niệm đợi chiêm bao.
(Thơ Hàn Sinh).
Hay “Tâm nguyện”.
Tâm: Trong tâm. Nguyền (nguyện): Lời nguyền.
Tâm nguyền, như chữ “Tâm nguyện 心 願”. là lời nguyền trong tâm, tức là trong lòng tự hẹn để thực hiện một việc gì.
Như: Tâm nguyện sẽ hoàn thành sứ mạng mà Hội Thánh đã giao phó.
1.- Tâm nguyền:
Kiến thiết quốc gia đời chí hướng,
Hoà bình thế giới đạo tâm nguyền.
(Thông Quang).
2.- Tâm nguyện:
Đường tu ta gắng tròn tâm nguyện,
Hiếu hạnh gương nêu độ thế trần.
(Thơ Huệ Phong).
心 凡
Tâm: Lương tâm. Phàm: Tầm thường thấp kém.
Tâm phàm là cái tâm tầm thường, thấp kém của người thế tục.
Lương tâm do Đức Chí Tôn ban cho, bản chất là thiêng liêng, trong sáng, nhưng vì con người bị thất tình lục dục, tham sân si lôi kéo, nên vô minh, mê mờ thành trở nên tâm phàm.
Thánh giáo Chí Tôn dạy: Hại thay! Ðã nhiều lần các con chẳng hiểu ý, Thầy cũng đau lòng mà thấy các con đi sái bước. Nhưng than ôi! Cơ thử thách chỉ dùng với những đứa tâm phàm lẫn chất Thánh.
Lần gội tâm phàm vui cảnh trí,
Ðường trần lưu luyến nhọc tranh đua.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
心 法
Hay “Tâm pháp Bí truyền”.
Tâm: Lương tâm. Pháp: Giáo lý, phép tu.
Tâm pháp là phương pháp tu luyện về tâm, tức là phép luyện Đạo.
Theo Phật giáo, Tâm pháp là giáo pháp truyền ở ngoài kinh điển, hay cái phương pháp tâm đắc của Thầy truyền qua trò, gọi là Tâm pháp bí truyền.
Tâm pháp bí truyền hay nói tắc là Bí pháp, là những phương pháp luyện Đạo được các bậc Thầy mật truyền cho các đệ tử qua một thời gian chọn lựa và thử thách.
Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Pháp môn nầy phái do Đức Chí Tôn, hoặc mội vị Tiên Phật truyền dạy mới nên được: Vì thế nên trước khi thực hành Tâm pháp, kẻ học phải tu Tâm, dưỡng Tánh, đến Công viên Quả mãn,...
1.- Tâm pháp:
Tam thanh vốn chơn truyền tâm pháp,
Tam Giáo quy phù hạp thiên nhiên.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Tâm pháp Bí truyền:
Đạo nuôi nấng giữ mối giềng,
Đạo hưng Tâm pháp Bí truyền luyện phanh.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
心 事
Tâm: Lòng. Sự: Việc.
Tâm sự là những điều mang trong lòng, hay những nỗi riêng trong lòng. Như: Tâm sự thầm kín.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo rất hoan hỷ được gặp các bạn hôm nay để tỏ niềm tâm sự. Tuy về cõi thiêng liêng nhưng cũng còn giữ trọn cảm tình đối với các bạn, nên Bần Đạo muốn khi nào có cuộc hoà tấu âm nhạc thì Bần Đạo xin dự thính nghe.
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
(Thất Nương Giáng Bút).
Khuyên em nhớ những bầu tâm sự,
Khuyên em gìn hai chữ từ bi.
(Bát Nương Giáng Bút).
Đêm vắng khiến ai đồng cảnh ngộ,
Động niềm tâm sự khó phôi pha.
(Thơ Thuần Đức).
心 喪
Tâm: Trong lòng. Tang: Để tang, để chế.
1.- Tâm tang là cái tang ở trong lòng, không khăn và quần áo tang, tức chỉ sự chịu đựng đau đớn, sầu khổ giấu kín trong lòng.
Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?
Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.
(Kinh Thế Đạo).
2.- Người xưa chế định tang phục cho những người vốn có quan hệ thân thuộc, còn giữa thầy trò vì ân nặng, nghĩa sâu, tình cảm thắm thiết, thường bày tỏ bi thống bằng tâm tang, tức là tang trong lòng mà không thọ phục.
Vọng bái tiên sinh cảm mấy vần,
Cúi đầu xin chịu một tâm tang.
(Thơ Huệ Ngàn).
1. TÂM TÁNH
Hay “Tâm tính”.
1.- Tâm: Lòng dạ. Tánh (Tính): Tánh tình.
Tâm tánh, như chữ “Tâm tính 心 性”, là nói cái lòng dạ và tính nết của con người.
Thánh giáo Thầy có nói: Thầy cũng để lời rằng: Phần nhiều trong các con chưa để hết tâm tánh giúp ích vào đường Chánh giáo.
Nên kiếp Thánh hằng trau tâm tánh,
Dẹp trái căn đặng lánh bụi hồng.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
2. TÂM TÁNH
Tâm: Về phương diện vật chất, Tâm 心 có nghĩa là trái tim, được ông Hi Di mô tả như sau: Tam điểm như tinh tượng, hoành câu tự nguyệt tà 三 點 如 星 象, 橫 鉤 似 月 斜, nghĩa là ba chấm như hình ba vì sao, nét cong giống như hình vòng cung của mảnh trăng tà.
Về phương diện tinh thần, chữ tâm là tấm lòng, tâm trạng của con người.
Theo Phật giáo, Tâm như một ngọn đèn, gọi là Tâm đăng, vì bản tâm của con người yên ổn, chói lọi như ánh sáng ngọn đèn chiếu ra lúc đêm tối. Phật còn cho rằng tâm chúng sanh đồng với tâm Phật vì nó trọn lành, tinh khiết như tâm Phật, chúng sanh có thể nương theo tâm ấy mà thấy Phật và thành Phật.
Theo Nho giáo, tâm chính là cái Thần minh làm chủ tư tưởng và hành động con người. Thần minh ấy là cái lương tri, lương năng, tri giác, trực giác mà Trời đã phú cho mỗi người chúng ta, khiến chúng ta linh hơn muôn vật.
Còn đạo Cao Đài lại cho rằng Tâm là một điểm Linh Quang, vì nó được chiết ra từ khối Đại Linh Quang của Thượng Đế, nên Tâm con người có đầy đủ bản chất của Thượng Đế.
Tánh (Tính): Đây không phải là cái tánh của khí chất, tức là cái tánh nết xấu tốt của con người. Chữ Tánh do câu: Thiên mệnh chi vị tính 天 命 之 謂 性, nghĩa là mạng Trời gọi là tánh, chính là cái phần Thiên lý do Trời phú cho mỗi người chúng ta gồm các đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Như vậy Tánh chính là cái minh đức (Đức sáng), nên chữ Tính ấy luôn luôn là thiện.
Nếu Tính đã là cái Thiên lý mà Trời phú cho con người thì Tâm cũng chính là cái Thần minh của Trời ban cho con người để hiểu tất cả mọi việc, như vậy Tâm với Tính là một. Theo Mạnh Tử: Phát huy đến cùng cực cái Tâm của mình thì biết được cái Tính, biết được cái tính của mình thì biết được được Trời.
Mạnh Tử lại nói: Sở dĩ biết được cái Tính của mình mà biết được Trời vì Tính của mình do Trời sanh ra, chính là một phần bản thể của Trời vì Trời với người là một.
Chữ tu nó chẳng ở ngoài,
Tu trong tâm tánh dồi mài điểm linh.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Người quân tử chẳng xa tâm tánh,
Gìn cái tâm cho chánh đáng tin.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
心 情
Tâm: Lòng, dạ. Tình: Sự cảm xúc ở ngoài mà phát lộ.
Tâm tình là tâm khảm và tính tình, tức chỉ tình ý riêng, kín.
Thánh giáo Đức Chí Tôn bằng Pháp văn, do Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Thầy chỉ định con lãnh một vai trò bạc bẽo mà nhân đạo. Con vì tâm tình cao thượng mà cứu vãn sự sụp đổ của một dân tộc đã hấp thụ một nền văn minh tối cổ.
Đạo đức dồi mài ai khá gắng,
Tâm tình tu sửa kẻ đâu thiềng.
(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).
Ngoài gia tộc, nước non vầy bạn,
Lựa tài danh giao cạn tâm tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nào có ai thấu đặng tâm tình,
Như cha mẹ để tin che chở.
(Phương Tu Đại Đạo).
心 修
Tâm: Cái tâm, lòng dạ. Tu: Sửa, tu hành.
Tâm tu là tâm tu hành.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lại nữa tâm tu duy có nền Chơn giáo Ðức Chí Tôn cho Bần Ðạo làm được việc mà từ thử đến giờ không ai làm.
Cảm quang diêu động tâm tu,
Khai cơ giải thoát mở tù Phong Đô.
(Kinh Thế Đạo).
Đặng xong phận sự mọi bề,
Tâm tu lại vững chẳng hề lãng xao.
(Kinh Thế Đạo).
Thích Ca bình bát thể tâm tu,
Bửu pháp Tam Tông lý vạn thù.
(Thơ Huệ Phong).
心 思
Tâm: Lòng dạ. Tư: Suy tư, nghĩ ngợi.
Tâm tư là những điều nghĩ ngợi trong lòng.
Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung có câu: Em may nghe đặng câu đờn thê thảm, tiếng ngâm ngọt ngào nhắc nỗi tâm tư kiếp sanh buổi nọ.
Khi tạn mặt dạt dào nôn nóng,
Lúc dừng chân rúng động tâm tư.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Mười bài gượng gạo viết thành thơ,
Gói ghém tâm tư trước tới giờ.
(Thơ Hoài Tân).
心 誠
Tâm: Cái tâm, lòng dạ. Thành: Thành thật.
Tâm thành là lòng thành thật.
Đức Lý Giáo Tông có dạy: Phải lấy nét thẳng đường ngay do nơi tâm thành mà hành sự tạc thù, sợ chinh lòng mà để nét bất bình cho cả chư đạo hữu. Mỗi việc hành động đều do nơi Ðức Từ Bi sắp đặt sẵn rồi, duy có để cho chư hiền hữu bước lần mà đi tới.
Tâm thành có thuở nghiệp nhà nên,
Ðạo đức khuyên con cứ giữ bền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tâm thành con động chín từng Trời,
Chớ trách Thầy xưa chẳng để lời.
(Đạo Sử).
Tâm thành: Tâm thành thật. Chánh trực: Ngay thẳng.
Tâm thành chánh trực, như chữ “Tâm thành chính trực 心 誠 正 直”, nghĩa là người có tâm thành thật và lòng ngay thẳng.
Các con ôi! Thầy thương đến tâm thành chánh trực đạo đức khiêm cung, cũng như Thầy xoá kẻ xảo trá gian tà cầu danh chác lợi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
心 神
Tâm: Cái tâm, lòng dạ. Thần: Tinh thần.
Tâm thần là tâm tư và tinh thần.
Khi sự nghĩ ngợi trong lòng bậy bạ, lộn xộn, khiến tinh thần chẳng yên ổn, không tự chủ được, đó gọi là tâm thần bất định.
Tâm thần còn là một loại bịnh do rối loại về thần kinh, tâm lý khiến con người trở nên điên loạn, hành động bậy bạ.
Đã tầng chịu khó khăn kiếp sống,
Định tâm thần giải mộng Nam kha.
(Kinh Thế Đạo).
Tâm thần mỏi mệt ủ ê,
Khối sanh khi đã gần kề dứt hơi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
心 智
Tâm: Phần tinh thần, cái tâm. Trí: Hiểu rõ sự lý.
Tâm trí là phần tinh thần trí não.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Tâm cứng cỏi, Ðạo điều hoà thì cứ bước tới Thầy; tâm trí bất định, đạo hạnh không hoàn toàn thì con đường hám lợi xu danh tới hang sâu vực thẳm đó...
Trước biết sửa mình tâm trí vẹn,
Sau nương cảnh tịnh mới nên hay.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thương đời chẳng quản lao tâm trí,
Tùng vận lòng thành tặng mấy câu.
(Thơ Thượng Sanh).
Giúp người tâm trí hành Thiên mạng,
Tuyển bậc nhân tài trấn địa phương.
(Thơ Bảo Pháp).
心 傳
Tâm: Cái tâm của con người. Truyền: Trao lại cho người khác.
Tâm truyền là truyền vào tâm, ý chỉ thầy trực tiếp truyền bí pháp vào tâm của đệ tử, không để người thứ ba biết được. Vì vậy, Tâm truyền còn được gọi là Bí pháp Tâm truyền. Tâm truyền thuộc về phần Bí pháp.
Phần tâm truyền thì chọn lựa đệ tử đã hoàn thành tam lập để truyền cho Bí pháp luyện Đạo. Pháp môn nầy đi thẳng vào tâm, bỏ hết sắc tướng âm thinh, tu thiền định, luyện tam bửu cho tinh khí thần hiệp nhất mà đắc Đạo.
Hai Ngài Phan Trường Mạnh và Nguyễn Trung Hậu trong quyển Giáo Lý cõ cho biết: Sự Phổ độ có hai lối: Công truyền và Tâm truyền.
Xem: Tâm pháp.
Tâm Truyền thứ lớp công phu,
Công Truyền trật tự chư nhu hoàn toàn.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
心 憂
Tâm: Cái tâm, lòng dạ. Ưu: Lo lắng.
Tâm ưu là lòng dạ lo lắng, buồn rầu.
Như: Ngài là bậc thường lo cho chúng sanh nên tâm ưu trí nhọc.
Tâm ưu Bàng Cử trắng đầu non,
Mua lấy chức quan đức phải mòn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
心 猿
Tâm: Cái tâm của con người. Viên: Con khỉ, vượn.
Thành ngữ trong Phật học thường có câu: “Tâm viên ý mã 心 猿 意 馬”.
Tâm viên là cái tâm quay cuồng như con khỉ, vượn.
Con khỉ, vượn tượng trưng cho sự buông lung, phóng dật của ý thức.
Tâm ý con người thường hay thay đổi, chạy nhảy như con khỉ hay con ngựa, do đó cần phải điều phục tâm ý cho được định tĩnh, tập trung không tán loạn để được an lạc và có thể quán chiếu sâu sắc mọi sự vật.
Dụng ý trụ thần, sanh ý mã,
Để tâm luyện đạo, hoá tâm viên.
(Thơ Huệ Phong).
1.- Tấm là mảnh, phiến mỏng, cái, thường dùng để gọi chung những vật phẳng, mỏng và dài. Như: Tấm vải, tấm ván, tấm gương, manh quần tấm áo.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Vì bô vải là tấm gương đạo đức, các con đã rõ đạo thì biết đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian nầy.
Huống gia tài cha mẹ sẵn dành,
Công co cỏm tấm manh vành sắt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Chị vừa vá manh quần tấm áo,
Ra đá bò đánh đáo rách te.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tấm là từ dùng để chỉ từng cá nhân hay từng tình cảm con người đáng trân trọng.
Như: Khổ cho tấm thân, tìm một tấm chồng xứng đáng, tấm lòng vàng, tấm tình riêng.
Ðã chẳng phải duyên không phải nợ,
Can chi con buộc tấm tình riêng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tiên Phật nơi mình đâu phải khó,
Khó do chẳng trọn tấm chơn thành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nhắn mưa gởi gió bâng khuâng để,
Một tấm tơ duyên đứt đoạn gìn.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tấm: Từ dùng để chỉ từng tình cảm con người đáng trân trọng. Lòng: Lòng dạ, biểu thí cho tâm lý tình cảm.
Tấm lòng là chỉ cõi lòng, tức những ý nghĩ tình cảm sâu kín trong lòng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Vậy gắng khổ tâm giữ lòng đạo đức mà vẽ bước cho đời sau, lập công quả đặng chờ ngày chung cuộc, phủi nợ trần ai, đem tấm lòng thiện niệm đến Tam Giáo Ðài mà phục hồi cảnh cũ, rừng vắng non nhàn, suối chảy tòng đưa, lánh chốn đoạ đày đã bấy lâu ràng buộc.
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.
(Kinh Thế Đạo).
Nhớ chồng thấy trẻ não nồng,
Đông ơi! Đông biết tấm lòng kiên trinh?
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tấm: Gạo vụn vì giã vỡ ra. Mẳn: Lớp bao ngoài hạt gạo thành bột khi giã trắng.
Tấm mẳn, do chữ “Tao khương 糟 糠” là tấm cám hay tấm mẳn, thức ăn của người nghèo. Ý nói vợ chồng lấy nhau từ lúc còn khổ sở.
Lời của Tống Hoằng nói với vua Hán: Tao khương chi thê bất khả hạ đường 糟 糠 之 妻 不 可 下 堂, nghĩa là vợ chồng hồi tấm mẳn chẳng khá bỏ nhau.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Theo thế thường thì giàu đổi bạn sang đổi vợ, con người khi gặp nơi đắc dụng được kẻ biết trọng đãi kính nể mình, ban cho vàng bạc đủ đầy gái tốt hầu hạ sớm khuya, yến tiệc linh đình, tước cao lộc quý thì cho anh em ruột cũng quên được, vợ mình tấm mẳn cũng dứt tình, chúa cũ cũng không màng huống chi là kết nghĩa giao bằng hữu.
Xem: Tao khương.
Giữ nghĩa xưa còn chia tấm mẳn,
Nay không đành kết bạn đua lành.
(Đạo Sử).
Tấm mẳn tuy chưa cơn mặn lạt,
Tình nồng chi xiết nỗi buồn vui.
(Thất Nương Giáng bút).
Tấm: Mảnh, phiến mỏng, thường dùng để gọi những vật mỏng và dài, như: tấm áo, tấm lòng. Son: Do chữ lòng son, tức “Đan tâm 丹 心”, chỉ tấm lòng như màu son đỏ, chẳng bao giờ phai lợt.
Tấm son tức là tấm lòng son, dùng để chỉ tấm lòng trung thành không thay đổi, trước sau như một.
Tuy xa nguồn Đạo tác phong còn,
Trăm giũa ngàn mài một tấm son.
(Thơ Thuần Đức).
Tấm: Mảnh, mối. Tình: Mối khắng khít thương yêu, hay tình duyên.
Tấm tình là mảnh tình, hay mối tình. Như tấm tình cha con, anh em hoặc tấm tình vợ chồng.
Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dạy: Thiếp cần dạy dỗ thì Thiếp chỉ cầu chư Hiền đồ cũng ráng nghe Thiếp, tuỳ lòng chẳng ép nài ai làm quá trí, mượn ngòi cơ bút đề áng văn chương, tỏ tấm tình thương, chư Hiền đồ để dạ.
Chia gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
(Đạo Sử).
Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,
Đem tấm tình để ngụ đài sen.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tấm: Mảnh, phiến mỏng, cái, thường dùng để gọi chung những vật mỏng và dài. Thân: Thân thể.
Tấm thân, như chữ “Mảnh thân”, chỉ thân thể con người. Như: Tấm thân bảy thước.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Chí Tôn cầm quyền cả càn khôn thế giới, đã từng hạ mình làm hồn ma đặng dìu dắt các môn đệ lúc ban sơ, ta há vì tự trọng tấm thân mà không noi gương của Ngài trong muôn một hay sao?
Coi lại thấy có chi gọi quý,
Ham đỉnh chung mà lụy tấm thân người.
(Phương Tu Đại Đạo).
Thuần Ðức về Tiên đã thảnh thơi,
Tấm thân bảy thước trả cho đời.
(Thơ Huệ Giác).
尋
Tầm là tìm kiếm. Như: Tầm sư học đạo, tầm duyên.
Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão Sư có câu: Ngày nào Ðạo nơi đây chưa hoà, người nơi đây chưa đủ sức kềm chế lấy nhau, và chưa đủ tinh thần ngay chánh, chỉ nẻo dẫn đàng, người Ðạo chưa phế được tham danh chác lợi, thì ngày ấy Ðạo nơi đây chưa gọi là trọn thành, thì cũng chưa một ai mong khởi công mà tầm địa vị thiêng liêng được.
Ðường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Ðạo tầm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nguồn Tiên tầm Ðạo dễ gì đâu?
Quyền phép Càn khôn một túi thâu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chánh tà đôi nẻo tua tầm chước,
Hư thiệt muôn phần gắng định phương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bậy: Sai trái, không kể gì lề lối, khuôn phép.
Tầm bậy là bậy bạ, vớ vẩn, sai, không đúng về mặt nhận thức, xử sự, hay đạo đức.
Như: Nó hay ăn nói tầm bậy.
Rồi lại cắt nghĩa ra tầm bậy,
Rằng dung là gìn lấy đẹp riêng mình.
(Phương Tu Đại Đạo).
尋 真
Tầm: Tìm kiếm. Chân (chơn): Thực, chơn lý.
Tầm chân (chơn) là tìm cầu cái chơn thực.
Thành ngữ thường có câu: “Lánh giả tầm chân” là bỏ giả tìm thực, ý nói bỏ cái giả tạm của vật chất, để tìm cái chơn thực của linh hồn trong sạch.
Cõi trần là chốn mê tân,
Dìu nhau lánh giả tầm chân tiếc gì.
(Thất Nương Giáng bút).
Hay “Tầm chân”.
Tầm: Tìm kiếm. Chơn (chân): Thực, chơn lý.
Tầm chơn, như chữ “Tầm chân 尋 真”, là tìm cầu cái chơn thực.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta được sống trong vòng đạo đức nghĩa nhơn dưới bóng yêu thương của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ, một đời sống của kẻ lánh giả tầm chơn, tuy đạm bạc trong bửa muối dưa nhưng nồng nhuộm nét trong sạch thanh.
Xem: Tầm chân.
Nương thuyền độ khách qua bờ giác,
Luyện tánh tầm chơn dứt mộng trần.
(Thơ Thượng Sanh).
尋 章 摘 句
Tầm chương: Tìm kiếm từng chương sách. Trích cú: Lượm lặt từng câu chữ.
Tầm chương trích cú là tìm từ chương, lượm lặt từng câu. Đây là nói về cách học của những nhà Nho xưa, ý nói nghiên cứu tinh ý từng chương, từng câu của sách vở.
Tầm chương giải thích chơn thường Đạo,
Trích cú ẩn vi pháp diệu thâm.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
尋 道
Tầm: Tìm kiếm. Đạo: Đạo lý, tôn giáo.
Tầm đạo là tìm cầu cái đạo lý, đạo đức.
Tầm Đạo là một mối Đạo mầu, một nền tôn giáo.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu có lời dạy như sau: Nếu đắc Pháp thì phải tầm Đạo. Đạo là vô vi, muốn tầm không phải dễ, mà dễ khó là do nơi mình.
Nguồn Tiên tầm Ðạo dễ gì đâu?
Quyền phép Càn khôn một túi thâu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Trên lộ dưới thuyền du khách ngoạn,
Đường về tầm Đạo động Thiên Thai.
(Thơ Hộ Pháp).
尋 賢
Tầm: Tìm kiếm. Hiền: Lành, người hiền, tôi hiền.
Tầm hiền là tìm cầu việc thiện, hoặc tìm kiếm người hiền lành.
Ngày xưa, các chư hầu hay vua chúa thường tìm kiếm các vị hiền thần về giúp nước, gọi là tầm hiền hay chiêu hiền.
Cao sơn thắng cảnh khách tầm hiền,
Thượng tứ ngày nay hữu huệ duyên.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
Tầm khào, như chữ “Tầm phào”, là tầm xàm, vớ vẩn, vu vơ, không có ý nghĩa gì hết.
Như: Làm toán nó không biết, còn ba cái chuyện tầm khào thì nó lại rất giỏi.
Xem: Tầm phào.
Trí Bần Đạo ngày nay sanh chướng,
Viết tầm khào nói bướng chọc hờn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tầm phào, đồng nghĩa với chữ “Tầm khào”, là vu vơ, hão huyền, không nhằm mục đích gì cả.
Như: Nó nói toàn là chuyện tầm phào, dạy tầm phào vậy mà mầy lại nhớ.
Chính giữa ba quân không lảng trí,
Việc nhà lại chịu nỗi tầm phào.
(Đạo Sử).
尋 方
Tầm: Tìm, kiếm. Phương: Hướng, phương pháp.
Tầm phương là tìm phương hướng.
Tầm phương còn có nghĩa tìm kiếm phương pháp để giải quyết công việc.
Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn dạy: Khi chư hiền đồ tình nguyện ra đi, một là vì Đạo, hai là vì nòi giống, tách mình lìa nơi quê hương, tầm phương giải khổ cho đồng chủng, cảnh đau thương có ai không nhìn nhận.
Phải chốn vĩnh sanh là cửa Phạm,
Tầm phương thoát kiếp ấy căn Nho.
(Thơ Hộ Pháp).
Rẽ chia liệu chước ngăn làn sóng,
Hoà hiệp tầm phương dẫn bước đường.
(Thơ Thượng Sanh).
Đạo Trời thử thách buổi chinh nghiêng,
Quyết chí tầm phương giữ vững thuyền.
(Thơ Khai Đạo).
尋 師 學 道
Tầm sư: Tìm thầy. Học đạo: Do người xưa đi học thường học về đạo lý, nên “Học đạo” là học về đạo đức, pháp thuật, hay giáo lý.
Tầm sư học đạo là thành ngữ xưa dùng chỉ người học trò đi tìm thầy để học hỏi.
Tầm sư học Ðạo bao nhiêu khổ,
Nhưng cũng chiều lòn mới trứ danh.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Khổ tâm bước thấp bước cao,
Tầm sư học đạo công lao chớ phiền.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
尋 仙
Tầm: Tìm kiếm. Tiên: Chỉ vị Tiên hay cõi Tiên.
Tầm Tiên là tìm các vị Tiên trưởng hay tìm đến cõi Tiên, ý xưng tụng đắc quả để chỉ sự chết.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Có đâu đường đời còn lắm giành xé, hại lẫn nhau, mong chi đặng tầm Tiên noi Phật.
Say Ðạo là say bậc Thánh Hiền,
Hiền xưa sớm để bước tầm Tiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Sư phụ đành cỡi hạc tầm Tiên,
Hễ Trời khiến sanh ly tử biệt.
(Văn Tế Đốc Học).
尋 常
Tầm: Tìm kiếm, tám thước. Thường: Bình thường.
Tầm thường là không quan trọng, không có gì đặc biệt, hay đặc sắc.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy về Cơ Bút có câu: Kẻ phò cơ, chấp bút cũng như tướng soái của Thầy để truyền đạo cho thiên hạ. Các con đừng tưởng việc bút cơ là việc tầm thường.
Con người chỉ là con người của vật chất, quá tầm thường sanh ra để gây rối cho gia đình và xã hội.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
浸
Tẩm là làm cho một chất lỏng ngấm vào, dầm, tức làm cho chất lỏng ngấm hoặc chất đường phủ lên.
Như: Tẩm thuốc, vị thuốc có tẩm rượu, bánh mì tẩm đường hột gà.
Ðạo căn nhứt lượng tẩm sài hồ,
Chuyên trị nhứt thời hạnh khả đô.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bịnh trầm kha lâu ngày đã lậm,
Thuốc tiên hoàn gội tẩm cũng trơ trơ.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
新 民
Tân: Mới. Dân: Người dân.
1.- Tân dân là người dân sống theo trào lưu mới, tức là người dân biết trau dồi trí thức và tinh thần của mình mỗi ngày một mới, theo trào lưu tiến hoá của xã hội.
Vua Thành Thang cũng có dạy về Tân dân như sau: Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân 苟 日 新 日 日 新 又 日 新, nghĩa là nếu mỗi ngày một nên mới thì ngày ngày phải nên mới, lại càng ngày càng mới.
Đổi mới là điều rất cần thiết, vì quy luật của sự tiến hoá thì phải đào thải những gì không thích ứng với hoàn cảnh mới.
Cơ Trời xây đổi lập Tân Dân,
Cái hủ tệ xưa phải bỏ lần.
(Đạo Sử).
Chánh giáo chấn hưng huờn thượng cổ,
Độ đời mạt kiếp phục tân dân.
(Thơ Thanh Tòng).
2.- Tân Dân 新 民 còn là một phẩm trong Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng, thuộc Cơ Quan Phước Thiện của Đạo Cao Đài.
Phẩm Tân Dân trên phẩm Minh Đức, dưới phẩm Thính Thiện.
Ngôi Phật Tử là hàng cao nhứt,
Còn dưới thì Minh Đức, Tân Dân.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
新 學
Tân: Mới. Học: Thu nhận kiến thức, luyện tập kỹ năng, do người khác truyền lại.
Tân học là nền học vấn mới dưới thời Pháp thuộc, lấy tư tưởng học thuật của phương Tây làm cơ sở. Tân học trái với cựu học (hay cổ học).
Tân học giả là người theo nền tân học.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðời nay văn minh tiến bộ, cái văn hoá mới lan tràn trong nước dường như phe tân học quá thiên về đường vật chất, nên phần nhiều người cầm giềng mối chính trị hay biết về quyền hành chớ không muốn biết đến đạo đức.
Xiêm áo chỉnh tề tân học giả,
Dung nghi hào phóng cựu viên quan.
(Thơ Vạn Năng).
新 經
Tân: Kinh. Kinh: Sách chép lời Thánh hiền, Tiên Phật dùng làm khuôn phép, hay dùng để tụng đọc lúc cầu nguyện trong tôn giáo.
Tân kinh là kinh mới được ban cho, đó là những bài kinh của tôn giáo Cao Đài được các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Những kinh sách của Phật giáo, Công giáo trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ được gọi là Cựu kinh. Kinh của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trong quyển kinh Thiên Đạo và Thế Đạo được gọi là Tân kinh.
Cửu Trùng độ thế Tân kinh chuyển,
Tam giáo quy nguyên Cổ pháp bày.
(Thơ Huệ Phong).
辛 苦
Tân: Cay, dùng để chỉ sự cực khổ. Khổ: Đắng, dùng để chỉ sự khó nhọc.
Tân khổ tức là cay đắng, ý muốn nói cuộc đời đầy gian nan, khó nhọc, cực khổ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Thầy rất đẹp lòng đặng môn đệ ái kính như các con yêu dấu nơi Thánh địa nầy. Ðường tân khổ lắm vày vò, buổi an nhàn đâu kẻ hưởng, tuồng thế cũng gay go, mà bước trần càng khốn đốn.
Bến đời khuất lấp mùi tân khổ,
Cửa khuyết gội nhuần giọt Thánh ân.
(Thơ Thượng Sanh).
Đầu xanh sớm nhuộm màu tân khổ,
Tóc bạc chưa thanh gánh nợ nần.
(Thơ Thuần Đức).
Não nồng kiếp sống mùi tân khổ,
Trôi nổi bèo tan sóng dập dồi.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
新 郎
Tân: Mới. Lang: Chàng.
Đời nhà Đường, chữ tân lang dùng để chỉ những người thi đỗ. Đến đời Tống, tân lang được dùng để chỉ người mới cưới vợ, hay chàng rể mới.
Như: Tân lang và tân giai nhân.
Thi chúc tân lang tràn ý đẹp,
Rượu mừng cố hữu ngát hương xuân.
(Thơ Thuần Đức).
新 律
Tân: Mới, bắt đầu. Luật: Luật pháp.
Tân luật là luật tu mới, tức là luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Còn luật tu của thời Nhứt kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ là luật tu cũ, nên gọi là Cựu Luật.
Tân Luật của Đạo Cao Đài là một bộ luật tu trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, được Hội Thánh thay mặt nhơn sanh soạn thảo, Đức Hộ Pháp công nhận và Đức Chí Tôn phê chuẩn.
Theo Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, người không tuân Tân luật và các luật lệ Hội Thánh sẽ phạm đệ nhứt hình thì phạt trục xuất.
Trong Pháp Chánh Tuyền Chú Giải có câu: Ấy vậy, Tân luật đã gồm trọn cả Tam giáo, tức là một thành ba, mà ba Cựu Luật của Tam giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là Tân Luật.
Chớ chi Thầy đến mà làm cho giảm sự khổ não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào còn lập Tân luật ràng buộc các con thêm nữa ...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
新 年
Tân: Mới. Niên: Năm.
Tân niên là năm mới. Như: Tân niên khai bút.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Luôn dịp Bần Ðạo cầu chúc tân niên nầy, cả con cái của Chí Tôn nam nữ, Thánh Thể của Người được tráng kiện tinh thần và hình thể, hưởng được hạnh phúc đặc biệt của Chí Tôn chan rưới...
Đinh Dậu tân niên đến đỡ đời,
Chuyển xây cho kịp máy cơ trời.
(Bát Nương Giáng Bút).
新 娘
Tân: Mới. Nương: Người con gái.
Tân nương là chỉ người con gái mới về nhà chồng, tức chỉ nàng dâu mới.
Bỗng tân nương hoá đời chinh phụ,
Bởi thiếu lang theo tiếng quốc thiều.
(Thơ Hoàng Nguyên).
新 法
Tân: Mới, mới mẻ. Pháp: Phương pháp, pháp luật, hay giáo pháp.
Tân pháp là phương pháp mới, hay hệ thống pháp luật mới.
Tân pháp là giáo pháp của nền tôn giáo mới. Đó là giáo lý của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức đạo Cao Đài.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Cả Thánh Ngôn của Thầy dạy dỗ chúng ta từ buổi Khai Đạo đến chừ đã hiện thành Tân Pháp mà ngày nay chúng sanh còn chưa hiểu thấu.
Tùng theo Tân Pháp Chí Tôn,
Đường tu của Phật nay huờn như xưa.
(Lục Nương Giáng Bút).
新 封
Tân: Mới. Phong: Ban cho phẩm tước.
Tân phong là những người mới được phong phẩm.
Như: Lễ Sanh Tân phong là những vị vừa được ban phẩm Lễ Sanh.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Những vị Lễ Sanh tân phong, ta cũng nên rộng ân phong thưởng, nhưng mà ra lịnh cho ba vị Quyền Chánh Phối Sư xem xét lại hồ sở kỹ lưỡng đặng bôi xoá những vị mới phạm tội, còn những vị không phổ tế, không giáo đạo thì nên đình đãi lại.
Bần Đạo sẽ rút hết và sẽ giao quyền Phước Thiện cho mấy vị Tân phong điều khiển.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
新 史
Tân: Mới. Sử: Lịch sử.
Tân sử là sử mới, tức những sự kiện vừa xảy ra được ghi vào lịch sử.
Trang tân sử là trang sử mới.
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Ðổ lệ cùng nhau gượng để lời.
(Thơ Thượng Sanh).
莘 酸
Tân: Cay. Toan: Chua.
Tân toan là cay và chua, dùng để chỉ sự buồn rầu, vất vả hay đau khổ.
Thánh giáo Thầy có câu: Kiếp trần ai lắm nỗi vày vò, các con ở nhằm thời đại nầy, đặng lắm cuộc tân toan, nên mới để ý vào đường đạo đức. Nếu chẳng vậy thì các con cũng đã như ai, đem thân vùi dập trong chốn lợi quyền, tranh tranh cạnh cạnh, biết ngày nào rồi?
Tân toan khổ hạnh phải trau dồi,
Bước tới đường dài chớ trở lui.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vì thương đời mà khổ hạnh đa đoan,
Bởi mến đạo tân toan lắm nỗi.
(Thơ Hộ Pháp).
Chín năm binh biến phải tân toan,
Cứu cánh buồn trông việc bất toàn.
(Thơ Thuần Đức).
Hay “Tân triều”.
Tân: Mới. Trào (triều): Nước lên xuống.
Tân trào, như chữ “Tân triều 新 潮”, là trào lưu của xã hội xu hướng theo sự đổi mới.
Như: Xã hội ở thành phố hiện nay, người dân thường có xu hướng theo tân trào.
Tân trào cuồn cuộn sóng văn minh,
Bủa khắp nền nhân đã gập ghình.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Bởi chuộng hư danh, chê cổ tục,
Bởi thương vật chất mến tân trào.
(Thơ Tiếp Đạo).
新 春
Tân: Mới. Xuân: Mùa xuân.
Tân xuân là mùa xuân mới, chỉ năm mới.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Một năm chóng thoát qua, nhớ lại Xuân trước vừa đến mới ngày nào nay chúng ta lại sửa soạn đón chào Tân Xuân sắp đến nữa.
Canh Tý tân xuân khởi tiến hành,
Cao Đài Đại Đạo đặng thinh danh.
(Thơ Nguyệt Quang).
Để bước tân xuân viếng núi Bà,
U nhàn cảnh tịnh hứng lòng ta.
(Thơ Huệ Nghiêm).
新 春 元 旦
Tân xuân: Mùa xuân mới. Nguyên đán: Ngày đầu của một năm, chỉ ngày mùng một tết.
Tân xuân nguyên đán là ngày đầu tiên của mùa xuân mới, tức là ngày mùng một tết Âm lịch đầu năm.
Kim vì Tân Xuân Nguyên Đán phong khí ôn hoà, Thiên địa giao thừa, lý đoan du thỉ, vạn vật giai đắc hữu sanh.
(Sớ Văn).
1.- Tấn là lớp, tuồng hát, thường dùng để chỉ từng cảnh ngộ có nhiều kịch tính ở đời. Như: Tấn thảm kịch của gia đình, tấn tuồng hài hước của xã hội hiện nay.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Tôn Trung Sơn có câu: Vui quá há! Chư vị chiến sĩ hải ngoại đã thấy gì ở Âu Châu? Thì cũng một tấn tuồng hát như ở đây vậy, có chi là lạ, thì cũng gian cũng dối, cũng hung cũng bạo, cũng tàn ác, cũng tham lam.
Trả vay mau tợ cuồn phim chớp,
Vinh nhục rồi như tấn kịch chơi.
(Thơ Huệ Ngàn).
Khúc phim sân khấu tấn tuồng đời,
Ba vạn sau ngàn khách mấy mươi.
(Thơ Chơn Tâm).
2.- Tấn, còn đọc “Tiến 進”, là lên, đi lên. Như: Tấn binh, tấn tới, tấn bộ, hậu tấn.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Hễ nó tấn thì mình chống, cân sức cho bằng hay là trổi hơn mới đắc thắng. Các con chịu nổi thì Ðạo thành, còn các con ngã thì Ðạo suy. Liệu lấy!
Bồ Đề Dạ dẫn hồn thượng tấn,
Cực Lạc Quan đẹp phận Tây Qui.
(Kinh Tận Độ).
Gương sáng phước Trời soi hậu tấn,
Chờ xuân khải chiết đắc mai chi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Trăm năm chưa hẳn nên hiền đức,
Tấn nẻo chông gai khá lựa dèo.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Tấn 晉 là một nước chư hầu về đời Xuân Thu bên Trung Hoa. Tần Tấn là hai nước thường thông hôn với nhau, nên dùng điển nầy để nói hai họ thông gia.
Như: Vầy duyên Tần Tấn.
Trước ưng chịu duyên vầy Tần Tấn,
Hơn thua chi còn lấn hiếp nhau.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Tiến bộ”.
Tấn (tiến): Đi lên, tiến tới. Bộ: Bước.
Tấn bộ, như chữ “Tiến bộ 進 步”, là bước lên trước, vươn tới trước, tức phát triển theo hướng đi lên, trở nên tốt hơn trước.
Như: Học tập có tấn bộ, cùng dìu dẫn nhau để tấn bộ.
Xem: Tiến bộ.
Ðạo độ rỗi linh hồn thoát khổ,
Nương chơn truyền tấn bộ đường Tu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Hay “Tiến hoá”.
Tấn: Còn đọc “Tiến 進”, là lên, đi lên. Hoá: Đổi hình dạng, đổi tính khí, biến đổi.
Tấn hoá, như chữ “Tiến hoá 進 化”, là biến đổi dần theo hướng phát triển đi lên, trái với thoái hoá.
Thánh giáo Thầy có câu: Địa cầu 68 nầy đã đến buổi tấn hoá lên tột phẩm cao trọng, tức các Chơn linh đến gầy Đạo cũng tấn hoá vào hàng Thượng phẩm.
Đuốc huệ rạng soi đường tấn hoá,
Thuyền từ nhẹ tách bến luân hồi.
(Cao Tiếp Đạo).
Hay “Tiến phát”.
Tấn (tiến): Bước tới, đưa dẫn tới. Phát: Chỉ sự thịnh vượng, như phát đạt.
Tấn phát, như chữ “Tiến phát 進 發”, là tấn tới và phát đạt.
Như: Năm nay, việc kinh doanh của anh ấy càng ngày càng tấn phát.
Một xuân qua là một dặm đường phải bước tới, mà Thầy ngảnh lại bước đường của môn đệ, Thầy vẫn thấy sụt sè chớ chưa thấy chi có mòi tấn phát.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Hay “Tiến phong”.
Tấn (tiến): Đưa lên. Phong: Ban phẩm tước.
Dâng danh sách cầu phong hay cầu thăng lên các Đấng Thiêng liêng hay Hội Thánh để cầu ban phẩm tước cho, gọi là “Tấn phong” (Tiến phong 進 封).
Tấn phong là phong chức vị cao nhứt. Như: Tấn phong Hoàng hậu.
Trong tôn giáo Cao Đài, vào năm Tân Hợi 1971, các vị Chức sắc Thời quân Hiệp Thiên Đài đồng công cử Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức thay thế Đức Thượng Sanh vừa mới quy Tiên, lên nắm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài. Hội Thánh định làm lễ Tấn phong, Đức Hộ Pháp có giáng cơ dạy như sau: ...có người hiểu Tấn phong là đội mão (Couronnement), cái đó không phải Tấn phong mà là Gia miện, chỉ có bậc vua mới được; còn lễ toàn đạo hiệp lại tổ chức cuộc lễ cho có vẻ tôn nghiêm, rồi toàn thể Chức sắc Thiên phong đến hành lễ bái mạng cho vị Tân phong đủ uy quyền với toàn Đạo.
Hiện nay lễ Tấn phong được dùng cho toàn thể các vị Chức sắc lớn nhỏ.
Hiến Pháp Chơn Quân nắm mối giềng,
Tấn phong sứ mạng bảo cung Thiên.
(Thơ Phạm Mộc Bổn).
Tấn phong, tân nhiệm mừng tiên tiến,
Thăng phẩm tiễn hành chúc thái lai.
(Thơ Hoàn Nguyên).
晉 秦
Tấn Tần là nói đến hai nước Tấn và nước Tần đời Xuân Thu Chiến Quốc.
Do tích ngày xưa vua hai nước Tấn Tần nối tiếp gả con cho nhau. Vì vậy, chữ “Tấn Tần” được dùng để chỉ duyên vợ chồng.
Xem: Tấn Tần.
Muốn khuyên giảm bớt ái ân,
Lại e giục kẻ Tấn Tần chia phôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Bỗng cánh thư từ quan ải đến...
Tấn Tần sắp được cận kề nhau.
(Thơ Nguyễn Nga).
Hay “Tiến thoái”.
Tấn (tiến): Đi tới. Thối (thoái): Đi lui.
Tấn thối, như chữ “Tiến thoái 進 退”, là đi tới hoặc đi lui, tức là làm hay nghỉ, chỉ sự lưỡng ước.
Thành ngữ thường có câu: Tiến thoái lưỡng nan 進 退 兩 難, nghĩa là tới cũng khó mà lui cũng khó.
Thánh giáo Thầy có dạy: Biết Ðạo, biết ta biết người, biết thế biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt, rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối.
Trau dồi cho xứng phận nga my,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tấn thối dè chừng mưu kế hiểm,
Thiệt hư gìn nhẹm chước phương hay.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Tấn thối mảng lo đời ấm lạnh,
Chập chồng đã trải mấy thương đau.
(Thơ Thượng Sanh).
1.- Tần 蘋 là tên mội loại rau mọc ở dưới nước.
Tảo tần là rau tảo và rau tần, dùng để chỉ người đàn bà đảm đang công việc trong nhà.
Như: Làm ăn tần tảo để nuôi con, mua tảo bán tần.
Có thân thiệt khổ cho thân,
Sớm khuya buôn tảo bán tần đủ đâu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tảo tần con khá gắng chung lo,
Ðẹp thiếp mới ra nở mặt trò.
(Đạo Sử).
Thà tảo tần mơi cháo, chiều rau,
Biết thủ nghĩa hơn nhà cao cửa rộng.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tần 秦 là tên một nước mạnh đời Chiến Quốc, sau nhứt thống nước Tàu thành một triều vua.
Như: Nước Tần gồm thâu sáu nước.
Thánh giáo Thầy có câu: Các con, nền Ðạo bề ngoài coi diềm dà sung túc, mà chẳng thấy rõ cái mạch bịnh trong tâm, chẳng khác chi thế Sở chế bạo Tần, ham cái mạnh bề ngoài, biết sợ cái mặt chớ chẳng rõ lòng người ra sao, mà không độ cái mạnh cấp thời đó sẽ dần dần tan như giá mà đổi ra yếu hèn thấp nhược.
Chước khéo là thâu lòng với đức,
Xưa Tần vong nghiệp bởi không lành.
(Đạo Sử).
Muốn khuyên giảm bớt ái ân,
Lại e giục kẻ Tấn Tần chia phôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
秦 檜
Tần Cối là người Giang Ninh, làm quan đến chức Tể tướng đời Tống. Ông dựa thế lực của nước Kim để củng cố địa vị của mình, vì thế ông chủ trương hoà hoãn với Kim và tìm cách vu khống giết hại Nhạc Phi, là một vị trung thần của nhà Tống.
Tần Cối làm Tể tướng suốt 19 năm, đã tìm cách giết hại biết bao nhiêu tôi trung và tướng giỏi.
Sau ông bị giết chết và bị người đời liệt vào người nham hiểm, nịnh hót nhứt.
Ông Hồ Ðịch thấy Nhạc Phi bị Tần Cối giết một cách tàn nhẫn vì tại ngu trung, nghe Phiên đem binh phạt Tống, ngồi xem kết quả bên nào ăn thua.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
秦 嶺
Tần Lãnh là tên một quả núi.
Thơ Hàn Dũ có câu: Vân hoành Tần Lãnh gia hà tại? 雲 橫 秦 嶺 家 何 在, nghĩa là Núi Tần mây phủ nhà đâu nhĩ?. Vì vậy, Tần lãnh hay mây Tần được dùng để nói việc nhớ nhà, nhớ quê hương.
Xem: Mây Tần.
Viễn xứ tha phương sầu quạnh quẽ,
Mây vầng Tần lãnh buổi chiều hôm.
(Thơ Thiên Vân).
秦 人
Tần: Nước Tần, chỉ nước Miên. Nhơn: Người.
Tần nhơn là người nước Tần, tức người Miên.
Trong đạo Cao Đài, có rất nhiều người Miên theo đạo, nên Hội Thánh lập ra Tông đạo Tần nhơn, để dìu dẫn các tín đồ Cao Miên.
Trước cổng văn phòng Tông đạo Tần nhơn có câu liễn: Tần nhơn hiệp chủng kim triêu hướng thiện hưởng Thiên ân 秦 人 合 種 今 朝 向 善 享 天 恩, nghĩa là người Cao Miên hợp cùng chủng tộc họ ngày nay hướng về điều lành sẽ được hưởng ân huệ của Đức Chí Tôn.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nếu chức sắc lúc ban sơ không có chí hy sinh và sụt sè vì những trở ngại, nếu Ðức Thượng Phẩm không có chí cương quyết điều khiển công quả, phần nhiều là người Tần Nhơn thì ngày nay đâu có vùng Nội ô Thánh Ðịa, đâu có một đô thị tôn giáo trang hoàng và xinh đẹp nhứt trong nước Việt Nam.
Xem: Tần Quốc.
Chữ tu tiếng Phạn gọi là Dyana, người Miên tức nhiên người Tần Nhơn nói trại lại một chút Xaxona.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
秦 國
Tần quốc là nước Tần, một nước chư hầu ngày xưa trong Đông Châu liệt quốc.
Tần quốc còn dùng để chỉ nước Miên.
Trong đạo Cao Đài, có rất nhiều người Miên theo đạo, nên người ta gọi dân Miên gọi là Tần nhơn và nước Cao Miên là Tần quốc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Từ buổi Đạo khai tại Tần Quốc, thì Ngài (Victor Hugo) giáng cơ với danh hiệu là Chưởng Đạo Nguyệt Tâm, Chưởng Quyền Hội Thánh Ngoại Giáo, Ngài là một nhà thi sĩ trứ danh của nước Pháp trong thế kỷ thứ 19.
Lượng trên đã mở nỗi oan xưa,
Tần quốc từ đây hưởng phước thừa.
(Tiêu Diêu Đạo Sĩ).
Năm Đinh Mão mở nơi Tần quốc,
Đức Nguyệt Tâm đắc nhứt chỉ truyền.
(Xưng Tụng Thanh Sơn).
Nghe “Tây Sơn Đạo” nương Tần Quốc,
Nên đến thăm nhau thử một lần.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
秦 晉
Tần Tấn là hai nước trong thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, vua hai nước thường gả cưới con cái cho nhau trải qua nhiều đời.
Tần Tấn chỉ sự kết duyên vợ chồng.
Do điển Tấn Huệ Công phụ ước với vua Tần, bị Tần đem quân đánh, bắt Thái tử Ngữ làm con tin. Sau Công chúa Hoài Danh được vua Tần Mục Công gả cho Thái tử Ngữ và cho trở về Tấn. Từ đó về sau, con cháu hai nước cưới gả cho nhau rất tốt đẹp, nên người đời sau gọi là duyên Tần Tấn.
Trước ưng chịu duyên vầy Tần Tấn,
Hơn thua chi còn lấn hiếp nhau.
(Phương Tu Đại Đạo).
秦 始 皇
Tần Thuỷ là nói tắt của “Tần Thủy Hoàng”, một vị vua nhà Tần, thời Đông Châu Liệt quốc, sau diệt được sáu nước, thống nhứt thiên hạ, lên ngôi xưng là hiệu Tần Thuỷ Hoàng Đế.
Tần Thuỷ Hoàng là vị vua hung bạo, thích việc hình phạt, chém giết để ra uy, không dùng nhân đức để trị dân.
Ông tên là Chính, người thông minh, có tài, nhưng tính hà khắc và bạo ngược, lên ngôi vua lúc 13 tuổi. Năm 221 trước công nguyên, gồm thâu được sáu nước đời Chiến Quốc mà thống nhất Trung Hoa, cho vương hiệu vương không còn tôn quý nữa, bèn xưng “Hoàng Đế” (ý muốn nói đức kiêm cả Tam Hoàng, công hơn cả Ngũ Đế). Vua bỏ phong tục cũ, thu sách vở trong nước đem đốt đi và chôn sống hơn bốn trăm Nho sĩ, mà sử gọi là nạn “Phần thư khanh nho 焚 書 坑 儒”.
Trong thời gian cai trị vua sai Mông Điềm đắp Vạn Lý Trường Thành để phòng giữ giặc Hung Nô, dựng cung A Phòng, xây Hoàng Lăng ở Ly Sơn tốn đến sáu bảy vạn dân công. Đúc 12 người ta bằng đồng, nặng 24 ngàn cân để trong cung đình. Trong một cuộc xuất du, vua bị bịnh mà mất lúc còn đang đi đường.
1.- Tần Thủy Hoàng:
Võ Tắc Thiên hoang dâm thái thậm, Tuỳ Dương Ðế lỗi đạo muôn phần, khi Sở Hạng bạo ngược vô biên, Tần Thuỷ Hoàng hôn quân cực điểm...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Tần Thuỷ:
Sang như Tần Thuỷ lúc đương hưng,
Chừng quá ba đời hết các lân.
(Đạo Sử).
殯 殮
Tẩn: Còn đọc là Tấn 殯: đặt xác người chết vào quan tài rồi đậy nắp kín lại. Liệm 殮: Bọc xác người chết bằng nhiều lớp vải rồi đặt vào áo quan.
Tẩn liệm là dùng vải trắng và các thứ vật liệu như giấy, trà hoặc tro trấu... để bọc xác người chết, rồi đặt vào quan tài, đậy nắp, đóng kín lại.
Theo nghi lễ của Cao Đài có hai cách tẩn liệm:
- Tiểu liệm gồm có một dây tung, một cái khâm, ba sợi dây hoành.
- Đại liệm thì một sợi dây tung, một cái khâm, nhưng có năm sợi dây hoành.
Sự Tẩn liệm mang ý nghĩa là trân trọng quý báu thi hài của người mất. Người xưa, nhà giàu thì dùng vóc nhiễu, tơ lụa, nhà nghèo thường dùng vải trắng để khâm liệm người chết.
Ngày nay, tín đồ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ theo nghi tiết giản tiện, tuỳ theo gia cảnh, chỉ dùng vải trắng để tiểu liệm hoặc đại liệm cho thi hài người chết mà thôi.
Trong Quan Hôn Tang Lễ, Hội Thánh khuyên: Người Đạo nếu nhà dư ăn dư để chẳng nói làm chi. Đến như những nhà bần hàn cơ cực, kẻ hành sự nên sáng suốt, biết biến chế, bỏ cái này, thay cái kia; giấy vải dùng thứ nhẹ tiền, dùng một lớp vải tiểu liệm đủ rồi, không cần phải thêm lớp vải đại liệm làm chi. Điều cần nhứt là việc làm phải kỹ càng, thi hài được bao bọc an toàn, kín đáo. Cây trường và kèn dùng rơm làm nòng, ngoài bao giấy để bớt tốn kém.
Đến giờ tẩn liệm bỗng mưa rơi,
Giọt tiếc giọt thương một mảnh đời.
(Thơ Hoàn Nguyên).
盡
1.- Tận là hết. Như: Tận thế, diệt tận phàm tâm, năm cùng tháng tận.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có đoạn: Chiều thu nguyệt xế, non nhạn ngày thâu, lẩn thẩn ngày tháng qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc. Nếu chẳng bền lòng theo nẻo chánh mà thoát lối sông mê thì căn quả trả vay, chẳng biết ngày nào tiêu tận đặng.
Mai tàn tuyết xủ đời thay đổi,
Dữ tận hiền thăng khách lọc lừa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tận là cùng tột, đến nơi. Như: Tiền đưa tận tay, cơm bưng tận miệng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Trong vạn vật hiện hữu trên quả địa cầu nầy, các con là kẻ được ban ân huệ nhiều hơn cả; Thầy đem các con đến tận Thầy bằng cả tinh thần lẫn trí huệ.
Sắc Trời đã đến tận nơi tay,
Cực nhọc khuyên con chớ dạ nài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nguồn Ðạo tìm vào đã tận nơi,
Rán đưa chơn tục chí đừng dời.
(Đạo Sử).
盡 志
Tận: Hết dứt, chết. Chí: Ý muốn bền bỉ theo đuổi một việc gì tốt đẹp.
Tận chí là hết ý chí.
Người tận chí là người làm bất cứ công việc nào cũng với tất cả ý chí của mình.
Phần nhiều hữu công mà chưa tận chí, không vì sanh chúng giữ phẩm hạnh hoàn toàn, cho đáng nét yêu đương của Thầy đã vì các con mà bố hoá.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
盡 滅
Tận: Hết dứt, chết. Diệt: Làm cho tiêu hết.
Tận diệt là tiêu diệt hoàn toàn.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Các con có biết chăng hiện nay vì thế gian rất hung bạo nên thời kỳ tận diệt đã hầu kề. Nhân loại tàn sát lẫn nhau bởi không biết dùng khoa học vào việc phải, nên nó mới biến thành chia rẽ và chiến tranh.
Xem: Tận thế.
Nài nỉ xin đình ngày tận diệt,
Hầu lo độ rỗi phỉ tình tôi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Bảo cọp thành chiên đời tận diệt,
Dời non đổi biển hại nhơn gian.
(Thiên Thai Kiến Diện).
盡 墮 三 途
Tận đoạ: Đày đoạ hết mức. Tam đồ: Ba đường, ý chỉ ba vòng luân hồi từ kim thạch lên đến nhân loại.
Tận đoạ tam đồ là một hình phạt đày đoạ hết sức nặng nề, phải chuyển kiếp từ kim thạch lên đến con người, ba vòng như vậy không biết mất bao nhiêu lâu mà nói.
Tận đoạ tam đồ chi khổ là cái khổ của sự đày đoạ chuyển kiếp ba vòng từ kim thạch đến con người.
Tận đoạ tam đồ bất năng thoát tục là đày đoạ ba vòng chuyển kiếp từ kim thạch đến con người, không thể thoát khỏi cảnh trần tục.
...phải sợ người mà chẳng những có thể giết thi hài của mấy em, mấy con, mà còn tận đoạ tam đồ chi khổ, lại còn truất cả đại nghiệp của mấy em và mấy con nữa.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
盡 度
Tận: Hết. Độ: Cứu giúp.
Tận độ là cứu giúp tất cả chúng sanh, không bỏ sót một người nào.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy, nghĩa là Hội Thánh của Ðại Ðạo ngày nay, rồi thì Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy đặng đủ phương tận độ chúng sanh
Nam Mô Thượng Đế Ngọc Hoàng,
Mở cơ tận độ nhẹ nhàng chơn linh.
(Kinh Tận Độ).
Nghe chày kình khua tiếng chốn đền thờ,
Giục nhớ khách dõi khai đường tận độ.
(Văn Tế Tiểu Tường).
Tận độ: Cứu giúp tất cả chúng sanh, không bỏ sót một người nào. Chúng sinh (sanh): Tất cả các loài sanh vật gồm thảo mộc thú cầm, nhơn loại, chỉ chung nhơn loại, nghĩa thông thường “chúng sanh” là nhơn loại.
Tận độ chúng sanh, như chữ “Tận độ chúng sinh 盡 度 眾 生”, là cứu giúp tất cả nhơn loại, không bỏ sót một người nào. Đồng nghĩa với “Tận độ nhân sinh 盡 度 人 生”.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy, nghĩa là Hội Thánh của Ðại Ðạo ngày nay, rồi thì Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy đặng đủ phương tận độ chúng sanh; còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh chúng, dưới quyền hành chuyển thế của Ðời, nghĩa là toàn nhơn loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo hoá vạn linh vốn là con cái của Thầy.
Ngài tìm phương pháp để tận độ chúng sanh, cơ tận độ ấy chưa thành tựu...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Hay “Tận độ nhân sinh”.
Tận độ: Cứu giúp hết tất cả. Nhơn sanh (nhân sinh): Cuộc sống của con người, chỉ con người.
Tận độ nhơn sanh, như chữ “Tận độ nhân sinh 盡 度 人 生”, là cứu giúp tất cả nhơn loại, không bỏ sót một người nào.
Lời nói đầu của quyển Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo có viết: Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: Đã trải qua mười năm Chí Tôn mới mở cơ tận độ. Cơ tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh này mà thôi.
Tiên đàng nhứt thế biến Lôi Âm,
Tận độ nhơn sanh thoát tục phàm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
盡 力
Tận: Hết sức. Lực: Sức lực.
Tận lực là hết sức mình để làm việc.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy cũng hoan tâm nắm máy huyền vi, mong rằng các con sẽ tận lực tận tâm đắp vững nền Ðạo đặng hoàn toàn mà dìu sanh chúng thoát khỏi tội tình, cùng nhau đỡ nâng đem lên con đường Cực Lạc.
Kiến trúc mười năm nhờ tận lực,
Tạo thành nghìn thuở để lưu công.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Hay “Tận nhân lực tri thiên mệnh”.
Tận nhơn (nhân) lực: Đem hết sức lực của con người ra làm việc. Tri Thiên mạng (mệnh): Biết được số mạng của Trời.
Tận nhơn lực tri Thiên mạng, như câu “Tận nhân lực tri Thiên mệnh 盡 人 力 知 天 命”, là đem hết sức lực con người ra làm việc, đến khi kết quả được hay thua thì mới biết được mạng của Trời.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Phương ngôn Pháp có câu “Aide-toi le ciel t’aidera” và Tiên Nho chúng ta nói “Tận nhơn lực tri thiên mạng” điều nầy hiển nhiên chơn thật lạ lùng chúng ta rán cố gắng hết sức mình thì Chí Tôn mới ban cho cái huyền linh của Ngài, nếu không rán không thế gì hưởng được...
Tôi tin chắc rằng Hội Thánh Phước Thiện có thể điều động việc lập cơ sở, mặc dù là có điều khó khăn, nhưng phải tận nhơn lực mới tri Thiên mạng.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
盡 心
Tận: Hết sức. Tâm: Lòng.
Tận tâm là hết lòng, tức là hết sức thành thật để thi hành công việc.
Thánh giáo Thầy dạy: Muốn bước khỏi cần phải có bền chí tận tâm, và phải gắng xem đạo đức là trọng hơn muôn việc vui thích ở cõi trần nầy.
Đừng cố giữ nỗi phiền buổi nọ,
Phải tận tâm hiệp ngõ chọn hiền.
(Thất Nương Giáng Bút).
Gắng chí độ đời danh tạc để,
Tận tâm dìu chúng sử truyền roi.
(Thơ Huệ Giác).
盡 瘁
Tận: Hết sức. Tuỵ: Nhọc mệt.
Tận tuỵ là đem hết sức mình ra phụng sự cho con người đến nỗi phải hết sức nhọc mệt.
Kinh Thi có câu: Hoặc tận tuỵ trị quốc 或 盡 瘁 治 國, nghĩa là hoặc là hết sức mình lo việc nước.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chức sắc đã hiến thân cho Đạo, quyết xả thân để phụng sự nhơn loại thì bản thân không còn là của mình nữa, phải chết về mặt đời, sống về mặt Đạo, tận tuỵ với nhiệm vụ, không nệ khó khăn lao nhọc thì mới đúng với sự hiến thân của mình.
Vì Đạo mấy mươi năm tận tuỵ,
Nghìn thu lưu mãi nét tinh thần.
(Thơ Thượng Sanh).
Hy sinh tận tuỵ vì nhân loại,
Phần thưởng thiêng liêng ắt sẵn dành.
(Thơ Chơn Tâm).
盡 絕
Tận: Hết, hết dứt, hoàn toàn. Tuyệt: Dứt.
Tận tuyệt là dứt hết, không còn gì.
Đức Lý Giáo Tông có lời dạy: Lão còn cầm quyền ngày nào thì Lão quyết trừ diệt những kẻ tà tâm cho tận tuyệt. Lão nói thật, nền Chánh giáo của Chí Tôn phải ra thiệt tướng, bằng chẳng vậy, thà Lão thối bước lui chơn, hơn thấy Thánh Thể của Người ra ô trược.
Ngày tận tuyệt đã hầu gần, Quỷ vương sắp đến, Thánh ngôn các Ðạo đã khai từ thuở tạo Thiên không đủ kềm thúc nhơn sanh đặng trọn lành.
(Đạo Sử).
盡 世
Tận: Hết dứt, chết. Thế: Đời, cõi đời.
Tận thế là chấm dứt cõi đời, tức là đến thời kỳ con người và vạn vật phải bị tiêu diệt.
Theo các Tôn giáo, con người sống trên quả địa cầu này đã bước sang đến thời Hạ nguơn mạt kiếp, lại nữa con người càng ngày càng tiến hoá về đường vật chất, quên đi nguồn cội đạo đức tinh thần, gây ra biết bao nhiêu là tội ác. Vì vậy, phải có một cuộc tận thế để đổi đời, tức là một cuộc biến thiên rộng lớn làm thay đổi cõi đời, từ ác trược để trở thành thiện thanh, chơn chánh, hay nói cách khác tận thế là sự chuyển đổi của vũ trụ đúng theo luật tuần hoàn của Trời đất, luân chuyển theo tam nguơn từ Hạ nguơn mạt kiếp để trở về với Thượng nguơn Thánh đức.
Tận thế không có nghĩa là nhơn loại bị tiêu diệt hết trong một khoảnh khắc, mà là kéo dài ra theo các cuộc biến động của thiên tai như: Sóng thần, lụt lội, động đất hay dịch bịnh và biến động theo con người trực tiếp gây nên như chiến tranh, giết chóc...
Kinh sách xưa truyền lại, từ trước đến nay đã xảy ra hai lần tận thế: Trận Đại hồng thuỷ do kinh Cựu Ước của Do Thái Giáo ghi lại và Châu Atlantide sụp đổ bởi động đất.
Kẻ nghịch lắm phen hân hủi Đạo,
Đến chừng tận thế mới rồi than.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Tiêu tàn tận thế ắt đời rồi,
Nghe sợ hãi hùng phải nín hơi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Tận thế: Chấm dứt cõi đời, tức là đến thời kỳ con người và vạn vật phải bị tiêu diệt.
Long Hoa: Long hoa là một loại cây hình giống như một con rồng, có nở hoa. Do Đức Phật Di Lạc đắc Đạo tại cội cây Long hoa này, nên Ngài mở và làm chủ một Đại hội thuộc thời kỳ thứ ba, được gọi là Đại hội Long hoa.
Đại hội Long Hoa có nhiệm vụ tuyển chọn những bậc hiền lương, đạo đức, không phân biệt chủng tộc, nòi giống, hiệp nhau làm một trong cuối thời kỳ Hạ nguơn tam chuyển để tạo dựng lại đời Thượng nguơn Tứ chuyển, tức là Thượng nguơn Thánh đức.
Như vậy, Hội Long Hoa nhằm tuyển chọn các bậc hiền lương đạo đức, và loại bỏ những kẻ hung bạo gian tà, thực hiện sự công bình thiêng liêng, để rồi sau đó chuyển qua một giai đoạn tiến hoá mới. Hội Long Hoa chính là cuộc phán xét cuối cùng của chư Thần Thánh Tiên Phật dưới quyền điều khiển của Đức Di Lạc Vương Phật theo lệnh của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Qua cuộc đại hội, những người hiền lương đạo đức sẽ được trúng tuyển, được ban thưởng bằng những phẩm vị thiêng liêng tuỳ theo công đức nhiều ít. Còn những người hung ác gian tà sẽ bị phán xét tội lỗi và loại bỏ, chờ ngày học tập tiến hoá trong một cuộc thi mới sau nầy.
Cho nên Đại hội Long Hoa kỳ ba nầy sẽ có cuộc biến động và khảo dượt dữ dội để sàng sảy, lừa lọc những bậc tài đức để lập đời Thượng nguơn Thánh đức, và loại bỏ những phần tử thiếu đạo đức, hung bạo.
Loại bỏ bằng những cuộc thiên tai địa ách, hoặc những cuộc chiến tranh tương tàn tương sát dữ dội và nhứt là các loại bệnh chướng sát hại có tính quy mô toàn cầu, làm cho nhơn loại trên thế giới tiêu hao gần hết, mà các tôn giáo thường tiên tri là ngày “Tận Thế Long Hoa”.
Sau cuộc Tận thế, nhơn loại được lọc lừa còn lại là những người hiền lương đạo đức để tạo lập một xã hội Đại đồng, cùng sống chung trong tình thương yêu, công bình bác ái. Lúc đó chư Phật Tiên Thánh Thần sẽ giáng trần để tiếp tục hướng dẫn chúng sanh tu hành tiến hoá thêm nữa.
Tận thế Long Hoa sao chẳng thấy,
Cơ trời ngạt khí có hay thôi.
(Bát Nương Giáng Bút).
盡 善 盡 美
Tận thiện: Hết sức tốt. Tận mỹ: Hết sức đẹp.
Tận thiện tận mỹ là cực kỳ tốt đẹp.
Thuyết về Thế Đạo, Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm dạy: Kẻ đã trọn về mặt Thể Pháp tức nhiên hiểu biết Bí Pháp không chi lạ hơn là phương pháp bí yếu nâng cao giá trị cho Thể Ðạo, nói rõ hơn nữa là làm cho Ðời trở nên tận thiện tận mỹ.
Hầu thay thế cho Trời mà trau dồi cơ hữu hình của đời cho ra tận thiện tận mỹ...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
盡 忠
Tận: Hết, tất thảy. Trung: Hết lòng với người, hết lòng với nước.
Tận trung là hết lòng trung thành với nước hoặc với tôn giáo. Tận trung còn có nghĩa là đem hết lòng thành thật của mình đối với người.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Quý vị đã thọ lãnh sứ mạng Thể Thiên Hành Hoá thì mỗi việc làm của Quý vị đều có Thánh Thần chứng kiến sự tận trung với Ðạo sẽ đem đến cho quý vị một phần thưởng Thiêng Liêng xứng đáng.
Quan thì phải tận trung vì chúa,
Dân thì hay tập búa Lỗ Ban.
(Nữ Trung Tùng Phận).
盡 忠 報 國
Tận trung: Hết sức trung thành. Báo Quốc: Báo ơn cho đất nước.
Tận trung báo quốc là hết sức trung thành để đền báo công ơn cho tổ quốc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Vì lẽ ấy mà Bần Đạo phải buộc mình áp dụng phương pháp thọ khổ nhục đặng day trở theo thời cuộc mà cứu vãn tình thế và cũng vì lẽ ấy mà Bần Đạo buộc phải nghe theo đoàn hậu tấn, tận trung báo quốc là để cho chúng nó hy sinh vì chủ nghĩa.
Người dũng cảm tận trung báo quốc,
Chí đởm đương thống nhất giang san.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Tầng, còn đọc là “Từng”, là trải qua. Như: Đẫ tầng làm quan, tầng chịu gian khổ.
Nói về người đàn ông nước Tề có hai vợ, Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Vợ lớn đem lòng nghi, nhơn khi luận bàn với vợ lẽ rằng: Chồng ta nói đi ra ngoài, đồng bàn với hạng người phú quý, mà ta chưa tầng thấy ai lại nhà chơi, vậy ta sẽ tìm biết sự thật coi thế nào?
Đã tầng chịu khó khăn kiếp sống,
Định tâm thần giải mộng Nam kha.
(Kinh Thế Đạo).
Thoát xác xưa tầng tu vạn kiếp,
Ðộ hồn nay gội khắp năm châu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tầng, còn đọc “Từng”, là mặt phẳng ngang ngăn chia không gian thành nững phần trên dưới khác nhau về độ cao.
Như: Nhà có bốn tầng, mấy tầng núi đá, trời có tầng mây đen, ba mươi sáu tầng trời.
Ngày nay Đệ tử khẩn nguyền,
Chín tầng Trời, Đất thông truyền chứng tri.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực lạc, dẫn miền Tây phương.
(Kinh Tận Độ).
Tấp là tiện ghé vào, tạt vào nơi nào đó trong một thời gian ngắn.
Như: Đi ngang tấp vô nhà để uống ly nước, hôm nào mình lên Thành Phố tấp vào nhà bạn chơi.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.
(Đạo Sử).
Tấp: Dạt vào, thường nhiều và lộn xộn.
Tấp nập là từ gợi tả quang cảnh đông người hoạt động qua lại không ngớt.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Sửu có câu: Không thể sợ đặng, không còn biết vị kỷ, nhục nhã chi hết, giữa khoảng đường nơi Châu Thành Sài Gòn thiên hạ tấp nập, mà Ðức Chí Tôn buộc phải quỳ ngoài đường dựa bên lề ấy, quỳ đặng cầu nguyện xin Ðạo cho chúng sanh, tội nghiệp thay!!!
Người tấp nập không thừa chỗ đứng,
Khách đông ken chật cứng nơi ngồi.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
1.- Tập 集 là hợp lại, nhóm lại. Như: Tụ tập, tập hợp, tập thể, tập đoàn.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Về nhiệm vụ của người con dân lúc quốc gia hữu sự, một điều quan trọng mà tất cả các thanh niên học sinh cần phải biết, đó là quốc thể của một nước, tức là sự tập hợp của một khối cá thể của những cá nhân nước ấy.
Cũng may là chúng ta đã làm việc trong tinh thần tập thể, hiệp tâm chung trí, nghe nhau, chìu nhau, ai cũng quyết chí làm nên cho Ðạo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
2.- Tập 習 là năng làm cho quen. Như: Học tập, tập viết, tập đọc, tập trận, tập thể dục.
Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Cái hạnh và cái đức của các con, nó phải phù hạp với cái trách nhậm mới đặng. Các con là đèn và gương soi của nhơn loại, phải tập mình cho xứng đáng.
Cải hạnh đố ngươi về tập thử,
Tháng sau sẽ đến trước trình Ta.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nho nhã con tua tập tánh tình,
Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tập: Làm đi làm lại nhiều lần cho quen, cho nhuần. Dượt: Rèn luyện.
Tập dượt là tập luyện, cho thành thạo, cho giỏi. Như: Tập dượt các tiết mục văn nghệ để trình diễn.
Sự kém cỏi đó, có lẽ một phần Nhạc sĩ thiếu tập dượt, hoặc có thụ huấn mà chưa nhuần nhã.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
襲 吉 迎 祥
Tập kiết: Thừa hưởng điều tốt điều lành. Nghinh tường: Tiếp đón điều tốt đẹp.
Tập kiết nghinh tường là thừa hưởng những điều lành và đón nhận nhiều điều tốt đẹp.
Các Đấng Thiêng Liêng từ bi minh tấu Đức Chí Tôn bố hoá hồng ân, chuyển hoạ vi phước, tập kiết nghinh tường.
(Sớ Văn).
習 慣
Tập: Làm thường cho quen, thành thói quen. Quán: Từng quen.
Tập quán là theo thói quen mà thành ra vững chắc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm lý và tập quán của các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau, mà tranh tranh đấu đấu không ngừng.
Ngoài ra phải biết xét mình, biết so sánh mình với người, phải noi theo những phong tục tập quán tốt, những lễ nghi đương thời.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Tập: Làm thường cho quen, thành thói quen. Rèn: Luyện cho đến mức thuần thục những thói quen hay đức tánh.
Tập rèn, như chữ “Tập luyện 習 練”, là học tập và rèn luyện cho thành thạo.
Như: Mỗi ngày đều có tập rèn bơi lội để chuẩn bị thi.
Rán tập rèn nữ hạnh, nữ công,
Dầu chẳng đặng giàu to không nổi thiếu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tập tành là học hỏi hay bắt chước rồi tập đi tập lại cho thành thạo. Như: Tập tành ca hát.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Phải có một Chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền diệu, phải trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tành chí Thánh, Tiên, Phật, mới phò cơ dạy đạo cả chúng sanh.
Huyền cơ đoạt thấu cao thâm,
Tập tành hạnh đức lỗi lầm chớ mang.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
習 成
Tập: Thường làm cho quen. Thành: Nên.
Tập thành là thường làm cho quen cho thạo việc.
Thánh giáo Lý Thái Bạch có câu: Không nên vậy, mà cũng không làm cho trái với tôn chỉ của Đạo, mở con đường mới đây là đề phòng, tập thành đàng đạo đức vào cai quản dìu dắt mối Đạo, người có phẩm cách trong bọn cũ và cải sửa bước đường của chúng nó lại, lánh xa lốt kiêu căng, lấy thế cậy quyền mà mua lòng kẻ yếu tánh.
Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Rán tập thành sửa tánh từ hoà.
(Kinh Sám Hối).
集 體
Tập: Tụ hợp lại. Thể: Mình, vóc.
Tập thể là tập hợp những người có quan hệ gắn bó, cùng sinh hoạt, hoặc cùng làm việc chung với nhau.
Tập thể trái với cá thể. Như: Tập thể Ban lãnh đạo Hội Phụ Huynh Học sinh.
Trong lời thuyết minh của Đức Thượng Sanh tại Toà Thánh đêm 14 tháng 4 năm Đinh Dậu (13-5-1957) có đoạn: Ngày nay về đảm đương việc Ðạo, chúng tôi quyết tôn trọng tinh thần tập thể, nghĩa là sẽ chung trí mà lái con thuyền Ðạo giữa cơn sóng gió bão bùng. Phàm một sắc lịnh hay một quyết nghị nào sẽ đem ra ban hành là khi đã được phần đông chức sắc Hiệp Thiên Ðài chấp thuận.
Cũng may là chúng ta đã làm việc trong tinh thần tập thể, hiệp tâm chung trí, nghe nhau, chiều nhau, ai cũng quyết chí làm nên cho Ðạo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
集 中
Tập: Nhóm họp lại. Trung: Giữa.
Tập trung là dồn vào hay tụ tập ở một chỗ, một điểm. Như: Mọi người tập trung tại Thánh Thất để làm công quả.
Sách Giáo Lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Tinh thần tập trung nầy có một sức mạnh phi thường, nó có thể đánh tan tất cả những ác căn, tà kiến và nếu dùng để giải quyết vấn đề sanh sống hằng ngày thì nó đem lại một sự hiểu biết chơn chánh rộng rãi.
Tin bay đến lịnh cửu trùng,
Bá quan lũ lượt tập trung vào chầu.
(Phù Kiều Hận Sử).
1.- Tất 畢 là hết, xong. Như: Lễ tất, thu xếp đồ đạc để chuẩn bị ngày tất niên, hoàn tất công việc.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Trước khi ngưng cơ, Thầy đã cho lịnh dùng cơ bút thế nào? Thầy tưởng mỗi Thiên phong đều đặng Thánh Ngôn của con đã ban hành, sao còn có ra việc bất minh ấy, là con chẳng nói tất cho mỗi Thiên phong rõ và ban hành Thánh ý, để cho chúng nó chác lấy vào mình, thì con cũng không khỏi chia một phần trong ấy.
Sợ Bần Đạo dịch ra có trật,
Cứ nguyên văn viết tất ra đây:
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tất 必 là ắt, hẳn. Như: Có làm tất có ăn, cái gì phải đến tất sẽ đến.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có đoạn: Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy.
Tích kim dĩ di tử tôn,
Tử tôn vị tất năng thủ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tất: Hết, suốt hết. Cả: Gồm hết, tóm hết.
Tất cả là tiếng dùng để chỉ số lượng toàn bộ, không trừ một cái gì, hoặc không trừ một ai.
Thánh giáo Thầy có câu: Hãy đọc các Thánh Ngôn của Thầy. Giáo lý của Thầy sẽ là đại đồng. Nếu nhơn loại biết tu hành thì đó sẽ là nền hoà bình hứa hẹn chung cho tất cả các dân tộc.
Chỉ rành chữ hiệp và ly,
Chỉ rành tất cả cái chi vô thường.
(Thơ Hộ Pháp).
Giáo điều thiên hạ từng quen biết,
Tất cả đều thờ Tượng Ngũ Chi.
(Thơ Vạn Năng).
必 得
Tất: Ắt hẳn. Đắc: Được.
Tất đắc là ắt được.
Tất đắc giải thoát là ắt hẳn được giải thoát.
Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn có câu: Nhơn sanh nhứt nhứt hữu Chơn thần, Chơn thần thị Thiên, Thiên giả hà tại? Thiên giả tại tâm. Đắc nhơn tâm tất đắc Thiên ý. Tri hề 人 生 一 一 有 真 神, 真 神 是 天, 天 者 何 在? 天 者 在 心. 得 人 心 必 得 天 意. 知 兮, nghĩa là nhơn sanh, mỗi người đều có Chơn thần, Chơn thần là Trời, Trời ở đâu? Trời ở tại tâm. Được lòng người ắt được ý Trời. Có biết há.
Thiện tâm minh đạo đắc chơn truyền,
Bảo mạng trì thiên tất đắc viên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
漆 膠
Tất: Loại cây dùng để sơn. Giao: Keo.
Tất giao là sơn với keo, hai thứ kết dính với nhau rất khắn, dùng để chỉ sự giao tình gắn bó, bền chặt, không thể chia lìa nhau được.
Thơ xưa có câu: Dĩ giao đầu tất trung, thuỳ năng biệt ly thử 以 膠 投 漆 中, 誰 能 別 離 此, nghĩa là lấy keo bỏ vào trong sơn, ai làm cho chia rẻ được.
Xem: Giao tất.
Đài mây rẽ bước lòng bao nả,
Nỡ vội đừng quên nghĩa tất giao.
(Thơ Mỹ Ngọc).
Nàng thơ còn nặng tình tri ngộ,
Bạn đạo thêm nồng nghĩa tất giao.
(Thơ Chơn Tâm).
必 要
Tất: Ắt hẳn. Yếu: Trọng yếu, tức cần thiết không thể thiếu được.
Tất yếu là ắt phải như thế, không thể khác được. Như: Có áp bức tất yếu có đấu tranh.
Tất yếu là nhất thiết phải có, không thể thiếu được. Như Điều kiện tất yếu.
Mở cửa giao lưu tìm ngẫu hứng,
Vạch đường tất yếu đến thành công.
(Thơ Hàn Sinh).
漆 園
Tất: Cây tất, tức là cây sơn, một loại cây dùng nhựa làm sơn mài. Viên: Vườn.
Tất viên là vườn cây Tất, cũng là hiệu của Trang Tử hay Trang Châu (Chu), vì ông được bổ làm một chức quan nhỏ là Tất viên lại, thuộc nước Tống.
Trang Tử, tên là Chu (Châu), Tự là Tử Hưu, người nước Tống, sanh khoảng 369 trước Tây lịch, đời vua Châu Liệt Vương, Ông mất khoảng 286 trước Tây lịch, thường giao du với Huệ Tử. Ông là người chịu ảnh hưởng tư tưởng của Lão Tử và Dương Tử, nên có đời sống thanh bạch, ghét danh lợi, chủ trương trở về với tự nhiên. Trang Tử có một tư tưởng rất lãng mạn, lại là người không màng thế tục, không ham sống cũng chẳng sợ chết, coi cuộc đời như một giấc mộng lớn, chết đi là tỉnh giấc mộng. Ông có soạn ra bộ Nam Hoa Kinh.
Triết lý của Lão và Trang có ảnh hưởng rất lớn đối với văn gia, tư tưởng gia sau nầy. Có thể nói các nhà Nho lỗi lạc như Đào Uyên Minh, Lý Bạch ở Trung Hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến ở Việt Nam là những người tiêm nhiễm vào tâm hồn về thú say sưa bên chén ruợu cuộc cờ, hay cảnh hưởng nhàn của phong, hoa, tuyết, nguyệt.
Bộ Nam Hoa Kinh của Trang Tử hiện thời cò ba mươi ba thiên, chia làm ba phần: Nội thiên, Ngoại thiên, và Tạp thiên.
Xem: Trang Tử.
Sản Tất Viên, Phương Sóc chi bối,
Đơn tích vi mang.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
疾
1.- Tật là bệnh không chữa được. Như: Đau thành tật, tàn tật, thuốc đắng dã tật, tiền mất tật mang.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cái đời sống của ta hiện giờ giàu sang hay nghèo hèn, liền lạc hay tật nguyền, xinh đẹp hay xấu xa, được yêu vì hay bị ngược đãi, an vui hạnh phúc hay lắm chịu thiên ma bách chiết, cũng đều do ta gây nhân ở tiền kiếp.
Giúp đỡ một người nghèo đói, cứu vớt một kẻ té sông, chia sớt thống khổ của người già cả tật bịnh, đó là làm điều nghĩa.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
2.- Tật là chứng, nết xấu, cái vết, khó chữa được. Như: Sinh tật, có tật say sưa, tật lười biếng.
Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có dạy: Con cái muốn chi thì đặng nấy, Thầy đã nhiều phen bị mấy anh Thiêng liêng của các con phiền trách rằng: Thầy thương yêu thân cận các con quá lẽ mà làm cho sanh tật dể duôi và xúm nhau khuyên Thầy đừng thường giáng đặng để cho chúng nó dạy dỗ các con.
Bần Đạo cũng là còn giữ tật,
Quen ba lơn lấc khấc ghẹo đời.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Tật bệnh”.
Tật: Thân thể không khoẻ. Bịnh (bệnh): Đau ốm.
Tật bịnh, như chữ “Tật bệnh 疾 病”, là đau ốm. Như: Con người không ai thoát khỏi tật bịnh.
Di Lạc Chơn Kinh có câu: Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tín ngã ưng đương phát nguyện Nam mô Tư Hàng Bồ Tát, năng cứu tật bịnh, năng cứu tam tai, năng độ tận Chúng sanh thoát ư tứ khổ, năng trừ tà ma, năng trừ nghiệt chướng, tất đắc giải thoát.
Bởi vậy mới sanh có tật bịnh.
Bịnh thường tình của lão mụ.
(Phương Tu Đại Đạo).
嫉 妒
Tật: Ghét. Đố: Ghen.
Tật đố là ghen ghét, ý chỉ kẻ có tính ghét ghen, đố kỵ với người hơn mình.
Đức Lý Giáo Tông có lời Thánh giáo như sau: Ấy cũng vì lòng người tật đố mà ra vậy, chớ lẽ phải thì Đạo ít nữa cũng phải có một cơ quan to tát để làm mô phạm cho chúng sanh.
Nào tật đố hiền tài, hữu thỉ vô chung, nghe lời sàm tấu, giết người lao công hạn mã...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tật: Chứng không chữa được do bẩm sinh, tai nạn hay bệnh gây ra.
Tật nguyền là kẻ có tật tương đối lớn, nghiêm trọng. Tật nguyền đồng nghĩa với chữ “Tàn tật” là có tật không thể chữa được.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cái đời sống của ta hiện giờ giàu sang hay nghèo hèn, liền lạc hay tật nguyền, xinh đẹp hay xấu xa, được yêu vì hay bị ngược đãi, an vui hạnh phúc hay lắm chịu thiên ma bách chiết, cũng đều do ta gây nhân ở tiền kiếp.
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Đỡ nâng yếu thế binh quyền mồ côi.
(Kinh Sám Hối).
Tấu văn, tuỳ theo chữ “Văn” mà có hai nghĩa:
1.- Tấu văn 奏 文
Tấu: Tâu. Văn 文: Bài văn.
“Tấu Văn 奏 文” là bài biểu văn của các bề tôi tâu về triều đình, hoặc chúng sanh tâu lên Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu. Đồng nghĩa với Sớ Văn.
Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: Cửa doanh liễu mới rước xuân, Biên thư đã thấy tấu văn bệ thiều.
2.- Tấu văn 奏 聞
Tấu: Tâu lên. Văn 聞: Nghe.
Bài biểu tâu về triều cho vua hay biết, gọi là “Tấu văn 奏 聞”.
“Thượng tấu dĩ văn 上 奏 以 聞”, nghĩa là tâu lên để vua nghe biết.
Thượng tấu dĩ văn.
(Sớ Văn).
走 獸
Tẩu: Chạy, Thú: Loài thú, thú vật.
Tẩu thú là loài thú chạy.
Thành ngữ có câu: Phi cầm tẩu thú 飛 禽 走 獸, có nghĩa là chim bay thú chạy, nói chung các loài chim thú.
Phi cầm tẩu thú la võng bất phùng.
(Kệ U Minh).
1.- Té là ngã, rơi, chuyển đột ngột, ngoài ý muốn, từ trạng thái đứng sang trạng thái nằm, do mất thăng bằng.
Như: Té xe, té ngựa gãy chân, té nhào xuống sông, té chỏng gọng.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Giúp đỡ một người nghèo đói, cứu vớt một kẻ té sông, chia sớt thống khổ của người già cả tật bịnh, đó là làm điều nghĩa.
Xược lên cho khỏi đảnh non cao,
Rồi trở xuống lo nỗi té nhào.
(Đạo Sử).
Đời thái quá chuyển xây rồi bất cập,
Ham leo trèo nạn té sấp nó kề bên.
(Giác Mê Khải Ngộ).
2.- Té còn dùng để chỉ có được, hay sinh lợi ra, tức thu được tiền từ lao động, hoặc lãi do mua bán mà có.
Như: Nhờ có đôi trâu mà mấy năm nay làm ăn té được cái nhà đó.
Làm lụng té bao lăm của cải,
Để cho con là ngãi cùng con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nỗi xóm riềng xúm lại nói hùa,
Xử đặng thất hơn thua cho té thịt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Té ra, một tổ hợp từ thường dùng ở đầu câu, hoặc đầu phân câu có nghĩa là hoá ra, để biểu thị điều sắp nêu ra là điều bỗng nhiên nhận thức được, khác với điều trước kia tưởng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Chẳng khác nào một đứa bé bị chửi, sợ nhục, lại rán chửi lại cho bằng, té ra bị nhục hơn nín đặng nghe luôn nữa.
Trồng cây còn được hưởng trái, nếu chết là hết thì sự công bình thiêng liêng té ra vô nghĩa lý lắm sao?
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Tẻ: Buồn, chán do vắng vẻ. Vui: Có tâm trạng thích thú của người đang gặp việc hợp nguyện vọng hoặc điều làm cho hài lòng.
Tẻ vui là buồn vui, tức buồn tẻ và vui tươi. Như: Trong hoàn cảnh tẻ vui bạn bè phải chia sẻ cho nhau.
Tẻ vui đã hưởng mùi dưa muối,
Nơi thế dường như khách lạc loài.
(Đạo Sử).
Tẻ vui lánh tục tìm nhàn,
Lợi danh là mộng mơ màng huỳnh lương.
(Bát Nương Giáng Bút).
Năm tháng chưa phai lời ước hẹn,
Tẻ vui còn nhớ buổi sum vầy.
(Thơ Thuần Đức).
Tẽ là rời ra, tách ra.
Như: Anh ấy đã tẽ đi đường khác, nó tẽ khỏi đám đông chạy mất dạng.
Vì danh lợi hại nhau mọi lẽ,
Vì quyền mà tách tẽ nhiều chi.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tẽ đường phi thị, noi đường tịnh,
Tìm cửa từ bi lánh cửa hầu.
(Thơ Thuần Đức).
Teo là thu nhỏ lại, bé dần lại.
Như: Bệnh lâu ngày ống chân teo lại, quả bầu phơi khô đã teo nhỏ lại.
Cơn bịnh nặng bao nhiêu thuốc đắng,
Vóc hình teo dai dẳng bơ phờ.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Tèm hem là một phương ngữ Nam bộ, dùng để diễn tả con người ở tình trạng ốm yếu, tiều tuỵ, trông có vẻ hốc hác, thảm hại.
Ca dao Việt Nam có câu: Đói cơm lạt mắm tèm hem, No cơm ấm áo, lại tìm nọ kia.
Dầu gặp cơn lạt mắm tèm hem,
Phải biết chước biến quyền khi túng tíu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tê là ở trạng thái mất hết cảm giác của một bộ phận nào trong cơ thể.
Như: Ngồi lâu quá bị tê chân, bịnh tê, thuốc gây tê trong bệnh viện, sướng tê cả người.
Các con bị chứng bịnh tê,
Chích-châm cho lắm chẳng hề than ôi!
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tê: Ở trạng thái mất hết cảm giác. Tái: Da đã mất sắc, trở nên màu xám.
Tê tái là khổ sở, đau đớn nhiều đến mức không còn có cảm giác nữa. Như: Lòng tê tái.
Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong quyển Giáo Lý có viết: Nên nhớ rằng vật chất hay làm cho sự hiểu biết của người ta sai lạc, như Đạo Đức Kinh chương 12 nói rằng: “Năm màu sắc khiến người ta choá mắt, Năm âm thanh khiến người ta điếc tai, Năm vị ăn khiến người ta tê tái lưỡi”.
Còn ta luống những đoạn trường,
Gối chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ngâm chương bạch tuyết lòng tê tái,
Thấy khổ lê dân dạ não nồng.
(Thơ Chơn Tâm).
1.- Tế 祭 cúng lạy theo nghi tiết long trọng. Như: Cúng tế, đăng điện tế Thần.
Nói về quyền hành của Giáo Sư, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Như tại Châu thành lớn thì mỗi đứa đặng quyền cai quản cúng tế Thầy như thể Ðầu Sư và Phối Sư.
Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đơm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tế 濟 là đưa qua đò, cứu giúp. Như: Tế độ, cứu tế.
Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ, vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước.
Thi ân, tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Giáo lý phô trương ra tế chúng,
Thi thơ trạng tỏ cố dìu nhân.
(Thơ Thông Quang).
濟 拔
Tế: Cứu giúp. Bạt: Chọn để cất nhắc lên.
Tế bạt là cứu giúp để cất nhắc lên.
Tế bạt có nghĩa như “Bạt tiến 拔 薦” là cất nhắc các vong hồn chưa đặng giác ngộ hay vong hồn bị sa ngả lên để cầu xin các Đấng Thiêng liêng ban ơn cho được siêu thăng thoát hoá.
Tế bạt vong hồn là cứu giúp cho vong hồn người chết được siêu thoát.
Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát,
Bố từ bi tế bạt vong hồn.
(Kinh Tận Độ).
濟 賑
Tế: Đưa qua đò, cứu giúp. Chẩn: Cứu giúp, đem tiền gạo phát cho người nghèo.
Tế chẩn có nghĩa là cứu giúp người.
Ngoài ra tế chẩn còn có nghĩa là lễ cúng để cứu vớt linh hồn người chết đang bị chìm đắm cõi địa ngục.
Mà đầu tiên đứng ra tế chẩn là ông Hương Chủ, khởi phát ở kho lúa của làng trước, khi nào thiếu mới lấy thêm ở kho quốc gia.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
祭 主
Tế: Cúng tế. Chủ: Người làm chủ.
Tế chủ là người đứng ra làm chủ cuộc tế lễ. Trong cuộc tế lễ cha mẹ, các người con là tế chủ.
Như Tế chủ tựu vị 祭 主 就 位, nghĩa là người chủ cuộc tế đứng vào vị trí của mình.
Tế chủ dĩ hạ giai xuất 祭 主 以 下 皆 出, tức chủ tế và người theo tế lễ đều bước ra.
Tế chủ dĩ hạ giai xuất.
(Nghi Tiết Cúng Tế).
濟 眾
Tế: Cứu giúp. Chúng: Nhiều người, dân chúng.
Tế chúng là cứu giúp dân chúng.
Nói về việc cư xử, xã giao của Chức sắc, Đức Thượng Sanh có dạy: Không háo thắng, không khoe mình, lúc nào cũng lễ độ, khiêm tốn, hoà hưởn, nhún nhường, sẵn lòng thi ân tế chúng, thế nào cho mọi người đều mến yêu, kính nể...
Thi ân, tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vững chí thương đời ân đức bủa,
Thìn lòng tế chúng nghĩa nhơn trau.
(Thơ Hương Cường).
祭 奠
Tế: Cúng tế. Điện: Lễ sĩ dâng cúng phẩm.
Tế điện là lễ tế trang trọng của Đạo Cao Đài, Lễ sĩ bước theo điệu trống nhạc, đem cúng phẩm từ ngoại nghi lên dâng cho người chủ tế quỳ ở nội nghi.
Hằng năm kỷ niệm lễ triều Thiên,
Bửu ảnh cung nghinh tế điện tiền.
(Thơ Huệ Phong).
濟 度
Tế: Đưa đò qua sông. Độ: Giúp đỡ.
Theo Phật, thế gian là một biển khổ, Phật pháp như một con đò cứu vớt chúng sanh vượt qua biển khổ để đưa sang bên kia bờ giác ngộ.
Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên có câu: Ngán thay cho cái trách nhậm nặng nề, vì trót đã hứa lời cùng Từ Bi ra tế độ, hễ trách phận đàn anh, tuy nhiên lấy oai quyền khuyến nhủ trừng trị lấy em mặc dầu, chớ cũng nên hiểu tâm của mỗi đứa.
Nghĩa rộng: Cứu giúp.
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn.
(Kinh Sám Hối).
Dìu dắt sanh linh lo tế độ,
Thiên niên danh tạc chốn Vân Ðài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Biển khổ mang bầu chờ tế độ,
Giựt giành chi khỏi trả rồi vay.
(Đạo Sử).
濟 險
Tế: Giúp đỡ. Hiểm: Khó khăn, trở ngại.
Tế hiểm là giúp đỡ cho người thoát khỏi điều khó khăn, nguy hiểm.
Như: Phò nguy tế hiểm.
Trợ nguy tế hiểm con ra sức,
Ðạo đức chung lo trọn tấc lòng.
(Đạo Sử).
祭 禮
Tế: Cúng tế. Lễ: Cách bày tỏ lòng kính trọng.
Tế lễ là nói chung việc cúng tế.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy dạy: Ta nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi. Tại đây là một nơi Ta khởi chế sự “Tế lễ thờ phượng” lại.
Đấng Cứu Thế phán truyền nhơn loại,
Sống tự do, bác ái, công bình.
Thầy tế lễ tạo khổ hình,
Mưu đồ đem Chúa đóng đinh quá gàn.
(Báo Ân Từ).
濟 危
Tế: Giúp, cứu giúp. Nguy: Nạn ngặt nghèo.
Tế nguy, như chữ “Tế hiểm 濟 險”, là giúp đỡ người thoát khỏi cơn nguy hiểm.
Tuyệt cốc hy sinh báo quốc cừu,
Tế nguy tam tỉnh huỷ danh lưu.
(Phan Thanh Giản Giáng).
濟 福
Tế: Cứu giúp. Phước: Phước đức, điều may mắn.
Tế Phước là cứu giúp cho điều phước đức.
Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước,
Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
祭 祀
Tế: Cúng một cách long trọng. Tự: Thờ cúng.
Tế tự là chỉ chung về sự thờ tự và cúng tế.
Ngày xưa người ta phân biệt: Cúng Thần trên Trời là tự 祀, cúng Thần dưới đất là tế 祭.
Về sau, hai chữ này chỉ còn nghĩa là cúng một cách trọng thể các Đấng Thiêng Liêng.
Dạy về tế tự, Thầy có nói trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: Sự tế tự sửa theo Tam Kỳ Phổ Ðộ, cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à!
Khi tế tự chớ lờn chớ dể,
Việc quan, hôn thủ lễ nghiêm trang.
(Kinh Sám Hối).
濟 世
Hay “Tế thế an bang”.
Tế: Giúp đỡ. Thế: Đời. An: Làm cho yên ổn. Bang: Một nước, một quốc gia.
1.- Tế thế là giúp người đời, tức là cứu đời. Như: xuất gia đầu Phật để ra tế thế.
Ráng kiếm diệu huyền lo tế thế,
Ngày sau chung hưởng cảnh Bồng lai.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Nấu sôi cái máu anh phong,
An bang tế thế một lòng lo âu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tế thế an bang là cứu giúp người đời và làm cho nước nhà đặng yên ổn.
Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm dạy: Rồi đây, mấy em còn phải đối đầu với mưu mô xảo quyệt đặng lách mình đến tận cơ cứu khổ mà tế thế an bang, gieo tinh thần vị tha trong đại chúng thì mấy em cần phải bình tĩnh và sáng suốt trong mỗi việc.
Thiều quang nhặt thúc không chờ đợi,
Tế thế an bang phỉ kiếp xuân.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
濟 助
Tế: Chẩn cứu. Trợ: Giúp đỡ.
Tế trợ là cứu giúp.
Như: Tuần qua miền Trung bị lũ quét năng nề, nhiều phái đoàn từ thiện đến tế trợ người dân thiếu đói.
Oai bốn hướng Thần nhường quỷ sợ,
Đức ba giềng tế trợ thương sanh.
(Xưng Tụng Công Đức).
齊
Tề là tày, đều, gọn gàng, cùng nhau, không đứng một mình. Như: Tề chỉnh, tề my, tề tựu, tề gia nội trợ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông giáng cơ có câu: Chư hiền hữu chỉnh tề đợi kiến giá Chí Tôn.
Hễ muốn trọn căn phần hữu phước,
Rán làm tề để được một chòm râu.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tánh hiền đức một lời chẳng phạm,
Thủ hiếu thân cai quản gia tề.
(Phương Tu Đại Đạo).
齊 家
Tề: Gọn gàng không lộn xộn. Gia: Nhà.
Tề gia là sắp xếp việc nhà gọn gàng, không lộn xộn, ý chỉ sắp đặt chu tất mọi việc.
Như: Cô ấy là người đàn đàn bà rất khéo về việc tề gia nội trợ.
Nỗi lo Đạo cho tròn danh tiết,
Nỗi tề gia cho biết vẹn hằng.
(Bát Nương Giáng Bút).
May đạo đức nghiệp nhà có sẵn,
Phương tề gia khá gắng giữ gìn.
(Phương Tu Đại Đạo).
齊 家 內 助
Tề gia: Sắp đặt việc nhà cho gọn gàng. Nội trợ: Giúp việc bên trong gia đình.
Tề gia nội trợ là nói bổn phận lo sắp đặt mọi việc trong gia đình của người đàn bà đảm đang.
Trong Giáo Lý của Tiếp Trương Văn Tràng có câu: Tề gia nội trợ là phận sự của người phụ nữ; cho nên người vợ phải chăm nom việc nhà: Thiếu đủ phải biết, còn hết phải hay, sắp đặt an bài mọi sự, ăn cần, ở kiệm phải trọng tiền của chồng làm ra.
Phận gái tam tùng cùng tứ đức,
Tề gia nội trợ vẹn là ngoan.
(Giới Tâm Kinh).
Tập cho biết tề gia nội trợ,
Mình đờn ông hay dở hiểu đờn ông.
(Phương Tu Đại Đạo).
齊 家 治 國
Tề gia: Sắp đặt việc nhà cho gọn gàng. Trị quốc: Sửa sang việc nước.
Tề gia trị quốc tức là sắp đặt việc nhà cho gọn gàng rồi mới sửa sang (cai trị) việc nước.
Trong Thuyết Đạo Của Đức Thượng Sanh có đoạn: Ðời trị hay loạn, hưng hay vong là do trong nước có hay không những bậc vĩ nhân, đạo đức biết nói lẽ phải của Thánh hiền để tề gia trị quốc. Các bậc ấy, trước khi đem thân làm việc có ích cho đời đều có học, mà cốt yếu sự học là ở nơi sự sửa mình.
Tề gia trị quốc kế dài lâu,
Chánh kỷ hoá nhân chước nhiệm mầu.
(Thơ Chơn Tâm).
齊 眉
Tề: gọn gàng, ngang. My: Lông mày.
Tề my là ngang mày, dùng để nói vợ khéo thờ chồng.
Do điển tích “Cử án tề mi 舉 案 齊 眉”, nghĩa là đưa bát đựng thức ăn lên ngang mày. Nàng Mạnh Quang ở đời Hậu Hán tánh nết đoan trang, đối với chồng là Lương Hồng rất nên cung kính, mỗi khi dâng cơm cho chồng không dám nhìn thẳng mặt mà để bát ngang mày. Chỉ sự cung kính của người vợ đối với chồng.
Xem: Cử án tề my.
Dầu chàng đổi dạ én anh,
Tề my vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đạo chồng vợ muốn bền tơ tóc,
Gương tề my khá học Mạnh Quang.
(Phương Tu Đại Đạo).
Gió nhẹ nhàng đưa duyên bạch phát,
Trăng lồng lộng chiếu phận tề my.
(Thơ Vạn Năng).
齊 婦 含 冤
Tề phụ: Người đàn bà nước Tề. Hàm oan: Chịu oan.
Tề phụ hàm oan là nói người đàn bà nước Tề chịu án hàm oan.
Do điển chép từ Hán Thư: Huyện Đông Hải có nàng dâu thảo, tên là Đậu Thị, nuôi mẹ chồng rất kính cẩn. Chồng chết không cải giá. Mẹ chồng nói: Ta già yếu làm cực đời con quá! Bèn thắt họng chết. Người em chồng cáo nàng Đậu Thị giết mẹ. Nàng bị gán ép chịu tội, ông cai ngục Vu Công minh oan không được, rốt cuộc quan Quận thú xử tử, trong quận bắt đầu bị hạn ba năm. Về sau quan Quận thú đến viếng ngục, Vu Công trình rõ bằng cớ bị oan ức. Quận thú thấy án bị oan sai, liền thiết lễ cúng tế mộ nàng Đậu Thị. Trời liền mưa.
Do vậy, người sau nói: Tề phụ hàm oan tam niên bất vũ 齊 婦 含 冤, 三 年 不 雨, nghĩa là người đàn bà nước Tề chịu hàm oan, trời phạt ba năm không mưa.
In như Tề phụ chịu hàm oan,
Nết Thánh mà ai cũng gọi phàm.
(Đạo Sử).
齊 就
Tề: Tày, đều, gọn gàng, cùng nhau, không đứng một mình. Tựu: Tới.
Tề tựu là đều đến đầy đủ hết.
Huấn từ của Đức Thượng Sanh nhân bữa tiệc Hội Thánh Cửu Trùng Đài Ủy lạo Chức sắc và nhân viên công quả lúc đầu năm Canh Tuất (1970): Ngày Xuân là ngày chung vui đoàn tụ của mỗi gia đình trong cửa Ðại Ðạo, một số Chức sắc Hội Thánh tản mát nơi bốn phương vì nhiệm vụ, dù là nơi cách trở xa xôi cũng tề tựu đông đủ về Tổ Ðình để trình diện với Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu.
...nhơn dịp các Khâm Châu và Ðầu tộc tề tựu đông đủ về Tổ Ðình để chầu lễ Ðức Chí Tôn.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
齊 天 大 聖
Hay “Tề Thiên”.
Theo truyện “Tây Du Diễn Nghĩa” của Ngô Thừa Ân, Tề Thiên Đại Thánh hay Tề Thiên là một con thạch hầu, do một tảng đá trên Hoa Quả Sơn thọ khí Âm dương của Trời đất mà sinh hoá ra.
Thạch hầu lớn lên, tầm sư học đạo, thọ đặng phép thất thập nhị huyền công, nên rất thần thông quảng đại, được Đức Thượng Đế phong cho chức Bậc Mã Ôn, lo việc nuôi ngựa và giữ đàn ngựa của Thiên triều. Thạch hầu làm một thời gian, biết được một chức quan nhỏ, nên giận bỏ chức trở về Hoa Quả sơn, Thuỷ Liêm Động xưng là “Tề Thiên Đại Thánh”.
Sau Đại Thánh nhờ Quan Âm Bồ Tát đưa về quy y Phật pháp, làm môn đồ của Trần Huyền Trang, một nhà sư đời nhà Đường. Sau đó, Thánh Tề Thiên theo thầy đi thỉnh kinh ở Tây Trúc. Nhờ công đức này, Đại Thánh đắc quả Phật vị, đó là Chiến Đấu Thắng Phật.
Trên hành lang Báo Ân Từ, Hội Thánh có vẽ một khuôn hình “Hầu Vương xưng là Tề Thiên”.
1.- Tề Thiên:
Trừ yêu có Thánh Tề Thiên,
Quy y Phật pháp ở miền Tây phương.
(Xưng Tụng Công Đức).
2.- Tề Thiên Đại Thánh:
Tề Thiên Đại Thánh để lời,
Thiện nam, tín nữ nghe lời phải vưng.
(Giới Tâm Kinh).
宰 相
Tể: Sửa sang, cai trị. Tướng: Chức quan lớn, đứng đầu trong triều đình.
Tể tướng là một chức quan lớn hơn hết trong bá quan, giúp vua điều hành và cai trị việc nước.
Khi nói về “Các Con Đối Với Phật Mẫu”, Hộ Pháp có viết: Lấy tánh đức thường tình của một Bà Mẹ không có gì lạ, ta thấy vì trong một gia đình kia dầu rân rát, một người dầu quyền cao tước trọng, dầu làm quan Toà, quan Tham Biện hay Tể Tướng đi nữa mà bước vào nhà còn làm Tể Tướng thì Bà Mẹ không ưa lại thêm phiền lụy, làm quan với ai kia, chớ về nhà làm quan với gia đình à!
Ông Yến Tử tuy là Tể Tướng đầu triều, nhưng con người có tánh cách nho nhã, nề nếp nhà quan, không kiêu hãnh, gương mặt khiêm hoà...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
弊
Tệ là xấu, không phải đạo, hủ bại. Như: Ăn ở tệ, cái tệ quan liêu, tệ nghiện rượu.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Các con phải đồng tâm hiệp lực, bỏ hết các điều tệ theo thường tình, thì mới dễ thành Ðạo.
Một chức giáo dân tua lãnh lịnh,
Làm cho đời tệ hoá ra hay.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cơ Trời xây đổi lập Tân Dân,
Cái hủ tệ xưa phải bỏ lần.
(Đạo Sử).
弊 端
Tệ: Xấu, kém, từ chỉ chung tình trạng, tính chất, phẩm chất ở mức rất thấp. Đoan: Mới đầu, nguyên nhân.
Tệ đoan là mối tệ, tức mối sinh ra những điều tệ, làm hại cho gia đình, xã hội.
Như: Bái trừ các thứ tệ đoan trong xã hội.
Đó là một điều sai lầm đáng thương hại, khổ nỗi cái tệ đoan ấy không biết bao giờ mới tiêu trừ được.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
弊 害
Tệ: Hư, điều xấu. Hại: Điều hao tổn, trái với lợi.
Tệ hại là có tác dụng gây hại lớn cho con người, cho quốc gia, cho xã hội.
Như: Trộm cướp, mãi dâm là những tệ hại xã hội.
Thấy sự tệ hại muốn ngăn ngừa, thấy sai lầm muốn chỉnh đốn, thấy thiếu học muốn dồi trau.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Tên là tiếng đặt ra để gọi người, gọi vật.
Như: Đặt tên cho bé mới sinh, ghi rõ họ và tên vào danh sách, ký tên đóng dấu.
Thánh giáo Thầy có câu: Mỗi đứa con đều có tên trong Thiên thơ cả, chức phận cũng đã tiền định, chớ chẳng phải tước hàm trần thế dâng cho kẻ lễ nhiều.
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tên là một thẻ tre hoặc gỗ có mũi nhọn, dùng để vào dây cung, cái nỏ mà bắn.
Như: Nhanh như tên bắn, lằn tên mũi đạn, tên rơi đạn lạc, con vượn đã chết do trúng tên.
Đã hay căn nghiệp là tên độc,
Mà cũng liên hoa thoát tục trần.
(Thanh Sơn Đạo Sĩ).
Cây, cỏ, thú, người đều trở ngược,
Gươm đâm, tên bắn chết trùng trùng.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Tên: Đoạn tre hoặc gỗ mành, một đầu nhọn, được phóng đi bằng cung, nỏ. Đạn: Viên tròn bằng đất hay chì sắt dùng để bắn.
Tên đạn là hai thứ vũ khí để sát thương. Như: Đường tên mũi đạn, Đạn lạc tên bay.
Loạn lạc chờ xong tên đạn dứt,
Tang thương đợi hết trận giông qua.
(Thơ Thượng Tuy Thanh).
Tên: Một danh từ riêng dùng để gọi người, gọi vật. Tuổi: Thời gian sống của một người, kể theo hàng năm.
Tên tuổi là tên họ và tuổi tác, nghĩa rộng dùng để chỉ danh tiếng.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Các con ôi! Thầy lấy đức háo sanh mà dìu dắt các con chẳng khác nào như kẻ làm cha nưng niu dạy dỗ một trẻ bé, trông nom cho nó mau trưởng thành, hầu lưu danh truyền nghiệp, cho có tên tuổi với đời.
Gành Nam nêu đặng người tên tuổi,
Ðất Bắc mừng an bước lạc loài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
(Đạo Sử).
Quen chiều non nước lúc xuân xanh,
Tên tuổi đài mây đã sẵn dành.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tí, như chữ “chút”, là chỉ lượng rất nhỏ, rất ít, gần như không đáng kể.
Ti tí, như chữ “Tí ti”, là chỉ một lượng hết sức nhỏ, hết sức ít.
Như: Nỗ lực làm mấy hôm nay, kết quả chỉ được ti tí mà thôi.
Xem: Tí ti.
Trông lui chưa toại công ti tí,
Nghĩ tới buồn cười chuyện cỏn con.
(Thơ Thuần Đức).
Tí tách là từ mô phỏng tiếng động nhỏ, liên tiếp, không đều nhau.
Như: Mưa rơi tí tách ngoài hiên, tiếng củi khô cháy tí tách, tiếng đàn.
Bao la nỗi lạnh khơi niềm nhớ,
Tí tách cung đàn rót tiếng tơ.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Tí, như chữ “chút”, là chỉ lượng rất nhỏ, rất ít, gần như không đáng kể.
Tí ti là là tiếng dùng để chỉ lượng hết sức nhỏ, hết sức ít. Như: Ngồi thêm một tí ti nữa.
Cỏn con sự nghiệp cũng bồng tang,
Lợi lộc tí ti cũng nhận nhàn.
(Đạo Sử).
Tỉ mỉ là phân ra nhiều phần nhỏ li ti. Như: Thảo luận một cách tỉ mỉ.
Tỉ mỉ còn dùng để chỉ kỹ đến từng chi tiết nhỏ. Như: Anh ấy làm việc rất tỉ mỉ.
Niêm luật thanh quy gìn tỉ mỉ,
Điệu vần hoàng hạc niệm mê say.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Tía lia là lia lịa, liên tục.
Tía lia còn dùng để chỉ sự liến thoáng, luôn mồm, tức là nói liên tiếp không ngưng nghỉ và rất nhanh.
Thí dụ: Anh ấy hai tay làm việc tía lia, nó hiền lành, nói năng tía lia cái miệng.
Tiếng u minh tía lia gợi thảm,
Giọng kình khua cửa phạm dập dồn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Tích 積 là chứa. Như: Tích của, tích gạo, tích kim, đầu cơ tích trữ.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phật giáo gọi Ðời là bể khổ, nước mắt chúng sanh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn biển.
Tích phước cho con, tích hỡi con!
Con còn lăn líu lắm nghe con!
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tích 跡 là dấu chân, nghĩa bóng chỉ truyện cũ. Như: Dấu tích, tích cũ, tuồng tích, truyện xưa tích cũ.
Trong Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Có ba môi giới: Phú, Tỉ, Hứng. Phú là đọc thông sách vở đem nguyên văn ra giảng giải cho rõ nghĩa. Tỉ lấy cổ soi kim, dùng tích xưa giải hiện tại. Hứng là đứng lên giảng đài rồi phát hứng chí mà nói.
Truyện tích từ xưa chỉ dạy rằng,
Mặt đời trung nịnh dễ ai ngăn.
(Đạo Sử).
Mẫn Tử Khiên tích còn roi dấu,
Dẩy xe cha áo xấu mặt dơ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
積 惡 逢 惡
Tích ác: Chứa đựng hay làm điều ác, xấu. Phùng ác: gặp những việc dữ xấu.
Tích ác phùng ác tức là chứa đựng những điều xấu xa hung ác thì sẽ gặp những điều xấu xa hung ác trả lại.
Hại người khổ sở lắm khi,
Tích ác phùng ác, kêu chi Phật Trời.
(Thơ Thiên Vân).
積 極
Phàm làm việc gì mà vụ tiến thủ thì gọi là tích cực, trái lại thì gọi là tiêu cực.
Như vậy, “Tích cực” tức là hăng hái, tỏ ra nhiệt tình đối với nhiệm vụ, với công việc.
Trong quyển Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Năm màu sắc khiến người ta choá mắt, Năm âm thanh khiến người ta điếc tai, Năm vị ăn khiến người ta tê tái lưỡi, Dung ruổi săn bắn khiến lòng người ta phát cuồng, Của quý mắt giá khiến người ta hành động sai Đạo đức. Ấy vậy, nên kẻ học phải dày công nội tính tích cực suy gẫm để tránh sự ham muốn sai lầm.
Mở đường tích cực oai linh,
Cậy phương thuyết giáo vẽ thành kinh chơn.
(Kinh Thế Đạo).
積 德
Tích: Chứa. Đức: Việc phước đức.
Tích đức là chứa đức, ý muốn nói nơi thế gian, nên làm những việc lành, việc thiện để chứa điều phước đức, hầu có thể hưởng phước ở kiếp sau.
Như: Tu nhơn tích đức.
Tích đức để lòng trau khổ hạnh,
Diệt phàm gắng chí thoát mê tân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thầy dạy một điều lo tích đức,
Ðức kia đầy đủ mới sanh tài.
(Đạo Sử).
積 德 修 仁
Tích đức: Làm việc thiện để chứa điều phước đức. Tu nhân: Tu sửa để thành người nhơn.
Tích đức tu nhân tức là chứa đựng nhiều điều tốt lành, phúc đức, tu sửa để thành người nhơn.
Xem: Tu nhân tích đức.
Tích đức tu nhân một dạ thường,
Dồi mài tâm tánh, Phật Trời thương.
(Thơ Thiên Vân).
錫 福
Hay “Tích phúc”.
Tích: Cho, phàm cái của triều đình hay Thượng Đế ban thưởng cho đều gọi là tích. Phước (phúc): Phước đức.
Tích phước là ban cho phước đức.
Ở đây ý chỉ Đức Chí Tôn, là Đấng từ bi, bác ái, thương yêu chúng sanh nên thường ban phước đức cho muôn loài.
Con người muốn được Ơn Trên ban phước cho, trước nhứt tự mình phải biết trau giồi cái thiện tâm và phải làm việc lành thì tự sẽ được ban phước. Lời Khổng Tử đã dạy: “Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phước, vi bất thiện giả thiên báo chi dĩ hoạ 為 善 者 天 報 之 以 福, 為 不 善 者, 天 報 之 以 禍”, nghĩa là người làm việc thiện trời báo cho điều phước, người làm việc chẳng thiện, trời báo cho điều hoạ.
Ngọc Hoàng tích phước hựu tội,
Đại Thiên Tôn.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Tu nhơn quý thặng rương châu ngọc,
Tích phước còn hơn khối bạc vàng.
(Thơ Thái Đến Thanh).
積 少 成 多
Tích thiểu: Chứa, gom nhiều cái ít. Thành đa: Thành ra nhiều.
Tích thiểu thành đa là chứa từ nhiều cái ít, hoặc hợp nhiều cái ít, cái nhỏ lại thành ra nhiều, to.
Tìm người có tâm chí kết liên thân ái, chung hiệp nhau, bỏ sự lãng phí, dụng đồng tài nơi giọt mồ hôi, được tích thiểu thành đa, gầy dựng một cái nhà chung...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
積 貯
Tích: Chứa lại, dồn lại. Trữ: Cất, chứa vào một chỗ để dành sẵn cho lúc cần.
Tích trữ là chứa chất để dành, tức góp dần và trữ lại với một số lượng lớn.
Trong quyển Giáo Lý viết về tiểu sử Đức Khổng Tử, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn: Về đường học vấn Ngài rất chú ý đến Lễ Nhạc. Năm 20 tuổi, Ngài vào học nơi nhà Minh Đường. Nguyên ở Lạc Ấp, ông Châu văn Công có cất một nhà Minh Đường, tích trữ Kinh Điển, Luật lệ, Hình tượng và báu vật đời xưa, để làm tài liệu khảo cổ, Đức Khổng Phu Tử nhờ đó mà mở rộng học lý của Ngài, sau khi ở Minh Đường về, sức học của Ngài rộng hơn trước nhiều.
Tánh độc ác tội dư tích trữ,
Chốn Âm cung luật xử nặng nề.
(Kinh Sám Hối).
Lợi lộc xôn xao rồi một kiếp,
Nghĩa nhơn tích trữ để muôn đời
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
錫 杖
Tích: Thiếc. Trượng: Gậy.
Tích trượng là cây gậy của nhà sư, còn gọi là thiền trượng, trên đầu gậy có bốn hoa thị hàn dính từ cặp hai cái để thẳng góc nhau, trên nhìn xuống giống như ngôi sao bốn cánh.
Chỗ hoa thị giáp nhau có treo một cái khoen bằng thiếc. Tích trượng có gắn chuông nhỏ để khi khất thực đến trước nhà rung chuông cho chủ biết.
Nguyên tích trượng là một bửu pháp của Địa Tạng Vương Bồ Tát, có thể mở cõi Địa ngục ở Âm Phủ và cứu linh hồn khỏi các hình phạt ở nơi ấy.
Bát nhã xuôi chèo qua bỉ ngạn,
Thảo hài tích trượng vượt mê tân.
(Thơ Vạn Năng).
籍
1.- Tịch là sổ sách dùng để ghi chép.
Như: Điền tịch, thư tịch, tịch biên tài sản, tịch đạo Thanh, Hương.
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho binh lửa.
(Lời Trần Thuyết).
2.- Tịch 席 là chiếc chiếu, vật dệt bằng lát, dùng để lót trên giường nằm.
Như: Đồng sanh đồng tịch, đồng tịch đồng sàng đồng quan đồng quách.
Giữa đền để một tấc thành,
Đồng sanh, đồng tịch đã đành nương nhau.
(Kinh Thế Đạo).
3.- Tịch 寂 là lặng lẽ.
Như: Tịch mịch 寂 寞 là lặng lẽ không có tiếng động, cô tịch 孤 寂 là lặng lẽ một mình.
Ngày vương đêm vấn sầu cô tịch,
Gối chiếc chăn đơn cảnh đoạn tràng.
(Thơ Thuần Đức).
辟 穀
Tịch 辟: Trừ bỏ đi. Cốc: Lúa, thóc.
Tịch cốc là không ăn gạo cơm, được thay thế bằng hoa quả, chỉ người tu hành.
Ngày xưa Trương Lương, tướng của Hán Cao Tổ, theo tư tưởng đạo gia là “Công thành thân thối 功 成 身 退” nghĩa là công đã thành rồi thì thân phải trở về dân.
Nên khi bình định được thiên hạ rồi, ông giả chước tịch cốc theo tiên để có cớ ẩn dật, hầu tránh hiềm nghi của nhà vua có hại về sau.
Tu chẳng luận sơn xuyên am cốc,
Tu cũng đừng tịch cốc hành thân.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
夕 陽
Tịch: Buổi chiều. Dương: Mặt trời.
Tịch dương là mặt trời buổi chiều. Như: Bóng tịch dương đã khuất núi.
Trong bài “Ô Y Hạng” của Lưu Vĩ Tích đời nhà Đường có câu: Chu tước kiều biên dã thảo hoa, Ô y hạng khẩu tịch dương tà 朱 雀 橋 邊 野 草 花, 烏 衣 巷 口 夕 陽 斜, nghĩa là cầu Chu Tước, cỏ trổ hoa, Cửa Ô Y Hạng chiều tà phủ vây.
Bạn thơ mừng được gặp nhau thường,
Mát mẻ chiều xuân bóng tịch dương.
(Thơ Chơn Tâm).
籍 道
Tịch: Sổ sách biên chép. Đạo: Chỉ đạo Cao Đài.
Tịch Đạo là một biểu hiệu để ghi Thánh danh chức sắc đạo Cao Đài của một đời Giao Tông đang phổ độ và mở mang đạo pháp.
Bài thi “Tịch Đao Nam phái” của Đức Chí Tôn giáng cơ tại Vĩnh Nguyên Tự vào đêm mùng 1 tháng 7 năm Bính Dần (Dl. 8-8-1926) như sau:
THANH Đạo tam khai thất ức niên,
Thọ như địa quyển thạnh hoà Thiên.
Vô hư quy phục nhơn sanh khí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
Và bài thi “Tịch Đạo Nữ phái” của Đức Chí Tôn giáng cơ tại Thánh Thất Từ Lâm vào đêm 14 tháng 10 năm Bính Dần (Dl. 18- 11-1926):
HƯƠNG Tâm nhứt phiến cận càn khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thuỳ bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.
Do hai bài thi Tịch Đạo nam nữ của đạo Cao Đài thì Tịch Đạo đời Lý Giáo Tông, Nam lấy chữ THANH, Nữ lấy chữ HƯƠNG, tức là cả đạo hữu nam nữ từ tín đồ đến Thiên phong đều trong đời Lý Giáo Tông hành chánh, đứng vào tịch đạo nam Thanh, nữ Hương.
Qua đời Giáo Tông khác thì nam lấy chữ ĐẠO, nữ lấy chữ TÂM.
Ban Tịch Đạo lưu truyền thể thức,
Giữ đời đời sáng rực: Thanh Hương.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Tịch Đạo Thanh Hương chiếu địa hoàn,
Mừng nay hạ giới phước Trời ban.
(Thơ Huệ Phong).
寂 寥
Tịch: Lặng lẽ, không có tiếng động. Liêu: Trống không, không có bóng dáng sinh vật nào.
Tịch liêu là trống không, lặng lẽ. Đồng nghĩa với “Hoang vắng”.
Như: Cảnh tịch liêu của khu nghĩa địa.
Trăng khuya cứ một màu u ám,
Nét tịch liêu chìm đắm mông lung.
(Phù Kiều Hận Sử).
寂 寞
Tịch: Lặng lẽ. Mịch: Yên lặng, không hơi tiếng.
Tịch mịch là im lặng, không có tiếng động. Tịch mịch còn dùng để chỉ nơi vắng lặng. Như: Đêm tịch mịch.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người lý tưởng của Ngài (Lão Tử) là người sống trong cảnh tịch mịch, cách biệt với người đời, đóng cửa, rấp ngõ không giao thiệp với ai, để rèn luyện tâm tánh, trụ vững tinh thần.
Tịch mịch hàng sương lấp hoạ đường,
Mưa hè ghẹo nguyệt áng đưa gương.
(Lục Nương Giáng Bút).
Chốn tịch mịch lòng thường khoẻ dạ,
Khác hơn là những kẻ mang gông.
(Thơ Hộ Pháp).
Chuông cảnh tỉnh rán khua đêm tịch mịch,
Trống chiền già gượng khích bóng trời mơi.
(Văn Tế Tiểu Tường).
Tiếc là lưu luyến muốn giữ mãi, tức cảm thấy không muốn rời bỏ, không muốn mất đi.
Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Vào nơi đạo đức rồi, dầu cho phải cát ái ly gia, chia tình xẻ nghĩa, máu thịt đoạn ly, mà làm cho tròn trách nhậm xứng đáng của mình, để hiến thân chuộc sanh mạng cho muôn ngàn kẻ đồng bào, thì cái đau đớn thường tình, sự khổ tâm ở thế kia, đau khổ nào có tiếc.
Ngọc lành đáng giá biết bao lăm?
Để mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Như ốc mượn hồn đời há tiếc,
Bỏ qua cho rảnh kiếp phong trần.
(Đạo Sử).
Tiếc: Cảm thấy ray rứt trong lòng vì đã mất đi vật quý. Nuối: Luyến tiếc thương mến, không muốn rời xa.
Tiếc nuối, như chữ “Nuối tiếc”, là tiếc và ngậm ngùi trước những cái cho là tốt đẹp đã qua đi.
Như: Tiếc nuối những ngày tuổi thơ.
Tiếc nuối khi đây chưa kiến diện,
Trễ tràng thì đó mệnh an bài.
(Thơ Ngọc Cội Thanh).
Tiếc: Cảm thấy ray rứt trong lòng vì đã mất đi. Thương: Có tình yêu tha thiết và tỏ ra quan tâm săn sóc.
Tiếc thương, như chữ “Thương tiếc”, là thương mến và luyến tiếc.
Trong bài Điếu văn của Đức Thượng Sanh đọc trước Liên Đài Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Chẳng có lời nào xác đáng để tỏ hết nỗi tiếc thương của chúng tôi đối với một bạn đồng môn mà cả đời hành Ðạo chỉ biết tận tuỵ với nhiệm vụ.
Trân trọng lấy hình hài dơ ố,
Còn thiêng liêng vô số tiếc thương.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Nhựa xuân nẩy lá đồng chung hưởng,
Nắng hạ queo cành chẳng tiếc thương.
(Thơ Hộ Pháp).
Tiếc: Lưu luyến muốn giữ lại mãi mãi. Xuân: Mùa xuân, chỉ tuổi trẻ.
Tiếc xuân là tiếc nuối mùa xuân trôi qua đi, hoặc nói hối tiếc tuổi trẻ đã theo ngày tháng đi qua mau.
Lắm kẻ còn xuân chẳng tiếc xuân,
Tạo thành nghiệp dữ biết bao lần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tiệc là bữa ăn đặc biệt có nhiều món ngon và có đông khách dự.
Như: Mở tiệc chiêu đãi khách hàng, dự tiệc cưới của người em cô cậu.
Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng,
Chơn Thần khá đến hội hàng chư linh.
(Kinh Tận Độ).
Tiệc: Bữa ăn đặc biệt có nhiều món ngon, đông người dự. Hoa: Tiếng dùng để chỉ sự trang trọng.
Tiệc hoa là tiếng dùng để nói một buổi tiệc thịnh soạn, linh đình cho đẹp lời.
Đuốc ngọc tiệc hoa xuê nét liễu,
Chăn loan gối phượng ấm giường ngà.
(Thơ Chơn Tâm).
Tiệc: Bữa ăn đặc biệt có nhiều món ngon, đông người dự. Ngọc: Chỉ sự trân quý.
Tiệc ngọc là buổi tiệc thịnh soạn, gồm các món ăn sang trọng, trân quý.
Cờ thần nhớ buổi vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tiệc ngọc vui vầy trang bạch phát,
Xe hoa mừng đón lứa thanh my.
(Thơ Thuần Đức).
纖 悉
Tiêm: Nhỏ. Tất: Gọn, hết, xong.
Tiêm tất, như chữ “Tươm tất”, là có được những gì để tương đối đáp ứng yêu cầu về mặt sinh hoạt vật chất, gây cảm giác hài lòng.
Như: Người Đạo ra đường phải ăn mặc tiêm tất.
Dạy trẻ tớ sự nhà tiêm tất,
Cuốc, cày, bừa còn mất phải coi chừng.
(Phương Tu Đại Đạo).
潛 力
Tiềm: Ngầm. Lực: Sức.
Tiềm lực là cái sức ngầm không tỏ ra ngoài, tức là cái sức mạnh tiềm tàng bên trong.
Thí dụ: Nền kinh tế trong một nước là tiềm lực của Quốc gia đó.
Dưới tiềm lực yêu thương, những gì đắng cay đều biến thành dịu ngọt...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
潛 識
Tiềm: Ẩn núp. Thức: Biết.
Tiềm thức là cái ý thức ngầm ở bên trong, tức cái nhận thức ngấm ngầm không rõ rệt.
Như: Tư tưởng khinh người nghèo đã ăn sâu vào tiềm thức của ông ấy.
Thấy trong tiềm thức còn dư ảnh,
Nên đến hàn huyên để ấm tình.
(Thơ Thanh Hương).
Vầng trăng mờ tỏ soi tiềm thức,
Làn gió dịu hiền thả ước mơ.
(Thơ Thanh Hương).
Tiệm là của hàng, cử hiệu. Như: Tiệm buôn, tiệm may, tiệm thuốc bắc.
Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Hiền Hữu khá nói cùng kẻ đến đây chẳng tâm Ðạo, chỉ đến cầu gia đạo và cầu thuốc, biết rằng: Ðây vốn là Ðền thờ Ngọc Ðế chớ chẳng phải là nhà thương hay là tiệm bói, nghe à!...
Ðây chẳng phải nhà thầy tiệm bói,
Ấy là đèn chói rọi đường tu.
(Đạo Sử).
Dạy đừng ham quán rượu tiệm trà,
Đừng hút xách làm ma nha phiến.
(Phương Tu Đại Đạo).
Chiêu mối hàng đặng kẻ yêu đương,
Ắt có thuở khai trương tiệm lớn.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Tiên 仙 là người tu theo Đạo giáo luyện được phép trường sinh mà đắc quả. Như: Học phép Tiên, đắc quả thành Tiên, ngôi Tiên vị Phật.
Thánh giáo Thầy có câu: Không chuyện chi cần, Thầy không muốn làm nhọc chư Tiên và chư Thần, mỗi vị đều có trách nhiệm riêng, con hiểu à!
Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,
Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh đảo nghiêng tai Thánh khảy đờn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tiên 先 là trước. Như: Tiên phong, tiên tri, tổ tiên.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðức Hộ Pháp khi còn tại thế đã thường nhắc nhở cho Ðạo hữu phải giữ cho nguyên vẹn cái tinh thần tốt đẹp của phong hoá nước nhà, cái tinh ba của nền triết lý trong Ðạo Nhơn luân trót bốn ngàn năm do tổ tiên lưu lại.
Có lợi cho danh thường hiếp chúng,
Vì điều oan nghiệt tổ tiên truyền.
(Đạo Sử).
3.- Tiên 鞭 là cây roi. Như: Bồ tiên là cây roi làm bằng cỏ bồ, cỏ lát.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Ðời Hớn, ngươi Lưu Khoan làm quan, hễ dân có tội thì đánh bằng roi lát (bồ tiên) cho biết nhục vậy thôi.
Hớn Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục,
Hạng Trọng Sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
4.- Tiên 箋 là giấy viết thư, loại giấy có trang trí hoa văn. Như: Hoa tiên, tiên thề.
Truyện Kiều có câu: Tiên thề cùng thảo một chương, Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Văn tài chi mấy khách lưu tâm,
Tiếp mảnh hoa tiên cảm mến thầm.
(Thơ Chơn Tâm).
仙 邦
Tiên: Bậc Tiên. Bang: Nước.
Tiên bang, đồng nghĩa với chữ “Thiên quốc 天 國”, là một nước trên Trời, tức chỉ cõi Tiên, hay cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Như: Quy hồi Tiên bang.
Tình ái nhành dương đem rưới tắt,
Nắm tay dìu lại cõi Tiên bang.
(Đạo Sử).
Sao cho trong sạch tinh thần,
Tiên bang trở gót vẹn phần cõi Thiên.
(Huỳnh Hoa Tiên Nữ).
Nầy là chỗ thiếp đương ngồi,
Tin nghe chàng đã quy hồi Tiên bang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
仙 蓬
Tiên: Bậc Tiên. Bồng: Chỉ về núi Bồng Lai.
Tiên Bồng là Bồng Lai Tiên cảnh, ý muốn nói núi Bồng Lai ở cõi Tiên, chỉ cõi Tiên.
Thức tỉnh mau chơn về động Thánh,
Giác mê sớm bước đến Tiên bồng.
(Thơ Thông Quang).
Những tưởng trăm năm gìn Đạo nghiệp,
Nào ngờ một phút ngự Tiên bồng.
(Thơ Thái Quốc Thanh).
仙 境
Tiên: Thần Tiên. Cảnh: Cõi, chỗ ở.
Tiên cảnh là chỗ ở của Tiên hoặc chỉ nơi đẹp đẽ như cảnh Tiên.
Thánh Ngôn có câu: Kẻ phàm dầu ly hương thuở ấu xuân đi nữa, lòng hằng hoài vọng. Chí Thánh dầu bị đoạ trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh. Nếu chẳng vậy, ai còn dám ưng thuận hạ thế cứu đời?
Hồng trần cõi tạm chớ mê,
Sao bằng Tiên cảnh là quê hương mình.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Gần nơi Tiên cảnh phải xa phàm,
Cái kiếp trần nầy trẻ chớ ham.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tiên cốt: Cốt cách như Tiên. Phật căn: Căn gốc Phật.
Tiên cốt Phật căn, đồng nghĩa với chữ “Tiên căn Phật cốt 仙 根 佛 骨” là nói người có cốt căn của Tiên Phật, tức căn duyên với Tiên Phật.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu anh hoạ sĩ đủ tài, đủ năng lực cầm cây bút hoạ cho nó nên hình tướng, tưởng không có vật báu chi ở thế gian nầy so sánh được, vì nó có Tiên căn Phật cốt hiện trong đó, để tạo ra hình tướng. Cái hình tướng và tinh thần của Tiên Phật tốt đẹp thế nào không nói ra ai ai cũng biết. Cái hình nó phải mường tượng như thế đó, phải làm cho nó ra hình Tiên cốt Phật các bạn thử xem Tiên, Phật tốt đẹp thế nào, thì trường quan lại của Ðạo phải cầm cây viết thiêng liêng vẽ nên hình tốt đẹp như Phật như Tiên vậy.
Tiên cốt muôn đời loà ngọc khuyết,
Phật căn bảy ức điểm quang minh.
(Thơ Mai Ngọc Nhiễu).
仙 姑
Tiên cô, ở đây chỉ Hà Tiên Cô, là một vị Nữ Tiên trong Bát Tiên.
Hà Tiên Cô tên thật là Hà Tố Nữ, quê quán ở Quảng Châu, huyện Tăng Thành, Lớn lên, bà đến ở với mẹ tại khe Vân Mẫu và không chịu lập gia đình. Sau Hà Tố Nữ gặp được Lý Thiết Quãi và Lam Thể Hoà đi hái bông. Hai vị Tiên thấy Hà Tố Nữ sắp thành Tiên, liền gọi đến để truyền cho phép tu luyện, nên sau thành vị Tiên thứ năm, được xưng là Hà Tiên Cô.
Hà Tiên Cô thường cỡi trên con chim phụng.
Tiên Cô đứng bậc chí nhơn,
Thiết Quải, Quả Lão, trọn phần Đông Du.
(Lược Thuật Toà Thánh).
仙 宮
Tiên: Chỉ cõi Tiên, cõi Trời. Cung: Cung điện.
Tiên cung là cung điện trên Trời, tức cung của chư Tiên, dùng để chỉ cõi Tiên.
Đạo Cao Đài gọi cõi ấy là Thiêng Liêng Hằng Sống.
Tiên cung rày đã khoẻ mình,
Từ đây lánh nẻo gập ghình thế gian.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
仙 宮 佛 處
Tiên cung: Cung điện của các vị Tiên. Phật xứ: Cõi Phật, chỉ cõi Cực Lạc Thế Giới.
Tiên cung Phật xứ là chỉ cõi của chư Tiên và chư Phật. Theo giáo lý đạo Cao Đài, đây là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Siêu thăng phụng liễn quy khai,
Tiên cung Phật xứ Cao Đài xướng danh.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
仙 道
Tiên: Bực Tiên, vị Tiên, trên bực Thánh. Đạo: Chỉ tôn giáo.
Tiên đạo, còn gọi là “Tiên giáo”, là một tôn giáo dạy người tu luyện thành Tiên.
Tiên đạo do Đức Lão Tử lập ra và làm Giáo chủ nên còn được gọi là Lão giáo.
Người xưa thường nói: Dục tu Tiên đạo, tiên tu nhơn đạo. Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ 欲 修 仙 道, 先 修 人 道. 人 道 不 修, 仙 道 遠 矣, nghĩa là muốn tu đạo Tiên, trước phải tu nhơn đạo. Nhơn đạo chẳng tu, đạo Tiên xa vậy.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Vốn từ trước Thầy lập Ngũ Chi Ðại Ðạo là: Nhơn đạo,Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo.
Phép Tiên Đạo: Tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
1.- Tiên gia 仙 家
Tiên 仙: Bậc Tiên. Gia 家: Nhà, thuộc về phái.
Tiên gia là nhà Tiên, chỉ phái Tiên.
Thánh giáo Thầy có dạy: Ðạo mầu tìm đến, lấy hạnh đức giồi tâm, mượn nâu sồng lánh thế, càng dìu sanh chúng, càng bước bước càng cao, lên tột mây xanh, vẹt ngút trông vào cảnh cực lạc an nhàn, non chiều hạc gáy, động tối quy chầu, ấy là khách Tiên gia lánh khỏi đoạ luân hồi nơi cõi thế vậy.
Dùng huyền diệu Tiên gia cơ bút,
Lập chơn truyền quy phục ngũ chi.
(Lược Thuật Toà Thánh).
2.- Tiên gia 仙 爺
Tiên 仙: Bậc Tiên. Gia 爺: Cha, tiếng tôn xưng.
Tiên gia là Đấng Tiên Ông. Đây chỉ Đức Đại Từ Phụ là một đấng Tạo Hoá ra Càn Khôn Vũ Trụ, là Đấng cha chung của vạn linh sanh chúng.
Mùi hương lư ngọc bay xa,
Kính thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
仙 教
Tiên: Bực Tiên, vị Tiên, trên bực Thánh. Giáo: Chỉ đạo, hay tôn giáo
Tiên giáo là Tiên đạo, một tôn giáo dạy người tu luyện thành Tiên, do Đức Lão Tử và làm giáo chủ, nên còn gọi là “Lão giáo 老 教”.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Dầu Tiên Giáo cũng vậy, nếu không có Đức Hồng Quân Giáo Chủ đã truyền giáo thì Đức Lão Tử cũng chưa biết phải truyền bá Tiên Giáo của Ngài cho nhơn loại là thế nào mà chớ.
Thầy lập Phật giáo vừa khi Khai Thiên lập Ðịa, nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo, rồi mới tới Nho giáo.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
仙 教 心 經
Tiên giáo: Tôn giáo dạy người tu luyện thành Tiên. Tâm kinh: Kinh dạy về tâm, phải lấy tâm mà lãnh hội ý sâu xa của kinh.
Trong đạo Cao Đài, “Tiên Giáo Tâm Kinh” là bài kinh xưng tụng công đức Thái Thượng Đạo Quân, giáo chủ của Tiên giáo.
Vì vậy, bài kinh nầy còn được gọi là “Thái Thượng chí tâm quy mạng lễ 太 上 志 心 皈 命 禮” nghĩa là hết lòng kính lạy quy y Đức Thái Thượng Đạo Quân.
Nội dung bài Tiên Giáo Tâm Kinh có nghĩa như sau:
- Tiên thiên khí hoá Thái Thượng Đạo Quân.
Khi trời đất chưa phân định thì khắp cả vũ trụ chỉ có một khối khí duy nhất gọi Tiên Thiên Hư vô chi khí. Khí Hư Vô nầy là một khối nguyên khí luân chuyển hoá sanh Đức Thái Thượng Lão Quân, là thuỷ Tổ của Lão giáo (Tiên Giáo).
- Thánh bất khả tri, công bất khả nghị.
Thánh đức của Ngài cao cả không ai có thể biết được, còn công đức của Ngài cao thâm rộng lớn không ai có thể nghị luận cho hết được.
- Vô vi cư Thái cực chi tiền, Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng.
Đạo Vô vi của Ngài đã có từ trước khi trời đất chưa phân định nên đến khi Thiên địa đã an ngôi rồi (Hữu thỉ), thì Ngài là Đấng cao ngôi hơn tất cả các bậc Chơn Thánh, Chơn Nhơn.
- Đạo cao nhứt khí, diệu hoá Tam Thanh. Đức hoán hư linh, Pháp siêu quần Thánh.
Đạo của Đức Thái Thượng Lão Quân cao cả luân chuyển khắp trời đất và từ một khí hư vô, Ngài đã dùng phép huyền diệu biến hoá thành Tam Thanh, nên Thánh đức của Ngài sáng rực khắp cõi hư linh, còn Đạo pháp của Ngài vượt trổi hơn các bậc Thánh.
- Nhị ngoạt thập ngũ, phân tánh giáng sanh. Nhứt thân ức vạn, diệu huyền thần biến.
Ngài đã phân tánh giáng sanh vào ngày rằm tháng hai. Từ một mình Ngài đã biến hoá thành muôn ức thân một cách mầu nhiệm.
- Tử khí đông lai, quảng truyền Đạo Đức. Lưu sa tây độ, Pháp hoá tướng tông.
Khi nhìn thấy vầng mây màu tía từ hướng đông bay đến, quan lệnh ải Hàm Cốc là Doãn Hỷ biết Ngài đến. Chính nơi đây Ngài đã để lại quyển Đạo Đức Kinh, sau nầy được truyền bá rộng khắp.
Từ đó Ngài sang miền sa mạc phía tây độ được Huyền Huyên Nguyên, ông nầy đã truyền bá và chỉnh đốn mốt Đạo Giáo của Ngài thêm sáng tỏ.
- Sản Tất Viên, Phương Sóc chi bối. Đơn tích duy mang.
Đức Thái Thượng lại lâm phàm hoá thân thành Tất Viên (Trang Tử) và Đông Phương Sóc, dấu chơn linh của Ngài thật là mầu nhiệm vô cùng.
- Khai Thiên Địa nhơn vật chi tiên. Đạo kinh hạo kiếp.
Đạo của Ngài mở trước khi trời đất, muôn vật, trải qua rất lâu đời nhiều kiếp cũng như trời đất vận hành, xoay chuyển không ngừng
- Càn khôn hoát vận. Nhựt nguyệt chi quang. Đạo pháp bao la, Cửu hoàng tỉ tổ.
Đạo của Ngài cũng như mặt Trời, mặt trăng chiếu khắp mọi nơi không chỗ nào mà không tỏ rạng.Đạo pháp của Ngài rộng lớn bao la chẳng khác nào tấm lưới bao trùm Cửu hoàng và tỷ tổ vào trong.
- Đại Thiên Thế giái, Dương tụng từ ân. Vĩnh kiếp quần sanh, Ngưỡng kỳ huệ đức.
Ngài, chẳng những nơi cõi Đại Thiên Thế Giới đã ca tụng ơn lành, mà cả chúng sanh nhiều kiếp nơi cõi trần cũng ngưỡng mộ, tôn thờ ơn đức Ngài.
- Đại Thần Đại Thánh. Chí cực chí tôn Tiên Thiên chánh nhứt. Thái Thượng Đạo Quân. Chưởng Giáo Thiên Tôn.
Ôi! Ngài là vị Thần lớn, vị Thánh lớn, thật tột cùng, thật đáng tôn kính hơn hết, nên Ngài xứng đáng với ngôi Tiên Thiên chánh nhứt Thái Thượng Đạo Quân, một vị Thiên tôn chưởng quản Đạo giáo vậy.
Thành kỉnh tụng Tiên Giáo Tâm Kinh.
(Nghi Tiết Cúng Lễ).
仙 丸
Tiên: Người tu theo Đạo giáo đắc quả. Hoàn: Viên thuốc tròn, nhỏ.
Tiên hoàn, đồng nghĩa với “Tiên đơn 仙 丹”, là thuốc Tiên, một loại thuốc rất huyền diệu của các bậc Tiên gia.
Bịnh trầm kha lâu ngày đã lậm,
Thuốc tiên hoàn gội tẩm cũng trơ trơ.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
仙 衣
Tiên: Thần tiên. Y: Áo quần.
Tiên y là quần áo tiên, tức loại trang phục của các Đấng Tiên mặc.
Như: Tiên y của bốn vị ngọc nữ theo hầu Đức Phật Mẫu vô cùng xinh đẹp.
Miệng chào lại nhủ mặc Tiên y,
Mời đến Rừng Tre hội cuộc kỳ.
(Thiên Thai Kiến Diện).
先 烈
Tiên: Trước. Liệt: Công nghiệp.
Tiên liệt là chỉ những người có công khai mở sự nghiệp hoặc những bậc công thần ở đời trước.
Khí thiêng Đảnh tộ hồn tiên liệt,
Hộ Pháp Cao Đài Đấng cứu tinh.
(Thơ Huệ Phong).
Nén hương siêu độ dâng Tiên liệt,
Lời nguyện xin xâm gởi Cửu Trùng.
(Thơ Thanh Hương).
先 料
Tiên: Trước. Liệu: Toan tính, sắp đặt.
Tiên liệu là lo tính trước, tức tìm mọi khả năng để liệu cách ứng phó một việc gì.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông có câu: Qua có tiên liệu sửa đổi cái kết quả sắp tới đây nhưng chưa biết có được sự phê chuẩn của Chí Tôn không?
Cảnh gia đình phải tiên liệu. Thầy để lời con tua gắng chí, chừng sửa luật phải có mặt nơi Thánh Thất.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
先 靈
Tiên: Chữ dùng để chỉ những người đã qua đời. Linh: Linh hồn, chơn linh.
Tiên linh là chơn linh của ông bà tổ tiên.
Ngày xưa, nơi Hậu điện của Thánh Thất thường lập bàn Cửu Huyền Thất Tổ để thờ. Hiện nay, Hội Thánh dạy lập bàn thờ “Chư Tiên Linh” có hai lọng để thờ.
Chư Tiên Linh là các chơn linh của tổ tiên, được nâng lên hàng Thánh vị.
Thiên bàn Thầy ngự cầu minh giám,
Tổ án Tiên linh nguyện chứng lòng.
(Thơ Thiên Vân).
仙 龍
Tiên: Bậc Tiên. Long: Rồng.
Tiên long là rồng và Tiên, ý chỉ nòi giống của dân tộc Việt Nam, mà lịch sử cho rằng thuộc con rồng cháu Tiên.
Xem: Rồng Tiên.
Khiến huynh đệ dứt đường binh cách,
Phò bắc nam chung khối Tiên long.
(Chiêu Hồn Tử Sĩ).
仙 女
Tiên: Chỉ bậc Tiên. Nữ: Phái nữ.
Tiên nữ chỉ các Đấng Nữ Tiên, tức các vị Tiên Nương, trong đó có Cửu Vị Tiên Nương.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Các vị Tiên Nữ đã đến với chúng tôi là: Thất Nương, Bát Nương, Lục Nương, rồi lần lần các vị Nữ Tiên, Nữ Phật nơi Cung Diêu Trì đến làm bạn với chúng tôi, sự làm bạn với tình tôn kính đó, chúng tôi chưa gặp ở thế gian nầy.
Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,
Phép Lục Nương gìn giữ chơn hồn.
(Kinh Tận Độ).
仙 娘
Tiên: Chỉ bậc Tiên, hàng Tiên. Nương: Chỉ người phụ nữ đáng kính.
1.- Tiên Nương, như chữ “Tiên Nữ 仙 女”, là chỉ vị nữ Tiên.
Như: Hà Tiên Cô là một vị Tiên Nương trong hàng Bát Tiên.
Ðạm màu xe tuyết dường sơn đỏ,
Ngó mặt Tiên Nương ửng má đào.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Tiên Nương còn dùng để chỉ chín vị Nữ Tiên trong Diêu Trì Cung. Như: Cửu vị Tiên Nương.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Chúng tôi tưởng tượng một ngày kia, khi tu đắc Đạo, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, tức nhiên về cảnh Tiên, mới có hạnh phúc, mới có thể Hội Yến Diêu Trì hưởng Tiên tửu, hưởng Bàn Đào, chớ đâu có ngờ Hội Yến Diêu Trì là hội ngộ các vị Tiên Nương tại mặt thế gian này.
Cửu Vị Tiên Nương dìu nẻo Thánh,
Tam Kỳ Phật Mẫu bố ân dày.
(Thơ Hàn Sinh).
先 嚴
Tiên: Chữ dùng để chỉ những người đã qua đời. Nghiêm: Oai nghiêm, dùng để chỉ người cha.
Tiên nghiêm chỉ người cha đã mất. Như: Cung kính trước bàn thờ Tiên nghiêm.
Tạ lòng mến mộ của Duy quân,
Càng nhớ tiên nghiêm buổi xuất thần.
(Thơ Hàn Sinh).
先 儒
Tiên: Trước, người đã chết rồi. Nho: Nho sĩ, nhà Nho, chỉ người có học thức.
Tiên Nho là nhà Nho đời trước, ý muốn chỉ kẻ học giả thời xưa.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Cái học thức của Tổ Phụ các con để lại, nhứt là do nơi tiên Nho, họ chỉ mong có một điều, các con học đặng hành, chớ không phải học rồi làm ông Thầy Nho đó vậy, hay học đặng làm các nhà triết học vậy thôi.
Bạch Ngọc muốn gần chơn Thượng Đế,
Trước noi gương rạng đấng tiên Nho.
(Thơ Thượng Sanh).
Nhiều chơn linh họ dầu trí thức,
Vẫn xem thường đạo đức tiên Nho.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
仙 儒 釋
Tiên: Chỉ bậc Tiên, hay Tiên giáo. Nho: Chỉ Nho giáo. Thích: Thích giáo hay Phật giáo.
Tiên Nho Thích là Tam giáo gồm Tiên giáo, Nho giáo và Phật giáo.
Tiên, Nho, Thích, một nhà hiệp lại,
Bước tu hành rộng rãi thinh thinh.
(Thơ NĐS Hương Thanh).
仙 凡
Tiên: Cõi Tiên, hay bậc Tiên. Phàm: Phàm trần.
Tiên phàm là chỉ cõi Tiên, cõi phàm, tức cõi Thiêng Liêng Hằng Sống và cõi tục.
Tiên phàm còn dùng để chỉ bậc Tiên và kẻ phàm tục. Như: Tiên phàm khác cõi.
Xin khá nhớ Tiên phàm khác tánh,
Đá đất nào dám sánh bạc vàng.
(Bát Nương Giáng Bút).
Giờ nay kẻ ở người lui,
Tiên phàm chia cách chưa nguôi tất lòng.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
仙 風 佛 骨
Hay “Tiên phong Phật sắc”.
Tiên phong: Phong thái như Tiên. Phật cốt: Cốt cách như Phật. Phật sắc: Sắc diện như Phật.
Tiên phong Phật cốt, đồng nghĩa với “Tiên phong Phật sắc 仙 風 佛 色” là phong thái như Tiên, cốt cách hay hình dạng như Phật. Các thành ngữ trên đều có ý chỉ phẩm cách siêu phàm của người Đạo.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy tỏ thật, cái luật lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí mà lập thành đây, nó có ảnh hưởng về đạo đức, Tiên phong Phật sắc của các con, nên Thầy buộc mình cam chịu vậy.
Tiên phong Phật cốt mỹ miều,
Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.
(Kinh Tận Độ).
Quyết chí ái dân mới bị đày,
Tiên phong Phật cốt tại xưa nay.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
先 曾 祖 考
Tiên: Chữ dùng để chỉ những người đã qua đời. Tằng: Ông cố. Tổ: Ông nội. Khảo: Cha đã chết rồi.
Tiên tằng tổ khảo là chỉ ông cố, ông nội và cha đã chết rồi, tức là chỉ chung tổ tiên.
Ông cha trong nhà thì thờ Tiên Tằng Tổ Khảo của Tông Môn, ông là giáo sư, là thầy cả trong gia đình.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
仙 籍
Tiên: Bậc Tiên. Tịch: Sổ sách biên chép.
Tiên tịch là sổ bộ ghi chép tên họ những bậc đắc phẩm Tiên.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh cõ đoạn viết: Có trường thi “công quả”, tất có cơ “khảo thí” theo phép công bình Thiên đạo. Phàm muốn đoạt thủ ngôi vị nơi trường thi ấy, người hành đạo phải có công lao xứng đáng và phẩm hạnh hoàn toàn. Chịu thử thách mà không sa ngã, mới đáng đăng tên vào Tiên tịch.
Nay tôi đặng ân phong Tiên tịch,
Ðể đôi lời khuyến khích cùng nhau.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Kim Bàn Ngọc Lộ thần linh tại,
Tiên tịch chánh danh chữ rạng đề.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
先 進
Tiên: Trước. Tiến: Tấn tới.
Tiên tiến là người đi trước hơn mình.
Tiên tiến là ở vị trí hàng đầu, vượt hẳn trình độ phát triển chung.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trong các nước văn minh tiên tiến, nơi nào Ðức Ngài (Hộ Pháp) có để chân đến thì những bậc thượng lưu trí thức sau khi nghe ngài thuyết pháp đều để lòng sùng bái bái Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, nhiều người đã xin nhập môn, xin Ðức Ngài đến nhà khai đàn thượng tượng và tôn trọng Ðức Ngài như một Ðấng Cứu Thế.
Tấn phong, tân nhiệm mừng tiên tiến,
Thăng phẩm tiễn hành chúc thái lai.
(Thơ Hoàn Nguyên).
仙 子
Tiên Tử là một phẩm chức sắc cao cấp trong Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng thuộc Cơ Quan Phước Thiện của Đạo Cao Đài.
Phẩm Tiên Tử ở dưới phẩm Phật Tử, trên phẩm Thánh Nhơn.
Tiên Tử đối phẩm với Đầu Sư bên Cửu Trùng Đài.
Không riêng cho mấy em, dầu cho các sắc dân trên địa cầu nầy mà biết chen vai gánh vác sự khổ của đời thì họ cũng đọat Tiên Tử được.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
仙 酒
Tiên: Bậc Tiên, cõi Tiên. Tửu: Rượu.
Tiên tửu là rượu Tiên, tức rượu trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Chúng tôi tưởng tượng một ngày kia, khi tu đắc Đạo, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, tức nhiên về cảnh Tiên, mới có hạnh phúc, mới có thể Hội Yến Diêu Trì hưởng Tiên tửu, hưởng Bàn Đào, chớ đâu có ngờ Hội Yến Diêu Trì là hội ngộ các vị Tiên Nương tại mặt thế gian này.
Hơi Tiên tửu nực nồng thơm ngọt,
Phi Tưởng Thiên để gót tới nơi.
(Kinh Tận Độ).
先 天 後 天
Tiên thiên, thời kỳ trước khi tạo dựng Trời đất, tức là thời kỳ Vũ trụ còn hỗn độn, chưa phân định, cho đến khi có ngôi Thái Cực xuất hiện. Đây là thời kỳ chưa có vật chất, thời vô vi.
Hậu thiên là thời kỳ vũ trụ, vạn vật đã được tạo dựng nên. Thời kỳ nầy đã có vật chất nên thuộc hữu hình.
Tiên thiên, hậu thiên tức là chỉ thời kỳ trước và sau khi tạo dựng ra Càn khôn vũ trụ, tức là thời kỳ vô vi và thời hữu hình.
Tiên thiên Hậu thiên,
Tịnh dục Đại Từ Phụ.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
先 天 氣 化
Tiên thiên: Trước Trời đất. Khí hoá: Một thể vô hình có thể cảm ứng mà sinh nuôi vạn vật.
Tiên Thiên khí còn gọi là nguyên khí, Hư vô chi khí, hay Hỗn nguơn khí. Khí nầy có trước khi Càn khôn Vũ trụ được thành hình.
Khi Trời đất chưa phân định thì khắp cả vòm trời chỉ có một khối khí duy nhất, gọi là Tiên thiên Hư vô khí.
Theo bài kinh Tiên Giáo, khí Hư vô này là một khối nguyên khí luân chuyển hoá sanh ra Đức Thái Thượng Đạo Quân.
Tiên Thiên khí hoá.
Thái Thượng Đạo Quân,
(Kinh Cúng Tứ Thời).
先 知
Tiên: Trước. Tri: Biết.
Tiên tri là biết trước được những việc sắp xảy ra.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Lão chẳng phải sợ, vì chưa có quyền hành hữu vi nào mà phạm đến Lão đặng, chỉ sợ giùm cho chư hiền hữu, chư hiền muội mang nặng thi phàm, mà chịu cường quyền đè nén. Chư hiền hữu, chư hiền muội có đạt được phép tiên tri như vậy đâu mà mong tránh khỏi.
Rằng muốn tỏ tường cơ bí mật,
Phương nào rõ thấu phép tiên tri.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Lời sấm đoán văn khi thật quả,
Tiên tri toán số gẫm không lầm.
(Thanh Sơn Chơn Nhơn).
先 兆
Tiên: Trước. Triệu: Điềm.
Tiên triệu là điềm báo trước việc sắp xảy ra.
Người xưa thường cho rằng phụng gáy trên núi Kỳ Sơn là tiên triệu cho việc chúa Thánh ra đời.
Đến đây, chúng tôi mới hiểu rằng phong trào phò cơ, chấp bút, xây bàn trước kia là tiên triệu cho một nền Tân Tôn Giáo xuất hiện tại xứ Việt Nam.
(Giáo Lý).
仙 位
Tiên: Chỉ bậc Tiên, trên bậc Thánh. Vị: Ngôi vị.
Tiên vị là ngôi Tiên, tức là tu hành khi đắc đạo chơn linh được vào hàng Tiên vị.
Theo Cửu phẩm Thần Tiên, Tiên vị có ba phẩm: Địa Tiên, Nhơn Tiên, rồi đến Thiên Tiên.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Đặng Thánh vị rồi, cũng luyện Thánh hồn mình theo tánh đức của chư Tiên mà đoạt cho đặng Tiên vị.
Đạo Trời vạch áng mây mù,
Vun bồi Tiên vị, công phu rạng ngời.
(Ai Điếu Hương Lự).
Cẩm tịch Diêu Cung Tiên vị đắc,
Hạnh phùng vũ lộ sắc Thiên ban.
(Nhị Nương Giáng Bút).
仙 車
Tiên: Thuộc về Thần Tiên. Xa: Xe.
Tiên xa là xe Tiên, một chiếc xe thiêng liêng, huyền diệu dùng để chở các vị Tiên.
Các Đấng Thần Tiên thường dùng mây, hạc để làm xe, nên gọi là xe mây (vân xa), xe hạc.
Đức Thái Thượng Lão Quân có xe Như Ý, Đức Lão Tử có xe trâu.
Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.
(Kinh Tận Độ).
1.- Tiến 進, còn đọc là “Tấn”, là lên, đi lên. Như: Tiến binh, tiến bộ, tiến hành, tiến hoá.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Thầy để lời cho các con rõ rằng: Ðường đạo ngày hôm nay, các con đã tiến nhiều. Trách nhậm muốn cho hoàn toàn, cần phải bước qua mấy sự trắc trở mà đạt mục đích cao thượng.
Ðèn huệ chực soi mau tiến bước,
Nơi miền Cực Lạc dễ đâu xa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tiến 薦 là giới thiệu dâng lên. Như: Bạt tiến, tức là đề cử dâng lên các Đấng thiêng liêng cứu giúp cho linh hồn được siêu thăng.
Xem: Bạt tiến.
Hành lễ Bạt tiến, không làm phép xác, tụng kinh cầu siêu...
(Quan Hôn Tang Lễ).
進 步
Tiến (tấn): Đi lên, tiến tới. Bộ: Bước.
Tiến bộ hay tấn bộ, là bước lên trước, vươn tới trước, tức phát triển theo hướng đi lên, trở nên tốt hơn trước.
Trong Thuyết Đạo của Đức Thượng Sanh có câu: Theo trào lưu tiến bộ của văn minh vật chất hiện tại nhứt là trước hiểm hoạ của lằn sóng vô thần quá khích, con người dù là hạng trí thức dễ bị lôi cuốn vào cảnh bê tha trụy lạc, hoặc bị đưa đẩy vào vòng lợi danh đen tối, làm tôi tớ cho thế lực kim tiền, bán rẻ lương tâm, không còn kể nghĩa nhân và lẽ phải nữa.
Đời mới sống theo chiều tiến bộ,
Người xưa vẫn trọng đạo tề my.
(Thơ Hoài Tân).
薦 舉
Tiến: Hiến dâng. Cử: Đưa lên.
Tiến cử là đề cử người có tư cách và tài ba lên cho người trên dùng.
Đức Thượng Sanh thuyết về Ngài Quan Thánh có đoạn: Bữa sau Trương Liêu đến ra mắt Ðức Ngài và nói rằng: “Tôi tiến cử anh cho Thừa Tướng thì người vẫn kính trọng mà đãi anh rất hậu, dù cho Lưu Huyền Ðức đãi anh cách nào cũng không hơn thừa tướng, sao anh cứ mong lòng ra đi hoài, tức là không biệt phân khinh trọng đó.”
Vậy sau nầy có ai đáng thì do Tân Luật mà công cử, còn về phong tịch thì có Lý Giáo Tông tiến cử, Thầy mới nhậm phong, nghe!
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
薦 引
Tiến: Hiến dâng. Dẫn: Dìu, dắt.
Tiến dẫn là tiến cử và dẫn dắt, tức giới thiệu người có khả năng để làm việc gì đó và có trách nhiệm phải dẫn dắt.
Trong Tân Luật, Điều thứ hai về phần Tịnh Thất có quy định: Phải có một người đạo đức hơn mình tiến dẫn và một người đạo hữu bảo hộ.
Bàng Quyên nỡ chặt chân Tôn Tẩn,
Đã nhờ người tiến dẫn Nguỵ Vương.
(Báo Ân Từ).
進 行
Tiến: Lên, đi lên. Hành: Đi, làm.
Tiến hành là đi tới mãi, hay làm mãi mãi, ý nói công việc vẫn được làm, vẫn được thực hiện, vẫn diễn ra.
Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông có đoạn dạy: Vậy mọi việc hành trình khá nhớ căn tu là gốc, làm điều chi phải thuận theo Thiên mạng là toàn thắng với danh nghĩa “Vì Đạo cứu Đời” thì có Đức Lý cùng Qua thị chứng. Các em cứ tiến hành.
Canh Tý tân xuân khởi tiến hành,
Cao Đài Đại Đạo đặng thinh danh.
(Thơ Nguyệt Quang).
進 化
Tiến: Đi lên, tiến tới. Hoá: Thay đổi, biến đổi.
Tiến hoá là quá trình của vạn vật theo thiên nhiên đào thải mà thay đổi tiến lên mãi. Sự thay đổi này mỗi lúc một tốt đẹp hơn, cao siêu hơn.
Như: Quá trình tiến hoá của lịch sử con người.
Cờ tiến hoá đời đời chói rạng,
Giữ nghĩa nhân rọi sáng đạo Trời.
(Kinh Cúng Chiến Sĩ).
Bác ái là đề thi tiến hoá,
Nghĩa nhân ấy mục định duy tân.
(Thơ Hộ Pháp).
進 展
Tiến: Đi tới. Triển: Mở ra.
Tiến triển là tiến tới và mở rộng ra.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Một năm đã qua, khác hơn ngoài mặt đời, Chức sắc trong Hội Thánh không tính sổ chung niên để biết lộc vị tấn hay thối, vốn liếng lỗ hay lời, mùa màng được hay thất mà chỉ cân phân về hạnh đức sánh với năm trước có được tiến triển chăng?
Chiến tranh không ngớt, là do nơi lòng tham lam tiến triển văn minh, cơ khí tối tân như là bom nguyên tử để giết người.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Tiền 錢 là vật đúc bằng kim loại hoặc in bằng giấy, dùng làm phương tiện giao dịch mua bán.
Như: Tiền đồng, tiền giấy, tiền kẽm, tiêu tiền.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy chẳng khi nào dụng những kẻ ấy vào nền Ðạo bao giờ. Than ôi! Tiền lớn bạc nhiều, món ngon vật quí, hay xiêu lòng phàm phu. Của bất nghĩa kẻ trần còn chẳng chịu dùng thay!
Mưu được phần mình thì tổn đức,
Của tiền dầu chất há an vui?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mang tiền cỡi hạc đến Dương Châu,
Chiếp miệng còn than nỗi buổi đầu.
(Đạo Sử).
Nhơn loại điêu linh cũng bởi tiền,
Tiền làm lắm kẻ phải thành điên.
(Thơ Hộ Pháp).
2.- Tiền 前 là trước. Như: Cửa tiền cửa hậu, tiền thân, tiền kiếp, điện tiền, sinh tiền.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Trong phần nhiều các con chưa vừa lòng cho Lịch ngồi địa vị ấy, cho nên có điều cản trở trong sự truyền đạo. Thầy cũng nhìn như vậy, song vì tiền kiếp Lịch và nhơn đức Tiểng, nên Thầy mới phú thác cái trách nhiệm tối đại ấy cho nó.
Nếu chẳng định tâm lo xét quấy,
Nhãn tiền báo ứng dễ đâu sai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cha mẹ dạy sanh tiền chẳng phục,
Đến lớn khôn ngồi khóc nhắc từ lời.
(Phương Tu Đại Đạo).
Cao thượng Chí Tôn quyền chủ toạ,
Đài tiền sùng bái giữ nâu sòng.
(Thơ Hộ Pháp).
Tiền: Vật bằng kim loại hay in bằng giấy, do ngân hàng phát hành, dùng làm đơn vị tiền tệ. Bạc: Đồng tiền đúc bằng kim loại bạc.
Tiền bạc là từ chung dùng để chỉ tiền, vật sử dụng, chi tiêu, mua bán hay đổi chác.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ðối với những người chưa nhập Ðạo, chúng ta chịu kém về phần học thức, về tiền bạc, về cách phục sức và cả hình thức bên ngoài. Nhưng chúng ta nhứt định không chịu kém về phần Tâm Ðạo, về Hiền Từ và Ðức Tính.
Tôi toại hưởng phước hồng dào dạt,
Lúa đầy kho tiền bạc đầy rương.
(Thơ Hộ Pháp).
Tiền bạc trần gian còn khó kiếm,
Thiêng liêng phẩm vị mấy ai cho.
(Thơ Thái Đến Thanh).
前 輩
Tiền: Trước, đời trước. Bối: Bọn.
Tiền bối là những người không phải ngang hàng mà thuộc lớp trước, hoặc người lớn tuổi, hoặc cùng tham dự một công cuộc nhưng trước mình.
Tóm lại, tiền bối là những người lớn tuổi, hoặc thâm niên trong công việc, thuộc thế hệ trước mình.
Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có dạy: Nên biết rằng, mỗi việc chi đều có hạn định, có căn nguyên, dầu các bậc tiền bối cũng vậy. Phải lấy nét đạo đức mà đoán xét thì mới hiểu thấu sự mầu nhiệm vĩ đại của Chí Tôn sắp đặt.
Ngậm ngùi tưởng niệm ân tiền bối,
Thành kỉnh đàn em lễ hiện chầu.
(Thơ Ngọc Nhượn Thanh).
Hoa lam rạng vẻ gương tiền bối,
Đuốc huệ soi đường kẻ hậu lai.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
前 根
Tiền: Trước. Căn: Gốc rễ.
Tiền căn là căn gốc kiếp trước, tức những cái gì mà mình đã sẵn có từ trước.
Thánh giáo Thầy dạy: Thầy lập Đạo cho toàn cả chúng sanh, ai tu nấy hưởng, nhưng đứa nào có tiền căn nhiều lần chuyển kiếp, kỳ nầy mới gặp.
Tiền căn đã có sẵn công tu,
Biết đạo lý cao khá vận trù.
(Đạo Sử).
Gặp cảnh khổ cho con bớt khổ,
Dầu lao tâm ấy số tiền căn.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
前 根 後 果
Tiền căn: Căn gốc từ kiếp trước. Hậu quả: Quả nghiệp về sau.
Tiền căn hậu quả là những việc làm thiện hay ác trong kiếp trước sẽ được báo đáp lại những kết quả trong kiếp sống sau.
Như: Những cái khổ sở tai nạn của ngày hôm nay là do tiền căn hậu quả mà ra.
Mà vì tiền căn hậu quả, phải bị đắm chìm nơi bến khổ sông mê nầy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
前 根 後 劫
Tiền căn: Căn gốc từ nơi kiếp trước. Hậu kiếp: Kiếp sống sau nầy.
Tiền căn hậu kiếp là những việc làm thiện ác trong kiếp trước sẽ được báo đáp lại những kết quả trong kiếp sống sau.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp, Ngài có nói về tác phẩm “Trọng Tương Vấn Hớn” và giải thích về tiền căn báo hậu kiếp như sau:
Nếu ta quan sát trong “Trọng Tương vấn Hớn” thì rõ tiền căn Hạng Võ, hậu kiếp Quan Công. Bởi Hớn Bái Công khi lập quốc rồi nghe lời Lã Hậu diệt công thần giết Hàn Tín. Án ấy nằm dưới Phong Ðô mấy đời mà không ai xử đặng. Buổi ấy có thầy Trọng Tương là học trò khó nhà nghèo nhưng rất hiếu hạnh. Cha chết Trọng Tương cất nhà mồ thờ cha mà ở. Thường hay buồn than thân trách phận biết mình hữu tài vô mạng nên viết một bài thi có ý than rằng: “Thiên địa hữu tư, thần minh bất công” dụng ý trách điểm cái án nhà Hớn mà dưới Phong Ðô xử chưa có nổi. Vì vậy nên mắc tội phạm thượng, bị bắt hồn dẫn đến Phong Ðô, đem cho Thập Ðiện Diêm Quân vấn tội. Trọng Tương bình tỉnh trả lời rằng: “Nếu cho tôi ngồi làm Thập Ðiện Diêm Vương tôi xử án ấy cho mà coi”. Thập Ðiện Diêm Vương bằng
lòng. Ngài xử: “Tiền căn báo hậu kiếp, như Bành Việt cho đầu kiếp làm Lưu Bị, Anh Bố làm Ngô Tôn Quyền, Hàn Tín làm Tào Tháo, Hạng Sư làm Nhan Lương, Hạng Bá làm Văn Xủ, Hạng Võ làm Quan Công”.
Ta thấy hồi sáu tướng của Hạng Võ đem lòng phản bội, đầu nhà Hớn rượt Hạng Võ đến bến Ô Giang phải cắt đầu, trao cho Ðình Trưởng, chú là Hạng Bá trở lại phản cháu đã đầu lụy Hớn Bái Công còn trở lại phạt Sở. Tiền căn hậu kiếp vay trả, quả báo y nhiên.
Có một điều lạ là với Lữ Mông, oan nghiệt có khác. Tiền kiếp của Lữ Mông là ông thợ rèn, Quan Vân Trường đến mướn rèn Thanh Long Ðao với một kiểu mẫu bí mật mà Ngài không muốn có người thứ nhì biết đặng. Khi rèn xong, Ngài cầm ra sân đi thử đường đao, chợt nghĩ đến điều ấy liền day lại vớt ông thợ rèn đứt đoạn. Ông thợ rèn ấy sau đầu kiếp làm Lữ Mông. Cho nên buổi Ngài xuất thần quy vị là trả cái ngày giết ông thợ rèn, là Lữ Mông đầu kiếp trả báo giết Ngài.
Luật nhân quả định phải tùng,
Tiền căn hậu kiếp não nùng oan khiên.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
前 功
Tiền: Trước. Công: Sức lao động bỏ ra để làm việc.
Tiền công là cái công sức đã làm ra từ trước, ý chỉ công nghiệp đã gây dựng từ kiếp trước.
Như: Ngày nay may duyên gặp được đạo Trời cũng nhờ tiền công tạo phước đức.
Luân hồi trở lại trên đời,
Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
(Kinh Sám Hối Ngắn).
Tiền: Vật đúc bằng kim loại hoặc in bằng giấy dùng để giao dịch. Của: Vật mình có, mình tạo được, như tài sản, tiền bạc.
Tiền của là tiền bạc và của cải.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Liêm tức là thanh liêm, liêm khiết, hay khiết kỷ, là bản tánh trong sạch, không nhơ bợn một mảy gì, một vật gì, một món tiền của nào bất chánh, không phải do nơi công lao của mình làm ra.
Dầu cho sang vinh trăm mối, tiền của muôn chung, mấy kẻ đặng tìm đến địa vị an nhàn, xủ áo phồn hoa, để gương soi hậu thế.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
前 緣
Tiền: Trước, đời trước. Duyên: Mối dây ràng buộc được định sẵn.
Tiền duyên là mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước, từ kiếp trước.
Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,
Đoạn cho rồi oan trái buổi sanh.
(Kinh Tận Độ).
Quyền chi đó, tiền duyên đành mất,
Lợi gì đâu mà thất đạo tâm.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Huệ trí định Tiên phàm đôi lẽ,
Của không môn mới nhẹ tiền duyên.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
前 緣 後 運
Tiền duyên: Duyên từ kiếp trước. Hậu vận: Vận số, số mạng về sau.
Tiền duyên hậu vận ý nói tạo duyên phần từ trước mà nhận được số mạng về sau.
Tiền duyên hậu vận rất vừa nhau,
Chẳng có một ai gọi khởi đào.
(Đạo Sử).
前 導
Tiền: Trước, tiến lên. Đạo: Đưa, dẫn.
Tiền đạo là cầu thủ hoạt động ở hàng đầu trong đội bóng, có nhiệm vụ chủ yếu là tiến công.
Tiền đạo còn dùng để chỉ kẻ đi trước mở đường, gọi là người tiền đạo.
Ngày xưa đạo quân đi trước để mở đường gọi đội quân tiền đạo.
Thiên quân ví chẳng ra tiền đạo,
Tướng soái khó toan chiếm địa đầu.
(Quyền Giáo Tông Giáng).
前 定
Tiền: Trước. Định: Sự sắp xếp. định đoạt.
Tiền định là sự sắp xếp từ trước, nghĩa là việc gì cũng đều được định trước.
Theo Mạnh Tử, giàu sang hay nghèo hèn đều do số mệnh đã định từ trước, không phải do ta muốn mà được. Kể cả việc ăn uống cũng vậy, đều có sự sắp xếp cả, như câu: Nhất ẩm nhất trác, sự giai tiền định 一 飲 一 啄, 事 皆 前 定, nghĩa một cái ăn một việc uống đều do sự định trước.
Thánh giáo Thầy có dạy: Ðừng tưởng lầm tước phẩm Thiên đạo Thầy đem cho ai cũng đặng. Cửa Bạch Ngọc Kinh chẳng phải ai vô cũng đặng. Mỗi đứa con đều có tên trong Thiên thơ cả, chức phận cũng đã tiền định, chớ chẳng phải tước hàm trần thế dâng cho kẻ lễ nhiều.
Tiền định công đồng quy nhứt bổn,
Chấn hưng Tam giáo Thích, Tiên, Nho.
(Thơ Thông Quang).
Hiệp tan đã có cơ tiền định,
Sanh tử đều do Đấng Hoá Công.
(Thơ Thái Đến Thanh).
前 途
Tiền: Trước, tiến lên. Đồ: Con đường.
Tiền đồ là con đường tương lai.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nội sáng mai nầy là ngày định vận mạng tương lai tiền đồ Tổ quốc cả nòi giống Việt Nam của chúng ta vậy.
Vì vậy chúng tôi vẫn canh cánh bên lòng nỗi lo lắng về tiền đồ của nghiệp Đạo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
前 愆
Tiền: Trước. Khiên: Lỗi lầm.
Tiền khiên là điều lỗi lầm đã gây ra ngày trước hay kiếp trước.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Chí Tôn có dạy: Kiếp phù sinh không mấy chốc, đời mộng ảo chẳng là bao, sanh đứng nên người chen vai vào vòng thế cuộc, có khác chi kẻ bị đày vào biển khổ, để làm xong nhân sự đặng chuộc thửa tội tiền khiên.
May đăng gặp hồng ân chan rưới,
Giải trái oan sạch tội tiền khiên.
(Kinh Tận Độ).
Ơn Tạo hoá tha tiền khiên trước,
Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
(Kinh Thế Đạo).
Tiền khiên đã mãn nghiệp căn xưa,
Phải biết ăn năn chiếm thượng thừa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
前 人
Tiền: Trước. Nhân (nhơn): Người.
Tiền nhân là người đời trước, thuộc thế hệ đã qua. Như: Sự nghiệp của tiền nhân để lại.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nhưng các bậc tiền nhân nòi giống của chúng ta đã có trạng tỏ một cách có thể nói sáng suốt tỏ rõ không có gì gọi là mờ ám.
Tiền nhân bố đức khai cơ nghiệp,
Hậu đại nhớ ơn dựng thổ cương.
(Thơ Thượng Sanh).
Đồng tâm mới vẹn phận anh phong,
Nối chí tiền nhân chẳng thẹn lòng.
(Thơ Đào Công).
錢 財
Tiền: Đồng tiền, tiền bạc. Tài: Của cải.
Tiền tài là tiền bạc và của cải. Như: Người tu là không chạy theo tiền tài, danh vọng.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có dạy: Đức Chí Tôn lo lắng cho môn sinh như thế, là vì trên đường đời đầy dẫy những cạm bẫy hiểm nguy. Lòng ham muốn của con người lại vô bờ bến: Nào lợi, nào danh, nào tiền tài, nào tửu sắc.
Trọng câu nhơn nghĩa bỏ tiền tài,
Thế sự như người cũng ít ai.
(Đạo Sử).
Thế thường khinh nghĩa trọng tiền tài,
Hễ thấy hơi đồng chực mó tay.
(Thơ Huệ Giác).
Tiền tài: Tiền của. Danh vọng: Tiếng tăm và sự trọng vọng của dư luận xã hội.
Tiền tài và danh vọng là hai món mồi làm cho con người đam mê theo đuổi đến mức phải thân tàn; sức kiệt như lời kinh Sám Hối dạy:
Lo danh vọng hao mòn thân thể,
Ham làm giàu của để bằng non.
Một mai nhắm mắt đâu còn,
Đem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.
Danh vọng, phẩm tước, và tiền tài là những thứ khiến cho con ngươi phải lao đao lận lận, hao mòn thân thể, bởi phải tính toán bằng trăm phương ngàn kế, phải mất ăn mất ngủ để làm việc một cách bán chết bán sống mới tạo ra được nó, cũng có khi phải dùng cả những thủ đoạn xấu xa, tội lỗi để giành giựt lấy nó. Chính Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Danh vọng thường hay chống lại với đức hạnh. Nó rất ngắn ngủi và thường thành tựu nhờ nơi sự gian trá.
Ôi! Khi có được nó rồi thì thân xác hao mòn, sức khỏe suy kiệt, rồi mai kia vô thường lại đến thì thử hỏi công danh phú quý đó có thể đem thế mạng cho mình được không? Hay tội tình muôn kiếp mình phải thọ lấy.
Chính Thánh giáo Thầy có dạy điều nầy như sau: Cái xuân kia chẳng đợi người mà bước đời càng gay trở, lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều quang nhặt thúc, con đường hy vọng chẳng biết đâu là tột cùng mà bước đời xem đà mòn mỏi, sự thác vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sanh ly pha màu tử biệt, làm cho sự vui vẻ giàu sang danh vọng đều thành ra một giấc huỳnh lương, rồi đây vĩnh biệt ngàn năm, tội tình muôn kiếp.
Theo triết lý tôn giáo, ta thấy cái thực và vĩnh cửu mà ta không tìm lấy, lại chạy theo vô minh để tìm cái danh lợi quyền giả tạm, khiến phải lao tâm tiêu tứ và vương mang tội tình. Vậy cái thực và vĩnh cửu ở đâu?
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy rằng: Các con nên tìm sự giàu đức tính của Trời. Chỉ có cách đó mới gọi là vĩnh cửu. Của quý ấy không ai ăn cướp đặng cả.
Danh quyền nơi Trời là bền chắc nhứt và danh quyền ấy mới chịu đựng nổi bao sự thử thách (La gloire de Dieu est la seule qui résiste à toutes épreuves).
Ngài Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung hỏi Đức Chí Tôn: Mấy con phải làm sao mà tìm đặng phẩm tước, của cải và danh vọng của Trời?
Thầy trả lời: TU.
Trên đường đời đầy dẫy những chông gai hiểm trở trong lúc thiên hạ đua nhau tôn thờ tiền tài danh vọng để mặc tâm hồn dật dờ trong vòng tối tăm tội lỗi.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
前 程
Tiền: Đàng trước. Trình: Con đường.
Tiền trình là con đường phía trước, tức chỉ con đường tương lai. Như: Tiền trình còn dài.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Tuy nhiên Lão cũng buộc lòng nói trắng ra cho cùng nhau hiểu biết bước tiền trình của Đạo mà vận dụng hết khả năng để cứu vãn tình thế của Đạo đã đến lúc gần như sụp đổ vì hành vi bất chánh mà ra.
Thiệt thiệt hư hư vì mắt thịt,
Thôi thì đợi chết biết tiền trình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tiền trình Thầy dạy các con tường,
Ðợi hạ sang năm mới tuyển lương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
餞
Tiễn là đưa chân người lên đường. Như: Đưa tiễn, tiễn bạn lên đường, tiễn nghĩa vụ.
Điếu văn của Ngài Đầu Sư, chưởng quản Cửu Trùng Đài Nam phái đọc trước Liên đài Đức Thượng Sanh có câu: Nhân danh Ðầu Sư Chưởng Quản Cửu Trùng Ðài Nam phái thay mặt Hội Thánh Cửu Trùng Ðài tôi xin nghiêng mình bái kỉnh trước Liên Ðài Ðức Ngài và có đôi hàng thành tâm ai điếu chia buồn cùng Tang quyến, và để tiễn đưa Ðức Ngài quy hồi Tiên cảnh.
Kỵ kim quang kiến Lão Quân,
Dựa xe Như Ý oai thần tiễn thăng.
(Kinh Tận Độ).
Chén quỳnh tiễn bạn trước long cu,
Giục vó tùng chinh báo quốc thù.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
餞 行
Tiễn: Đưa chân người lên đường, bữa tiệc đãi khách. Hành: Ra đi.
Tiễn hành là bày tiệc rượu để đưa chân người lên đường, nói chung tiễn lên đường.
Như: Bày tiệc để tiễn hành bạn đi nghĩa vụ.
Tiễn hành thi hữu hoà đôi vận,
Nặng nghĩa tri âm cảm tưởng hoài.
(Thơ Phước Huệ).
Uống đi anh, uống đi anh,
Ai đâu chén rượu tiễn hành mà say?
(Thơ Hàn Sinh).
餞 夫
Tiễn: Đưa chân người lên đường, tiệc đãi khách. Phu: Người đàn ông, chồng.
Tiễn phu là đưa chồng lên đường, hoặc làm bữa tiệc thết đãi chồng ra đi.
Áo trâu đắp đông sương lạnh lẽo,
Cửa hấp gà mở nẻo tiễn phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
餞 升
Tiễn: Đưa chân người lên đường, tiệc đãi khách. Thăng: Bay lên cao.
Tiễn thăng là đưa tiễn cho chơn linh siêu thăng vào cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Kỵ kim quang kiến Lão Quân,
Dựa xe Như Ý oai thần tiễn thăng.
(Kinh Tận Độ).
1.- Tiện, do chữ “Tiện tặn” nói tắt, là tự hạn chế việc chi dùng đến cả những món nhỏ nhặt.
Như: Ăn tiện ở tặn.
Đừng gớm già mặc tiện ăn hèn,
Vì nhớ đã nhiều phen gần ở lỗ.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tiện 便 là dễ dàng, thuận lợi cho công việc, không hoặc ít gặp phiền phức, khó khăn, trở ngại.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Từ đây, mỗi lần nhóm Bàn Chủ Sự đặng liệu tính việc chi thì con phải có mặt và y theo lời Thầy dạy, phải có ba Chức sắc Hiệp Thiên Ðài có trách nhậm xứng đáng, thì những việc bàn tính mới tiện thi hành.
Tri âm chưa tiện làm Chung Tử,
Sự nghiệp càng thêm thẹn Võ Hầu.
(Thơ Hoài Tân).
3.- Tiện 賤 là hèn, trái với quý. Như: Không phân biệt kẻ quý người tiện.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðối với mặt đời, dầu họ ở giai cấp nào, dầu giàu hay nghèo, quý hay tiện cũng phải nhã nhặn khiêm từ, gặp dịp thì nên sẵn sàng cứu khổ nâng nguy y như đối với người trong cửa Ðạo.
Đừng gớm già mặc tiện ăn hèn,
Vì nhớ đã nhiều phen gần ở lỗ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Thủ túc tình thâm ấy bạn vàng,
Đừng phân anh tiện với em sang.
(Phương Tu Đại Đạo).
便 宜
Tiện: Dễ dàng, thuận lợi. Nghi: Thích đáng.
Tiện nghi là tiện lợi, thích đáng và vừa phải.
Tiện nghi là thích hợp và thuận tiện cho sinh hoạt vật chất hằng ngày. Như: Tiện nghi sinh hoạt hằng ngày.
Hán Thư chép: Thần nguyện kiến Thượng ngôn tiện nghi 臣 願 見 上 言 便 宜, nghĩa là thần nguyện gặp Hoàng thượng sẽ tâu những điều tiện nghi.
Ta đã hưởng hột cơm, manh áo cùng trăm món vật liệu để cho đời sống ta có đủ tiện nghi, không thiếu thốn.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Tiện: Tiết kiệm, không hoang phí.
Tiện tặn, như chữ “Tằn tiện”, là tự hạn chế những việc chi dùng một cách hoang phí, không cần thiết.
Như: Nhà nghèo phải chi phí tiện tặn.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Về đến vùng Thánh địa, điều lo nghĩ trước nhứt của Ðức Ngài (Chỉ Hộ Pháp) là tiếp tục công cuộc kiến thiết Ðền Thánh. Khích lệ đám nhân viên công thợ của Ðạo, Ðức Ngài chăm lo tiện tặn tài chánh, lo tô điểm ngôi Ðền Thờ cho đến khi hoàn thành mỹ mãn.
Đừng trách già tiện tặn ít ăn chơi,
Ấy nhắc thuở cùng thời già có đói.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phải noi gương cha giữ lái giữ lèo,
Phương tiện tặn làm theo đâu thốn thiếu.
(Phương Tu Đại Đạo).
賤 婢
Tiện: Hèn. Tỳ: Đày tớ gái.
Tiện tỳ là người đày tớ gái hèn mọn. Tiện tỳ còn là tiếng dùng để chửi mắng người đàn bà con gái.
Như: Phận tiện tỳ đâu dám sánh hàng khuê các.
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng bì đồng nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Tiếng là âm thanh phát ra. Như: Tiếng nói, tiếng cười, tiếng chim kêu, tiếng đàn.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Nỗi đau thương bề ấm lạnh, nào tiếng khóc đến câu cười, co duỗi duỗi co, dở bước đến cảnh sầu, thì thấy chẳng lạ chi hơn là mồ hoang cỏ loán, đồng trống sương gieo,thỏ lặn ác tà, khách trần nào ai lánh khỏi.
Hồi chuông cảnh tỉnh vang rừng Thánh,
Tiếng trống giác mê nhặt đỉnh Thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thi đề thảm lóng hơi oanh thán,
Cầm trỗi buồn nghe tiếng dế hoà.
(Bát Nương Giáng Bút).
2.- Tiếng là lời khen chê, sự hay dở của một người mà người ta đồn đi xa và được ghi nhớ mãi. Như: Tiếng khen chê, mang tiếng xấu.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Không vì công lớn mà tỏ vẻ tự đắc, lập thế chuyên quyền làm điều trái đạo cho kẻ ăn oán nuốt hờn, người thở than đau khổ, biết lo chung cho sanh chúng, không cần tiếng bợ lời khen, tự khép mình vào khuôn viên đạo đức, treo tấm gương thanh bạch quyết thực hành tôn chỉ vì Ðạo cứu đời.
Hạnh đức điểm tô non nước Việt,
Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lập Ðạo dầu nên ngàn thuở để,
Nêu danh hậu thế tiếng bền dai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tiếng: Lời (khen chê, hay dở), truyền tụng. Khen: Ca ngợi, nói lên sự đánh giá tốt.
Tiếng khen là lời khen ngợi, lời tán dương.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Làm được một sự cao đẹp, không phải một vị Chức sắc được tiếng khen riêng cho mình mà toàn thể Chức sắc đều được chia hưởng tiếng khen ấy.
Mùi chua ngọt bả sang hèn,
Ðời chác một điều vụ tiếng khen.
(Đạo Sử).
Ðó đăng phải giữ phận nghèo hèn,
Dầu có rách lành vụ tiếng khen.
(Đạo Sử).
Tiếng: Âm thanh phát ra thành tiếng. Khóc roi: khóc vì bị đòn roi.
Tiếng khóc roi là tiếng khóc do bị đòn roi, thể hiện lòng con hiếu thảo.
Do tích “Khấp trượng 泣 杖” là khóc roi. Đời nhà Hán có Hàn Bá Du rất hiếu thảo. Ngày kia có lỗi, mẹ đánh. Bá Du vùng khóc lớn.
Người mẹ hỏi: “Thường mẹ đánh con, con không khóc, sao bây giờ con lại khóc?”. Bá Du khóc mà thưa rằng: “Trước mẹ đánh con đau mà con không khóc là con mừng mẹ còn mạnh. Nay mẹ đánh con không đau mà con khóc, là vì con thấy sức mẹ đã suy yếu rồi”.
Thương cha luống thẹn lời dâng tuổi,
Nuôi mẹ thêm buồn tiếng khóc roi.
(Thơ Thuần Đức).
Muông lợn: Chỉ loài thú, loài heo. Tiếng, giọng: Ý nói buông giọng nỉ non, ngọt ngào.
Tiếng muông giọng lợn dùng để nói người hay buông lời bỡn cợt, rù quến đàn bà con gái.
Chỉ cho rõ tiếng muông giọng lợn,
Đờn nỉ non cợt bỡn đờn bà.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tiếng ngọt: Giọng ngọt ngào như đường mật. Lời ngon: Lời nói ngọt ngon dễ quyến rũ.
Tiếng ngọt lời ngon là lời nói ngon ngọt nhằm mục đích quyến rũ, dụ dỗ, hay lừa gạt người.
Như: Người hay dùng tiếng ngọt lời ngon nhằm mục đích quyến rũ, hoặc lừa gạt kẻ khác.
Dạy đừng dùng tiếng ngọt lời ngon,
Làm nhục kẻ lòng son gìn tiết hạnh.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tiếng: Âm thanh phát ra. Rằng: Từ biểu thị sắp nêu ra là nội dung thuyết minh điều đã nói đến.
Tiếng rằng có nghĩa gọi là, tuy là, mang tiếng là.
Như: Tiếng rằng ngày nghỉ, nhưng không lúc nào được thảnh thơi.
Sĩ tử nhà văn cũng tiếng rằng,
Chẳng gìn nết hạnh khách Nho văn,
(Đạo Sử).
Yểu điệu thuyền quyên đã tiếng rằng,
Những điều tình tệ lánh nên chăng.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tục che miệng tiếng rằng cưới gả,
Chớ kỳ trung thiệt quá bán heo.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Tiếng sét ngang tai”.
Tiếng sấm (sét): Âm thanh của sấm sét. Bên tai: Ngang tai, có nghĩa là vang lên bên lỗ tai.
Tiếng sấm bên tai, như câu thành ngữ “Tiếng sét ngang tai”, dùng để chỉ tin tức khủng khiếp xảy đến một cách bất ngờ, khiến trong lòng hoảng kinh như tiếng sấm sét nổ bên lỗ tai.
Tiếng sấm bên tai cùng nghĩa với câu tục ngữ “Sét nổ ngang mày”.
Xem: Sét bên tai.
1.- Tiếng sấm bên tai:
Bỗng tiếng sấm gần bên tai nổ,
Nghe tin chàng mệnh số du Tiên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tiếng sét ngang tai:
Lời nguyền trong trướng bia gang tấc,
Tiếng sét ngang tai vỡ mật lòng.
(Thơ Tiếp Đạo).
Tiếng: Lời khen chê hay dở, truyền tụng.
Tiếng tăm là lời nhận định, đánh giá, thường là hay, tốt, đã được lan truyền rộng, xa trong xã hội.
Như: Tiếng tăm lừng lẫy, nhà giáo có tiếng tăm.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trái lại cái tâm được nuôi nấng, được nâng cao, cái tâm của các bậc phi thường như Ðịch Nhơn Kiệt đời Ðường, Quan Công Hầu đời Hớn là tâm làm cho những đấng ấy danh vọng xa bay, tiếng tăm lừng lẫy.
Gầy niềm cang lệ gìn hương lửa,
Nêu chữ vinh hài rỡ tiếng tăm.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Tiếng tiêu khải phụng là tiếng tiêu thổi vang lên có khả năng làm cho chim phụng bay đến cùng hót múa.
Như: Tiếng tiêu của chàng Tiêu Sử và Công chúa Lộng Ngọc ở Phụng lầu.
Tiếng tiêu khải phụng được ví với lời có sức thuyết phục người nghe.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng phục người mới ngoan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tiếng trống: Âm thanh của trống chùa vang lên. Giác mê: Làm thức tỉnh những người đang mê.
Tiếng trống giác mê là hồi trống chùa vang lên làm thức tỉnh chúng sanh còn đang mê muội, để quay về con đường đạo đức, tức bỏ mê theo giác.
Trong các chùa Phật thường có treo hai câu đối cổ: “Mộ cổ thần chung, cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách, Triêu kinh vãn kệ, hoán hồi khổ hải mộng mê nhân 暮 鼓 辰 鐘, 警 醒 愛 河 名 利 客, 朝 經 晚 偈, 喚 回 苦 海 夢 迷 人” nghĩa là trống sớm chuông chiều, thức tỉnh khách trần danh lợi chốn sông yêu, Kinh mơi kệ xế, kêu về kẻ tục mộng mê nơi biển khổ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ngày nào tiếng trống giác mê, hồi chuông cảnh tỉnh có đủ mãnh lực dìu dắt bước đường của phần đông theo bước đường đạo đức; ngày nào trên con đường thống nhứt giang sơn, quốc dân Nam những kẻ có trách nhậm lớn nhỏ trong xã hội thấy lợi nghĩ đến nghĩa, thấy nguy nghĩ đến dân, tận tuỵ vì bổn phận, bỏ hẳn nhơn cách đáng khinh, theo Thiên-lương sáng suốt, đồng một lòng làm cho cạn nguồn đau khổ của giống nòi, trụ lại một quốc hồn mạnh mẽ, thì ngày ấy chủ nghĩa dân chủ mới rạng soi, hạnh phúc quốc dân mới mong mỏi!
Hồi chuông cảnh tỉnh vang rừng Thánh,
Tiếng trống giác mê nhặt đỉnh Thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tiếng: Âm thanh. U minh: Chuông U minh, là một cái chuông lớn, còn gọi là Đại Hồng chung.
Đại Hồng chung là một cái chuông lớn, được treo trên một cái giá, miệng chuông úp xuống, khi dọng tiếng chuông có hiệu lực truyền xuống cõi U minh (Cõi người chết) để thức tỉnh các tội hồn sớm giác ngộ, ăn năn sám hối, nên còn được gọi là chuông U minh.
Tiếng U minh là tiếng kêu của chuông U minh.
Một tiếng U Minh gióng cửa không,
Phồn hoa giục tỉnh giấc đương nồng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tiếng U minh tía lia gợi thảm,
Giọng kình khua cửa phạm dập dồn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
接
1.- Tiếp là nhận lấy, chịu lấy, đón. Như: Tiếp khách, tiếp thư, tiếp chuyện. Như: Tiếp khách, tiếp dẫn.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Xứ nầy mới tiếp Thầy lần đầu nên có nhiều đứa còn để lòng nghi hoặc.
Rõ nỗi nhà thung gìn đức cả,
Nên toan tiếp trẻ khỏi ba đào.
(Đạo Sử).
Dưới đích làm ngai Tam Quốc vịnh,
Thầm lo có một tiếp Châu Công.
(Đạo Sử).
Tới khi cù đủ gạc vi rồng,
Còn đợi một ngày tiếp sắc phong.
(Đạo Sử).
2.- Tiếp là nối liền, nối theo, tiếp nối.
Như: Nhà này tiếp liền với nhà kia, tiếp nối câu chuyện, làm tiếp theo công việc.
Biển mê cầu ngọc liên phàm tục,
Cõi thọ sông Ngân tiếp đảnh Tần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đã muốn tiếp mà sao ngẩn bút,
Nhớ bạn hiền gần chục vợ nhà.
(Phương Tu Đại Đạo).
Cớ hiển hiện nào ai nói hiếp,
Phòng toan phương ứng tiếp binh lời.
(Phương Tu Đại Đạo).
接 引
Tiếp: Đón rước, gặp gỡ và chuyện trò. Dẫn: Dìu dắt.
1.- Tiếp dẫn là dắt đường, tức là đón tiếp người không rành rọt mà dẫn dắt đi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Thị dục càng bức bách, họ càng cương quyết cự tuyệt, trước cái trực giác của tâm linh tức là sự tự tri, tự ngộ, uy lực của thị dục bị đánh đổ và tan rả như mây khói. Người tu sĩ thắng cuộc trong trường hợp nầy, được tiếp dẫn đến chỗ chứng tâm, thành tựu vẻ vang đời sống đạo đức.
Lòng cảm xót dương trần lận đận.
Ra oai linh tiếp dẫn nhơn cầm.
(Xưng Tụng Công Đức).
2.- Tiếp Dẫn còn dùng để chỉ Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.
Như: Nắm phan Tiếp Dẫn tức là nắm lấy cây phướn của Tiếp Đẫn Đạo Nhơn dẫn dắt về cõi Tây Phương.
Xem: Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.
Cảnh Thiên noi bước Hoá Công,
Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như Lai.
(Kinh Thế Đạo).
接 引 道 人
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn hay Tiếp Dẫn Phật là vị Phật cầm cây phướn Tiếp Dẫn, có nhiệm vụ tiếp rước và dẫn dắt các Chơn linh đắc Đạo về cõi Tây Phương Cực Lạc.
Trong truyện Tây Du Ký, có nói về Tiếp Dẫn Đạo Nhơn như sau: Bốn thầy trò Đường Tam Tạng, sau khi đi thỉnh kinh về, đến bến Lăng Vân, thì không thể qua bên kia bờ sông được, còn đang bối rối, thời may có Tiếp Dẫn Đạo Nhơn chèo chiếc thuyền không đáy tới rước để đưa qua sông. Tam Tạng sợ quá, không dám xuống thuyền, Tề Thiên Đại Thánh bèn xô Thầy té xuống nước. Tiếp Dẫn Đạo Nhơn đỡ Tam Tạng ngồi vào thuyền và chèo đưa qua bên kia sông. Khi đến giữa sông, mọi người thấy có một xác người trôi lờ đờ, nhìn kỹ, đó là xác phàm của Tam Tạng. Thế là Tam Tạng đã bỏ xác phàm mà thành Phật.
Tây phương Tiếp Dẫn Đạo Nhơn,
Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.
(Kinh Tận Độ).
接 演
Tiếp: Tiếp tục. Diễn: Phô bày ra, xảy ra và tiến triển.
Tiếp diễn có nghĩa là tiếp tục xảy ra, diễn ra, chưa được chấm dứt. Như: Chiến tranh vẫn còn tiếp diễn.
Thánh huấn Hộ Pháp dạy về Cơ quan Đại đồng thế Giới có đoạn: Bần Ðạo rất ưu tư khổ não về tinh thần, vì xem thấy trường sát hại nhơn sanh cứ tiếp diễn trong nước nhà của chúng ta mãi.
Cơ quan chuyển thế mà Ðức Chí Tôn lập trước mắt sẽ dữ dội lắm, tấn tuồng đó vẫn còn tiếp diễn chưa dứt.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
接 養
Tiếp: Đưa thêm vào để cho có đủ, bảo đảm hoạt động cho liên tục. Dưỡng: Nuôi nấng.
Tiếp dưỡng là giúp thêm chất bổ dưỡng để mà nuôi nấng cơ thể con người.
Trong quyển Đạo Sử của Bà Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có dạy: Trong không khí tuy phàm nhãn không thấy đặng, mà không khí ấy chứa đầy vật chất tiếp dưỡng “Matières Nutritives” của xác trần, vì nhờ nó biến hoá chúng sanh đặng.
Phải tiếp dưỡng vợ thường mạnh khoẻ,
Kiếm phương làm vui vẻ hằng ngày.
(Phương Tu Đại Đạo).
接 道 真 君
Hay “Tiếp Đạo Chơn Quân”.
Tiếp Đạo là một phẩm chức sắc trong Thập Nhị Thời Quân, thuộc chi Đạo Hiệp Thiên Đài, dưới quyền trực tiếp của Đức Thượng Phẩm.
Tiếp Đạo Chơn Quân là một vị chức sắc Đại Thiên phong thuộc chi Đạo Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Cao Đức Trọng.
Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, Tiếp Đạo là người có trách nhiệm giúp đỡ chư đạo hữu trong đường Đạo, tránh những sự bất công, những nỗi hà khắc trên bước đường tu học của chư đạo hữu. Ngoài ra, Pháp Chánh Truyền chú giải cũng có quy định: Tiếp Đạo là người tiếp cao trang các vụ án, có bổn phận xem xét trước, nếu án tiết có oan khúc thì dâng lên cho ngài Khai Đạo.
Đạo phục của Ngài Tiếp Đạo Chơn Quân theo Pháp Chánh Truyền gồm có hai bộ:
Bộ Đại phục của Tiếp Đạo toàn trắng, cổ trịch, viền kim tuyến bạc, đầu đội mão Nhựt Nguyệt Mạo màu trắng, lưng đeo dây sắc lịnh, thả mối bên hong mặt (Thuộc Đạo), chân đi giầy vô ưu.
Bộ Tiểu phục cũng toàn hàng trắng, lưng mang dây sắc lịnh y như Đại phục, đầu đội Hỗn Nguơn Mạo, trên mão có Long Tu Phiến và Phất Chủ (Cổ pháp Thượng Phẩm), chân đi giầy vô ưu màu trắng.
Trong Thập nhị Thời Quân, Ngài Cao Đức Trọng được Đức Chí Tôn phong vào phẩm Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài chót nhứt.
Ngài Cao Đức Trọng sinh ngày 20 tháng 4 năm Đinh Dậu, 1897 tại làng Ích Thạnh, quận Thủ Đức tỉnh Gia Định, thân phụ là Cao Hoài Ân (có nơi Cao Hoằng Ân), thân mẫu là Hồ thị Lự, sau thăng Nữ Đầu Sư. Ngài là anh cả, người em thứ ba là Cao Thị Cường, tức nữ Giáo Sư Hương Cường, người em thứ tư là Cao Hoài Sang, tức Đức Thượng Sanh Hiệp Thiên Đài.
Năm 1927, Ngài Cao Đức Trọng làm công chức nơi Sở Chưởng Khế tại Nam Vang, khi Đức Hộ Pháp đổi lên Kim Biên đến ngụ nhà Ngài. Tại đây, Đức Chí Tôn đã giáng cơ thâu Ngài Cao Đức Trọng và nhiều vị khác vào hàng môn đệ.
Đến ngày 27 tháng 7 năm 1927 tại Kim Biên, Đức Chí Tôn phong cho Ngài Cao Đức Trọng vào phẩm Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài cùng nhiều vị chức sắc Cửu Trùng Đài khác. Nhờ vậy mà Đức Hộ Pháp mới lập được Cơ Quan Truyền Giáo Hải Ngoại, do Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh (Lê Văn Bảy) làm Chủ Trưởng, sau cơ quan nầy phát triển mạnh, trở thành Hội Thánh Ngoại Giáo, đặt dưới quyền Chưởng Đạo của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo).
Từ năm 1938 đến 1942, Ngài Cao Đức Trọng được Đức Hộ Pháp bổ nhiệm làm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo ở Kim Biên.
Như chúng ta biết, Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư được Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông chọn làm cặp cơ Phong Thánh, đến khi Thượng Phẩm quy Tiên ngày 1 tháng 3 năm Quý Tỵ thì Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng thay thế Đức Thượng Phẩm cùng Đức Hộ Pháp phò loan để phong Thánh, nhưng luôn luôn có Đức Cao Thượng Phẩm trợ điển cho Tiếp Đạo.
Tháng 8 năm 1946, Đức Hộ Pháp từ hải đảo Madagascar trở về Toà Thánh nắm quyền hành Đạo thì Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng cũng vào làm việc tại Toà Thánh, với chức Đổng Lý Văn Phòng Hộ Pháp. Sau đó, Ngài được tạm cử vào chức Quyền Thượng Chánh Phối Sư Cửu Trùng Đài để triệu tập Đại Hội Nhơn Sanh.
Năm Giáp Ngọ (1954), Ngài Cao Tiếp Đạo được cử cầm quyền Thống Quản Cơ Quan Phước Thiện.
Khi Đức Hộ Pháp tự lưu vong qua Nam Vang năm Bính Thân (1956), Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng được Hội Thánh cử làm Đại diện giao tiếp với chánh phủ Ngô Đình Diệm. Sau đó, Ngài được chánh phủ ủng hộ vận động Hội Thánh rước Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang về cầm quyền mối đạo tại Toà Thánh Tây Ninh.
Đến ngày 23 tháng 5 năm Mậu Tuất, vì một cơn bịnh không ăn uống được nên Ngài đăng Tiên, hưởng thọ 62 tuổi. Tang lễ cử hành tại Toà Thánh Tây Ninh một cách long trọng theo hàng Thời Quân Hiệp Thiên Đài, Liên đài kỵ long mã nhập Bửu Tháp tại Ao Hồ.
Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng đăng Tiên, hai ngày sau, hồi 8 giờ tối, Đức Thượng Sanh và Bảo Pháp phò loan tại Giáo Tông Đường, Ngài Cao Tiếp Đạo giáng cho một bài cơ như sau:
Chào Anh Bảo Pháp, Thượng Sanh và mấy em.
Bần Đạo để lời cám ơn toàn bạn Hiệp Thiên, toàn cả Chức sắc Cửu Trùng và toàn đạo nam nữ đã hết lòng lo lắng cho Bần Đạo khi Bần Đạo về với Đại Từ Phụ. Đó là nghĩa thịt xương. Vậy Bần Đạo xin có mấy lời:
THI:
Cổi xác phàm vui lại cảnh Tiên,
Độ sanh phỉ hiệp tạo nên giềng.
Trường đời dầu chẳng tròn ân nghĩa,
Nợ đạo rồi xong gác bút nghiên.
Cõi Thánh nhàn xem tranh đảnh Túy,
Chơn mây ngẩn chạnh bạn rừng thiền.
Từ đây dạo khắp trời non nước,
Nâng giúp quần sanh hưởng huệ duyên. |
Bần Đạo được nhờ Phật Mẫu và Cửu vị Nữ Phật giao cho phận sự thiêng liêng phổ độ khắp miền Á Châu, nhưng dầu sao Bần Đạo cũng hiệp với mấy Đấng thiêng liêng tiền bối của Đạo trông nom và trợ giúp mấy bạn Hiệp Thiên làm tròn nhiệm vụ.
Bần Đạo xin em Thượng Sanh khuyên giải Bà thân mẫu chúng ta. Anh đã hưởng trọn Thiên ân của Đức Chí Tôn, đó là một điều vui chớ chẳng phải việc buồn.
Bần Đạo kính chào cả mấy bạn.
Bài thi trên được Hội Thánh dùng làm bài Thài để hiến lễ cho Ngài.
Ngài Cao Đức Trọng buổi sinh thời là một nhà thơ có tiếng tăm, với bút hiệu là Huyền Quang.
Vào năm 1950, Ngài Cao Đức Trọng đứng ra lập Đạo Đức Văn Đàn, là một hội thi văn của các nhà thơ trong đạo Cao Đài thuộc Toà Thánh Tây Ninh.
Văn Đàn hoạt động được hai năm thì tạm ngưng vì Ngài Tiếp Đạo thường bị bịnh hoạn luôn. Đến năm 1957, Bảo Pháp Chơn Quân mới tiếp tục hoạt động lại Đạo Đức Văn Đàn.
1.- Tiếp Đạo:
Sứ mạng xong rồi trở lại Tiên,
Cao Quân Tiếp Đạo trọn ba giềng.
(Thơ Hiến Pháp).
2.- Tiếp Đạo Chơn Quân:
Rảnh rồi công quả lại non Tiên,
Tiếp Đạo Chơn Quân vẹn mối giềng.
(Thơ Nguyệt Quang).
Tiếp 接: Nhận lấy, chịu lấy, đón. Điển: Điển quang, là ánh sáng truyền đi giống như làn sóng điện, nhưng làn sóng điện thì có tần số thấp, còn ánh sáng thì có tần số rất cao. Do đó, ánh sáng và sóng điện đều có cùng bản chất sóng, nên gọi là Ðiển quang, chỉ khác nhau nơi tần số cao thấp mà thôi.
Tiếp điển là tiếp lấy điển quang của các Đấng Thiêng Liêng truyền vào thần của con người.
Trong Đạo Cao Đài, các vị chức sắc Hiệp Thiên Đài khi phò loan đều được tiếp điển từ Đức Chí Tôn hay các Đấng Thiêng Liêng truyền cho Thần để viết ra những bài Thánh ngôn, Thánh giáo.
Thánh giáo Lý Đại Tiên trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Thần chẳng tịnh, tri giác chưa nhuần tiếp điển thì có quan hệ các lời Thánh Ngôn.
Còn việc truyền thần lấy điển quang thì ai ai cũng có điển trong mình, nó tiếp điển ngoài rồi thần của nó viết ra, có khi trúng, có khi trật.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tiếp: Gặp và chuyện trò. Đón: Rước, mời, tức là chờ sẵn để gặp ngay khi vừa đến, nhằm biểu thị tình cảm.
Tiếp đón, như chữ “Đón tiếp”, là đón gặp và tiếp đãi.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ có tôn chỉ tế độ toàn thể chúng sanh Hội Thánh phải mở rộng trường công quả tiếp đón các bậc nhơn tài còn ở mặt thế...
Bổn Ðạo hoan nghinh vang tiếng trống,
Ðồng bào tiếp đón dội hơi còi.
(Thơ Hiến Pháp).
接 駕
Tiếp: Đón rước, gặp gỡ và chuyện trò. Giá: Xe của vua hay của Đức Chí Tôn đi.
Tiếp giá là tiếp rước vua hay Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo có dạy: Chư chúng sanh khá đại tịnh đặng tiếp giá Ðức Từ Bi.
Thất Nương giáng: Chỉnh Đàn tiếp giá,
Tắc Cư Sang vội vã vâng lời.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
接 禮 樂 君
Tiếp Lễ Nhạc Quân là một phẩm chức sắc cao cấp, đối phẩm với Phối Sư bên Cửu Trùng Đài, chưởng quản về Nhạc, Lễ, Khách Đình, Nhà Thuyền, Ban Tổng Trạo và Ban Đạo Tỳ.
Tiếp Lễ Nhạc Quân nếu đầy đủ công nghiệp có thể cầu thăng lên Bảo Văn Pháp Quân, khi chức này bị khuyết.
Nhạc Sư, đối phẩm Giáo Sư Cửu Trùng Đài, sau 5 năm công nghiệp đầy đủ có thể xin cầu thăng lên Tiếp Lễ Nhạc Quân khi phẩm này bị khuyết.
Văn phòng Tiếp Lễ Nhạc Quân được xây dựng trên đường ra cửa số 4, nằm bên trái của văn phòng Tông Đạo Bắc Phần, hay Bắc Tông Đạo.
Hữu phòng Tiếp Lễ Nhạc Quân,
Phía tả Tông Đạo Bắc Phần đang xây.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
接 迎
Tiếp: Đón rước, gặp gỡ và chuyện trò. Nghinh: nghênh, đón.
Tiếp nghinh, như chữ “Nghinh tiếp 迎 接”, là đón rước và tiếp đãi.
Như: Mọi người chờ tiếp nghinh Hội Thánh.
Thiên Quân diêu động linh phan,
Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.
(Kinh Tận Độ).
Tín đồ mấy triệu lòng chiêm ngưỡng,
Chức sắc tâm thành lễ tiếp nghinh.
(Thơ Mai Ngọc Nhiễu).
Tiếp 接: Nhận lấy, chịu lấy, đón. Nhận: Lấy, lãnh, thu về cái được gửi, được trao cho mình.
Tiếp nhận là nhận, đón nhận từ người khác, nơi khác chuyển giao cho.
Như: Văn phòng tiếp nhận hồ sơ.
Sau ngày lễ tiếp nhận Tư Cách Pháp Nhân Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ nơi Thánh Ðịa, nền Ðạo đã bước qua một giai đoạn mới.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
接 法
Hay “Tiếp Pháp Chơn Quân”.
Tiếp Pháp là một phẩm chức sắc trong Thập Nhị Thời Quân, thuộc chi Pháp Hiệp Thiên Đài, dưới quyền trực tiếp của Đức Hộ Pháp.
Tiếp Pháp Chơn Quân 接 法 真 君 là một vị chức sắc Đại Thiên phong thuộc chi Pháp Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Trương Văn Tràng.
Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, Tiếp Pháp là người có trách nhiệm giúp cho việc ban hành đạo pháp và xem xét thấy những điều lệ bó buộc nhơn sanh quá lẽ thì yêu cầu sửa đổi. Ngoài ra, Pháp Chánh Truyền chú giải cũng có quy định: Tiếp Pháp là người tiếp luật lệ, đơn trạng kiện thưa, xem xét để phân định những điều không đáng thì chiếu theo luật bỏ qua hoặc trả lại cho Cửu Trùng Đài, còn như đúng việc phải phân định thì dâng cho Khai Pháp định đoạt.
Đạo phục của Ngài Tiếp Pháp Chơn Quân theo Pháp Chánh Truyền gồm có hai bộ:
Bộ Đại phục của Tiếp Pháp toàn hàng trắng, cổ trịch, viền kim tuyến bạc, đầu đội mão Nhựt Nguyệt Mạo màu trắng, lưng đeo dây sắc lịnh, thả mối ngay giữa bụng (Thuộc Chi Pháp), chân đi giầy vô ưu trắng.
Bộ Tiểu phục cũng toàn hàng trắng, lưng mang dây sắc lịnh y như Đại phục, đầu đội Hỗn Nguơn Mạo, trên mão có Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu (Cổ pháp Hộ Pháp), chân đi giầy vô ưu màu trắng.
Tiếp Pháp Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Trương Văn Tràng trong đàn cơ ngày 12 tháng 01 năm Đinh Mão, 1927 tại Chùa Gò Kén Tây Ninh.
Ngài Trương Văn Tràng, sanh ngày 25 tháng 10 năm Quý Tỵ, 1893 tại làng Bình Thạnh, tỉnh Biên Hoà, thân phụ là Trương Văn Tịch và thân mẫu là Trần Thị Lịnh.
Xuất thân từ gia đình Nho phong nên lúc nhỏ Ngài theo người cậu ruột học Hán tự. Sau đó Ngài chuyển sang học Việt Pháp ngữ tại trường Tổng, rồi kế tiếp lên trường tỉnh học cho đến tốt nghiệp.
Sau khi ra trường, Ngài lập gia đình và làm việc tại sở Hoả xa Đông Dương, Sài Gòn. Nhờ sự tận tâm với công việc, nhờ lòng kiên nhẫn cố gắng phát triển khả năng phục vụ, nên về sau Ngài được liệt vào hàng Thông Phán hạng nhứt cho đến ngày hồi hưu.
Năm 1925 phong trào xây bàn, cầu cơ của chư vị chức sắc tiền bối đạo Cao Đài diễn ra hằng đêm ở Sài Gòn, Ngài thỉnh thoảng có đến tham dự.
Mãi đến một ngày kia, Ngài dự đàn cơ tại nhà Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, Đức Chí Tôn giáng đàn dạy Ngài nhập môn hành đạo. Rồi kế trong đàn cơ lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài ngày 13 tháng 2 năm 1927, tại Chùa Gó Kén Tây Ninh, Ngài được Đức Chí Tôn phong phẩm Tiếp Pháp cùng lượt với một số Thời Quân khác.
Năm 1949, Ngài trọn phế đời hành đạo, được Đức Hộ Pháp giao cho làm Bí Thư và phụ với Ngài Khai Pháp điều khiển Bộ Pháp Chánh. Ngoài thời giờ hành đạo, Ngài còn cố công sưu tầm kinh điển để viết hai quyển sách:
1.- Giáo Lý.
Quyển Giáo Lý được xuất bản vào năm 1950, được tái bản năm 1959.
Lời phê Đức Hộ Pháp về quyển quyển Giáo Lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng: “Quyển sách sơ lược, tuy vẫn chưa đem trọn hình ảnh Chơn pháp, nhưng đã giảng giải đủ mọi phương tu niệm.
Vậy nó sẽ giúp ích cho học giả sưu tầm Chơn lý đặng bước vào Bí pháp Chơn truyền. Ấy là chìa khóa mở cửa Hữu hình thông qua thế giới huyền linh vô tả. Xin để lời cùng cả tín đồ và Chức sắc nên đọc và đào luyện tinh thần hầu mai hậu hưởng phần siêu thoát.
Cho phép in và ấn tống.”
2 Juin 1948 Hộ Pháp
(ấn ký).
Và Đức Thượng Sanh viết tặng cho quyển Giáo Lý bài thi như sau:
GIÁO LÝ đạo Trời thất ức niên,
Trương Quân biên soạn để lưu truyền.
Tồn tâm chỉ rõ đường mê giác,
Dưỡng tánh phân rành nẻo tục tiên.
2.- Trên Đường Tấn Hoá.
Đức Thượng Sanh đề tặng quyển “Trên Đường Tấn Hoá” một bài thi sau:
Trên Đường Tấn Hóa bút Trương Quân,
Rừng Đạo thêm hoa thật đáng mầng.
Trau hạnh giúp người vun thiện quả,
Tu tâm dìu khách thoát mê tân.
Rọi đường chơn lý, khêu đèn huệ,
Nâng bước quần sanh tỉnh mộng trần.
Tam giáo sưu tầm rành luận thuyết,
Công phu quý trọng sánh ngàn cân.
Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước viết Lời Phi Lộ cho quyển Trên Đường Tấn Hóa sau:
“Đạo huynh Tiếp Pháp Trương Văn Tràng góp nhặt tài liệu tinh hoa Tam giáo, soạn thành quyển Trên Đường Tấn Hóa giải rành phương châm Nhập thế và Xuất thế. Cả hai phương châm đều thích hợp với sở cầu của các giới trong đại chúng, từ bậc ưu thời mẫn thế, bậc tu sĩ phế đời, đến bậc thường nhơn, không giới nào đọc sách nầy mà không thỏa chí vui lòng.
Quyển Trên Đường Tấn Hóa sẽ góp thêm một bửu vật cho kho tàng của tôn giáo.
Cho đến Năm Giáp Thìn, 1964, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng ngoạ bịnh nặng nằm tại nhà thương Grall, được Hội Thánh thiết đàn cầu cơ tại Giáo Tông Đường, Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa giáng cơ dạy rước Ngài về Toà Thánh Tây Ninh để cầu nguyện và uống thuốc Đông y, sau đó Ngài bình phục trở lại.
Mãi đến rằm tháng giêng năm Ất Tỵ (Dl. 16/02/1965), Ngài Tiếp Pháp đã thoát xác lúc 5 giờ chiều, hưởng thọ 73 tuổi.
Bài Thài hiến lễ Ngài Tiếp Pháp Chơn Quân được Ngài giáng cơ hồi 9 giờ đêm ngày 16 tháng giêng năm Ất Tỵ ban cho như sau:
Tiếp điển Trời ban độ chúng sanh,
Pháp luân thường chuyển rạng thiên đình.
Chơn nhơn đắc vị nhàn Tiên cảnh,
Quân Thánh Thần minh kiến đạo thành.
Về công nghiệp hành đạo buổi sơ khai của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng, Đức Thượng Sanh có sáng tác một bài Thi Điếu và bài Điếu văn đọc trước Liên đài của Ngài như sau:
THI ĐIẾU
Phục vụ nhơn sanh phận dãi dầu,
Chơn Quân Tiếp Pháp có còn đâu.
Non xưa động Thánh người quy vị,
Đài cũ Hiệp Thiên cảnh để sầu.
Kiệt sức thân tàn vì nợ Đạo,
Nhả tơ tằm vẹn trả ơn dâu.
Rừng tòng hạc lánh đêm buồn nhớ,
Rơi lệ vẳng nghe tiếng trống lầu.
THƯỢNG SANH. |
ĐIẾU VĂN
“Nói đến công trình của Ngài đối với Ðạo thì Ngài chẳng khác chi thân tằm, cứ mãi rút ruột nhả tơ để trả ơn dâu đến ngày kiệt sức.
Nhập Ðạo vào đầu năm Bính Dần (1926) thọ phong Tiếp Pháp Hiệp Thiên Ðài cũng trong năm và mặc dầu còn vướng chơn trong vòng quan lại, Ngài đã lãnh lịnh nâng loan với Ông Khai Pháp, mỗi đêm lập Ðàn thâu phục tín đồ và dạy Ðạo trong nhiều tỉnh miền Ðông và các vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Ðịnh.
Khi về Toà Thánh đảm nhiệm phận sự chánh thức, dưới quyền của Ðức Hộ Pháp thì Ngài đã tỏ ra xứng đáng một tướng soái của Ðức Chí Tôn trong mọi phương diện. Ngoài nhiệm vụ đã được giao phó trong lúc rảnh rang thì Ngài cặm cuị, đem hết trí óc, não cân để sáng tác những sách Ðạo với mục đích là giúp cho Chức sắc, Chức việc và Ðạo hữu am hiểu rành rẽ giáo lý Ðại Ðạo và các Tôn giáo cõi Á Ðông”.
1.- Tiếp Pháp Chơn Quân:
Tiếp Pháp Chơn Quân tiếng mãi loà,
Đề thơ nhắc lại những năm qua.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
2.- Tiếp Pháp:
Tiếp điển Trời ban độ chúng sanh,
Pháp luân thường chuyển rạng thiên đình.
(Bài Thài Tiếp Pháp).
Phục vụ nhơn sanh phận dãi dầu,
Chơn Quân Tiếp Pháp có còn đâu.
(Thơ Thượng Sanh).
Tiếp: Đón. Rước: Đón mời hoặc đón có nghi vệ.
Tiếp rước là đón tiếp một cách long trọng.
Huấn từ Đức Thượng Sanh trong dịp lễ Khánh thành ngôi nhà Hội Vạn Linh có câu: Tạo nên ngôi nhà nầy, Hội Thánh chúng tôi có ý để dùng làm nơi hội họp của bổn Ðạo mỗi khi có cuộc lễ long trọng và khi có quý quan khách trong các giới và các tôn giáo ở xa đến viếng Toà Thánh muốn lưu lại đôi ngày thì cũng sẵn có nơi xứng đáng để tiếp rước.
Ơn Tạo hoá tha tiền khiên trước,
Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
(Kinh Thế Đạo).
Hạc Ðạo đón đưa bay xạo xự,
Nai Tăng tiếp rước chạy lao xao.
(Thiên Thai Kiến Diện).
接 賓
Tiếp: Đón rước. Tân: Khách.
Tiếp tân là tiếp khách, đón tiếp các quan khách.
Tại Toà Thánh hằng ngày đều có Ban Tiếp tân, là một ban gồm nhiều người, có trách nhiệm tiếp khách tham quan, giải thích ý nghĩa hình ảnh nơi Toà Thánh và nghi thức của Tôn giáo Cao Đài.
Ngoài ra trong các cuộc lễ cũng thành lập Ban Tiếp Tân, có nhiệm tiếp đón khách đến dự lễ và hướng dẫn chỗ ngồi mà Ban tổ chức đã quy định.
Tiếp Tân mừng chị kính đôi hàng,
Trách nhiệm vừa kiêm Phó Trưởng ban.
(Thơ Chơn Tâm).
接 續
Tiếp: Nối lại, liền với nhau. Tục: Nối thêm.
Tiếp tục là không ngừng hay không ngừng hẳ, mà có sự nối tiếp, sự liên tục trong quá trình, hay trong hoạt động.
Thánh giáo Đức Hộ Pháp có dạy: Bần Đạo yêu cầu Hiệp Thiên Đài tiếp tục lo giúp Khai Đạo tổ chức lại Cơ Quan Phước Thiện cho có phương pháp để nâng đỡ các em nhỏ vì không người dìu đường dẫn lối làm cho chúng nó bị thiệt thòi.
Con ráng tiếp tục đi trên con đường vạch sẵn ấy để theo đuổi đến mức cuối cùng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
接 世
Hay “Tiếp Thế Chơn Quân”.
Tiếp Thế là một phẩm chức sắc của đạo Cao Đài, là một trong Thập nhị Thời quân thuộc chi Thế Hiệp Thiên Đài, dưới quyền của Đức Thượng Sanh.
Tiếp Thế Chơn Quân 接 世 真 君 là một vị chức sắc Hiệp Thiên Đài thuộc Chi Thế được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Lê Thế Vĩnh.
Theo Hiến pháp Hiệp Thiên Đài, Tiếp Thế là người có trách nhiệm giúp cho nhơn sanh trong việc giao tiếp lẫn nhau và can thiệp những điều bất công, hà khắc mà các đạo hữu lưỡng phái gặp phải, làm cản trở bước đường đời của họ. Ngoài ra, Pháp Chánh Truyền chú giải cũng có quy định: Tiếp Thế là người tiếp thế luật, hay tiếp đơn trạng của người ngoài đạo hay đạo hữu kiện thưa chức sắc thiên phong, bất cứ phẩm vị nào, phải dâng lên cho Ngài Khai Thế.
Đạo phục của Ngài Tiếp Thế Chơn Quân theo Pháp Chánh Truyền gồm có hai bộ:
Bộ Đại phục của Tiếp Thế toàn hàng trắng, cổ trịch, viền kim tuyến bạc, đầu đội mão Nhựt Nguyệt Mạo màu trắng, lưng đeo dây sắc lịnh, thả mối bên hông trái (Thuộc Chi Thế), chân đi giầy vô ưu trắng.
Bộ Tiểu phục cũng toàn hàng trắng, lưng mang dây sắc lịnh y như Đại phục, đầu đội Hỗn Nguơn Mạo, trên mão có Thư hùng kiếm và Phất Chủ (Cổ pháp Thượng Sanh), chân đi giầy vô ưu màu trắng.
Tiếp Thế Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Lê Thế Vĩnh trong đàn cơ ngày 12 tháng 01 năm Đinh Mão (Dl. 13- 02-1927) tại Chùa Gò Kén Tây Ninh.
Ngài Lê Thế Vĩnh sinh năm Quý Mão, 1903 tại Sài Gòn, xuất thân trong một gia đình mô phạm. Thân phụ của Ngài là cụ Đốc học Lê Văn Dương, hiệu trưởng trường Tiểu học Đa Kao, nay là trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng, Sài Gòn. Thân mẫu của Ngài là Trần Thị Chọn, được Đức Chí Tôn thiên phong phẩm Giáo Hữu vào năm 1927, kỳ phong Thánh Nữ phái lần thứ nhứt.
Hiền nội của Ngài Lê Thế Vĩnh là Bà Nguyễn Thị Thơm cũng đắc phong Lễ Sanh trong kỳ Đức Chí Tôn phong Thánh Nữ phái lần thứ nhứt.
Bào huynh của Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh là Ngài Lê Thiện Phước, đắc phong Bảo Thế Hiệp Thiên Đài.
Nguyên Ngài Lê Thế Vĩnh là một ký giả viết báo nổi tiếng tại Sài Gòn. Vào năm Ất Sửu (1925) Ngài nghe tin nhóm quý ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang xây bàn thỉnh Tiên, vì tính tò mò, ý muốn thử xem thiệt giả, nên Ngài cùng với một bạn đồng nghiệp là Phạm Minh Kiên tìm đến nhà Ngài Cư hầu đàn.
Đấng A Ă Â (tá danh của Đức Chí Tôn) gõ bàn cho hai người một bài thi như sau:
Một viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh lang.
Nước nhà ví biết thân là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.
Khi nhận được bài thi trong lòng Ngài Lê Thế Vĩnh vô cùng khâm phục, nên sau nầy Ngài mới tìm đến nhập môn cầu Đạo.
Sau đó Ngài thôi viết báo, về Toà Thánh Tây Ninh hành Đạo, làm việc tại văn phòng của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.
Sau năm 1945, Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh bị mất tích, không biết mất vào năm nào, không có làm lễ kỷ niệm và cũng không có bài thài.
Thượng Sanh thì lo về phần Ðời: Bảo Thế thì Phước, Hiến Thế: Mạnh, Khai Thế: Thâu, Tiếp Thế: Vĩnh.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
接 物
Tiếp: Kết, nối lại. Vật: Nhân vật.
Tiếp vật, do câu “Xử kỷ tiếp vật 處 己 接 物”, là giao tiếp với người, với vật.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nếu ai ai cũng quan niệm con người sanh ra dưới cõi thế đều cùng một nguồn gốc siêu hình mà ra và Đấng Thượng Đế là Cha Thiêng Liêng của nhơn loại thì sự xử kỷ tiếp vật của mỗi cá nhân chắc hẳn sẽ được tốt đẹp hơn hiện tại bội phần.
Vì phép tắc đối với mình tức là “Xử kỷ” phải luôn luôn đi kèm với phép tắc đối với người và việc tức là “Tiếp vật”.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
接 觸
Tiếp: Liền nhau, nối theo. Xúc: Đụng chạm.
Tiếp xúc là đụng chạm đến.
Tiếp xúc còn dùng để chỉ gặp nhau, giao tiếp nhau.
Như: Hai đầu dây điện không tiếp xúc nhau, tiếp xúc với mọi người.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn dạy: Ðức Chí Thành là một đức tính mà con người sanh ra ở thế gian ai cũng cần phải có, để tự kềm chế mình được ngay thẳng thành thật trong đường đời cũng như đường Ðạo. Có chí thành con người mới có phẩm hạnh sáng tỏ, mới biết cân phân tà chánh, thị phi trong khi tiếp xúc với nhân quần xã hội, mới dám quyết định nên hư trong các công việc của mình và nhờ đó mà đi đến mức thành công mỹ mãn.
Tôi từ lúc tách mình thoát tục,
Không ra tay tiếp xúc với đời.
(Thơ Hộ Pháp).
Từ bi Thánh ý ban truyền,
Cho tôi tiếp xúc chư hiền đàn trung.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tiệp là giống nhau, in nhau.
Tiệp còn có nghĩa là có màu sắc gần giống nhau, tương tự nhau tạo nên sự hài hoà.
Thí dụ: Khung hình tiệp với màu bức tường, bìa quyển sách tiệp màu cặp da.
Tiệp theo thời thế tánh hiền lương,
Cứ giữ ôn nhu chịu thủ thường.
(Đạo Sử).
節
1.- Tiết là nói chí khí, hạnh khẳng khái cứng cỏi của con người, hoặc lòng ngay thẳng, trong sạch giữ trước sau như một. Như: Tiết nghĩa, tiết tháo, tiết sạch giá trong.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Sứ mạng! Ôi sứ mạng! Vì sứ mạng mà hai vị Tổng Trấn Võ Tánh và Ngô Tùng Châu phải tuẫn tiết nơi thành Bình Ðịnh; cụ Phan Thanh Giản phải quyên sinh tại Vĩnh Long vì thất thủ thành trì. Ðó là gương cao đẹp nhứt của những đấng anh hùng vị quốc vong thân đáng để cho muôn đời ca tụng.
Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.
(Kinh Sám Hối).
Na Sầm chưa phải trọn sơn hà,
Khí tiết anh hùng giống Việt ta.
(Thơ Hộ Pháp).
Nếu biết mình tránh tiếng chê khen,
Gìn nữ tiết cho bền chờ phải mặt.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tiết là thời tiết, chỉ về đặc điểm khí hậu không thay đổi trong khoảng thời gian nhất định trong một năm. Như: Tiết xuân, thuận tiết, tiết nồng, tiết trời ấm áp.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Sự hội hiệp của toàn cả Chức sắc Phước Thiện nơi Tổ Ðình vào đầu tiết xuân để bái lễ Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu là một điều quý báu do nơi lòng hiếu kỉnh của các con cái đối với hai đấng Chí Linh là Ðại Từ Phụ và Ðại Từ Mẫu.
Bóng trải diềm dà xuân đợi chúa,
Tiết nồng thơ thới hạ khoe sen.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chờ về vắng bặt tiết thu qua,
Tiếng nhạn kêu sầu tiếng thiết tha.
(Bát Nương Giáng Bút).
Nghịch tiết sái mùa không trổ mặt,
Thuận thời phải thế mới ra tài.
(Thơ Hộ Pháp).
節 制
Tiết: Hạn chế, có chừng mực. Như: Tiết kiệm, tiết chế. Chế: Trị, ngăn giữ bằng phép tắc.
Tiết chế có nghĩa là hạn chế, bó buộc ở trong lễ phép, khiến cho khỏi thái quá, tức giữ không cho vượt qua một hạn độ nào đó.
Như: Tiết chế tiêu xài hằng tháng, tu tâm sửa tánh là phải tiết chế dục vọng.
Diệt được cái Ta là tiết chế được tình dục, đoạn trừ tư tâm ngã kiến, rồi nhứt cử nhứt động đều quay về vị tha, quên cả mình để mưu lợi cho người.
(Thiên Đạo).
Tiết 節: Lòng ngay thẳng trong sạch, giữ trước sau như một. Giá: Băng giá.
Tiết giá, như câu thành ngữ “Tiết sạch giá trong”, dùng để chỉ lòng trong sạch, ngay thẳng.
Như: Người phụ nữ phải giữ tròn tiết giá.
Căn duyên dầu có phụ phàng,
Cũng do tiết giá mở đàng ngại lo.
(Nữ Trung Tùng Phận).
節 行
Tiết: Những điều mà con người phải giữ để bảo vệ thanh danh. Hạnh: Nết na.
Tiết hạnh là tính nết mà người đàn bà, con gái biết giữ gìn, không làm điều tà hạnh.
Như: Tiết hạnh của bà đáng làm gương cho nữ giới.
Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
(Kinh Sám Hối).
Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh,
Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Dạy đừng dùng tiếng ngọt lời ngon,
Làm nhục kẻ lòng son gìn tiết hạnh.
(Phương Tu Đại Đạo).
節 儉
Tiết: Hạn chế, có chừng mực. Kiệm: Tiện tặn, không hoang phí.
Tiết kiệm tức là ăn xài có chừng mực, không tiêu xài hoang phí. Như: Chi tiêu phải biết tiết kiệm.
Người xưa thường dạy: Cẩn tắc vô ưu, nhẫn tắc vô nhục, tịnh tắc thường an, kiệm tắc thường túc 謹 則 無 憂, 忍 則 無 辱; 靖 則 常 安, 儉 則 常 足, nghĩa là cẩn thận thì khỏi lo, nhẫn nhịn thì khỏi nhục, tĩnh lặng thường yên, cần kiệm thường đủ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hiện giờ cùng chung chịu cảnh thanh bần của Đạo, chúng tôi phải tiết kiệm đồng tiền của Đạo hết sức cân phân lợi hại trước khi tiêu phí, vì đó là huyết mạch của nhơn sanh, chúng ta không có quyền phung phí vô lối.
Thà tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lũ làm ăn.
(Kinh Sám Hối).
泄 漏
Tiết: Rỉ ra, lộ ra ngoài. Lậu: Việc cần giấu kín mà bị lộ ra ngoài.
Tiết lậu, đồng nghĩa với chữ “Tiết lộ”, là hé lộ việc kín đáo, hay việc Thiên cơ, tức làm cho người ngoài biết được những việc cần phải giấu.
Như: Tiết lậu bí mật quốc phòng.
Xem: Tiết lộ.
Nhưng Thầy không bao giờ cho một kẻ nào dưới cõi trần nầy tiết lậu Thiên cơ cả.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
節 烈
Tiết: Những điều mà con người phải giữ để bảo vệ thanh danh. Liệt: Ngay thẳng.
Tiết liệt là nói đức hạnh của người phụ nữ cương quyết giữ gìn trinh tiết, không bao giờ thay đổi.
Như: Cô ấy có lòng kiên trinh tiết liệt.
Tiết liệt đỡ nâng nền thổ võ,
Hiếu trung bồi đắp nợ giang san.
(Thơ Thông Quang).
Ân nghĩa nêu cao trang tiết liệt,
Tơ duyên buộc chặt mối chung tình.
(Thơ Phước Huệ).
泄 露
Tiết: Lộ ra ngoài. Lộ: Để cho người ngoài thấy được, biết được.
Tiết lộ là hé lộ những sự việc bí mật, đáng lý là cần phải giấu kín. Như: Tiết lộ bí mật quốc phòng.
Trong một đàn cơ tại cung đạo, Ngài Hiến Đạo hỏi Đức Hộ Pháp: Xin Đức Ngài cho biết Thập nhị Bảo Quân đối với phẩm nào? Đức Hộ Pháp trả lời: Cười... sẽ tiết lộ giữa Cung Đạo cho tất cả đều biết. Bần Đạo xin chúc mừng hiền hữu và ban ơn cho các bạn.
Thiết tưởng lúc đó, Đức Chí Tôn tiết lộ cho chúng ta biết rằng Đức Ngài là Thượng Đế thì ắt chúng ta không dám lân la, học hỏi.
(Giáo Lý).
節 玉
Tiết: Những điều mà con người phải giữ để bảo vệ thanh danh. Ngọc: Chỉ sự đẹp đẽ quý báu.
Tiết ngọc là chỉ cái tiết hạnh quý báu nhất của người con gái. Như: Tiết ngọc giá trong.
Xem: Tiết giá.
Tính để viết khuyên rào tiết ngọc,
Thì sợ e ghẹo chọc si tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
節 義
Tiết: Khí tiết. Nghĩa: Việc theo đường lối phải.
Tiết nghĩa là nói người đàn ông hay đàn bà biết giữ thanh danh, và hành động theo đường lối phải.
Trong Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Bởi Thiên lý phát động là “Nhân” cho nên đức “Nhân” gồm đủ tất cả tánh tốt, hạnh lành như trung, hiếu, tiết nghĩa, cung, khoan, mẫn, huệ, cương, nghị, mộc, nột.
Lợi lộc chê hơn câu tiết nghĩa,
Ðừng qua nửa bước quá rừng thiền.
(Đạo Sử).
Nước Việt Thường ghi tạc mặt tài danh,
Nòi Hồng Lạc roi truyền gương tiết nghĩa.
(Văn Tế Tiểu Tường).
節 婦
Tiết: Cái khí tiết của con người phải giữ vững để bảo vệ thanh danh. Phụ: Người đàn bà.
Tiết phụ là người đàn bà biết giữ gìn tiết hạnh.
Tiết phụ còn dùng để chỉ người đàn bà goá không tái giá để giữ trọn trinh tiết với chồng.
Noi tiết phụ đời xưa thanh sử,
Sách có câu: Hiền nữ kỉnh phu.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Tiết: Cái khí tiết của con người phải giữ vững để bảo vệ thanh danh. Sạch: Không nhơ bợn.
Người xưa thường dùng chữ “Tiết sạch” để ví với đức hạnh của người con gái. Như: Tiết sạch giá trong.
Nghĩa rộng: Chỉ khí tiết thanh bạch.
Gìn sắc ngọc, giá trong, tiết sạch,
Gói vẹn tròn phong cách trung trinh.
(Phù Kiều Hận Sử).
節 操
Tiết: Những điều mà con người phải giữ để bảo vệ thanh danh. Tháo: Cầm giữ.
Tiết tháo là giữ vững điều tiết nghĩa. Như: Ông ấy có tiết tháo của một nhà Nho.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Những bậc hiền thời xưa là những người tài kinh bang tế thế và có một tiết tháo đáng kính.
Một tháng năm ngày qua thử thách,
Giữ tròn tiết tháo chẳng đơn sai.
(Thơ Thuần Đức).
Gắng giữ vẹn tròn câu tiết tháo,
Phong trần có lúc cũng dần phai.
(Thơ Hàn Sinh).
節 貞
Tiết: Những điều mà con người phải giữ để bảo vệ thanh danh. Trinh: Con gái chưa chung đụng với đàn ông, hoặc đàn bà thủ tiết với chồng.
Tiết trinh là giữ gìn trinh tiết.
Trong Đạo Sử, Đức Thượng Phẩm dạy Nữ phái về Tam tùng, Tứ đức có câu: Tùng Phụ, như người con phải giữ trọn tiết trinh, cũng như kẻ Tín Ðồ giữ tròn danh Ðạo.
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.
(Kinh Thế Đạo).
Còn một nỗi gian dâm đại tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.
(Kinh Sám Hối).
Làu làu một tấm tợ đài gương,
Trung, hiếu, tiết trinh vẹn mọi đường.
(Giới Tâm Kinh).
1.- Tiêu 簫 là một loại nhạc cụ, hình ống nhỏ và dài, có nhiều lỗ tròn để định cung, thổi bằng hơi theo chiều dọc, tiếng trầm.
Như: Thổi tiêu, tiếng tiêu trầm bổng.
Tiếng tiêu dầu lọt phụng lầu,
Hoặc may gỡ đặng dây sầu nữ nhi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tiêu 梢 là một thứ cây có hạt thơm và cay, dùng làm gia vị, hoặc ngày xưa dùng vôi trộn với hạt tiêu đâm nhuyễn để mùa lạnh nhờ hơi tiêu mà ấm áp, thơm tho.
Như: Tiêu phòng, là phòng của Hoàng Hậu hay các phi tần ở.
Bởi quen mùi vị phòng tiêu,
Bướm ong kiếm dựa, vườn điều đổi hương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Khách phòng tiêu phải đoạ phong trần,
Còn chi nữa phòng cần kiếp sống.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Tiêu 消 là tan biến mất. Như: Tiêu cơm, tiêu sầu, tiêu diệt, tiêu xương.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Thầy có dạy: Nếu cả thế gian nầy biết tu thì thế gian có lẽ cãi lý Thiên đình mà làm cho tiêu tai tiêu nạn đặng, huống lựa mỗi cá nhân biết tu thì Thiên đình cầm bộ Nam Tào cũng chẳng ích chi.
Cầm gươm huệ chặt tiêu oan trái,
Dìu độ quần sanh diệt quả nhân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vạn kiếp xưa còn lo lắm nỗi,
Xác tiêu hồn luyện chẳng nên đời.
(Đạo Sử).
Tội chàng trước tiêu dường tuyết giá,
Còn thiếp mang trọn cả lỗi chàng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
標 表
Tiêu: Cái nêu, nêu ra cho mọi người thấy. Biểu: Cái mốc, bày ra để định ranh.
Tiêu biểu là cái nêu và cái mốc để cho người ta trông vào, ý muốn nói làm mẫu mực hay thay mặt cho. Như: Anh ấy tiêu biểu cho hạng người trí thức.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hôm nay đoàn tụ trong bầu êm ấm vui tươi dưới mái gia đình của nền Ðại Ðạo, sự đoàn kết chặt chẽ nầy tiêu biểu một sức mạnh phi thường có thể dời non lấp bể, nếu những quả tim của tất cả các bạn Ðạo đều cùng đập một nhịp yêu đương và cương quyết làm tròn nhiệm vụ.
Đưa bông sen chứng minh cái thể,
Thích Ca thiền, môn đệ trầm ngâm.
Làm thinh tiêu biểu bản tâm,
A Nan, Ca Diếp chọn cầm Pháp môn.
(Báo Ân Từ).
消 極
Tiêu: Tan, mất đi. Cực: Rất mực, đến thế là cùng.
Phàm làm việc gì không vụ tiến thủ thì gọi là tiêu cực. Như: Sự phản đối tiêu cực, thái độ tiêu cực.
Tiêu cực còn có tính cách không thực có. Như: Tiêu cực kháng chiến.
Diễn Văn Đức Quyền Giáo Tông năm Giáp Tuất, 1934 có câu: Khi Ðức Thích Ca mở Ðạo Phật thì nhơn sanh buổi ấy còn Thánh Ðức nhiều; cá nhơn đều ngán sự khổ não truân chuyên ở thế nên Thiên Ðình phú cho Ngài lấy tôn chỉ tiêu cực diệt Tứ khổ (Sanh, Lão, Bịnh, Tử) mà độ chúng.
Hai chữ “Tu thân” không phải chỉ có một ý nghĩa tiêu cực là sửa trị nết xấu mà là bao hàm một chương trình rộng rãi trau dồi tài đức.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Tiêu chàng Sử tức là Tiêu Sử, một người có tài về thổi ống tiêu.
Theo Thái Bình Quảng Ký, Tiêu Sử là người đời Chu, làm sử quan thời Chu Tuyên Vương mới lấy chữ Sử mà đặt tên, gọi là Tiêu Sử, có tài thổi ống tiêu.
Tần Mục gả công chúa Lộng Ngọc và xây Phụng đài cho hai vợ chồng ở đó. Tiêu Sử ngày ngày dạy công chúa Lộng Ngọc thổi tiêu. Về sau, Tiêu Sử cỡi rồng, Lộng Ngọc cỡi phụng, cả hai vợ chồng cùng bay lên cõi Tiên.
Xem: Tiêu Lang.
Cô phòng lắng ngỡ tiêu chàng Sử,
Chiến địa nghe ngờ sáo lão Trương.
(Thơ Thành Toại).
標 準
Tiêu: Cái nêu, cây cọc dùng làm mốc. Chuẩn: Cái để đo mặt bằng, vật để làm mực.
Tiêu chuẩn là điều quy định làm căn cứ để đánh giá.
Tiêu chuẩn còn dùng để chỉ mức quy định được hưởng, được cung cấp theo chế độ. Tiêu chuẩn để xét khen thưởng, tiêu chuẩn nghỉ hằng năm.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Nói tới Ðạo Thánh của Ðấng Christ tức Công Giáo, nếu người không bác ái từ bi, không hề đem xác thịt mình làm con tế vật dâng hiến cho Chí Tôn đặng cầu siêu rỗi, xin tha thứ tội tình cho loài người, đó là người đến đem lòng thương yêu của mình ra làm tiêu chuẩn cho đời bắt chước. Vì cớ nên Công Giáo làm chủ tinh thần một phần lớn nhơn loại là đáng lắm vậy.
Vì đức Nhân là tiêu chuẩn của lòng từ ái và tánh vị tha, không thể khép vào một chỗ chật hẹp được.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
逍 遙
Tiêu: Lượn trên cao, không dùng một mình. Dao: Xa.
Tiêu dao là rong chơi thong thả, không vương vấn chuyện đời.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Cầm đường ngày tháng thanh nhàn, Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.
Nước trí tiêu dao luồng gió hạc,
Non nhân khiển hứng khúc đờn tòng.
(Thơ Thái Phong).
蕉 面 士
Tiêu diện: Mặt xanh như tàu lá chuối. Đại Sĩ: Tiếng bên nhà Phật dùng để gọi bậc Bồ Tát hay bậc Phật.
Tiêu Diện Sĩ, tức là “Tiêu Diện Đại Sĩ 蕉 面 大 士”, bên Phật giáo còn được gọi là Ông Ác, hay Ông Tiêu, là tên một vị Thần (hay một vị thiên vương) có hình tượng là một tướng nam, dáng điệu oai nghiêm, mặc trang phục võ tướng, tay phải cầm lá cờ, tay trái chống nạnh, gương mặt quái dị với ba cái sừng nhọn trên đầu và trán, hai mắt lồi to trợn ngược, cái miệng rộng nhe răng lởm chởm, đặc biệt nhất là chiếc lưỡi thè cong dài.
Theo một thuyết khác, Tiêu Diện Đại Sĩ có gương mặt xanh như tàu lá chuối, lưỡi thè dài ra, nên người ta mới gọi là “tiêu diện”. (Tiêu 蕉 hay ba tiêu 芭 蕉: Cây chuối, Diện 面: Gương Mặt).
Trong các ngôi chùa Phật, tượng Tiêu Diện Đại Sĩ thường được thờ bên trái Chánh điện, còn tượng Đức Vi Đà Hộ Pháp (thường được gọi là Ông Thiện) được thờ bên phải Chánh điện.
Tương truyền, Tiêu Diện Đại Sĩ là hoá thân của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, để chuyên hàng phục quỷ yêu và cứu độ chúng sinh.
Ngoài ra, trong các đàn chay thường cũng có dựng tượng Tiêu Diện Đại Sĩ với ý nghĩa là để Ngài đứng trấn áp các cô hồn, ma quỷ.
Chúng ta thường thắc mắc chùa là nơi phụng thờ các Đấng từ bi là chư Phật hay Bồ Tát để các Ngài hướng dẫn chư chúng sanh trở về với con đường Thánh thiện, như vậy thờ Ngài Vi Đà Hộ Pháp (Ông Thiện) đủ rồi, tại sao lại thờ cả Ngài Tiêu Diện Đại Sĩ (Ông Ác)?
Thờ hai hình tượng Ông Ác và Ông Thiện (tức Tiêu Diện Đại Sĩ và Vi Đà Hộ Pháp) mang một ý nghĩa sâu xa, để thể hiện cho tất cả chúng sanh thấy lòng từ bi chư Phật lúc nào cũng muốn đem lại sự an vui, lợi lạc cho mọi người, nhưng do trình độ chúng sanh sai khác, không đồng điều nhau, nên các phương tiện hoá độ của chư Phật, Bồ tát cũng khác nhau.
Đối với người hiền hoà, thì chư Phật và Bồ Tát dùng cử chỉ thương yêu chỉ dạy họ liền cảm mến nghe theo. Còn với những kẻ hung dữ, ngang bướng dùng lời hiền hoà nói họ không chịu nghe, buộc lòng các Đấng phải có thái độ dường như ác dữ mới chuyển hoá họ được.
Như chúng ta biết, Đức Quan Thế Âm là vị Bồ Tát có nhiều hoá thân khác nhau để cứu độ chúng sanh, có khi Ngài hiện ra làm một vị Thiên Vương hoặc làm một vị Thiên Tướng.
Đối với chúng sanh đang bị khổ não, Ngài thường hiện tướng hiền lành, từ bi ra để cứu giúp cho chúng sanh đang bị khổ nạn. Đối với ma vương, tà quái, Bồ Tát phải hiện tướng uy nghi, bởi vì sức hay tướng uy nghi của Bồ Tát có thể khiến cho ma vương, tà quái kinh sợ mà hàng phục chúng, hoặc vì muốn cứu độ loài quỷ đói, không để họ tiếp tục gây tạo ác nghiệp; nên vì lòng đại từ bi, Bồ Tát Quan Thế Âm đã phải hiện thân vào loài quỷ đói, đóng vai ác, để rồi cuối cùng cảm hoá được loài chúng sanh ấy.
Mặt yêu vằn vện dường Tiêu Diện Sĩ
le lưỡi trấn Tây phương,
Mày chằn nhăn nhíu tợ Quỷ Dạ Xoa
đẩy xe vào Âm phủ.
(Bát Nương Giáng Bút).
消 滅
Tiêu: Tan mất hết. Diệt: Làm mất đi.
Tiêu diệt là làm cho mất, không còn gì nữa.
Thánh giáo Thầy dạy: Khắp trong nhân loại trên mặt địa cầu nầy, phần đông vì kính thờ Tà quái, mà Tà quái vốn chứa sự chết, thì tức nhiên chúng nó ở trong vòng sự chết là phải tiêu diệt, thì bao giờ biết đặng sự hằng sống là gì. Cười... Nếu Thầy không đến kịp thì các con cũng vẫn bị trong vòng sự chết.
Giảm hình phạt bớt đường ly tiết,
Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.
(Kinh Tận Độ).
Mong nhờ lịnh đức Thánh Quan,
Ra oai tiêu diệt cho tàn ác ma.
(Giới Tâm Kinh).
Thấy đời tiêu diệt đến nơi,
Xót thương nên mới để lời cạn phân.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
Hay “Tiêu dao”.
Tiêu diêu, như chữ “Tiêu dao 逍 遙”, là thong thả, rảnh rang, đi đây đi đó, không bị ràng buộc.
Kinh Thi có câu: Hà thượng hề tiêu dao 河 上 兮 逍 遙, nghĩa là trên sông tiêu dao hề.
Điếu văn của Đức Thượng Sanh đọc trước Liên Đài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn: Trên chốn động biếc ngàn mây, nơi cõi hư linh hằng sống, chúng tôi thành tâm cầu nguyện bạn được tiêu diêu tự toại, hưởng hồng ân huệ của Ðức Chí Tôn. Và xin bạn hiển linh hộ trì Hội Thánh để chóng đem lại thanh bình cho nền Ðại Ðạo.
Xem: Tiêu dao.
Tiêu diêu định tánh nắm phan,
Do theo Cực Lạc đon đàng siêu thăng.
(Kinh Thế Đạo).
Am tự đóng chặt gài bước tục,
Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Núp phướn tiêu diêu làm chủ quỷ,
Chiếm quyền bốn hướng một mình cam.
(Thiên Thai Kiến Diện).
蕭 條
Tiêu: Tịch mịch. Điều: Chỉ cảnh tượng lá vàng xơ xác, rụng trụi lủi.
Tiêu điều là vắng lặng, xơ xác và buồn bã, dùng để nói cảnh hoang tàn,buồn rầu.
Sở Từ có câu: Sơn tiêu điều nhi vô thú hề 山 蕭 條 而 無 獸 兮, nghĩa là núi tiêu điều mà không có thú vật hề.
Giác đời cậy một lòng thành thật,
Trừ tuyệt tiêu điều lũ quỷ ma.
(Đạo Sử).
Nhìn thấy cảnh sa trường máu đổ,
Nhìn ngũ châu thành phố tiêu điều.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
消 耗
Tiêu: Mất đi, tan tác ra. Hao: Tốn kém.
Tiêu hao là hao mòn dần dần.
Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Bây giờ chị chỉ khuyên các em bình tĩnh mà đối phó với thời cơ, cứ nhìn đại nghiệp mà giữ vững tinh thần của bổn đạo, đừng làm xao động e cho kẻ non nớt đức tin sa ngã mà công trình phổ độ của mấy em bị tiêu hao rất uổng cho con cái của Đại Từ Phụ.
Lửa đời chưa mãn ba nhang lụn,
Xác thịt tiêu hao nghiệp cũng vong.
(Đạo Sử).
Muôn đức tiêu hao vì một ác,
Chẳng ai giữ vẹn nợ ba sanh.
(Đạo Sử).
Khí chất tiêu hao không thế phục,
Rán lo âm chất chứa cho đầy.
(Đạo Sử).
消 毀
Tiêu: Mất đi, tan tác ra. Huỷ: Hư hỏng, phá hư.
Tiêu huỷ là mòn mỏi hư nát đi, tức làm cho chịu tác động huỷ hoại đến mức mất hẳn, không để lại dấu vết gì.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hại thay! Gặp buổi loạn lạc, khuôn khổ phong hoá nước nhà bị tiêu huỷ, đời xu hướng theo vật hình bỏ rơi đạo đức.
Tiêu huỷ thân cây lằn lửa táp,
Tan tành hình nộm trận giông qua.
(Đạo Sử).
Nghe một sự, hiểu điều khác nghĩ,
Trong thất tình tiêu huỷ không không.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tiêu: Tan, mất hết. Mòn: Hao, sức yếu.
Tiêu mòn là mất đi dần dần do một tác động nào đó từ bên ngoài. Như: Tiêu mòn sức khoẻ.
Thánh giáo Thầy có dạy: Tay chơn chưa cử động, hình thể còn tiêu mòn, mắt chưa muốn thấy, tai chưa muốn nghe, ngũ tạng lục phủ chưa thông đồng mà muốn vẫy vùng, lấn lướt thế nào đặng. Cũng như các con bề trong cấu xé, tâm một nơi đức một ngả, mà ham đi dìu dắt người ngoài, biểu hiệp đồng sao được.
Nếu tính tham tâm giành giựt mãi,
Dầu giàu như núi cũng tiêu mòn.
(Đạo Sử).
Thuận Thiên thì tánh mạng còn,
Nghịch Thiên hồn xác tiêu mòn chẳng chơi!
(Đại Thừa Chơn Giáo).
消 費
Tiêu: Mất đi. Phí: Tiêu xài, tốn kém.
Tiêu phí là dùng hết của cải hay sản vật, ý chỉ dùng một cách hoang phí, vô ích.
Như: Tiêu phí thời giờ vào những việc vô bổ.
Vì lẽ, khi ta làm một việc gì, ta phải tiêu phí đi một ít nghị lực...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
椒 房
Tiêu: Hạt tiêu. Phòng: Buồng.
Ngày xưa, phòng của Hoàng hậu, Phi tần trong nội cung thường dùng vôi trộn với hạt tiêu đâm nhuyễn để mùa lạnh nhờ hơi tiêu mà ấm áp.
Sách Hán quan ghi chép: Tiêu phòng thị Hoàng hậu sở cư 椒 房 是 皇 后 所 居, tức là phòng tiêu là chỗ ở của Hoàng hậu.
Về sau, chữ “Tiêu phòng” dùng chung cho hạng quyền quý, trưởng giả.
Một thân ở chốn tiêu phòng,
Nỗi gia phải chịu dưới chồng phận tôi.
(Bát Nương Giáng Bút).
消 果 前 愆
Tiêu quả: Làm dứt cái quả báo. Tiền khiên: Tội lỗi của kiếp trước gây ra.
Tiêu quả tiền khiên là làm cho dứt hết cái quả báo xấu do tội lỗi của kiếp trước gây ra.
Hầu chờ buổi chung quy tương công chiết tội, tiêu quả tiền khiên, mà nâng mình vào địa vị cao thượng hơn phẩm vô vị chốn sông mê nầy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Hay “Tiêu tán”.
Tiêu: Tan, biến mất. Tan (tán): Rã rời, vụn, hết.
Tiêu tan, như chữ “Tiêu tán 消 散”, là tan biến mất đi hoàn toàn, không còn tí gì hết.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Người đời chẳng khác con buôn trong buổi chợ, cả sức lực, trí não, tinh thần đều bị tiêu tán nơi ấy, vì vậy mới hoại chơn linh, thất ngôi diệt vị.
Cam Lồ rưới giọt nhành dương,
Thất tình lục dục như dường tiêu tan.
(Kinh Tận Độ).
Trời Nam vừa thọ ánh dương quang,
Cương toả tiêu tan thấy cảnh nhàn.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Trăm năm dầu sống mảnh hình,
Thì trong tâm lý đã đành tiêu tan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
消 殘
Tiêu: Tan, biến mất. Tàn: Suy mòn, hư hết.
Tiêu tàn là suy mòn rồi tiêu mất.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Chí Tôn có câu: Cũng giờ nầy, nhiều đứa đang gợi óc khêu tâm đặng tìm phương hay nghiên cứu nền Đạo, mà cũng giờ nầy nhiều đứa bị hơi tà, đem trí não chung nhau mà làm cho nền Đạo tiêu tàn rời rã.
Mùi ngào ngạt thơm luôn Thánh thể,
Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.
(Kinh Tận Độ).
Sáng đèn cánh bướm phải tiêu tàn,
Phải biết gần quan mới hiểu quan.
(Đạo Sử).
Chờ bóng thái dương lên chính giữa,
Soi vào địa nghiệt mới tiêu tàn.
(Thiên Thai Kiến Diện).
消 盡
Tiêu 消: Làm mất, tan biến. Tận: Hết.
Tiêu tận là làm tiêu mất hết.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Chiều thu nguyệt xế, non nhạn ngày thâu, lẩn thẩn ngày tháng qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc. Nếu chẳng bền lòng theo nẻo chánh mà thoát lối sông mê thì căn quả trả vay, chẳng biết ngày nào tiêu tận đặng.
Kỳ Hạ nguơn hầu mãn, nhơn vật vì tai nạn mà phải tiêu tận, mười phần còn đoái lại có một mà thôi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
消 思
Tiêu: Tan mất hết. Tứ: Ý nghĩ.
Tiêu tứ tiêu hao sức khoẻ vì lo nghĩ, ý chỉ hao tổn nhiều sức lực tinh thần. Như: Lao tâm tiêu tứ.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy mầng cho các con đã chịu lao tâm tiêu tứ mà vun đắp nền Ðạo, làm cho mối tương thân tương ái càng khắng khít vững bền, ráng công thêm nữa mà đi cho cùng bước đường của các con đã chịu lắm nhọc nhằn, vạch lối chông gai, dìu chơn hậu tấn.
Những vị cầm quyền Ðạo lại còn phải chịu lao tâm tiêu tứ nhiều hơn nữa để san bằng những nỗi khó khăn phức tạp...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
消 息
Tiêu: Mất đi, hết. Tức: Sinh ra, tăng lên.
Trong trời đất luôn luôn có những sự biến đổi, hết mưa đến nắng, hết nóng đến lạnh, sinh ra rồi mất đi, mất đi rồi sinh ra.
Do vậy, tiêu tức có nghĩa là thời vận tuần hoàn.
Tiêu tức, như chữ “Tiêu hao 消 耗”, có nghĩa là tin tức. Ví dụ: Bấy chầy chưa tỏ tiêu tức.
Tiêu tức hôm mai đành vắng bặt,
Ngâm thi giải muộn, muộn thêm càng ...
(Thơ Thuần Đức).
瀟 湘
Tiêu Tương là sông Tiêu và sông Tương, hai nhánh sông hợp lưu lại với nhau ở tỉnh Hồ nam, Trung Quốc.
Ngày xưa vua Thuấn đi tuần thú ở Thương Ngô và chết ở đấy. Hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm chồng đến sông Tiêu Tương, ngồi bên bờ mà khóc, nước mắt vấy vào hàng tre ở bờ sông, nên tre ở đấy bị lấm tấm như da đồi mồi, đời sau gọi là Tương trúc.
Sông Tiêu Tương thường được đem ví với sự thương nhớ của đôi vợ chồng hay trai gái yêu nhau.
Chị đã thong dong vườn Ngạn Uyển,
Anh còn lưu luyến bến Tiêu Tương.
(Thơ Hàn Sinh).
簫 韶
Tiêu: Ống sáo. Thiều: Nhạc Thiều, nhạc của vua Thuấn dùng trong việc cúng lễ.
Tiêu thiều là tiếng tiêu của nhạc Thiều, chỉ khúc nhạc hay của vua Thuấn, có thể khiến người nghe xong tâm hồn trở nên chính đính, thanh cao.
Trong Kinh Thư có câu: Tiêu thiều cửu thành, phụng hoàng lai nghi 簫 韶 九 成, 鳳 凰 來 儀, nghĩa là nhạc tiêu thiều tấu chín khúc, thì có chim phượng hoàng bay đến.
Tiêu thiều lấp tiếng dục tình,
Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.
(Kinh Tận Độ).
Cúc, Trước, Mai, Lan hầu thiết đãi,
Tiêu thiều nhạc trỗi khách nâng ly.
(Thiên Thai Kiến Diện).
消 除
Tiêu: Mất đi. Trừ: Làm cho mất.
Tiêu trừ là trừ bỏ. Như: Người tu hành phải rèn tâm để tiêu trừ dục vọng.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Đó là một điều sai lầm đáng thương hại, khổ nỗi cái tệ đoan ấy không biết bao giờ mới tiêu trừ được.
Phước nhiều tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt không tư chẳng vì.
(Kinh Sám Hối).
Năng chiếu diệu quang tiêu trừ nghiệt chướng.
(Di Lạc Chơn Kinh).
樵
Tiều là người đi kiếm củi. Như: Tiều phu, lão tiều.
Thuyết Đạo Hộ Đức Pháp có câu: Bình thường ngoài đời dầu cho quan dân, tứ dân, tứ thứ: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, họ thường đi lễ đầu năm kiếm hiểu coi giá trị của mình trong một năm qua thể nào.
Lánh thân khóm bá rừng tòng,
Tiều chưa thoát khỏi trong vòng tôi con.
(Ngụ Đời).
樵 老
Tiều: Người đi kiếm củi. Lão: Ông già.
Tiều lão, như chữ “Lão tiều 老 樵”, là ông già kiếm củi. Còn tiều phu là gọi chung là người đàn ông kiếm củi.
Như: Trời vừa xế bóng, tiều lão đã gánh củi về nhà.
Xem: Tiều phu.
Gạo châu củi quế đổi hằng ngày,
Tiều lão danh nêu tự thuở nay.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Tiều lão muôn đời danh bất hủ,
Cầu chi quyền thế chạy thi đua.
(Thơ Thông Quang).
樵 夫
Tiều: Người kiếm củi. Phu: Người đàn ông.
Tiều phu là người đàn ông chuyên nghề kiếm củi trong rừng núi.
Như: Tiều phu cũng có khi là những người ẩn dật, lánh đường danh nẻo lợi.
Nào phải nông gia sợ mất mùa,
Tiều phu nghề ấy khỏi nài mua.
(Thơ Hiến Pháp).
Quảy gánh tiều phu tách dặm ngàn,
Rừng tòng đẹp thú bước thênh thang.
(Thơ Thiện Tâm).
憔 悴
Tiều: Hốc hác. Tuỵ: Khốn khổ.
Người vì khổ nhọc mà mặt mày sinh ra hốc hác, khô héo, gọi là “Tiều tuỵ”.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Phải dồi lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương soi mình hằng bữa, phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau dường như con một nhà, rồi cái thương yêu, sự giúp lẫn ấy sẽ dìu chung các con vào tận chốn Cực Lạc thiêng liêng, để tránh khỏi nơi khổ cùng tiều tuỵ.
Nếu các con phủi trần thế mà lo cho Ðạo thì sao Toà Thánh còn thiếu tay giúp Ðạo, để cho đến đỗi càng ngày càng tiều tuỵ mà ra một cảnh điêu tàn.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Ðể cho tâm chí tiêu mòn,
Tinh thần tiều tụy sắt son mấy người.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
小
Tiểu là nhỏ, trái với đại. Như: Tiểu đệ, tiểu nhi, tiểu bang, tiểu quốc, tiểu nhân.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Vua không chánh, tôi chẳng ngay, người quân tử chẳng lẽ không giữ cái khí tiết trong sạch, cùng ra chen vai với đám tiểu nhơn, nên tự lui bước để sửa mình.
Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
May tiểu thiếp biết hoà biết thuận,
An thân chồng đẹp xứng nợ duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
小 壇
Tiểu: Nhỏ. Đàn: Đàn cúng tế.
Theo nghi tiết cúng tế Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng của tôn giáo Cao Đài, Tiểu đàn là một đàn lễ cúng nhỏ, với những nghi tiết đơn giản.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Thầy xin lập Tiểu đàn nầy là Thầy biết con đến đó, Trung. Con khá nhớ những lời Thầy đã dạy: Con phải nên trợ giúp Minh Lý cho nên việc, nghe há.
Hôm nay chúng ta thiết Tiểu đàn an vị Xá Lợi Phật của Đức Phật Thích Ca.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
小 童
Tiểu: Nhỏ, trái với đại. Đồng: Trẻ con.
Tiểu đồng là đứa con trai nhỏ theo hầu những người quyền quý, hay các thầy tu trên núi.
Một kẻ Tiểu đồng phò Phất chủ,
Ðôi nàng Tiên nữ quạt hương trầm.
(Thiên Thai Kiến Diện).
小 登 科
Tiểu: Nhỏ. Đăng: Viết lên, chép lên. Khoa: Cách thức để chọn lấy nhân tài.
Tiểu đăng khoa dùng để chỉ việc cưới vợ.
Quan niệm ngày xưa cưới vợ cũng vui mừng như đi thi đỗ vậy.
Thi đỗ thì nên danh phận, còn cưới vợ thì nên gia thất. Mà nên danh phận là cái vui lớn nhứt, do vậy gọi là Đại Đăng Khoa, còn cưới vợ là niềm vui nhỏ thì gọi Tiểu Đăng Khoa.
Chọn đá thử vàng nay đã toại,
Đôi dòng khánh hạ Tiểu Đăng khoa.
(Thơ Hoài Tân).
Ngày Tiểu Đăng khoa bừng khói pháo,
Nợ duyên hai trẻ thoả tình nồng.
(Thơ Hàn Sinh).
Tiểu Long nuốt ngựa tức con rồng nhỏ nuốt con ngựa của Đường Huyền Trang (Tam Tạng).
Theo truyện Tây Du ký, Tề Thiên Đại Thánh vâng lịnh Đức Quan Âm Bồ Tát theo thầy là Đường Tam Tạng đi thỉnh Kinh.
Ngày kia hai thầy trò đến núi Xà Bàn thì đường đi bị ngọn suối Ưng Sầu chận ngang, không đi được. Còn đang tìm cách vượt qua suối thì bỗng có một con Tiểu Long (rồng nhỏ) dưới suối nhảy lên, tới chụp Tam Tạng định ăn sống, nhưng Tề Thiên cõng Thầy chạy thoát, Tiểu Long bèn quay lại nuốt con ngựa của Huyền Trang.
Tề Thiên đánh Rồng nhỏ mấy lần nhưng không bắt được nó, bèn đi cầu viện Đức Quan Âm. Bồ Tát liền xuống thu phục con Tiểu Long và dùng Cam Lộ thuỷ biến Tiểu Long hoá thành con Bạch mã để đưa Tam Tạng đi Tây phương thỉnh Kinh.
Trên hành lang báo Ân Từ có vẽ một khuôn hình với ý “Tiểu Long hoá Bạch mã”.
Suối Ưng Sầu nhân duyên gột rửa,
Tiểu Long còn nuốt ngựa Huyền Trang.
(Báo Ân Từ).
小 服
Tiểu: Nhỏ. Phục: Quần áo.
Đạo phục của các Chức sắc đạo Cao Đài gồm áo quần, mão giày tuỳ theo phẩm mà có hai bộ: Đại phục và Tiểu phục.
Tiểu phục là bộ đồ mặc khi cúng Tiểu Đàn tại Toà Thánh hay các Thánh Thất địa phương.
Từ phẩm Giáo Sư trở lên mới có hai bộ Đại phục, Tiểu phục. Từ phẩm Giáo Hữu, trở xuống Lễ Sanh và Chức Việc Bàn Trị Sự thì chỉ một bộ mà thôi.
Đạo phục của Giáo Tông có hai bộ, một bộ Đại phục và một bộ Tiểu phục.
(Pháp Chánh Truyền CG).
小 國
Tiểu: Nhỏ. Quốc: Nước, chỉ một quốc gia.
Tiểu quốc là một nước nhỏ, có diện tích đất đai hẹp, và dân số ít.
Tiểu quốc ở đây dùng để chỉ nước Việt Nam.
Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
小 祥
Tiểu: Nhỏ. Tường: Điềm lành.
Theo quyển Quan Hôn Tang Lễ, chữ Tường nghĩa là lành, là kiết. Trong nhà có tang cả nhà mang sự thương xót, đau buồn, vì tưởng nhớ đến người quá cố. Thời gian qua, xoa dịu nỗi đau thương, cái buồn bớt lần lần, đem lại cái vui, như điềm lành, điềm tốt trở lại.
Vì vậy, Tiểu tường cũng có nghĩa là Tiểu kiết tường, có nghĩa là điềm lành nhỏ.
Kể từ sau một ngày cúng Cửu cửu (chung cửu) đếm tới 200 ngày thì làm lễ Tiểu Tường.
Đến ngày thì tang gia hiếu quyến phải đem linh vị đến Thánh Thất sở tại làm lễ cúng Tiểu tường.
Trước hết là cúng Thầy có dâng Tam bửu và thượng sớ. Sau khi cúng Chí Tôn rồi, thỉnh linh vị người chết đến trước Điện tụng bài kinh Khai Tiểu tường, rồi kế tiếp tụng Kinh Tiểu tường ba hiệp, niệm chú Thầy ba lần và lạy ba lạy, mỗi lạy bốn gật. Kế tiếp là tụng Di Lạc Chơn Kinh.
Tụng Kinh Di Lạc xong, chuyển sang làm phần thế đạo, hành lễ Cáo từ tổ và đọc bài kinh Tụng Cha Mẹ Đã Quy Liễu trước Bàn vong.
Hội Thánh sẽ hành lễ Tiểu tường, Đại tường, kỷ niệm hằng năm và xây bửu tháp.
(Quan Hôn Tang Lễ).
小 天 地
Tiểu: Nhỏ. Thiên địa: Trời đất.
Tiểu Thiên địa là Trời đất nhỏ, có ý chỉ một vùng đất trù phú, dân chúng sống lương thiện trong vòng đạo đức, như một Thiên đàng tại thế.
Tiểu Thiên địa hay Tiểu vũ trụ là một vũ trụ nhỏ, còn dùng để chỉ về con người.
Sở dĩ con người là một Vũ trụ nhỏ, là vì thân người cũng gồm đủ Thái cực, Âm dương, Tam bửu, Ngũ hành và các lẽ mầu nhiệm của Trời Đất, vì vậy mà sách Lễ Ký nói rằng: Nhơn giả kỳ vi Thiên địa chi đức, Âm dương chi giao, Quỷ thần chi hội, Ngũ hành chi tú khí dã 人 者 其 為 天 地 之 德, 陰 陽 之 交, 鬼 神 之 會, 五 行 之 秀 氣 也, nghĩa là người ta là đức Trời Đất, chỗ giao cảm khí Âm dương, chỗ hội tụ Quỷ thần, và những tú khí Ngũ hành.
Trời đất (Càn khôn) do Âm Dương sinh hoá thì con người cũng do Âm Dương phối hợp mà thành.
Hễ Trời có tam bửu là Nhựt Nguyệt Tinh, đất có tam bửu là Thuỷ hoả Phong, thì con người cũng có tam bửu là Tinh Khí Thần.
Hễ Trời có Ngũ hành là Kim, Mộc, Thuỷ, hoả, Thổ, Đất có Ngũ phương là Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung ương, thì người cũng có Ngũ tạng là Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận. Nếu không có ngũ hành và ngũ phương thì không có Càn khôn Thế giới, còn nếu không có ngũ tạng thì cũng không có nhơn loại.
Tóm lại, con người cũng giống như trời đất, cho nên mới được gọi là một “Tiểu Thiên Địa”.
Mà các con cũng đặng sum vầy một cửa, anh lớn em nhỏ một lòng một dạ, lấy Ðạo làm gốc mà lập nên một Tiểu Thiên Ðịa, há chẳng hơn giàu sang bốn biển sao?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
小 妾
Tiểu: Nhỏ. Thiếp: Người hầu.
Tiểu thiếp tức là người vợ nhỏ, vợ lẽ.
Tiểu thiếp còn là tiếng dùng cho người vợ hay người hầu tự xưng với chồng.
May tiểu thiếp biết hoà biết thuận,
An thân chồng đẹp xứng nợ duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Tiểu thư”.
Tiểu: Người còn nhỏ tuổi. Thơ (thư): Tiếng gọi người đàn bà, con gái.
Tiểu thơ, như chữ “Tiểu thư 小 姐”, là tiếng gọi chung những người đàn bà con gái nhà phú quý.
Như: Cô ấy là một tiểu thơ đài các.
Đợi chi gặp tiểu thơ mặt lọ,
Mới dằn lòng chẳng ngó cuộc truy hoan.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tiểu: Nhỏ. Thừa: Còn đọc “Thặng” là chiếc xe.
Tiểu Thừa hay Tiểu Thặng, do tiếng Phạn Mahayana, là chiếc xe nhỏ, chỉ chở được ít người.
Giáo pháp của Đức Phật ví như một cỗ xe chở được người tu hành đến bờ giác ngộ giải thoát. Giáo pháp nầy chia làm hai bực:
- Bực thấp dành để độ người hạ trí gọi là Tiểu Thừa.
- Bực cao dành để độ những người Thượng trí, gọi là Đại Thừa.
Do giáo pháp của Đức Phật Thích Ca chia làm hai bực, nên bên Phật giáo chia làm hai nhánh: Phật giáo Đại Thừa và Phật giáo Tiểu Thừa.
Phật giáo Tiểu Thừa ở miền Nam Ấn Độ, truyền sang Tích Lan,, qua Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên, Ai Lao và cũng truyền đến Việt Nam.
Vì vậy, Phật giáo Tiểu Thừa còn được gọi là Phật giáo Nam Tông.
Trong Đại Thừa Chơn Giáo có giải thích: Tiểu Thừa là Nhơn Ðạo. Người tu theo bực Tiểu Thừa phải chịu dấn thân vào khuôn khổ tôn giáo. Tiểu Thừa thì chỉ dạy về hữu hình. Con người giữ cho tròn theo giới luật đó tất cũng như mượn con đường hẹp ấy mà nương chơn đi lần đến con đường rộng lớn minh mông là Đại Thừa vậy.
Người mới tu, Ðạo hạnh phải giữ cho hoàn toàn trước về Nhơn Ðạo cho xong, rồi sau bèn học đến Thiên Ðạo là tầm cơ siêu thoát ra khỏi thế giới vật chất mà đến cõi thế giới tinh thần.
Người muốn làm Tiên, Phật, hay là các vị Tiên, Phật đã đại giác, đại ngộ, thành Ðạo đều phải tu từ bực Tiểu Thừa rồi mới đến Đại Thừa.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
1.- Tim là bộ phận thuộc hệ tuần hoàn ở giữa ngực, có chức năng điều khiển việc vận chuyển máu trong cơ thể. Như: Quả tim hơi thòng, tim đập mạnh.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào ngũ tạng lục phủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng, mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng.
Con bất hiếu xay cưa đốt giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
(Kinh Sám Hối).
2.- Tim còn dùng với nghĩa bóng là chỉ phần ở giữa.
Như: Bị ổ gà giữa tim đường, đêm qua đèn hết dầu nên lụn tim.
Ðừng cho ngoại vật lấn xen,
Tâm hồn mê muội như đèn lụn tim.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Ruột, gan, tâm, trí, lộn nhầu,
Tinh thần tiều tụy, đèn dầu lụn tim.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tìm là lùng, kiếm. Như: Tìm bạn, tìm thú vui.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển,Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Biết Thiên mạng, biết mình, biết chúng sanh, ấy là biết tìm ngọn đuốc sáng sủa, tôn chỉ thanh cao mà nâng mình khỏi nơi biển khổ vậy.
Ðường về chớ nệ bước non sông,
Lần đến tìm nơi cảnh bá tòng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Khổ đời muốn lánh gắng tìm phương,
Giành giựt đừng mong chác thế thường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tìm hiếu: Tìm người có lòng hiếu thảo. Truyền hiền: Trao ngai vàng cho người hiền.
Tìm hiếu truyền hiền là nói về việc vua Nghiêu nghe danh Thuấn là người con hiếu thảo với cha mẹ, hoà thuận với em út, xứng đáng là bậc hiền tài, bèn gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn, và truyền ngôi cho ông tiếp nối trị vì thiên hạ.
Xem: Nghiêu Thuấn.
Đế Nghiêu tìm hiếu truyền hiền,
Nương nơi gương ấy vẫn bền đạo con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tìm: Kiếm, cố làm sao cho thấy được. Kiếm: Tìm.
Tìm kiếm là tìm, cố làm sao cho thấy, cho có được.
Tìm kiếm còn có nghĩa là tìm tòi, tức bỏ nhiều công phu để thấy ra, nghĩ ra.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Than ôi! Ðã bước chân vào đường đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn, thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền Thánh giáo đâu?
Thương nhau tìm kiếm chừng nào gặp,
Công đức vẹn toàn sẽ hiệp ngôi.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Thương cho kẻ ngậm ngùi lỡ phận,
Tìm kiếm đôi lại vấn vương oan.
(Thất Nương Giáng Bút).
Tìm: Kiếm, cố làm sao cho thấy được. Lúa: Nói chung về loài ngũ cốc. Khoai: Cây có củ chứa nhiều bột.
Tìm lúa khoai là nói vua Thần Nông tìm được giống lúa khoai, dạy dân trồng trọt để làm lương thực.
Theo lịch sử, vua Thần Nông, vị vua thời Thượng cổ, có công dạy dân chúng đẽo gỗ, chế ra cày bừa để làm ruộng. Ngài lại có công lớn trong việc tìm các loại ngũ cốc, khoai củ, dạy dân trồng trọt để làm lương thực thời bấy giờ và mãi sau này.
Nhờ Viêm Đế đức cao ơn nặng,
Tìm lúa khoai người đặng no lòng.
(Kinh Sám Hối).
Tìm: Kiếm, cố làm sao cho thấy được.
Tìm tỏi, như chữ “Tìm tòi”, là bỏ nhiều công phu để thấy ra, nghĩ ra.
Như: Mãi tìm tỏi trong các sách cổ.
Chưa rõ nay còn tìm tỏi đến,
Ðến nơi cửa Phật biết rồi chưa?
(Đạo Sử).
Thuyền Bát nhã: Theo Phật, trí tuệ được ví như thuyền Bát nhã. Mê tân: Bến mê.
Tìm thuyền Bát nhã lánh mê tân, theo triết lý Phật giáo, con người muốn thoát khỏi bến mê thì phải có trí tuệ.
Trí tuệ được ví như chiếc thuyền Bát nhã đưa con người qua khỏi sông mê bể khổ.
Kẻ trí phải lo phương giải khổ,
Tìm thuyền Bát Nhã lánh mê tân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tìm vợ: Xuống Âm phủ để tìm vợ. Dâng dưa: Đội dưa dâng cho Diêm vương.
Tìm vợ dâng dưa ý nói dâng dưa cho vua Diêm vương để tìm kiếm vợ đã chết.
Do tích: Ngày xưa, vua Đường Thái Tông có du Địa phủ. Khi từ giã, vua Thái Tông có hứa về cõi Dương gian sẽ tặng dưa cho vua Thập Điện.
Vua tìm người đi dâng dưa, nên truyền treo bảng chọn người, thì có người tình nguyện xin đi. Người đó là Lưu Toàn quê ở Quận Châu, nhà giàu có. Ông có người vợ là Lý Thuý Liên, rút thoa để cúng nhà sư ở ngoài cổng, Lưu Toàn bắt được, cho vợ là mất nết, mắng chửi không tiếc lời, đến nỗi nàng tức giận treo cổ tự tử, bỏ lại hai đứa con còn khờ dại.
Lưu Toàn buồn rầu, gửi con lại, quyết xuống Âm phủ tìm vợ, nên lãnh nhiệm vụ dâng dưa cho vua Thập Điện. Hôm dâng dưa, Lưu Toàn đến Kim Đình quán, đầu đội quả dưa to, túi đựng tiền vàng, miệng ngậm thuốc độc. Giây lát, Lưu Toàn chết, linh hồn đội dưa xuống Âm phủ.
Sau khi dâng dưa xong, Lưu Toàn mới kể việc gia đình khổ sở, xin vua Thập Điện cho vợ là Lý Thuý Liên trở về Dương gian lo cho hai con còn khờ dại, Diêm Vương xét bộ tử, thấy nàng chưa tới số, bèn ưng thuận.
Quỷ sứ đưa hồn hai vợ chồng về cõi nhân gian, hồn Lưu Toàn nhập vào xác. Riêng Thuý Liên vì đã chết quá lâu, xác bị thúi nát, quỷ sứ được lịnh Diêm Vương cho nhập vào xác của Công chúa vua Đường là Lý Ngọc Anh vừa mới chết.
Xác Công chúa, nhưng hồn là Thuý Liên, nên khi tỉnh dậy, không nhận mình là Công chúa, xin nhà vua cho tái hiệp với chồng là Lưu Toàn. Vua Đường Thái Tông ưng thuận cho hai vợ chồng Lưu Toàn tái hiệp và ban thưởng hai người rất trọng hậu.
Nói chi tìm vợ dâng dưa,
Lẽ nào nói rượt theo vừa Hằng nga.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Tin là điều được truyền đi, báo đi cho biết về sự việc, tình hình xảy ra.
Như: Mong tin nhà, nhận được hung tin, mấy ngày qua có tin đồn nhảm về anh.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Lục Nương Diêu Trì Cung có câu: Khi mơi nầy, em đặng tin lành: Ngọc Hư lo chuyển pháp. Cả Thiên thơ huỷ phá, sửa cải pháp chơn truyền.
Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,
Phụng lầu gác quyển đợi hoà thinh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bỗng tiếng sấm gần bên tai nổ,
Nghe tin chàng mệnh số du Tiên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tin là chắc cho là thật, không ngờ vực. Như: Tin lời bạn, tin dị đoan, tin bụng nhau.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nay tuy các con chẳng thấy đặng hành vi mầu nhiệm mà chính mình Thầy đã đến nói, các con cũng nên tin nơi Thầy mà cho rằng lời Thầy dạy là chơn thật.
Lững đững lờ đờ chưa quyết đoán,
Tin Trời tin Phật trước tin mình.
(Đạo Sử).
Tin: Cho là có thật, tin tưởng. Cậy: Nhờ, nương.
Tin cậy là tin tới mức có thể dựa hẳn vào, trông cậy vào. Như: Được anh em tin cậy, cửa hàng đáng tin cậy.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Từ nền Ðạo khai sáng đặng gieo truyền mối Chánh giáo đến nay, thì phần nhiều môn đệ đã có trọn tấc thành mà dìu dắt sanh linh và đắp vun mối Ðạo Trời, ấy là những đứa Thầy đã tin cậy đặng gia công dọn lối chông gai để mở trống nẻo thiêng liêng, dẫn lần dân sanh khỏi sông mê bến khổ, tất là cõi trần vô vị nầy.
Anh em bằng hữu kết nguyền,
Một lòng tin cậy phải kiêng phải vì.
(Kinh Sám Hối).
Tin: Việc báo cho mọi người cùng biết. Én: Yến, loài chim nhỏ lông đen, cánh dài và nhọn, chân bay nhanh.
Tin én là tin của chim én đưa đến, chỉ thư từ, tin tức.
Tin én đồng nghĩa với tin nhạn.
Lạnh lùng ngóng dạng mù tin én,
Biền biệt trông chừng bặt cánh mai.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Tin: Điều được truyền đi cho biết tình hình. Nhàn: Tức chim nhạn. Hồng: Chim hồng, tức ngỗng trời, một loại chim ở nước.
Tin hồng, đồng nghĩa với chữ “Tin nhạn”.
Hồng và nhạn là những loài chim bay cao xa, có thể mang thư để truyền báo tin tức.
Do vậy, “Tin hồng” dùng để chỉ thư từ, tin tức.
Xem: Tin nhạn.
Ngày vắng đìu hiu chờ bóng nhạn,
Đêm buồn quạnh quẽ đợi tin hồng.
(Thơ Thiên Vân).
Tin: Điều được truyền đi cho biết tình hình. Mai: Hoa mai.
Tin mai là tặng cành hoa mai để đưa tin.
Do tích trong Kinh Châu Ký: Lục Khải ở Giang Nam gửi tặng bạn là Phạm Hoa một cành hoa mai cùng với một bài thơ như sau: Chiết mai phùng dịch sứ, Ký dữ Lũng Đầu nhân. Giang Nam hà sở hữu, Liêu tặng nhất chi xuân 折 梅 逢 驛 使, 寄 與 隴 頭 人. 江 南 何 所 有, 聊 贈 一 枝 春, nghĩa là bẻ cành hoa mai gặp phu trạm, gửi cho người đất Lũng Đầu. Giang Nam nơi nào cũng có, Nhờ gửi tặng một cành hoa xuân.
Xem: Dịch xuân.
Để thảm xuân đường như ác xế,
Gieo thương lữ khách nhóng tin mai.
(Thơ Hộ Pháp).
Lờ mờ non nước rước tin mai,
Ửng ửng phương đông rỡ mặt mày.
(Thơ Thuần Đức).
Tin: Điều được truyền đi cho biết tình hình. Nhàn: Tức chim nhạn.
Tin nhàn, như chữ “Nhạn tín 雁 信”, là do tích Tô Võ gửi thư nhờ chim bay mang đi.
Tin nhàn, hay “Tin nhạn” dùng để chỉ tin tức, thư từ.
Xem: Tin nhạn.
Năm canh gối điệp hồn dờ dật,
Mấy độ tin nhàn dạ xác xao.
(Thơ Thuần Đức).
Tin: Điều được truyền đi cho biết tình hình. Nhạn: Chim nhạn.
Tin nhạn, như chữ “Nhạn tín 雁 信”, nghĩa là thư từ, tin tức do chim nhạn mang đến.
Tô Võ đời Hán bị Hung Nô bắt giam hơn mười chín năm, viết một lá thư buộc vào chân chim nhạn, thả bay đi. Vua Hán bắt được thư Tô Võ, mới biết ông đang bị giam cầm. Vì vậy, chữ nhạn tín dùng để chỉ về thư từ, hay tin tức, ta dịch là “Tin nhạn”.
Tin nhạn xuân đưa trải giấy trời,
Khuôn hồng thấm thía khắp nơi nơi.
(Lục Nương Giáng Bút).
Chừ bao tin nhạn đưa vui đến,
Lá rụng đầy sân, Đạo trổ mòi.
(Bát Nương Giáng Bút).
Trông tin nhạn về đông mòn mỏi,
Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tin: Việc báo cho mọi người biết. Nhắn: Gửi tin đến người nào đó hoặc vật gì đó để chuyển hộ.
Tin nhắn là tin được truyền đi bằng cách nhờ người hoặc vật gì đó chuyển đến.
Như: Tin nhắn do anh ấy mang đến, chim nhạn mang tin nhắn của bạn từ Mỹ đến, tin nhắn từ điện thoại.
Đêm chầy nghe đã tàn canh,
Vừng đông tin nhắn đất lành tự do.
(Xuân Hương Giáng Bút).
Tin: Việc báo cho mọi người biết. Sương: Hơi nước ngưng tụ lại thành hạt nhỏ.
Tin sương, như chữ “Sương tín 霜 信”, tin báo có sương xuống, hoặc nhận tin tức.
Theo Cổ Kim Thi Thoại, chim bạch nhạn (nhạn trắng) ở phương bắc bé hơn chim nhạn thường, mỗi khi chim này bay đến thì đúng vào mùa sương rơi, nên gọi là sương tín.
Vì vậy, các chữ tin sương, tin nhạn đều dùng để nói về tin tức.
Thương nỗi kẻ hằng ngày trông bóng,
Đợi người thương những ngóng tin sương.
(Thất Nương Giáng Bút).
Tin: Cho là có thật. Tưởng: Nghĩ, nghĩ tới.
Tin tưởng là đem lòng tin chắc đặt vào một sự việc. Như: Tin tưởng việc sẽ thành công.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Từ đây phải tin tưởng một Thầy và nghe lời Thầy dặn, giữ đạo đức cho bền, còn ngoại trừ sự chi nghịch với Chơn đạo thì là mưu chước Tà quái.
Nhờ tin tưởng Cao Ðài có một,
Ẩn mình trong then chốt của Thầy.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Lòng tu quả quyết bền tin tưởng,
Người đạo đương nhiên hưởng cát tường.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Tin: Báo cho biết việc gì. Xuân: Mùa xuân.
Tin xuân là tin báo mùa xuân đến.
Mùa xuân là mùa của tình yêu nên “Tin xuân” cũng có nghĩa là tin mừng về tình yêu.
Tươi thắm non sông khắp đượm nhuần,
Muôn hồng nghìn tía báo tin xuân.
(Thơ Huệ Giác).
信
1.- Tín là tin thực, không gian dối.
Tín còn có nghĩa là tin, không ngờ vực.
Trong Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có đoạn dạy: Trẻ thơ chưa biết tội lỗi, chưa biết dị đoan. Đó là lúc nên bắt đầu un đúc đức tin của chúng về đường chánh tín.
Phận làm tớ thật thà trung tín,
Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.
(Kinh Sám Hối).
Hậu lai mạc tín đa phi thị,
Hữu ngoại thành tâm tái vận cung.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2. Tín là tin tức.
Như: Nó đã đi biệt vô âm tín, vừa nhận được thảm tín từ đứa học trò đưa đến.
Các chỗ ấy dẫy tràn thảm tín,
Càng ở gần khó nhín sầu than.
(Nữ Trung Tùng Phận).
信 徒
Tín: Tin tưởng. Đồ: Người theo học.
Tín đồ là người tin theo một tôn giáo và gia nhập vào tôn giáo ấy.
Muốn làm tín đồ đạo Cao Đài, thì phải minh thệ, làm lễ nhập môn và sau đó lo tu hành lễ bái, giữ chay lạt, gìn giới luật.
Theo Tân Luật, có hai hạng tín đồ: Một hạng còn ở thế làm ăn, chỉ giữ thế luật, ngũ giới cấm và ăn chay từ sáu ngày đến mười ngày; Còn hạng kia vào phẩm thượng thừa, giữ ngũ giới cấm, tứ đại điều quy và trường chay, giới sát.
Băm ba năm Đạo rày nên mặt,
Mấy triệu tín đồ hiện rỡ danh.
(Bảo Văn Pháp Quân).
Duyên may khách gội ơn Từ Phụ,
Nước cũ ngày thêm số tín đồ.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
信 友
Tín: Tin tưởng. Hữu: Bè bạn.
Tín hữu là người bạn tin tưởng cùng một tôn giáo, ý chỉ người bạn Đạo.
Tín hữu còn có nghĩa như tín đồ, đạo hữu.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người ngoài xã hội có quyền xảo quyệt, giả dối đê hèn để mưu cầu quyền lợi. Người tu hành phải thành thật, ngay thẳng, trước là tự thành thật với mình, rồi mới có thể thành thật đối với bạn đạo và tín hữu.
Trấn Đạo vẻ vang nhờ tín hữu,
Thuần phong tô điểm sẵn Nho gia.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Tín hữu mong vô được Hoán Đàn,
Đẩy xô gãy bảng, cãi la vang.
(Thơ Chơn Tâm).
信 仰
Tín: Tin tưởng. Ngưỡng: Ngửa mặt trông lên, dùng để tỏ ý cung kính.
Tín ngưỡng là tỏ ý kính trọng, hâm mộ, hoặc tin theo một tôn giáo nào đó.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy quyết lấy đức háo sanh mở Ðạo, cứu rỗi sanh linh cho kịp trước kỳ Hạ nguơn nầy, nhưng Ðạo chẳng hoàn toàn, con đường đi chưa cùng bước, là vì tại nơi lòng nhiều đứa chưa để hết tín ngưỡng mà nghe lời Thánh giáo, cho nên lần hồi, nền Ðạo phải ra tan tành manh mún.
Phải ráng hết lòng mà tín ngưỡng,
Chớ đừng cười giỡn chạy lăng xăng.
(Thánh Giáo Minh Thiện).
Hoà cả tinh thần hoà tín ngưỡng,
Ngưỡng mong Thầy mở Hội Long Hoa.
(Thơ Bảo Pháp).
信 義
Tín: Tin tưởng. Nghĩa: Đạo phải.
Tín nghĩa là đức tính của người biết trọng lời hứa, trọng đạo nghĩa trong quan hệ với người khác.
Như: Đạo bạn bè lấy tín nghĩa làm trọng.
Bầu bạn lỗi câu tín nghĩa, vợ chồng quên đạo tào khương; mãng vụ chữ kim thời mà phong dời tục đổi.
(Lời Tựa Thánh Ngôn).
信 誠
Tín: Tin, đức tin, không gian dối. Thành: Chân thực.
Tín thành là tin tưởng trong lòng một cách thành thật.
Tín thành, như chữ “Thành tín”, là thực lòng giữ lời nói, không dối trá.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thành thử chúng ta phải dọn mình cho xứng đáng để phát ra lời cầu nguyện, tức là người cầu nguyện phải trong sạch, đạo tâm đầy đủ và hết sức tín thành thì lời cầu nguyện mới có hiệu quả.
Các Ðấng thiêng liêng xưa kia khổ hạnh, công cán thế nào mới được về ngôi cao phẩm quý, há chẳng phải là gương tín thành đáng noi dấu hay sao?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Tinh 精 là sạch, trắng, không bẩn, không tạp. Như: Tinh sạch, gạo trắng tinh.
Thánh giáo Thầy có câu: Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào ngũ tạng lục phủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng, mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng.
Kiểng vật thường tưới nước cho tươi,
Có cây cối thở hơi tinh khiết.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tinh 精 là kỹ, mầu, rành, rõ.
Như: Học phải cho tinh, tinh mắt, tinh binh, tinh nhuệ, tinh tường, tinh thông.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Tinh 精 là tinh dịch, tức một chất lỏng ở trong loài vật đực tiết ra.
Như: Tinh cha huyết mẹ, tinh trùng, tinh khí.
Hễ trông con ơn nghĩa vẹn gìn,
Nhớ pha lẫn máu tinh nhồi nắn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ngày ăn hai bữa nuôi tinh huyết,
Đêm ngủ ba canh dưỡng khí thần.
(Thơ Hộ Pháp).
4.- Tinh 精 là loài yêu quái. Như: Yêu tinh, tà tinh, tà thần tinh quái.
Thánh giáo Thầy có câu: Những kẻ nào đã làm môn đệ của Tà Thần Tinh Quái thì không thế gì làm môn đệ Thầy đặng.
Lấy mắt thiêng liêng xem Thánh Ðạo,
Ðừng ngờ ngoài ngõ đón yêu tinh.
(Đạo Sử).
Một làn ác khí bao ràng rịt,
Muôn xác tinh ma nhảy dập dìu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
5.- Tinh 星 là ngôi sao. Như: Tinh tú, tinh đẩu, tinh kỳ, tinh cầu.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Ðại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Ðịa và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh Tú.
Kim quang đắc kiếp tu tâm thiện,
Tinh đẩu nan tri ngã độ thành.
(Lý Giáo Tông).
精 英
Tinh: Vật đã loại bỏ những cái thô tạp, xấu xa, giữ lại phần tốt đẹp nhất. Anh: Phần tinh tuý nhứt.
Tinh anh là cái phần tốt đẹp, thuần tuý.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: “Kiều rằng những đấng tài hoa,Thác là thể phách, còn là tinh anh”.
Một bóng luống chờ ngày tái ngộ,
Chơn thần gìn đặng vẹn tinh anh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cao khiết đề danh lầu thượng uyển,
Tinh anh thọ sắc Đấng Hồng Quân.
(Quỳnh Hoa Tiên Nữ).
精 葩
Tinh: Vật đã loại bỏ những cái thô tạp, xấu xa, giữ lại phần tốt đẹp nhất. Ba: Hoa, bông.
Tinh ba, đồng nghĩa với “Tinh hoa 精 華” là cái chỗ thuần tuý tốt đẹp nhất của sự vật.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là một nền Quốc Ðạo được khai sáng trên đất Nam Phần Việt Nam, nơi mà tinh ba của đất nước đã nung đúc biết bao bậc anh phong chí sĩ, lẽ tất nhiên là Ðại Ðạo có phận sự bảo tồn quốc tuý, giữ cho còn mãi những cái hay, cái đẹp riêng biệt của nước nhà hầu lưu truyền cho đời sau roi dấu.
Xem: Tinh hoa.
Tinh ba đất Việt trời roi để,
Nghiệp cả càng cao chốn vũ đài.
(Thơ Huệ Giác).
Nâng đỡ Càn khôn há gọi già,
Thay quyền Nhựt nguyệt tạo tinh ba.
(Thơ Tiếp Đạo).
星 斗
Tinh: Sao. Đẩu: Sao Bắc Đẩu.
Tinh Đẩu là ngôi sao Bắc Đẩu, là một ngôi sao sáng nằm ở phương bắc.
Thành ngữ Việt Hán có câu: “Tinh di đẩu chuyển 星 移 斗 轉”, nghĩa là sao dời, Bắc Đẩu chuyển, chỉ trời sắp sáng.
Xem: Bắc Đẩu.
Nọ non Tiên, nầy cảnh Phật,
những ngỡ toà tinh đẩu đưa về.
Kìa quán gió, ấy cầu mây,
Chẳng khác chốn Bồng Lai đưa lại.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Tình cuộn sông Ngân, tinh đẩu rạng,
Nhịp xây cầu quạ, ái ân dầy.
(Thơ Thuần Đức).
Tinh: Rõ ràng, sáng suốt, rành rọt. Đời: Cuộc đời, việc đời.
Tinh đời chỉ người tinh trong việc nhận xét, đánh giá việc đời hay con người.
Như: Anh ấy có cặp mắt tinh đời.
Mắt tinh đời độ khách dân, quan,
Hèn sang cũng bạn hàng đồng thể.
(Phương Tu Đại Đạo).
精 華
Tinh: Thuần tuý, không lẫn lộn chất khác. Hoa: Rực rỡ, tốt đẹp.
Tinh hoa là phần tốt đẹp nhứt và cao quý nhứt của một người hay một vật.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Những bậc vĩ nhân ấy là cái tinh hoa của trời đất để làm gương mẫu cho đời. Cái chí lập quốc cứu dân của họ sánh với bực Thần Tiên, mồi danh bả lợi không lay chuyển được.
Sự kiến trúc tinh hoa vĩ đại,
Gồm Cửu Trùng, Bát Quái, Hiệp Thiên.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Ngòi bút tinh hoa còn tạc nét,
Câu thơ toàn bích, mãi lưu vần.
(Thơ Huệ Ngàn).
Ngũ Giáo đồng nguyên vọng bửu toà,
Kỳ truyền thống hợp lọc tinh hoa.
(Thơ Huệ Phong).
精 血
Tinh: Một chất trong cơ thể có tinh trùng giúp người đàn ông có con. Huyết: Máu huyết.
Tinh huyết là hai chất do cha mẹ tạo nên thai bào, gọi là tinh cha huyết mẹ, cũng là hai chất quan trọng nuôi dưỡng cơ thể con người.
Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Ái là yêu, ố là ghét. Hễ thuận tình trìu mến, khoái sự ái ân thì mê thì thích mà yêu. Còn nghịch chỗ muốn ham, trái lòng thèm muốn, lại đố, lại ganh mà ghét. Bị vậy tinh huyết, thần lực mới chóng giảm suy.
Ngày ăn hai bữa nuôi tinh huyết,
Đêm ngủ ba canh dưỡng khí thần.
(Thơ Hộ Pháp).
Niệm kinh Cứu Khổ nuôi tinh huyết,
Lần chuỗi Di Đà trụ khí thần.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Tinh 精: Loài yêu quái. Yêu: Tinh yêu, như chữ “Yêu tinh 妖 精”, là loài ma quỷ có hình thù quái dị, nhiều yêu thuật và hung ác.
Như: Bà ấy có tánh độc ác như loài yêu tinh.
Chết rồi mới hoá tinh yêu,
Không nơi nương dựa máng điều tai ương
(Đại Thừa Chơn Giáo).
精 氣 神
Tinh, Khí, Thần là ba món báu của con người được gọi chung là Tam Bửu.
TINH: Là một chất nước rất tinh anh của nhục thể. Nhờ có tinh, con người mới có sức lực, tạo ra nòi giống, và nhứt là người tu nếu biết bảo tinh thì có thể tạo ra đệ nhị xác thân hay tượng hình Linh thể đắc Đạo.
Vật thực như ngũ cốc, hoa quả nuôi sống con người bằng cách sinh tinh hoá huyết. Nếu vì tư tưởng dục tình, tinh bị trót lọt ra ngoài theo dòng thuận chuyển để nảy sanh nòi giống; còn nếu tinh chưa bị dục niệm thì là phần trong sạch gọi là nguơn tinh, người tu sẽ luyện nguơn tinh theo nghịch chuyển để hoá ra khí rồi hiệp với thần mà ngưng kết thành nhị xác thân.
Nói cách khác, tinh là hình hài, thể xác của con người được tượng trưng bằng hoa.
KHÍ: Là chất sinh để bảo tồn sự sống, gọi là sinh khí, cũng là nguồn sinh lực của con người. Nguyên khí này nếu ở ngoài là thanh khí, thuộc khí tiên thiên từ khí hư vô của Trời đất, qua sự hô hấp, đi vào phổi để lưu thông huyết mạch, nên khí này bị nhiễm lấy vật chất xác phàm mà hoá ra khí hậu thiên, đó là trược khí. Hễ khí này mạnh thì thân thể cường tráng, hễ khí yếu thì thân thể suy nhược.
Khí là Chơn thần của con người, được tượng trưng bằng ruợu.
THẦN: Là phần chủ tể của con người, là điểm linh của Trời phú cho mà Đạo Cao Đài gọi là Tiểu linh quang hay Thiên tánh. Thần cũng là phần rất thiêng liêng, cai quản phần trí não, là linh hồn của con người mà bên Phật gọi Bản lai diện mục, Chơn như Phật tánh. Thần thường ở tại mắt (Thần cư tại nhãn), chính vì thế mà người tu luyện cao thâm, đôi mắt rất tinh anh và sáng quắc.
Thần là Chơn linh của con người được tượng trưng bằng trà.
Theo Đạo học, Tinh của hậu thiên nhờ khí tiên thiên đủ mà sinh tinh, bởi khí có thể hoá thuỷ. Khí tiên thiên nhờ Tinh hậu thiên thịnh mà dưỡng khí, bởi tinh có thể hoá khí. Thần hậu thiên nhờ khí tiên thiên sung mà nuôi thần, bởi khí tiên thiên có thể hoá thần. Như vậy, người tu phải bảo tinh, dưỡng khí, và tồn thần.
Tóm lại, người tu hành muốn được siêu phàm nhập Thánh thì phải biết luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần, luyện Thần huờn hư, tức là luyện ba báu đó hiệp lại làm một điểm linh quang rồi hiệp một với khối Đại linh quang của Tạo Hoá mà đắc Đạo.
Người luyện Đạo phải ăn chay để tinh huyết trong sạch, như lời Đức Chí Tôn đã giải thích: “Mỗi kẻ phàm dưới thế này đều có hai xác thân, một phàm gọi là Corporel, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel, mà cái thiêng liêng đó do cái xác phàm mà ra, nên gọi là bán hữu hình vì nó có thể thấy đặng. Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh Khí Thần mà luyện thành, nó nhẹ nhàng hơn không khí, nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập.
Còn khi đắc Đạo mà có Tinh Khí không có Thần thì không thể nhập mà hằng sống đặng. Còn có Thần mà không có Tinh Khí thì khó huờn đặng nhị xác thân. Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng. Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên thiên, mà trong khí Tiên thiên thì hằng có điển quang. Cái Chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch mới nhẹ nhàng hơn không khí, ra khỏi ngoài Càn khôn đặng, nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất Thánh Tiên Phật đặng. Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất chơn thần tinh khiết. Nếu các con còn ăn mặn luyện Đạo, rủi có ấn chứng thì làm sao giải tán cho đặng, rủi bị huờn thì đến khi đắc Đạo cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật chất tiếp điển thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn
như biết khôn ẩn nấp tại thế, mà làm một bậc nhơn Tiên thì kiếp đoạ trần cũng chưa mãn. Vậy Thầy buộc các con trường trai mới luyện Đạo đặng”.
Nhập định luyện Tinh Khí Thần,
Thành gươm đoạn tuyệt lục trần huờn hư.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
Hình Toà Thánh tượng trưng Tam Bảo,
Tinh, Khí, Thần Cơ Đạo hiển nhiên.
(Lược Thuật Toà Thánh).
精 潔
Tinh: Sạch, trắng, không pha lẫn. Khiết: Trong sạch.
Tinh khiết là trong sạch, không pha lẫn chất tạp vào.
Thánh giáo Thầy có câu: Trước khi thủ cơ hay là chấp bút, thì phải thay y phục cho sạch sẽ, trang hoàng, tắm gội cho tinh khiết, rồi mới đặng đến trước bửu điện mà hành sự, chớ nên thiếu sót mà thất lễ.
Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết,
Hai dạy răn cho biết tội tình.
(Kinh Thế Đạo).
Kiểng vật thường tưới nước cho tươi,
Có cây cối thở hơi tinh khiết.
(Phương Tu Đại Đạo).
精 魔
Tinh: Quỷ quái, yêu tinh. Ma: Ma quỷ, làm ngăn trở và phá hoại.
Tinh ma là yêu tinh và ma quỷ, là những loài mà theo truyền thuyết do người chết biến hình hiện ra.
Tinh ma còn dùng để chỉ người có tính ranh mãnh xảo quyệt.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông có dạy: Hiền hữu đã lãnh trách nhiệm nặng nề giáo hoá thì khá dạy sanh chúng biết lẽ Chánh Tà mà toan độ rỗi, còn mưu chước của Quỷ quái tinh ma là mưu của Lão để phân biệt chơn giả, vàng thau, cho phẩm giá trọng khinh.
Bớt phương giải nạn tinh ma,
Lập nên danh phận cho nhà quỷ tăng.
(Lục Nương Giáng Bút).
Một làn ác khí bao ràng rịt,
Muôn xác tinh ma nhảy dập dìu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
精 怪
Tinh: Yêu tinh. Quái: Quỷ quái.
Tinh quái là loài yêu tinh quỷ quái, chỉ những âm hồn thuộc quỷ vị chuyên phá khuấy người tu.
Tinh quái còn dùng để chỉ người có tính ranh mãnh, xảo quyệt.
Thầy có dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Ðạo cốt để cho kẻ hữu duyên. Những kẻ nào đã làm môn đệ của Tà Thần Tinh quái thì không thế gì làm môn đệ Thầy đặng.
Ma thịt quỷ hồn chôn xác chết,
Tà thần tinh quái nuốt xương tan.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Tinh: Loài yêu quái, dùng để ví với kẻ lão luyện đến mức xảo quyệt, ranh mãnh. Ranh: Tinh ma.
Tinh ranh là tinh khôn và có vẻ láu lỉnh, ranh mãnh. Như: Cáo là loài vật tinh ranh.
Giáo lý mà một vài đồng bào của con đã giải thích xuyên tạc dưới một hình thức tinh ranh.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tinh: Chỉ có một thứ, một loại, không xen lẫn thứ khác, loại khác. Sạch: Không dơ, không bụi bặm.
Tinh sạch là sạch sẽ, không xen lẫn tạp chất.
Thánh giáo Chí Tôn có câu: Hình chất con người vẫn là thú, phải ăn uống mới nuôi sự sống. Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào ngũ tạng lục phủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng, mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng.
Thân thể dạy giữ gìn tinh sạch,
Thường thuốc men cho huyết mạch điều hoà.
(Phương Tu Đại Đạo).
星 霜
Tinh: Ngôi sao. Sương: Mù sương.
1.- Tinh sương dùng để chỉ một năm, bởi vì mỗi năm ngôi sao đi quanh trời một vòng và sương hằng năm gặp tiết lạnh thì rơi xuống.
Thời gian thấm thoát mấy tinh sương,
Mới đó mà nay lễ Đại tường.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Mới tựu trường đây kế bãi trường,
Sáu trăng thấm thoát mấy tinh sương.
(Thơ Chơn Tâm).
2.- Ngoài ra, tinh sương còn dùng để chỉ trời còn sớm, lúc sao chưa tắt, và trời còn rơi sương.
Như: Mới sáng tinh sương, nó đã đi rồi.
Một sáng tinh sương viếng núi Bà,
Thợ trời khéo tạo cảnh tinh hoa.
(Thơ Thành Toại).
Tinh: Tinh thuần, không xen tạp. Tấn (tiến): Thẳng tới, không do dự, gián đoạn hay thối bước.
Tinh tấn là tinh chuyên, tinh thuần không xen tạp, tức siêng năng chuyên cần, kiên tâm nhứt chí làm các việc lành mà không để các ô nhiễm chi phối làm lệch lạc chí hướng,, thối lui trên đường cầu đạo giải thoát.
Thánh giáo Thầy dạy: Phải có một Chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền diệu, phải trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tành chí Thánh, Tiên, Phật, mới phò cơ dạy đạo cả chúng sanh.
Nâng chén Trường sanh Vương Mẫu tặng,
Chơn thần tinh tấn phúc ân dành.
(Thơ Hàn Sinh).
精 進
Tinh: Tinh thuần, không xen tạp. Tiến: Thẳng tới, không do dự, gián đoạn hay thối bước.
Tinh tiến là siêng năng chuyên cần và kiên tâm làm các việc lành mà không để cho các ô nhiễm chi phối làm lệch lạc chí hướng, thối lui trên đường cầu đạo giải thoát.
Và cuộc thế vần xoay ngày mấy buổi,
Trọn đường trần tinh tiến mãi lòng son.
(Thơ Võ Văn Thành).
星 宿
Tinh: Ngôi sao. Tú: Nhị thập bát tú là hai mươi tám ngôi sao.
Tinh tú là các vì sao trên Trời.
Tinh tú còn dùng để chỉ các vị Tinh quân, hay các vị Thần cai quản các ngôi sao.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Ðại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Ðịa và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh Tú.
Thiên cung: Tinh Tú, Thánh, Tiên,
Địa kỳ: Thần Tướng đàn tiền giáng lâm.
(Xưng Tụng Công Đức).
精 神
Tinh: Thuộc về phần linh hồn, trái với vật chất. Thần: Phần thiêng liêng của con người.
Tinh thần là những thứ thuộc về tình cảm, phần linh hồn. Tinh thần trái với thể xác, vật chất.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Năm Đinh Dậu hầu mãn, Xuân Mậu Tuất sắp đến, ngày tháng như thoi đưa, không mấy hôm nữa chúng ta sẽ bước qua mùa xuân vui tươi đẹp đẽ, để cho đời và Đạo phấn khởi trên đường tiến triển về hình thức lẫn tinh thần.
Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết,
Hai dạy răn cho biết tội tình.
(Kinh Thế Đạo).
Mai là cốt cách liễu tinh thần,
Thi thiệt hồn mai tuyết ấy trần.
(Đạo Sử).
Phường tục ngỡ lần về vật chất,
Bồng Lai dầu mộng đến tinh thần.
(Lục Nương Giáng Bút).
精 通
Tinh: Rõ ràng, rành, sáng. Thông: Suốt.
Tinh thông là rành rọt và thông thạo, tức là hiểu biết tường tận, thấu đáo và có khả năng vận dụng một cách thành thạo.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy về cơ bút có câu: Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho thần con bất định một lát, cho thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết. Ấy là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt, mới thấu đáo Càn khôn, tinh thông vạn vật đặng.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
精 忠
Tinh: Chân thành, tốt đẹp. Trung: Hết lòng với vua với nước.
Tinh trung là lòng trung thành và ngay thẳng với vua, với nước.
Đức Quan Thánh Đế Quân được người đời tôn xưng là bậc “Trung can nghĩ khí”, nên được phụng thờ với hai câu liễn như sau: Tinh trung huyền nhựt nguyệt, Nghĩa khí quán Càn không 精 忠 懸 日 月, 義 氣 貫 乾 坤.
Xem: Nhạc Phi.
Tinh trung Bình Định còn nhen lửa,
Khí hiển Đồng Nai phưởng phất hồn.
(Thơ Hộ Pháp).
Lửa thét tinh trung gương vẫn tạc,
Gươm đề khí liệt tiếng còn bêu.
(Thơ Tiếp Đạo).
Ngọn lửa tinh trung định Nguyễn Trào,
Nam Bang gầy dựng lắm công lao.
(Thơ Tiếp Đạo).
Tinh trung: Lòng trung thành và ngay thẳng với vua, với nước.
Tinh trung hai chữ là hai chữ “Tinh trung 精 忠” mà vua nhà Tống ban cho Nhạc Phi.
Nhạc Phi là người đời Tống, hiệu là Bàng Cử, sanh ở huyện Thang Âm. Vào đời Tống Cao Tông, ông đậu võ trạng, được cầm binh đi đánh giặc Kim, đánh thắng nhiều trận, lập công to, được vua ban cho một lá cờ thêu hai chữ “Tinh trung 精 忠”.
Xem: Nhạc Phi.
Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,
Vạch lưng con viết chữ để dành.
(Nữ Trung Tùng Phận).
精 衛
Tinh vệ là một loại chim nhỏ ở bờ biển, hình giống chim quạ, chân đỏ mỏ trắng, thường ngậm gỗ đá ở núi Tây Sơn về lấp biển Đông Hải.
Tương truyền: Con gái vua Viêm Đế ngày xưa vượt biển chết chìm, hoá ra chim tinh vệ, cứ ngày ngày ngậm đá ở núi tây về lấp biển đông cho hả cơn giận.
Sách còn nói là “Tinh vệ hàm thạch 精 衛 啣 石”, nghĩa là chim tinh vệ ngậm đá.
Nghĩa bóng: Chỉ người tức giận hay người có chí kiên nhẫn.
Còn tinh vệ lấp phiền biển ái,
Đòi trả chồng hà hải sóng chôn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Kiếp ngựa trâu Việt chủng vận kêu gào,
Đá tinh vệ chừ bao cho lấp bể.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Nặng kiếp đỗ quyên còn cũng tủi,
Hoá thân tinh vệ thác không sờn.
(Thơ Đào Công).
精 微
Tinh: Không xen lẫn, pha tạp. Vi: Nhỏ nhặt.
Tinh vi là tỉ mỉ, như máy móc được cấu tạo bởi những chi tiết nhỏ phức tạp, và có độ chính xác cao.
Tinh vi còn có nghĩa là tinh tế, có nội dung hoặc hình thức biểu hiện hết sức phức tạp, kín đáo, khó mà nhận ra.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Người tu hành đầy đủ đạo đức thì Khí thể của họ nhẹ nhàng trong sạch, sợi từ khí ấy lại được tinh vi, nên khi thoát xác phàm, sợi từ khí bứt ra rất dễ, nên liễu trần một cách êm ái.
Sen Trắng vóc tinh vi đảnh Hớn,
Nêu tiết trong soi sáng tài hoa.
(Bát Nương Giáng Bút).
1.- Tính là đếm hoặc thực hiện phép tính mà tìm số kết quả mình muốn biết.
Như: Tính chia, tính cộng, tính ngày tính tháng, tính ngày lấy công, tính lỗ tính lời.
Lừa lọc cho cùng rồi nhứt định,
Ðừng quen tính một chẳng dè hai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tính niên rồi lại tủi thầm,
Con đường Cực Lạc biết tầm sao ra.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nhớ những vật người ta ưng bụng,
Tính tiền bằng cho đúng kỳ giao.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tính là trù nghĩ, lo liệu. Như: Lo công tính việc, tính một đường ra một nẻo.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy đã hằng ngày nói với con rằng: Muôn việc chi Thầy đã bố hoá vào lòng con, như con tính điều chi, tức Thầy đã định rồi.
Mơ màng chưa khỏi lụy phồn hoa,
Chưa biết nên thân tính sắm nhà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lo lường cho rõ thấu Thiên cơ,
Biết đặng thì tua tính kịp giờ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Sống thác từ xưa đã có chừng,
Nơi trần mãn tính trọn nhơn luân.
(Đạo Sử).
3.- Tính 性 hay “Tánh”, là cái bản nhiên của Trời phú cho con người. Như: Tính thiện, tính ác, tính lành.
Thánh giáo Thầy có dạy: Tu là chi? Tu là trau giồi đức tính cho nên hiền, thuận theo ý Trời định trước.
Tính cha đã thông minh mẫn đạt,
Con chắc là bác lãm quần thi.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tính 性 (tánh): Thói, nết. Nết: Thói quen, tính hạnh bày ra ở thói ăn, cách ở.
Tính (tánh) nết, như chữ “Tính hạnh 性 行”, là tính tình và nết na của người trong sự cư xử với người và việc.
Như: Tính nết hiền lành, tính nết thằng bé dễ thương.
Đừng theo tính nết ả Hằng,
Đêm khuya bán nguyệt trốn chồng cung trăng.
(Bát Nương Giáng Bút).
Giữ tính nết nói ăn một đọi,
Sự ở đời gấm gói nhớ từ điều.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tính: Suy nghĩ, cân nhắc để tìm cách giải quyết. Toán: Phép tính.
1.- Tính toán là làm các phép tính để biết, để thấy được kết quả là bao nhiêu.
Như: Tính toán sổ sách của công ty.
Tập quen vui nhắm nguyệt xem hoa,
Ghẹo tính toán cho ra cách trí.
(Phương Tu Đại Đạo).
Chừng coi mòi thuộc hết chữ vần,
Đọc chữ đặng dạy lần tính toán.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tính toán còn có nghĩa là suy tính cân nhắc trước khi làm việc.
Nói về ngày Tết Cổ truyền Việt Nam, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngoài ra, người ta chúc lành cho thân quyến, bạn bè và đi đến Chùa, Miếu, Ðền thờ để cầu phúc cho gia tộc, rồi thì tính toán đường lối xoay trở trong nghề nghiệp để thi thố cho có kết quả tốt đẹp, khi bắt tay vào công việc sẽ tới.
Ở trần thế phẩm người nhiều hạng,
Phải trí mưu tính toán liệu vừa đôi.
(Phương Tu Đại Đạo).
So tính: So đo tính toán một cách chi ly. Thiệt hơn: Bị thiệt thòi hay có lợi.
Tính thiệt so hơn là so sánh thiệt hơn, suy xét lợi hại, tức tính toán cân nhắc một cách kỹ lưỡng.
Xem: So thiệt tính hơn.
Đua chen tính thiệt so hơn,
Suốt đời thì cũng phục huờn tay không.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Thôi không tính thiệt so hơn,
Phải cam làm dấy mới an lòng thành.
(Thơ NĐS Hương Thanh).
情
1.- Tình chỉ tính tự nhiên do sự cảm xúc ở ngoài mà phát lộ ra. Như: Tình yêu, tình cha con, tình vợ chồng.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Nhơn loại đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh đức trong một lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng.
Nhơn tình ví chẳng mưu thâu phục,
Thế giới mong chi phép độ lường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðã chẳng phải duyên không phải nợ,
Can chi con buộc tấm tình riêng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tình là thực tại, mối, trạng thái tạo ra do sự kiện. Như: Tình hình, tình cảnh, tình thế, tình nghi, nội tình.
Thánh giáo Thầy có câu: Ðạo của Thầy gieo có mấy lâu, mà tình hình thế sự thể nào? Bao nhiêu cũng đủ cho các con vui lòng mà bước tới.
Lao lực thế tình chi xạo xự,
Rửa tai chờ lóng nhạc năm cung.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Một cảnh một tình xưa chẳng chịu,
Mang câu tuyết ngọc ít người ưa.
(Đạo Sử).
情 愛
Tình: Sự yêu mến, gắn bó giữa người với người, hoặc nam với nữ. Ái: Yêu thương.
Tình ái, như chữ “Ái tình 愛 情”, là tình yêu thương giữa người với người, hoặc sự thương yêu gắn bó giữa trai gái hay vợ chồng với nhau.
Khối tình ái hương hồn dầu nhớ,
Tránh oan gia giải nợ trầm luân.
(Kinh Thế Đạo).
Người tình ái lòng thương như biển,
Cả nước non hoà tiếng yêu đương.
(Thất Nương Giáng Bút).
Đoạn tình ái đem quăng bể khổ,
Bứt hồng duyên tính bỏ non thề.
(Nữ Trung Tùng Phận).
情 境
Tình: Những mối trong lòng vì cảm xúc mà phát động ra ngoài. Cảnh: Hoàn cảnh.
Tình cảnh là tình hình hoàn cảnh.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thảng như có cái tình cảnh éo le mà họ phải lìa cái đoàn thể của họ, nó tỏ ra trước mắt ta ngó thấy cái tình trạng buồn thảm thê lương thế nào?
Qua ngày đã thấy giấc chiêm bao,
Bao nhiêu tình cảnh luống thêm sầu.
(Đạo Sử).
情 骨 肉
Tình: Sự yêu mến gắn bó giữa người với người. Cốt nhục: Xương và thịt, chỉ anh em ruột thịt.
Tình cốt nhục là tình cảm giữa anh em ruột thịt, máu mủ với nhau.
Tình cốt nhục còn dùng để chỉ tình cảm của nhân dân cùng một nước.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Cho đến ngày nay cả toàn nhơn loại trên địa cầu nầy, không chịu nghe lời Ngài (Jésus Christ), không theo bước của Ngài, nên nạn tương tàn tương sát lẫn nhau sắp diễn ra gần đây, nhưng nếu chừng nào toàn cả nhơn loại biết tôn sùng nhau, vì tình cốt nhục, thì cái nạn tương tàn tương sát trên mặt địa cầu nầy sẽ không có nữa.
Lạc bước dò chừng tình cốt nhục,
Cứu đời kính gởi chữ đồng bào.
(Tiêu Diêu Đạo Sĩ).
Phải so đo tình trọng của khinh,
Đừng vị của không nhìn tình cốt nhục.
(Phương Tu Đại Đạo).
1. Tình chung 情 鍾
Tình 情: Lòng yêu thương giữa đôi trai gái. Chung 鍾: Un đúc lại.
Tình chung 情 鍾 tức là mối tình được un đúc lại để yêu thương gắn bó.
Đưa giọt sữa ra hoà giọt lụy,
Trong tình chung huyết khí đúc hình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2. Tình chung 情 終
Tình 情: Lòng yêu thương giữa đôi trai gái. Chung 終: Kết cuộc, chung thuỷ.
Tình chung 情 終 là tình yêu chung thuỷ dành cho một người duy nhứt.
Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,
Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.
(Kinh Thế Đạo).
Tình chung bền giữ một đời,
Chia cơm cắn muối không dời lòng thương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
情 欲
Tình: Lòng yêu thương giữa đôi trai gái. Dục: Lòng ham muốn.
Tình dục là lòng ham muốn.
Tình dục còn là sự ham muốn thú nhục dục, tức lòng ham muốn gần gũi xác thịt giữa trai gái.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Mấy em rán nhớ đừng bắt chước làm quyền theo quan lại, mấy em phải yểm tình dục quyền tước lại, cũng như Qua yểm trên Thất Đầu Xà, chỉ mình tập tánh thương yêu mà thôi, đừng hờn giận ai, cứ bình tĩnh chịu những sự khó của ai đã làm mà mấy em phải gánh.
Diệt được cái Ta là tiết chế được tình dục, đoạn trừ tư tâm ngã kiến, rồi nhứt cử nhứt động đều quay về vị tha, quên cả mình để mưu lợi cho người.
(Thiên Đạo).
情 緣
Tình: Lòng yêu thương giữa đôi trai gái. Duyên: Dây liên lạc giữa đôi tình nhân hay vợ chồng.
Tình duyên là mối tình kết liền giữa đôi tình nhân hay vợ chồng.
Thương người lánh tục tìm nhàn,
Trễ chơn mà lại phụ phàng tình duyên.
(Thất Nương Giang Bút).
Éo le thân phận thương mà trách,
Trắc trở tình duyên nói chẳng cùng.
(Thơ Thuần Đức).
情 形
Tình: Thực tại. Hình: Cái bày ra ngoài.
Tình hình là tình thế thực tại, tức tình trạng của các việc xảy ra trong một lúc nào đó.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðạo của Thầy gieo có mấy lâu, mà tình hình thế sự thể nào? Bao nhiêu cũng đủ cho các con vui lòng mà bước tới.
Muốn nhắm mắt một bề cho khoẻ,
Những tình hình mọi vẻ trêu ngươi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
情 意
Tình: Tình cảm, tâm lý nói chung. Ý: Điều suy nghĩ trong đầu óc.
Tình ý là ý tứ ấp ủ trong lòng mà người khác chưa biết đến. Tình ý còn dùng để chỉ cái tình cảm yêu đương giưa nam và nữ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Cho nên khi tâm tịnh thường cảm hoài, hằng tìm nơi u huyền mà nghĩ nghị trong trí khôn, ấy là kẻ có sẵn tình ý thiên nhiên Tạo hoá.
Hàng dầu chẳng nên ra giá quý,
Quý là vì tình ý người buôn.
(Phương Tu Đại Đạo).
情 郎
Tình: Lòng yêu thương giữa đôi trai gái. Lang: Chàng, chỉ người con trai.
Tình lang là tiếng để người con gái gọi người con trai mà mình yêu mến.
Băng thanh thề trọn với tình lang,
Thấm thoát rừng phong lá trổ vàng.
(Thơ Thuần Đức).
Hay “Tình lạt duyên phai”.
Tình lợt (lạt): Mối tình cảm lợt lạt. Duyên phai: Mối duyên đã phai nhạt.
Tình lợt duyên phai là tình cảm bị lạt phai, không còn đằm thắm, nồng nàn như trước nữa.
Chớ cho tình lợt duyên phai,
Chớ vong nghĩa cũ, chớ hai tấm lòng.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Hay “Tình nồng nàn”.
Tình: Sự yêu mến, yêu thương giữa nam nữ. Nồng (nồng nàn): Có những biểu hiện của tình cảm thiết tha.
Tình nồng, như chữ “Tình nồng nàn”, là tình yêu thương tha thiết, sâu đậm.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Các bạn, ngày nay Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp; giờ phút nầy là người bạn tu của các bạn mà thôi. Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp đặng đến với các con cái của Ngài, với một tình nồng nàn, Hộ Pháp cũng là người bạn Thiêng Liêng về phần hồn với con cái của Ngài.
Niềm thủ túc đã đành vĩnh biệt,
Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.
(Kinh Thế Đạo).
Lạc hoan chưa phải buổi cho mình,
Nghĩa mặn tình nồng chớ dể khinh.
(Đạo Sử).
Lạc hoan chưa phải buổi cho mình,
Nghĩa mặn tình nồng chớ dể khinh.
(Đạo Sử).
Nếu khổ cực chung cùng chia sớt,
Dầu sang vinh đừng bớt tình nồng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
情 義
Tình: Tính tự nhiên do sự cảm xúc ở ngoài mà phát lộ ra. Nghĩa: Đạo phải.
Tình nghĩa là tình cảm thuỷ chung hợp với lẽ phải, với đạo lý làm người.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Lão mang nặng tình nghĩa cùng một bạn thiêng liêng vì đời lãnh mạng, tạo Ðạo đặng cứu chúng sanh mà phải chịu mông trần vào cảnh đọa.
Biết tình nghĩa biết mùi ân ái,
Chia đau thương cột dải đồng tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Khi thì khóc, lúc thì cười,
Bao nhiêu tình nghĩa một đời thoáng qua.
(Nữ Trung Tùng Phận).
情 義 夫 妻
Tình nghĩa: Cư xử rất mực cảm tình và ân nghĩa. Phu thê: Vợ chồng.
Tình nghĩa phu thê là vợ chồng cư xử với nhau rất có tình và có nghĩa, tức tình cảm vợ chồng giữ thủy chung hợp với lẽ phải, với đạo lý làm người.
Đi luông tuồng chẳng định hồi về,
Niềm tình nghĩa phu thê chẳng đoái.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Tình nhân”.
Tình: Sự yêu mến, yêu thương giữa nam nữ. Nhơn (nhân): Người.
Tình nhơn, như chữ “Tình nhân 情 人”, là người tình, hay người yêu.
Tình nhơn (nhân) còn dùng để chỉ người có quan hệ yêu đương không đứng đắn với một người khác.
Áo quần hàng lụa bóng dờn,
Năm thê bảy thiếp tình nhơn cũng nhiều.
(Thơ Hộ Pháp).
Tình riêng: Tình cảm riêng tư. Nghĩa công: Nghĩa chung, đạo nghĩa.
Tình riêng nghĩa công ý muốn nói người có đạo lý phải xem nhẹ tình riêng mà giữ nghĩa công.
Đạo Phật chủ trương thuyết vô ngã, vì con người chỉ là tập hợp của ngũ uẩn, năm uẩn nầy đều thay đổi từng giây từng phút, ở trong năm uẩn đó không có cái gì gọi là Ta, hay của Ta thường còn bất biến cả. Chính vì chúng sanh chấp cái thân ngũ uẩn nầy là bản ngã, tức Ta hay của Ta mà phải chịu cảnh luân hồi sinh tử.
Diệt được cái Ta là đoạn được cái tư tâm ngã kiến, trừ được vị kỷ mà quay về vị tha., quên mình để làm lợi cho người. Người tu hành nếu không lo diệt bản ngã thì chẳng thể nào bỏ vọng về chơn, đoạn mê theo giác, mà thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có dạy: Muốn vạch con đường cho nhơn sanh thoát nơi biển khổ, tránh đoạ luân hồi, Đức Phật Thích Ca dạy phải diệt cái bản ngã, dứt hết mọi tình lưu luyến, coi sự đời là mộng ảo, đoạn tuyệt sự ham muốn, trừ khử vô minh để về với chân như bất sanh bất diệt.
Khi con người dứt bỏ được thuyết “bản ngã” ra thì mọi hành động đều là chánh đáng và cao thượng.
Trong bất cứ một tôn giáo nào, tôn chỉ đưa ra đều cao cả, người hành Đạo đều mang chủ nghĩa giác thế độ đời để giúp cho nhơn loại có cuộc sống an vui và hạnh phúc. Nếu tâm của những người hành đạo vẫn còn chịu khổ để lo cái “của mình” giàu hay nghèo, được hay thua, còn hay mất thì phận sự hành Ðạo làm sao cho trọn vẹn?
Sở dĩ chúng ta đau khổ triền miên và làm cho người khác đau khổ trong cuộc đời nầy cũng chỉ vì chúng ta coi trọng Bản ngã, bám víu vào cái ta và cái của ta, do chúng ta thấy cái ta quá lớn, nó ám ảnh đến nỗi mình quên đạo lý, quên sự thật của cuộc đời.
Câu chuyện sau đây cho chúng ta thấy một người đàn bà ở xó rừng góc núi chẳng vì “Tình riêng” mà hại “Nghĩa công” là vì biết dứt trừ được bản ngã để xử tròn được đạo nghĩa.
Trong “Liệt Nữ Truyện” của Lưu Hướng có chép lại câu chuyện như sau:
Thời Xuân Thu, Tề cử binh phạt Lỗ. Khi đến biên giới nước Lỗ, viên tướng chỉ huy binh Tề thấy một người đàn bà một tay bồng đứa bé, tay kia dắt một đứa bé nữa. Thấy quân Tề tràn tới, người đàn bà vội bỏ đứa bé đang bồng trên tay xuống, ẵm đứa bé đang dắt, rồi lẫn trốn vào rừng.
Viên tướng Tề sai quân bắt người đàn bà lại và hỏi: Đứa bé bà ẵm là con ai, đứa bé bỏ lại là con ai? Người đàn bà đáp: Đứa bé tôi bế chạy là con của anh cả tôi, đứa tôi bỏ lại là con tôi. Vì tôi thấy không bảo toàn được hai đứa, nên tôi phải bỏ con tôi.
Viên tướng Tề nói: Tình mẹ con không đau xót sau? Ai nỡ bỏ con mình để cứu lấy con của anh là thế nào? Người đàn bà dõng dạc trả lời: Con của tôi là tình riêng, con của anh tôi là nghĩa công, bỏ con mình tuy đau xót, nhưng muốn làm tròn nghĩa công, tôi phải lìa nó mà cứu con của anh tôi. Tôi không thể nào mang tiếng là vô nghĩa mà sống ở nước tôi được.
Viên tướng Tề ngẫm nghĩ rồi dừng binh lại, tâu với Tề chúa: Nước Lỗ chưa thể đánh được. Vua Tề cho là phải. Bèn truyền thâu binh.
Nhờ vậy người đàn bà bảo toàn cả hai đứa bé và sau được Vua nước Lỗ thưởng một trăm tấm lụa và tặng hai chữ “nghĩa cô”.
Trong bài Thuyết Đạo, Đức Thượng Sanh có lời dạy các vị chức sắc, chức việc và toàn đạo như sau: Nơi cửa Ðạo, người hành đạo phải làm gương mẫu cho nhơn sanh và muốn lập chữ tâm phải quên được cái “bản ngã” thường tình. Trừ bỏ được bịnh chỉ biết có mình, hành vi nào cũng được trong sạch, khỏi bận tâm lo mất còn thiếu đủ. Trong cảnh hèn sang, vui khổ, phải chia sớt với tất cả bạn đồng hành, sự tương thân, tương ái mới được trọn vẹn.
Một kẻ phụ nhơn ở xó rừng góc núi còn biết chẳng vì “Tình riêng” mà hại “Nghĩa công”, huống chi là bậc quan lại sĩ phu trong nước.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
情 癡
Tình: Sự yêu mến, yêu thương giữa nam nữ. Si: Si mê, ngây dại.
Tình si, như chữ “Si tình”, là mê mẩn, ngây dại vì tình yêu đắm đuối.
Tình si có thể trở nên mù quáng, ngây dại. Như: Anh quyết định phải chấm dứt mối tình si.
Nào có tưởng vợ nhà đau đớn,
Ôm tình si muôn lượng sầu than.
(Nữ Trung Tùng Phận).
情 史
Tình: Lòng yêu thương giữa đôi trai gái. Sử: Ghi chép công việc.
Tình sử là câu chuyện tình có nhiều tình tiết éo le, phức tạp được ghi chép lại.
Qua đây nghe kể thiên tình sử,
Khắc khoải thương buồn chuyện trái ngang.
(Thơ Chơn Tâm).
情 弊
Tình: Tình cảnh, hoàn cảnh. Tệ: Tỏ ra không tốt, không có tình nghĩa trong quan hệ đối xử.
Tình tệ là mối tệ cố ý làm ra, tức đối xử với người không có tình nghĩa trước sau.
Yểu điệu thuyền quyên đã tiếng rằng,
Những điều tình tệ lánh nên chăng.
(Bát Nương Giáng Bút).
情 緒
Tình: Lòng thương yêu giữa đôi trai gái. Tự: Mối dây liên lạc.
Tình tự là tâm tình hay tâm sự. Như: Kể hết tình tự.
Tình tự còn là bày tỏ với nhau tình cảm yêu đương giữa đôi trai gái.
Như: Đôi trai gái đứng tình tự bên bờ sông.
Khó đem tình tự vẽ nên chương,
Gang tấc cầm hơn mấy dăm trường.
(Thơ Thuần Đức).
情 深
Tình: Lòng yêu thương. Thâm: Sâu đậm.
Tình thâm là tình cảm sâu sắc, đậm đà. Như: Mẫu tử tình thâm.
Trong Đạo Sử, Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có câu: Con ôi! Cái tình thâm xác thịt là thế nào con định thử tình Thiêng Liêng ra bao nả? Thầy chỉ đợi các con mà các con chẳng nhớ đến, Thầy vì nóng lòng gặp nhau nên mỗi phen đặng thế Thầy tức cấp đem về, con đã rõ thấu cõi trần này biết bao khổ não đày đoạ các con.
Ven Trời gởi chút tình thâm,
Động lòng thương nhớ tuôn dầm lệ sa.
(Kinh Thế Đạo).
Lánh bợn tục tình thâm cũng tránh,
Trốn đau thương xa cảnh trần gian.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tình thâm một gánh còn dương thế,
Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.
(Đạo Sử).
情 勢
Tình: Mối, hay trạng thái tạo ra do sự kiện. Thế: Cách, cuộc bày ra.
Tình thế là tình hình và xu thế, tức tình hình xã hội cụ thể, về mặt có lợi hay không có lợi cho những hoạt động nào đó của con người.
Như: Tình thế thay đổi, cứu vãn tình thế nguy ngập.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có đoạn dạy: Phần nhiều các đạo hữu dày công mà xây đắp nền đạo, nhưng sự ham muốn còn bôn chôn theo tình thế. Công đã nhiều mà bước tới nữa dường như ngán bước, gặp sự gay go đã mỏn lòng. Than thay! Tiếc thay!
Nhơn tâm gầy khối đều nên mặt,
Tình thế trau nên kiểu vỡ đầu.
(Quyền Giáo Tông).
Đống xương Vô Định xây tình thế,
Dòng máu chinh phu rửa bợn trần.
(Thơ Tiếp Đạo).
Phước duyên bởi tạo không nên cảnh,
Tình thế trông ra mới ngược dòng.
(Thơ Tiếp Đạo).
Tình: Mối khắng khít, yêu thương. Thương: Thương mến, thương yêu.
Tình thương là một tình cảm nồng nhiệt làm cho gắn bó mật thiết và tạo ra trách nhiệm với người, với vật.
Tình thương, như chữ “Tình yêu”, còn dùng để chỉ tình cảm yêu đương giữa nam và nữ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hiệp tan không mấy chốc, sự chung vui nơi cõi dinh hoàn nầy không mấy khi bền lâu được, duy có tình thương yêu chơn thật là vĩnh viễn trường tồn.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phàm tình thương chẳng có độ lường,
Thương cho đến hơi sương giọt nước.
(Phương Tu Đại Đạo).
Và chỉ rõ tình thương rộng hẹp,
Thương thế nào tốt đẹp cao xa.
(Thơ Hộ Pháp).
Tình trọng: Tình nghĩa xem sâu nặng. Của khinh: Coi nhẹ tiền của.
Tình trọng của khinh ý muốn nói làm con người nên xem tình nghĩa là sâu nặng, còn tiền của phải coi là nhẹ.
Tình trọng của khinh đồng nghĩa với câu thành ngữ Việt Hán: “Trọng nghĩa khinh tài 重 義 輕 財”.
Phải so đo tình trọng của khinh,
Đừng vị của không nhìn tình cốt nhục.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Tỉnh 省 là khu vực hay một vùng cai trị gồm có nhiều phủ, nhiều huyện.
Như: Nam Kỳ lục tỉnh, Việt Nam có nhiều tỉnh nhỏ kinh tế chưa phát triển.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo nói thật, buổi Chí Tôn đến tạo Quốc Ðạo cho nòi giống Rồng Tiên nầy, chính Ngài cầm cơ đi đến các Tỉnh, kêu từ nhà gọi từ đứa con, cho không biết bao nhiêu bài khuyến dạy, tạo thành một nền Tôn Giáo Cao Ðài là Quốc Ðạo.
Chúng nó (Giáo Hữu) đặng phép hành lễ khi làm chủ các chùa trong mấy tỉnh nhỏ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Tỉnh 省 là xét, thăm. Như: Tỉnh sát, tự tỉnh, thần hôn định tỉnh.
Thánh giáo Thầy có câu: Vì các con không rèn trau tâm trí cho đáng mặt phi thường nên lắm khi Thầy phải cậy kẻ khác trau giồi tánh đức của các con, để cho người hiếp đáp các con, mong cho các con vì đó mà tự tỉnh.
Ðường tâm tự tỉnh chơn ra giả,
Nẻo đức gồm theo thiệt hoá chơi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Tỉnh 醒 là ở trạng thái không say, không mê, không ngủ, mà cảm biết và nhận thức được hoàn toàn như bình thường.
Như: Ốm nặng mà người vẫn tỉnh, lương tâm thường tỉnh, nửa say nửa tỉnh.
Thánh giáo Thầy có câu: Trong còn mơ màng như người say chưa tỉnh, thì ngoài thế nào được đầm ấm mà gieo lần ra.
Mê tỉnh chuông khua phân biệt tiếng,
Rừng thiền nô nức loán mùi hương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
4.- Tỉnh 醒 là ở trạng thái đã thức hẳn dậy, không còn mê ngủ nữa
Như: Tỉnh ra mới biết mình nằm mơ, tỉnh dậy lúc trời vừa rạng sáng.
Rẽ lối non sông thấy Ðộng đào,
Bừng con mắt tỉnh giấc chiêm bao.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lần lừa ngày tháng cảnh đưa xuân,
Ướm chổi huỳnh lương tỉnh dậy lần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mở mắt tỉnh lần cơ mộng điệp,
Hữu sanh hữu khổ phải toan gìn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tỉnh: Ở trạng thái không say, không mê, không ngủ, mà có thể nhận thức được. Giấc: Một hồi ngủ, ngủ.
Tỉnh giấc là tỉnh dậy khi đã ngủ đầy giấc, hay lúc đã hết cơn mê.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Chúng ta, ai có trải qua những ngày đau khổ vì bị dục vọng lôi cuốn vì mình không tự quyết thắng mình. Khá tua tỉnh giấc mộng trần, quay về với đạo đức chơn thật, để sống lại những ngày giác ngộ sống với ý nghĩa cao đẹp vị tha.
Khá tỉnh giấc lo cho nên phận,
Đừng ỷ mình hiếp lẫn kẻ côi.
(Bát Nương Giáng Bút).
Khi tỉnh giấc còn trong vòng tục,
Mới biết thân ít phúc hơn chàng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
醒 魂
Tỉnh: Thức dậy, không còn mê nữa. Hồn: Phần vô hình trong con người.
Tỉnh hồn là linh hồn thức tỉnh, ý chỉ không còn mê.
Thánh giáo Quan Thánh Đế Quân có câu: Xác phàm mắt thịt, nếu đã sẵn ánh thiêng liêng mà không sớm tỉnh hồn thì mảnh tro bụi kia chẳng khỏi chịu hình đòi lúc.
Lằn thân ái sương tan buổi sớm,
Giấc mộng hồn chưa dợm tỉnh hồn.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Vẽ tươi Quốc sử loà cương thổ,
Đánh tỉnh hồn dân dựng miếu đàng.
(Thơ Chánh Đức).
醒 夢
Tỉnh: Thức dậy, không còn mê nữa. Mộng: Giấc chiêm bao.
Tỉnh mộng là đang ngủ nằm chiêm bao, đột nhiên bừng tỉnh dậy.
Mộng còn có nghĩa những điều đẹp đẽ mà mình ôm ấp trong lòng, nay tỉnh mộng tức là biết rõ việc ấy sai lầm, không thể thực hiện được.
Lập đạo xả thân vui khổ hạnh,
Khuyên đời tỉnh mộng tránh đao binh.
(Thơ Huệ Phong).
醒 悟
Tỉnh: Chẳng còn mê ngủ, thức dậy. Ngộ: Biết.
Tỉnh ngộ là bỗng dưng hiểu biết một việc gì mà trước kia mình không nghĩ, hiểu đến.
Tỉnh ngộ còn có nghĩa là hiểu ra và nhận thấy lỗi lầm của mình. Như: Cô ấy sớm tỉnh ngộ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Nếu kẻ nào biết hiểu Thánh Ngôn của Thầy nơi miệng các con mà tỉnh ngộ thì số hằng sống nó vốn còn, còn chẳng thì thôi, để cho chúng nó theo tà quái.
Tỉnh ngộ xả thân tại Phạm môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tiếng sấm vang tai đã hoảng hồn,
Nay khen tỉnh ngộ chọn mưu khôn.
(Đạo Sử).
Lời Phật dạy mênh mông bể khổ,
Ai là người tỉnh ngộ quay về.
(Thơ Hộ Pháp).
Tỉnh: Sáng suốt, hiểu biết được, hết say, hết ngủ. Say: Bị rượu làm cho ngây ngất, còn mê ngủ chưa tỉnh, mê đắm.
Tỉnh say là khi tỉnh khi say.
Tỉnh say còn có nghĩa là tỉnh cơn say, tức sau cơn say, giờ đã tỉnh.
Tiêu diêu phai lợt mùi trần,
Tỉnh say với giọt nước ngần tẩy mê.
(Tam Nương Giáng Bút).
Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ,
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say.
(Đạo Sử).
Tỉnh say trong kiếp dương môn,
Nửa thì thấy cảnh hoàng hôn mộng hình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
省 親
Tỉnh: Thăm hỏi. Thân: Cha mẹ.
Tỉnh thân là thăm viếng cha mẹ, chỉ việc sớm tối chăm sóc, thăm hỏi cha mẹ.
Do sách Lễ Ký có dạy phàm lễ của kẻ làm con, mùa đông lo cho cha mẹ ấm, mùa hè lo cho cha mẹ mát, buổi tối lo cho cha mẹ yên tĩnh nằm, buổi sớm hỏi han cha mẹ xem có khoẻ mạnh không.
Tỉnh thân làm rạng người con hiếu,
Chánh kỷ càng nêu kẻ sĩ hiền.
(Thơ Thiên Vân).
醒 世
Tỉnh: Không còn mê. Thế: Đời.
Tỉnh thế là thức tỉnh người đời, tức là giác ngộ cho người đời không còn mê muội nữa.
Tiếng chuông chùa vang lên cũng có tác dụng thức tỉnh người đời, nên còn gọi chuông tỉnh thế.
Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Từ Bàn Cổ sơ khai đến ngày Thánh Nhơn xuất thế đem chơn truyền thuyết minh lý Đạo, bành trướng khắp bốn phương để tỉnh thế độ đời cho rõ lý cao siêu của Trời Đất, hầu tầm đường siêu thoát cho thuận với lý Thiên nhiên cơ Tạo Hoá.
Sách truyện xưa ghi đã lắm điều,
Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Rung chuông tỉnh thế ba kỳ thức,
Hồi trống truy hồn bá tánh khôn.
(Lục Nương Giáng Bút).
Giọng kình tỉnh thế lay hồn bướm,
Tiếng quốc gào hôm động giấc hoè.
(Thơ Huệ Giác).
醒 識
Tỉnh: Không còn mê. Thức: Biết.
Tỉnh thức, như chữ “Thức tỉnh 識 醒”, có nghĩa là tỉnh ra mà biết rõ, không còn mê lầm nữa.
Tỉnh thức đồng nghĩa với “Tỉnh giác 醒 覺”, hay “Tỉnh ngộ 醒 悟”.
Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,
Đoạn cho rồi oan trái buổi sanh.
(Kinh Tận Độ).
Khá tỉnh thức nhớ đàng nhơn nghĩa,
Để gieo tràn khắp phía giống xinh.
(Lục Nương Giáng Bút).
醒 智
Tỉnh: Không còn mê, sáng suốt. Trí: Trí não, phần thông hiểu ở trong đầu óc.
Tỉnh trí là trí não sáng suốt để hiểu biết mọi việc, hay thức tỉnh, không còn mê lầm.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Thái Thượng có câu: Muốn an tâm tỉnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, thì mới khỏi bực tức với những trò đã vì mạng lịnh thiêng liêng phô diễn ở nơi thâm hiểm nặng nề nầy.
Tỉnh trí lui chơn xa cõi tục,
Định tâm trỗi bước đến thang trời.
(Thơ Thông Quang).
並 育
Tịnh: Đều, ngang nhau, như nhau. Dục: Nuôi dưỡng cho khôn lớn.
Tịnh dục là nuôi dưỡng đồng đều như nhau.
Đạo đối với Nho giáo, ví như Trời đất, không có gì là không che chở, chuyển vần như bốn mùa, sáng rỡ như mặt trời mặt trăng.
Sách Trung Dung cho rằng: Vạn vật tịnh dục, nhi bất tương hại, Đạo tịnh hành nhi bất tương bội, tiểu đức xuyên lưu, đại đức đôn hoá 萬 物 並 育, 而 不 相 害, 道 並 行 而 不 相 悖, 小 德 川 流, 大 德 敦 化, nghĩa là Đạo ấy thì muôn vật đều được nuôi dưỡng đồng đều, nên không sát hại lẫn nhau, các Đạo đều được thi hành mà không trái nhau, Đức nhỏ thì phân minh như nước sông chảy, đức lớn thì đôn hậu mà sinh hoá vô cùng.
Tịnh dục Đại Từ Phụ là Đức Thượng Đế đều thương yêu, nuôi dưỡng chúng sanh một cách đồng đều như nhau.
Tiên thiên Hậu thiên,
Tịnh dục Đại Từ Phụ.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
靜 養
Hay “Tĩnh dưỡng”.
Tịnh (tĩnh): Đối với chữ động, im lặng, yên ổn. Dưỡng: Nuôi.
Tịnh dưỡng, như chữ “Tĩnh dưỡng 靜 養”, là nghỉ ngơi mà tu dưỡng, tức là nghỉ yên để dưỡng sức.
Các nhà Đạo học chủ trương cách tịnh toạ dưỡng tâm, gọi là “Tịnh dưỡng”.
Tịnh dưỡng còn có nghĩa là nghỉ yên để lấy lại sức khoẻ sau cơn bịnh.
Vừng hồng ẩn bóng vẹn trau thân,
Trí huệ soi gương tịnh dưỡng thần.
(Thơ Thượng Sanh).
Quanh quẩn đường mây khi tịnh dưỡng,
Thong dong xe hạc lúc ngao du.
(Thơ Hoài Tân).
淨 壇
Tịnh: Sạch sẽ, trong sạch. Đàn: Chỗ đắp cao dùng để làm nơi cúng tế.
Tịnh đàn là nơi thanh tịnh dành để làm nơi cúng tế. Ở đây, Tịnh đàn chỉ Thánh Thất.
Trừ ra vợ chồng hay là chị em ruột, anh em ruột đặng chuyện vãn nhau nơi Tịnh đàn.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
並 蒂
Tịnh: Cùng, đôi. Đế: Cái cuống hoa.
Tịnh đế tức là hai hoa cùng nở trên một cuống, như bông sen một cọng nở hai hoa, chỉ điềm lành của vợ chồng đôi lứa.
Do tích: Tiểu Thanh đời nhà Thanh là một tài nữ, làm vợ lẽ, bị vợ cả ghen, giam chết khi 18 tuổi. Lúc đau khổ nàng lễ Phật Quan Thế Âm xin hoá kiếp làm sen tịnh đế: Nguyện tương nhất trích dương chi thuỷ, hoá tác nhân gian tịnh đế liên 願 將 一 滴 楊 枝 水, 化 作 人 間 並 蒂 蓮, nghĩa là nguyền xin Phật Quan Âm cho một giọt nước nhiệm mầu ở cành dương liễu để hoá thân nàng thành đôi hoa sen tịnh đế ở chốn nhân gian.
Sương mốc tô màu sen tịnh đế,
Sắt cầm trỗi khúc nhạc khai nguyên.
(Thơ Thuần Đức).
淨 土
Tịnh: Thanh tịnh, không cấu uế. Độ (hay thổ): là quốc độ, nơi chốn để y trú.
Tịnh độ, còn gọi là “Tịnh thổ 淨 土”, là cõi nước thanh tịnh, trang nghiêm vi diệu, tức cõi Phật, còn gọi Phật độ, Phật quốc.
Trong Phật giáo Đại Thừa, mỗi cõi Tịnh độ thuộc về một Đức Phật, mà có vô số chư Phật, nên có vô số Tịnh độ. Trái với Tịnh độ là Uế độ, trược độ.
Cực Lạc Thế Giới của Đức A Di Đà Phật ở phương Tây là một cõi Tịnh độ.
Miền tục lánh theo miền Tịnh độ,
Xác phàm đổi lấy xác thiêng liêng.
(Thơ Thuần Đức).
靜 堂
Hay “Tĩnh đường”.
Tịnh (靜): Yên lặng, vắng vẻ. Tĩnh (淨): Còn đọc tịnh là trong sạch. Đường: Nhà.
Tĩnh đường (靜 堂): là nơi nhà vắng vẻ, yên lặng.
Tịnh đường (淨 堂): Tịnh (tĩnh) đường (淨 堂) là nơi trong sạch thanh khiết, chỉ chùa chiền, nơi tu hành.
Tịnh đường mặc kệ bóng mây qua,
Gắng lượm hồng ân lúc tuổi già.
(Bát Nương Giáng Bút).
淨 練
Tịnh: Thanh tịnh, trong sạch. Luyện: Rèn, tập làm nhiều lần.
Tịnh luyện là một pháp môn tu luyện để đắc thành Tiên, Phật tại thế. Muốn vào đường tịnh luyện, người tu theo Cao Đài trước phải lo tròn công quả, rồi mới xin vào Tịnh Thất theo luật mà luyện đạo.
Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn khai nền Đại Đạo là mở ra một trường thi công đức cho nhơn sanh, kẻ trước dìu người sau, nương theo con đường Thánh đức mà đoạt phẩm vị Thần, Thánh, Tiên Phật.
Chính Đức Chí Tôn có dạy rằng: “Các con đắc đạo cùng chăng là tại phương phổ độ. Nếu các con không đến trường Thầy lập mà đoạt phẩm vị của mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ”.
Khi thì rảo bước động đào,
Khi thì tịnh luyện nhập vào cảnh tiên.
(Thơ Hộ Pháp).
Phước Thiện tu tâm bằng trợ khó,
Hiệp Thiên tịnh luyện tới Thiên Đường.
(Thơ Thượng Sanh).
淨 念
Tịnh: Thanh tịnh, trong sạch. Niệm: Nghĩ, nhớ.
Tịnh niệm là giữ cho lòng trong sạch để tưởng nghĩ đến Chí Tôn, Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Khi bái đàn rồi cả thảy quỳ tụng kinh, còn Bần Ðạo tịnh niệm, mỗi câu kinh mấy em đọc vẫn dễ, vì thuộc mà đọc thôi, riêng Bần Ðạo mỗi câu kinh phải mật niệm, tụ hết cả nghĩa lý của nó dâng lên Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng.
Tịnh niệm phép Nhiên Đăng tưởng tín,
Hư Vô Thiên đến thính Phật điều.
(Kinh Tận Độ).
淨 心
Hay “Tĩnh tâm”.
Tịnh (tĩnh): Trong sạch, sạch sẽ. Tâm: Cái tâm.
Tịnh (tĩnh) tâm là cái tâm trong sạch, tức cái tâm đã loại bỏ những tư tưởng đen tối, xấu xa.
Thánh giáo Thầy dạy về chấp cơ có câu: Nếu chấp cơ thì phải để ý thanh bạch, không đặng tưởng đến việc phàm. Tay chấp cơ cũng phải xông hương khử trược, tịnh tâm một lát, rồi phải để tinh thần tinh tấn mà xuất ngoại xác, đến hầu dạy việc.
Tịnh tâm con khá gắng công tu,
Cái nợ duyên kia chớ vận trù.
(Đạo Sử).
Tịnh tâm rán hỏi thử lại mình,
Ðã chịu bao phen chúng dể khinh.
(Đạo Sử).
淨 心 臺
Hay “Tịnh Tâm Điện”.
Tịnh tâm: Lắng đọng tâm tư để tự xét mình. Đài: Một cái đài nơi Đền Thánh.
Tịnh Tâm Đài, còn gọi là “Tịnh Tâm Điện 淨 心 殿”, là một gian rộng cách thềm Đền Thánh độ hai thước, dành cho chư tín đồ, chức việc và chức sắc ngồi tịnh tâm, tĩnh dưỡng tinh thần trước khi vào chầu lễ Đức Chí Tôn.
Trước Tịnh Tâm Điện, phía vách có đắp bức hoạ hình Tam Thánh gồm có các vị: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thánh danh là Thanh Sơn Đạo Sĩ, Victor Hugo, Thánh danh là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, Tôn Dật Tiên, Thánh danh là Tôn Trung Sơn.
Ba vị Thánh này giáng cơ xưng là Tam Thánh ở Bạch Vân Động cõi Thiêng Liêng, đứng cầm nghiên bút ký Thiên Nhơn Đệ Tam Hoà Ước, nghĩa là ký hoà ước minh chứng sự thoả thuận của nhơn loại với Trời về sự khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để độ dẫn loài người biết thờ Trời.
1.- Tịnh Tâm Đài:
Tịnh Tâm Đài lặng im thần bí,
Hiệp Thiên Đài linh khí tâm thông.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Bản Hoà Ước tại Tịnh Tâm Đài,
Hợp nhứt Trời người triết lý khai.
(Thơ Huệ Phong).
2.- Tịnh Tâm Điện:
Tịnh Tâm Điện hiện ngôi công lý,
Cân Công Bình pháp kỷ trấn Thần.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
靜 心 舍
Tịnh tâm: Lắng đọng tâm tư nơi yên tĩnh để tự xét mình. Xá: Cái nhà.
Tịnh Tâm Xá là cái nhà mà linh hồn người chết đến đó để lắng đọng tâm tư tự xét lấy mình, xem trong quả kiếp của mình nơi cõi trần đã làm được bao nhiêu phước đức, hay gây ra bao nhiêu tội tình.
Ðại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là Tịnh Tâm Xá, nghĩa là nơi của chư hồn đến đó đặng tịnh tâm xét mình, coi trong kiếp sanh bao nhiêu phước tội.
(Thánh Giáo Thất Nương).
Hay “Tĩnh toạ”.
Tịnh (tĩnh): Yên lặng, vắng vẻ. Toạ: Ngồi.
Tịnh toạ, như chữ “Tĩnh toạ 靜 坐”, là ngồi yên một chỗ, không làm gì hết.
Tịnh toạ còn dùng để chỉ ngồi yên lặng không nhúc nhích, đây là cách ngồi yên lặng để nghiền ngẫm về giáo lý của chư Tiên, Phật hoặc ngồi Thiền định để điều phục thân tâm và khơi dậy trí huệ giác ngộ.
Các con ôi! vách tường sắp đổ, nạn khổ hầu kề Thầy há nở điềm nhiên tịnh toạ để xem cho bầy con sắp phải tận vong tiêu diệt sao?
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tịnh (tĩnh): Yên lặng, vắng vẻ. Thất: Nhà thờ.
Tịnh thất, như chữ “Tĩnh thất 靜 室”, “Tĩnh phòng 靜 房”, đều dùng để chỉ phòng ở sạch sẽ, yên tĩnh của những người tu hành.
Trong Cao Đài Tây Ninh, có ba Tịnh Thất, đó là Trí Huệ Cung nơi Thiên Hỷ Động, Trí Giác Cung nơi Địa Linh Động, Vạn Pháp Cung nơi Nhơn Hoà Động.
Tịnh Thất là nơi tu theo Phạm Môn, tức là tu chơn, không thọ phẩm tước, áo mão, đó là tu theo con đường thứ ba của Đại Đạo.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Các Tịnh thất đều về quyền của Thượng Phẩm cai quản.
Sớm đến Giảng đường nghe giáo lý,
Chiều về Tịnh thất học chơn truyền.
(Thơ Thượng Thời Thanh).
Nhưng Ngài ở cửa Hiệp Thiên,
Thánh Thất, Tịnh Thất trọn quyền xét soi.
(Lược Thuật Toà Thánh).
淨 水
Tịnh: Trong sạch, không bụi bặm, nhơ nhớp. Thuỷ: Nước.
Tịnh thuỷ là nước trong sạch. Bình Tịnh thuỷ là bình phép báu của Đức Quan Âm Bồ Tát.
Theo Phật giáo, Quan Âm Bồ Tát dùng nhành dương liễu nhúng vào nước Cam Lộ trong bình Tịnh Thuỷ để rải cho chúng sanh trừ được tất cả điều phiền não, tai ương, bịnh tật...
Rưới chan tịnh thuỷ an lê thứ,
Bồi đắp sơn hà thuận nghĩa nhân.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tít là lắm, rất, thẳm.
Như: Đọc truyện nầy mê tít luôn, chong chóng quây tít, hôm qua uống rượu say tít, xa tít mù.
Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Sở dĩ có sự kiện ấy là vì ý thức bắt người ta mê tít đi, quên lững cái nhục thân hiện tại, mà chỉ biết sống với cái thân trong giấc mộng.
Còn đêm nay nữa, đêm lưu luyến,
Mà gởi cho ai tít dặm trường.
(Thơ Hàn Sinh).
卑
Ty là nhỏ, thấp, hèn. Như: Tôn ty thượng hạ, chức ty phận tiểu, ty tiện.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Cả thảy đều con của Thầy, trừ ra tôn ty thượng hạ nơi việc hành chánh, thì đồng một bậc cả, chẳng ai đặng vì quyền mà lấn lướt, chẳng ai đặng vì mạng lịnh mà đè ép xua đuổi ai.
Năng thân cận những trang hiền ngõ,
Trọng tôn ty tỏ rõ phẩm người lành.
(Phương Tu Đại Đạo).
子
Tý là chữ thứ nhứt trong hàng Địa chi, dùng để chỉ năm, tháng, ngày, giờ.
Địa chi gồm có mười hai chữ: Tý biểu tượng là chuột, Sửu biểu tượng là trâu, Dần biểu tượng là cọp, Mẹo biểu tượng là mèo, Thìn biểu tượng là rồng, Tỵ biểu tượng là rắn, Ngọ biểu tượng là ngựa, Mùi biểu tượng là dê, Thân biểu tượng là khỉ, Dậu biểu tượng là gà, Tuất biểu tượng là chó, H biểu tượng là heo Như: Tý niên, tháng tý, ngày tý, tý thời.
Xem: Tý thời.
Giờ tý đến thay xiêm đổi áo,
Các ông quỳ cầu đảo Thần linh.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
子 時
Tý: Ký hiệu thứ nhứt trong mười hai chi dùng trong phép đếm thời gian cổ truyền của Tàu. Thời: Thời gian.
Tý thời là thời tý, chỉ khoảng thời gian từ 12 giờ đến 1 giờ khuya.
Người xưa lấy một ngày là 24 giờ chia làm 12 thời, mỗi thời gồm hai giờ. Tý thời gồm 12 giờ đến 1 giờ khuya, Sửu thời gồm 2 giờ đến 3 giờ khuya, Dần thời gồm 4 giờ đến 5 giờ sáng, Mẹo thời gồm 6 giờ đến 7 giờ sáng, Ngọ thời gồm 12 giờ đến 1 giờ trưa và Dậu thời gồm 6 giờ đến 7 giờ chiều.
Trong Đạo Cao Đài, tại Đền Thánh, Báo Ân Từ, hoặc các Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu địa phương, hoặc tại tư gia của tín đồ đều có thiết lễ cúng Đức Chí Tôn trong bốn thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, gọi là Cúng Tứ Thời.
Đặc biệt, tý thời thường được dành để cúng vía các Đấng Thiêng liêng tại Đền Thánh.
Tý thời nghịch lẫn Ngọ đưa oan,
Mấy lúc chung lo cái vẻ nhàn.
(Đạo Sử).
1.- Tỳ 婢 là đứa đầy tớ gái, không dùng một mình.
Như: Tỳ tất, thị tỳ, tiện tỳ, nô tỳ, đổi hình tỳ thiếp ra ngôi phi tần.
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng bì đồng nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tỳ 脾 là lá lách, một bộ phận trong bộ máy tiêu hoá, chứa nước chua để tiêu chất thịt, chất mỡ.
Như: Tỳ vị, phạt tỳ.
Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có câu: Ừ, con rán nhịn cơm chừng ba bốn bữa nữa đặng Thầy dùng huyền diệu pháp mà trị bịnh cho con thiệt mạnh, lần nầy từ đây mới dứt bịnh miễn đừng ăn món chi nó phạt tỳ thôi.
Các vật thực vào tỳ vị, lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết.
(Thánh Ngôn HIệp Tuyển).
3.- Tỳ 疵 có nghĩa là dấu vết trên một vật nào đó, làm cho xấu đi.
Như: Viên ngọc có tỳ, cốc pha lê có tỳ, lý lịch của anh ấy bị tỳ tích.
Màu hồng chàng nhuộm cho nên trắng,
Ngọc quý người quăng đến phải tỳ.
(Thiên Thai Kiến Diện).
4.- Tỳ 鼻, do chữ “A tỳ 阿 鼻”, phiên âm từ Phạn ngữ Avici, nghĩa là “vô gián” tức là không gián đoạn, không ngừng nghỉ. Vô gián Địa ngục hay A tỳ địa ngục là nơi thấp kém nhứt trong mười cửa Địa ngục, giam những người phạm tội ngũ nghịch.
Đây là một cõi Địa ngục chịu tội báo nặng nề nhứt, bởi vì các hình khổ nơi đây liên tục triền miên không ngừng và linh hồn phải chịu ở đó đời đời kiếp kiếp.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác đoạ sa A Tỳ.
(Kinh Sám Hối).
5.- Tỳ 琵, do chữ “Tỳ bà 琵 琶”, là một loại đàn kiểu cổ, có bốn dây hình quả bầu, mặt phẳng, cố dài.
Như: Tiếng tỳ văng vẳng vọng lại, giọng tỳ nghe réo rắt trong đêm khuya.
Nghe giọng tỳ khêu mấy đoạn buồn,
Chạnh cơn thất thố với ly hương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðài trăng chị Nguyệt đem cho Ngọc,
Cửa gió chàng Liêm dạy khảy tỳ.
(Thiên Thai Kiến Diện).
琵 琶
1.- Tỳ bà là tên một loại đàn cổ xưa. Như: Đàn tỳ bà.
Ngày xưa, lúc Chiêu Quân từ giã vua Hán Nguyên Đế đi cống Hồ, khi ra khỏi cửa ải Vân Quan, nàng ngồi trên ngựa, gảy đờn Tỳ bà giọng rất ai oán.
Do vậy, đàn tỳ bà còn gọi là Hồ cầm.
Buổi Tề khán trận thế nguy nan,
Cậy có Tỳ Bà lập chiến tràng.
(Thơ Cao Liên Tử).
2.- Trong Đạo Cao Đài, mỗi vị Tiêng nương trong Diêu Cung có một bửu pháp.
Cây đàn Tỳ Bà là một Bửu Pháp của Nhất Nương Diêu Trì Cung.
Cô Nhứt Nương coi vườn Ngạn Uyển,
Cầm Tỳ Bà điều khiển cơ sinh.
(Quan Cảnh Toà Thánh).
Hay “Tỳ Hán”.
Tỳ: Tỳ bà, tên một loại đàn. Hớn (Hán): Đời nhà Hán ở Trung Quốc.
Ngày xưa Chiêu Quân đời nhà Hán bị đưa đi cống Hồ, nàng ngồi ôm cây Tỳ bà đàn, tiếng nghe rất ai oán, vì vậy người ta gọi cây đàn Tỳ bà là Tỳ Hớn (Tỳ Hán 琵 漢).
Tranh Tần ghẹo nguyệt người cung lãnh,
Tỳ Hớn khêu đau khách ải Đồng.
(Thơ Hộ Pháp).
毘 文 毘 武
Tỳ Văn Tỳ Vũ là tên hai pho tượng Ông Thiện, Ông Ác đặt trước Đền Thánh tại Toà Thánh Tây Ninh.
Do điển tích như sau: Tỳ Văn, Tỳ Vũ chính là hai pho tượng Ông Thiện Ông Ác, con vua Tỳ Kheo, một ông vua thứ 12 thời Thượng cổ. Khi vua cha đã già, muốn truyền ngôi lại cho Tỳ Vũ (tức ông Ác), nhưng thấy tính rất hung dữ, bèn lập kế sai Tỳ Vũ đến Hàng Châu chiêu mộ anh tài, ở nhà vua Tỳ Kheo mới nhường ngôi cho Tỳ Văn (tức Ông Thiện).
Sau khi xong việc, Tỳ Vũ hồi triều, thấy anh là Tỳ Văn đã lên ngôi, bèn làm dữ, đòi lại ngôi báu. Tỳ Văn sợ thất hứa với vua cha, nên vội lấy ngọc tỷ chạy lên chùa lánh, nhưng vừa tới nơi thì thoát xác, hồn về cõi Tiên.
Tỳ Vũ thấy người anh chết, hết sức ăn năn, hối hận, rồi phủi hết việc đời lo tu niệm, cuối cùng thì cũng được đắc đạo.
Ông Thiện, ông Ác diễn ra,
Tỳ Văn, Tỳ Vũ, cha là Tỳ Kheo.
(Lược Thuật Toà Thánh).
脾 胃
Tỳ: Lá lách. Vị: Dạ dầy, bao tử.
Tỳ vị là lá lách và dạ dầy. Theo cách gọi trong Đông y, Tỳ vị chỉ chung về bộ tiêu hoá. Như: Tỳ vị yếu.
Dạy về giới cấm “Bất tửu nhục”, Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Hình chất con người vẫn là thú, phải ăn uống mới nuôi sự sống. Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào ngũ tạng lục phủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng, mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng.
Các vật thực vào tỳ vị, lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Tỷ 姊 là chi gái. Như: Huynh tỷ đệ muội, đạo huynh đạo tỷ, hiền huynh hiền tỷ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh viết: Hôm nay lấy làm vui mừng về đến Tổ đình hội hiệp với chư quý hiền huynh, hiền tỷ để được cùng nhau chung gánh nhiệm vụ thiêng liêng đối với Ðức Chí Tôn, với Ðạo và với nhơn sanh.
Xin đạo huynh đạo tỷ chịu phiền,
Muốn coi tiếp liền liền xin nối.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tỷ 譬, còn đọc “Thí”, là ví như, tựa như, ví dụ.
Như: Tỷ dụ, tỷ như, lấy cái nầy mà tỷ với các kia.
Thánh giáo Thầy có câu: Còn bực chơn tu, tỷ như một hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, rồi sanh trái mà biến biến sanh sanh càng tăng số.
Hành thuyền kỵ mã miệng đời chê,
Thầy tưởng thân con tỷ Thúc Tề.
(Đạo Sử).
Còn cha con tỷ như côi,
Chít chiu trẻ khó, bồi hồi mẹ đơn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Không vị kỷ nào sờn luật lịnh,
Tỷ không mua ai tính đòi tiền.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Tỷ 婢, đúng ra đọc âm “Tỳ”, là người đầy tớ gái, không dùng một mình.
Như: Tỷ nô (nô tỳ, thị tỳ), tỷ tất.
Xem: Tỳ.
Đừng để vào hạng trẻ tỷ nô,
Đày phận gái đơn cô không chỗ dựa.
(Phương Tu Đại Đạo).
姊 娘
Tỷ: Chị gái. Nương: Tiếng dùng để gọi người đàn bà đáng kính trọng.
Tỷ nương là người chị đáng yêu kính.
Cùng Tỷ nương Đường thị con đây,
Lo phương thế đỡ day trong mối Đạo.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Tỷ nưong khá khai đường tỏ rạng,
Phòng dắt dìu các bạn nữ nhi.
(Bát Nương Giáng Bút).
璽 符
Tỷ: Ấn vua. Phù: Vật để làm tin.
Tỷ phù là ấn vua, còn gọi là “Ngọc tỷ 玉 璽”.
Như: Vua truyền ngôi báu cho Thái tử thì cũng phải giao lại ngọc tỷ phù.
Bởi vua cha noi theo Phật Đạo,
Giao Tỷ Phù ngôi báu Tỳ Văn.
(Lược Thuật Toà Thánh).
避 惡
Tỵ: Lánh. tránh xa. Ác: Hung tợn.
Tỵ ác là là tránh điều hung tợn, hay xa lánh người dữ.
Trong Minh Tâm Bửu Giám có câu: Tỵ ác như uý xà yết 避 惡 如 畏 蛇 蠍, nghĩa là tránh người hung dữ như sợ loài rắn rết.
Tỵ ác thân hiền mới phải trang,
Cũng trong xã hội một quan làng.
(Đạo Sử).
避 嫌
Tỵ: Tránh, lánh. Hiềm: Nghi ngờ.
Tỵ hiềm là tránh những việc sinh ra mối hiềm nghi, hay nói cách khác, tránh để khỏi bị nghi ngờ.
Như: Xoá bỏ mọi sự tỵ hiềm giữa hai bên.
Tỵ hiềm đừng để khí xung thiên,
Danh của Thầy con nhớ liệu nên.
(Đạo Sử).
Tỵ hiềm chi những tiếng gièm pha,
Ngó vách chưa hay đã khỏi nhà.
(Đạo Sử).
避 塵
Tỵ: Lánh, trốn tránh. Trần: Bụi bặm, chỉ cõi thế gian đầy uế trược.
Tỵ trần là lánh cõi trần để đi ở ẩn, hoặc tu hành.
Tỵ trần còn có nghĩa là lìa xa nơi thế gian để về cõi Thiêng Liêng, tức chỉ sự chết.
Như: Sau cơn nhẹ, Ngài đã tỵ trần một cách êm ái.
Cảm đức Cao Quân sớm tỵ trần,
Chạnh lòng luyến tiếc Đấng siêu nhân.
(Thơ Huệ Phong).
To: Lớn, trái với nhỏ. Gan: Bạo dạn, can đảm.
To gan là có gan làm những việc nguy hiểm mà không hề sợ sệt.
Như: Thằng bé to gan thật dám leo núi một mình, Kẻ trộm to gan dám lén vào nhà lúc mọi người còn thức.
Nghĩ con chút phận phấn hương,
Dám đâu ra chốn công đường to gan.
(Thơ NĐS Hương Thanh).
Tò mò là dò dẫm, tìm tòi, dọ hỏi để biết bất cứ điều gì, có quan hệ hay không quan hệ đến mình.
Như: Cặp mắt tò mò theo dõi chuyện người, tính hay tò mò để ý việc riêng kẻ khác.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ai đời móc cả cái óc não, cả cái khôn ngoan, cái hay biết ra đặng tìm cái năng lực vô đối tức là nguyên tử lực, rồi còn tò mò kiếm một cái mạnh hơn nguyên tử lực ấy nữa, mấy thứ bom đương nhiên bây giờ nó giết hại nhơn mạng coi như con muỗi, con kiến.
Bến tục thuyền từ dìu độ chúng,
Đưa vào nguồn sống khởi tò mò.
(Thơ Hiến Pháp).
1.- Tỏ là sáng rõ, soi rõ, thường nói về ánh sáng của đèn, ánh trăng.
Như: Đêm thanh trăng tỏ, khêu tỏ ngọn đèn, trời chưa sáng tỏ.
Lần chuổi hột từ bi cứu khổ,
Nương gió thanh trăng tỏ là nhà.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tỏ là bộc lộ, giãi bày cho người khác biết rõ. Như: Anh ấy tỏ ý muốn nhập môn vào Đạo.
Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy tỏ thật, cái luật lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí mà lập thành đây, nó có ảnh hưởng về đạo đức, Tiên phong Phật sắc của các con, nên Thầy buộc mình cam chịu vậy.
Nhắn mưa gởi gió đưa thương,
Từ đây thiếp tỏ đoạn trường với ai?
(Kinh Thế Đạo).
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Tỏ là biểu hiện ra bằng cử chỉ, nét mặt cho người khác thấy rõ. Như: Tỏ vẻ quan tâm.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Thầy lấy làm vui mà trông thấy các con hội hiệp nhau đêm nay mà tỏ lòng thành kính.
Bề trong ngay thẳng tỏ bề ngoài,
Miệng chánh thì đời vốn trái tai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tỏ: Bộc lộ, giãi bày cho người khác biết rõ. Bày: Nói ra điều thầm kín.
Tỏ bày, như chữ “Bày tỏ”, là nói ra cho người khác biết tình cảm hay ý kiến của mình.
Như: Tỏ bày tâm sự.
Nghe hạc tỏ bày lời chân lý,
Gà thấy mình ích kỷ tối tăm.
(Thơ Hộ Pháp).
Tỏ: Rõ, sáng, biết rõ. Rạng: Hé sáng, sáng.
Tỏ rạng là sáng tỏ, chỉ sự sáng rực, hoặc chỉ sự hiểu biết rõ ràng. Như: Trời đã tỏ rạng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta biết rằng sắc dân nào cũng có chơn lý tối trọng là chẳng hề qua khỏi mặt Ðạo, ấy là gương tỏ rạng cho toàn con cái Chí Tôn soi thấy. Dầu đời biến chuyển thế nào, nhơn loại cũng không bao giờ xa Ðạo, bởi quyền năng tinh thần là một, sắc dân nào dầu văn minh cao siêu đến đâu cũng chẳng từ chối Ðạo giáo được.
Rừng thung bóng nhựt đã hầu chinh,
Tỏ rạng gần nơi bước vẹn gìn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đảnh Việt chờ qua cơn bão tố,
Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bóng dương tỏ rạng lố chơn mây,
Ðầm ấm hơi xuân nở mặt mày.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tỏ: Giãi bày, bộc lộ cho người khác biết. Rõ: Sáng tỏ, rõ ràng.
Tỏ rõ là bộc lộ, giãi bày cho người khác biết rõ ràng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Có nhiễm trần, có lăn lóc mơi sương chiều gió, có kim mã ngọc đàng, có đai cân rực rỡ, có lấn lướt tranh đua, có ích kỷ hại nhân, có vui vẻ với mùi đỉnh chung lao lực, mới thấy đặng tỏ rõ bước đời gai chông khốn đốn, mới thấy cuộc nhục vinh, buồn vui không mấy chốc, chẳng qua là trả vay vay trả đồng cân, chung cuộc lại thì mối trái oan còn nắm, mà cũng vì đó mới thấy đặng đường hạnh đức trau mình, trò đời chẳng qua một giấc huỳnh lương.
Năng thân cận những trang hiền ngõ,
Trọng tôn ty tỏ rõ phẩm người lành.
(Phương Tu Đại Đạo).
Bóng mặt trời vừa khuất đầu non,
Coi ánh sáng chiều còn tỏ rõ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tỏ: Rõ, sáng, biết rõ, giãi bày. Tường 詳: Hiểu rõ.
Tỏ tường là rõ ràng, biết tường tận. Như: Tỏ tường hết đầu đuôi câu chuyện.
Thánh giáo Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Thiên cơ khó lậu, nếu tỏ tường chơn pháp của Lôi Âm Tự và Bạch Ngọc Kinh ra thì chưa ắt ngày nào Đạo đặng mở, Tam giáo quy nhứt.
Xử sao trên thuận dưới hoà,
Xướng tuỳ trọn đạo gần xa tỏ tường.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Màn Trời đã vẹt ngút mây trương,
Bước tới đài hoa thấy tỏ tường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,
Cũng là một trả đổi xưa vay.
(Đạo Sử).
座
1.- Toà là từ dùng để chỉ từng đơn vị những công trình xây dựng, dinh thự, tức nơi làm việc của các cơ quan hành chánh của nhà nước hay tôn giáo.
Như: Toà lâu đài, Toà Thánh, toà Bạch Ngọc Kinh, toà Thiên các.
Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Những kẻ chí sĩ lãnh trách nhậm nghiêng vai gánh vác cả non sông đều làm phận sự. Công nghiệp nhiều ít ấy, tính lời vốn với Toà thiêng liêng, hoặc ghi tên tuổi vào thanh sử thiên niên, chớ chẳng phải để kể công trình với chúa tể ấy.
Một toà Thiên các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhoá sao.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Toà là chỗ ngồi tôn nghiêm.
Như: Toà sen Thầy ngự, toà ngự của Đức Phật, Tâm ấy toà sen, mấy toà thiên nhiên.
Bần sang trối mặc tâm là quý,
Tâm ấy toà sen của Lão ngồi.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Vào cung Vạn Pháp xem qua,
Cho tường cựu nghiệp mấy toà Thiên nhiên.
(Kinh Tận Độ).
3.- Toà còn dùng để chỉ nơi xử kiện của Đời hay Đạo. Như: Toà án, Toà Tam Giáo, đưa vụ án ra Toà.
Điều thứ ba mươi trong Tân Luật quy định như sau: Toà Tam Giáo có đức Giáo Tông làm đầu. Ba vị Chưởng Pháp nghị án. Vị Đầu Sư phái mình về phần dâng biểu buộc tội. Một chức sắc Hiệp Thiên Đài làm trạng sư.
Đừng học thói của quân bạo ngược,
Xử mẹ cha tội phước quá hơn Toà.
(Phương Tu Đại Đạo).
Trên Từ Phụ chứng minh soi xét,
Con ký tên giao kết tại Toà.
(Thơ NĐS Hương Thanh).
座 案
Toà: Nơi xử việc kiện tụng. Án: Lời phán quyết của thẩm phán.
Toà án là một cơ quan có nhiệm vụ xét xử các vụ phạm pháp luật, kiện tụng...
Trong đạo Cao Đài, Bộ Pháp chánh như một toà án ngoài đời, có thẩm quyền can thiệp, xử án để sửa chữa, cảnh cáo hay trục xuất những chức sắc và tín đồ vi phạm luật pháp Đạo.
Giữ công bình xử đoán coi dèo,
Quyền toà án bì theo cũng không kịp.
(Phương Tu Đại Đạo).
Thấy xưng tội ruột gan xào,
Cảnh như toà án ra vào thường xuyên.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
座 案 良 心
Toà án: Nơi phán xét những hành vi tội lỗi. Lương tâm: Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn, lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức. Làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi nơi Thiên luật.
Như vậy, toà án lương tâm có nghĩa là lấy lương tâm làm toà án để phán xét những hành vi thiện hay ác do mình gây ra. Nếu làm một điều thiện thì tâm hồn cảm thấy vui tươi, khoan khoái, nếu làm một việc ác thì lương tâm thường cắn rứt không thôi.
Toà án lương tâm quyền quyết đoán,
Trời người đồng trị nước nhà an.
(Thơ Huệ Phong).
Toà án lương tâm quy định tội,
Phép tu ác nghiệp khảo trừ công.
(Thơ Huệ Phong).
Toà: Dinh thự. Báo: Tờ hoặc tập giấy in, xuất bản có kỳ để thông báo tin tức cho mọi người.
Toà báo là nơi làm việc của một cơ quan báo chí, còn gọi là “Toà soạn” báo.
Như: Do mất quyền tự do báo chí, nhiều toà báo đã bị đóng cửa.
Toà báo bị niêm phong đóng cửa,
Nhóm Sĩ phu lần lựa ẩn tàng.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
座 道
Toà: Toà án. Đạo: Tôn giáo.
Theo Đạo luật năm Mậu Dần, Toà Đạo là một cơ quan bảo thủ chơn truyền, gìn giữ luật pháp, chăm nom chư chức sắc, chức việc và Đạo hữu thi hành phận sự, chở che những kẻ yếu tha, binh vực những người cô thế, hoặc tiếp cả sự uất ức bất công của toàn sanh chúng, tức là giữ nét công bình trên mặt Đạo, lại cũng là một cơ quan giúp cho Hành Chánh Đạo, Phước Thiện và Phổ Tế thêm oai quyền mạnh mẽ tôn nghiêm đặc sắc.
Như vậy, Toà Đạo lập ra để binh vực người bị oan ức, trừng phạt những người phạm luật pháp và gìn giữ trật tự cho nền Chánh Trị Đạo. Đó chính là Toà án của đạo Cao Đài để xử trị những chức sắc, chức việc và tín đồ phạm luật pháp.
Toà Đạo, sau đó vào ngày 15 tháng 10 năm Đinh Hợi (Dl. 27-11-1947), được Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa lúc ấy là chưởng quản Toà Đạo, đổi tên là Bộ Pháp Chánh. Bộ Pháp Chánh trực thuộc chi Pháp Hiệp Thiên Đài, do một vị Thời Quân chi Pháp chưởng quản.
Xem: Bộ Pháp Chánh.
Do đơn tố tụng mở phiên Toà,
Pháp lý đòn cân Đạo lập ra.
(Thơ Huệ Phong).
Toà: Dinh thự. Nội: Trong, bên trong. Chính (Chánh): Chỉ việc hành chánh, cai trị.
Toà Nội chánh là cơ quan hành chánh trung ương của Đạo Cao Đài.
Toà Nội Chánh còn gọi là Cửu Viện Cửu Trùng Đài, nơi làm việc của Hội Thánh Cửu Trùng Đài, cơ quan trung ương của Đạo Cao Đài, có nhiệm vụ truyền bá giáo lý Đại Đạo và phổ độ chúng sanh.
Toà Nội Chánh nằm song song với ngôi Toà Thánh, nóc bằng, khối hình chữ nhựt, chia làm hai tầng trên dưới, thật đồ sộ nguy nga.
Ngôi Toà Nội chánh chia là nhiều phòng, nơi làm việc của Cửu Viện Cửu Trùng Đài.
Xem: Cửu Viện.
Kìa Toà Nội Chánh thêm cao,
Đầu Sư một vị bền trau ái hoà.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
孽 鏡
Toà: Dinh thự. Nghiệt: Mầm ác. Cảnh (Kính): Tấm gương soi.
Nghiệt cảnh là tấm gương soi căn nghiệt.
Toà Nghiệt cảnh là một ngôi toà ở nơi cõi thiêng liêng, có đặt một tấm kính huyền diệu dùng để soi lại những hành vi thiện ác của con người trong kiếp trước ở nơi thế gian.
Các chơn hồn khi đứng trước Toà Nghiệt cảnh đều hiện ra những việc lành dữ của mình trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần để định phân tội phước mà quyết định chơn hồn đó sẽ được thăng hay đoạ.
Ai giữ trọn bực phẩm thì đặng Toà Nghiệt cảnh tương công chiết tội, để vào địa vị cao hơn chốn Ðịa cầu 68 nầy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Toà: Toà án, dinh thự. Phán xét: Phán đoán, xét xử.
Toà Phán xét là tiếng dùng để chỉ chung các Toà án nơi cõi Thiêng liêng để phán xét công, tội của các chơn linh khi còn sống nơi cõi trần, hầu quyết định việc thăng hay đoạ.
Thánh giáo Thầy có câu: Các con sẽ không còn chối cãi được trước Toà Phán Xét chung rằng Thầy không cứu vớt nhơn loại bằng những phương pháp công hiệu.
Nơi Toà Phán Xét, chẳng một lời nói vô ích mà bỏ, nên Thầy dạy các con phải cẩn ngôn cẩn hạnh...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Toà: Nơi ngồi hoặc đứng của chư Phật. Sen: Hoa sen.
Toà sen, bởi chữ “Liên toạ 蓮 座” là toà sen, chỉ cái ngôi vị của Đức Phật.
Hoa sen biểu trưng cho con đường nhập thế của Phật giáo, như câu thành ngữ: “Cư trần bất nhiễm trần 居 塵 不 染 塵” tức sống ở trên trần gian nhưng không bị nhiễm bởi cõi trần, tựa như hoa sen gần bùn mà không hôi mùi bùn.
Do vậy, hoa sen thường được Phật giáo biểu tượng là Toà sen, hay ngôi vị Phật.
Toà sen báu vật xin đưa,
Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên.
(Kinh Tận Độ).
Bần sang trối mặc tâm là quý,
Tâm ấy toà sen của Lão ngồi.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Toà sen chín phẩm do chữ “Cửu phẩm liên hoa 九 品 蓮 花”, tức là chín phẩm bậc, hay chín ngôi vị ở cõi Cực Lạc Thế Giới.
Theo Tịnh Độ Tông, người tu tuỳ tịnh nghiệp nhiều ít được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Chúng sanh ở cõi Tịnh độ này được hoá sanh từ hoa sen. Về ở một trong chín bậc hoa sen cao thấp khác nhau, chia làm ba cấp: Thượng, trung, hạ và mỗi cấp lại chia làm chia là thượng, trung, hạ nữa, nên gọi là “Toà sen chín phẩm”.
Xem: Chín phẩm toà sen.
Đoạn căn đóng chặt Âm cung,
Toà sen chín phẩm để cùng Phật tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Toà Tam giáo, như chữ “Tam Giáo Toà 三 教 座”, là một Toà án đặc biệt trong Đạo Cao Đài để xét xử các chức sắc, chức việc, đạo hữu vi phạm luật pháp Đạo một cách nặng nề và nghiêm trọng.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có một đoạn dạy như sau:
Vậy gắng khổ tâm giữ lòng đạo đức mà vẽ bước cho đời sau, lập công quả đặng chờ ngày chung cuộc, phủi nợ trần ai, đem tấm lòng thiện niệm đến Tam Giáo Đài mà phục hồi cảnh cũ, rừng vắng non nhàn, suối chảy tòng đưa, lánh chốn đọa đày đã bấy lâu ràng buộc.
Qua ý nghĩa câu Thánh giáo trên thì Tam Giáo Đài cũng đồng nghĩa với Tam Giáo Toà.
Toà Tam Giáo có ba cấp từ thấp lên cao: Toà Tam Giáo Cửu Trùng Đài, Toà Tam Giáo Hiệp Thiên Đài và Toà Tam Giáo Bát Quái Đài.
Riêng Toà Tam Giáo Bát Quái Đài (Toà Tam Giáo Thiêng Liêng) còn có nhiệm vụ phong thưởng những chức sắc có công lớn trong Đạo.
Thành phần xử án trong Toà Tam Giáo Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài được chọn những chức sắc cấp cao trong ba phái Thái, Thượng, Ngọc, đại diện cho Tam giáo.
I.- Toà Tam Giáo Cửu Trùng Đài:
Toà Tam giáo Cửu Trùng Đài chỉ xét xử những chức sắc Cửu Trùng Đài vi phạm luật pháp Đạo một cách nghiêm trọng.
Nếu bị can tội nhẹ thì không đưa qua Toà Tam Giáo, chỉ ra Toà Hòa Giải ở địa phương, hay đưa ra Hội Công Đồng hoặc Ban Kỷ Luật xét xử.
Thành phần Toà Tam Giáo Cửu Trùng Đài:
|
Chủ tọa: |
|
Giáo Tông. |
|
Nghị án: |
|
Ba vị Thái, Thượng và Ngọc Chưởng Pháp. |
|
Buộc tội: |
|
Vị Đầu Sư cùng phái với bị can. |
|
Trạng Sư: |
|
Một vị Chức sắc Hiệp Thiên Đài. |
Tùy theo tội trạng, Toà Tam Giáo Cửu Trùng Đài có quyền xử các vị chức sắc Cửu Trùng Đài phạm tội, giáng một hay nhiều cấp hoặc trục xuất ra khỏi Đạo.
II.- Toà Tam Giáo Hiệp Thiên Đài:
Thành phần Toà Tam Giáo Hiệp Thiên Đài gồm có:
|
Chủ tọa: |
|
Hộ Pháp hay một Thời Quân Chi Pháp. |
|
Nghị án: |
|
Hai chức sắc Cửu Trùng Đài phẩm Giáo Sư hay Phối Sư. |
|
Buộc tội: |
|
Một vị Thời Quân Chi Thế. |
|
Biện hộ: |
|
Một Chức sắc Cửu Trùng Đài đồng phẩm với bị cáo,
do bị cáo lựa chọn. |
|
Cãi trạng: |
|
Một vị Thời Quân Chi Đạo. |
|
Chép án: |
|
Một Chức sắc tiểu cấp Hiệp Thiên Đài. |
Danh sách các vị chức sắc ngồi Toà Tam Giáo Hiệp Thiên Đài do vị Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh đề cử lên Đức Hộ Pháp và Đức Hộ Pháp ra một sắc lịnh ban hành chánh thức.
Theo quyển Chánh Trị Đạo của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa thì Toà Tam Giáo Hiệp Thiên Đài phải được nhóm tại Toà Thánh Tây Ninh để xét đoán, phân xử những đơn kêu nài của phạm nhơn còn uất ức, không vừa lòng án tiết của Toà Tam Giáo Cửu Trùng Đài.
Án của Toà Tam Giáo Hiệp Thiên Đài là chung thẩm, bị cáo không được phép kêu nài nữa.
Toà Tam Giao Hiệp Thiên Đài có quyền xét xử những vụ việc xảy ra trong các trường hợp sau đây:
- Giữa chức sắc và chức việc với tín đồ.
- Giữa chức sắc với chức sắc trong các cơ quan của Đạo.
- Giữa chức sắc Cửu Trùng Đài hay chức sắc Phước Thiện với chức sắc Hiệp Thiên Đài.
- Giữa nhơn viên cao cấp của các bộ ngoại pháp Chánh Trị Đạo.
Quyền Phá Án do Toà Tam Giáo Hiệp Thiên Đài xét xử thì thuộc phần Toà Tam Giáo Bát Quái Đài, tức Toà Tam Giáo thiêng liêng và quyền của Đức Chí Tôn (Bát Quái Đài) nhứt định, ấy là về cơ Thiên trị.
Quyền Ân Xá là quyền của Đức Hộ Pháp về hình luật hữu vi mà buộc người phải dâng sớ vào Toà Đạo Bát Quái Đài cầu xin tha thứ về hình luật Thiên Điều.
III.- Toà Tam Giáo Bát Quái Đài:
Toà Tam Giáo Bát Quái Đài còn gọi là Toà Tam Giáo Thiêng Liêng hay Toà Tam Giáo Ngọc Hư Cung, do Đức Chí Tôn chủ tọa, Tam Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Tam Giáo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nghị án.
*- Toà Tam Giáo Bát Quái Đài là một Toà án tối cao nơi cõi thiêng liêng có nhiệm vụ phong thưởng những chức sắc có công lớn, và những chức sắc phạm trọng tội với Đạo.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Đức Chí Tôn có lời dạy như sau:
Thầy vì lẽ công mà phong chức sắc cho mỗi đứa cũng là do Toà Tam Giáo xin, chớ xem lại trong hàng môn đệ đã thọ tước cũng chưa đặng thấy mấy đứa cho xứng đáng.
Vậy các con đứa nào đã được thưởng phong cũng chẳng nên vội mừng mà quên phận sự, còn mấy đứa chưa đặng phong thưởng cũng không nên vội buồn mà thất đạo tâm. Các con hiểu à!
Khi Đức Lý Đại Tiên trở lại tái thủ quyền hành Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là Ngài lập ra Tam Giáo Toà để xử trị những chức sắc làm loạn Đạo, khiến cho mối đạo phải chinh nghiêng, Ngài dạy:
Lão vì Chí Tôn nài nỉ cầm mối Thiên thơ sửa nền Chánh giáo, mà tái nhậm quyền hành Giáo Tông. Lão lại đặng sớ cầu lập Tam Giáo Toà, Lão cũng muốn để cho cơ Đạo tận lẽ chinh nghiêng rồi ra sửa trị, cho đời thấy phàm Thánh bất đồng, nhưng Chí Tôn sợ Lão tận diệt tội nhơn, đày vào ngục điện, mà nài nỉ xin giùm, Lão thấy lòng từ bi của Chí Tôn nên chẳng nỡ nào, song trước khi cầm quyền, Lão định phạt răn trước đã.
Vậy Lão hỏi Đầu Sư Thượng Trung Nhựt có đồng tình cùng Lão chăng?
Thượng Trung Nhựt bạch: Vì xác phàm của đệ tử nên phải vương vấn Thiên điều. Vậy đệ tử cúi xin Ngài từ bi phân định lẽ nào cho siêu tội thiêng liêng, miễn cho tránh khỏi đọa đày vào A Tỳ, hầu mong ngày sau độ lại.
*- Cười ... Ấy là phương cứu độ. Vậy Lão nhứt định lập Tam Giáo Toà kể từ đầu tháng chạp năm nay, nhưng Lão phải ngừa một điều là những tội nhơn đã có Hộ Pháp bảo hộ nơi Cửu Trùng Đài, chẳng đặng phép cầu nài về Hiệp Thiên Đài nữa đặng nghe. Xin Hộ Pháp miễn nghị nghe.
Lão nhứt định trục xuất những Chức sắc vô công hành đạo từ thử đến chừ. Hiền hữu đồng tình với Lão chăng?
*- Toà Tam Giáo Bát Quái Đài là một Toà án cấp cao nơi cõi thiêng liêng lập ra để xét công tội của một chơn linh đã quá vãng.
Khi Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương vừa đăng Tiên, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy một đoạn như sau:
Sự thác cũng có khi vui mà cũng có lúc buồn. Người thế nếu biết sống, nghĩa là biết dụng mình cho có ích vào xã hội, biết dưỡng tánh tu thân, thì sự thác chẳng qua là sự mong mỏi của kẻ hành trình đã xong trách nhậm, trở về phục sự đặng lãnh phần thưởng xứng đáng mà thôi.
Tương (Nguyễn Văn Tương) tuy chưa đặng như mấy kẻ ấy, song lòng đạo đức đã ra vun đắp mối Ðạo Trời, thì địa vị cũng có khi khác thế thường đặng. Ðiểm Chơn thần của nó còn phải đến hầu trước Toà Tam Giáo mà đợi lịnh phát lạc tùy theo công quả, tội tình của nó bấy nay. Ấy là Thánh ý của Thầy đã lập luật riêng cho mỗi đứa trong các con đó. Chư môn đệ cũng nên hiểu biết.
Hoặc trong một lời khác của Đức Chí Tôn: Vậy trong hịch văn sớ tấu, các con phải thượng nơi Toà Tam giáo mà cầu rỗi cho nó (Ngài Nguyễn Văn Tương) thiệt hết lòng, rồi Thầy sẽ rỗi cho nó. Các con hiểu.
*- Ngoài ra, Toà Tam Giáo Bát Quái Đài còn là một Toà án thiêng liêng dùng để xử trị các chơn hồn phạm Thiên điều.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy cũng đã từng khuyên dạy:
Than ôi! Các con xa Thầy chưa mấy ngày, thì mối Ðạo lớn lao đã thành một bàn hội vô giá trị ở cõi trần thế nầy. Mấy đứa mong chác sự phá hoại ấy lại là mấy ngọn đèn của Toà Tam giáo khêu lên để dìu đường cho cả chúng sanh, thì con phải nghĩ đến hành trình của Ðạo phải đến thế nào?
Toà Tam Giáo có ngày định lập,
Quyền phân minh đẳng cấp chánh truyền.
(Thất Nương Giáng Bút).
Toà: Từ dùng để chỉ đơn vị dinh thự, nơi thờ phượng. Thánh: Tiếng tôn xưng.
Toà Thánh, còn gọi là Đền Thánh, là ngôi Tổ Đình thờ Đức Chí Tôn, cũng là Toà Thánh Trung Ương của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức Đạo Cao Đài.
Hiện nay, Toà Thánh toạ lạc tại xã Long Thành Bắc, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh, thuộc miền Nam nước Việt. Còn Toà Thánh Tây Ninh là một cơ quan trung ương của Hội Thánh Cao Đài để điều hành, liên lạc với các Thánh Thất Địa phương về hành chánh và toàn bộ các hoạt động truyền giáo phổ độ nhơn sanh.
Đền Thánh là một ngôi thờ rất Uy nghi, nằm cao vút với hai lầu chuông, trống hai bên, gọi là Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài thuộc về phần Hiệp Thiên Đài.
Ở giữa từ nóc Đền Thánh, nổi lên một cái lầu bên dưới hình vuông, bên trên hình chóp tròn, gọi là Nghinh Phong Đài. Khoảng giữa, dưới Nghinh Phong Đài là một nền gồm chín cấp thuộc Cửu Trùng Đài.
Và Bát Quái Đài được xây một cái nền hình bát giác, trên thờ quả Càn Khôn, là nơi ngự của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế. Phần trên của Bát Quái Đài là một cái lầu cao, trên chóp lầu có ba pho tượng Phật, mặt day về ba hướng, Brahma Phật, Civa Phật và Christna Phật.
Hình Toà Thánh tượng trưng Tam bảo,
Tinh, Khí, Thần cơ Đạo hiển nhiên.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Toà Thánh hương đưa thấu chín trùng,
Nêu gương cứu thế dội phương Đông.
(Thơ Đức Thượng Sanh).
1.- Toả là toé ra, tủa ra, lan truyền phân tán ra các phía, các hướng.
Như: Khói toả ngút trời, đèn toả sáng, cành cây toả ra, hoa toả hương thơm.
Tranh khoe nguyệt rọi làu sông Vị,
Mây toả sương phơi bạc đảnh Tần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chiều xuân sương toả lồng sân hoạn,
Dặm liễu trăng soi rạng bước đường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Toả 鎖 là khoá. Như: Bế quan toả cảng, cương toả, kiềm toả.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Theo quý vị đã biết, ngày nay tôi và chư vị thời quân Hiệp Thiên Ðài về Toà Thánh đãm đương trách nhiệm cầm giềng mối Ðạo, một là vì có sự thoả thuận của các cơ quan trong Hội Thánh, hai là vì thấy tình thế của Ðạo đã đến lúc cực kỳ nghiêm trọng nên chẳng đành toả quan thành bại.
Ngùi trong trăm họ vùi chung đỉnh,
Cương toả chừng bao thoát khỏi vòng.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
Thung dung đã thoát vòng cương toả,
Tranh cạnh mặc ai lợi với quyền.
(Thơ Thông Quang).
坐
Toạ là ngồi, đặt yên. Như: Ngồi làm chủ toạ buổi họp, toạ vị.
Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Chỉ nghĩa là ngừng tư tưởng cầu cho Tâm an tịnh. Phép “Chỉ” đây cũng như phép Toạ vong của nhà Nho, tức là ngồi quên tất cả mọi sự mọi vật.
Cao thượng Chí Tôn quyền chủ toạ,
Đài tiền sùng bái giữ nâu sồng.
(Thơ Hộ Pháp).
坐 禪
Toạ: Ngồi, đặt yên. Thiền: Yên lặng suy nghĩ về giáo lý đạo Phật.
Toạ thiền là ngồi thiền, tức là ngồi yên lặng theo phép thiền định của Phật giáo Thiền Tông.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Tôi phải tự biết chắc rằng tôi đã chế ngự được thất tình lục dục, rồi tôi mới bắt đầu hàm dưỡng tinh thần toạ thiền nhập định.
Tóm lại, trong khi toạ thiền giữ hơi thở điều hoà, thân thể thung dung, tâm sáng suốt.
(Giáo Lý).
坐 位
Toạ: Ngồi, đặt cho yên. Vị: Ngôi vị.
Toạ vị là là ngồi lên ngôi vị của mình, tức là ngồi lên vị trí, hoặc cái ngai dành cho phẩm vị mình.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có đoạn dạy: Ðem Luật để lên rồi xuống toạ vị, lên điện để xuống. Chư Thiên phong đồng lạy Thầy.
Chư nhu đặng toạ vị hầu Thầy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
遂
Toại là thoả lòng, vừa ý, việc đã thành công, bèn.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chủ Nghĩa thương đời hoá chúng của Ngài, tuy kiếp sanh không được toại, nhưng lý thuyết sách vở của Ngài được lưu truyền cho đời sau mấy ngàn năm hưởng nhờ thì công nghiệp ấy đáng được tôn thờ sùng bái.
Bề ăn cách ở đã an nơi,
Cuộc thế dường ni đủ toại rồi.
(Đạo Sử).
Ðã từng cực nhọc đắp nền nhân,
Chưa toại ước mong vội lánh trần.
(Thơ Huệ Giác).
Trông lui chưa toại công ti tí,
Nghĩ tới buồn cười chuyện cỏn con.
(Thơ Thuần Đức).
遂 志
Toại: Vừa ý. Chí: Ưa thích.
Toại chí ý nói lòng được ưa thích, thoả mãn, được như ý mong muốn.
Như: Việc làm của anh làm cấp trên toại chí.
Đau khổ ném xong cái gánh trần,
Nhẹ nhàng mới toại chí thanh vân.
(Cao Tiếp Đạo Giáng).
Nhàn du toại chí bậc Tiên gia,
Trăm tuổi còn xuân tác chẳng già.
(Thơ Thái Đến Thanh).
遂 享
Toại: Được đầy đủ như mong muốn. Hưởng: Được nhận, được về phần mình.
Toại hưởng là được hưởng thụ một cách đầy đủ như mong muốn. Như: Ngồi toại hưởng cả gia tài.
Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông có dạy: Ráng lo Đạo buổi nầy để kiếm thêm vốn liếng hầu sau nầy toại hưởng. Đạo có khó mới có hay, Đời có gay mới có thuận.
Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày sau toại hưởng trọn Thiên ân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mình ích chi cho nhơn loại đỡ,
Ðừng ngồi toại hưởng lộc nhà Trời.
(Đạo Sử).
Nguyện linh hồn an bước Tiên du,
Chầu Đế Khuyết nghìn thu toại hưởng.
(Điếu Văn Đầu Sư).
遂 其 所 願
Toại: Thoả lòng. Kỳ sở nguyện: Những mong ước, nguyện vọng ấy của mình.
Toại kỳ sở nguyện là thoả được cái ước nguyện ấy của mình.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy cũng có phép răn trị kẻ vạy tà, các con duy có trông cậy nơi Thầy, bước đường cứ thủng thẳng đi lần tới, đừng gấp quá, mà cũng chớ thối lui, thì một ngày kia sẽ đặng toại kỳ sở nguyện.
Nhưng Thiên cơ há vị phàm phu tục tánh mà để các con toại kỳ sở nguyện sao?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
燧 人
Theo sách Thượng Thư Đại Truyện thì Toại Nhân là một vị vua thứ nhất trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân 燧 人, Phục Hy 伏 羲, Thần Nông 神 農.
Vào thời Thượng cổ, nhân dân chưa được khai hoá, vẫn còn uống huyết, ăn thịt sống súc vật. Vì vậy, Toại Nhân là vị vua đầu tiên dạy dân biết cách dùng cây để lấy lửa nấu chín các thức ăn.
Kìa Toại Nhân, Hữu Sào mẫn thế,
Tạo các công, kỹ nghệ đầu tiên.
(Lược Thuật Toà Thánh).
1.- Toan là rắp, có ý định thực hiện ngay điều gì đó. Như: Nó toan nói rồi lại thôi, việc toan làm lại quên.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Lão chỉ sợ một điều là Lão không phương gần kẻ tà tâm toan dạy dỗ; còn như gần kẻ đạo đức chơn thành thì rất dễ, song chẳng cần ích.
Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.
(Kinh Sám Hối).
Đã toan lãnh phận kiếm cung,
Đường tên mũi đạn để dùng bia danh.
(Xuân Hương Giáng Bút).
Duyên nợ vẹn đền toan dạ gắng,
Hận thù chung trả trọn lòng thờ.
(Thơ Huệ Giác).
2.- Toan còn có nghĩa là tính toán, lo liệu một việc gì.
Như: Lo toan, toan chuyện làm ăn lâu dài, hằng ngày ngoài việc buôn bán chị ấy còn lo toan việc nhà.
Bời lời lòng những luống lo toan,
Lo đến Tổ tông chốn suối vàng.
(Đạo Sử).
Toan: Tính toán, lo liệu một việc gì đó. Lo: Suy tính, định liệu để làm tốt công việc.
Toan lo, như chữ “Lo toan”, là lo liệu mọi công việc với tinh thần trách nhiệm cao.
Khuyến thiện đã nhiều công cực nhọc,
Toan lo cho vẹn Ðạo đồ thơ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chịu mòn mỏi mảnh thân nhi nữ,
Cũng toan lo gìn giữ khối tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Toan: Định, rắp, lo liệu. Tính: tính toán trù liệu.
Toan tính là suy nghĩ, lo liệu nhằm thực hiện một công việc gì. Như: Toan tính làm ăn lâu dài nơi đây.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Cũng có nhiều đứa vì hờn riêng mà gây nên ác cảm, nhưng nhiều hơn hết là kẻ vì Đạo mà tìm chước phàm đặng tính răn nhau, nào dè những sự toan tính ấy làm binh khí cho Tà quyền, trở lại hại bẩn mà không hay.
Sanh tài thì nghiệp cũng gầy nên,
Toan tính ra sao kế vững bền.
(Đạo Sử).
Sầu dài ngày vắng dễ chi vui,
Toan tính thâu đêm ruột rối nùi.
(Thơ Huệ Giác).
算
Toán là tính, trù tính, tính toán lo lường.
Như: Học sinh đang nghe thầy giảng về phép làm toán, Thầy phong thủy toán mạng số năm nay.
Trải bản địa dư ra toán thử,
Thái Bình Dương hải nổi can qua.
(Thơ Hộ Pháp).
算 數
Toán: Tính đếm, trù tính. Số: Mạng số.
Toán số là dùng thuật bói toán để xem vận mạng của con người hay của đất nước.
Như: Thầy tử vi đã toán số tôi là phải nghèo vật chất.
Lời sấm đoán văn khi thật quả,
Tiên tri toán số gẫm không lầm.
(Thanh Sơn Chơn Nhơn).
全
1.- Toàn là trọn vẹn, hoàn toàn. Như: Hoàn toàn, bảo toàn, vẹn toàn, toàn vẹn.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Con đã tới một lối đàng trở gay, vì nỗi ấy mà công quả sau nầy mới vẹn toàn đặng.
Sửa sang cho vẹn đạo cang thường,
Phải giữ cho toàn tánh thiện lương.
(Đạo Sử).
Học cho thấu máy linh cơ tạo,
Học cho toàn trí xảo văn minh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Toàn là hết thảy, tất cả. Như: Toàn cầu, toàn gia, toàn quốc, toàn tài, toàn thể.
Thánh giáo Thầy có câu: Chúng sanh là toàn cả nhơn loại chớ không phải lựa chọn một phần người, như ý phàm tục các con tính rỗi.
Phải giữ chơn linh đặng trọn lành,
Ngọc Hư toàn ngự đấng tinh anh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lập thế chưa ai toàn hưởng thế,
Trông mong chi đặng chữ hoà bình.
(Đạo Sử).
全 璧
Toàn: Trọn vẹn, hết thảy, tóm quát cả. Bích: Ngọc bích, một thứ ngọc đẹp, quý.
Toàn bích là hạt ngọc bích tròn vẹn cả ba mặt.
Toàn bích nghĩa bóng dùng để chỉ bài văn, bài thơ, hoặc quyển sách hay suốt từ đầu đến cuối.
Ngòi bút tinh hoa còn tạc nét,
Câu thơ toàn bích, mãi lưu vần.
(Thơ Huệ Ngàn).
全 球
Toàn: Tất cả, tóm quát cả. Cầu: Quả địa cầu.
Toàn cầu là chỉ các nước trên quả Địa cầu, tức nói phạm vi toàn thế giới. Như: Danh tiếng toàn cầu.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Nơi xứ nầy, dân tình rất thuần hậu và ôn hoà, nên Thầy đến cũng như Chúa Cứu Thế đã đến với chúng con để bài trừ Tà thuyết và truyền bá Chơn đạo trên toàn cầu.
Bảo sanh bủa khắp năm châu,
Toàn cầu chung hưởng phép mầu Chí Linh.
(Kinh Cúng Chiến Sĩ).
Ba đào qua, lố bóng Ngân,
Toàn cầu cả thấy nhân quần đắp xây.
(Xuân Hương Giáng Bút).
全 民
Toàn: Hết thảy, tất cả, trọn vẹn. Dân: Người thường thuộc lớp người đông đảo nhất trong xã hội.
Toàn dân là mọi người dân, hết thảy người sống trong một đất nước.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ấy vậy, trong gia đình thì người Cha chịu khổ với con, các quốc gia và cả toàn dân ở mặt địa cầu nầy chưa ai chia khổ được.
Ách nô lệ ngày nay hầu dứt,
Nước quật cường nhờ sức toàn dân.
(Kinh Cúng Chiến Sĩ).
Cơ đồ nếu muốn ngày vinh hiển,
Cứu nước toàn dân phải trổ tài.
(Thơ Hộ Pháp).
全 能
Toàn: Hết thảy, tất cả, trọn vẹn. Năng: Khả năng làm được việc.
Toàn năng là có khả năng làm được việc.
Trong Càn khôn Vũ trụ Đức Thượng Đế là Đấng có thể làm được tất cả, không có việc gì mà Đấng không làm được, từ những cái lớn vô cùng, đến những cái nhỏ li ti, từ cái thiện lương đến cái ác trược, từ sự sống đến cái chết... Nếu còn cái nào chưa làm được thì không thể gọi là Toàn năng.
Chính vì vậy, Đức Thượng Đế được gọi là “Toàn tri Toàn năng, Tận thiện, Tận mỹ” hay “Toàn tri năng, Tận thiện mỹ”.
Xem: Toàn tri năng tận thiện mỹ.
Loài người đến nay nhờ tấn hoá mà khôn ngoan, cũng như vạn vật nhờ tấn hoá mà được toàn năng toàn tri vậy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
全 權
Toàn: Hết thảy, tất cả, trọn vẹn. Quyền: Quyền hành.
1.- Toàn quyền là được cho phép sử dụng quyền hành trọn vẹn để giải quyết tất cả công việc cho đạt kết quả.
Như: Mỗi dân tộc có toàn quyền định đoạt vận mệnh của minh, Nó được toàn quyền hành động.
Bần Đạo chẳng phải cầm toàn quyền nơi tay mà phải tùng lịnh của Đức Lý Đại Tiên, đương kim Giáo Tông của Đạo.
(Thánh Giáo Nguyệt Tâm).
2.- Toàn quyền còn là một viên chức cao cấp do chánh phủ Pháp bổ nhiệm cai trị ba nước Việt, Miên, Lào tại Đông Dương thời Pháp thuộc.
Từ năm 1925 đến năm 1945 chánh phủ Pháp đã bổ nhiệm sáu vị Toàn Quyền cai trị Đông Dương, đó là:
|
Alexandre Varenne (1925-1928).
Pierre Pasquier (1928-1934).
Robin (1934-1936).
Brévié (1936-1939).
Catroux (1939-1940).
Decoux (1940-1945).
|
Toàn Quyền sáu lượt đổi thay,
Không ai bỏ lửng, Cao Đài được yên.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
全 知
Toàn: Hết thảy, tất cả, trọn vẹn. Tri: Hiểu, biết.
Toàn tri là biết rõ hết tất cả, biết từ cái xấu, cái dữ cùng cực đến cái tốt, cái thiện vô cùng. Nếu chỗ nào chưa biết thì không thể gọi là toàn tri.
Thành ngữ “Toàn tri toàn năng tận thiện tận mỹ” thường được dùng để chỉ Đức Thượng Đế hay chơn lý tối thượng của Càn khôn Vũ trụ.
Loài người đến nay nhờ tấn hoá mà khôn ngoan, cũng như vạn vật nhờ tấn hoá mà được toàn năng toàn tri vậy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
全 知 能 盡 善 美
Toàn tri năng: Có khả năng hiểu biết hết mọi việc và làm được tất cả. Tận thiện mỹ: Trọn lành và hoàn toàn tốt đẹp.
Toàn tri năng Tận thiện mỹ là chơn lý tối thượng trong Càn khôn Vũ trụ mà Đức Thượng Đế cái gì cũng hiểu bết và làm được tất cả, làm từ những việc thiện, mỹ cho đến những cái ác, xấu.
Thường cái thiện, mỹ là giúp cho sự tiến hoá, cái ác, xấu thì ngăn trở sự tiến hoá của Càn khôn. Nhưng đối với Thượng Đế là Đấng minh triết, nên có thể biết và làm những việc ác xấu để thúc đẩy sự tiến hoá của Càn khôn và cái ác xấu ấy trở thành từ bi.
Vì vậy, Toàn tri năng Tận thiện mỹ (hay Toàn tri Toàn năng Tận thiện Tận mỹ) được dùng để chỉ Đức Thượng Đế.
Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Ấy gọi là Huyền Đồng (đồng hoá với Đạo huyền bí) tức dùng cái khiếu Trực Giác tự nhiên, Trời Đất phú cho mình để cảm ứng với Đức “Toàn tri năng, tận thiện mỹ” mà quán triệt vạn vật đến chỗ nguyên lý, chớ không phải cái biết vạn vật chi li của Lý trí luận.
Ấy là nhắc lòng tôn kính Chí Tôn và nhớ lại Đức Toàn Tri năng, Tận thiện mỹ và Đức Háo sanh của Ngài vô biên bao la, hằng hoá dục vạn vật.
(Giáo Lý).
Toàn: Hết thảy, tất cả, trọn vẹn. Vẹn: Còn giữ được nguyên, không mất mát, không biến đổi chút nào.
Toàn vẹn là ở trạng thái có được đầy đủ các thành phần, không thiếu hụt, không mất mát.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Ðã là người tu hành thì ai cũng có một chí hướng thiết thực, một hoài bão cao siêu là lánh giả tìm chơn, xả thân, diệt bản ngã để tiến tới hoàn thiện. Cái chí hướng ấy thật trong sạch, thật thanh cao. Chúng ta nên cương quyết giữ nó cho toàn vẹn dầu ở trong hoàn cảnh khó khăn thế nào cũng đừng thay đổi.
Tứ đức kia mình nắm hai phần,
Người toàn vẹn trong trần nào mấy mặt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tóc là lông mọc ở phần trên và sau của đầu người, từ trán vòng đến gáy. Như: Tóc đen, tóc bạc da mồi.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Giờ phút này những phần tử Phạm Môn còn cầm quyền Phước Thiện, do Hội Thánh Phước Thiện còn thiếu người. Chủ quyền của họ là ở các nơi tịnh thất trong cửa tu chơn, là đặc điểm của họ. Đã hai mươi sáu năm họ chịu khổ nhọc đã nhiều. Hy sinh từ tóc xanh đến bạc đầu, lao tâm lao lực.
Mái tóc sương pha thiều nhặt thúc,
Sanh linh độ dẫn hưởng Thiên ân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Khuôn đời chưa dễ tạo nên hình,
Tóc bạc còn mờ lối nhục vinh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tóc: Bộ phận mọc ở phần trên và sau của đầu người, từ trán vòng đến gáy. Điểm hoa: Màu đen và trắng xen lẫn nhau như hoa.
Tóc điểm hoa là mái tóc đen mọc lốm đốm những cọng trắng như hoa, ý chỉ người lớn tuổi, sắp già.
Tóc điểm hoa đồng nghĩa với “Tóc hoa râm”.
Phần lo nỗi phận lại lo nhà,
Dòm lại trên đầu tóc điểm hoa.
(Đạo Sử).
Tóc: Bộ phận mọc ở phần trên và sau của đầu người, từ trán vòng đến gáy. Hoa râm: Cùng nghĩa với điểm hoa, nghĩa là tóc đen và tóc trắng xen lẫn nhau như hoa.
Tóc hoa râm là tóc đen điểm trắng lốm đốm, ý nói những cọng tóc đen, trắng mọc xen lẫn trên đầu, dùng để chỉ người lớn tuổi, hay sắp về già.
Soi kính cũ mặt hoa đã nhíu,
Tóc hoa râm mày liễu ướm sương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tóc: Bộ phận mọc ở phần trên và sau của đầu người, từ trán vòng đến gáy. Điểm sương: Có những chấm bạc như sương trên mái đầu, ý chỉ người cao tuổi.
Tóc điểm sương, như chữ “Sương mấn 霜 鬢”, tức là mái tóc bạc trắng như sương, chỉ người tuổi cao, già cả.
Thành ngữ Việt cũng có câu: “Da mồi tóc sương”.
Mái tóc điểm sương chưa học Ðạo,
Hoạ kề dầu hối khó than van.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bạc màu tóc đã điểm sương,
Mà không nệ nhọc trên đường quả công.
(Ngọc Lịch Nguyệt Giáng).
Tóc: Bộ phận mọc ở phần trên và sau của đầu người, từ trán vòng đến gáy. Râu: Lông mọc ở môi trên và ở cằm.
Người xưa cho rằng: “Nam tu nữ nhũ 男 鬚 女 乳”, nghĩa là đàn ông thì râu tóc, đàn bà thì nhũ hoa. Vì vậy, chữ tóc râu được dùng để chỉ đàn ông con trai.
Phận tóc râu là phận đàn ông con trai.
Là trai trung hiếu đứng làm đầu,
Ơn nước nợ nhà phận tóc râu.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
Tóc: Bộ phận mọc trên đầu người, từ trán vòng đến gáy. Tơ: Sợ dây tơ.
Tóc tơ là cọng tóc sợi tơ, hai vật nhỏ dùng để ví với cái gì nhỏ nhặt, tỉ mỉ.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Thưa rằng: Chút phận ngây thơ, Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.
Ngoài ra, chữ tóc tơ còn có nghĩa là kết tóc xe tơ, dùng để chỉ việc hôn nhân.
Nửa mái tóc tơ còn buộc trói,
Ðem mình toan gởi cửa anh linh.
(Đạo Sử).
So mình nắm dễ tóc tơ,
Ngoài ra còn lắm hẫng hờ lứa đôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tập cho ghê nết chạ lòng vơ.
Tập cho tường cái nghĩa tóc tơ,
(Phương Tu Đại Đạo).
Tóc: Bộ phận mọc trên đầu người, từ trán vòng đến gáy. Xanh: Màu xanh, ở đây ý chỉ còn trẻ.
Tóc xanh là mái tóc còn xanh, tức tóc chưa bạc, chỉ người còn trẻ, tuổi trẻ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Hy sinh từ tóc xanh đến bạc đầu, lao tâm lao lực. Bần Đạo tưởng đến càng làm thêm ra nữa là càng thêm khổ cho họ. Hai mươi mấy năm lập Phước Thiện đoàn tiền bối quy liễu lần hồi, chỉ đám thanh niên lúc nọ còn lại năm bảy người, họ cũng đã da mồi tóc bạc.
Nhẫng là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tóc xanh là bạn mày nhăn,
Nên ba dạy cháu biết bằng năm mươi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tọc mạch là tò mò, thích tìm tòi, dò hỏi.
Tọc mạch, như chữ “Thóc mách”, là thích nghe chuyện riêng của người khác để đem đi nói lại chỗ nầy hay chỗ khác.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Mấy vị Công Hầu ở đó trước hai tháng rồi, có hỏi Ðức Dalai Lama: Chí Tôn đến cách nào và hình thể Người ra sao? Trả lời: Các Ngài muốn biết cứ đợi đến chừng đó sẽ thấy, chỉ xin căn dặn các Ngài một điều là chung quanh Ðền Thánh có treo những Thanh Chung, chừng nào những Thanh Chung đó ré lên một lượt là Chí Tôn đến vậy. May thay! Ðến ngày mấy vị Vương Hầu vì tánh tọc mạch, muốn biết nên đã vào chờ trước trong Ðền Thánh.
Nghe qua đừng đến trên đem dưới,
Tọc mạch thày lay kiếm nói xằng.
(Bát Nương Giáng Bút).
Toe toét là ý chỉ miệng mở rộng khi cười nói.
Như: Anh ta lúc nào cũng cười toe toét, gặp cô thì thấy mặt cười toe toét.
Thân pháp ấy lung linh điển xẹt,
Miệng mồm kia toe toét nụ cười.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Góp: Đưa phần riêng của mình vào cùng với những phần của người khác tạo thành cái cung.
Tom góp, như chữ “Gom góp”, là tập hợp lại từ nhiều nguồn dần dần cho dồi dào thêm. Như: Tom góp mãi vẫn chưa thấy đủ.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Cái mạng lịnh tom góp các con Thầy lại một nhà đã xa như lời nói phỏng. Nhơn sanh phàn nàn thì Ðạo nào nên đặng đó con?
Tài hay tom góp một đời,
Cho con chẳng kể vốn lời hơn thua.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tóm là thu, gom lại, rút lại. Như: Tóm về một mối, nói tóm lại, tóm rác vào gốc sân.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong quyển Đạo Sử của Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có câu: Thầy chẳng qua yêu mến Ðạo Thuyền, quyết gom tóm các con lại làm một, nên giữ Thánh Thất đến ngày nay đặng quy tụ các em con nó đến cho đủ mặt.
Tóm quyền thế một tay chấp chánh,
Bắt chồng hầu như lính hầu quan.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tóm: Nắm chặt, gom lại. Thâu: Thu vào.
Tóm thâu, như chữ “Thâu tóm”, là tập trung lại để nắm giữ, sử dụng.
Trong sách Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Chính lòng ham muốn sanh ra tật ích kỷ. Bao nhiêu lợi lộc, danh quyền ở Thế gian đều muốn tóm thâu một mình.
Phước Thiện là phép nhiệm mầu,
Tóm thâu thiên hạ hồi đầu cửa tu.
(Thất Nương Giáng Bút).
Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh,
Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Của đời anh quyết tóm thâu,
Con ngoan vợ đẹp nhà lầu xe hơi.
(Thơ Hộ Pháp).
1.- Tòng, còn đọc “Tùng 松” là cây thông.
Như: Rừng tòng, sống hiên ngang như cây tòng cây bá, chi lan hương tòng bá mậu.
Xem: Tùng.
Lành dữ hai đường vừa ý chọn,
Lành như tòng, dữ tợ hoa tươi.
(Giới Tâm Kinh).
Ðộng cũ vườn tòng sầu biếng trổ,
Non xưa rừng bá thảm buông mành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2. Tòng, cũng đọc “Tùng 從”, là theo, phụ. Như: Tòng phục, tòng phụ, tòng nhất phẩm.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Lẽ dĩ nhiên trị dân mà không làm cho dân tin cậy mến yêu, hành động trái ngược, có thể khiến cho trăm họ đổi lòng phục tòng của tôi con ra tâm thù oán của kẻ nghịch, thì người cầm quyền đem cho mình và cho nước hoạ đó.
Xem: Tùng.
Trăm năm kim cải cũng chồng,
Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tập biết khôn chiều lụy nhà chồng,
Tập cho hiểu đạo tòng là đạo cả.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Tùng bá”.
Tòng (tùng): Cây thông. Bá (bách): Cây bá hay bách, một loại với cây thông.
Tòng bá, như chữ “Tùng bá 松 柏”, là hai loại cây to lớn, chịu đựng được với sương tuyết lạnh, người xưa thường ví với người quân tử, hoặc người chồng.
1.- Tòng bá chỉ cây tòng và cây bá:
Gặp tiết đông thiên sương tuyết bủa,
Chỉ còn tòng bá chẳng còn hoa.
(Giới Tâm Kinh).
2.- Tòng bá chỉ người quân tử:
Tuồng đời nhàm trải vẻ đai cân,
Tòng bá chọn nơi Đạo gọi nhuần.
(Cao Thượng Sanh).
3.- Tòng bá chỉ người chồng:
Hễ cát đằng nhảy lá xanh chồi,
Thân tòng bá càng tươi thêm vẻ đẹp.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Tùng cúc”.
Tòng (tùng): Cây thông. Cúc: Cây cúc.
Tòng cúc, như chữ “Tùng cúc 松 菊”, là cây thông và cây cúc, chỉ nơi ẩn dật.
Điển tích này do bài “Quy Khứ Lai Từ” của Đào Tiềm có câu: Tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn 三 徑 就 荒, 松 菊 猶 存, nghĩa là hãy còn ba đường tùng cúc bị bỏ hoang nơi quê hương.
Mấy mươi năm giữ tròn thân phận,
Tòng cúc vườn xưa thích chí Đào.
(Thơ Thuần Đức).
松 筠
Hay “Tùng quân”.
Tùng: Cây thông. Quân: Cây tre.
Thông và tre là hai loại cây trời rét đến mấy cũng vẫn xanh tươi, thường dùng để ví với người quân tử có khí tiết ngay thẳng.
Ngoài ra thông và tre cũng là hai giống cây lớn, có thể che cho những cây nhỏ ở dưới được im mát. Ý muốn nói đàn ông có sức mạnh để che chở cho phụ nữ yếu thơ như đào liễu. Nên người ta thường nói: Người đàn bà theo chồng là “Núp bóng tùng quân”.
Nương lấy bóng tòng quân mượn tiếng,
Đã đeo mang lấy miếng hồng quần.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tô: Tô son. Điểm: Điểm phấn.
Tô điểm là làm cho có thêm màu sắc để được đẹp đẽ hơn. Như: Tô son điểm phấn.
Nghĩa rộng chỉ sự lo lắng, chăm sóc từng chút.
Trong Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp có câu: Giờ phút nào cả toàn thể nhơn loại biết mình đến đây có phận sự để tô điểm kiếp sống của nhơn loại cho đặng hạnh phúc, đặng bảo trọng sanh mạng của toàn thể vạn linh cho đặng hạnh phúc.
Đẹp mình với vẻ cân đai,
Công thầy tô điểm từ ngày ấu xuân.
(Kinh Thế Đạo).
Nhiệm mầu cảnh trí tay tô điểm,
Thâm thuý thi văn cách phổ trình.
(Thơ Thượng Sanh).
蘇 杜
Tô Đỗ là Tô Đông Pha và Đỗ Phủ.
Tô Đông Pha, tên là Tô Thức, tự là Tử Chiêm người học thức uyên thâm đời nhà Tống, lại tinh thông các đạo Khổng Mạnh, Lão và Phật. Tư tưởng ông phóng khoáng, văn hùng mạnh, thơ ca vừa sâu xa vừa giàu nhạc điệu.
Đỗ Phủ là một thi hào đời nhà Đường, một thời với Lý Bạch, tự là Tử Mỹ, hiệu là Thiếu Lăng, gốc ở Tương Dương. Ông là một người học thức uyên bác, thi ca rộng rãi, tiếng tăm lừng lẫy, ít ai sánh kịp.
Sánh vai Tô, Đỗ chẳng thua nào,
Thanh Thuỷ tài cao, đạo cũng cao.
(Thơ Hoài Tân).
蘇 慧
Tô Huệ là người con gái ở đất Thần Châu đời nhà Tấn, có tài văn chương, giỏi thêu thùa, dệt lụa. Nàng lấy chồng là Đậu Thao, gặp thời buổi loạn lạc, chồng nàng phải nhập ngũ tòng quân ở phương xa để gìn giữ đất nước. Ở nhà chờ đợi ngót ba năm, nàng Tô Huệ nhớ chồng quá, bèn làm ra một bài thơ, rồi dệt bằng chỉ ngũ sắc, quanh lộn trên bức gấm, gọi là “Chức cẩm hồi văn 織 錦 回 文”.
Xong nàng dâng lên cho vua để tâu xin cho chồng được trở về. Vua đọc xong bài thơ, cảm động nên tha cho Đậu Thao trở về cùng nàng sum họp.
Nơi hành lang Báo Ân Từ có một khuôn vẽ hình “Tô Huệ chức cẩm hồi văn 蘇 慧 織 錦 回 文” tức là nàng Tô Huệ dệt vào gấm bài hồi văn.
Gấm Tô Huệ ngày xưa đề thảm,
Nét Tiên hoa sầu đạm vân phong.
(Tứ Nương Giáng Bút).
Thương Tô Huệ hằng ngày dệt gấm,
Dâng tấm trinh vào tận đền rồng.
(Thất Nương Giang Bút).
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
蘇 老
Tô: Họ Tô, chỉ Tô Đông Pha. Lão: Ông già.
Tô lão tức Tô Đông Pha tên là Tô Thức 蘇 軾, tự là Tử Chiêm, biệt hiệu là Đông Pha, quán Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, người đời Tống.
Thân phụ ông là Tô Tuân, em là Tô Triệt, tất cả đều nổi tiếng hay chữ, người đương thời gọi ba người là “Tô gia tam kiệt” hay Tam Tô.
Năm 20 tuổi, Đông Pha đậu Tiến sĩ. Lúc Vương An Thạch lên cầm quyền, thi hành cải cách chính trị, Tô Thức công kích biến pháp, nên bị đổi ra đất Hàng Châu, tỉnh Hồ Bắc. Ông làm một cái nhà ở bãi phía đông và lấy biệt hiệu là Đông Pha cư sĩ.
Gành nghê xa đợi thuyền Tô lão,
Trăng hẹn đang chờ rượu Lý gia.
(Thơ Chánh Đức).
Tô vẽ: Điểm trang, làm cho đẹp đẽ thêm. Mày mặt: Nói chung về dáng mặt, vẻ mặt.
Tô mày vẽ mặt là trang điểm mặt mày, ý nói làm cho đẹp đẽ, rạng rỡ thêm.
Như: Phụ nữ ra đường thường tô mày vẽ mặt.
Phải biết rằng chúng ta đứng đợt với thiên hạ được là nhờ Chí Tôn tô mày vẽ mặt cho đó...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
蘇 武
Tô Võ, một tướng đời nhà Hán, bị Hung Nô bắt đày đến Bắc Hải, là một xứ cùng tịch, giao cho giữ việc chăn dê, sống cuộc đời thiếu thốn cực khổ.
Sau đó nhà Hán và Hung Nô giảng hoà, Tô Võ được Thiền Vu tha cho về nước.
Xem: Tử Khanh.
Ðạo cả đức cao non nước nhuộm,
Cũng như Tô Võ đến Huyền Thiên.
(Đạo Sử).
Tô Võ mượn đưa thư về nước,
Nhạn tín còn báo trước mưa dông.
(Báo Ân Từ).
Tô Võ: Tên một vị sứ thần nhà Hán. Chăn dê: Bị đày giữ bầy dê.
Nơi hành lang Báo Ân Từ có vẽ một khuôn hình lấy tích “Tô Võ chăn dê”.
Tô Võ, tự là Tử Khanh, đời nhà Hán, đi sứ Hung Nô, bị vua Hung Nô bắt giam vào một cái hang lớn, không cho ăn uống gì cả. Tuyết xuống, Tô Võ lấy tuyết mà ăn. Nhờ thế, sau đó Tô Võ mới được đưa đi chăn dê ở miền Bắc Hải. Sau mười chín năm, nhà Hán và Hung Nô giảng hoà nhau, Tô Võ mới được vua nước Hung Nô tha cho về nước.
Xem: Tử Khanh.
Tô Võ còn sống chăn dê,
Không đầu quân giặc, trọn bề tôi trung.
(Báo Ân Từ).
Tố: Vốn dĩ. Bần: Nghèo. Hàn: Lạnh, cùng khổ.
Tố bần hàn là vốn là nghèo khổ, ý chỉ cảnh thiếu thốn về vật chất của người nghèo khó.
Trong sách Trung Dung có câu: Tố phú quý hành hồ phú quý, tố bần tiện hành hồ bần tiện, tố di địch hành hồ di địch; tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, quân tử vô nhập nhi bất đắc yên 君 子 其 位 而 行, 不 願 乎 其 外, 素 富 貴 行 乎 富 貴, 素 貧 賤 行 乎 貧 賤, 素 夷 狄 行 乎 夷 狄, 素 患 難 行 乎 患 難, 君 子 無 入 而 不 自 得 焉, nghĩa là vốn giàu sang thì ăn ở theo cách giàu sang; ở địa vị nghèo hèn thì ăn ở cách nghèo hèn; ở nơi mọi rợ thì ăn ở theo cách mọi rợ; ở vào lúc hoạn nạn thì ăn ở theo cảnh hoạn nạn. Người quân tử ở vào cảnh nào cũng tự đắc (tức là vui vẻ, thản nhiên).
Tố bần hàn ý muốn nói người biết an phận, ở trong cảnh nào thì hành xử theo cảnh đó một cách thản nhiên.
Lòng đạo đức quý hơn là miếng đỉnh chung, tố bần hàn tuỳ mình mà hành đạo thì công quả ấy trổi hơn hạng thượng lưu đó các con.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
訴 訟
Tố: Kiện, kêu nài. Tụng: Kiện tụng.
Tố tụng là kiên tụng, tức những việc thưa kiện. Như: Toà án là nơi xử những việc tố tụng.
Do đơn tố tụng mở phiên toà,
Pháp lý đòn cân Đạo lập ra.
(Thơ Huệ Phong).
1.- Tổ là ổ của các loài cầm thú hay côn trùng, được che chắn kín đáo để ở, đẻ, hoặc nuôi con.
Như: Trên cành cây có tổ chim, ồn ào như ong vỡ tổ, kiến tha lâu đầy tổ.
Trời đã tối cung lầu trống đổ,
Các thú chim tìm tổ nghỉ ngơi.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Oanh ướt cánh, buông hơi gọi tổ,
Quốc dầm mình, nhắc thuở ly hương.
(Lục Nương Giáng Bút).
2.- Tổ 祖 là người sinh ra cha, mẹ mình. Như: Tổ phụ, tổ mẫu, nội tổ, ngoại tổ, tổ khảo.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tôi sinh trưởng tại Tỉnh Tây Ninh, ông cha tổ phụ đều ở tỉnh Tây Ninh thì có chi vui vẻ và hạnh phúc hơn được mở mang mối Ðạo nơi xứ sở yêu quý nầy.
Đừng nhạo già thờ cha cúng tổ,
Già ngậm ngùi nhớ thuở giỗ rau dưa.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Tổ 祖 nghĩa rộng nói chung về ông bà tổ tiên. Như: Giỗ tổ Hùng Vương, Giỗ tổ tông.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Chỉ có xứ Việt Nam còn duy trì được sự tôn sùng tổ phụ theo tục lệ cổ truyền, mặc dầu xứ ấy chỉ biết chịu ở dưới quyền lệ thuộc từ ngày tạo lập đến giờ. Ý Thầy muốn nó được giữ nguyên thể như vậy mãi...
Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương,
Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,
Văn hoá so cũng kịp tha bang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
4.- Tổ 祖 là người đứng đầu một phái, một tôn giáo, hoặc người gây dựng một sự nghiệp, hay một nghề nghiệp.
Như: Phật Tổ, Tổ sư phái Thiền Tông, tổ may, tổ thợ mộc, tổ nhạc.
Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát có đoạn dạy: Vốn từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành. Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp luật buộc mối đạo Thiền.
Căn Ta Ca đỡ bước đi,
Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.
(Kinh Thế Đạo).
祖 案
Tổ: Ông nội, nói chung tổ tiên. Án: Cái bàn, cái ghế thường làm bằng gỗ dùng để sách vở hoặc thờ phượng. Như: Án sách, bàn hương án.
Tổ án là bàn thờ ông bà, tổ tiên.
Như: Con cháu thành tâm quỳ trước tổ án để kỉnh lễ các Đấng tổ tiên.
Thiên bàn Thầy ngự cầu minh giám,
Tổ án Tiên linh nguyện chứng lòng.
(Thơ Thiên Vân).
組 織
Tổ: Xâu lại, ghép lại, nối liền lại. Chức: Dệt.
Tổ chức là kết hợp lại, cấu thành, tức xếp đặt thành một chỉnh thể, có một cấu tạo, một cấu trúc và những chức năng chung nhất định.
Như: Muốn làm việc gì cũng cần phải có phương pháp tổ chức.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có viết: Nếu từ trước đến giờ còn giữ được khuôn khổ tổ chức của tổ phụ để lại, thì Bần Ðạo tưởng chẳng hề thấy sự tồi phong đương nhiên, và cầm chắc sự thống khổ loạn lạc chẳng hề có đặng.
Triêm ân tiền bối Hiệp Thiên Đài,
Tổ chức xây bàn Đạo khởi khai.
(Thơ Huệ Phong).
祖 廷
Tổ: Chỉ Đấng khai sáng một tôn giáo. Đình: Nơi thờ phụng các Đấng thiêng liêng.
Tổ Đình là nơi thờ Tổ sư hoặc Đấng khai sáng một nền tôn giáo.
Trong đạo Cao Đài thuộc Toà Thánh Tây Ninh, Tổ Đình tức là Đền Thánh, ngôi thờ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Sở dĩ gọi Toà Thánh Tây Ninh là Tổ Đình là vì nơi phát xuất của Đạo Cao Đài, là nơi đặt các cơ quan trung ương của Hội Thánh Cao Đài.
Đạo sử phô bày tranh cẩm tú,
Tổ Đình diễn tả nét uy linh.
(Thơ Thượng Sanh).
Tổ đình vòi vọi rộng ngàn trùng,
Trụ vững tinh thần rạng Á Đông.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Biểu dương nơi cửa Tổ đình,
Hạ nguơn tứ chuyển thể hình Long Hoa.
(Lược Thuật Toà Thánh).
祖 堂
Tổ: Nội, hoặc người khai sáng một dòng họ. Đường: Nhà, nơi thờ phụng.
Tổ đường là nhà thờ họ, đồng nghĩa với tổ miếu, tức chỉ nhà thờ ông bà tổ tiên.
Tổ đường còn dùng để chỉ tổ tiên, ông bà.
Như: Tại miền Trung tổ đường của nhiều dòng họ được xây dựng khang trang và quy mô.
Học hành mong mỏi ngày khôn lớn,
Trèo tột thang mây rạng tổ đường.
(Thơ Hoàng Nguyên).
祖 顯
Tổ: Nội, chỉ chung Tổ tiên, ông bà. Hiển: Sáng tỏ, hoặc chữ dùng để tôn xưng ông bà cha mẹ đã chết rồi.
Tổ hiển, như chữ “Hiển tổ 顯 祖”, chữ dùng để con cháu kính xưng Tổ tiên, hay ông bà nội đã quá cố.
Hiển tổ khảo 顯 祖 考 là ông nội đã chết, Hiển tổ tỷ 顯 祖 妣 là bà nội đã chết.
Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đơm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tổ: Người khai sáng một dòng họ, một dân tộc.
Hùng Vương 雄 王: Những vị vua thuộc họ Hồng Bàng, nối nghiệp Lạc Long quân, làm vua nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu.
Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, từ vua thứ nhứt trở về sau, đều lấy hiệu là Hùng Vương. Cho đến năm 258 trước Tây lịch thì mất ngôi về nhà Thục Phán.
Hùng Vương được xem là tỵ tổ của nòi giống Việt, thuộc họ Hồng Bàng.
Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương,
Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Thương quá là thương, thương quá thương,
Thương về nguồn gốc Tổ Hùng Vương.
(Thơ Hoàng Nguyên).
祖 業
Tổ: Người đầu tiên khai sáng một dòng họ. Nghiệp: Cơ nghiệp, sự nghiệp.
1.- Trước kia, chữ “Tổ nghiệp” là cơ nghiệp của các bậc vua chúa truyền lại cho con cháu.
Thánh chúa hiền thần phò tổ nghiệp,
Khải ca định phận tại thu phân.
(Lý Giáo Tông Giáng).
Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,
Văn hoá so cũng kịp tha bang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Sau này, chữ “Tổ nghiệp” có nghĩa là cơ nghiệp của tổ tiên truyền lại, nói cách khác là tài sản của ông cha tạo ra để lại cho con cháu.
Như: Con cháu phải giữ gìn tổ nghiệp.
Đường tổ nghiệp nữ nam hương lửa,
Đốt cho nồng từ bữa ba sanh.
(Kinh Thế Đạo).
祖 父
Tổ: Nội, người sinh ra cha mình. Phụ: Cha.
Tổ phụ là ông nội và cha.
Ngoài ra, chữ Tổ phụ còn có nghĩa là ông cha đời trước, tức ông bà tổ phụ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Chỉ có xứ Việt Nam còn duy trì được sự tôn sùng tổ phụ theo tục lệ cổ truyền, mặc dầu xứ ấy chỉ biết chịu ở dưới quyền lệ thuộc từ ngày tạo lập đến giờ. Ý Thầy muốn nó được giữ nguyên thể như vậy mãi...
Gởi Tổ Phụ (Anh, chị) hiền cung phụng,
Gởi sắp em còn sống nơi đời.
(Kinh Thế Đạo).
Trai lớn khôn tứ hải ngũ hồ,
Vai gánh nặng cơ đồ công Tổ phụ.
(Phương Tu Đại Đạo).
祖 貫
Tổ: Nội, hoặc Tiên tổ, Thuỷ tổ trở lên đều gọi là Tổ. Quán: Quê quán.
Tổ quán là quê quán của tổ tiên mình. Như: Vì sự sống mà con người phải rời xa tổ quán.
Song cũng còn trông thấy lại chân trời tổ quán trên vùng đất thân yêu xứ sở...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
祖 國
Tổ: Người đầu tiên của một dòng họ. Quốc: Nước.
Các vị Tổ tiên và bản thân mình được sinh ra ở nước nào thì gọi nước ấy là Tổ quốc. Hay nói cách khác Tổ quốc là nước của Tổ tiên mình, của mình.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Mỗi bạn đạo đều có sắc diện vui tươi phấn khởi vì đây là ngày độc nhứt trong mỗi năm để cho Chức sắc cũng như tín hữu trình diện trước Ðức Cha Thiêng Liêng hầu dâng lên những lời cầu nguyện hướng về Tổ quốc hoặc hướng về gia đình hoặc riêng về cá nhân mình.
Chí nguyện phục hưng nền Tổ quốc,
Tâm thành tô điểm Việt Nam bang.
(Thơ Thái Đến Thanh).
祖 師
Tổ: Người sáng lập ra một tôn giáo, một học thuyết hay một nghề nghiệp. Sư: Thầy.
Tổ sư là Đấng khai sáng một nền Tôn giáo và làm thầy truyền dạy tôn giáo đó.
Đức Thích Ca Mâu Ni khai sáng ra Phật giáo, nên được tôn làm vị Tổ sư và toàn tín đồ xưng tụng là “Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật”.
Đức Thái Thượng truyền bá Đạo giáo, nên được tôn xưng là vị Tổ sư của Tiên giáo.
Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông,
Ra tay dẫn độ, dày công giúp đời.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
祖 先
Tổ: Người đầu tiên của một dòng họ. Tiên: Trước.
Tổ tiên là chỉ ông cha đời trước.
Thánh giáo Đức Chí Tôn bằng Pháp văn do Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Lời hứa của Thầy với Tổ tiên các con về việc xin chuộc tội cho các con và ngày Giáng sinh của Chúa Cứu Thế là việc đã có sấm tiên tri rồi mà các con không chịu quan tâm đến.
Có lợi cho danh thường hiếp chúng,
Vì điều oan nghiệt tổ tiên truyền.
(Đạo Sử).
Gầy sự nghiệp tổ tiên ngày trước,
Dựng miếu đường hưởng phước tự do.
(Cửu Nương Giáng Bút).
祖 宗
Tổ: Người cao nhứt trong một dòng họ. Tông: Người đứng hàng thứ hai, kế ông tổ.
Tổ tông là tiếng nói chung dùng để chỉ người đầu tiên của dòng họ. Như: Bàn thờ tổ tông.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong Sấm Truyền của Thiên Chúa Giáo có nói rằng: Tổ Tông của loài người là Bà Eve và Ông Adam do nơi tay Đức Chí Tôn đào tạo ra, lại còn ban thưởng một đặc ân cho ở nơi Địa Đàng.
Làm điều nhục nhã Tổ tông,
Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
(Kinh Sám Hối).
Bời lời lòng những luống lo toan,
Lo đến Tổ tông chốn suối vàng.
(Đạo Sử).
Ta dặn về nhà lo cúng tế,
Tổ tông hoang phế bấy lâu rồi.
(Đạo Sử).
1.- Tốc là một loại cây, thân hay cành, nhánh để khô đốt có mùi thơm như trầm hương.
Như: Gỗ tốc, nhang thơm tốc, trầm tốc.
Nhang thơm tốc đốt nực nồng,
Ðèn loà ngọn lửa tựa rồng phun châu.
(Bài Mừng Thay).
2.- Tốc 速 là mau, chóng. Như: Cấp tốc, tức tốc, chạy tốc về nhà.
Nói về tiểu sử Quan Thánh, Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Khi Trương Liêu về tâu lại với Tào Tháo thì Tháo nói rằng: Ðiều thứ nhứt thì ta chịu vì ta là thừa tướng nhà Hớn thì nhà Hớn tức là ta chứ ai, điều thứ nhì cũng được vì cấm người tới cửa hai vị phu nhân là việc lễ nghĩa chẳng khó chi. Duy có điều thứ ba là không thể nhận, vì nếu Vân Trường được tin Lưu Bị ở đâu thì tức tốc ra đi, như vậy ta nuôi Vân Trường có ích gì?
Một gánh còn chưa nổi mà muốn mang trên vai hai gánh biểu làm sao không đổ, mà nếu đổ thì đổ hết, sự thật vậy, cấp tốc nó có hại lắm.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
速 記
Tốc: Nhanh, lẹ. Ký: Ghi chép.
Tốc ký là ghi nhanh, chép lẹ. Người viết tốc ký thường lấy ký hiệu đơn giản để ghi chép cho kịp lời nói của người lãnh đạo.
Trong đạo Cao Đài, Hội Thánh có thành lập một Ban Tốc ký, gồm nhiều Tốc ký viên ghi chép rất nhanh những bài Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp, gom thành nhiều quyển rồi in thành sách phổ biến trong toàn đạo.
Trì kinh xin bạn hưởng ân Trời,
Tốc Ký, Đầu Phòng cũng thảnh thơi.
(Thơ Hàn Sinh).
族
Tộc là họ. Như: Đồng tộc, ngoại tộc, chủng tộc, gia tộc, thân tộc.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy khen lòng thành kỉnh của con, rán độ dẫn sanh linh, ngôi cựu vị ngày sau chẳng mất. Thầy ban ơn cho gia tộc con.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
(Kinh Sám Hối).
May quan cả, rủi cho lê thứ,
Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Dạy tránh điều hổ tộc xấu nhà,
Muôn sự để mẹ cha định liệu.
(Phương Tu Đại Đạo).
族 種
Tộc: Họ. Chủng: Giống người.
Tộc chủng, như chữ “Chủng tộc 種 族”, là giống người, nòi giống, tức là một tập đoàn người hình thành trong quá trình lịch sử, cùng một nguồn gốc, có chung những đặc điểm như màu da, sắc tóc...
Như: Chính sách phân biệt tộc chủng.
Xem: Chủng tộc.
Các tộc chủng còn đương tìm ngõ,
Soi huệ quang cho rõ cửa Thiên.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
族 道
Tộc: Họ, dòng họ. Đạo: Tôn giáo.
Tộc Đạo là một Họ Đạo, là một khu vực Đạo có số tín đồ được 500 người trở lên. Mỗi Họ Đạo được lập một Thánh Thất riêng và Hội Thánh sẽ bổ đến vị Chức sắc làm Đầu Họ Đạo.
Hiện nay, số tín đồ của đạo Cao Đài còn ít, ở rải rác, nên chưa phân chia theo Họ Đạo được mà phải căn cứ theo hành chánh nhà nước, hễ một quận thì có một Tộc Đạo, một Xã thì có một Hương Đạo.
Như vậy, Tộc Đạo là số tín đồ cư ngụ trong một Quận (Huyện), đứng đầu một Tộc Đạo là Đầu Tộc Đạo. Mỗi Tộc Đạo chia làm nhiều Hương Đạo.
Tổ Đình hội ngộ đã lâu ngày,
Tộc Đạo đăng trình tạm cách nay.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
1.- Tôi là tiếng mình tự xưng với người khác. Như: Khuya rồi tôi đi ngủ, sáng nay tôi ở nhà.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nói đến hạnh phúc của nhơn sanh, tôi có lời tâm huyết cùng toàn thể Chức sắc lưỡng phái: Người trên đã vì nhơn sanh mà phục vụ thì cấp dưới cũng vì nhơn sanh mà hết lòng hưởng ứng giúp sức, khép mình vào khuôn viên kỷ luật để cho trên thuận dưới hoà, cùng nhau góp công chung trí hầu đem lại một thắng lợi vẻ vang cho nền chánh giáo.
Thiệt bịnh liến của tôi cũng quá,
Vẽ thật tình mấy ả chênh lòng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Xin đừng tưởng lời tôi bày đặt,
Mẹ cưng dâu trước mắt thấy thường.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tôi là người làm quan, hoặc người lãnh đạo tôn giáo, chịu chức để phục vụ cho vua, cho Chí Tôn.
Như: Tôi trung, phận làm tôi.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngày mở Ðạo, vì cái tình cảm ấy, các vị Ðại Thiên Phong buổi nọ xin thờ Phật Mẫu ở Ðền Thánh, thì Phật Mẫu cho biết rằng: Quyền Chí Tôn là Chúa còn Phật Mẫu là tôi, mà tôi thì làm sao ngang hàng với Chúa, chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính Chí Tôn đến dường ấy không gì lường được.
Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,
Đạo phu thê như đũa nên đôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Chồng tuy chúa vợ là tôi đã phải,
Muốn tôi hiền thì chúa dạy mới nên.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tôi: Người làm quan chịu chức với vua. Con: Tiếng gọi chung các người ở đợ.
Tôi con là bề tôi, đầy tớ, (hoặc có thể hiểu là dân chúng) trong quan hệ trung thành với vua chúa, với chủ.
Trong tôn giáo Cao Đài, “Tôi con” có ý chỉ bề tôi và phận làm con, trong quan hệ với Đức Đại Từ Phụ, hoặc Thiên Đế (vua Trời).
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Con phải lấy Phật tâm con mà dòm ngó đám sanh linh bị phạt, luân hồi chưa dứt, thì tưởng đến Thầy mà cam chịu nhục nhã, lòng từ bi có vậy mới xứng đáng là tôi con Thầy.
Lằn xanh ưa hửi mùi đồng,
Ham thân nô lệ mến vòng tôi con.
(Ngụ Đời).
Lánh thân khóm bá rừng tòng,
Tiều chưa thoát khỏi trong vòng tôi con.
(Ngụ Đời).
Tôi: Người thuộc hạ, phục vụ vua. Đòi: Đầy tớ.
Tôi đòi là người đi ở đợ, tức chỉ những người đem thân ra hầu hạ, phục dịch cho kẻ khác. Đồng nghĩa với chữ tôi mọi, tôi tớ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu quả nhiên cái định hướng của họ đem lại thắng lợi cho nước nhà, cho chủng tộc thì Bần Đạo tưởng không nói rõ ra cả thảy đồng bào đều biết, cũng như những kẻ tôi đòi đổi chủ mà thôi chớ không chi khác.
Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.
(Kinh Sám Hối).
Sá chi những mặt tôi đòi,
Mua vinh chẳng thẹn tiếng đời thị phi.
(Xuân Hương Giáng Bút).
Bởi kẻ tôi đòi quên chủng tộc,
Bởi quân mọt nước bán đồng bào.
(Thơ Tiếp Đạo).
Tôi hiền: Bề tôi trung thành với vua. Chúa Thánh: Vị vua anh minh.
Tôi hiền chúa Thánh cùng nghĩa với “Vua sáng tôi hiền”, có nghĩa là bề tôi là những bậc hiền thần, nhà vua là đấng Thánh minh, ý chỉ đất nước thanh bình thạnh trị.
Bền quốc vận, tôi hiền chúa Thánh,
Trăm năm dư tu chỉnh triều nghi.
(Phù Kiều Hận Sử).
Tôi loàn: Kẻ bề tôi làm phản loạn. Con giặc: Đứa con làm giặc.
Tôi loàn con giặc, bởi chữ “Loạn thần tặc tử 亂 臣 賊 子”, tức là làm người bề tôi thì phản loạn, không biết phân biệt kẻ trên người dưới; làm người con thì hư hỏng gây hoạ hại đến gia đình.
Tôi loàn con giặc chỉ người bất trung bất hiếu, làm hại cho nước và nhà.
Xem: Con giặc tôi loàn.
Đừng quen tánh tôi loàn con giặc,
Cưu hờn xưa mà khúc mắc mắng vong hồn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tôi: Người thuộc hạ của vua, đầy tớ. Mọi: Chỉ kẻ phải làm việc khó nhọc như nô lệ.
Tôi mọi là kẻ nô lệ, đem thân hầu hạ người. Như: Kiếp sống tôi mọi.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Có khi người trái chủ đó đầu kiếp một lượt thì họ có phương thế làm đặng trả, là may duyên cho họ lắm; nếu rủi người chủ trái không đến thì họ phải đầu kiếp mãi tìm cho đặng người chủ nợ ấy, làm tôi mọi cho họ đặng trả nợ, ấy là một phương pháp mà các chơn linh hãi hùng sợ sệt hơn hết.
Hầu cho đủ thế kềm thúc lấy nhau đặng giữ vẹn Thánh chất yêu sanh của Thầy, mà quyền ấy trở nên một cơ thể buộc trói nhơn sanh trong vòng tôi mọi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tôi: Người thuộc hạ của vua, đầy tớ. Tớ: Kẻ hầu hạ.
Tôi tớ, đồng nghĩa với chữ tôi đòi, là người đi ở mướn, phải đem thân ra hầu hạ, phục dịch người khác. Như: Thân phận tôi tớ.
Thánh giáo Thầy có dạy: Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.
Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.
(Kinh Sám Hối).
Đày đoạ cha phải chịu khổ thân,
Khổ khắc mẹ chịu phần tôi tớ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tôi: Người thuộc hạ của vua, như vua tôi. Thần: Bầy tôi của nhà vua.
Tôi thần là nói những vị quan văn võ trong triều đình, làm bề tôi cho vua để phục vụ vua và đất nước.
Dối sai Tỳ Vũ ân cần,
Ra đi chiêu mộ tôi thần Hàn Châu.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Tôi: Người bề tôi của vua. Trung: Trung thành, hay ngay thật với vua.
Tôi trung, như chữ “Trung thần 忠 臣”, là kẻ bề tôi (Quan, dân) trung thành, ngay thật với vua với nước.
Giúp xã tắc tôi trung ra mặt,
Dẫy xe thơ trỗi nhặt văn minh.
(Kinh Thế Đạo).
1.- Tối là khoảng thời gian kể từ khi mặt trời lặn, đến lúc mọi người đi ngủ.
Như: Bữa cơm tối, sáng đi tối về, làm việc vất vả từ sáng đến tối.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Phải thường hỏi lấy mình, khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa, mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng?
Mua bán chọn lừa như buổi chợ,
Về nhà chưa tối đã qua đời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chưa no buổi sớm, lo nồi tối,
Cái kiếp oan kia khá dứt lần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Những thảng mảng tháng thâu năm lụn,
Sớm công phu, tối tụng Vãng sanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tối là không có hoặc có rất ít ánh sáng chiếu toả trong không gian, khiến cho không hoặc khó nhìn thấy sự vật chung quanh.
Như: Trời tối như mực, bị nhốt trong ngục tối.
Mảng sầu muộn ngổn ngang trăm mối,
Chùa thu không bóng tối mịt mờ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hễ khử tối thì dùng bóng sáng,
Phải khôn ngoan mới quán thế tình.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Tối 最 là lắm, rất. Như: Công việc tối cần, xe hơi tối tân, công lao tối đại.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ngài Thái Thơ Thanh có đoạn: Thầy đã khiến con đi Ðế Thiên Ðế Thích đặng xem cho tạn mặt hữu hình. Nội thế gian nầy ngày nay, ai cũng nhìn nhận cho là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng?
Ðôi mắt phàm phu đâu biết đặng,
Huyền vi tối trọng Ðấng cao xa.
(Đạo Sử).
Vật tối linh thiên hạ là người,
Cha mẹ vốn là Trời phần xác thịt.
(Phương Tu Đại Đạo).
最 高
Tối: Hết sức, rất. Cao: Trái với thất, chỉ phẩm to.
Tối cao là rất cao hay rất to.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.
Ðạo thị tối cao vô thế đoán,
Hà nhơn đảm tánh đáo khinh khi.
(Đạo Sử).
Cung Diêu về phó Hội Bàn Đào,
Bà Nữ Đầu Sư phẩm tối cao!
(Thơ Chơn Tâm).
最 古
Tối: Hết sức, rất. Cổ: Xưa.
Tối cổ là rất xưa.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bởi mỗi tinh thần của một chủng tộc nào, sắc dân nào, nó cũng có cái đặc điểm của nó hết, nhứt là chủng tộc Việt Nam đã thọ ảnh hưởng tối cổ của Nho Tông chúng ta, cả thuần phong mỹ tục làm cái ảnh tượng tâm hồn nòi giống Việt Nam, đều là khuôn khổ của nền văn minh tối cổ Nho Tông của ta đó vậy.
Con vì tâm tình cao thượng mà cứu vãn sự sụp đổ của một dân tộc đã hấp thụ một nền văn minh tối cổ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
最 靈
Tối: Hết sức, rất. Linh: Thiêng liêng, linh thiêng.
Tối linh là rất linh thiêng, linh thiêng hơn hết.
Thánh giáo Quan Âm Như Lai có câu: Ấy là một lẽ, còn một lẽ nữa là người sanh trong cõi trần, Ðức Ðại Từ Bi ban cho một tánh tối linh hơn vạn vật, là có ý thay thế cho Người mà dìu dắt loài yếu hèn hơn.
Con người đứng phẩm tối linh,
Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi.
(Kinh Tận Độ).
Thiên địa tối linh sanh Thánh chất,
Quân vương háo nghĩa tác Hiền thần.
(Đạo Sử).
Tối: Chẳng có ánh sáng chiếu toả trong không gian, không sáng, khiến khó nhìn thấy sự vật. Mắt: Bộ phận trông nhìn của người và vật.
Tối mắt là loà, hết trông thấy, tức mắt ở trạng thái như chẳng còn nhìn thấy gì được nữa.
Tiền che tối mắt mờ nhân nghĩa,
Tiền giục chợ đời bán rẻ duyên.
(Thơ Hộ Pháp).
Tối: Không có ánh sáng, tỏ ra hiểu biết rất chậm, kém thông minh. Tăm: Biệt mù, không nhìn thấy điểm, đích.
1.- Tối tăm là tối, thiếu ánh sáng.
Tối tăm còn dùng để ví cảnh sống không có hy vọng, không có tương lai.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Bát Nương Diêu Trì Cung có dạy: Song lằn Âm quang ấy có giới hạn, nghĩa là nơi nào ánh linh quang của Chí Tôn chưa chiếu giám đến thì phải còn tối tăm mịt mờ, chẳng sanh chẳng hoá.
Các con thì cũng đua bơi,
Kẻo khi trễ bước ắt thời tối tăm.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Nhà tối tăm bực bội gợi phiền,
Còn sáng láng tự nhiên vui vẻ.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tối tăm còn dùng để chỉ trí óc không được thông minh hoặc không được sáng sủa.
Như: Đầu óc tối tăm học bài lâu thuộc.
Phải chiều tánh trí con lanh lẹ,
Hay tối tăm giải lẽ cho vừa.
(Phương Tu Đại Đạo).
Nghe hạc tỏ bày lời chân lý,
Gà thấy mình ích kỷ tối tăm.
(Thơ Hộ Pháp).
最 上
Tối: Rất. Thượng: Trên.
Tối thượng là trên hết, cao nhất.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Toàn Thánh Thể Ðức Chí Tôn nếu biết, thì nên nắm quyền luật thiên nhiên ấy, ngày giờ nào thiên hạ được yêu thương nhau nồng nàn, thì giờ ấy quyền Ðạo sẽ là quyền tối thượng nơi mặt thế đó.
Cái phẩm vị của các con phải buộc tái sanh nhiều kiếp mới đến địa vị tối thượng mình là nơi Niết Bàn.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
最 重
Tối: Hết sức, rất. Trọng: Kính trọng, quan trọng.
Tối trọng là rất quan trọng, hoặc hết sức kính trọng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát là hai phẩm chót của Tiên, Phật. Ðáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhường là thế nào! Vì vậy mà nhiều kẻ môn đệ cho Thầy là nhỏ.
Ðôi mắt phàm phu đâu biết đặng,
Huyền vi tối trọng Ðấng cao xa.
(Đạo Sử).
Hay “Đồi phong”.
Tồi (đồi): Lở nát, không dùng một mình. Phong: Thói, nếp, phong tục.
Tồi phong, như chữ “Đồi phong 頹 風”, là phong tục đồi bại, tức những thói, nếp trong xã hội xấu xa, hư hại.
Thành ngữ thường có câu “Tồi phong bại tục”, để chỉ phong tục xã hội xấu xa hư hỏng.
...đặng chỉnh đốn sửa đương những tệ tục tồi phong của nhơn loại mà đem vào Thánh chất của con người.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Hay “Đồi phong bại tục”.
Tồi (đồi): Đổ nát. Bại: Hư hỏng. Phong tục: Thói quen lâu đời của dân chúng trong một địa phương.
Tồi phong bại tục, như câu “Đồi phong bại tục 頹 風 敗 俗”, là phong tục của xã hội bị hư hỏng đổ nát, trở thành xấu xa.
Trong Tân Luật, Điều thứ hai mươi về phần Thế luật có câu: Kể từ ngày ban hành luật nầy, người bổn đạo chẳng nên chuyên gì làm cho sát sanh, hại vật; chẳng được làm nghề gì mà tồi phong bại tục; chẳng được soạn hay ấn hành những truyện phong tình huê nguyệt, không được buôn bán các thứ rượu mạnh và á phiện là vật độc làm cho giảm chất con người.
Tấn tuồng duy tân vật chất đưa đến tồi phong bại tục, hiện giờ là hoàn thuốc quá độc hại vậy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Tồi: Xấu, kém nhiều so với yêu cầu, về năng lực, chất lượng hoặc kết quả. Tệ: Xấu xa trong quan hệ đối xử.
Tồi tệ là xấu, tồi đến mức như không còn có thể nào hơn thế nữa. Như: Sức khỏe càng ngày càng tồi tệ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ðương nhiên chúng ta thấy đạo nhơn luân của các sắc dân trên mặt địa cầu buổi nầy đã nghiêng đổ và lung lạc tất cả, nhứt là bên Âu Châu, đạo nhơn luân của họ tồi tệ là thường, Bần Ðạo thấy rất nên bại hoại, từ thử đến giờ chưa nghe ai nói cha lấy con, anh lấy em, mà bên Âu Châu thường có xảy ra điều ấy.
Đưa gương rạng Quan Âm dẫn thế,
Diệt mê hồn tồi tệ kiếp căn.
(Lục Nương Giáng Bút).
罪
1.- Tội là việc làm phi pháp bị hình luật đời, Đạo, hoặc Thiêng liêng xử trị.
Như: Tội nhân, tội ăn trộm, tội khổ sai chung thân.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tâm bất chánh trong phạm vi eo hẹp thì làm rối loạn gia đình, tâm bất chánh ở chỗ xử sự xã giao thì gây ác cảm, chác oán thù, tâm bất chánh loán vào xã hội tạo giây oan nghiệt, đưa đến cảnh tội tù, xô đẩy con người vào vực sâu hang thẳm.
Người lương thiện ra vào thong thả,
Kẻ tội nhiều đày đoạ rất minh.
(Kinh Sám Hối).
Tội trước sờ sờ chưa kết án,
Ðạo đâu há chịu để người nương.
(Đạo Sử).
2.- Tội là việc làm ác bị quả báo xấu. Như: Tội phước, tội ác, làm lành được phước, làm ác phải tội.
Thánh giáo Đức Chí Tôn giáng cơ bằng Pháp văn được Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Chúa Cứu Thế đã đến với các con. Người đã phải chịu đổ máu Thánh để chuộc tội cho loài người.
Sanh đời nắng lửa với mưa dầu,
Tội là đâu, phước lại là đâu?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðổi thử máy Trời coi có được,
Thì Ta đổi tội dữ ra lành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Giựt giành rốt cuộc cũng tay không,
Nhân quả đeo mang tội chất chồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Tội là lỗi, tức không tròn phận sự, hoặc phạm những điều bất kính với ông bà cha mẹ, hay các Đấng Thiêng liêng.
Như: Cha có tội với các con, có tội với cha mẹ, có tội với Hội Thánh.
Cha mẹ rủi sanh con hung bạo,
Tội dưỡng nhi bất giáo đã đành.
(Phương Tu Đại Đạo).
罪 報
Tội: Làm điều ác, việc phạm pháp. Báo: Đáp trả lại do gây nên tội lỗi.
Tội báo là sự báo đáp của tội lỗi. Những hành vi hung ác gây ra tội lỗi, tạo thành nghiệp xấu, sẽ báo đáp lại trong hiện kiếp hay kiếp lai sinh.
Như: Kiếp trước làm chuyện ác đức, kiếp nầy phải lãnh những tội báo nặng nề.
Dầu trọn kiếp sống không nên Đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
(Kinh Tận Độ).
Hung hoang tội báo nghiệt căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.
(Kinh Sám Hối).
Nuôi cả đời nuôi đã mòn hơi,
Còn thêm nỗi ăn chơi gây tội báo.
(Phương Tu Đại Đạo).
罪 根
Tội: Tội lỗi. Căn: Gốc rễ.
Tội căn là tội lỗi gây ra từ kiếp trước tạo thành gốc rễ để quả báo trong hiện kiếp.
Khi Giảng bài Phật Mẫu Chơn Kinh, Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Phật Mẫu đem thuyền Bát Nhã độ các chơn hồn qua khỏi biển trần ai, trên thì Chí Tôn nhỏ phước, vì lòng từ bi giải quả báo, diệt tội căn.
Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
(Kinh Sám Hối).
Một là hối ngộ tội căn,
Hai là cầu đặng siêu thăng Cửu huyền.
(Kinh Sám Hối Ngắn).
罪 根 報 應
Tội căn: Gốc rễ của tội lỗi. Báo ứng: Báo đáp những gì mình đã gây ra.
Tội căn báo ứng là gây ra những điều tội lỗi tạo thành gốc rễ cho việc báo ứng sau này.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng biết chừng nào an.
(Kinh Sám Hối).
罪 障
Tội: Việc ác, việc phạm luật pháp. Chướng: Ngăn trở, chướng ngại.
Tội chướng là sự ngăn trở của tội lỗi, tức những chướng ngại do hành vi tội lỗi gây ra từ kiếp trước.
Tội chướng đồng nghĩa với nghiệp chướng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hại thay, tạo nghiệp của nhơn loại từ khi có nơi mặt địa cầu nầy, đến bao giờ mới bảo vệ được sanh mạng của họ, cấp tiến trong con đường giải khổ, họ đã gây thêm trong sự nghiệp của họ tội chướng thì nhiều, mà phúc hậu lại ít, biểu sao không có trường lưu huyết!.
Dầu tội chướng ở miền địa giái,
Dầu oan gia ở ngoại Càn Khôn.
(Kinh Thế Đạo).
Miệng ngọt lòng chua ai dễ thấu,
Chen vào tội chướng mất an nhàn.
(Đạo Sử).
罪 刑
Tội: Hành vi lầm lỗi hay phạm pháp đáng bị xử phạt. Hình: Pháp luật để trừng phạt kẻ có tội.
Tội hình là hình luật đem ra để xử phạt người có tội.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Quan Thánh Đế Quân có dạy: Lý Đại Tiên đã nắm nơi tay Thiên điều quyết án, dầu cho Ngọc Hư toan chế cải cũng không qua Người, vì đã đặt trọn tội hình của quỷ hồn loạn chánh, nên định trừ khử đặng bảo thủ Chơn truyền. Chí Tôn ngậm sầu y lịnh thính.
Gạo cơm huỷ hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
(Kinh Sám Hối).
Dầu lầm lỡ phận anh ở sái,
Cứ chơn thành đừng ngại thọ tội hình.
(Phương Tu Đại Đạo).
Điều bạo tàn chẳng đủ tội hình,
Đày mãn kiếp linh đinh phận gái.
(Phương Tu Đại Đạo).
罪 愆
Tội:Việc ác, việc phạm pháp. Khiên: Tội lỗi.
Tội khiên là sai lầm và tội lỗi. Như: Người tu phải sáng suốt trong mọi hành động mới tránh được tội khiên.
Xem: Tội quá.
Sấp mình cúi lạy xin thưa,
Ơn Trên Từ Phụ cho chừa tội khiên.
(Kinh Thế Đạo).
Tội 罪: Việc làm trái pháp luật hay trái giáo điều tôn giáo. Lỗi: Lỗi lầm, điều sai lầm.
Tội lỗi là tội và lỗi của mình gây ra phạm với bề trên hay tôn giáo.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.
Đứa ngu thấy của thì mong,
Không gìn tội lỗi phép công nước nhà.
(Kinh Sám Hối).
Biết đời phải quấy biết nên hư,
Biết tội lỗi kia phải biết trừ.
(Đạo Sử).
Lợi danh ví muốn cho đầy đủ,
Tội lỗi càng thêm nỗi chất chồng.
(Thài Hương Hiếu).
罪 業
Tội: Việc làm trái với Đạo lý. Nghiệp: Cái gây ra điều lành hoặc điều dữ.
Tội nghiệp là tội ác và nghiệp chướng.
Tội nghiệp còn là đáng thương hại, vì gặp phải cảnh ngộ không may.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy cấm không cho dị nghị việc người, nhứt là đạo hữu của các con thì đừng phạm đến kẻo tội nghiệp. Chi chi cũng phải nhớ quyết rằng có Thầy trong đó.
Càng nghĩ đến linh đinh phận thiếp,
Càng ngại lo tội nghiệp thân con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Dầu chàng có vui riêng quên thiếp,
Thiếp cũng lo tội nghiệp thân chàng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Tội nhân”.
Tội: Việc làm trái với đạo lý hay trái với pháp luật. Nhơn (nhân): Người.
Tội nhơn, như chữ “Tội nhân 罪 人”, là người có tội, kẻ phạm tội.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có đoạn: Lão để mắt coi cái công bình phàm của chư hiền hữu giữa Toà Tam Giáo là dường nào. Lão lại còn lấy công bình thiêng liêng mà để phương cho mỗi vị tội nhơn cải lỗi lấy mình.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.
(Kinh Sám Hối).
Hay “Tội phúc”.
Tội: Việc làm trái với đạo lý hay pháp luật. Phước (phúc): Phước đức, chỉ điều tốt lành.
Tội phước, như chữ “Tội phúc 罪 福”, là tội lỗi và phước đức.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ðường tội phước chẳng biết cân, gương dữ lành không để ý. Triền cao vực thẳm, rừng trước non xưa, cảnh vẫn đợi kẻ tìm về, nhưng giọng ai oán của khách lạc đường chẳng thế vạch Trời xanh soi thấu.
Đài Chiếu giám cảnh minh nhẹ bước,
Xem rõ ràng tội phước căn sinh.
(Kinh Tận Độ).
Cân đường tội phước đắp nền nhân,
Chớ lấy giữ riêng để dạ hờn.
(Đạo Sử).
Đừng học thói của quân bạo ngược,
Xử mẹ cha tội phước quá hơn toà.
(Phương Tu Đại Đạo).
罪 過
Tội: Tội lỗi. Quá: Vượt qua, lỗi, sai lầm.
Tội quá là sự sai lầm, tội lỗi. Tội quá còn có nghĩa là có tội lỗi vượt ra ngoài mức thường.
Trong quyển Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Nhưng trước kia các nền Chơn Giáo đã thất chánh truyền thì dẫu các con có mê muội, phạm nhiều tội quá, cũng còn mạnh miệng đổ thừa.
Phước nhiều tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt không tư chẳng vì.
(Kinh Sám Hối).
Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà chẳng khá nên gần.
(Kinh Sám Hối).
罪 歸 於 長
Tội quy: Gây nên tội quy về người nào. Ư trưởng: Người lớn nhất.
Tội quy ư trưởng ý muốn nói đứa trẻ nhỏ gây nên tội lỗi, thì trách nhiệm thuộc về người lớn.
Chính vì vậy Nho có câu: Tử bất giáo phụ chi quá, giáo bất nghiêm sư chi đoạ 子 不 教 父 之 過, 教 不 嚴 師 之 惰, nghĩa là nuôi con mà không dạy thì lỗi ở người cha, dạy trò mà không nghiêm là lỗi ở thầy.
Đành lòng nào lại chối lại từ,
Mình dở dạy tội quy ư trưởng.
(Phương Tu Đại Đạo).
罪 情
Tội: Làm một điều gì phạm pháp. Tình: Tình cảnh.
Tội tình là lâm vào tình cảnh tội lỗi. Như: Anh ấy gây biết bso nhiêu tội tình.
Thánh giáo Thầy có câu: Cân thiêng liêng thế nào rồi cũng vì tội tình ấy mà để cho các con biết sự khinh trọng lúc kết cuộc ra sao.
Rõ phước đức, biết tội tình,
Nắm tâm đắp vững mặt thành Càn Khôn.
(Kinh Thế Đạo).
Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết,
Hai dạy răn cho biết tội tình.
(Kinh Thế Đạo).
罪 囚
Tội: Việc làm trái với pháp luật, trái với đạo trời. Tù: Người có tội bị giam, nhà giam người có tội.
Tội tù, do chữ “Tù tội”, là người có tội bị ở tù, bị giam vào ngục.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tâm bất chánh ở chỗ xử sự xã giao thì gây ác cảm, chác oán thù, tâm bất chánh loán vào xã hội tạo dây oan nghiệt, đưa đến cảnh tội tù, xô đẩy con người vào vực sâu hang thẳm.
Phước Thiện cải ác phá ngu,
Phước Thiện giải khổ tội tù Phong đô.
(Thất Nương Giáng Bút).
Lẽ nào nói bị tội tù,
Lẽ nào nói trấn Tây Âu làm hoàng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
罪 臣
Tội: Có lỗi, có tội. Thần: Bề tôi của vua, hay những chức sắc của Đạo.
Tội thần là những tôi thần có tội. Trong tôn giáo tội thần chỉ những người thọ lịnh trên mà phạm tội.
Đài hoa tạc để gương anh kiệt,
Thiên khiển dành riêng đám tội thần.
(Thơ Thượng Sanh).
1.- Tôn 宗, đọc là “Tông”, do kỵ huý nên thường đọc tôn, có nghĩa là dòng họ, lý thuyết, tư tưởng chính xác để làm gốc, làm chủ.
Như: Tôn chỉ, tôn giáo, tôn phái.
Xem: Tông.
Nho tông chuyển thế thay đời tệ,
Tôn chỉ Cao Đài hiệp vạn linh.
(Thơ Huệ Phong).
2.- Tôn 尊 là kính, quý trọng, kính xưng bậc trưởng thượng của người khác. Như: Tôn trọng, tôn kính, tôn người già, tôn thầy dạy học.
Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Các con có cả ba Chánh đạo là Tam giáo, các con biết tôn trọng, ngày nay lại thêm Chánh đạo nữa, các con biết ít nước nào đặng vậy?
Làm con hiếu dầu toan trọn đạo,
Của mẹ cha quý báu phải trọng tôn.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Tôn 尊 tức “Chí Tôn”, là một tiếng xưng hô kính trọng của những người tín đồ đạo Cao Đài đối với Ngọc Hoàng Thượng Đế, là Đấng Tạo Hoá, cha chung của muôn loài.
Luật điều Cổ Phật không chừa tội,
Hình phạt Chí Tôn chẳng vị tình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
4.- Tôn 孫 là cháu, đối với ông bà. Như: Tử tôn, đích tôn, ngoại tôn, nội tôn.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Tiên Nho của chúng ta đã có giáo hoá dân mà thôi, nói một câu rất hay: “Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ; tích thơ dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc; bất như tích âm đức, ư minh minh chi trung dĩ di tử tôn trường cửu chi kế”.
Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận,
Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
尊 正
Hay “Tôn chính”.
Tôn: Tôn trọng, tôn kính. Chánh (chính): Ngay thật.
Tôn trọng điều ngay thật, đúng đắn.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: còn Quân Ðội Cao Ðài tức là một “Ðạo Thiên Binh” được toàn thắng, chỉ lưỡi gươm kiếm hiệp khử tà tôn chánh, diệt giả phò chơn, nương theo lá cờ bảo sanh mà thật hành nhơn nghĩa, thủ thắng về mặt đạo đức tinh thần, chẳng làm gì trái với lương tâm.
Diệt tà trừ được hồn Hồng Lạc,
Tôn chánh tạo nên cõi thái bường.
(Bát Nương Giáng Bút).
Hưng Châu diệt Trụ nên cơ nghiệp,
Tôn chánh trừ gian phục nước nhà.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Hay “Tông chỉ”.
Tôn (tông): Tôn giáo, chủ ý. Chỉ: Ý chỉ
Tôn chỉ, như chữ “Tông chỉ 宗 旨”, là cái chỗ nhắm làm mục đích của một công việc gì. Như: Tôn chỉ đạo Cao Đài, tôn chỉ của tờ báo.
Thánh giáo Thầy dạy: Ta vì lòng đại từ đại bi, vẫn lấy đức háo sanh mà dựng nên mối Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, tôn chỉ vớt những kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi và nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở nơi trần thế nầy.
Nhứt bổn vạn thù chung tín ngưỡng,
Cao Đài tôn chỉ hiệp quy nguyên.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Nho tông chuyển thế thay đời tệ,
Tôn chỉ Cao Đài hiệp vạn linh.
(Thơ Huệ Phong).
尊 敬
Tôn: Quý trọng, kính trọng. Kính (kỉnh): Tỏ thái độ coi trọng, nể nang.
Tôn kính là tôn trọng và cung kính, tức là hết sức kính trọng.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trên vùng Thánh Ðịa nầy, hôm nay Ðời và Ðạo đã gặp nhau và thông cảm nhau trong dịp tỏ lòng tôn kính và sùng bái những nhơn vật trong hàng vương giả, đã lấy chủ nghĩa quốc gia dân tộc làm chuẩn đích, đem thân thế điểm tô cho non sông Việt chủng được vững bền trên cõi Á Ðông, lắm khi phải trọn đời hy sinh vì giống nòi Hồng Lạc.
Phải tôn kính cành mai đương nở,
Đừng xa hoa làm mớ hàng chơi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Chồng biết vợ muốn toan hót nịnh,
Cặp mắt nhìn tôn kính sắc vợ nhà.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Tôn kính”.
Tôn: Quý trọng, kính trọng. Kỉnh (kính): Tỏ thái độ coi trọng, nể nang.
Tôn kỉnh, như chữ “Tôn kính 尊 敬”, là tôn trọng và cung kỉnh, tức là hết sức kỉnh trọng.
Xem: Tôn kính.
Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ,
Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
尊 嚴
Tôn: Kính trọng. Nghiêm: Trang nghiêm.
Tôn nghiêm chỉ sự tôn trọng và trang nghiêm.
Thánh giáo Đức Hộ Pháp dạy về lễ Tấn phong như sau: Còn lễ toàn đạo hiệp lại tổ chức cuộc lễ cho có vẻ tôn nghiêm rồi toàn thể Chức sắc Thiên phong đến hành lễ bái mạng cho vị Tân phong đủ uy quyền với toàn Đạo.
Tôn nghiêm đã dạy nết xưa sao,
Nay lại không kiêng giữ chút nào.
(Đạo Sử).
Tôn nghiêm một cõi đời chiêm bái,
Soi rạng đường tu ngọn đuốc hồng.
(Thơ Thuần Đức).
孫 夫 人
Tôn: Tên một họ. Phu nhân: Từ dùng để gọi vợ của người có địa vị cao trọng trong xã hội.
Tôn Phu nhân là vị phu nhân họ Tôn, ý chỉ em gái của Tôn Quyền, vua nước Ngô đời Tam Quốc.
Do tích Tôn Quyền theo kế của Châu Du, tự là Công Cẩn, giả bộ cầu thân với Lưu Bị, nhà Hán (đất Thục), rồi mời Lưu Bị qua Giang Đông nói là gả em gái để kết tình lân bang giao hảo, định dùng phục binh giết chết trong tiệc rượu. Khổng Minh là quân sư của Lưu Bị biết rõ âm mưu sâu độc của Tôn Quyền, liền bày kế cho Lưu Bị khi sang đất Ngô, tuyên bố ầm lên là mình được Tôn Quyền mời sang gả em gái.
Việc nầy thấu tai đến bà Ngô Quốc Thái, mẹ của Tôn Quyền. Biết đó là mưu mô xảo quyệt, Bà gọi Tôn Quyền vào mắng cho một trận. Nhận thấy Lưu Bị là người đạo đức. Bà buộc Tôn Quyền phải tôn trọng lời hứa và nhất quyết gả con gái cho Lưu Bị. Tôn Phu Nhân không rõ mưu kế của anh vâng lời mẹ kết duyên với Lưu Bị.
Không áp dụng mưu hại Lưu Bị được, nên Tôn Quyền định dùng giàu sang và quyền tước để cầm chân ông ở Đông Ngô. Nhưng theo kế của Khổng Minh và lòng cương quyết theo chồng cho trọn đạo tòng phu của Tôn phu nhân, nên cả hai vợ chồng Lưu Bị trở về đất Thục được bình yên.
Ham Chiêu Quân trọn nghĩa phụ thần,
Hơn giúp Hớn Tôn Phu Nhân gươm cật ngựa.
(Phương Tu Đại Đạo).
尊 崇
Tôn: Tôn kính, kính trọng. Sùng: Nâng đỡ lên cao, quý trọng.
Tôn sùng là tôn trọng và sùng bái. Như: Anh ta có tính tôn sùng cá nhân.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Chỉ có xứ Việt Nam còn duy trì được sự tôn sùng tổ phụ theo tục lệ cổ truyền, mặc dầu xứ ấy chỉ biết chịu ở dưới quyền lệ thuộc từ ngày tạo lập đến giờ.
Quy nguyên các Ðạo hữu hình,
Tôn sùng một đấng hoá sinh muôn loài.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
尊 師
Tôn: Tôn kính. Sư: Thầy.
1.- Tôn sư là tiếng dùng để chỉ Đấng Giáo chủ, hoặc tôn xưng thầy hay những người đáng xem như bậc thầy.
Như: Đức Thái Thượng Lão Quân là tôn sư của phái Đạo gia.
Hỗn Độn Tôn sư,
Càn khôn Chủ tể.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
2.- Riêng trong đạo Cao Đài, tiếng Tôn sư dùng để chỉ Đức Hộ Pháp.
Ven trời ngàn lạy đáp ân thâm,
Nhắc đến tôn sư lụy nhỏ dầm.
(Lễ Sanh Nhượng Giáng).
Vì tình nhơn loại kêu Chung sống,
Ân đức Tôn sư rạng Tổ đình.
(Thơ Huệ Phong).
孫 臏
Tôn Tẫn là người nước Tề, đời Xuân Thu, học trò của Quỷ Cốc Tiên Sinh. Tôn Tẫn và Bàng Quyên cùng học một thầy, Tôn Tẫn giỏi hơn, nên được thầy yêu quý.
Bàng Quyên làm quân sư cho Nguỵ Huệ Vương, đánh thắng nhiều trận, danh tiếng lừng lẫy. Khi Tôn Tẫn xuống núi, Bàng Quyên trước kia có hứa tiến cử cho vua Nguỵ, nhưng biết Tôn Tẫn giỏi hơn mình sợ được trọng dụng, nên giả làm lơ. Nhờ có Mặc Địch giới thiệu Tôn Tẫn với vua Nguỵ, buộc lòng Bàng Quyên phải rước Tôn Tẫn về.
Sau Bàng Quyên gièm tâu với vua Nguỵ là Tôn Tẫn có ý làm phản, khiến Tôn Tẫn bị chặt chân. Bàng Quyên giả vờ thương xót, đem bạn về nuôi, chờ cơ hội giết Tôn Tẫn. Tôn Tẫn biết được giả điên rồi trốn sang nước Tề, làm quân sư cho Tề Hầu, kéo quan sang đánh Nguỵ và giết chết Bàng Quyên tại Mã Lăng.
Trong hành lang Báo Ân Từ có vẽ khuôn hình lấy tích “Tôn Tẫn tầm sư học Đạo”.
Tiệc trà Tôn Tẫn xưa chưa cạn,
Ngự tửu Châu Vương uống chẳng say.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
Khó gìn Tề quốc tài Tôn Tẫn,
Khôn thắng Lưu Bang sức Hạng Vương.
(Thơ Chơn Tâm).
Bàng Quyên nỡ chặt chân Tôn Tẩn,
Đã nhờ người tiến dẫn Nguỵ Vương.
(Báo Ân Từ).
尊 卑
Tôn: Lớn. Ty: Nhỏ, thấp, hèn.
Tôn ty là lớn nhỏ, cao thấp, quý tiện, sự phân biệt cho có trật tự trên dưới. Như: Người đạo phải giữ tôn ty đẳng cấp trong tôn giáo.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Cả thảy đều con của Thầy, trừ ra tôn ty thượng hạ nơi việc hành chánh, thì đồng một bậc cả, chẳng ai đặng vì quyền mà lấn lướt, chẳng ai đặng vì mạng lịnh mà đè ép xua đuổi ai.
Năng thân cận những trang hiền ngõ,
Trọng tôn ty tỏ rõ phẩm người lành.
(Phương Tu Đại Đạo).
尊 卑 品 秩
Tôn ty: Lớn nhỏ, cao thấp, quý tiện, sự phân biệt cho có trật tự trên dưới. Phẩm trật: Thứ tự trong phẩm tước.
Tôn ty phẩm trật là thứ tự cao thấp theo chức tước.
Hộ Pháp hỏi Ngài về sự tôn ty phẩm trật thì Ngài dạy rằng: Nam nữ vốn đồng quyền.
(Pháp Chánh Truyền CG).
尊 卑 上 下
Tôn ty: Lớn nhỏ, cao thấp, quý tiện, sự phân biệt cho có trật tự trên dưới. Thượng hạ: Trên dưới.
Tôn ty thượng hạ là có sự phân minh về trật tự cao thấp, trên dưới về giai cấp hay phẩm tước.
Cả thảy đều con của Thầy, trừ ra tôn ty thượng hạ nơi việc hành chánh, thì đồng một bậc cả...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tôn: Coi là xứng đáng và đưa lên một địa vị cao quý. Thờ: Tôn kính và coi là thiêng liêng.
Tôn thờ là tôn kính và thờ phụng.
Tôn thờ còn có nghĩa là coi trọng đến mức cho là thiêng liêng đối với mình.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Giữa xã hội người ta thấy bao nhiêu nỗi bất bình bực tức: Mạnh lấn yếu, chúng hiếp cô, vì lẽ cái thế lực kim tiền được tôn thờ kính phục.
Bốn Ngọc Nữ sau hầu Đức Mẹ,
Cảnh tôn thờ rạng vẻ uy linh.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
尊 重
Tôn: Kính trọng, quý trọng. Trọng: Nặng, tôn quý.
Tôn trọng là tôn kính và quý trọng.
Trong bài Tuyên dương Bà Hương Hiếu trong cuộc lễ Tấn phong Nữ Đầu Sư, Đức Sanh có dạy: Phải sợ Đức Chí Tôn và Phật Mẫu hơn sợ mích lòng người thì mới hẳn là vô tư, còn vị nể cá nhân hơn tôn trọng luật Đạo thì chẳng phải là tư cách của người cầm quyền.
Tôn trọng người như Trời với Phật,
Thương yêu cả hết chúng sanh thành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thiên điều tại thế nên tôn trọng,
Vẹn phận ngàn thu hưởng phúc duyên.
(Thơ Huệ Giác).
孫 文
Tôn Văn tên của Tôn Trung Sợn, tự Tải Chi 載 之, hiệu Nhật Tân 日 新, Dật Tiên 逸 仙, là nhà cách mạng Trung Quốc, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại, và khai sinh ra Trung Hoa Dân Quốc. Ông được tôn xưng là “Quốc phụ” tại Trung Hoa Dân Quốc.
Trong tôn giáo Cao Đài, Tôn Văn giáng cơ xưng là Tôn Sơn Chơn Nhơn, là một trong Tam Thánh Bạch Vân Động, được vẽ hình tại Tịnh Tâm Đài trước Đền Thánh và được thờ tại các Điện Thờ Phật Mẫu.
Nguyệt Tâm người Pháp siêu phàm,
Cộng đồng lại với Tôn Văn người Tàu.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Hay “Tôn Vũ Tử”.
Tôn Võ Tử, như chữ “Tôn Vũ Tử 孫 武 子”, là người nước Tề, đời Đông Châu, có soạn bộ “Tôn Tử binh pháp”.
Tôn Võ Tử được vua Ngô Hạp Lư phong làm tướng, cầm binh phá nước Sở ở phía tây, đánh nước Tề, nước Tấn ở phía bắc, làm cho nước Ngô hùng mạnh về võ công, nổi tiếng khắp chư hầu rồi sau ông xin từ quan ẩn dật.
Bởi vậy, khi làm cho nên nước Ngô rồi thì Tôn Võ Tử ẩn dật từ quan...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Tốn là phải dùng vào công việc gì một số lượng nào đó, có thể là nhiều.
Như: Tốn công, tốn rất nhiều tiền, công trình đó phải tốn nhiều công sức và tiền bạc.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thái Thơ Thanh có câu: Lòng đạo đức con, Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến. Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà gìn giữ sự giả dối.
Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,
Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.
(Kinh Sám Hối).
Phân mắc rẻ lòng đừng sợ tốn,
Bỏ cho nhiều ruộng trộn cho đều.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tốn 遜 là nhún nhường. Như: Khiêm tốn.
Thánh giáo Đức Diêu Trì Nương Nương trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Trong cửa Đạo, từ đứa tín đồ nhỏ nhoi cho đến hạng Chức sắc Cửu Trùng khiêm tốn đều chịu dưới quyền áp bức khổ tâm, kẻ rách rưới cơ hàn, đứa cơm không no bữa, cho tới lớp chiến sĩ cầm quân, biết bao nhiêu là khổ tâm, mà tiếng rên xiết đau thương mấy ai ngó ngàng đến.
Xem: Khiêm tốn.
Do theo gương của Ðức Ngài, những bậc trí thức ngày xưa mặc dù có tài học lỗi lạc, thường hay nhún nhường, khiêm tốn chớ không hề tỏ vẻ tự đắc.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Tốn: Phải dùng vào công việc gì một số lượng nào đó. Của: Của cải, tiền của.
Tốn của là tốn mất nhiều tiền của.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Muốn được hạnh phúc trong đời sống tinh thần, muốn được thông minh, muốn được an tịnh, muốn giúp kẻ khác trong công ăn việc làm thì không có hại chi hết. Có hại là khi những sự ta muốn, nếu ta đạt được thì sẽ có hại cho người khác, nghĩa là ta không tốn của hay ra công mà chỉ dùng mưu thần chước quỷ mà nên việc.
Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà gìn giữ sự giả dối.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tốn: Hao, tức phải dùng vào công việc gì một số lượng nào đó. Tiền: Vật đúc bằng kim loại hay in bằng giấy dùng làm đơn vị tiền tê.
Tốn tiền là phải tốn mất nhiều tiền cho một công việc nào đó. Như: Nhà gần đi bộ đỡ tốn tiền.
Thừa ưa đến buổi đặng chơi Tiên,
Chẳng mất công phu chẳng tốn tiền.
(Đạo Sử).
存
Tồn là còn lại. Như: Sinh tồn, tồn tại.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy cho con hiểu rằng nếu không có ý muốn của Thầy thì trên quả địa cầu nầy chẳng có vật chi sanh tồn tất cả.
Giữ cho trong sạch linh hồn,
Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.
(Kinh Sám Hối).
Ðời rạng lưu tồn gương nhựt nguyệt,
Ðạo thành vạn đại chiếu sơn hà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
存 古
Tồn: Còn, làm cho còn. Cổ: Xưa.
Tồn cổ là giữ gìn những cái cổ xưa trong văn hoá, không muốn có sự thay đổi.
Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn: Chính Đức Khổng Phu Tử là người đại biểu rõ rệt cho cái Cổ điển ấy, tự mình cũng không đổi mới gì cả. Gốc Đạo của Ngài là Tồn cổ, Ngài tin rằng những lễ phép của Thánh Nhơn đặt ra là rất mực khôn ngoan, rất mực tốt đẹp, người đời sau chỉ nên theo đúng như thế mà ăn ở là hay vậy.
Đạo biểu tượng tinh thần tồn cổ,
Làm phương châm giác ngộ trần gian.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
存 在
Tồn: Còn, làm cho còn. Tại: Ở.
Tồn tại là hiện đang còn, không mất, chưa giải quyết.
Như: Đang tồn tại nhiều thói hư tật xấu, những vấn đề tồn tại chưa được giải quyết.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Lo làm để cho chính mình hưởng đó là vụ lợi, tức là bất chánh, việc làm dù thành công cũng không tồn tại được.
...không một người nào, một cơ nghiệp nào sản xuất trong sự giả dối mà tồn tại được.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
存 心
Tồn: Còn. Tâm: Tấm lòng của con người.
Tồn tâm là giữ cho còn cái lương tâm, hay nói cách khác là giữ vững lương tâm.
Mạnh Tử nói: Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tánh 存 其 心 養 其 性, nghĩa là Giữ lương tâm cho còn mãi mãi và nuôi dưỡng tánh tốt để khỏi làm bậy.
Tồn tâm chỉ rõ đường mê giác,
Dưỡng tánh phân rành nẻo tục Tiên.
(Thơ Thượng Sanh).
Tồn tâm tự giác nhi tha giác,
Dưỡng tánh canh tân hựu nhựt tân.
(Thơ Thân Dân).
Tồn tâm: Giữ cho còn cái lương tâm, hay nói cách khác là giữ vững lương tâm. Dưỡng tánh (tính): Nuôi dưỡng cái tánh của mình lúc nào cũng thiện lương như thuở ban đầu cha mẹ mới sanh ra. Như vậy cái tánh mới thiệt không không, tức không buồn lo, không sợ sệt, không giận hờn, không ghen ghét, để gìn giữ tư tưởng thật tinh khiết, thanh cao.
Tồn tâm dưỡng tính 存 心 養 性 là giữ cái tâm lúc nào cũng tồn tại sáng suốt và nuôi nấng cái tánh lúc nào cũng thiện lương như lúc ban đầu cha mẹ mới sanh.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tồn Tâm dưỡng Tánh là giữ cho mình cái tâm hư linh, nghĩa là đừng để cho tư ý che lấp mất và nuôi cái tánh cho được sáng suốt toàn hảo như Trời đã ban cho ta...
Tu thì phải tồn tâm dưỡng tánh,
Tu trau tria đức hạnh ôn lương.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
存 神
Tồn: Còn. Thần: Phần chủ tể của con người, là điểm linh của Trời phú cho mà Đạo Cao Đài gọi là Tiểu linh quang hay Thiên tánh.
Thần cũng là phần rất thiêng liêng, cai quản phần trí não, là linh hồn của con người mà bên Phật gọi Bản lai diện mục, Chơn như Phật tánh. Thần thường ở tại mắt (Thần cư tại nhãn), chính vì thế mà người tu luyện cao thâm, đôi mắt rất tinh anh và sáng quắc.
Tồn Thần là giữ cho còn cái Thần thiêng liêng. Muốn vậy, chúng ta trước nhứt phải bế Tinh, dưỡng Khí và làm cho Thần yên tỉnh bằng cách thanh tâm quả dục.
Thanh tâm là giữ cho lòng trong sạch, tiêu trừ hết mọi thất tình, không lo lắng sợ sệt, giữ yên tỉnh trong lòng, không để tình cảm xúc động.
Quả dục là làm giảm bớt dục vọng, tiêu trừ hết lục dục, diệt tận tánh tham lam.
Trong phép luyện đạo, nếu chúng ta Bảo Tinh, Dưỡng Khí và Tồn Thần (Định Thần) được thì chúng ta có thể luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần huờn Hư thì Tinh, Khí, Thần sẽ hiệp nhứt, đắc Đạo vậy.
Bảo tinh, dưỡng khí, tồn thần,
Theo đường trung Ðạo thoát thân luân-hồi.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
存 亡
Tồn: Còn. Vong: Mất.
Tồn vong là còn, mất, chỉ sự sống và chết.
Thánh ngôn Thầy có dạy: Cơ lập Ðạo là nhiệm mầu vô giá. Biết Ðạo, biết ta biết người, biết thế biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt, rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối.
Nhớ mẹ ngậm ngùi khi vĩnh biệt,
Sầu cha áo não cuộc tồn vong.
(Thơ Cao Hương Cường).
損
Tổn là tốn mất nhiều. Như: Đi một chuyến mà tổn hết hơn trăm triệu đồng.
Tổn còn dùng để chỉ làm mất mát, làm thiệt hại đến. Như: Làm việc không tính kỹ nên tổi hại một số tiền.
Ðời toan những mưu thần chước quỷ,
Giết lẫn nhau ích kỷ tổn nhơn,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
損 德
Tổn: Hao mất, thua thiệt. Đức: Phước đức.
Tổn đức là hao mòn phước đức, ý chỉ mất đức.
Dạy về cách ăn mặc, Thánh giáo Thầy có câu: Vì bô vải là tấm gương đạo đức, các con đã rõ đạo thì biết đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian nầy. Như sự lãng phí se sua ở đời nầy, Thầy cũng cho là một việc tổn đức vậy.
Mưu được phần mình thì tổn đức,
Của tiền dầu chất há an vui?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Việc chi chi tại nơi Thánh vức,
Chớ tưởng lầm tổn đức bình sanh.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
損 傷
Tổn: Hao mất, thương hại. Thương: Tổn hại.
Tổn thương là hại đến. Như: Làm tổn thương danh dự, thân thể bị tổn thương.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Người thật tâm ái quốc, dầu đối với việc nhỏ mọn bao nhiêu mà ích nước lợi dân cũng cố làm, còn trái lại cảnh ngộ đã đem đến cho đặng danh cao lợi lớn đi nữa, mà nghịch với quyền lợi và tổn thương cho Quốc thể cũng không làm.
Nếu là người trong hàng Thánh Thể Ðức Chí-Tôn thì lại làm cho tổn thương thanh danh nền Ðại Ðạo hoen ố lây cho cả bạn đồng thuyền.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
宗
1.- Tông là dòng họ, hay người gây dựng dòng họ, học phái. Như: Tông chi, tông đường, tông môn, tông tổ, tông tộc.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Càn khôn là đại gia đình, cửa Ðạo cũng vậy, xã hội cũng vậy, là một gia đình có cha mẹ, bà con, như một tông tộc vậy.
Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
Cùng nhau một Ðạo tức một Cha.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bời lời lòng những luống lo toan,
Lo đến Tổ tông chốn suối vàng.
(Đạo Sử).
2.- Tông, còn đọc là “Tôn”, là tiếng dùng để chỉ một tôn giáo hay một giáo phái. Như: Tôn giáo, Phật giáo Bắc tông, Thiền tông, Nho tông, tông đồ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có dạy: Ðức Chí Tôn dạy chúng ta lấy Nho tông chuyển thế đặng xây dựng lại nền phong hoá ưu tú của nước nhà hầu tạo lập một nền Văn hoá tương lai cho toàn thể quốc gia trên thế giới.
Phật Pháp khuyến nhơn quy mỹ tục,
Nho Tông phục thế hưởng thuần phong.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
宗 道
Tông: Còn đọc là “Tôn”, là tiếng dùng để chỉ một tôn giáo hay một giáo phái. Đạo: Tôn giáo.
Theo đạo Cao Đài, Tông Đạo là tất cả những tín đồ của Đạo cùng ở trong một vùng, một nước thì gọi là một Tông Đạo.
Như: Tông Đạo Bắc Phần (hay Bắc Tông Đạo), Trung Tông Đạo, Tông Đạo Tần Nhơn...
Hạnh lâm Đạo Đức Học Đường,
Kim Biên Tông Đạo, trầm hương Khách Đình.
(Thơ Huệ Nhật).
宗 道 北 分
Tông đạo: Tất cả các tín đồ Cao đài trong một nước, một vùng hay một dân tộc hợp lại mà thành. Bắc phần: Chỉ các tỉnh thuộc phía bắc Việt Nam.
Tông đạo bắc phần, còn gọi là “Bắc Tông đạo”, là khu vực đạo Cao Đài ở xứ Bắc, tức gồm những tín đồ trong các tỉnh Đạo thuộc Bắc phần Việt Nam.
Xem: Bắc tông đạo.
Hữu phần Tiếp Lễ Nhạc Quân,
Phía tả Tông Đạo Bắc Phần đang xây.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Tông Đạo: Tất cả những tín đồ của Đạo Cao Đài trong ở một nước gọi là một Tông Đạo. Tần Nhơn: Người Miên, hay người Cam bốt.
Tông Đạo Tần Nhơn gồm tất những tín đồ người Tần Nhơn (Cao Miên) theo Đạo Cao Đài. Tông Đạo Tần Nhơn còn gọi là Tông Đạo Kim Biên.
Khi Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn từ bỏ chức vụ Chưởng Đạo Hội Thánh Ngoại Giáo, Đức Hộ Pháp bèn giải tán Hội Thánh Ngoại Giáo và thành lập Tông Đạo Kim Biên hay Tông Đạo Tần Nhơn.
Văn Phòng Tông Đạo Tần Nhơn được xây dựng nơi Nội Ô, trước cổng có đôi liễn: Tần Quốc lân bang phổ độ chúng sanh quy thiện giáo, Kim Biên Tông Đạo ngoại giao dân tộc chánh nhơn tâm 秦 國 鄰 邦 普 度 眾 生 歸 善 教, 金 邊 宗 道 外 交 民 族 正 人 心, nghĩa là nước Tần láng giềng cứu giúp nhơn sanh khắp nơi trở về nền tôn giáo tốt đẹp, Tông Đạo Kim Biên giáo hoá dân ngoại quốc làm cho lòng người chơn chánh.
Xem: Kim Biên.
Kìa bên hữu bảng ngoài kiến tạo,
Đề Văn Phòng Tông Đạo Tần Nhơn.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Tông Đạo Tần Nhơn khéo điểm tô,
Văn phòng ai thấy cũng trầm trồ.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
宗 徒
Tông: Tôn Giáo. Đồ: Học trò.
Tông đồ là người tin theo một Tôn Giáo, hay nói khác, là tín đồ của một Tôn Giáo.
Trong Tôn Giáo Cao Đài, Tông đồ là những người đồ đệ Đức Chí Tôn
Ngài lại là Trạng Sư cãi Luật,
Cả Tông Đồ binh vực đỡ nâng.
(Lược Thuật Toà Thánh).
宗 堂
Tông: Nơi thờ phụng tổ tiên dòng họ. Đường: Nhà.
1.- Tông đường là chỉ dòng họ.
Như: Nối dõi tông đường, hương hoả tông đường.
Nguyện nên hương hoả tông đường,
Nguyện thương lê thứ trong trường công danh.
(Kinh Thế Đạo).
2.- Tông đường còn dùng để chỉ nhà thờ tổ tiên của một dòng họ.
Như: Các Phủ từ trong đạo Cao Đài là nhà thờ chung của một dòng họ.
Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đơm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
宗 門
Tông: Dòng họ. Môn: Cửa.
Tông môn là dòng họ hay gia tộc.
Ngoài ra, Tông môn còn có nghĩa môn phái của Tôn giáo.Như: Phật giáo có nhiều tông môn, trong đó có Thiền tông và Tịnh độ tông.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Như một ông Trưởng Tộc họ nầy nếu tự nhiên có liên lạc chi với họ khác, khi phải đối đầu quyền lợi chung cho Tông môn hai họ, không phải một mình ông quyết định đặng.
Đôi mặt cách mà lòng vẫn một,
Khác tông môn hài cốt hoà chung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phải hiểu rõ hai điều vinh xú,
Hiển tông môn quy củ nghiệp nhà.
(Phương Tu Đại Đạo).
宗 祖
Tông: Dòng họ, dòng dõi. Tổ: Người đầu tiên lập ra một dòng họ.
Tông tổ, như chữ “Tổ tông” hay “Tổ tiên”, là những người đầu tiên, qua đời lâu, của một dòng họ hay một dân tộc trong quan hệ với thế hệ sau này.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Gia đình là một phần nhỏ trong xã hội, nếu biết gìn giữ thân thể, tôn trọng danh giá cha mẹ, anh em thảng có đứa du côn không kể gia pháp, làm rối loạn gia đình thì kẻ đó ai cũng muốn bỏ, muốn đưa ra khỏi gia đình Tông tổ.
Nối Tông tổ biết bao nghĩa trọng,
Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.
(Kinh Thế Đạo).
Ghen sợ chồng nhẹ tấm mình vàng,
Nhiễm sỉ nhục hổ hang tông tổ.
(Phương Tu Đại Đạo).
宗 族
Tông: Dòng họ. Tộc: Họ.
Tông tộc là họ hàng thuộc dòng họ.
Đức Hộ Pháp có câu: Trọng hệ hơn hết của nền quốc giáo Việt Nam ta, là vô hậu kế đại, tức nhiên thêm vào cái nợ máu thịt mà ông bà ta để lại, nếu không đương nỗi thì phải chịu thất hiếu với cả Tông tộc, Cửu Huyền Thất Tổ.
Thường năm Tông tộc lễ gia tiên,
Lời dạy noi gương bậc triết hiền.
(Thơ Vạn Năng).
送 別
Tống: Đưa tiễn. Biệt: Từ giã, chia ly.
Tống biệt là đưa tiễn lúc sắp từ giã nhau. Như: Mấy lời tống biệt, bài ca tống biệt.
Tặc lưỡi mà ngâm câu tống biệt:
Thử hành quân mã đáo hà phương?
(Thơ Hoài Tân).
Chung rượu tiễn đưa ngơ ngẩn rượu,
Bài thi tống biệt bẽ bàng thi!
(Thơ Hàn Sinh).
送 舊 迎 新
Tống cựu: Đưa tiễn cái cũ, tiễn năm cũ. Nghinh tân: Đón tiếp điều mới, rước năm mới.
Tống cựu nghinh tân là tiễn đưa năm cũ, đón rước năm mới.
Ngày xưa, mỗi lần đến cuối năm mỗi nhà đều dọn cỗ bàn cùng nhau ăn uống, rồi mới thức suốt đêm trừ tịch để chờ đón năm mới, gọi là “Tống cựu nghinh tân”.
Khắp ngõ liễn đề câu tống cựu...
Xuê cành mai nở, đoá nghinh tân.
(Thơ Chơn Tâm).
Nhà nhà tống cựu để nghinh tân,
Thì cũng năm ba chữ góp vần.
(Thơ Hàn Sinh).
送 終
Tống: Đưa tiễn ra đi. Chung: Cuối cùng, chết.
Tống chung là đưa tiễn người chết đến huyệt mộ để an táng, chôn cất.
Như: Ngày tống chung gặp mưa dầm mọi người đi hết sức vất vả.
Trong việc tống chung, không nên xa xí, không nên để lâu ngày, không nên dùng đồ âm công có màu sắc loè loẹt.
(Tân Luật).
宋 弘
Tống Hoằng là một quan Đại phu dưới thời vua Hán Quang Võ đời Hậu Hán.
Tống Hoằng hằng ngày, ngoài làm việc quan, ông còn săn sóc cho người vợ mù. Nghe danh ông, Hồ Dương Công Chúa mới goá chồng, muốn Tống Hoằng bỏ vợ để lấy mình, nhờ vua Hán ướm lời. Vua hỏi dọ ý Tống Hoằng thì ông trả lời: Tào khang chi thê bất khả hạ đường”, nghĩa là vợ chồng hồi tấm mẳn, chẳng khá bỏ nhau.
Vua mới biết Tống Hoằng là người trung hậu, giữ tình nghĩa thủy chung.
Xem: Hồ Dương.
Tu đường ví sửa thêm đôi chút,
Cũng đặng an vui nét Tống Hoằng.
(Bát Nương Giáng Bút).
Trai học Tống Hoằng nêu quốc sử,
Gái noi Mạnh Thị tấm gương trong.
(Thơ Thông Quang).
Tống Hoằng làm quan Đại phu dưới triều vua Hán Quang Võ nhà Hậu Hán, tính người rất chánh trực và trung hậu.
Sử nhà Hán chép rằng: Vua Quang Võ cần người bên cạnh để bàn việc nước, Tống Hoằng tiến cử Hoàn Đàm. Vua bèn phong cho Hoàn Đàm chức Cấp Sự Trung, thường ngày ở bên cạnh vua. Mỗi lần có yến tiệc, vua thường bảo Hoàn Đàm đờn, Đàm toàn lấy những bài dâm ô của nước Trịnh đờn cho vua nghe.
Tống Hoằng biết được, trách Hoàn Đàm và tâu với vua rằng: Thần giới thiệu Hoàn Đàm là muốn đem lòng trung giúp nước, nhưng nay quan trong triều thích nhạc dâm ô của Trịnh là tội của Hạ thần. Vua nghe qua, liền tỉnh ngộ, bãi chức Hoàn Đàm. Từ đó, nhà vua lại càng kính nể Tống Hoằng hơn.
Tống Hoằng có người vợ bị bệnh chẳng may phải chịu mù loà, nên hằng ngày ngoài việc quan, ông thường ở nhà săn sóc, đút cơm cho vợ ăn. Mặc dù vợ bị mù, nhưng Tống Hoằng một lòng thương yêu, chung thuỷ, chẳng vì thế mà cưới vợ khác.
Hồ Dương Công chúa là chị của vua Hán Quang Võ, goá chồng, muốn Tống Hoằng bỏ vợ để lấy mình, nhờ vua Hán Quang Võ ướm lời.
Vua hỏi Tống Hoằng: Quý dịch giao, phú dịch thê, hữu chư? 貴 易 交, 富 易 妻, 有 諸?, nghĩa là sang đổi bạn, giàu đổi vợ có chăng?
Tống Hoằng tâu rằng: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường 貧 賤 之 交 莫 可 忘. 糟 糠 之 妻 不 可 下 堂, nghĩa là bạn bè lúc nghèo hèn chớ nên quên, vợ chồng hồi tấm mẳn, chẳng khá bỏ nhau.
Vua Hán Quang Võ và Hồ Dương Công chúa nghe Tống Hoằng nói thế thì biết Tống Hoằng là người trung hậu, không chịu bỏ vợ. Thật là một người đàn ông rất chung thuỷ, trên đời ít có vậy, nên có thể làm gương tốt cho ngàn đời sau.
Tống Hoằng chí trượng phu không đổi,
Giữ nhơn luân sợ lỗi đạo hằng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tống Hoằng vẫn đạo tào khang giữ,
Quyết từ duyên phụng sự vợ mù.
Sang không đổi chí trượng phu,
Nhơn luân trọn nghĩa, ngàn thu danh truyền.
(Báo Ân Từ).
宋 收 天 下
Tống: Nhà Tống bên Trung Quốc. Thâu Thiên hạ: Tóm thâu hết thiên hạ, ý chỉ gầy dựng được đất nước.
Tống thâu thiên hạ là nhà Tống bên Trung Quốc, đánh nam dẹp bắc mà thâu hết thiên hạ về một mối.
Theo Trung Quốc Sử, và thời mạt Đường, các chư Hầu không phục, chia nhau ra lập thành năm nước nhỏ là Đường, Lương, Tấn, Hán, Chu mà Sử gọi là đời Ngũ Đại.
Sau Triệu Khuông Dẫn đem quân đánh phạt các nước, gom thiên hạ về một mối, lập nên nhà đại Tống.
Tống thâu thiên hạ Đại Đường,
Cũng do bởi học nơi trường hữu giao.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Tổng 總 là tóm, gồm. Như: Tổng cộng, tổng chi, tổng kiểm kê, tổng thâu hoạch.
Như: Đi du lịch mấy ngày nay tổng cộng đi gần ngàn cây số, tổng số người đi là hai mươi.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tổng 總 là đơn vị hành chánh ở nông thôn thời xưa, gồm nhiều làng xã. Như: Làng tổng, cai tổng.
Đức Thượng Sanh đọc trước Liên đài Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu có câu: Hưởng thọ 73 tuổi, ngài Bảo Văn Pháp Quân sanh trưởng tại làng Hiệp Ninh, Tổng Hàm Ninh Thượng thuộc tỉnh Tây Ninh, trong một gia đình thế phiệt Nho phong.
Kìa Quan viên Chức sắc bôn chôn, cũng lũ dại học khôn,
Nọ binh lính Tổng, làng chộn rộn, cũng lũ ngu ăn hỗn.
(Ngụ Đời).
總 監
Tổng: Đứng đầu chỉ huy. Giám: Coi sóc.
Tổng Giám là một phẩm chức sắc trong đạo Cao Đài, đứng đầu chỉ huy cơ quan Công thợ của Hội Thánh.
Cơ quan Công thợ của Hội Thánh có nhiều Sở chuyên môn, như Sở Mộc, Sở Hồ, Sở Đắp vẽ...
Ban Kiến Trúc cũng là một cơ quan Công thợ của Hội Thánh, đứng đầu là một vị Tổng Giám, dưới quyền có nhiều vị Phó Tổng Giám và Tá Lý.
Đức Hộ Pháp ban hành Thánh lịnh số: 231, ngày 9 tháng 7 năm Canh Dần (Dl. 22-8-1950) thành lập Cơ quan Công thợ gồm các ban: Ban Kiến Trúc, Ban Nhà Thuyền, Ban Mỹ Thuật... Trong đó, quy định Tổng Giám kiểm soát toàn thể các Cơ sở và Tổng Giám đối phẩm với Giáo Hữu hay Chí Thiện bên Cửu Trùng Đài và Cơ Quan Phước Thiện. Tổng Giám hành sự được 5 năm công nghiệp thì được Hội Thánh đem ra quyền vạn linh công nhận vào hàng Giáo Sư.
Tổng Giám đối hàm Giáo Hữu hay Chí Thiện.
(Chánh Trị Đạo).
總 合
Tổng: Tóm, gồm. Hợp: Hiệp lại, hoà đồng với nhau.
Tổng hợp là gom nhiều cái lại làm một. Như: Tổng hợp các ý kiến thảo luận.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lớn hơn gia đình là một quốc gia, là một gia đình lớn, gồm cả các gia đình tổng hợp lại, chiều theo một khuôn luật do quyền năng của Ðạo giáo tức Ðại gia đình.
Phẩm tước là sự tổng hợp các chức tước đã bày ra để quyến rũ người hoặc ít hoặc nhiều.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tổng Khậu là tên một nhân vật trong Tuồng Hát Chèo Thuyền trong đạo Cao Đài, là người lo việc bếp núc cho các nhơn viên thuyền Bát nhã.
Theo lời giải thích của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa về Chèo thuyền Bát nhã thì Tổng Khậu tượng trưng cho nhơn sanh, tức là chơn hồn của chúng ta.
Cả tiếng kêu Tổng Khậu hậu thuyền,
Mau thân đáo cho Qua cậy việc... Bớ Khậu.
(Tuồng Hát Chèo Thuyền).
Tổng Lái là tên một nhân vật trong Tuồng Hát Chèo Thuyền trong đạo Cao Đài, là người đứng đầu, cai quản toàn thể nhơn viên thuyền Bát nhã.
Theo lời giải thích của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa về Chèo thuyền Bát nhã thì Tổng Lái là chơn linh của Hắc Sát Tinh ở thượng giới theo thể pháp, còn bí pháp là chơn khí của Hộ Pháp. Tổng Lái tượng trưng cho Bát Quái Đài.
Quyền trấn thủ Linh sàng,
Hắc Sát Tinh “Tổng Lái”.
(Tuồng Hát Chèo Thuyền).
總 論
Tổng: Tóm, gồm. Luận: Bàn về một vấn đề gì, có phân tích lý lẽ.
Tổng luận là bài viết bàn một cách khái quát về một vấn đề nào đó.
Như: Bài tổng luận về văn học cổ điển.
Tổng luận, ăn chay chẳng những là giới luật riêng của tôn giáo, mà cũng cần ích chung cho mọi người.
(Thiên Đạo).
Tổng Mũi là tên một nhân vật trong Tuồng Hát Chèo Thuyền, trong đạo Cao Đài, là người cai quản mũi thuyền và điều khiển 12 Bá trạo để chèo thuyền đi tới.
Theo lời giải thích của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa về Chèo thuyền Bát nhã thì Tổng Mũi là chơn linh của Bạch Hổ Tinh ở Thượng giới theo thể pháp, còn bí pháp là chơn khí của Thượng Phẩm. Tổng Mũi tượng trưng cho Hiệp Thiên Đài.
Trấn thủ Bát nhã thoàn,
Ngã xưng danh “Tổng Mũi”.
(Tuồng Hát Chèo Thuyền).
總 法 宗
Tổng: Gom lại, tụ họp lại, tất cả. Pháp tông: Giáo pháp của các tôn giáo.
Tổng Pháp Tông là gom các Giáo Pháp của mọi nền Tôn giáo lại làm một.
Đức Chí Tôn là cha chung của chúng sanh và là chủ của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Vì vậy những Giáo pháp của các Đấng, Đức Ngài quy lại thành một mối để chính mình Ngài mở nền Đại Đạo cứu đời trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, như lời Thánh giáo Ngài đã dạy: “Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con chẳng chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa và quy nguyên phục nhứt Ngũ Chi Đại Đạo là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo”.
Kim ngưỡng cổ ngưỡng,
Phổ tế tổng Pháp Tông.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
總 括
Tổng: Tóm, gồm lại. Quát: Thâu tóm lại.
Tổng quát là nhìn chung toàn bộ, không chú ý đến chi tiết. Như: Đánh giá một cách tổng quát.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bây giờ Bần Đạo xin để lời luận về chính trị đạo tổng quát của Đạo hiện thời và trong thời gian năm năm đã qua.
Còn tài sản là tổng quát các vật quý giá của con người đã thu nhặt trên thế gian nầy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
總 是 空
Tổng thị: Tất cả đều là. Không: Không có gì hết.
Tổng thị không tức là mọi sự, mọi vật ở cõi thế gian nầy đều là không hết.
Bài Giáng bút của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có câu: Thê nhi phụ tử chung ly biệt, Phú quý công danh tổng thị không 妻 兒 父 子 終 離 別, 富 貴 功 名 總 是 空, nghĩa là vợ con cha mẹ rồi ly biệt, Danh lợi sang giàu rốt cũng không.
Thấy đời tranh cạnh luống đau lòng,
Thế sự vạn ban tổng thị không.
(Thơ Thông Quang).
Tổng Thương là tên một nhân vật trong Tuồng Hát Chèo Thuyền của đạo Cao Đài, là người chịu trách nhiệm cai quản phần giữa và canh giữ thuyền.
Theo lời giải thích của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa về Chèo thuyền Bát nhã thì Tổng Thương là chơn linh của Huỳnh Long Tinh ở Thượng giới theo thể pháp, còn bí pháp là chơn khí của Thượng Sanh. Tổng Thương tượng trưng cho Cửu Trùng Đài.
Quyền trấn thủ trung thoàn,
Ngã “Tổng Thương” chữ đặt.
(Tuồng Hát Chèo Thuyền).
Tốp là tập hợp gồm một số ít người hoặc vật có người điều khiển, cùng làm một việc.
Như: Làm thành từng tốp ba bốn người, mười hai người chia thành ba tốp.
Bọn dân Ðịa phủ hình đen nám,
Tốp khách Thiên môn xác sáng ngời.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Tốt là không xấu, tức vật có chất lượng khá và người có phẩm chất đạo đức cao. Như: Giấy tốt, vải tốt, tốt bụng, bạn tốt, ăn ở tốt.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Nhà nghèo, hạnh tốt, ấy là gương treo dạy đời, các con khá bền lòng son sắt, cái hạnh tốt là thang vạch ngút mây xanh, tâm thành là để giồi trau tánh tục, lòng đạo đức quý hơn là miếng đỉnh chung, tố bần hàn tuỳ mình mà hành đạo thì công quả ấy trổi hơn hạng thượng lưu đó các con.
Nay con phước gặp nền Chơn Ðạo,
Ngọc tốt bền trau sắc rạng ngời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vợ tốt rượu ngon và thịt béo,
Ham ưa vật chất chẳng hề kiêng.
(Đạo Sử).
Tốt: Có chất lượng, có tư cách và phẩm chất đạo đức. Đẹp: Gây được cảm giác thích thú và cảm phục.
Tốt đẹp chỉ việc hoàn thành, hoàn hảo, tức được hài lòng, như mong muốn.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Công việc chúng tôi đã thực hành trong năm kể từ ngày Rằm tháng tư, tuy đem lại một kết quả chưa gọi là hoàn toàn tốt đẹp theo ý muốn, nhưng chúng tôi đã gắng sức làm việc đã có giúp ích phần nào cho đời cho Ðạo, thì những ngày trôi qua cũng không phải đáng tiếc.
Tác nữ nhi chỉ đặng một tuần,
Cơn tốt đẹp hoa xuân đương nở nhụy.
(Phương Tu Đại Đạo).
Và chỉ rõ tình thương rộng hẹp,
Thương thế nào tốt đẹp cao xa.
(Thơ Hộ Pháp).
卒 業
Tốt: Hoàn tất, trọn. Nghiệp: Công việc làm.
Tốt nghiệp là học hết một bậc học và được công nhận đã đạt tiêu chuẩn kiểm tra kiến thức.
Tốt nghiệp Hạnh Đường là các học viên chức sắc hay chức việc huấn luyện tại Hạnh Đường đã qua khoá kiểm tra kiến thức và được thi đậu trong kỳ thi mãn khoá.
Rồi đây các em sẽ dự thí lãnh bằng tốt nghiệp Hạnh Ðường và sẽ lần lượt được giao phó phận sự Ðầu Tộc Ðạo nơi các địa phương.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Tốt: Có phẩm chất, chất lượng cao hơn trung bình. Tươi: Đang còn mới, còn sáng đẹp, chưa úa, chưa héo.
Tốt tươi, như chữ “Tươi tốt”, là tươi tắn, đẹp đẽ, hoặc chỉ cây cối xanh tốt do được phát triển trong điều kiện thuận lợi.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Thế thì ở đâu cũng là tu được. Tu tại gia mà giữ vẹn công phu còn hơn ẩn non ẩn núi, vì chưng ở chốn phồn ba náo nhiệt là chỗ dễ khích thích dục tình đê tiện, mà đạo tâm bền vững không nhiễm bợn nhơ, tỷ như hoa sen sanh chốn bùn lầy mà vượt lên tốt tươi trong sạch.
Đời không mến, thế không ưa,
Lòng thương nẩy nở cho vừa tốt tươi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Gấm đẹp thêu hoa vẻ tốt tươi,
Thiên tư vốn sẵn có tay Trời.
(Đoàn Thị Điểm Giáng).
Trên khơi nghe tiếng khóc pha cười,
Có kẻ dị hình, kẻ tốt tươi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Tốt thể: Thân thể trau chuốt cho xinh tốt. Đẹp hình: Hình hài trang điểm cho đẹp đẽ.
Tốt thể đẹp hình ý nói người chuyên lo trau chuốt cho hình thể tốt đẹp.
Gái thì chớ quen nghề nhề nhệ,
Lo đua tranh tốt thể đẹp hình.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tột là chót, cùng, tức ở mức cao nhứt. Như: Cao tột, leo đến bậc tột cùng của cầu thang.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Công quả tuy nhọc nhằn, nhưng địa vị cao thượng cũng chẳng phải dễ đoạt được. Có vì chúng sanh mà khổ tâm hành đạo, có khó nhọc, có dãi dầu sương mơi nắng xế, mà quên bậc phẩm vô vị ở cõi trần nầy, có vày vã nẻo gai chông lần theo bước đường hạnh đức, mới có ngày vui vẻ bất tận, mới có buổi an hưởng địa vị thiêng liêng, tránh điều phiền não, thoát đoạ luân hồi, mới có lúc rảnh nợ phong trần, nhàn xem sự thế, non cao suối lặng, động mát rừng thanh, là chỗ con lấy đạo đức làm thang để bước lên cho cùng tột.
Dụng nâu sồng thế cân đai, mượn khổ tâm thay chung đỉnh, lấy hạnh đức làm nấc thang bước lên tột lừng Trời,...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tột: Đến mức cao nhất, không thể hơn được. Bực (bậc): Hạng, thứ xếp theo trình độ cao thấp, trên dưới.
Tột bực, như chữ “Tột bậc”, là bực cao nhất.
Trong Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có đoạn: Cuộc tấn hoá của điểm linh quang khởi từ kiếp vật chất nầy chuyển qua vật chất khác, luân chuyển ngàn ngàn muôn muôn kiếp như vậy rồi mới thoát kiếp vật chất mà tấn hoá lên kiếp thảo mộc. Đoạn thoát muôn ngàn kiếp thảo mộc mà tấn hoá lên ngàn muôn kiếp thú cầm, rồi mới chuyển qua kiếp nhơn loại. Đến kiếp người, Nhơn hồn còn phải luân chuyển ngàn muôn kiếp nữa mới tấn hoá lên đến tột bực nhơn phẩm.
Tôi nay tột bực sang giàu,
Nhà cao cửa rộng ra vào thảnh thơi.
(Thơ Hộ Pháp).
Tột: Chót, cùng, tức ở mức cao nhứt. Phẩm: Chức tước, phẩm vị.
Tột phẩm là phẩm vị cao nhứt, không còn phẩm nào cao hơn nữa.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn dạy: Nên nhớ, Hội Thánh Phước Thiện không có hàm chức như Hành Chánh, phải đi theo lên cho tới tột phẩm Phật Tử. Những Chức Sắc hàm chức ngày nay Bần Đạo sẽ kiếm thế đưa qua Ban Kỳ Lão hết.
Còn cũng có nhiều Đấng Thiêng liêng thấp mà lại nhờ một phen đắc đạo lập vị cao trong tột phẩm.
(Pháp Chánh Truyền CG).
Tột: Cùng, cùng chót. Lý: Nghĩa lý, lý lẽ.
Tột lý là cái lý lẽ cùng tột, tức đạt hết nghĩa lý.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nếu thấy mình chưa được sáng tỏ, tức là sự học Ðạo còn nhiều thiếu sót, phải gắng công trau giồi thêm nữa, khoản nào chưa thông hiểu tột lý thì cứ việc trình hỏi cho rõ ràng, vì sự hiểu biết mập mờ chỉ có hại chớ không có ích lợi.
Nên đạo hạnh mình, mình cạn xét,
Xét cho tột lý Ðạo nhà nên.
(Đạo Sử).
1.- Tơ là sợi ở trong ruột con tằm nhả ra, dùng để dệt. Như: Tơ tằm, tơ non, hàng tơ, tơ lụa.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nói đến công trình của Ngài (Tiếp Pháp Trương Văn Tràng) đối với Ðạo thì Ngài chẳng khác chi thân tằm, cứ mãi rút ruột nhả tơ để trả ơn dâu đến ngày kiệt sức.
Ðường tơ đã đứt đừng toan nối,
Ðạo đức thìn lo trở lại ngôi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tơ có nghĩa là dây đàn, cũng dùng để chỉ cây đàn, hoặc tiếng đàn.
Như: Dây tơ, đàn tơ, tiếng tơ đồng, tơ loan.
Lầu phụng mơ màng nghe uyển địch,
Cung Tần văng vẳng lóng tơ đồng.
(Bát Nương Giáng Bút).
3.- Tơ là sợi dây tơ hồng, dùng để biểu trưng cho mối tình gắn bó của đôi nam nữ.
Do tích Tơ nguyệt. Như: Tơ duyên, tơ hồng, tơ tình.
Xem: Tơ nguyệt.
Dầu sống sót cũng đành gọi thác,
Vui chi còn man mác tơ duyên.
(Kinh Thế Đạo).
Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại,
Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
4.- Tơ là còn thanh niên chưa có vợ, chưa có chồng.
Như: Mặc dầu đã vào đại học nhưng nó vẫn còn trai tơ, gái tơ ở nhà một mình không sợ sao.
Khóc của mụ pha cười của trẻ,
Chậm của già đổi lẹ của tơ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tơ: Sợi dây tơ, biểu trưng cho mối tình gắn bó đôi nam nữ. Duyên: Mối dây ràng buộc vô hình từ kiếp trước.
Tơ duyên là sợi dây tơ hồng kết chặt tình duyên giữa đôi trai gái, hay vợ chồng.
Do tích tơ hồng, tơ thắm, chỉ hồng như sau: Trương Gia Trinh có năm người con gái, muốn gả một người cho Đặng Nguyên Chấn, mà không biết phải gả người nào. Ông mới dạy năm người con ông ngồi sau một bức màn, mỗi người cầm một sợi tơ, mỗi sợi một màu; Còn Đặng Nguyên Chẩn ở ngoài, nắm được mối tơ của ai thì cưới người đó. Nguyên Chẩn nắm dây tơ màu đỏ, nhằm người con gái thứ ba, đẹp hơn hết. Do tích này, tơ hồng hay tơ duyên là sợi chỉ ràng buộc lương duyên hai người.
Dầu sống sót cũng đành gọi thác,
Vui chi còn man mác tơ duyên.
(Kinh Thế Đạo).
Nhắn mưa gởi gió bâng khuâng để,
Một tấm tơ duyên đứt đoạn gìn.
(Đạo Sử).
Thương người lạc bước phong trần,
Đem thân Hồ Hớn bỏ phần tơ duyên.
(Thất Nương Giang Bút).
Tơ: Sợi dây tơ, biểu trưng cho mối tình gắn bó đôi nam nữ. Đỏ: Màu đỏ.
Tơ đỏ, như chữ “Tơ hồng”, lấy tích từ “Hồng ty 紅 絲” hay “Xích thằng 赤 繩”, dùng để biểu trưng cho tình duyên do trời định phận.
Xem: Tơ Hồng.
Tơ đỏ nhờ tay Nguyệt Lão,
Cửa vàng trộm sánh Lang quân.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Tơ: Dây tơ, tức dây đàn. Đồng: Gỗ ngô đồng làm thành cây đàn.
Tơ đồng chỉ cây đàn, có dây đàn bằng sợi tơ và gỗ bằng ngô đồng làm đàn.
Như: Tiếng tơ đồng.
Nào khi đứng lúc ngồi đủ mặt,
Qua tường đông lóng bậc tơ đồng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Lầu phụng mơ màng nghe quyển địch,
Cung Tần văng vẳng lóng tơ đồng.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tơ: Sợi dây tơ, biểu trưng cho mối tình gắn bó đôi nam nữ. Hồng: Màu đỏ.
Tơ hồng, bởi chữ “Hồng ty 紅 絲” là dây tơ màu đỏ.
Lấy tích Trương Gia Trinh có năm người con gái, muốn gả một người cho Đặng Nguyên Chấn, mà không biết gả đứa nào, ông bèn buộc năm sợi dây tơ màu khác nhau, Nguyển Chẩn nắm dây tơ màu đỏ thì cưới được người con gái thứ ba, đẹp hơn hết.
Tơ hồng, bởi chữ “Xích thằng 赤 繩” là sợi dây màu đỏ thắm. Lấy tích Vi Cố gặp một ông già ngồi dưới trăng, dùng sợi tơ hồng để buộc hai người nam nữ có duyên nợ với nhau thành vợ chồng, gọi là Nguyệt Lão xe tơ.
Xem: Tơ duyên.
Bởi chàng phụ tấm tình chung,
Bởi tơ duyên cũ, tơ hồng hết xe.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tơ: Dây đàn bằng sợi tơ. Loan: Chất keo làm bằng máu chim loan.
Ngày xưa người ta dùng keo bằng máu chim loan để nối dây đàn bằng tơ khi dây đàn bị đứt.
Tơ loan là chỉ dây đàn, ý chỉ vợ chồng gắn bó, hoà hợp với nhau.
Thử từ nết khi chung lúc chạ,
Gióng từ hơi hoà nhã tơ loan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tơ: Sợi trong ruột tằm nhả ra dùng dệt hàng lụa. Lòng: Bụng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm.
Tơ lòng tức là lòng yêu thương như những sợi dây tơ ràng buộc, vấn vít lấy với nhau.
Như: Nỗi tơ lòng khó gỡ cho yên.
Năm âm mượn bực tỏ tơ lòng,
Đờn “bắc“ ra “ai” oán dội song.
(Thơ Hộ Pháp).
Bận lòng khó gỡ tơ lòng rối,
Xốn mắt khôn ngăn nước mắt đầy.
(Thơ Thuần Đức).
Tơ: Sợi trong ruột tằm nhả ra dùng dệt hàng lụa. Mành: Chỉ, sợi.
Tơ mành tức là sợi tơ hồng mỏng mành, nhưng kết chặt mối tình của hai người không sao gỡ được.
Xem: Tơ hồng.
Cầm sắt năm cung dầu xứng nhịp,
Keo loan thử chắp mối tơ mành.
(Thơ Thuần Đức).
Tơ: Sợi trong ruột tằm nhả ra dùng dệt hàng lụa. Nguyệt: Trăng.
Tơ nguyệt, bởi chữ “Hồng ty nguyệt lão 紅 絲 月 老”, tức là sợi dây tơ đỏ của Nguyệt lão dùng để xe duyên, kết nên vợ chồng cho đôi lứa.
Xem: Nguyệt lão.
Tơ nguyệt xe duyên lơi mối chỉ,
Sắt cầm lạc phiếm ngẩn cung đàn.
(Thơ Mỹ Ngọc).
Dâu Nam giản, rể Đông sàng,
Tơ nguyệt săn bền mối tạo đoan.
(Thơ Hương Phụng).
Tơ: Sợi tơ trong ruột tằm nhả ra dùng dệt lụa. Tằm: Một loại ấu trùng ăn lá dâu nhả tơ.
Tơ tằm, như chữ “Tàm ty 蠶 絲” là sợi tơ do con tằm ăn dâu mà nhả ra tơ.
Tơ tằm thường rối rắm nên dùng để chỉ sự vương vấn đeo mang.
Tơ tằm vương vấn tình ưu ái,
Thơ nhạn phô bày mối cảm thông.
(Thơ Thuần Đức).
Tơ chỉ: Xe tơ kết chỉ, dùng để nói kết duyên vợ chồng gắn bó với nhau. Tấn Tần: Hai nước đời Xuân Thu, chỉ việc kết tình sui nghĩa.
Tơ Tần chỉ Tấn ý nói kết duyên Tần Tấn.
Tình Bắc duyên Nam xa vạn dặm,
Tơ Tần chỉ Tấn buộc đôi tay.
(Thơ Chơn Tâm).
Tơ: Sợi dây, dùng để biểu trưng cho mối tình gắn bó của đôi nam nữ. Tình: Tình yêu.
Tơ tình, như chữ “Tơ duyên”, tức là dây tơ buộc chặt mối duyên tình với nhau.
Xem: Tơ duyên.
Sẵn tay nắm mối tơ tình,
Làm nên quân tử phận mình mới an.
(Bát Nương Giáng Bút).
Chừ toan bứt mảnh tơ tình,
Trà ngâu che nhớ, rượu quỳnh chối thương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại,
Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Tơ tóc là cọng tơ, sợi tóc là những vật nhỏ, bé nên chữ “Tơ tóc” dùng để chỉ việc nhỏ nhít.
Như: Của tơ tóc, chân tơ kẽ tóc.
Một miếng giúp nhau khi hoạn nạn,
Của tuy tơ tóc nghĩa cao dày.
(Thơ Hàn Sinh).
2.- Tơ tóc, do thành ngữ “xe tơ kết tóc”, chỉ duyên nợ kết nghĩa nên vợ chồng.
Xe tơ: Buộc sợi tơ vào chơn hai người kết nên vợ chồng. Lấy tích Vi Cố đi chơi đêm gặp một ông già ngồi dưới bóng cây, có cầm một quyển sách nơi tay và có túi đựng chỉ đỏ. Vi Cố hỏi, thì Ông già ấy đáp: Ta là Nguyệt Lão, sổ này dùng để biên nhơn duyên của người đời, còn chỉ đỏ này để buộc chơn cho nên vợ nên chồng. Vi Cố mới hỏi nữa: Còn nhơn duyên của tôi có biên vô sổ này không? Liền đó Ông dở sổ ra xem, rồi nói: Số nhà ngươi sau này lấy con gái mụ ăn mày, đang ngồi xin ăn trước chợ đó. Vi Cố cho đó là nhục, bèn xách dao ra chợ chém đứa con nhỏ một lát dao, máu chảy dầm dề. Chàng tưởng con bé đã chết, bèn trốn đi ở xứ khác.
Nhưng duyên Trời đã định, chạy đâu cho khỏi. Sau Vi Cố tưởng rằng lấy được con quan, không dè chừng hỏi rõ lại thì cũng là con của mụ ăn mày, trước kia nhờ ông quan tại triều, đi tuần vừa tới đó, gặp đứa bé do mụ ăn mày bỏ, đem về nuôi làm con, sau gả cho Vi Cố.
Vi Cố mới biết rằng duyên vợ chồng, Nguyệt Lão đã xe tơ thì không làm sao trốn đâu cho khỏi đặng.
Kết tóc: Do chữ kết phát. Theo tục lệ đời nhà Hớn, trong đêm hợp cẩn, vợ chồng mới cưới thường kết tóc cho nhau. Do vậy, Ông Tô Thức viết hai câu: Kết phát vi phu phụ, ân nghĩa lưỡng bất nghi 結 髮 為 夫 婦, 恩 義 兩 不 宜: Kết tóc làm chồng vợ, ơn nghĩa trọn đôi đường.
Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn đạo,
Theo tùng phu sửa áo nâng khăn.
(Kinh Thế Đạo).
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
(Đạo Sử).
Hễ càng ngắm hao mòn đoá ngọc,
Càng riêng lo tơ tóc không bền.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đạo chồng vợ muốn bền tơ tóc,
Gương tề mi khá học Mạnh Quang.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tơ: Sợi dây tơ, ý chỉ mối tình gắn bó của đôi nam nữ hay vợ chồng. Thắm: Màu đỏ.
Tơ thắm, như chữ “Tơ hồng”, lấy tích từ “Hồng ty 紅 絲” hay “Xích thằng 赤 繩”, dùng để biểu trưng cho tình duyên do trời định phận.
Xem: Tơ hồng.
Mầng con kịp buổi xe tơ thắm,
Mở tiệc thâu đêm tiếp bạn hiền.
(Thơ Thuần Đức).
Gấm hồng đang trải con đường mộng,
Tơ thắm nhờ xe mối chỉ trời.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Mừng trang khuê các nếp Nho gia,
Tơ thắm rày vương mối nguyệt bà.
(Thơ Chơn Tâm).
Tớ là người hầu hạ, đứa ở phụ việc nhà. Như: Tôi tớ, đạo thầy nghĩa tớ, thầy nào tớ nấy.
Thánh giáo Thầy có dạy: Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.
Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
(Kinh Sám Hối).
Nào vui gượng do cơn khóc lỡ,
Nào là khi chịu tớ làm thầy.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Trung dung khá giữ Ðạo từ đây,
Hễ chắc tớ hay gặp chánh Thầy.
(Lý Giáo Tông ).
1.- Tờ là tấm giấy nguyên bằng phẳng, hoặc chỉ về các thứ giấy có viết chữ.
Mỏng như tờ giấy, tờ khai Đạo viết vào năm 1926, bóc tờ lịch, lượm tờ truyền đơn.
Nói về quyền hành của Chưởng Pháp, Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Chúng nó có ba cái ấn riêng nhau. Mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành, nghe à! Chư môn đệ tuân mạng.
Hi Di thâu núi đòi tờ đứng,
Quỷ Cốc trông vua gác cẳng nằm.
(Bát Nương Giáng Bút).
Hàng hàng binh ngóng tờ Thiên Chiếu,
Ngũ ngũ quân hầu tướng một đao.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Tờ là mặt tờ giấy rất phẳng, dùng để ví trạng thái cảnh vật hoàn toàn yên tĩnh, không có chút động.
Như: Buồng không lạnh ngắt như tờ, biển lặng như tờ, phẳng lặng như tờ.
Oanh về tổ, dế reo tơ,
Đường về vắng bước như tờ canh khuya.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tờ: Tấm giấy nguyên, chỉ lá đơn. Khai Đạo 開 道: Mở ra một nền Đạo.
Tờ khai Đạo là một bản văn của đạo Cao Đài do một số người đứng tên, gởi cho nhà cầm quyền đương thời của Pháp là Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol cho biết thành lập một nền tân tôn giáo gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, và bắt đầu hoạt động tại miền Nam Việt Nam.
Theo pháp luật của nước Pháp áp dụng tại xứ thuộc địa Nam Kỳ, dân chúng được quyền tự do tín ngưỡng, nên Tờ khai Đạo không phải là một đơn xin phép mở Đạo, không cần chờ đợi sự chấp thuận của chánh phủ, nó chỉ là một bản văn công bố Đạo sẽ được truyền bá, xây dựng cơ sở, thâu nhận tín đồ, chuẩn bị tổ chức cuộc Lễ Khai Đạo để ra mắt dân chúng và quốc tế.
Thơ, biểu nó viết chữ tựa lơn lớn một chút, còn Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh và Tờ Khai Đạo, con cứ làm, Thầy cho phép.
(Thánh Giáo Chí Tôn).
Tờ: Tiếng chỉ từng đơn vị lẻ những mảnh giấy. Mây: Hơi nước bốc lên trời đọng từng đám.
Tờ mây là tờ giấy có trang trí hình mây bay, dùng để viết thơ, hoặc tâm tình của trai gái, hay để ghi chép lời thề nguyền của đôi vợ chồng.
Vạ gió biết đâu mà trốn tránh,
Tờ mây khó nỗi tỏ nông sâu.
(Thơ Thuần Đức).
Rặng liễu rừng phong lồng bóng nguyệt,
Tờ mây chữ gấm ngát hương lan.
(Thơ Chơn Tâm).
Mờ: Ánh sáng yếu ớt không đủ sức chiếu tỏ các vật chung quanh.
Tờ mờ là mới vừa bắt đầu sáng, còn mờ mờ, chưa nhìn thấy rõ nét cảnh vật.
Như: Mới vừa tờ mờ sáng nó đã mang ách đi cày, cúp điện đốt cây đèn dầu chỉ sáng tờ mờ thôi.
Giọt rơi thánh thót: lời bay bướm,
Đèn lụn tờ mờ, gió vuốt ve.
(Thơ Thuần Đức).
Nắng giọi tờ mờ kinh Lá bối,
Mưa sa ướt át cốt Thần tiên.
(Thơ Chơn Tâm).
Tợ cùng nghĩa với chữ “Tựa”, “Tự 似”, có nghĩa là hơi giống như.
Ví dụ: Đẹp tợ bông hoa, sáng tợ ban ngày, xem cái chết nhẹ tợ lông hồng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Môn đệ nhiều đứa lòng vẫn nhẹ tợ lông, thấy sự chi khó thì đã muốn bần dùn thối bước.
Tình huynh đệ tày non tợ biển,
Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.
(Kinh Sám Hối).
1.- Tơi là ở trạng thái rời ra thành những hạt hoặc sợi nhỏ, không còn dính vào với nhau nữa.
Như: Tơi bời, áo quần rách tơi, đập tơi đất, khô mực được dần tơi ra, chiếc giày rách tả tơi.
Chanh ranh làm rộn đến người mời,
Chẳng biết phận mình chịu tả tơi.
(Đạo Sử).
2.- Tơi là đồ kết bằng lá, dùng để khoác ngoài áo người để che mưa.
Như: Áo tơi, mang tơi đội nón.
Ca dao có câu: Chi bằng cần trúc, áo tơi, Danh cương lợi toả mặc đời đua tranh.
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan nút mỡ dành làng ăn.
(Ngụ Đời).
Cổi thân ra mảnh áo tơi,
Che mưa đỡ nắng cho đời nguy nan.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tơi: Ở trạng thái rời ra thành hạt hoặc sợi nhỏ, không còn dính với nhau nữa.
Tơi bời là tan tành không còn ra hình thù gì nữa, do bị tàn phá mạnh mẽ và dồn dập.
Thánh giáo Thầy có câu: Theo thế phàm lấy bờ cõi giang san mà ví thì đời nào lúc nào cũng vậy, hễ tôi hiền ngoài ngõ thì lũ nịnh cận ngai, vạc phải ngã, thành phải xiêu, non nước tơi bời, nghiệp nhà điên đảo.
Sợ cơn giông gió tơi bời,
Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tới là đến một nơi nào, hay một thời gian nào đó, hoặc sự việc gì đó.
Như: Về tới nhà, chưa tới ngày, làm cho tới nơi, tới mục đích.
Thánh giáo Thầy có câu dạy: Nhơn loại đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh đức trong một lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng.
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Có công phải biết gắng nên công,
Tu tánh đã xong tới luyện lòng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tới: Đến. Lui: Lùi lại, không tiến.
Tới lui, như chữ “lui tới”, là tiến lên hay lùi lại. Như: Việc nầy tới lui đều khó.
Tới lui còn có nghĩa là đến thăm, giao thiệp. Như: Năng tới lui thăm hỏi nhau.
Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Sự tới lui qua lại ở giữa người nầy với kẻ nọ cần phải có Lễ, để phân biệt tôn ty, thượng hạ, hầu giữ vững niềm hoà ái trong gia đình và xã hội.
Rộn rực tới lui xem lố xố,
Da vàng sắc nước giống người Tàu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Tởi: Đi vận động tiền bạc hay vật liệu để làm chùa, ấn tống kinh sách hay đúc tượng Phật. Đồng nghĩa với chữ quyên góp. Làm chùa: Xây cất chùa chiền.
Tởi làm chùa là đi vận động, quyên góp tiền bạc hoặc vật liệu để xây cất chùa chiền.
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
(Kinh Sám Hối).
Tởn là sợ, có cảm giác ngán, ngại một sự việc không được như ý nào đó mà mình đã gặp phải. Như: Tởn đòn, gặp nó một lần phát tởn.
Ca dao ta có câu: Một lần cho tởn tới già, đừng đi nước mặn mà hà ăn chân.
Ðau dạ ôm thương dụng pháp hình,
Ðừng vì Cha mến tởn oai linh.
(Đạo Sử).
Dạy cho biết những điều đau đớn,
Của phụ nhân đặng tởn trăng hoa.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tu 修 là theo một tôn giáo mà hành đúng giáo lý và giới luật. Như: Tu theo Phật, tu tâm dưỡng tánh.
Thánh giáo Thầy có dạy: Ta nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi.
Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Ðạo vốn cây che mát mẻ đường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thoát xác xưa tầng tu vạn kiếp,
Ðộ hồn nay gội khắp năm châu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
修 救 九 玄 七 祖
Tu: Tu hành, sửa đổi. Cứu: Cứu giúp. Cửu huyền Thất tổ: Tổ tiên Ông bà của dòng họ.
Tu cứu Cửu Huyền Thất Tổ là nhập môn tu hành đặng cứu vớt các chơn linh Cửu Huyền Thất Tổ được siêu thăng Tịnh độ.
Nhưng có người cho rằng việc cứu độ cửu huyền thất tổ bằng kết quả hành đạo của chính con cái nơi cõi trần gian là một sự việc khó tin; bởi lẽ trên đời nầy theo họ nghĩ không có chuyện người nầy ăn mà người khác no. Ai ăn nấy no, ai học nấy biết chữ, ai tu nấy đắc, ai làm nấy được.
Nếu suy nghĩ kỹ chúng ta thấy “Ai ăn nấy no, ai học nấy biết” là câu nói về việc hữu hình ở thế gian, còn những việc vô vi như âm chất (công đức) thì có người nầy tạo lập có thể hồi hướng cho người khác hưởng.
Vậy hồi hướng là gì? Hồi hướng như thế nào?
Hồi hướng công đức là nguyện chuyển các công đức đến cho những người khác để giúp họ thành tựu giải thoát.
Phật giáo tin tưởng rằng công đức do mình tu tập có thể chuyển từ phía mình sang phía người khác. Đó là một sự cảm ứng về tâm lực. Đồng thời tuy có hồi hướng công đức cho người khác, nhưng công đức của bản thân mình không bị hao hụt gì hết. Do đó, người tu hành khi tạo một công đức gì đều nên phát nguyện hồi hướng đến Cửu huyền thất tổ, hoặc cao hơn nữa là tất cả chúng sanh cùng được hưởng. Đó là biểu hiện tự nhiên của lòng hiếu thảo hoặc của lòng từ bi của kẻ tu hành.
Nhưng công đức do người khác hồi hướng không bằng công đức chính do con cái tu hành để cầu giải thoát cho Cửu Huyền Thất Tổ. Nếu con cháu biết lo tu hành, lập công bồi đức để có thừa âm chất mà đem hiến dâng cho ông bà tổ phụ thì những Chơn linh này có thể được nhẹ nhàng trở về ngôi xưa vị cũ.
Trong Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Quy Liễu có câu:
Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.
Tại sao chỉ có con cháu mới có thể cứu Cửu huyền và cha mẹ?
Chúng ta biết, khi một người thác sinh vào một dòng họ nào đều do nhân quả trả vay mà đầu kiếp vào dòng họ đó, nên giữa ông bà, cha mẹ và con cháu có mối dây ràng buộc về oan trái lẫn nhau. Vì thế, những tội lỗi do mình gây ra thì Tổ tiên, cha mẹ phải gánh chịu; còn công đức do mình tạo lập thì Cửu Huyền đều được thọ hưởng.
Chính trong Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Một người giữ tròn đạo hạnh thì cứu đặng Thất Tổ Cửu Huyền, vậy có đáng quý báu chăng?”. Đây là lời khẳng định của Đức Chí Tôn cho biết: Nhứt nhân hành Đạo Cửu huyền thăng.
Như vậy, vào thời Tam kỳ Phổ độ nầy nếu con cháu chịu tu hành, tạo lập công đức, thì nhờ luật đại ân xá của Đức Chí Tôn, cửu huyền thất tổ sẽ nhờ âm chất của con cháu mà được siêu rỗi.
Chúng ta thử tìm hiểu qua những lời Thánh giáo của Đức Chí Tôn hoặc các Đấng Thiêng Liêng minh chứng cho việc con cháu là những vị chức sắc tiền khai trong Đạo tu hành có thể cứu Cửu huyền Thất Tổ siêu thoát.
1.- Đối với Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, Đức Chí Tôn trong một đàn cơ giáng dạy như sau:
“Lâm thị con ôi! Bao nhiêu của thế gian con đã đổ đặng cầu siêu rỗi cho mẹ con mà chẳng đặng! Duy nhờ từ ngày con biết thờ phượng Thầy mà mẹ con đã vào Bạch Thiên Cung Án. Con đâu thấy điều ấy cho đặng. Tự nơi con, bởi công con mà Cửu huyền Thất Tổ con đặng rỗi. Con phải hiểu biết, vì hiếu của con mà Thầy càng thêm luyến ái. Thầy khuyên con một điều là phải bỏ phận vinh hoa mà cam nâu sồng khổ hạnh. Ngày vinh hiển thiệt của con chẳng phải nơi chốn hồng trần vô vị này (...).
Thầy đủ quyền hành đặng làm cho con đắc thành chánh quả đặng độ rỗi cửu huyền thất tổ, con tưởng chắc vậy chăng?
2.- Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có ghi lại một đàn cơ ngày 07/01/1926 như sau:
Ðức Chí Tôn giáng dạy Bà Cao Quỳnh Cư (tức là Bà Hương Hiếu) phải lo đi phổ độ nhơn sanh vào Ðạo.
Bà Cư bạch với Thầy rằng: Má con mắc ở xa, làm sao con đi độ được.
Thầy: “Hiếu! Con biết một lòng tu niệm đạo đức của con đủ cứu Cửu huyền Thất tổ, huống là mẹ con, để Thầy định đoạt, con đừng lo buồn....”
3.- Trong một đàn cơ có Bát Nương Diêu Trì Cung giáng, Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt hỏi Bà: Thân phụ và Thân mẫu của qua có được siêu không? Giờ đây ở đâu?
Bát Nương Diêu Trì Cung đáp: Em chỉ nói bằng thơ, nếu anh giảng trúng thì nói nữa, trật thì lui.
Ngài Thượng Trung Nhựt năn nỉ: Nếu qua nói trật thì em thương tình mà chỉ dẫn để qua học hỏi thêm với.
Bát Nương nói: Bạch Y Quan nay sanh Cực Lạc, Bá phụ cùng bá mẫu đặng an.
- Như vậy là thân phụ và thân mẫu trước ở cõi Bạch Y Quan, nay đã sang ở nơi Cực Lạc.
- Ðúng đó, ấy là nhờ công tu luyện của anh nên bá phụ và bá mẫu mới được siêu thăng nơi Cực Lạc.
4.- Trường hợp mẹ của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu. Trong một Đàn cơ Đức Chí Tôn dạy Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt:
Trung con tức cấp xuống Cần Giuộc biểu Tương về và cả chư môn đệ Thầy hội lại cho đủ mặt.
Phải nhớ biểu Lịch lên, nói với nó Thầy cần dùng bốn vị chức sắc Minh Đường cầu kinh cho mẹ Hậu. Phải có đủ mặt Lễ Sanh mà làm đại lễ cho mẹ nó.
Con Trung, con viết một lá sớ như vầy:
Lịnh Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát hứa dữ Địa Tạng Vương Bồ Tát khả thâu chơn hồn thị... ... tử... ... nhựt... ... ngoạt... ... niên, giam tại vọng Thiên Cung. chờ công quả Hậu mà thăng lần lên.”
Đưa cho Tắc câu chú, nó đọc mà đốt sớ. Bốn thầy Minh Đường cứ tụng kinh cầu khẩn.
Tóm lại qua bốn trường hợp của các vị chức sắc Đại Thiên phong trong Đạo Cao Đài kể trên đủ minh chứng rằng một người hành Đạo có thể cứu được cha mẹ hay Cửu huyền Thất Tổ.
Chính Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo ngày 15 tháng 10 năm Canh Dần (1950) có dạy:
“Bần Đạo nói thật, thời buổi nầy, chúng ta không tìm phương giải thoát cho Cửu Huyền Thất Tổ thì không có thời buổi nào có năng lực độ rỗi Cửu Huyền Thất Tổ của mình đặng.
Bởi thế nên toàn thể con cái Ðức Chí Tôn, Nam Nữ cũng vậy, có tấm lòng yêu ái nồng nàn hoài vọng giọt máu, mảnh thân hình, giờ phút nầy là giờ phút nên để trọn tâm cho thanh tịnh đặng cầu nguyện siêu thoát cho Cửu huyền Thất tổ.
Bần Đạo dám nói: Giờ phút nầy, mấy người có thể nhỏng nhẻo với Ðức Chí Tôn được. Ngài sẵn sàng để hai chữ ân xá thì mấy người xin cái gì thì ổng cũng cho cái nấy.”
Tu đặng cứu Cửu Huyền Thất Tổ,
Tu phòng sau rỗi độ tử tôn.
(Thơ Thuần Đức).
修 整
Tu: sửa, chữa. Chỉnh: Ngay ngắn, cân đều.
Tu chỉnh là sửa sang lại cho thật tốt hơn.
Như: Đưa ra Quốc Hội tu chỉnh luật pháp, trước khi in phải tu chỉnh giáo trình.
Bền quốc vận, tôi hiền chúa Thánh,
Trăm năm dư tu chỉnh triều nghi.
(Phù Kiều Hận Sử).
修 真
Tu: theo một tôn giáo mà hành đúng giáo lý và giới luật. Chơn (chân): Thật.
Tu chơn là một phương pháp tu sửa để con người trở nên chơn chánh, thiện lương. Đường lối tu hành nầy chủ trương không qua hình thức áo mão, chức quyền, mà chuyên chú về Tam lập: Lập công, Lập ngôn, Lập đức cho viên mãn để được thọ truyền bửu pháp tịnh luyện tự giải thoát lấy mình.
Đức Hộ Pháp đã dựa Thánh ý Đức Chí Tôn trong bài thi:
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn, |
|
醒 悟 舍 身 在 梵 門, |
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn. |
|
勸 修 後 日 度 生 魂. |
Vô lao bất phục hồi chơn mạng, |
|
無 勞 不 復 回 真 命, |
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn. |
|
醒 世 其 身 得 正 尊. |
mà lập ra Phạm Môn là đường lối tu chơn trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đây chính là tu theo con đường thứ ba của Đạo Cao Đài.
Người tu chơn, trước nhứt phải trau giồi tâm tánh hằng ngày, học hỏi giáo lý cho ngày càng sáng suốt để khám pháp lẽ huyền diệu của Tạo hoá, hầu sau nầy chơn linh được thoát khỏi kiếp luân hồi mà trở về hội hiệp cùng Thầy và Mẹ.
Hương Tâm nhứt phiến cận càn khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Khiết kỷ tu chơn duyên quả định,
Xả thân vị Đạo đắc Thiên ân.
(Cửu Nương Giáng Bút).
修 真 養 性
Tu chơn là tu một cách chơn thật, từ lời nói đến việc làm, từ ngoại hình đến nội tâm đều hoàn toàn chơn thật. Tu chơn không cầu danh, không cần phẩm tước áo mão, không cần tiện nghi chỉ giản tiện tự túc.
Dưỡng tánh là nuôi dưỡng tánh. Con người khi được sinh ra thì Chí Tôn đã ban cho một Thiên Tánh, nhưng lớn lên lại mang quá nhiều vọng tưởng và chấp trước, là cội gốc của mọi phiền não, nên dần dần mất Thiên Tánh, và mãi chìm sâu trong vòng luân hồi sinh tử vô tận.
Theo Mạnh Tử “Nhân chi sơ, tánh bản thiện, tánh tương cận, tập tương viễn 人 之 初, 性 本 善, 性 相 近, 習 相 遠” nghĩa là con người mới sinh ra, tánh vốn lành nhưng vì do tập nhiễm xã hội mà xa lần tánh lành đi. Vì thế, con người cần phải nuôi dưỡng cái Tánh của mình cho trở lại lành như xưa, tức là phục hồi cái Linh tánh hay Thiên Tánh vậy.
Phép Tiên Đạo: Tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
修 德
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Đức: Công đức, đức hạnh.
Tu đức là tu bồi một phần về công đức, tức người tu hành phải trau giồi đức hạnh của mình cho được hoàn toàn, đồng thời phải lo lập công quả.
Các con đã đặng thong dong rồi, rảnh chẳng lo tu đức mà sửa mình, lại còn cả gan trước mặt Thần, Thánh, Tiên, Phật, gây thêm tội lỗi nữa, thiệt là đáng giận!
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
修 行
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Hành: Làm.
Tu hành theo sách Hán thư viết: Nếu thông hiểu sách sử thì nên sửa sang tâm tính để thi hành đạo lý của các tiên vương.
Sau này, chữ tu hành thường dùng theo nghĩa: Vào một tôn giáo để sửa đổi tâm tánh và thi hành giáo lý của tôn giáo ấy.
Người tu hành phải tu thân trước, tức sửa mình, sửa từ tâm tánh đến hành động cho phù hợp với giáo lý Phật Tiên. Tu hành là tu thân hành Đạo, nghĩa là vừa trau dồi bản thân, vừa lo hành thiện.
Tu phải học hỏi giáo lý để sửa đổi tâm tánh, từ xấu sang tốt, đó là tự giác. Hành là llafm các điều lành đem giáo lý của các Đấng ra áp dụng thực hành lợi ích cho chúng sanh, đó là giác tha. Tu và hành phải đi sông đôi, nương tựa vào nhau, bổ khuyết cho nhau.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Tu hành vẫn trái với thế tục, mà trái với thế tục mới đặng gần ánh thiêng liêng.
Ngày ngày tập sửa tánh thành,
Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.
(Kinh Sám Hối Ngắn).
Các con vốn trong vòng Thánh thể,
Phép tu vi là kế tu hành.
(Kinh Thế Đạo).
Hay cho kẻ sĩ biết tu hành,
Hành ấy thì thân chẳng mến danh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tu hít là tu huýt, một loại còi có phần dẹp để ngậm thổi, còn phía trước có hình tròn, rỗng, bên trong có hạt bi nhỏ, để tạo âm sắc cho tiếng còi.
Như: Bé thổi tu hít rùm tai, tu hít là hiệu lịnh của cảnh sát hoặc người giữ an ninh.
Ép tá điền lễ vịt lễ gà,
Đến khi chết làm ma tu hít.
(Phương Tu Đại Đạo).
修 學
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Học: Học hỏi, học tập cho hiểu biết.
Tu học là vừa tu hành và vừa học hỏi về giáo lý, nghiên cứu về kinh sách.
Tu và học phải đi đôi. Đạo Phật dạy chúng ta “Tu mà không học là tu mù, học mà không tu thì chỉ là cái đẩy sách”. Tu phải học hỏi và ứng dụng giáo pháp trong cuộc sống hằng ngày.
Bài Điếu văn của Ngài Hiến Đạo Đại diện Hiệp Thiên Đài đọc trước Liên đài Đức Thượng Sanh có câu: Những tưởng người dường ấy, đức dường ấy, Ơn Trên còn lưu lại trần gian để gần gũi chúng ta, khuyến khích và chỉ bảo chúng ta trên bước đường tu học.
Ấy vậy sự dưỡng sanh là một pháp môn trọng yếu cũng như pháp môn tu học tâm linh.
(Giáo Lý).
修 橋 培 路
Tu kiều: Sửa sang cầu kì cho dễ bề qua lại. Bồi lộ: Đắp vá đường lộ cho bằng phẳng.
Tu kiều bồi lộ là sửa cầu đắp lộ. Đây là một việc làm lành, không hao tốn mà lại tạo được nhiều công đức, ai cũng có thể làm được.
Tu kiều, bồi lộ, phóng sanh,
Thi ân bố đức, để dành kiếp sau.
(Thơ Thiên Vân).
修 羅
Hay “A tu la”.
Tu La tức là cõi A tu la 阿 修 羅, một trong sáu nẻo luân hồi trong đạo Phật, gọi là Lục đạo.
Danh từ A tu la trước nhất dùng để chỉ các hạng thần linh thuộc khối ác trược, tức là thuộc quỷ vị.
A tu la còn chỉ thế giới của cuồng bạo, hiếu thắng, hận thù. A tu la ám chỉ một tinh thần vị kỷ trong mỗi hành động, chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình. Chính tinh thần này sẽ đưa đến những mâu thuẫn, cãi vã, tranh chấp và chiến tranh giữa con người.
Xem: A tu la.
Đoạ trầm địa ngục, Tu la,
Làm thân ngạ quỷ cùng là bàng sinh.
(Thơ Thiên Vân).
修 練
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Luyện: Rèn.
Tu luyện là tu sửa và rèn luyện.
Thường tu thì phải hành, ở đây tu cũng phải luyện, tức là sửa đổi những tính xấu xa, hung dữ rồi phải trau dồi rèn luyện để trở nên người hiền lương đạo đức.
Tu luyện còn là một phép của phái Đạo gia, đó là tu tâm dưỡng tánh và còn luyện tam bửu tinh, khí, thần nữa.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao.
Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên,
Nơi phước địa ở yên tu luyện.
(Kinh Tận Độ).
Từng lo tu luyện bấy lâu nay,
Chuộng Ðạo từ đây đã gặp Thầy.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Gắng chí tập lần thân cực nhọc,
Bền tâm tu luyện mới là nên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
鬚 眉
Tu: Râu, lông mọc ở mép, ở cằm. My: Lông mày, là hàng lông mọc trên mí con mắt.
Tu my là râu và lông mày. Tu my là tiếng dùng để chỉ giới đàn ông.
Như: Phận tu my nam tử.
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu my.
(Kinh Sám Hối).
修 念
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Niệm: Niệm Phật, đọc thầm danh hiệu Đức Phật.
Người tu sửa thân tâm và tụng kinh niệm Phật gọi là “Tu niệm”.
Khi giải thích về cõi Âm Quang, Bát Nương Diêu Trì Cung trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ ấy mà lo tu niệm.
Hữu duyên độ thấu nguồn Chơn Ðạo,
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phải cần sớm tối cùng trưa,
Phải lo tu niệm quê xưa đặng về.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Mau mau giác ngộ lo tu niệm,
Sớm sớm ăn năn sửa lỗi mình.
(Thơ Hộ Pháp).
修 仁 積 德
Tu nhân: Sửa đổi tâm tánh để có lòng nhơn mà thương yêu sanh chúng. Tích đức: Chứa đức, tức làm điều lành để tạo phước đức làm hành trang trở về cho chơn linh.
Tu nhân tích đức là trau giồi lòng nhơn từ, tích chứa điều phước đức, nghĩa là làm điều nhơn nghĩa để chứa công đức.
Xem: Tích đức tu nhân.
Một kiếp tu nhân cùng tích đức,
Ngàn năm vui hưởng cảnh siêu thăng.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Hay “Tu nhất kiếp ngộ nhất thời”.
Tu nhứt (nhất) kiếp: Trong một kiếp tu. Ngộ nhứt thời: Giác ngộ trong một lúc.
Tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời, như câu: “Tu nhất kiếp ngộ nhất thời 修 一 劫 悟 一 時”, có nghĩa là tu trong vòng một kiếp thì có thể được đắc Đạo.
Sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ nầy, chúng ta may duyên gặp được nền Đại Đạo do Đức Chí Tôn dùng huyền diệu cơ bút để khai mở và ban cho thời kỳ Đại ân xá, chúng ta dễ dàng đắc Đạo như lời dạy của hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo như sau: Thần, Thánh, Tiên, Phật trước vốn là người phàm, nhờ tu mà đắc quả.
Vậy thì, tất cả phàm nhơn, ai cũng có thể làm Tiên, Phật, nếu biết tu, nhứt là gặp “Tam Kỳ Phổ Độ”, ban hành luật Đại ân xá, chúng sanh được may mắn “tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời”.
Tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời,
Tam Kỳ đắc Đạo dễ như chơi.
(Thơ Thông Quang).
修 士
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Sĩ: Người học trò, người thuộc lãnh vực nào, như nghệ sĩ, tu sĩ.
Tu sĩ là người tu hành.
Trong Giáo Lý, Tiếp Pháp có câu: Đại Đạo Tam Kỳ xuất thế, với một yếu lý quy Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi thành thử những tu sĩ của nền Tân Tôn Giáo nầy không còn phân biệt giáo phái, tức là coi nhau như bạn thân, đồng theo một khuynh hướng “Cứu nhân độ thế”.
Trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, người tu sĩ nhờ nơi công quả mà lập vị xứng đáng cho mình...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
修 心
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Tâm: Lòng.
Tu tâm là sửa sang tâm tính cho được tốt hơn.
Tâm là cái bổn nguyên Trời phú cho con người để hiểu biết điều phải quấy, nhơn nghĩa. Khi tâm bị vật dục che mờ thì mất lương tri lương năng thường làm những điều lỗi lầm, vì thế người tu phải thường trau dồi tâm cho sáng suốt, an tịnh. Sách Nho có câu: Nhân dục tận tịnh, thiên lý lưu hành 人 欲 盡 淨, 天 理 流 行, nghĩa là dứt sạch được nhơn dục thì thiên lý sẽ lưu hành.
Xưa chẳng đặng phước may gặp Đạo,
Nay phò trì con cháu tu tâm.
(Kinh Thế Đạo).
Tu tâm cho biết nhiệm mầu Trời,
Tu tánh hiền lương dạ thảnh thơi.
(Thanh Sơn Đạo Sĩ).
Hồi đầu thức tỉnh sớm tu tâm,
Nẻo Phật đường Tiên gắng chí tầm.
(Thơ Thái Đến Thanh).
修 造
Tu: Sửa đổi. Tạo: Làm ra, gầy dựng nên.
Tu tạo là sửa chữa và xây dựng lại, hoặc xây dựng thêm công trình mới.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Mở đạo nơi Chùa Gò Kén Đại Từ Phụ vẫn để cho quỷ tàn phá giữa đại đàn, Ngài mở rộng cho ba phần chơn hồn ấy. Biểu sao quỷ không trọn quyền dự thí để phá hoại làm cho cả đức tin thiên hạ gây thêm một trường chống báng chê bai khinh rẻ, chẳng khác nào như vừa cất lên một cái đài vinh dự, Ngài cho kẻ nghịch thù của Ngài tàn phá tiêu huỷ, rồi phải lo tu tạo lại như buổi ban sơ, phải mất cả hai năm truyền bá gầy tạo tinh thần của con người lại, vì lẽ ấy cho nên tâm lý của nhơn sanh phải mờ hồ.
Toàn Đạo nam nữ mỗi năm phải giúp cho Hội Thánh năm ngày công quả đặng tu tạo Toà Thánh và các dinh thự...
(Đạo Luật Mậu Dần).
修 心 養 性
Tu tâm: Sửa lòng, nghĩa là để cho lòng vật dục đặng yên, làm cho tâm được tỏ rạng, mạnh mẽ, đứng làm chủ bản thân mà điều khiển lục dục thất tình, đem chúng vào đường đạo đức.
Dưỡng tánh: Nuôi nấng cái tánh của mình lúc nào cũng thiện lương như thuở ban đầu, lúc cha mẹ mới sanh ra. (Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện), tức nuôi dưỡng tánh cho thiệt không không, không buồn lo, không sợ sệt, không giận hờn, không ghen ghét, để gìn giữ tư tưởng thật thanh cao. Muốn dưỡng tánh thì phải thì phải bảo dưỡng tinh khí, tức là phải luyện tập thân thể khoẻ mạnh.
Chi bẳng tu tâm cùng dưỡng tánh,
Để cho phước Phật với ơn Trời.
(Thơ Thuần Đức).
Thức tỉnh tu tâm phương giải khổ,
Giác mê dưỡng tánh thoát xa vòng.
(Thơ Thông Quang).
修 心 練 性
Tu tâm: Sửa lòng, nghĩa là để cho lòng vật dục đặng yên, làm cho tâm được tỏ rạng, mạnh mẽ, đứng làm chủ bản thân mà điều khiển lục dục thất tình, đem chúng vào đường đạo đức.
Luyện tánh: Rèn luyện cái tánh cho thiệt không không, không giận hờn, không ghen ghét, không buồn lo, không sợ sệt để nuôi lấy cái tư tưởng thanh cao.
Muốn luyện tánh trước hết phải luyện mạng, tức là luyện tập cho cơ thể khoẻ mạnh hay nói khác đi là phải bảo tinh dưỡng khí.
Tóm lại, tu tâm luyện tánh là một pháp tu của Lão Giáo, chỉ là luyện Tam bửu: Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt, để cho Tam huê tụ đỉnh, ngũ khí triều nguyên mà đắc thành Tiên tại thế.
Diễn văn của Đức Thượng Sanh có câu: Tu Tâm Luyện Tánh là thuyết của Lão Giáo dạy người mộ đạo muốn tầm Tiên lánh tục.
Sớm khuya ẩn chốn thanh am,
Tu tâm luyện tánh chẳng ham mến trần.
(Xưng Tụng Thanh Sơn).
修 齊
Tu: Sửa sang. Tề: Sắp đặt mọi việc trong gia đình.
Tu tề là tu thân và tề gia, có nghĩa là sửa mình và sắp đặt mọi việc nhà.
Trong sách Đại Học có câu: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ 修 身, 齊 家, 治 國, 平 天 下, nghĩa là sửa mình, sắp đặt việc nhà, trị nước, sau đó mới bình thiên hạ.
Tu tề thì sửa vẹn gia đình,
Cái đạo nhơn luân chớ dể khinh.
(Đạo Sử).
Vững chặt nhà làng con cháu thảo,
Tu thân thường hiệp với tu tề.
(Đạo Sử).
修 齊 治 平
Tu tề: Tu thân, tề gia, tức sửa mình và sắp đặt mọi việc nhà. Trị bình: Trị quốc, bình thiên hạ, tức trị nước và bình thiên hạ.
Tu, tề, trị, bình, bởi câu “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ 修 身, 齊 家, 治 國, 平 天 下”, ý nói làm người trước nhất là phải sửa mình, kế sắp xếp yên việc nhà, rồi làm cho đất nước an trị, cuối cùng mới mong bình được thiên hạ.
Sách Đại Học có câu: Vật cách nhi hậu tri chí. Tri chí nhi hậu ý thành. Ý thành nhi hậu tâm chánh. Tâm chánh nhi hậu thân tu. Thân tu nhi hậu gia tề. Gia tề nhi hậu quốc trị. Quốc trị nhi hậu thiên hạ bình 物 格 而 后 知 至. 知 至 而 后 意 誠. 意 誠 而 后 心 正. 心 正 而 后 身 修. 身 修 而 后 家 齊. 家 齊 而 后 國 治. 國 治 而 后 天 下 平, nghĩa là khi đã nghiên cứu sự vật, cái trí thức mới được chu đáo. Cái trí thức được chu đáo, cái ý mình mới thành thật. Cái ý mình đã thành thật, lòng dạ mới ngay thẳng. Lòng dạ đã ngay thẳng, mới tu tập lấy mình được. Đã tu tập lấy mình được, thì sắp đặt nhà cửa cho chỉnh tề. Nhà cửa đã sắp đặt chỉnh tề, thì nước mới sửa trị được. Nước đã sửa trị, thiên hạ mới bình an.
Trong bốn công việc chánh: Tu, Tề, Trị, Bình của Khổng giáo, việc tu kỷ là quan trọng nhứt.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
修 省
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Tỉnh: Tự xét.
Tu tỉnh là trau dồi hạnh đức và thường xét lại những lỗi lầm của mình để khắc phục.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Ngày nào toàn cả quần chúng, đồng bào biết giác ngộ, tu tỉnh hiệp nhứt tâm thực hành chủ nghĩa từ bi bác ái cho ra chơn tướng, thì nhơn sanh sẽ đặng chung hưởng mọi điều hạnh phúc.
Hán chất vô tri thử dược cầu,
Ðình tiền tu tỉnh mộng huyền cầu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
An vui với Đạo lo tu tỉnh,
Cầu nguyện cho đời dứt chiến tranh.
(Thơ Huệ Phong).
修 靖
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Tịnh: Tịnh luyện, tức ngồi yên lặng để quán tưởng.
Tu tịnh là một pháp môn tu theo phái Tịnh luyện.
Như: Muốn tu tịnh, theo luật trong hàng tín đồ, ai đã xử tròn nhơn đạo và giữ trai giới từ 6 tháng sắp lên thì được xin vào Tịnh Thất mà nhập định.
Công phu bốn buổi xong rồi,
Ðể giờ tu tịnh đắp bồi linh căn.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
修 身
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Thân: Mình.
Tu Thân là sửa chữa bản thân mình cho hoàn toàn theo đạo đức.
Tu thân là điều rất cần thiết trong Nho giáo, nên sách Đại Học có viết: Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn 自 天 子 以 至 於 庶 民, 一 是 皆 以 修 身 為 本, nghĩa là từ vua cho đến thứ dân, ai cũng phải lấy sự tu thân làm gốc.
Theo sách Đại Học, muốn tu thân, trước hết phải: Cách vật, Trí tri, Thành ý và Chánh tâm, có nghĩa là muốn sửa mình cho thành người hoàn toàn thì đòi hỏi bốn điều kiện: Trước nhứt phải giữ cái tâm mình cho chánh (chánh tâm), cái ý mình cho thành (thành ý), rồi mới hiểu rõ hết các sự vật (cách vật) và biết đến cùng cực cái (trí tri).
Tâm đã chánh, ý đã thành thì tự nhiên cái Minh đức, tức là cái lương tri lương năng của mình trở nên mẫn huệ, nên xem xét điều gì cũng hiểu đến chỗ sâu xa và làm điều gì cũng hợp với đạo lý.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: Tu thân còn chưa xong thì thế nào mong mỏi thành Tiên, Phật đặng?
Huệ ân muốn hưởng noi đường đạo,
Hối cải tu thân phải giữ lời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vững chặt nhà làng con cháu thảo,
Tu thân thường hiệp với tu tề.
(Đạo Sử).
Biết dùng dưa muối rau tương,
Biết lo tụng niệm, biết đường tu thân.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
修 持
Tu: Sửa đổi. Trì: Nắm giữ, giữ gìn.
Tu trì có thể hiểu theo hai cách:
- Tu sửa tâm tính và giữ vững (trì) sự tu hành, không thay đổi.
- Tu trì, bởi câu “Tu thân trì giới”, có nghĩa là tu sửa thân tâm, giữ gìn giới luật.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Nhàn Âm Đạo Sĩ có câu dạy: Đời càng ngày càng khổ, Đạo có lúc thạnh lúc suy, nhơn sanh chẳng chịu tu trì, muốn chác lợi danh luồn tục lụy.
Thời gian tôi cách chốn nầy,
Tìm nơi thanh vắng am mây tu trì.
(Thơ Đức Hộ Pháp).
修 微
Tu: Sửa hay trau dồi tâm cho tốt đẹp. Vi: Nhỏ, rất nhỏ, nhỏ nhặt.
Tu vi là sửa đổi những cái nhỏ nhít nhứt.
Phép tu vi tức là “Tu vi pháp 修 微 法”, là một phương pháp tu sửa từ những điều xấu, ác nhỏ nhặt nhứt, không bỏ bất cứ một lỗi nhỏ nào.
Thói thường, người ta thường khinh dể những điều nhỏ nhít: Việc nhỏ nhặt người ta thường không thèm để ý đến, hay không muốn làm đến, tỷ như việc làm phước, thấy điều nhỏ không đáng làm, nên bỏ qua; còn việc dữ, tưởng lỗi mọn, vẫn cứ làm.
Vua Chiêu Liệt đời nhà Hán có dạy con là vua Hậu Chủ như sau: Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi 勿 以 善 小 而 不 為, 勿 以 惡 小 而 為 之, nghĩa là dù cho những việc thiện nhỏ cũng chớ nên bỏ qua mà không làm, dù cho những việc ác nhỏ cũng chớ nên làm.
Các con vốn trong vòng Thánh thể,
Phép tu vi là kế tu hành.
(Kinh Thế Đạo).
1.- Tú 秀 là tốt đẹp. Như: Sơn thanh thuỷ tú, khôi ngô tuấn tú, tú khí, con người ưu tú.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Những phần tử đó, nếu gặp người dẫn bước theo về chánh đạo họ sẽ hấp thụ giáo lý cao siêu và sẽ trở nên những trang ưu tú cũa xã hội hữu dụng cho đời và cho Ðạo.
Rán viết nhắn cùng trai tuấn tú,
Thú chi vui hơn thú trăng hoa.
(Phương Tu Đại Đạo).
Từ nay ra khỏi chốn nhơn gian,
Thuỷ tú sơn tinh thích chí nhàn.
(Bảo Đạo Giáng Bút).
2.- Tú 繡 là thêu (không dùng một mình).
Như: Tú các 繡 閣 (lầu thêu), tú cầu 繡 球 (quả cầu thêu), cẩm tú 錦 繡 (gấm thêu).
Chan rưới ân hồng Trời đổi sắc,
Phô trương cẩm tú đất thay màn.
(Thơ Huệ Giác).
3.- Tú 宿 là chòm sao. Như: Tinh tú, nhị thập bát tú.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thái Bính Thanh có câu: Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì không? Cười, Một trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm 3 thước 3 tấc (3m30), nghe con, lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo hoá trong ấy, sơn màu xanh da trời, cung Bắc Ðẩu và Tinh tú vẽ lên Càn Khôn ấy.
Thiên cung: Tinh Tú, Thánh, Tiên,
Địa kỳ: Thần Tướng đàn tiền giáng lâm.
(Xưng Tụng Công Đức).
繡 錦
Tú: Thêu, thùa. Cẩm: Gấm vóc.
Tú cẩm, như chữ “Cẩm tú 錦 繡”, là gấm thêu.
Tú cẩm, thường dùng để ví với cảnh thiên nhiên đẹp hoặc văn thơ hay.
Như: Giang sơn tú cảm, bài văn tú cẩm.
Mình khoe tú cẩm kề mai biệu,
Sắc chói kỳ trân dựa liễu ve.
(Thơ Thuần Đức).
繡 錦 添 花
Tú: Thêu, thùa. Cẩm: Gấm vóc. Thiêm: Thêm vào. Hoa: Bông hoa.
Tú cẩm thiêm hoa nghĩa là gấm thêu đã đẹp đẽ rồi, lại còn vẽ thêm bông hoa vào nữa, thì càng đẹp đẽ hơn.
Tú cẩm thiêm hoa đợi vẻ màu,
Xem sau nhắm trước hỡi dường bao.
(Đạo Sử).
繡 球
Tú: Thêu, thùa. Cầu: Vật bằng vải hình tròn như quả cầu, dùng để tung, bắt.
Ngày xưa, người con gái con nhà quan quyền hay phú quý chọn hôn nhân thường hay ngồi trên lầu cao gieo quả tú cầu xuống cho những chàng trai đứng phía dưới. chàng trai nào nhận được quả cầu thì cô gái sẽ kết duyên với người đó.
Đây là một trong những lối chọn lựa hôn nhân của những người con gái quyền quý thời xua.
Sông lặng ai gieo quả tú cầu?
Trăng Trời, trăng nước tuổi bằng nhau.
(Thơ Hoàng Nguyên).
囚
Tù là nơi giam giữ người có tội, như nhà tù, lao tù.
Tù còn dùng để chỉ người phạm tội bị giam giữ, như tù chính trị, dẫn tù về trại giam.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Nhớ lại, nếu Anh cả không đủ tinh thần đạo đức, không đủ trí thức tài tình, một trường chiến đấu buổi nọ, không phải dễ gì mà thắng. Họ nhốt trong khám mấy bữa vì nạn không có tiền đóng thuế thân cho bổn đạo, chúng bắt bỏ tù luôn.
Cảm quang diêu động tâm tu,
Khai cơ giải thoát mở tù Phong Đô.
(Kinh Tận Độ).
Dầu khôn, mẹ cũng cho ngu,
Tài chi trong kiếp tội tù dã man.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phải thường viếng tù lao nơi khám,
Mà khuyên lơn kẻ phạm răn mình.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tù 囚: Nơi giam giữ người có tội, hoặc chỉ người phạm tội bị giam giữ. Đày: Bắt phải chịu cảnh khổ sở nhục nhằn.
Tù đày là bị giam giữ trong tù, bắt chịu mọi điều khổ sở, cực nhục.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Khi trở về Thánh Địa Bần Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài Khai Pháp và Bần Đạo không giờ khắc nào mà quên trong cảnh tù đày lao lung.
Nỗi mất nước căm hờn lở đất,
Nỗi tù đày u uất tim gan.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
囚 監
Tù: Nơi giam giữ người phạm tội. Giam: Nhốt.
Tù giam ở tình trạng bị giam hãm lâu ngày, không thoát ra được.
Như: Anh ta chịu cảnh tù giam bao nhiêu năm nay.
Tù giam dương thế còn khi mãn,
Cửa ngục dâm tình khó thể tha.
(Thơ Thiên Vân).
囚 牢
Tù: Người phạm tội bị giam giữ. Lao: Nhà giam, nơi nhốt kẻ tội phạm.
Tù lao, như chữ “Lao tù 牢 囚”, là nhà ngục, hay ngục thất, tức nơi giam giữ kẻ tội hình.
Đai cân đã có vẽ chi chưa,
Hay phận tù lao kiếp sống thừa.
(Đạo Sử).
Phải thường viếng tù lao nơi khám,
Mà khuyên lơn kẻ phạm răn mình.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tủ là đồ đựng sách vở tiền bạc hay đồ vật, thường làm bằng gỗ, hình hòm để dựng đứng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: May thay! Trong nòi giống tổ phụ chúng ta để lại một tủ thuốc, tủ thuốc ấy ngày nay lấy ra làm món thuốc cứu cả tinh thần nhơn loại trong hoàn cầu này và trong tủ thuốc thiêng liêng đó để làm vị cứu sanh, tức nhiên là cái phương cứu khổ chẳng khi nào sai chạy.
Năng chùi lau, tủ, kiếng, ghế, bàn,
Đừng để đóng làng khan bụi nhện.
(Phương Tu Đại Đạo).
聚
Tụ là tập trung lại, dồn lại một nơi, làm cho đông thêm, nhiều thêm. Như: Mây đen tụ nơi chân trời, lục bình tụ ở cuối bãi, tụ máu bầm.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy nhập ba chi lại làm một là chủ ý quy tụ các con trong Ðạo Thầy lại một nhà, Thầy làm Cha chưởng quản, hiểu à!
Dạy đừng tụ nay chòm mai khóm,
Thấy con người la lỏm chạy theo ve.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tụ 聚: Tập trung lại tại một nơi cho đông thêm. Họp: Tụ tập tại một điểm.
Tụ họp là tập hợp nhau tại một nơi nào đó.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Đại Từ Phụ đến, Ngài đã nói quả quyết Ngài đến để Ngài chia khổ cùng con cái của Ngài, vậy nếu Ngài không có hình trạng thế nào Ngài chia khổ ấy được; tức nhiên Ngài phải làm thế nào Ngài có hình mà chớ, muốn cho ra cái Thánh hình của Ngài không phương chi hay hơn là Ngài tụ họp con cái hiền lương của Ngài đặng lập thành Thánh Thể tức nhiên cái hình Thánh của Ngài.
Chúng ta tụ họp nhau để dâng lễ Ðức Chí Tôn, đó là chúng ta tạo ra một hình thức Karma (nhân quả).
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
聚 會
Tụ: Hợp lại. Hội: Họp nhau.
Tụ hội là nhóm họp lại.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Mỗi một năm chúng ta đặng hân hạnh tụ hội lại với nhau tỏ lòng luyến ái vô tận của Đức Mẹ, ngày rằm tháng tám, tức nhiên ngày Trung Thu của chúng ta.
Hiếu nghĩa tương lai sau tụ hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.
(Đạo Sử).
Tua là tiếng cổ, có nghĩa là hãy, nên, phải. Như: Khá tua gìn giữ sức khỏe.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy Ngài Đầu Sư Thái Nương Tinh: Cảnh gia đình phải tiên liệu. Thầy để lời con tua gắng chí, chừng sửa luật phải có mặt nơi Thánh Thất.
Khá tua theo bóng Cao Đài,
Nương mây thoát tục ra ngoài Càn Khôn.
(Kinh Thế Đạo).
Nhọc đời chưa dễ công đeo đuổi,
Nâng thế tua trau quả đắp bồi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Dự vào đường Ðạo hạnh tua trau,
Ðừng đợi người kêu mới tỉnh màu.
(Đạo Sử).
Tua: Tiếng cổ, có nghĩa là hãy, nên, phải. Thìn: Giữ giữ, sửa sang, răn.
Tua thìn là hãy giữ, phải gìn.
Bền dạ tua thìn trau đạo Thánh,
Ra công khá gắng đắp nền nhân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Túa: Chảy ra, tuôn tràn ra.
Túa lua là bất kể, không chừa một ai, không nể nang ai. Như: Chửi ai có người chứ chửi túa lua như vậy không được đâu nghe.
Túa lua, như chữ “Túa xua”, có nghĩa là nhiều tới mức không kể xiết. Như: Ghẻ nổi túa lua khắp mình mẩy.
Còn ông kia, ông bạn kia đổ quạo thật, đánh thôi mình mẩy sưng tùm lum túa lua, rồi đem vô nhà thương nằm.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
遵
Tuân là theo, vâng theo, tức làm đúng theo điều đã định. Như: Tuân lệnh, tuân mệnh, tuân hành.
Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì cung trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Còn việc các Ðấng phú thác cho mình, hoặc yêu cầu mình thi hành một vấn đề nào, nếu mình trọn tin mạng pháp thì các Ðấng cũng ghi công cho. Nhược bằng mình không tuân hoặc lười biếng trễ nãi, thì các Ðấng lại ghi tội cho.
Đã không tuân luật hữu hình,
Vô vi trừng trị ai binh đặng nào.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Nguyện tuân Thánh lịnh dìu đời khổ,
Mừng thấy phàm gian hưởng phước lành.
(Thơ Huệ Phong).
遵 行
Tuân: Vâng theo. Hành: Thi hành, làm.
Tuân hành là vâng lời thượng lịnh để thi hành. Như: Tuân hành theo lời dạy của Hội Thánh.
Đức Hộ Pháp có thuyết: Cũng như cổ kim lập triều đình, định chánh thể rồi, muốn ra nguyên tắc lập quân đội, quân đội không tuân hành đi nghịch lại mạng lịnh của triều đình thì triều đình bất lực nảy sanh loạn lạc. Bất cứ một ai trong nước mạnh đặng yếu thua, giựt giành thì không còn gì chánh trị nhân nghĩa nữa.
Sơ khai kiến tạo nhớ công Thầy,
Đồ Đệ tuân hành sự nghiệp đây.
(Thơ Hộ Pháp).
Tuân hành đúng mức đường tu vững,
Tự tác sai chiều bước Đạo nghiêng.
(Thơ Thượng Sanh).
遵 依
Tuân: Làm đúng theo một cách có ý thức điều đã định. Y: Đúng như vậy, không sai.
Tuân y là tuân hành và y theo điều đã được định ra hoặc coi như đã được định ra.
Pháp Chánh Truyền nói về quyền hành Giáo Tông có câu: Giáo Tông đặng đồng quyền cùng Thầy mà dạy dỗ cả chư Môn đệ của Thầy trong đường đạo đức, dìu bước từ người, chăm nom săn sóc cho khỏi phạm Thiên điều, thì là buộc tuân y Tân Luật.
Trong hạn sáu tháng, kể ngày ban hành luật pháp nầy chư tín đồ phải tuân y các điều lệ.
(Tân Luật).
Hay “Tuân lệnh”.
Tuân: Làm đúng theo một cách có ý thức điều đã định ra. Lịnh (lệnh): Điều cấp trên truyền xuống cho cấp dưới phải thi hành.
Tuân lịnh, như chữ “Tuân lệnh 遵 令” là tuân theo mệnh lệnh, tức vâng theo những điều của cấp trên truyền bảo xuống.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Chánh Phối Sư là người thay mặt cho nhơn sanh chỉ biết tuân lịnh mà thôi, chớ không biết cãi lịnh, có phép dâng luật lên cho Đầu Sư cầu xin chế giảm chớ không đặng phéplập luật.
Vậy, con phải tuân lịnh Thầy mà lập thành Nữ phái. Nghe và tuân, Thầy hằng ở bên con, lo chung cùng con. Con chớ ngại.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tuân: Vâng theo. Lời: Lời nói, lời dạy.
Tuân lời là vâng theo lời đã dạy.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ngài Quyền Giáo Tông có câu: Con ráng khuyên can bạn con và ráng mà tuân lời Lý Bạch. Ấy là hai chuyện Thầy cậy con.
Đừng chê rằng thấp trí chẳng tuân lời,
Phải nhớ lúc dạy chơi buổi nhỏ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Tuân mệnh”.
Tuân: Vâng theo. Mạng (mệnh): Lời truyền bảo.
Tuân mạng, như chữ “Tuân mệnh 遵 命”, là vâng theo mệnh lệnh của cấp trên.
Như: Lời truyền dạy của Đức Chí Tôn, toàn Đạo phải tuân mạng.
Như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả ba đều ký tên không tuân mạng thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tuân: Vâng theo. Mạng (mệnh): Lời truyền bảo. Lịnh (lệnh): Điều truyền bảo của người trên.
Tuân mạng lịnh, như chữ “Tuân mệnh lệnh 遵 命 令”, là vâng theo lời truyền dạy của thượng cấp.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Chẳng đặng làm điều chi không có lịnh của Chánh Phối Sư truyền dạy; nhứt nhứt điều phải tuân mạng lịnh của Chánh Phối Sư khi đặng sai trấn nhậm các nơi; mọi điều canh cải là phạm Pháp Chánh Truyền, ắt bị giải ra Toà Tam Giáo.
Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y luật lệ Giáo Tông truyền dạy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
俊
Tuấn là người có tài hơn kẻ khác, không dùng một mình. Như: Tuấn kiệt, tuấn tú, anh tuấn.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Quân Đội của các con thành lập đặng cũng do toàn thể trụ cả năng lực trên nền tảng nghĩa nhân, đạo đức, ngọn cờ cứu khổ của các con xuất hiện nơi nào thì nhân sanh nơi ấy đều phải đặng các con bảo vệ, cứu hiểm phò nguy mà làm cho rạng danh anh tuấn của non sông chủng tộc.
Anh tuấn đất gìn nung khí phách,
Uy linh Trời giữ tạc đài liên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Trường Ðời đem thử gan Anh tuấn,
Cửa Ðạo mới ra mặt Thánh Hiền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
俊 傑
Tuấn: Anh tuấn, kẻ có tài trí hơn người. Kiệt: hào kiệt, kẻ tài giỏi hơn người.
Tuấn kiệt là người có tài trí hơn hẳn người thường, tức hạng anh hùng hào kiệt.
Như: Khi xưa, anh ấy là một trang tuấn kiệt.
Nửa cánh gươm phơi gan tuấn kiệt,
Chậm chơn đợi gió thổi vân đài.
(Đạo Sử).
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Ðến hồi búa Việt giục cờ Mao.
(Đạo Sử).
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách Chương đài.
(Thơ Thanh Thuỷ).
俊 秀
Tuấn: Tài trí hơn người. Tú: Đẹp.
Tuấn tú là đẹp đẽ. Tuấn tú thường dùng để chỉ những người thanh niên, con trai có học thức, có gương mặt sáng sủa, đẹp đẽ và thông minh.
Như: Chàng thanh niên ấy rất khôi ngô tuấn tú.
Tuấn tú thay một mối cơ đồ,
Chẳng biết giữ gìn xúm lại xô.
(Đạo Sử).
Một thổ võ xưa kia nên tuấn tú,
Bị tay phàm làm xấu nét phong quang.
(Ngụ Đời).
1.- Tuần 旬 là tiếng ngày xưa chỉ khoảng thời gian mười ngày hay mười năm.
Như: Một tháng có ba tuần: Thượng tuần, trung tuần và hạ tuần, hưởng thọ lục tuần.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có đoạn dạy: Lão tâu cùng Ðại Từ Ðại Bi, xin thêm vào Luật những điều bí mật yếu trọng ấy. Vậy chư hiền hữu cũng phải cầu khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng nầy thì khởi nguyện, dặn các Thánh Thất, các đạo hữu phải để lòng thành khẩn, hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh luật, nghe à!
Mắt mờ thêm nỗi lảng tai,
Thất tuần đã quá từ ngày ấu xuân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tuần 旬 dùng để chỉ thời gian 7 ngày hay 9 ngày, như: Tuần thất, tuần cửu.
Tuần hay “Tuần lễ” còn dùng để chỉ khoảng thời gian bảy ngày theo Dương lịch.
Như: Nghỉ dưỡng cuối tuần, đầu tuần sau mới mở khoá, một tuần đầy sự cố gắng.
Trong đôi tuần coi đã quen vèo,
Con ham học vui theo chúng bạn.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Tuần 循 là noi theo. Như: Tuần tự, tuần hoàn.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðể hoàn thành những công việc đó, Ðức Khổng Tử khuyên phải triệt để thực hiện tuần tự những điều mục: Thành ý, Chánh tâm, Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ.
Rồi cuộc tuần huờn sau mới rõ,
Rõ rồi hối hận việc thôi rồi.
(Đạo Sử).
4.- Tuần 巡 là canh phòng. Như: Lính đi tuần, canh tuần, tuần phòng, tuần tra.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong mấy ngày Bần Đạo, Bảo Thế và Tiếp Đạo ở đó cũng tự do không có điều gì làm mất tự do cả, nhứt là nhà binh Pháp, mấy ngày ở Kinh Đô canh tuần nghiêm nhặt, sự cung kính đối đãi Bần Đạo và các bạn lấy làm cảm kích vô hạn.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác đoạ sa A Tỳ.
(Kinh Sám Hối).
Tuần: Chỉ khoảng thời gian 7 ngày hay 9 ngày. Cửu: Chín, số chín.
Tuần cửu dùng để gọi khoảng thời gian 9 ngày, rồi tiếp theo nhiều lần như vậy.
Theo Phật giáo, người mất sau khi an táng xong, làm Tuần thất, còn bên đạo Cao Đài thì làm Tuần cửu, tức cứ chín ngày làm tuần độ hồn cho chơn linh người chết.
Tại sao phải cúng Cửu và Tiểu, Đại tường?
Triết lý của đạo Cao Đài cho rằng con người sống ở thế gian gồm có ba thể:
Phàm thân 凡 身, hay nhục thể là Đệ nhứt xác thân, do cha mẹ đào tạo bằng xác thịt, Phật giáo cho là thân tứ đại, bởi đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành. Thể này hữu hình, trọng trược, không thường tồn, dễ bị hoại.
Linh hồn 靈 魂, hay chơn linh là một điểm Linh quang từ khối Đại Linh quang của Thượng Đế chiết ra ban cho. Thể này Thiêng liêng linh diệu trong con người, nó vốn vô vi, bất tiêu bất diệt, nên khi chết, nếu linh hồn nhẹ nhàng sẽ trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Chơn thần 真 神, hay Đệ nhị xác thân. Theo Thánh giáo đây là một xác thân Thiêng liêng do Phật Mẫu dùng nguơn khí tạo thành. Thể này thuộc khí chất, bán hữu hình, vì nó có thể thấy đặng, mà cũng không có thể thấy đặng. Khi ra khỏi xác phàm, thì chơn thần lấy hình xác phàm như khuôn in rập.
Khi còn sống, chơn thần không thể xuất ra đặng vì bị xác phàm níu kéo, chỉ bậc chân tu mới có thể xuất chơn thần đặng.
Do quan niệm có linh hồn, nên một con người khi chết, không phải là hết, mà chỉ là cái thể xác hoại diệt, nhưng linh hồn thì vẫn tồn tại mãi mãi. Hay nói cách khác, chết chỉ là thay đổi trạng thái sống: Sống bằng thân xác hữu hình ở thế gian và sống bằng linh hồn, không hình thể ở cõi giới vô vi.
Sự sống của thể xác thì hữu hạn, nhưng sự sống của linh hồn mới thực sống vĩnh viễn, bất diệt. Vì thế, tôn chỉ của đạo Cao Đài là khi con người sống nơi thế gian, phải mượn thân xác hữu hình lo tu hành: Làm phải làm lành, lập công bồi đức để chuẩn bị một con đường trong cõi giới vô vi, cho linh hồn có một cuộc sống an nhàn, cực lạc.
Ngoài ra, để thực hiện đại ân xá kỳ ba, đạo Cao Đài còn có ban cho bí pháp Độ thăng và cầu rỗi cho linh hồn được nhẹ nhàng thanh cao mà vào từng cõi giới mới. Muốn vậy, người tín đồ khi sống ở thế gian phải giữ giới luật Đạo, lập công bồi đức, và phải được vị chức sắc thọ truyền bửu pháp làm phép độ thăng cho và những người thân phải thành tâm cầu siêu cho linh hồn người chết.
Phương thức độ hồn cho vong linh sau khi chết được tiếp tục diễn ra trong vòng 581 ngày. Đó là các cuộc lễ Cầu siêu khi chưa mai táng và sau đó được tiếp tục tuần cửu, tiểu, đại tường.
Những người đã quá vãng, sau khi an táng xong, kể từ ngày chết, đếm tới chín ngày thì tang gia hiếu quyến đem linh vị đến Thánh Thất sở tại làm tuần Nhứt Cửu, đếm tới mười tám ngày (tức 9 ngày sau) thì làm tuần Nhị Cửu... cho đến tám mươi mốt ngày thì làm tuần Cửu Cửu.
Kể từ sau một ngày chung cửu (hay Cửu Cửu), đếm tới 200 ngày thì làm tuần Tiểu Tường. Rồi kể từ sau một ngày làm tuần Tiểu Tường đếm tới 300 ngày thì làm tuần Đại Tường, hay là tuần mãn tang.
Như vậy, theo nghi lễ của đạo Cao Đài, một tín đồ giữ thập trai, kể từ ngày chết cho đến ngày làm tuần Đại Tường tất cả là 581 ngày, phải dâng chín lá sớ khi cúng chín tuần cửu, một lá sớ cúng tuần Tiểu Tường và một lá sớ cúng tuần Đại Tường. Tổng cộng là mười một lá sớ cùng với lá sớ Tân Cố thượng khi vừa mới chết nữa là mười hai lá sớ.
Theo cổ tục người chết sau khi chôn cất xong thì tang gia hiếu quyến làm tuần thất (bảy ngày), trong bảy kỳ gọi là thất thất, kế đó làm tuần 100 ngày, đến giáp năm và mãn khó, cộng chung là 10 tuần cúng, để cầu nguyện cho linh-hồn được qua 10 cửa ngục cửa Thập Điện Diêm Cung một cách nhẹ nhàng.
Nhưng trong đạo Cao Đài, do cuộc Đại Ân xá của Đức Chí Tôn cho đóng cửa địa ngục, mở tầng Thiên, đưa các chơn hồn đi lên Cửu Trùng Thiên (chín tầng Trời), nên sau khi chết làm chín tuần cửu để nhờ Cửu Vị Tiên Nương siêu rỗi lên từng cõi giới.
Tại sao tang quyến phải đem linh vị về Toà Thánh hay Thánh Thất địa phương để cúng Cửu hay Tiểu Đại Tường?
Đức Hộ Pháp có cho biết: “Mỗi chơn hồn nơi thế gian này, đều phải quy tựu tại Đền Thánh này và đi từ trong Đền Thánh này đến các cảnh giới khác. Tại sao phải vào Đền Thánh này, mà không vào các Đền Thánh khác? Tại vì Đền Thánh này tỷ như một trường thi: Mỗi năm Chánh Phủ mở một kỳ thi như thi Tú Tài chẳng hạn, địa điểm đã ấn định rồi, chỉ có thi nơi đó mới có giá trị: Toà Thánh này cũng vậy Đức Chí Tôn lập ra để con cái của Ngài Lập công, Lập đức, Lập ngôn mà về với Ngài”.
Vào Đền Thánh tức là đi từ Hiệp Thiên Đài đến Cung Đạo, nhưng muốn vào Cung Đạo phải qua Cửu Trùng Đài. Vượt qua mỗi bậc của Cửu Trùng Đài thì chơn linh được mỗi lần thử thách của các Đấng Thiêng liêng, được mỗi lần cầu xin của con cháu và toàn thể con cái Đức Chí Tôn, và được mỗi lần cứu rỗi của Cữu Vị Nữ Phật.
Ngoài ra, như ta biết những bài Kinh tụng Cửu, Tiểu và Đại tường trong quyển Kinh Thiên Thế Đạo do Đức Quan Âm Bồ Tát, Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng cơ ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Nội dung các bài Kinh đó thường nhắc nhở vong linh xa lánh tục trần, lìa khỏi Phong đô, hướng về nguồn cội của Chơn linh là Thượng Đế, để được đi qua từng cõi giới càng ngày càng nhẹ nhàng và thanh cao hơn.
Cúng tế vong linh người chết trong tuần cửu và Tiểu, Đại tường, cũng như trong tang lễ, đòi hỏi con cháu phải thành tâm và tinh tấn cầu rỗi các Đấng thiêng liêng, nhờ đó các Đấng mới dùng nguồn năng lực nầy độ hồn cho người chết còn nặng nề ô trược để được nhẹ nhàng hầu đưa các chơn linh về ngôi cũ.
Trong bài Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Quy Liễu có câu:
Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.
Cho ta biết theo luật công bình thiêng liêng Tạo Hoá, buộc con cháu người chết phải biết tu hành, lập công bồi đức, tạo dựng thành nguồn công quả thiêng liêng, rồi dùng phần công quả đó hồi hướng về cho chơn linh người chết, để chơn linh nhờ đó làm hành trang trở về cựu vị.
Hay nói cách khác dễ hiểu hơn, buổi sanh tiền người chết thiếu phước đức nên khi trở về cõi hư vô, vong linh bị nặng nề, phải chờ đợi cho con cháu tu hành, tạo lập công đức để dâng hiến bù vào chỗ thiếu đó, cho vong linh được nhẹ nhàng.
Bát cơm triêu tịch con đồng hiến,
Tuần Cửu siêu sinh bạn xúm quỳ.
(Thơ Vạn Năng).
循 環
Tuần: Thuận theo. Hoàn: Xoay tròn.
Tuần hoàn tức là nói về những sự chuyển vận theo một vòng tròn, như sự tuần hoàn của vũ trụ, sự tuần hoàn của máu huyết...
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy nắm máy huyền vi, hằng lấy cân thiêng liêng mà day trở máy Càn khôn, vì vậy thế cuộc phải tuần hoàn, bầu nhơn sự phải luân chuyển vần xây phiêu linh cho đến buổi nhơn loại được vẹn toàn, thế giới cũng vì đó mà phải đổi thay, gạn đục lóng trong mà tạo thành miền Cực Lạc.
Thời cuộc tuần hoàn tai ách khởi,
Liệu mà xông lướt, liệu đua tranh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Tuần hoàn”.
Tuần: Thuận theo. Huờn (hoàn): Xoay tròn.
Tuần huờn, như chữ “Tuần hoàn 循 環”, tức là nói về những sự chuyển vận theo vòng tròn, như sự tuần hoàn của vũ trụ, sự tuần hoàn của máu huyết...
Trong Phương Châm Hành Đạo, Đức Quyền Giáo Tông có câu: Kỳ Hạ Nguơn nầy là buổi hiệp Tam Giáo làm một, hầu đem về căn bổn cho hiệp lẽ tuần huờn; Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế lại dùng huyền diệu Tiên Gia giáng cơ giáo Đạo; thế thì chúng ta lấy làm hữu duyên hữu phước mới sanh nhằm đời Đạo mở; muôn năm ngàn kiếp mới có một lần như vậy; nếu chẳng thành tâm tu niệm thì rất uổng cho cơ hội nầy lắm đó.
Xem: Tuần hoàn.
Chữ rằng Thiên Ðịa có tuần huờn,
Thiệt thiệt rồi ra có hơn hơn.
(Đạo Sử).
Đã hay rằng thiên địa tuần huờn,
Nỗi dâu bể tang thương đau xót.
(Văn Tế Đốc Học).
Tuần khắp: Đi xem xét khắp nơi. Xét tra: Kiểm tra, xét hỏi.
Tuần khắp xét tra là đi tuần khắp các nơi để kiểm tra xét hỏi mọi việc.
Như: Trong nước có loạn, an ninh thường đi tuần khắp xét tra những kẻ đáng tình nghi.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác đoạ sa A Tỳ.
(Kinh Sám Hối).
旬 禮
Tuần: Chỉ khoảng thời gian 7 ngày. Lễ: Ngày lễ.
Tuần lễ là chỉ khoảng thời gian 7 ngày theo Dương lịch, từ thứ hai đến Chúa nhựt. Như: Nguyên tuần lễ nầy nghỉ ở nhà, không đi làm.
Theo lịch Việt Nam, ngày thứ hai là ngày đầu tiên của tuần, trong khi lịch Tàu là ngày thứ nhứt, gọi là “Tinh kỳ nhứt 星 期 一”.
Tuần lễ có nguồn gốc từ Sáng Thế Ký trong Kinh Thánh Cựu Ước của Công giáo nói Đức Chúa Trời sáng tạo ra Trời đất và vạn vật.
Bần Đạo đi Đà Lạt có ở Sài Thành trong một tuần lễ, sắp đặt đã hoàn toàn giúp cho các cơ quan ấy và thay đổi cho Chánh Phủ Việt Nam đi đến mục đích độc lập cùng thống nhứt...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
循 序
Tuần: Theo thứ tự. Tự: Thứ tự, trật tự.
Tuần tự là theo thứ tự. Tuần tự nhi tiến là theo thứ tự mà tiến tới. Như: Mọi người tuần tự mà lãnh lương.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Đức Khổng Tử khuyên phải triệt để thực hiện tuần tự những điều mục: Thành ý, Chánh tâm, Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ.
Vậy tất cả chơn linh trong Càn Khôn Võ Trụ, đều phải vào Cửu Trùng Đài và tuần tự theo đẳng cấp thấp cao, để đạt vị Thiêng liêng của mình.
(Giáo Lý).
殉 節
Tuẫn (tuận): Liều chết vì một việc gì. Tiết: Tiết tháo, tiết nghĩa, khí tiết.
Tuẫn tiết hay “Tuận tiết” là vì tiết nghĩa mà liều chết, tức là tự tử để bảo toàn khí tiết. Như: Võ Tánh vì quốc gia dân tộc mà tuẫn tiết.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngoài ra những đấng anh hùng tương lai của đất nước, những nhơn vật đã dám tuẫn tiết vì non sông, dám liều mình vì dân tộc đã đem thắng lợi cho quê hương và giữ danh dự chung cho nòi giống.
Trên đường sứ mạng hy sinh,
Thu Hà tuẫn tiết trọn tình hứa duyên.
(Báo Ân Từ).
1.- Tuất 恤 là thương mà để lòng cứu giúp.
Như: Tuất cô (thương người đơn độc), tuất bần (thương người nghèo khó), ái tuất thương sanh.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tấn tuồng đời chúng ta đã ngó thấy, dầu cho cá nhân, dầu cho xã hội, dầu cho toàn thể nhơn quần, họ chỉ vì cái tranh sống mà tiêu diệt lẫn nhau, nếu chúng ta nói người biết nhường sống của người trong cái khó khăn, mình phải có một tâm hồn cao thượng ái tuất thương sanh, mới có phương thế chúng ta chịu khổ có tâm đức nhượng sống cho kẻ khác.
Thế lực cầu vinh càng hạ tiện,
Tinh thần ái tuất mới cao thâm.
(Thơ Huệ Phong).
2.- Tuất 戌 là chữ thứ mười một của hàng Địa chi, tượng trưng cho chó.
Khi Thuyết về Khổng Phu Tử, Đức Thượng Sanh có câu: Hai năm sau, đến tháng tư năm Nhâm Tuất đời vua Kinh Vương tức là năm 478 trước Tây lịch kỷ nguyên, một hôm Ðức Khổng Tử dậy sớm, đi vẩn vơ trước cửa, tay kéo lê cây gậy mà hát rằng: “Núi Thái Sơn có lẽ đổ chăng? Người triết nhân có lẽ nguy chăng? Cây lương mộc có lẽ nát chăng?
Từ kỳ hội trước, là kỳ hội năm Binh Tuất, khi Bần Đạo mới về, sau năm năm vắng mặt, Bần Đạo liền trả quyền Vạn Linh lại cho con cái của Đức Chí Tôn,...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Túc là đánh, hoặc thổi vật gì cho kêu vang lên.
Như: Túc chiêng, buổi sáng túc còi báo thức, tiếng tù và túc vang núi rừng.
Hễ tiếng còi vừa túc bửng tưng,
Phải thức sớm theo chân công cấy.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Túc 足 là chân. Như: Thủ túc, túc cầu, túc hạ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðoàn tụ nhau trong năm chỉ có mấy lần, chức sắc Hội Thánh và chức sắc nơi tứ phương đã tỏ ra nỗi hân hoan trong sự mãn nguyện chẳng khác chi cuộc tái ngộ của tình thủ túc trong gia đình sau một thời gian chia cách trông đợi.
Thủ túc tình thâm ấy bạn vàng,
Đừng phân anh tiện với em sang.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Túc 足 là đủ, không thiếu. Như: Sung túc, túc thực, túc y, tự túc, tri túc, phú túc.
Thánh giáo Thầy có câu: Các con, nền Ðạo bề ngoài coi diềm dà sung túc, mà chẳng thấy rõ cái mạch bịnh trong tâm, chẳng khác chi thế Sở chế bạo Tần, ham cái mạnh bề ngoài, biết sợ cái mặt chớ chẳng rõ lòng người ra sao, mà không độ cái mạnh cấp thời đó sẽ dần dần tan như giá mà đổi ra yếu hèn thấp nhược.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
(Kinh Sám Hối).
Cháu con sum hội yên thân lão,
Sung túc dài dòng dõi họ Cao.
(Đạo Sử).
夙 締
Túc: Sẵn có. Đế: Ràng buộc.
Túc đế là sự ràng buộc từ kiếp trước, ý muốn nói trai gái thành vợ chồng là do nhân duyên tiền định.
Người xưa thường nói: Lương duyên như túc đế, giai ngẫu tự thiên thành 良 緣 如 夙 締, 佳 偶 似 天 成, nghĩa là duyên lành bởi sự ràng buộc từ kiếp trước, đẹp đôi do Trời kết hợp nên.
Khúc trỗi cầm loan dây Túc đế,
Nhịp xây cầu quạ, bến Ngân hà.
(Thơ Thuần Đức).
足 衣 足 食
Túc y: Đủ mặc. Túc thực: Đủ ăn.
Túc y túc thực, đồng nghĩa với chữ “Túc thực túc y 足 食 足 衣” là đủ mặc đủ ăn, ý muốn nói đời sống quanh năm được no ấm.
Xem: Túc thực túc y.
Túc y túc thực khỏi lo chi,
Tu tánh tu tâm khá kịp thì.
(Đạo Sử).
足 食 足 衣
Túc thực: Đủ ăn. Túc y: Đủ mặc.
Túc thực túc y là đủ ăn đủ mặc, tức là đời sống được no ấm.
Nói về sự đủ thiếu, sách Cảnh Hành có câu: Tri túc thường túc, chung thân bất nhục, tri chỉ thường chỉ, chung thân bất sỉ; tỷ thượng bất túc, tỷ hạ hữu dư 知 足 常 足, 終 身 不 辱, 知 止 常 止, 終 身 不 恥; 比 上 不 足, 比 下 有 餘, nghĩa là biết đủ là đủ, suốt cuộc đời không bị nhục; biết dừng là dừng, rốt đời không thẹn; so với trên thì không đủ, sánh với dưới thì có dư.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ở tại gia đình phải gắng sức lập công thì gia đình mới khỏi thiếu thốn, túc thực túc y, con cái được bảo dưỡng đầy đủ.
Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,
Phước ấm no túc thực túc y.
(Kinh Sám hối).
夙 債
Túc: Sẵn có. Trái: Nợ.
Túc trái là nợ từ kiếp trước. Như: Tiền duyên túc trái.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Sanh đứng làm người tức phải hứng bao nỗi tang thương khốn đốn, phải chịu lắm phen nghịch cảnh đau lòng, dày vò lăn lóc hầu trả cho xong túc trái tiền oan cho đến ngày chung cuộc.
Lá thắm vớt nhằm duyên túc trái,
Lời vàng trót hẹn buổi ban sơ.
(Thơ Hoàng Nguyên).
1.- Tục 俗 là lề thói đã lâu đời. Như: Phong tục, tục lệ, tục ngữ, tục truyền.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thời kỳ nầy Chí Tôn đến, lấy Nho tông để chuyển thế và thi thố cho cả toàn cầu vạn quốc một triết lý tối tân, đặng chỉnh đốn sửa đương những tệ tục tồi phong của nhơn loại mà đem vào Thánh chất của con người.
Giữa cõi phong trần trường dạy học,
Khôn ngoan thói tục ấy đua tranh.
(Đạo Sử).
Tuy cho rằng tục cũ lề quen,
Mình có thể sửa hèn ra trọng.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tục 俗 là thô bỉ, phàm tục, chỉ cõi trần. Như: Ăn tục, tục tánh, tục trần, tục danh, tục luỵ.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Hành trình dài đăng đẳng, mà bước tục hãy còn chờ, chẳng sớm biết mình, hoạ Trời đâu tránh khỏi.
Khổ hạnh dầu ai thìn một kiếp,
Rừng tòng thoát tục sớm đưa chân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mùi tục lần xa, vui đạo đức,
Cõi tâm rộng mở khổ giồi trau.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Tục 續 là nối thêm, tiếp tục, nối lại. Như: Tục bản, tiếp tục, tục biên, tục huyền.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Vui là vì nhờ quyền năng vô đối của Ơn Trên mà cơ phục hưng lần hồi thực hiện, để cho toàn Ðạo vững tâm lo bề tu niệm, Hội Thánh tiếp tục điều khiển việc Ðạo và phục vụ nhơn sanh.
Con ráng tiếp tục đi trên con đường vạch sẵn ấy để theo đuổi đến mức cuối cùng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tục: Nối thêm, tiếp tục, nối lại. Bản: Bổn, sách đã in.
Tục bản là sách đã in phổ biến rồi, nay tiếp tục in lại để phát hành.
Như: Quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển của Hội Thánh in phổ biến đã tục bản nhiều lần.
Bởi thế nên quyển Pháp Chánh Truyền nầy cần được tục bản mãi mãi, kỳ nầy hết tới kỳ khác.
(Lời Tựa PCT).
俗 劫
Tục: Cõi tục, tức cõi thế gian. Kiếp: Kiếp sống của một đời người.
Tục kiếp là kiếp sống của con người ở cõi trần tục.
Nơi chúng sinh đang sống là một cõi đầy dẫy ô trược, rối rắm, phiền não, đau khổ, nên có nhiều danh từ để chỉ cõi nầy như trần tục, trần cấu, tục lụy, thế tục, trần gian, trần thế, hồng trần...
Tất cả các từ trên đều hàm ý trong cõi ấy có nhiều uế trược, nhiều cám dỗ, nhiều tranh danh đoạt lợi, và nhiều phiền não và đau khổ. Vì thế, trong Phật Mẫu Chơn Kinh mới dạy con người phải “Diệt tục kiếp” để khỏi luân hồi.
Diệt tục kiếp trần duyên oan trái,
Chưởng Đào tiên thủ giải trường tồn.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
俗 例
Tục: Thói quen, thói tục. Lệ: Những phép tắc đã thành từ trước.
Tục lệ là lề thói đã có từ lâu đời.
Trong Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Cho nên người Âu tây có tục lệ đặt một bình bông trên bàn ăn cốt giúp cho người ăn xem thấy màu hoa đẹp mà cảm xúc, rồi bắt khiến ăn ngon.
Những tục lệ ấy nếu Ðạo Cao Ðài không xuất hiện đặng chỉnh đốn lại, sợ e cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ thành ra ác thú.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
俗 例 古 傳
Tục: Thói quen, thói tục. Lệ: Những phép tắc đã thành từ trước. Cổ: Xưa. Truyền: Trao lại đưa đi.
Tục lệ cổ truyền là thói tục đã quen từ xưa truyền lại.
Như: Hôn lễ hiện nay ở một vài nơi cũng còn ảnh hưởng theo tục lệ cổ truyền.
Chỉ có xứ Việt Nam còn duy trì được sự tôn sùng tổ phụ theo tục lệ cổ truyền,...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
俗 累
Tục: Chỉ cõi đời. Luỵ: Ràng buộc điều khổ sở.
Theo Phật giáo, ở cõi thế gian những điều khổ sở, phiền não thường quấy nhiễu thân tâm và ràng buộc vào con người, nên cõi đời được gọi là tục luỵ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người chức sắc bôn ba giữa chốn phồn hoa để chọn khách may duyên đưa vào cửa Đạo, nhưng vẫn giữ vẹn thân danh không vướng vào tục luỵ, sa ngã theo lượn sóng trần đó là đạt tới mức trí dũng của Thánh hiền thời xưa vậy.
Nghĩa bóng: Chỉ cõi thế gian.
Hứng giọt Ma Ha lau tục luỵ,
Ngừa thuyền Bát Nhã thoát mê tân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Độ khách trần hoàn mau thức tỉnh,
Cứu người tục luỵ hết mê say.
(Thơ Thái Đến Thanh).
俗 慮
Tục: Chỉ cõi đời. Lự: Những sự lo lắng, phiền não.
Tục lự là những cái lo lắng, phiền não ràng buộc vào con người nơi cõi thế tục.
Tục lự, nghĩa bóng dùng để chỉ cõi thế gian.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ có đoạn dạy: Ôi! Thầy đứng đây mà trông thấy trong Năm Châu, chư môn đệ hỡi còn lặn lội trong biển khổ sông mê, rất nên đau đớn. Thầy chỉn có bấy nhiêu đó mà không dám thường giáng trần, vì mỗi phen đều mỗi giọt lệ tuôn vào tục lự.
Cảnh thăng trỗi gót cho mau,
Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.
(Kinh Tận Độ).
Hứng giọt nhành dương lau tục lự,
Hay chi thua được bả công khanh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đến phồn hoa thân gần tục lự,
Chơi lầu hồng hỏi thử trái căn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
俗 凡
Tục: Thói quen, thế gian. Phàm: Tầm thường, cõi phàm gian.
Tục phàm, như chữ “Phàm tục 凡 俗”, là tầm thường, hoặc chỉ cõi trần tục.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Phần nhiều đạo hữu vì tánh tình tục phàm mà làm cho gay trở bước Ðạo, lại e chẳng khỏi sanh ra một trường náo nhiệt trong Ðạo về buổi sau nầy.
Xem: Phàm tục.
Tiên đàng nhứt thế biến Lôi Âm,
Tận độ nhơn sanh thoát tục phàm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Khá cầu mà học Ðạo cao xa,
Xa chốn tục phàm khá bước qua.
(Đạo Sử).
Hay “Tục tính”.
Tục: Tầm thường. Tánh (tính): Bẩm chất của người, hay của vật vốn sẵn có.
Tục tánh, như chữ “Tục tính 俗 性”, là cái tánh phàm tục của con người. Tánh đó ham vật chất, thích danh lợi.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Trong các con, nhiều đứa muốn chư Thần, Thánh hành phạt những tánh bất lương của bọn vô đạo kia đặng làm cho đường đạo vững bền, nền Ðạo mau thành tựu. Nhưng Thiên cơ há vị phàm phu tục tánh mà để các con toại kỳ sở nguyện sao?
Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tục: Thô bỉ, tỏ ra thiếu lịch sự, thiếu văn hoá.
Tục tĩu là thô bỉ, lộ liễu trắng trợn và có tính cách khêu gợi điều dâm dục.
Như: Ăn nói tục tĩu, hình vẽ tục tĩu.
Nói lời tục tĩu không nhường,
Tội hành cắt lưỡi trăm đường ghê thay!
(Kinh Sám Hối).
Buông lời tục tĩu dâm loàn,
Lâu mau, nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.
(Kinh Sám Hối).
Buổi bé thơ dầu buổi vui cười,
Đừng quen miệng thốt lời tục tĩu.
(Phương Tu Đại Đạo).
俗 子
Tục: Tầm thường. Tử: Chỉ người.
Tục tử chỉ người tầm thường, thô lậu, tức người phàm tục. Như: Phường tục tử, phàm phu tục tử.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Toà Thánh chất thiêng liêng phải biến ra hữu hình trước mắt kẻ phàm phu tục tử, đặng thấy, mới biết kiêng oai Thầy.
Phàm phu chưa rõ tài Tiên, Phật,
Tục tử không thông phép Thánh, Thần.
(Thơ Thái Đến Thanh).
俗 債
Tục: Cõi tục, tức thế gian. Trái: Nợ.
Tục trái nghĩa là nợ đời, hay nợ thế gian, tức là các món nợ mà mình phải mang khi làm người sống trong cõi thế gian.
Như: Sống trong thế gian, ai cũng đều mang tục trái.
Mượn nước Cam Lồ lau tục trái,
Ðường Tiên nẻo Phật sớm chơn đưa.
(Đạo Sử).
Tuy biết phàm duyên là tục trái,
Nay nhìn tạn mặt nghĩ càng đau.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Tục: Cõi tục, tức thế gian. Trần: Bụi, cõi trần.
Tục trần, như chữ “Trần tục 塵 俗”, là chỉ cõi thế gian, nơi mà người đang sống (tức người phàm trần) ở.
Tục trần đồng nghĩa với, trần gian, trần thế...
Như: Tu là mong thoát khỏi tục trần.
Nâng bồng qua khỏi chốn mê tân,
Mượn chiếc thuyền Tiên lánh tục trần.
(Đạo Sử).
歲 月
Tuế: Năm. Nguyệt: Tháng.
Tuế nguyệt là năm và tháng, chỉ năm tháng trôi qua, ý nói thời gian qua đi, hoặc chỉ tuổi thọ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nếu không gặp thời thì chịu mai một, sống đời ẩn dật, vui thú lâm tuyền bạn với gió trăng, thi gan cùng tuế nguyệt, chớ không màng đến danh lợi đen tối.
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
(Đạo Sử).
Nhìn non chỉ nước làm hơn,
Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Túi là bộ phận may liền vào áo hoặc một thứ bao do người ta may để đựng các đồ vật.
Như: Túi bạc, túi gạo, túi thơ văn, túi trầu.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Muốn cho nhà thiệt cao, áo thiệt tốt, mượn lốt cọp doạ cáo bầy, bụng trống lổng, túi thâu đầy toan làm thầy lũ dại.
Nguồn Tiên tầm Ðạo dễ gì đâu?
Quyền phép Càn khôn một túi thâu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Kìa túi Càn Khôn vừa hé miệng,
Làu làu tứ hướng hoá giang san.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Túi bụi là dồn dập, chưa hết cái nầy đã tiếp đến cái khác, làm cho không kịp đối phó.
Như: Mấy ngày cuối năm lo làm túi bụi, hai ba thằng nhào vô đánh nó túi bụi.
Cặp phò loan lo làm túi bụi,
Hầu cận Thầy cặm cụi ngày đêm.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Túi: Đồ bằng vải hoặc da đùng để đựng vật. Gió trăng: Gió và mặt trăng.
Túi gió trăng, do câu nói của La Hồng Tiên: Thanh phong minh nguyệt nhất chi nang 清 風 明 月 一 詩 囊, nghĩa là gió mát trăng thanh thơ một túi.
Túi gió trăng ý muốn chỉ cảnh có gió mát trăng thanh, dùng để nói về cảnh thanh nhàn thơ thới.
Túi gió trăng thinh thinh rộng mở,
Vui hạc cầm hay dở thú riêng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Túi: Cái bao dùng để đựng đồ vật. Tham: Ham muốn quá mức và không chính đáng.
Túi tham, do câu tục ngữ “Túi tham không đáy”, dùng để chỉ lòng tham vô hạn.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Lợi dụng địa vị hoành hành thiên hạ, bóc lột nhân sanh, khoát nạt trước đám dân đen, cúi rạp mình trước người thượng cấp, lấy nhục làm vinh, lấy xấu làm tốt, miễn lo cho đầy túi tham, không cần nghĩ tới hậu quả việc làm đen tối của mình.
Khác nào như hạn trông mưa,
Hồng ân bao thuở đổ thừa túi tham.
(Bát Nương Giáng Bút).
Túi tham tính chứa cho tràn,
Không phân Địa ngục, Thiên đàng là đâu.
(Thơ Thuần Đức).
Tủi là tự cảm thấy thương xót và buồn cho mình. Như: Tủi thân, tủi phận, buồn tủi.
Thánh giáo Thầy có câu: Ðặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi chớ vội buồn, vì sự mừng vui và buồn tủi thường pha lẫn kế cận nhau.
Thấy nhau thêm tủi đường ly biệt,
Đá nát xương tan nghĩa vẫn còn.
(Thất Nương Giáng Bút).
Ngẩn bút hoà thi tủi phận ai,
Trời xanh vội lấp nữ anh tài.
(Thơ Hộ Pháp).
Một giải đồng tâm bao thuở nối,
Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai.
(Thơ Huệ Giác).
Tủi: Tự cảm thấy thương xót và buồn cho mình. Phận: Số phận.
Tủi phận là buồn, thương cho số phận của mình. Như: Thương thân tủi phận.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp Ngài có nói: Chúng ta đã hiểu rõ rằng: Cuộc thế này nó ở trong khuôn luật tiến triển buộc vạn vật và các đẳng linh hồn phải tiến triển mãi thôi, cơ thể tiến triển của nó muôn hình ngàn tướng đạo pháp vô biên, chúng ta chẳng vì lẽ ấy, vì lẽ cơ thể tiến triển của nhơn loại hay là các xã hội nơi mặt địa cầu này mà tủi phận.
Ngẩn bút hoà thi tủi phận ai,
Trời xanh vội lấp nữ anh tài.
(Thơ Hộ Pháp).
Tủi phận hờn duyên, duyên chích mát,
Canh thâu hồn mộng dõi theo chàng.
(Thơ Thuần Đức).
Tủi: Tự cảm thấy thương xót và buồn cho mình. Thầm: Lén, không lộ ra ngoài, trong bóng tối.
Tủi thầm là trong lòng tự cảm thấy tủi, tức tủi thân một cách âm thầm.
Như: Chị ấy tủi thầm chứ không thố lộ cho ai biết.
Ðờn hay vì có kẻ tri âm,
Dựa bệ không ai cũng tủi thầm.
(Đạo Sử).
Làm vinh nghĩ chẳng thẹn non sông,
Chín suối ông cha nhẫng tủi thầm.
(Đạo Sử).
Tụi là một từ ngữ Nôm Nam Bộ, có nghĩa là chùm, lọn, tức là tập hợp những sợi (dây, tóc) được cột lại cho gọn và đẹp đẽ hơn.
Thí dụ: Tụi hoa, mái đầu con bé ấy có cột hai tụi tóc hai bên trông thật là thơ ngây.
Mặc áo tràng trắng, đầu đội Nhứt Nguyệt Mạo, lưng buộc đường lụa trắng đánh ba tao, dưới có hai tụi trắng, chơn mang giày trắng.
(Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài).
Tụi: Chùm, lọn, tức là tập hợp những sợi (dây, vải, tóc) được cột lại cho gọn và đẹp đẽ hơn. Hoa: Bông hoa.
Tụi hoa là những chùm hoa, lọn hoa kết lại để trang trí cho đẹp đẽ.
Như: Trần nhà treo những tụi hoa thòng xuống với ánh đèn màu rực rỡ.
Tụi hoa kết nẻo hoàng thành,
Phận hèn dầu có mỏng mành cũng vâng.
(Phù Kiều Hận Sử).
雖
Tuy là dẫu. Như: Tuy mệt nhưng vui, tuy không thích nhưng vẫn làm hết mình, tuy không ngon vẫn ăn no.
Thánh giáo Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ðạo tuy gần thành, nhưng còn phải chịu nhiều việc trắc trở nữa. Ấy là lúc các đạo hữu gặp một trường thi rất khó trong buổi rốt.
Tuy xa cách mặt lòng không cách,
Buồn dở thơ hoà đọc lại ngâm.
(Lục Nương Giáng Bút).
Chầy ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,
Mà tấm lòng kia vẫn luống gần.
(Thất Nương Giáng Bút).
Chồng tuy chúa vợ là tôi đã phải,
Muốn tôi hiền thì chúa dạy mới nên.
(Phương Tu Đại Đạo).
雖 云
Tuy: Dù cho, dẫu. Vân: Rằng.
Tuy vân là tuy rằng tuy vậy, dù rằng.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Tuy vân Đức Chí Tôn đến kêu người phải về cùng Thầy mà sự thật ra tâm Đạo của chị từ bé tới lớn chỉ theo chơn Đức Phật Thích Ca mà thôi, nếu xét đoán ra đã biết Đạo thì sự ấy không chi là lạ.
Ôi! Tuy vân, hồng ân của Ðại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đoạ hằng hà...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
醉 夢
Tuý: Uống rượu say. Mộng: Chiêm bao.
Tuý mộng là giấc mộng say, tức ngủ say trong giấc chiêm bao.
Tuý mộng còn có nghĩa là “Tuý sinh mộng tử 醉 生 夢 死”, nghĩa là sống ở trong cuộc say, chết ở trong giấc chiêm bao, ý nói một người hoàn toàn không tư tưởng, xác thịt sống mà tinh thần chết.
Giấc phong nguyệt xem bằng tuý mộng,
Vợ cùng hầu so sống đồng thương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ca hay quên hẳn giọng đờn,
Một đêm tuý mộng sánh hơn gặp vàng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
醉 山 雲 夢
Tuý Sơn Vân Mộng là tên một bài phú của một Đấng Thiêng Liêng không đề danh (Vị tường danh thị 未 詳 名 氏) giáng cơ ban cho vào khoảng năm 1930.
Có thuyết cho rằng “Tuý Sơn Vân Mộng” là bài phú của thi hào Nguyễn Du giáng cơ.
Nội dung bài phú kể lại của một vị quan có vợ chết được năm năm, cùng với đứa tiểu đồng vào tiết trung thu tháng tám, năm Long Đức thứ tư, thả thuyền tới chùa Non Nước dạo chơi.
Thấy cảnh non xanh nước biếc, khiến lòng chàng bâng khuâng, mượn rượu để giải khuây, rồi ngủ quên dưới mái hiên chùa, liền mộng thấy người vợ trở về thăm và kể lể nỗi niềm, rồi lạy từ tạ để trở về Tiên cảnh.
Tóm lại, “Tuý Sơn Vân Mộng” là một bài phú kể lại nỗi niềm thương nhớ của người chồng đối với vợ hiền đã chết, mong cùng gặp lại nhau trong giấc chiêm bao.
Âm dương đôi nẻo chia phân,
Tuý Sơn Vân Mộng mới gần đặng nhau.
(Kinh Thế Đạo).
1.- Tuỳ 隨 là theo, tức dựa vào cái có thể thay đổi nào đó mà làm sao cho phù hợp.
Như: Tuỳ túi tiền mà mua sắm đồ đạc.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Chư nhu cũng tuỳ đó mà sửa bước. Nhơn sanh phải thiện tâm và hết lòng vì đạo đức mới đặng Thần, Thánh chứng minh, mới có thấy ngày kết quả đặng.
Vàng chìm đáy biển nghĩ khôn tầm,
Biết phận tuỳ thời chốn gửi thân.
(Đạo Sử).
An bần dưỡng tánh tuỳ duyên phận,
Hơn kém thế tình nghĩ chẳng sao.
(Thơ Cao Quyền Diêu).
2.- Tuỳ 隋 là một triều đại bên Trung Quốc về đời Lục Triều, trước nhà Đường.
Như: Triều đại nhà Tuỳ, vua Tuỳ Dương Đế.
Võ Tắc Thiên hoang dâm thái thậm, Tuỳ Dương Ðế lỗi đạo muôn phần...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
隨 機
Tuỳ: Theo, thuận theo. Cơ: Dịp, lúc.
Tuỳ cơ là tuỳ theo cơ hội, tức tuỳ lúc, tuỳ thời. Như: Tuỳ cơ ứng biến.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Lời đạo đức trong miệng con nói ra, ấy là lời Thầy bố hoá tâm trí con đặng đi truyền đạo, tuỳ cơ mà dạy kẻ, một mình con đâu đủ sức phục người.
Xem: Tuỳ cơ ứng biến.
Cửu Trùng cứu thế phò chơn Đạo,
Phước Thiện tuỳ cơ tế độ Đời.
(Thơ Thượng Sanh).
Trường đình rẽ bước trong đoanh bóng,
Chiến địa tuỳ cơ kế vận trù.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
隨 機 應 變
Tuỳ cơ: Tuỳ theo cơ hội, tức tuỳ lúc, tuỳ thời. Ứng biến: Ứng phó linh hoạt vớt những điều bất ngờ.
Tuỳ cơ ứng biến là xem xét sự tình mà đối phó.
Trong Đàn cơ tại Cung Đạo Đền Thánh, đêm 25 tháng 6 năm Nhâm Tý (Dl. 4-8-1972), Thượng Sanh có hỏi Đức Hộ Pháp rằng: Số đất ngoài sân bay, Đức Ngài định cho người hữu công với Đạo mỗi người một mẫu, nay chánh quyền định lấy lại cấp phát theo Luật Người Cày có ruộng. Xin Đức Ngài dạy phải làm thế nào? – Hội Thánh tuỳ cơ ứng biến.
Nếu muốn lập công nơi đó, vì Thầy đã dạy, thì nên làm đi. Cách xây đổi phương lược tuỳ cơ ứng biến.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
隨 緣
Tuỳ: Theo, thuận theo. Duyên: Cơ duyên.
Tuỳ duyên là thuận theo cơ duyên mà không miễn cưỡng, tức là tuỳ theo hoàn cảnh địa phương, thời đại, con người, nơi chốn mà hành động thích nghi.
Trong Sách Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Những hột giống nói đây chẳng phải vật chất như hột đậu, hột dưa, mà thật là một sức mạnh vô hình, có nhiều năng lực khác nhau, để rồi tuỳ duyên chuyển hoá các pháp: Nhập thế và Xuất thế.
Lớn thế tuỳ người là lớn chức,
Mình là phần khó khá tuỳ duyên.
(Đạo Sử).
Thủ phận tuỳ duyên đặng thấy đời,
Khoa kỳ rộng mở khắp nơi nơi.
(Thủ Khoa Huân Giáng).
隨 緣 隨 分
Tuỳ duyên: Tuỳ theo cái duyên số. Tuỳ phận: Yên theo số phận.
Tuỳ duyên tuỳ phận là tuỳ theo duyên số mỗi người mà yên theo số phận.
Như: Tuỳ duyên tuỳ phận mà đối xử cùng người.
Tuỳ duyên tuỳ phận đãi cùng đời,
Ðừng rán tranh giành phải mỏn hơi.
(Đạo Sử).
隋 煬 帝
Tuỳ Dương Đế hay “Tuỳ Dượng Đế”, là con của Dương Kiên, Thái Tổ nhà Tuỳ. Dượng Đế thuốc cha để đoạt ngôi, lại còn giết luôn hai em cho dứt hậu hoạn.
Trong thời gian trị vì, ông bắt đào con kinh nối liền sông Hoàng Hà với Dương Tử Giang, và theo dấu Tần Thuỷ Hoàng cho xây dựng đền đài nguy nga. Sau vì hoang dâm quá độ nên chết trước khi bị soán ngôi.
Võ Tắc Thiên hoang dâm thái thậm, Tuỳ Dương Ðế lỗi đạo muôn phần...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
隨 喜
Tuỳ: Theo, thuận theo. Hỷ: Vui.
Tuỳ hỷ là vui theo.
Thấy người có điều gì tốt lành, vui vẻ hay hạnh phúc, chúng ta hoan hỷ phát tâm vui mừng như chính mình được và cố công giúp họ được toàn vẹn.
Thấy người khác làm điều phước thiện, chúng ta sẵn sàng hân hoan vào trợ giúp để vui cái vui của người, mừng cái tốt của người gọi là tuỳ hỷ công đức.
Tuỳ hỷ còn có nghĩa là tuỳ lòng hảo tâm của mình mà đóng góp, hỷ hiến hay giúp đỡ một việc gì đó.
Một người trong đạo gặp tai nạn thình lình thì bổn đạo trong Họ hãy tuỳ hỷ chung nhau tư trợ cho qua lúc ngặt nghèo.
(Tân Luật).
隨 宜
Tuỳ: Dựa theo cái có thể thay đổi nào đó mà làm sao cho phù hợp. Nghi: Thích đáng, nên.
Tuỳ nghi là theo thế nào tiện lợi thì làm, tức tuỳ theo hoàn cảnh, làm thế nào cho thích hợp.
Như: Anh hãy tuỳ nghi mà làm cho được kết quả.
Chánh tà phân biệt chia đôi nẻo,
Lành dữ tuỳ nghi chọn một đường.
(Thơ Thông Quang).
Tuỳ phận: Yên theo số phận. Tuỳ duơn (duyên): Tuỳ theo cái duyên số.
Tuỳ phận tuỳ dươn, như chữ “Tuỳ phận tuỳ duyên 隨 分 隨 緣”, là tuỳ theo số phận của mình và tuỳ theo cái duyên phần của mình.
Xem: Tuỳ duyên tuỳ phận.
Người bổn đạo ăn mặc phải cần kiệm, tuỳ phận tuỳ duơn; cũng nên dùng đồ vải bô và giảm bớt hàng lụa.
(Tân Luật).
隨 便
Tuỳ: Theo, thuận theo. Tiện: Thuận tiện.
Tuỳ tiện là tiện đâu làm đó, không có nguyên tắc nào cả. Như: Phát ngôn tuỳ tiện, sử dụng tuỳ tiện.
Tuỳ tiện còn có nghĩa là theo sự thuận tiện mà làm. Như: Cứ tuỳ tiện mà giải quyết công viện.
Ăn mặc thường, phải dùng toàn vải trắng hoặc màu theo phái mình, song phải tuỳ tiện, chẳng nên xa xỉ.
(Tân Luật).
隨 從
Tuỳ: Theo, thuận theo. Tùng (tòng): Theo.
Tuỳ tùng là đi theo, hoặc chỉ người đi theo để phụ giúp việc. Như: Nó là nhân viên tuỳ tùng.
Nói về tiểu sử Quan Thánh, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Rồi đó Ðức Ngài gom góp những vàng bạc, gấm lụa của Tào Tháo ban cho Ðức Ngài từ thử phong niêm kỹ lưỡng để lại, 12 mỹ nữ cũng để ở lại, đoạn Ðức Ngài treo Ấn Hớn Thọ Ðình Hầu trên trính nhà, thỉnh nhị tẩu lên xe, Ðức Ngài chỉ cởi ngựa xích thố, cầm Thanh Long Ðao, đốc xuất quân tuỳ tùng cũ ngày trước đẩy xe ra khỏi thành.
Lợi danh khá để lòng sắp đặt,
Trên thuận hoà ắt dưới tuỳ tùng,
(Ngọc Hoàng Thương Đế).
隨 身
Tuỳ: Theo, thuận theo. Thân: Thân mình.
Tuỳ thân là nói những gì thường được đem theo bên mình. Như: Giấy tờ tuỳ thân, đồ đạc tuỳ thân.
Trong Minh Tâm Bửu Giám, ông Bàng Đức Công răn dạy con có câu: Phàm nhân bá nghệ hảo tuỳ thân 凡 人 百 藝 好 隨 身, nghĩa là phàm làm người phải đem theo mình một trong các nghề nghiệp.
Ðức tánh tàng thơ vô vị bần,
Lộ hành an bộ Ðạo tuỳ thân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
隨 時
Tuỳ: Theo, thuận theo. Thời: Thuở, lúc.
Tuỳ thời là hợp theo thời.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bây giờ còn thuyết đạo đức có hơi khác hơn hai thuyết kia, Bần Ðạo tưởng không cần để của cho nhiều mà làm giàu, vì nghĩa lý của Ðạo, mình biết khổ với nhau, biết thiếu thốn cùng nhau, hoạn nạn có nhau, mình biết tuỳ thế tuỳ thời, dầu không có của mà gìn luật thương yêu, bảo vệ nhau tuy nghèo mà nó còn giữ gìn đặng cho nhau.
Chi nên an mạng gắng tuỳ thời,
Chẳng cánh buồm trương rán sức hơi.
(Đạo Sử).
Vàng chìm đáy biển nghĩ khôn tầm,
Biết phận tuỳ thời chốn gửi thân.
(Đạo Sử).
Khuyên bền lòng tùng thế tuỳ thời,
Phải quyền biến với đời gầy sự nghiệp.
(Phương Tu Đại Đạo).
宣
Tuyên là làm cho rõ rệt, đọc lớn lên.
Như: Tuyên bố, toà tuyên án năm năm tù, tổng thống tuyên cáo với quốc dân.
Trong bài “Ngọc Hoàng Kinh” có câu: “Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hoá” có nghĩa là (Trời đất) không nói năng gì hết chỉ yên lặng mà bốn mùa vẫn vận chuyển, vạn vật vẫn sinh hoá.
Nhược thiệt nhược hư,
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hoá.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
宣 布
Tuyên: Làm cho rõ rệt. Bố: Bày, truyền rộng ra.
Tuyên bố là trịnh trọng và chính thức nói rõ cho mọi người biết. Như: Tuyên bố khai mạc đại hội.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Hẹn cùng nhau hội hiệp trong ngày tái ngộ, Hội thánh chỉ ước mong quý vị vững bước trên đường tu tập, giồi trau đức tính hầu trở nên những Chức Sắc ưu tú trong cửa Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Ðến đây tôi xin long trọng tuyên bố bế mạc Hội Nhơn Sanh năm Ðinh Mùi.
Muốn rõ tàng những cuộc tương lai,
Xem hình thể Ðạo Cao Ðài tuyên bố đó.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
宣 揚
Tuyên: Nói rõ ra, đọc lớn lên cho mọi người nghe. Dương: Nêu lên, đưa lên.
Tuyên dương là đọc lên và biểu dương cho mọi người cùng biết.
Như: Tuyên dương công nghiệp, được tuyên dương trước đại hội nhiều tỉnh thành.
Hôm nay là ngày Hội Quốc Liên, là ngày kỷ niệm tuyên dương của Hội Nhơn quyền.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
宣 揚 功 狀
Hay “Tuyên dương công nghiệp”.
Tuyên dương: Đọc lên và biểu dương cho mọi người cùng biết. Công trạng: Đồng nghĩa với chữ Công nghiệp, là công lao và sự nghiệp, tức có công lao lớn với tôn giáo và tín đồ.
Tuyên dương công trạng, cũng như Tuyên dương công nghiệp là một bản văn đọc cho mọi người biết, nhằm khen ngợi công lao và sự nghiệp của người mất đối với tôn giáo và nhơn sanh.
Trong bản Tuyên dương công nghiệp của Đức Thượng Sanh do Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức đọc tại Đền Thánh có đoạn như sau: Nhơn cuộc lễ nầy tôi xin tuyên dương công nghiệp của Ðức Ngài về cả hai phương diện Ðạo lẫn Ðời.
Diễn văn Tuyên dương công trạng của vị triều Thiên.
(Quan Hôn Tang Lễ).
宣 言
Tuyên: Bày tỏ cho mọi người biết. Ngôn: Lời nói.
Tuyên ngôn là lời bày tỏ cùng công chúng, văn kiện để phát biểu ý kiến chánh trị của mình.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Chúng ta chán biết rằng do nơi luật định của chúng ta, chúng ta không ỷ lại nơi ai hết. Lời tuyên ngôn của Pháp thường hay nói “Aide toi, le ciel t'aidera” mình phải cố gắng trước rồi Đức Chí Tôn sẽ giúp mình.
Ấy là lời tuyên ngôn của Lão đã hứa quyết.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
泉 臺
Tuyền: Suối. Đài: Lâu đài.
Tuyền đài, do hai từ “Huỳnh tuyền 黃 泉” và “Dạ đài 夜 臺”, chỉ cõi Âm phủ, ghép lại với nhau, tất cả đều dùng để chỉ cõi Âm phủ.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
(Đạo Sử).
Đếm ba vạn sáu ngàn ngày,
Cõi dương gian với cõi tuyền đài gần nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Một khối tuyền đài tình khó dứt,
Ráp gương kiếp khác quyết chờ thôi.
(Thất Nương Giáng Bút).
選
Tuyển là lựa, chọn lấy một số theo yêu cầu, trong một số đông, số nhiều cùng loại.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp nó về “Tha tín” có đoạn: Là ta biết quang tiền vũ hậu, ta tin nơi ông Thầy dạy ta học các bài vở để lập thân cho nên người cao quí, lại có nhiều người trong xã hội chẳng phải họ cố ý dạy ta học, nhưng cái sở hành của họ, mọi điều phải trái lành dữ tội phước, thì nó thường hiện ra trước mặt ta, đó là một bài học, nên chú ý, rồi ta mới gồm tất cả mọi sự hành vi của người đời, ta sẽ lập lại làm quyển sách thứ nhì nữa, ta mới cân phân, lừa lọc, tuyển chọn điều hay lẽ phải, ta đem để lên Linh Ðài (tức là khối óc của ta) đặng làm phương pháp bảo vệ trường tồn tánh mạng của ta ấy là Tha tín.
Tiền trình Thầy dạy các con tường,
Ðợi hạ sang năm mới tuyển lương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Biến chuyển càn khôn Đạo mới thành,
Giáng linh Hộ Pháp tuyển Lương sanh.
(Thơ Huệ Phong).
選 舉
Tuyển: Lựa chọn. Cử: Cất lên.
Tuyển cử là bầu cử, tức là lựa chọn người tài đức để cử lên làm đại biểu cho mình.
Như: Tuyển cử đại biểu Quốc hội, Họp để tuyển cử nghị viên về Đại Hội Nhơn Sanh.
Cứ năm trăm đạo hữu trường trai đặng quyền tuyển cử lên một phái viên thay mặt.
(Đạo Luật Mậu Dần).
Tuyển đức: Tuyển chọn người đạo đức. Lọc tài: Chọn lọc người tài ba.
Tuyển đức lọc tài là lựa chọn những người có đạo đức và tài năng.
Như: Đức Chí Tôn khai nền Đại Đạo là mở trường thi công quả để tuyển đức lọc tài.
Hầu tìm phương tuyển đức lọc tài cho nên người ra cầm quyền mối đạo.
(Đạo Luật Mậu Dần).
選 賢
Tuyển: Chọn lựa, kén chọn. Hiền: Hiền lương đạo đức, bậc Hiền tài.
Tuyển hiền là kén chọn người hiền lương đạo đức. Tuyển hiền còn dùng để chỉ tuyển bậc Hiền tài, tức chọn những tràng tài ba ra giúp nước.
Cao niên biết tuyển hiền đáng mặt,
Khỏi lầm mưu kẻ giặc phong tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tuyển Hiền: Tuyển chọn người hiền. Chọn Thánh: Chọn lựa bậc Thánh.
Theo giáo lý Cao Đài, Hội Long Hoa là một đại hội do Đức Di Lạc Vương Phật làm chủ khảo có nhiệm vụ tuyển chọn những bậc hiền lương, đạo đức, không phân biệt chủng tộc, nòi giống, hiệp nhau làm một trong cuối thời kỳ Hạ nguơn Tam chuyển để tạo dựng lại đời Thượng nguơn Tứ chuyển, tức Thượng nguơn Thánh đức.
Long Hoa hội tuyển hiền chọn Thánh,
Luật Thiên điều tồn chánh trừ gian.
(Long Hoa Hội).
選 封
Tuyển: Lựa chọn. Phong: Ban cho tước hiệu, hoặc chức tước.
Tuyển phong là chọn lựa người tài đức để phong chức tước. Trong Tôn Giáo, những bậc tu hành xứng đáng được chọn lựa để phong vào ngôi vị Tiên, Phật.
Xem: Tuyển phong Phật vị.
Giục tỉnh tà thần mưu phản loạn,
Tuyển phong Thánh thể hạng trung kiên.
(Thơ Huệ Phong).
選 封 佛 位
Tuyển phong: Chọn lựa để phong phẩm tước. Phật vị: Ngôi vị Phật.
Tuyển phong Phật vị là tuyển lựa người hiền đức để phong vào hàng Tiên, Phật vị.
Theo Giáo Lý Cao Đài, đời mạt Pháp sẽ có cuộc Đại Hội Long Hoa do Đức Di Lạc Vương Phật làm vị Chủ khảo, tuyển chọn những bậc đầy đủ công nghiệp để phong vào hàng Tiên, Phật, còn những người hiền đức, thánh thiện thì lập đời Thượng nguơn Thánh đức.
Xem: Tuyển Hiền chọn Thánh.
Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị,
Cõi Tây Phang đuổi quỷ trừ ma.
(Kinh Tận Độ).
Hội đồng các bậc lương sanh,
Tuyển phong Phật vị lập thành vạn linh.
(Long Hoa Hội).
選 升
Tuyển: Lựa chọn. Thăng: Lên, siêu thăng.
Tuyển thăng là lựa chọn Chơn linh đầy đủ công đức để được siêu thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Thiên môn mở rộng nguyên nhân đến,
Đài nội tuyển thăng thánh đức lên.
(Hộ Pháp Giáng Cơ).
Hành tàng trong cuộc tuần huờn,
Tuyển thăng định vị thế nhơn phải tùng.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
雪
Tuyết là chất nước do mây lạnh dưới không độ đọng lại mà rơi xuống, có màu sắc trắng tinh. Như: Trời mưa tuyết, trắng như tuyết, tuyết sạch giá trong.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Sau đó thay thế mạng sống con người, nhơn loại lại dâng Tam sanh tức nhiên bò, trâu, heo và sau nữa bên Âu Châu theo Đạo Do Thái thì dâng cho Đức Chí Tôn một con chiên trắng, con chiên ấy phải trắng như tuyết mà thôi.
Mai tàn tuyết xủ đời thay đổi,
Dữ tận hiền thăng khách lọc lừa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mai đeo tuyết ngọc biết bao lần,
Tuyết vẽ mày mai thắm thía xuân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tuyết: Chất do mây lạnh dưới không độ đọng lại. Giá: Băng giá, lạnh buốt.
1.- Tuyết giá là tuyết và băng giá, vật do lạnh đông đặc lại, khi gặp nóng liền tan thành nước, chỉ sự tiêu tan.
Như: Tu hành mà còn làm việc dữ thì công đức sẽ tiêu tan thành tuyết giá.
Tội chàng trước tiêu dường tuyết giá,
Còn thiếp mang trọn cả lỗi chàng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tuyết giá, do chữ “Băng tuyết 冰 雪”, dùng để nói gìn giữ trinh tiết trong trắng như băng giá.
Tuyết giá, như chữ “Tuyết sạch giá trong”, chỉ lòng trong sạch của người vợ đối với chồng, sạch như tuyết, trong như giá.
Xem: Băng tuyết.
Nêu gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.
(Nữ Trung Tùng Phận).
雪 玉
Tuyết: Băng giá. Ngọc: Ngọc ngà, châu ngọc.
Tuyết ngọc, bởi chữ “Băng thanh ngọc khiết 冰 清 玉 潔” tức là sạch như tuyết, trong như ngọc.
Tuyết ngọc dùng để chỉ lòng trinh trắng, trong sạch của người đàn bà đối với chồng.
Hễ thiệt thương ắt gặp người thương,
Khi giao mặt kỉnh nhường câu tuyết ngọc.
(Phương Tu Đại Đạo).
Một cảnh một tình xưa chẳng chịu,
Mang câu tuyết ngọc ít người ưa.
(Đạo Sử).
雪 霜
Tuyết: Tuyết giá. Sương: Hơi nước từng giọt đọng lại trên lá cây ngọn cỏ.
Tuyết sương là tuyết giá và hơi sương, ý chỉ sự gian nan khổ cực.
Tuyết sương còn dùng để chỉ thời gian qua đi.
Tuyết sương bủa giá đâu nài,
Vì đâu sanh chúng ra ngoài phòng khuê.
(Bát Nương Giáng Bút).
Đất vàng đã sạm cùng mưa nắng,
Mệnh bạc cam vùi dưới tuyết sương.
(Thơ Hàn Sinh).
絕
Tuyệt là cắt đứt, dứt hết, có một không hai. Như: Loài chim nầy sắp bị tuyệt giống.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Cái hệ trọng là nếu không có Hiệp Thiên Đài thì không có Đạo Trời Đất qua chớ Đạo không qua, nhơn loại tuyệt chớ Hiệp Thiên Đài không tuyệt.
Biển đổi, non dời, đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ngần ngại từ đây hết hỏi đon,
Thân mình dầu tuyệt Ðạo không mòn.
(Đạo Sử).
絕 筆
Tuyệt: Dứt, hết. Bút: Viết.
Tuyệt bút là văn hoặc thi được viết ra lúc cuối cùng trước khi chết.
Như: Bài thi tuyệt bút của Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân.
Tuyệt bút còn có nghĩa là ngọn bút pháp tuyệt diệu, ý nói thi văn hay tuyệt.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thưởng thức một bài đờn hay như nghe một bài thi sắc sảo, một câu đờn tao nhã có điêu luyện như một câu thi tuyệt bút có mãnh lực gợi cảm làm cho xúc động tâm hồn.
Tài Thanh Sơn, trí Thanh Sơn,
Câu văn tuyệt bút vẻ nên hờn.
(Thất Nương Giáng Bút).
絕 穀
Tuyệt: Cắt đứt, dứt hết. Cốc: Lúa, thóc.
Tuyệt cốc là không ăn lúa thóc, ý muốn nói chẳng ăn loài ngũ cốc.
Tuyệt cốc có hai nghĩa: Tuyệt cốc không ăn loại ngũ cốc, nhưng ăn những thứ khác để sống.
Tuyệt cốc còn có nghĩa là bỏ ăn cơm để hy sinh về việc gì, mục đích gì.
Tuyệt cốc hy sinh báo quốc cừu,
Tế nguy tam tỉnh huỷ danh lưu.
(Phan Thanh Giản Giáng).
絕 妙
Tuyệt: Hết sức. Diệu: Tốt, hay, mầu nhiệm.
1.- Tuyệt diệu là hết sức hay, hết sức tốt.
Như: Một áng văn tuyệt diệu, một phương pháp tuyệt diệu, trí nhớ tuyệt diệu.
Chấp cơ mà mê Chơn thần xuất trọn khỏi phách, tiếp được rõ ràng tư tưởng của Thần Tiên, nên diễn ra nhiều thi phú văn chương tuyệt diệu...
(Thiên Đạo).
2.- Tuyệt diệu còn có nghĩa là mầu nhiệm.
Đại Thừa Chơn Giáo có đoạn viết: Ðiểm linh tánh Trời ban cho mỗi người là cái lý tuyệt diệu cao siêu, nhập vào mảnh thân phàm là “hồn hiệp xác”.
Trời là Lý vô vi tuyệt diệu,
Tức là thần phản chiếu Càn Khôn.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
絕 頂
Tuyệt: Hết sức. Đỉnh: Chỗ cao nhất.
Tuyệt đỉnh là điểm cao nhất, mức cao nhất, chẳng nơi đâu cao hơn được.
Như: Thông minh tuyệt đỉnh, hạnh phúc đạt đến tuyệt đỉnh, tuyệt đỉnh vinh quang.
Thời niên thiếu thông minh tuyệt đỉnh,
Tuổi học trò bạn kính thầy thương.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
絕 對
Tuyệt: Có một không hai. Đối: Đáp lại, ứng với.
Phàm hai cái đối nhau mà có quan hệ so sánh thì gọi là “Tương đối”, nếu chỉ có một cái không có quan hệ so sánh thì gọi là “Tuyệt đối”.
Tuyệt đối là:
1. Hoàn toàn, không có một sự hạn chế hay một trường hợp ngoại lệ nào cả. Như: Tuyệt đối giữ bí mật.
2. Không phụ thuộc vào hoàn cảnh, vào quan hệ với cái khác nào cả, trái với tương đối. Như: Đa số tuyệt đối.
Ðó là chí hy sinh tuyệt đối của con cái Ðức Chí Tôn đối với cơ nghiệp Ðạo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Tuyệt giống: Đứt mất nòi giống. Dứt nòi: Dứt hẳn giống nòi.
Tuyệt giống dứt nòi tức là dứt tuyệt nòi giống.
Tuyệt giống dứt nòi, đồng nghĩa với chữ “Tuyệt chủng 絕 種”, tức là làm cho nòi giống bị tuyệt dứt.
Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
(Kinh Sám Hối).
絕 類
Tuyệt: Bị dứt hết, không có sự tiếp nối hay tiếp tục. Loài: Do chữ “Loại” là giống.
Tuyệt loài là làm tuyệt hẳn nòi giống. Tuyệt loài đồng nghĩa với chữ “Tuyệt chủng 絕 種”.
Như: Nhiều loại thú rừng quý hiếm bị săn bắt mãi nên đã tuyệt loài.
Phạt răn quến gái, dụ trai,
Bày ra thuốc độc, phá thai tuyệt loài.
(Kinh Sám Hối).
絕 輪
Tuyệt: Bị dứt hết, không có sự tiếp nối hay tiếp tục. Luân: Tức luân hồi.
Tuyệt luân là dứt hẳn luân hồi, có nghĩa là tu hành đắc quả, được về cõi Thiêng Liêng, không còn luân hồi sinh tử nữa.
Chúng sanh sở dĩ mãi chịu trôi nổi trong biển khổ luân hồi, không bao giờ dừng nghỉ, là do bởi nghiệp lực. Nghiệp lực là động cơ lôi kéo con người chìm đắm vào con đường xoay chuyển của vòng sanh tử. Muốn dứt luân hồi phải đoạt cơ thoát tục, nghĩa là tìm nguyên nhân để giải thoát những quả nghiệp sâu nặng. Như trên ta biết, chúng sanh do bởi vô minh che mất chân tánh, bị dục vọng phiền não sai khiến, tạo ra muôn ngàn ác nghiệp, vì đó mà phải luân hồi. Cơ giải thoát là trí huệ sáng suốt, tức là giác ngộ, để dứt trừ mê lầm, vô minh, phiền não, và khổ đau trói buộc. Nhờ có trí huệ chúng ta mới nhận thức việc tu và hành động đúng theo chơn pháp mà đắc Đạo.
Quê xưa trở, cõi đoạ từ,
Đoạt cơ thoát tục bấy chừ tuyệt luân.
(Kinh Tận Độ).
Nam Mô Tam Giáo diệu huyền,
Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.
(Kinh Tận Độ).
Hay “Tuyệt mệnh”.
Tuyệt: Cắt đứt, dứt hết. Mạng (mệnh): Cái mạng sống của con người.
Tuyệt mạng, như chữ “Tuyệt mệnh 絕 命”, là chấm dứt mạng sống, tức chỉ sự chết.
Như: Anh ấy chết đi có để lại bức thư tuyệt mạng.
Bất ngờ đi tới nơi, thì con cái của Người đã kề bên vực tuyệt mạng.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
絕 生
Tuyệt: Dứt, cắt đứt. Sinh: sinh ra.
Tuyệt sinh là dứt đường sinh ra, nói khác đi là chấm dứt con đường sinh tử.
Đường sinh tử do từ Hán Việt “Sinh tử lộ 生 死 路”, tức chỉ con đường luân hồi, nghĩa là sinh ra rồi chết, chết rồi lại chuyển kiếp để được sinh ra... Cứ thế mà tạo nên con đường sinh tử.
Tuyệt sinh là chấm dứt đường sinh tử luân hồi, tức là thoát tục vậy.
Đạo hư vô, Sư hư vô,
Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.
(Kinh Thế Đạo).
絕 嗣
Tuyệt: Bị dứt hết, không có sự tiếp nối hay tiếp tục. Tự 嗣: Nối dõi, chỉ con cháu nối dòng, nối dõi.
Tuyệt tự là không có con trai nối dõi theo quan niệm của người xưa.
Như: Ông ấy luôn làm việc thiện mà sao lại tuyệt tự.
Mặc dầu có mất chút ít mà có kế nghiệp đặng khỏi tuyệt tự, thì Bần Đạo dám chắc họ không hưởng được hạnh phúc nào bằng.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
絕 食
Tuyệt: Dứt, cắt đứt. Thực: Ăn.
Tuyệt thực là nhịn đói không chịu ăn.
Đây là một hình thức đấu tranh chánh trị, nhịn đói để phản đối hay đòi hỏi một điều gì, buộc cơ quan thẩm quyền phải giải quyết.
Tuyệt thực còn là phép dùng để trị bịnh. Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy dạy Ngài Cao Thượng Phẩm như sau: Thầy lại ngưng không cho nó hao mòn nữa, nên ngày nào tuyệt thực thì ngũ tạng lục phủ giữ nguyên mỡ thịt nó.
Khi Ngài đến Résu, luyện pháp tuyệt thực, có người theo Ngài, bốn người không phải theo làm môn đệ, mà theo đặng coi Phật có đạt pháp đặng chăng.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
絕 望
Tuyệt: Cắt đứt, mất hẳn. Vọng: Trông mong.
Tuyệt vọng là mất hết sự hy vọng.
Thuyết Đạo về Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp có dạy: Kiếp người hữu hình, đời người vô hình, xây nhau cả năm mười kiếp, thiên trùng đau đớn đáo để. Nếu biết con đường Thánh vào ở nơi đó, thì trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống là con đường Đạo hay là con đường giác ngộ mà thôi. Chúng ta dòm bên kia thấy họ đau khổ họ chỉ mong cái ước vọng của họ đoạt thành, nhưng tuyệt vọng!
Quá ước vọng trở thành tuyệt vọng,
Chờ đầu thai trông ngóng thiên cung.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
Tùm lum là tung tóe, bừa bãi, chỗ nào cũng có, nhiều nơi, nhiều phía. Như: Thằng bé liệng sách vở tùm lum khắp nhà.
Tùm lum còn có nghĩa là lung tung, lan rộng ra một cách lộn xộn, không giới hạn. Như: Ghẻ nổi tùm lum khắp cả mình mẩy.
Còn ông kia, ông bạn kia đổ quạo thật, đánh thôi mình mẩy sưng tùm lum túa lua, rồi đem vô nhà thương nằm.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Tung là đưa ra cùng một lúc khắp mọi hướng, mọi nơi. Như: Tung truyền đơn, tung tiền, tung lưới.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chúng ta chẳng nên quan niệm rằng hể có đồng tiền tung ra để mua những thức cần dùng cho kiếp sống là chúng ta đã xử xong ân nghĩa đối với đời.
Sớm vượt lên doi, chiều xuống vịnh,
Trưa tung chài lưới, tối câu thòng.
(Thơ Thông Quang).
2.- Tung còn có nghĩa là làm cho di chuyển mạnh và hướng lên cao.
Như: Tung quả cầu lên cao, chim bằng tung cánh.
Lợi danh ràng buộc lắm người mong,
Chi bẳng tung bay nhẹ cánh hồng.
(Thơ Thông Quang).
縱 橫
Tung: Đường dọc. Hoành: Đường ngang.
Tung hoành là ngang dọc, tức những người xông pha, ngang dọc khắp nơi, không ai cản trở.
Tung hoành, nghĩa bóng nói người có chí khí lớn, không chịu bị trói buộc. Như: Mặc sức tung hoành.
Bốn biển tung hoành cho toại chí,
Đừng quên ngảnh lại cõi trời Đông.
(Thơ Vạn Năng).
Tung: Làm cho rời ra thành nhiều mảnh và bật đi theo mọi hướng. Nổ: Bật vỡ ra đột ngột và mạnh mẽ, bắn tung các mảnh và phát ra tiếng động lớn.
Tung nổ, như chữ “Nổ tung”, là vỡ, phát ra mạnh khắp mọi hướng.
Như: Pháo tết tung nổ khắp mọi nơi, chiến tranh bắt đầu tung nổ.
Bom nguyên tử đến hồi tung nổ,
Biến cảnh trần như chỗ hoang vu.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
Túng là nghèo ngặt, ở vào tình trạng thiếu thốn tiền bạc, gặp khó khăn trong sinh hoạt vật chất hằng ngày. Như: Túng tiền, túng thế.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Duy có hạng người có ý niệm nông nổi cho rằng ngày Tết thì phải ăn xài phủ phê, mặc dù không dư dả hoặc nghèo túng quanh năm, cũng học đòi theo nhà sẳn của, cũng sắm ăn sắm mặc lòe loẹt bề ngoài.
Trời cao chưa phỉ tình mây bạc,
Ðất túng càng khinh chốn chậu lồng.
(Thơ Thuần Đức).
Túng: Không có tiền bạc. Cùng: Hết còn gì nữa.
Túng cùng vì nghèo nàn nên thiếu thốn về vật chất hay tiền bạc.
Túng cùng còn có nghĩa là túng thế, ở vào tình trạng rất khó khăn, không còn có sự lựa chọn nào khác được.
Túng cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.
(Kinh Sám Hối).
Túng: Ở vào hoàn cảnh thiếu thốn tiền bạc, gặp khó khăn trong sinh hoạt vật chất hằng ngày. Ngặt: Khó khăn đến mức không có lối thoát.
Túng ngặt là túng bấn, tức túng quá đến mức không còn biết phải giải quyết ra sao.
Nỗi đói cơm khát nước đứng chờ,
Chẳng thấy kẻ cậy nhờ cơn túng ngặt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Túng: Ở vào hoàn cảnh thiếu thốn tiền bạc, gặp khó khăn trong sinh hoạt vật chất hằng ngày.
1.- Túng tíu là cùng quẫn tới mức không còn biết xoay xở, giải quyết ra sao, như bị thắt chặt lại.
Dầu gặp cơn lạt mắm tèm hem,
Phải biết chước biến quyền khi túng tíu.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Túng tíu còn có nghĩa là bị gò bó trong một khuôn khổ chật hẹp túng ngặt, không được thảnh thơi.
Bụng trống thảnh thơi con hạc nội,
Lúa đầy túng tíu phận gà lồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Buộc ràng túng tíu cõi Nam Châu,
Trị loạn vần xây cuộc bể dâu.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
1.- Tùng 從, hay “Tòng”, là theo, phụ. Như: Tùng phục, tam tùng, tùng theo đời.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Chư hiền hữu đừng tưởng lầm rằng vì Ðạo chinh nghiêng mà buộc Lão tùng đời.
Dò đường Thánh khó khăn chẳng nại,
Tùng khuôn Hồng nhỏ dại lớn khôn.
(Kinh Thế Đạo).
Thanh thế con người toan cải ác,
Tùng theo nhơn cách đặng phong Thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tùng 松, hay “Tòng”, là cây thông. Như: Sống hiên ngang tợ cây tùng (tòng) cây bá.
Thánh giáo Thầy có câu: Vậy gắng khổ tâm giữ lòng đạo đức mà vẽ bước cho đời sau, lập công quả đặng chờ ngày chung cuộc, phủi nợ trần ai, đem tấm lòng thiện niệm đến Tam Giáo Ðài mà phục hồi cảnh cũ, rừng vắng non nhàn, suối chảy tùng đưa, lánh chốn đoạ đày đã bấy lâu ràng buộc.
Hồn về nước cũ đời nương thế,
Hạc lại tùng xưa đức lập quyền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chích cánh riêng vui con hạc lánh,
Ngừa thuyền còn đợi nhánh tùng rơi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
松 柏
Tùng (tòng): Cây thông. Bách (bá): Cây bá hay bách, một loại với cây thông.
Tùng bách hay “Tòng bá”, là hai loại cây to lớn, chịu đựng được với sương tuyết lạnh, người xưa thường ví với lòng kiên trinh.
Tùng bách còn dùng để chỉ người quân tử, hoặc người chồng.
Tùng bách há sờn cơn bão tuyết,
Sặt lau phó mặc trận cuồng phòng.
(Thơ Huệ Phong).
從 兵
Tùng (tòng): Đi theo. Binh: Lính.
Tùng binh, đồng nghĩa với chữ “Tùng chinh 從 征”, là đi lính ra ngoài mặt trận để đánh giặc.
Tùng binh, tùng đinh có ý nói thời kỳ khổ sở của thanh niên trai tráng phải đi lính và phục dịch cho xã hội.
Nhỏ tùng đinh,
Lớn tùng binh,
Già nằm canh.
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan nút mỡ dành làng ăn.
(Ngụ Đời).
從 征
Tùng (tòng): Đi theo. Chinh: Đánh giặc.
Tùng chinh hay tòng chinh, là đi theo ra chiến trường để đánh giặc.
Như: Lính tùng chinh ngoài biên ải.
Chén quỳnh tiễn bạn trước long cu,
Giục vó tùng chinh báo quốc thù.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
從 丁
Tùng (tòng): Đi theo. Đinh: Người con trai thuộc lứa tuổi phải đóng thuế thân và đi lính.
Tùng đinh đi theo đinh tráng, tức tham gia vào binh dịch và các việc lao dịch khác.
Tùng đinh, tùng binh có ý nói thời kỳ khổ sở của thanh trai tráng phải đi linh và phục dịch cho xã hội.
Nhỏ tùng đinh,
Lớn tùng binh,
Già nằm canh.
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan nút mỡ dành làng ăn.
(Ngụ Đời).
從 苦
Tùng: Theo. Khổ: Quá khó khăn, thiếu thốn về vật chất, hoặc bị giày vò, đau đớn về tinh thần.
Tùng khổ là dựa theo cảnh khổ mà vượt lên.
Như ta biết con người do Đức Chí Tôn cho xuống trần để học hỏi tại trường đời, hầu mở mang Thiên tánh Ngài đã ban, nhưng vì chơn linh nhập thế, mang nặng xác phàm bị thất tình lục dục sai khiến, làm cho con người trở nên vô minh, quên hết căn nguyên bổn tánh của mình. Do vậy, con người mới phải chịu trăm cay ngàn đắng, đau đớn, xót xa.
Trước cảnh khổ nơi trần gian, các bậc độ đời cứu thế đã tuỳ trình độ chúng sanh mà đề ra nhiều phương pháp xử trí với cảnh khổ khác nhau, mục đích giúp con người biết xử dụng nó để làm nấc thang thăng tiến.
Theo Đức Hộ Pháp thì tôn chỉ của Phật Thánh Tiên xưa nay chỉ dùng chữ khổ để làm đề mục cho con người học hỏi nơi trường đời. Ngài đưa ra như sau:
Phật vì thương đời mà tìm phương giải khổ.
Tiên vì thương đời mà bày cơ thoát khổ.
Thánh vì thương đời mà bày cơ thọ khổ.
Thần vì thương đời mà lập cơ thắng khổ
Hiền vì thương đời mà đạt cơ tùng khổ.
Như vậy, đối với bậc hiền nhân quân tử (bậc Hiền) phải tùng khổ để trau luyện hầu chiến thắng với cảnh khổ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo đã giải nghĩa nào là thắng khổ, nào là tùng khổ, nào là giải khổ, đủ thứ hết thảy, trọng yếu hơn hết là phải tìm phương nào cho các nền văn minh ấy, phải chia sống với nhau, phải đừng có tranh sống với nhau, bởi chia sống thì tồn tại, bảo vệ được sống còn của nhơn loại, mà tranh sống tức nhiên phải tiêu diệt.
Nhơn tùng khổ, Thần thì thắng khổ,
Thánh thọ khổ vui chổ vô danh.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
叢 林
Tùng: Nhóm lại. Lâm: Rừng, nơi có nhiều cây.
Tùng lâm nghĩa đen là rừng cây rậm rạp.
Tùng lâm còn dùng để chỉ nơi các tăng đồ tụ hợp để ở, tức cảnh nhà chùa. Các thiền viện cũng thường gọi là “Tùng lâm”.
Danh lợi bôn chôn, thân xác nhọc,
Lánh đời tìm ẩn chốn tùng lâm.
(Thơ Thiên Vân).
Tùng (tòng): Theo. Lịnh (lệnh): Mệnh lệnh cấp trên ban xuống.
Tùng lịnh, như chữ “Tùng lệnh 從 令”, là vâng theo mệnh lệnh của thượng cấp.
Trong Bát Đạo Nghị Định có dạy: Cả chức sắc phải tùng lịnh Hội Thánh, chẳng đặng tự chuyên mà cải sửa chơn truyền của Đạo.
Tùng lịnh Từ Hàng Bồ Tát, năng du Ta Bà Thế Giái thi pháp hộ trì vạn linh sanh chúng.
(Di Lạc Chơn Kinh).
從 良
Tùng: Theo. Lương: Điều tốt, điều lành.
Tùng lương là theo làm điều thiện, hay hướng về điều lành.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Thượng Phẩm có câu: Vậy, đối về phần tài lực bạo tàn, chúng ta không thể sánh với kẻ vô thần, mà trái lại một điều là nhược thắng cường, ấy là ý định của Chí Tôn cho nhơn loại nhìn Đạo Trời mà tùng lương cải ác.
Giáo dân quy thiện đền ơn nước,
Độ chúng tùng lương dựng đạo nhà.
(Thơ Thông Quang).
Cải ác tùng lương tẩy nghiệp trần,
Hồi đầu trước hết phép tu thân.
(Thơ Huệ Phong).
從 夫
Tùng (tòng): Theo. Phu: Chồng.
Tùng phu tức là khi có chồng phải theo chồng.
Đây là một trong đạo “Tam tùng 三 從” của người phụ nữ. Đạo Tam Tùng gồm có: Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu và phu tử tùng tử 在 家 從 父, 出 嫁 從 夫, 夫 死 從 子, nghĩa là người con gái còn sống ở nhà thì theo cha, gả chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo sống với con.
Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn đạo,
Theo tùng phu sửa áo nâng khăn.
(Kinh Thế Đạo).
Đến lúc đã chung phòng hoà hiệp,
Phải tùng phu là phép xưa nay.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Theo nhà chồng bỏ mẹ cha già,
Tùng phu cũng quá là tùng phụ.
(Phương Tu Đại Đạo).
從 父
Tùng phụ là một trong Tam tùng của phụ nữ: Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử.
Tùng phụ là theo cha, ý nói người con gái chưa có chồng, còn ở tại nhà thì phải nghe lời cha dạy dỗ.
Trong quyển Tân Luật, điều thứ ba về phần Thế Luật có quy định: Phải giữ Tam cang Ngũ thường là nguồn cội của nhơn đạo; nam thì hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa liêm sỉ, nữ thì tùng phu, tùng phụ, tùng tử và công, dung, ngôn, hạnh.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Theo nhà chồng bỏ mẹ cha già,
Tùng phu cũng quá là tùng phụ.
(Phương Tu Đại Đạo).
從 服
Tùng: Theo. Phục: Chịu, theo.
Tùng phục, như chữ “Phục tùng 服 從”, là theo, tuân theo, không làm trái lại.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Thầy nói cái phận kiếm cung của các con phải làm sao cho rõ thiệt dưới bóng cờ “Tận Trung Báo Quốc”. Nó không phải dùng cái quyền sanh sát và cũng không phải dùng cái quyền bằng gươm đao mà định vận mạng hay buộc người phải tùng phục cái quyền hạn của mình, không đâu! Còn thiếu! Thiếu một cái hồn là: Cái năng lực tinh thần, nếu cái năng lực tinh thần yếu ớt dầu cho các con có một cái đại nghiệp kinh dinh đủ quyền năng giết người, các con cũng không thế nào phục người đặng.
Thấy lòng bác ái của Thầy bắt động lòng, vì Thầy đã biết rằng Lễ Sanh phải chịu tùng phục dưới quyền người sai khiến...
(Pháp Chánh Truyền CG).
從 軍
Tùng (tòng): Theo, đi theo. Quân: Binh, lính.
Tùng quân hay tòng quân là theo làm lính để đi đánh giặc, tức là nhập ngủ.
Tùng quân đồng nghĩa với tùng binh.
Như: Nhập ngủ tùng quân.
Chiến tướng xưa đề danh cửa Á,
Tùng quân nay dậy tiếng vùng Âu.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
從 權
Tùng (tòng): Theo. Quyền: Quyền hành. Hay đạo dùng khi biến.
1.- Tùng quyền là tuỳ thuộc vào quyền hành của kẻ bề trên mà làm việc.
Như: Học viên phải tùng quyền lớp trưởng mà giữ im lặng học tập.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Lễ Sanh là người thay mặt cho Giáo Hữu, khi Giáo Hữu vắng mặt mà hành lễ cúng thầy, song phải tùng quyền Giáo Hữu mà hành sự.
Nữ phái phải tùng Ðầu Sư Nữ phái, song tùng quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Tùng quyền, bởi câu “Ngộ biến tòng quyền 遇 變 從 權” nghĩa là gặp biến phải theo tình thế mà đối phó, không nên khư khư câu nệ.
Tùng quyền là có lúc nên quyền biến, nghĩa là tuỳ theo hoàn cảnh lúc nguy biến mà ứng phó cho kịp thời.
Xem: Kinh quyền.
Biết tùng quyền hiểu chấp kinh,
Tìm phương hay gởi lấy mình cửa tu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hành chánh khi thường nên chấp kích,
Thức thời lúc biến phải tùng quyền.
(Thơ Thông Quang).
從 子
Tùng (tòng): Theo. Tử: Con.
Tùng tử là theo con.
Theo đạo Tam tùng trong Nho giáo, người phụ nữ ngày xưa phải giữ là lúc còn ở nhà thì theo cha, có chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thừa dịp ấy Bần Ðạo mới vấn nạn ông (thầy Nho), Bần Ðạo hỏi rằng: “Gia pháp của ta nghiêm khắc quá lẽ, đến sự chăn con như chúa ngục chăn tù, nếu không có quyền tự do thì con sẽ tối tăm ngu dốt?”. Ông lại trả lời rằng: “Không, không phải gia pháp áp bức làm cho con mất tự do đâu, mà trái lại người có quyền lắm chớ, đến nỗi gia pháp định cho mẹ phải tùng con kia mà “tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử”.
Nam thì hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ, nữ thì tùng phụ, tùng phu, tùng tử, và công, dung, ngôn, hạnh.
(Thế Luật).
從 勢
Tùng (tòng): Theo. Thế: Nói tổng quát là các quan hệ về vị trí tạo thành điều kiện chung có lợi hay không có lợi cho hoạt động nào đó của con người.
Tùng thế là tuỳ theo tình thế, tức phải dựa vào hoàn cảnh của xã hội trong một thời kỳ nào đó.
Khuyên bền lòng tùng thế tuỳ thời,
Phải quyền biến với đời gầy sự nghiệp.
(Phương Tu Đại Đạo).
從 天
Hay “Tùng Thiên lý”.
Tùng (tòng): Theo. Thiên: Trời. Thiên lý: Lẽ Trời.
Tùng Thiên, như chữ “Tùng Thiên lý 從 天 理” là tùng theo lẽ Trời.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hễ mình biết mình tức nhiên biết Thiên Ðạo, biết Thiên Ðạo mới tùng Thiên lý, tức nhiên tùng thiêng liêng vô hình.
Nhơn vô tùng thế đắc tùng Thiên,
Ưu lự trần gian ý vị nhiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tùng Thiên an mạng rán làm lành,
Ðừng kết oán đời chác lợi danh.
(Đạo Sử).
1.- Tụng 誦 là đọc thành to tiếng và giọng đều đều. Như: Tụng kinh, tụng niệm, tụng Di lạc Chơn Kinh.
Thánh giáo Thầy dạy hai Bà Hương Nhiều và Hương Hiếu có câu: Lựu và Hiếu, tập một lũ Nữ Ðồng Nhi chừng 36 đứa đặng mỗi khi đại lễ, nó tụng kinh cho Thầy.
Cuộc rượu mắc hơn trăm kệ tụng,
Ðường oan nẻo tội hiếm người mời.
(Đạo Sử).
Những thảng mảng tháng thâu năm lụn,
Sớm công phu, tối tụng Vãng sanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tụng 訟 là kiện, thưa, không dùng một mình. Như: Tụng đình, kiện tụng, tố tụng.
Thánh giáo Thầy có câu:Con nên biểu C. nó lấy lời Thầy dạy làm trọng, những sự tranh tụng là những nét của phàm tâm, chẳng đủ chi lay động chí của các đấng chân thành vì Ðạo.
Quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu...
(Kinh Cứu Khổ).
3.- Tụng 頌 là khen ngợi. Như: Ca tụng, chúc tụng, tán tụng, xưng tụng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngoài Ðấng ấy, thì không ai nữa làm Chúa Tể của Vạn Linh đặng, tôn sùng như thế là thấy Ðấng Cha cao thượng hơn ông Cha phàm, vì thế mới xưng tụng Ngài là Ðại Từ Phụ.
Thánh chí biến sanh Nam Quốc vượng,
Thần oai hội hiệp tụng âu ca.
(Đạo Sử).
訟 廷
Tụng: Việc kiện thưa, việc tố tụng. Đình: Nơi cai trị, nơi làm việc của quan lại.
Tụng đình là nơi xét xử hình án của các quan ngày xưa, tức chỗ xử kiện, toà án.
Nghe thấy bắt động tình,
Dân dưới phép tụng đình,
Nước dưới phép đao binh,
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ, gập ghình ba châu.
(Ngụ Đời).
誦 經
Tụng: Đọc to. Kinh: Sách do các bậc Hiền triết viết, hay sách giáo lý của tôn giáo.
Tụng kinh là đọc kinh sách của Thánh Hiền hay kinh Phật đời xưa.
Trong Tôn giáo, tụng kinh là quỳ trước điện thờ đọc kinh thành tiếng có âm điệu và thành kính.
Sách xưa có câu: Tạo chúc cầu minh, đọc kinh cầu lý 造 燭 求 明, 讀 經 求 理, nghĩa là đốt đuốc cho sáng, đọc kinh tìm lý. Nhưng chúng ta biết, ý nghĩa huyền diệu trong kinh điển, nghe qua một hai lần cũng không thể hiểu thông suốt và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải tụng đọc mãi để cho lý kinh thâm nhập vào trong tâm thức.
Nếu chúng ta chí thành tụng đọc, thì Kinh điển sẽ có công năng phá trừ vô minh, khai mở tâm trí sáng suốt. Sau khi tụng một thời kinh, người tụng phải cảm thấy tâm mình an lạc, thanh thản, thời kinh đó mới đầy đủ ý nghĩa.
Việc tụng kinh một cách thành tâm sẽ tạo ra một tâm thái yên ổn, huân tập được nhiều tư tưởng lành từ các Đấng Thiêng Liêng và việc tụng kinh giúp chúng ta buông bỏ mọi vọng niệm, vọng tưởng để mở sáng trí tuệ, khơi dậy chân tâm.
Ðóng cửa tụng kinh xem thế cuộc,
Bên lưng con chớ tưởng mang tiền.
(Đạo Sử).
誦 念
Tụng: Đọc to tiếng và giọng đều đều. Niệm: Tưởng nghĩ tới, đọc thầm.
Tụng niệm là tụng kinh và niệm Phật.
Khi nói về quyền hành Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Muốn biết quyền hành ấy Bần Ðạo phải thuyết minh và giải nghĩa bài Kinh Ðức Phật Mẫu mà chúng ta thường tụng niệm hằng ngày đó.
Lòng sở vọng lâm dâm tụng niệm,
Xin giải nàn Nam Thiệm Bộ Châu.
(Xưng Tụng Công Đức).
Biết dùng dưa muối rau tương,
Biết lo tụng niệm, biết đường tu thân.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Tụng 誦: Đọc to tiếng và giọng đều đều. Nhơn Quả 因 果: Kinh Nhơn Quả.
Tụng Nhơn Quả nghĩa là tụng bài Kinh Nhơn Quả, tức bài Kinh Sám Hối của Đạo Cao Đài.
Bài “Kinh Sám Hối” của Đạo Cao Đài được Hội Thánh thỉnh từ Chi Minh Lý, trước đây gọi là “Kinh Nhơn Quả”, trong ấy các Đấng Thiêng Liêng chỉ dạy những điều tội lỗi và các thứ hình phạt nơi cõi Diêm Cung tương ứng với những tội tình đã gây ra ở thế gian. Nhứt là nhấn mạnh đến luật luân hồi nhơn quả, nhằm cho chúng sanh ghê sợ mà tránh xa tội lỗi.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Bát Nương Diêu Trì Cung khi giảng về cõi Âm quang, Bà có nói: “...chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong đô, Địa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các chơn hồn giải thần định trí”.
Do lời dạy của Bát Nương, trước đây có một số chức sắc, chức việc ở miền Bắc nghĩ rằng những hình phạt ghê rợn nơi cõi Địa ngục được mô tả trong bài kinh Sám Hối có tính cách mê tín và mâu thuẩn với lời dạy của Bát Nương nên đồng ký tên kiến nghị với Hội Thánh Tây Ninh, yêu cầu sửa đổi lại bài kinh Sám Hối. Hội Thánh lúc ấy không chấp nhận.
Thực ra, nếu căn cứ theo Thánh giáo Bát Nương, chúng ta biết chắc chắn nhứt là “nơi khiếm ánh thiêng liêng là Âm quang, nghĩa là Âm cảnh hay Địa ngục, Diêm đình của chư Thánh xưa đã đặt hiệu” tức là một danh từ mới của cõi Địa ngục, nơi ấy có các tội hồn chịu sự đau đớn khổ sở, có sự ăn năn dày vò do quả kiếp xấu mà họ đã gây ra trong kiếp sanh. Họ sống trong cõi tối tăm ấy ít nữa đôi trăm năm để họ được giải thần định trí.
Trái lại, trong Kinh Sám Hối các Đấng Thiêng Liêng bày ra những cảnh tượng ghê gớm của tội hình là nhằm mục đích răn dạy kẻ sơ cơ. Người ta thường nói luật hình nơi Dương gian không khiến người ta ghê sợ bằng nhơn quả nơi Địa ngục. Vì thế, các cuốn kinh nhơn quả đều nói về sự trừng phạt trong cõi Địa ngục nhằm để giới răn những điều dữ, như Kinh Nhân Quả Ba Đời của Phật, Hồi Dương Nhơn Quả, Ngọc Lịch Minh Kinh...
Nhơn quả tức là cái nguyên nhơn của đời trước, gọi là tiền nhơn 前 因 thì sẽ có kết quả đời sau, gọi là hậu quả 後 果. Trong Truyền Đăng Lục của nhà Phật nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị, dục tri lai sinh quả, kim sinh tác giả thị 欲 知 前 世 因, 今 生 受 者 是; 欲 知 來 生 果, 今 生 作 者 是” nghĩa là muốn biết nguyên nhân đời trước ta thế nào, thì cứ xem hưởng thụ của ta đời nay; muốn biết sự kết quả đời sau thế nào, ta cứ xem việc ta làm đời nay đó. Biết được việc luân hồi nhơn quả như thế, con người mới sớm ăn năn làm phước để chuộc tội tiền khiên, nếu đợi đến ngày mãn số thì ăn năn sao kịp?
Bài Kinh Sám Hối nói về cõi Địa ngục hay Âm quang dù có hình phạt đau đớn như thế nào, ở đây chúng ta chỉ cần biết tránh ác làm lành để khỏi bị đọa vào cõi ấy, như lời khuyên của Bà Bát Nương Diêu Trì Cung: “Chớ chi nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm quang”. Như thế, bài kinh Sám Hối có thể nói là bài kinh nhằm muc đích: Đưa thuyết luân hồi nhân quả để răn kẻ làm ác, khuyên người làm lành:
Xuống Địa ngục, đọa đày hành mãi,
Đúng số rồi, còn phải luân hồi.
Hoá công xem xét đền bồi,
Lành siêu, dữ đọa, thêm nhồi tội căn.
Ngoài ra, do Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy rằng: “Nơi trần khổ này, dầu cho bậc Chí Thánh cũng khó tránh sự lỗi lầm đặng, nhưng sự ăn năn tự hối là quý báu vô giá. Các Tiên, Phật xưa cũng nhiều bậc đứng đặng địa vị cao thượng, thiêng liêng là nhờ có sự cải quá mà nên chánh quả”.
Nên khi mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn dạy phải độ những người có tội lỗi, là hạng người nhiều nhứt trong thế gian, và nhứt là thời kỳ hạ nguơn mạt pháp này. Ngài dạy: “Thầy lại nói, buổi lập Thánh Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu nhọc đến công Thầy. Ấy vậy, các con rán độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui hơn hết”.
Do vậy, mục đích của bài kinh Sám Hối còn khuyên người có tội lỗi phải ăn năn chừa cải:
Quấy rồi phải biết ăn năn,
Ở cho nhân hậu, chế răn lòng tà.
Hoặc:
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
Hoặc:
Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
Bài kinh Sám Hối này còn có mục đích là một bài kinh khuyến thiện:
Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
Tóm lại, bài kinh Sám Hối của đạo Cao Đài, như tựa kinh khi xưa, là một bài kinh dạy về “nhơn quả”, để khuyên chúng sanh phải kiêng sợ quả báo mà cải quá tự tâm, là mục đích quan trọng trong giáo pháp Cao Đài. Bất cứ ai phạm một tội lỗi gì, dù là tội nặng nề, mà hễ thành tâm sám hối, tinh tấn tu hành, thảy đều được cứu độ. Trong các kinh điển thường có câu: Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả. Bồ Tát là bậc giác ngộ cho nên không dám tạo nhân, còn chúng sanh vì không sáng suốt cho nên chỉ khi nào quả khổ hiện ra mới lo sợ, chứ trong lúc gây nhân khổ thì chẳng nhận thấy. Gây nhân khổ thì tất phải chịu quả khổ; tạo duyên lành thì tất phải hưởng nghiệp lành. Đó là luật nhơn quả, cũng là mục đích khuyên dạy người đời của các Đấng Thiêng Liêng trong bài Kinh Sám Hối mà khi
xưa gọi là Kinh Nhơn Quả.
Cư, đọc Thánh Ngôn. Tắc, tụng Nhơn Quả.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tuổi là năm, dùng làm đơn vị để tính thời gian sống của người. Như: Sống lâu trăm tuổi, tuổi thọ tuổi hạc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Từ lúc mới vô dĩ chí cho tới mãn lễ, không có lúc nào ở không, luôn luôn hành pháp không nghỉ, tới xong lễ lại lên giảng đài giáo Đạo cho con cái Đức Chí Tôn, nếu ngày kia có tuổi thêm chút nữa, chắc làm không nổi, không thể đứng nổi, chịu không nổi nữa.
Ngảnh lại hỏi người là chắc đó,
Trăm năm là tuổi chết rồi chôn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tuổi: Thời gian sống của một người, kể theo hàng năm. Hạc: Chim hạc.
Tuổi hạc là tuổi của con chim hạc.
Chim hạc là một loài chim sống lâu, tương truyền loài hạc có thể sống đến ngàn năm, nên thường được gọi là hạc thọ 鶴 壽, tức là sống lâu như hạc.
Tuổi hạc dùng để chỉ tuổi của ông bà cha mẹ với ý muốn được sống lâu như loài chim hạc.
Xem thân tuổi hạc càng cao,
E ra tử biệt Thiên Tào định phân.
(Kinh Thế Đạo).
Cội thung thấy càng cao tuổi hạc,
Nhớ liễu mai chếch mác mà đau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tuổi: Thời gian sống của một người, kể theo hàng năm. Tên: Một danh từ riêng dùng để gọi người, gọi vật.
1.- Tuổi tên, như chữ “Tên tuổi”, là tuổi tác và tên họ. Như: Người nào cũng có tuổi tên đừng gọi trổng như vậy không được.
Thương hồi thơ bé tuổi tên,
Thương cơn khôn lớn giữ bền nghĩa nhau.
(Kinh Thế Đạo).
2.- Tuổi tên còn dùng để chỉ danh tiếng, tức chỉ tiếng tăm của người, được nhiều người biết đến.
Như: Anh ấy là một nhân vật có tuổi tên trong xã hội.
Xem: Tên tuổi.
Lộc xưa chẳng đức giữ cho bền,
Phường chạ nay đành gởi tuổi tên.
(Đạo Sử).
Xưa ruộng Thuấn voi cày chim cấy,
Vì hiếu thân nổi dậy tuổi tên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Mẹ cha còn dầu giận cũng không quên,
Tình máu thịt tuổi tên tay nắn đúc.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tuổi: Chỉ thời gian của một người sống trên đời, kể theo hàng năm. Thọ: Sống lâu.
Tuổi thọ là chỉ thời gian sống được của một người trên thế gian.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Hôm nay Quân Đội thiết tiệc mừng Bần Đạo thêm một tuổi thọ nữa, hỏi trong một kiếp sanh của Bần Đạo đã hưởng đặc ân của Đạo, Chí Tôn ban cho là dưới mắt thấy hạnh phúc của toàn thể con cái của Ngài thật hiện vậy.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bảy mươi tuổi thọ công viên mãn,
Đáng liệt vào hàng bậc vĩ nhân.
(Thơ Thượng Trí Thanh).
Tuổi: Năm, dùng làm đơn vị để tính thời gian sống của người. Xanh: Màu xanh.
Tuổi xanh, do chữ “Thanh xuân 青 春”, là xuân xanh.
Tuổi xanh, cũng như tuổi xuân xanh là độ tuổi thanh thiếu niên, chỉ lớp người tuổi trẻ.
Thánh giáo Đức Thượng Phẩm dạy đám thư ký có đoạn: Các em ráng để ý từ bước nghe, các em đang tuổi xanh, sự đời chưa từng lãm, chớ nên vì chút nông nổi mà quên đường lập chí đó nghe. Các em phải luôn luôn nhớ rằng: Các em là tương lai của đất nước và của Đạo Trời. Các em phải ráng trì chí đừng để ngoại vật lôi cuốn mà uổng cho công trình đã ngộ Đạo.
Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,
Rán theo cha học lễ học văn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Dầu tuổi xanh cho đến lúc già,
Nhiều tình ái coi ra hơn thủ túc.
(Phương Tu Đại Đạo).
Màu thiền đã đổi sắc trăng hoa,
Thẹn mặt tuổi xanh muốn hoá già.
(Thơ Hộ Pháp).
Tuổi: Chỉ thời gian của người sống, kể theo hàng năm. Xuân 春: Chỉ thời tuổi trẻ.
Tuổi xuân, như chữ “Tuổi xanh”, là chỉ thời kỳ tuổi còn trẻ, tức độ tuổi thanh thiếu niên.
Ðò đưa phút chịu vùi ba tấc,
Tay trắng phủi rồi một tuổi xuân.
(Đạo Sử).
Buổi già ước đặng đem thân gởi,
Biển Thánh rán dò lúc tuổi xuân.
(Đạo Sử).
Tuôn là di chuyển từ trong ra thành dòng, thành luồng, nhiều và liên tục.
Như: Nước suối tuôn chảy, nước mắt tuôn như mưa, khói tuôn nghi ngút.
Ven Trời gởi chút tình thâm,
Động lòng thương nhớ tuôn dầm lệ sa.
(Kinh Thế Đạo).
Canh thâu rúc rắc mưa tuôn nhặt,
Ngày vắng xơ rơ gió thổi vèo.
(Thơ Huệ Giác).
Tuôn: Theo một đường thẳng mà chảy ra, bay ra thật nhiều, như nước tuôn, khói tuôn. Trào: Tràn qua miệng, chảy ra.
Tuôn trào là chảy (bay) tràn ra theo một đường. Như: Nước mắt tuôn trào, khói thuốc tuôn trào.
Tuôn trào còn dùng để chỉ lời nói, chữ nghĩa hoặc ý tứ tuôn ra mạnh mẽ.
Nhìn trước Linh sàng hương phảng phất,
Buồn nay thê tử lệ tuôn trào.
(Thơ Vạn Năng).
1.- Tuông là xông đại tới trước, vượt bừa ngang qua, bất chấp trở ngại, nguy hiểm.
Như: Tuông vào lùm gai góc, tuông qua rào chạy đại, tuông thẳng vào nhà sau.
Biển trần mặc sức sóng nhồi,
Từ thuyền tuông lướt giữa đời cứu dân.
(Lục Nương Giáng Bút).
Gặp cơn nước đổ giông tuông đến,
Là buổi mây tan bọt há còn.
(Thơ Cao Liên Tử).
2.- Tuông còn có nghĩa là rơi hoặc làm cho rơi mạnh xuống liên tục.
Như: Mưa tuông nặng hạt, đất cát tuông xuống ào ào.
Trông ơn Thượng Ðế tuông rời rộng,
Sum hiệp ngày sau cũng một trường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tuông bờ: Xông thẳng vào bờ. Lướt bụi: Vượt đại vào lùm bụi.
Tuông bờ lướt bụi là xông lướt qua các bờ đất, các lùm bụi, ý chỉ vượt qua các thứ trở ngại.
Như: Tên trộm phát hiện có người liền tuông bờ lướt bụi mà chạy thoát.
Thầy khuyên các con theo sau Thầy mà đến phẩm vị mình thì hay hơn tuông bờ lướt bụi, đi quanh kiếm quất, nghe à.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Tuồng là lối hát diễn theo tích cổ, có bộ tịch bắt chước hệt như thật.
Như:Phường tuồng, đi xem tuồng, vở tuồng.
Coi chừng lựa sách, thơ, tuồng, truyện,
Những phong tình đừng khiến cho coi.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tuồng là vẻ bề ngoài, bộ tịch. Như: Xem tuồng mọi việc đã ổn, làm như tuồng con trẻ.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nếu con người trên thế gian thực thi đầy đủ nhân nghĩa, bỏ sự oán ghét tư hiềm, bỏ sự vì mình hại chúng, thương người khác thể thương thân, giúp đỡ lẫn nhau trong khi khốn khó thì trong xã hội đâu còn thấy cảnh ngang trái đau lòng, mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo, làm cho thế sự đầy dẫy tuồng đau khổ.
Ngoài mặt giả tuồng người trượng nghĩa,
Trong lòng dối kết chút tình chung.
(Giới Tâm Kinh).
Danh lợi là tuồng đày đoạ phận,
Thương thân phải hiểu máy Thiên Ðiều.
(Đạo Sử).
Tuồng: Vở hát trên sân khấu. Đời: Cuộc đời.
Tuồng đời còn gọi là trò đời, vì cuộc đời thường được ví như một tuồng hát.
Thánh giáo Chí Tôn có câu: Phận sự muốn cho hoàn toàn cần phải có bền chí và khổ tâm. Có bền chí mới đạt phẩm vị thanh cao, có khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh.
Xạo xự tuồng đời lừng bợn tục,
Trau tria nét đạo nực mùi hương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tuồng Đời đã trải nhiều đau khổ,
Nợ Đạo toan đền rạng nước non.
(Thơ Huệ Giác).
Hoàn cảnh dầu đưa đến thế nào,
Tuồng đời cứ giữ dạ thanh cao.
(Thơ Cao Quỳnh Diêu).
Tuồng: Vở hát trên sân khấu. Thế: Đời.
Tuồng thế là tuồng đời, vì người ta cho rằng đời như là một tuồng hát.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy rất đẹp lòng đặng môn đệ ái kính như các con yêu dấu nơi Thánh địa nầy. Ðường tân khổ lắm vày vò, buổi an nhàn đâu kẻ hưởng, tuồng thế cũng gay go, mà bước trần càng khốn đốn.
Xem: Tuồng đời.
Nẻo chánh tìm theo mối Ðạo gìn,
Hay chi tuồng thế bước đua tranh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ngoài mặt đời ít kẻ vẫy vùng,
Ra tuồng thế những phồn phản loạn.
(Bát Nương Giáng Bút).
Cảnh Thiên trở gót hồi ngôi vị,
Tuồng thế may duyên dứt nợ nần.
(Thơ Thượng Sanh).
Tuốt là thẳng một mạch cho đến tận nơi.
Như: Thằng bé chạy tuốt về nhà, nó leo tuốt lên ngọn cây, rơi tuốt xuống hồ.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Ánh hào quang chiếu toàn trong Đền Thờ đều sáng hết, ở ngoài dường như một bóng sáng đi tuốt vô trong, chừng đó họ sợ, họ cúi đầu xuống, tới chừng Đại Từ Phụ phát thinh lên giảng đạo rồi họ ngó lên họ toả cái thể Đức Chí Tôn không rõ ràng lắm,...
Sẩy chơn lọt tuốt hang sâu thẳm,
Níu chéo vượt qua kẻo lạc Thầy.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
1.- Tư là bốn. Như: Tư bề, cô ấy là con thứ tư.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Phương chi nạn chiến tranh đang dầy xéo đất nước, suốt phần tư thế kỷ nay; tai Trời ách nước còn dồn dập gieo thêm tang tóc làm cho giống Việt Thường đã quá thống khổ, đoạ đày, đã phải chịu thêm nổi điêu linh tàn tạ.
Thây người máu chảy dầm dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.
(Kinh Sám Hối).
2.- Tư 思 là nghĩ. Như: Tư lự, tư tưởng, ưu tư.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Chúng tôi ước mong toàn thể Chức sắc, Chức việc thông cảm nỗi ưu tư ấy, để tâm giúp đỡ lẫn nhau, hầu đem chiếc thuyền từ đến chỗ thuận nẻo êm dòng, đưa con cái của Ðại Từ Phụ cho đến tận bên bờ giác.
Tâm chí các con lay động ưu tư tất là Thần, Thánh dẫn đường để chỉ cho con ra khỏi lối mịt mờ...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
3.- Tư 思 là nhớ. Như: Tương tư, tư gia 思 家 (tưởng nhớ về nhà).
Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Quá quan này khúc Chiêu Quân, Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chất mối sầu tư ruột nát bầm,
Thời thôi đành phải giả làm câm.
(Thơ Huệ Giác).
4.- Tư 私 là riêng tây. Như: Tư đường, tư gia, tư thất, tư hiềm, tư dục, tư sản.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Ðợi Lão biểu Cao Thượng Phẩm nâng loan. (buông cơ) Lão đến tư đường của Hộ Pháp nên cho miễn lễ, đứng hết.
Phước nhiều tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt không tư chẳng vì.
(Kinh Sám Hối).
Mặt sắt vô tư đã tiếng đồn,
Khai nên cơ nghiệp định kim môn.
(Đạo Sử).
Của chia tư nhập lại làm công,
Gương cột đũa, gương hay dùng phải dịp.
(Phương Tu Đại Đạo).
5.- Tư 資 là tiền bạc, của cải.
Như: Tư bản, tư sản, gia tư 家 資 (của cải trong nhà).
Nại chi xác yếu thịt mòn,
Gia tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
6.- Tư 咨 là nói về cơ quan chánh quyền gửi công văn cho nhau.
Như: Quan tỉnh nầy tư tờ sang quan tỉnh khác, Huyện tư tờ về quan làng.
Tờ nầy phải làm hai bổn, một bổn tư về Hiệp Thiên Đài và một bổn về Cửu Trùng Đài.
(Pháp Chánh Truyền CG).
7.- Tư, thường đọc là “Ty 絲”, sợi tơ ở ruột con tằm nhả ra. Nghĩa rộng chỉ dây đàn bằng tơ.
Như: Tàm tư (sợi tơ con tằm), tàm thôt tư (con tằm nhả tơ). tư trúc.
Ngoài ra toàn vạn vật đều có tình hữu ái đối với ta “Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tàm thổ tư, phong nhưỡng mật”.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Tư: Tiền bạc và tài sản. Bổn (bản): Vốn.
Tư bổn, như chữ “Tư bản 資 本”, là của cải, tiền bạc dùng làm vốn liếng để kinh doanh mà sanh lời.
Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thái Thơ Thanh có câu: Thầy giao cho con góp tư bổn trong một tháng cho rồi, dặn các em con rằng: Danh thể của Ðạo nơi Toà Thánh nghe à! Sau Thái Bạch sẽ dạy con kiểu vở.
Con phải lập cho thành một nền tư bổn, chung lo cùng môn đệ Thầy...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tư: Một từ Nôm, có nghĩa là bốn. Bề: Phía, bên.
Tư bề là bốn phía, bốn bên. Như: Vắng lặng tư bề.
Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có viết: Những cơn lặng lẽ êm đềm, Trời không có một chút gió lay, Đất không một tiếng trùng động, nước không một lượn sóng xao, tư bề phẳng lặng như tờ, ấy là lúc Thần của Trời Đất điều hoà cả võ trụ vạn vật và gây ra được sanh khí đó.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
(Kinh Sám Hối).
Oan khúc nỗi đời thôi chán ngán,
Tư bề nào biết cậy ai binh.
(Đạo Sử).
資 格
Tư: Địa vị. Cách: Làm cho chính mình.
Tư cách là giá trị tài năng, hay tánh hạnh, tức chỉ thân phận của con người trên xã hội.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có dạy: Chức sắc phải tự giữ phẩm giá thế nào cho người trông vào tư cách và cử chỉ của mình mà đem lòng kính phục thì mới có thể gieo hột Thánh cốc khắp nơi để nhơn sanh được thấm nhuần đạo đức.
Các con phải có trí độ phi phàm, thì mới có đủ tư cách làm người.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
資 質
Tư: Bẩm sinh. Chất: Cái tính chất.
Tư chất tức là cái phẩm chất của con người khi sinh ra đã có sẵn.
Như: Tư chất thông minh, tư chất hiền lành.
Nhớ Cao Thượng Phẩm xưa, tư chất ôn lương, tánh tình hoà huỡn,
nhà phiệt duyệt lưu truyền nơi thế thượng, tỉnh Tây Ninh lớn nhỏ thảy đều thương.
(Văn Tế Thượng Phẩm).
私 欲
Tư: Riêng. Dục: Ham muốn.
Tư dục là lòng ham muốn cho riêng mình, đó là lòng tham lam ích kỷ.
Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có câu: Vì Chơn Tâm là lòng Thật, là Chân lý không còn bị ngoại cảnh và tư dục chế ngự, nên không còn chấp trước, hết nhuốm bụi trần.
Gây oan nghiệt bởi lòng tư dục,
Kết oán thù vì chút đỉnh chung.
(Bát Nương Giáng Bút).
Câu tư dục biến ra bác ái,
Nghiệp oan khiên đổi lại hồng ân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
思 惟
Tư: Suy nghĩ. Duy: Tưởng nghĩ.
Tư duy là suy nghĩ, phán đoán, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như khái niệm, phán đoán, và suy lý.
Phàm đứng trước một vấn đề khó khăn, ta phải định tâm hoàn toàn vào đó để suy nghĩ, xét đoán cho thấu lý, gọi là tư duy.
Chánh tư duy là cái suy nghĩ theo đường phải, tức chánh đạo, hợp Thiên lý, đưa con người đến chân lý.
Chánh tư duy: suy nghĩ ngay thẳng.
(Giáo Lý).
思 懷
Tư: Tưởng nhớ, nghĩ đến. Hoài: Ôm ấp trong lòng.
Tư hoài là sự nhớ tưởng trong lòng. Như: Mối tư hoài mãi chất chứa trong lòng không nguôi.
Tình thương cuồn cuộn nước sông Hằng,
Ôm mối tư hoài đã mấy trăng.
(Thơ Thuần Đức).
私 己
Tư: Riêng, trái với công. Kỷ: Mình.
Tư kỷ là riêng mình.
Thánh giáo Lục Nương Diêu Trì Cung có câu: Phải có dạ chí thành, phải có tâm cương quyết, muôn việc đồng thanh tương ứng, hiệp với nhau làm một khối khư chặt, một như mười, mười như một, sớt thảm chia nồng với nhau mỗi khi lạc hứng, khuyên đừng tư kỷ, chi chi cũng có cậy nhờ Bề trên chỉ dẫn.
Chờ xem Thiên luật không tư kỷ,
Mới rõ Thần minh chẳng vị tình.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Hay “Tư lệnh”.
Tư: Riêng, trái với công. Lịnh (lệnh): Điều truyền bảo của người trên.
Tư lịnh, như chữ “Tư lệnh 私 令”, là lịnh theo ý riêng, tức vì sự riêng tư mà ban lệnh.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Nhiều kẻ lại tư lịnh, muốn mở riêng đường khác, đặng dìu nhơn sanh vào lối quanh co.
Phải hiểu biết máy sâu hoạ kín,
Thánh, Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
(Kinh Sám Hối).
司 祿
Tư: Trông coi, quản lý. Lộc: Phước lộc.
Tư lộc là lo về phước lộc, tức trông coi việc ban phước lộc cho thế gian.
Trong bài Kinh Thánh giáo có cho rằng Đức Văn Tuyên Khổng Thánh là Đấng trông coi về phước lộc.
Nho tông khai hoá, Văn Tuyên tư lộc.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
私 利
Tư: Riêng tư. Lợi: Ích lợi.
Tư lợi là lợi ích riêng của mỗi người.
Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông có câu: Qua nhớ lại rằng, có một phen Qua để lời ước vọng rằng: Nếu toàn hết Hội Thánh thay vì lo tư danh tư lợi cho mình, ráng nâng cao giá trị của kẻ cầm giềng mối thì mới thắng đặng cường quyền, trừ bạo ngược.
Các con đừng vì tư lợi mà làm mất nhân cách thì rất uổng cái điểm linh quang của Thầy để vào xác thân của các con lắm.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
思 慮
Tư: Nghĩ lo. Lự: Suy nghĩ, tính toán.
Tư lự là suy nghĩ và lo lắng, tức bận tâm về điều gì. Như: Vè mặt trầm ngâm tư lự.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Sáu mươi bốn năm qua, thật ra Bần Đạo tưởng tượng chẳng khác gì một giấc chiêm bao. Đã sáu mươi bốn năm Bần Đạo chẳng hề buổi nào hưởng đặng hạnh phúc vui vẻ, vì tánh đa sầu đa cảm nên chỉ biết nhiều sầu nhiều tư lự, hơn vui hứng, bởi quả số cho nên tấm thân phải chịu đau khổ.
Đừng có lòng mà lo tư lự,
Bảo đến tên, chừ bự chẳng muốn đi.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Tư lự không qua số mạng Trời,
Phải tìm cảnh tịnh mới an nơi.
(Đạo Sử).
思 量
Tư: Nghĩ lo. Lương: Tính toán, đo lường.
Tư lương là tự suy nghĩ đoán trước sự thể thế nào để liệu lường, hay cho lựa thái độ hành động.
Nguyên Chấn: Nhàn toạ tư lương tiểu lai sự 閒 坐 思 量 小 來 事, nghĩa là ngồi rảnh đoán lường việc sẽ đến.
Tư lương một nỗi khó khăn nhà,
Ðếm thử lại người vốn đặng ba.
(Đạo Sử).
司 馬
1.- Tư Mã là chỉ Tư Mã Tương Như, người đời Hán, có diện mạo đẹp, học rộng, giỏi thi phú và đàn hát hay.
Do tích: Trác Văn Quân là một người đàn bà goá chồng, có sắc đẹp, vì mê tiếng đàn của Tư Mã Tương Như, nên không thủ tiết và bỏ nhà đi theo.
Chính Tư Mã Tương Như gảy khúc “Phụng Cầu Hoàng” để quyến rũ nàng Trác Văn Quân.
Thương Trác Thị tai ham lóng tiếng,
Tư Mã kia nhấn phím tri âm.
(Thất Nương Giang Bút).
Đờn Tư Mã lên dây cao thấp,
Trác Văn Quân đường lấp cũng leo tường.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tư Mã Văn Quân đời vẫn nhắc,
Câu đờn ràng buộc dải đồng tâm.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
2.- Tư Mã còn là Tư Mã Thiên, làm chức Thái Sư đời vua Hớn Võ Đế.
Lúc bấy giờ Lý Lăng đầu Hung Nô, vua cho đó là tội lớn, Tư Mã Thiên viện lẽ Lý Lăng đầu hàng là phải, vua giận, truyền đem xử hủ hình, tức là xử thiến dái.
Tư Mã Thiên là tác giả bộ Sử Ký, một bộ sử biên niên nổi tiếng truyền tụng cho đến đời nay.
Xem: Sử Mã.
Đổng Hồ ngọn bút đầy linh hoạt,
Tư Mã nguồn văn vẫn nhiệm mầu.
(Thơ Chơn Tâm).
司 馬 懿
Tư Mã Ý hiệu là Trọng Đạt, là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất, giúp cho nước Tào Ngụy thời Tam Quốc chống lại quân Thục Hán. Ông có công đặt nền móng cho nhà Tây Tấn thay thế nhà Nguỵ.
Theo Truyện Tam Quốc, trong trận chiến ở Kỳ Sơn, Khổng Minh đã lừa được Tư Mã Ý vào hang Hồ Lô để tiêu diệt. Nào ngờ trời Kỳ Sơn tháng Sáu bỗng nổi lên cơn mưa to gió lớn, lửa của Khổng Minh bị tắt sạch.
Tư Mã Ý nhờ đó mà thoát chết. Gia Cát Lượng chỉ biết ngửa mặt nhìn trời mà than: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Còn trí như Khổng Minh, hồi đốt Tư Mã Ý đặng bảo thủ nghiệp Lưu, sợ có ngày sẽ vào tay Tư Mã Ý.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Tư Mắt là tục danh của ông Nguyễn Phát Trước (theo quyển Sai Gòn Năm Xưa của Vương Hồng Sển là Nguyễn Văn Trước), không biết sinh năm nào, lúc đầu xuất thân là chủ tiệm hớt tóc hiệu là “Nam Hữu Mai”,. ở số nhà 200 trên đường Thủy Bình cũ, trước 1975 là đường Đồng Khánh, nay là Trần Hưng Đạo, thuộc Quận 5 Sài Gòn.
Những năm sau ông trở thành trùm du đãng vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, mà giới giang hồ gọi ông là “Tư Đại Ca”, người rất gan dạ, tánh tình lại trượng nghĩa. Người ta ví ông như vị anh hùng Đơn Hùng Tín trong truyện Thuyết Đường của Tàu, vì cho rằng ông là người cư xử rất tốt với đàn em, thường cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo.
Chính vì vậy, đám em út của “Tư Đại Ca” rất trung thành đã theo ông thì không khi nào phản lại ông. Đây là lý do Tư Mắt thu nạp được hàng trăm thuộc hạ khu Chợ Lớn, cầu Muối, chợ Bến Thành...
Học giả Vương Hồng Sển trong cuốn “Sài Gòn Năm Xưa” thuật rằng, với đám đàn em không tiền, gã cho tiền. Người nào không có áo, đại ca cho áo; thậm chí khi bị tù thì có người nuôi ăn, cung cấp thuốc, bánh. Nhưng khi Tư Mắt cần dùng tới thì việc gì cũng phải tuân, chết sống không kể thân.
Tư Mắt luôn sẵn sàng giúp đỡ hết sức mình nếu như đệ tử, người quen biết, thậm chí là một ai đó gặp khó khăn như gia đình có người ốm, bị ai đó hãm hại hoặc sa cơ lỡ vận...
Nhiều lúc trong người không có sẵn tiền, Tư Mắt sẵn sàng mang đồ đạc ở nhà đi bán, cầm cố để giúp đỡ. Vì vậy, Tư Mắt đi đến tỉnh thành nào thì đám lục lâm thảo khấu rần rần tìm đến ra mắt, phục vụ cho đại ca. Do sự mến mộ của mọi người mà ông quy tụ được một đám em út đông đảo, tạo thành một lượng mạnh mẽ ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn.
Nhờ lực lượng đó, Ông có lần đứng ra chỉ huy cuộc phá Khám Lớn Sài Gòn vào năm 1915 để giải cứu Phan Xích Long (hay Phan Phát Sinh), một người tự xưng là Đông cung Thái tử, con vua Hàm Nghi, tự phong là Hoàng Đế và được tôn làm thủ lĩnh các hội kín Nam Kỳ, một phong trào kháng Pháp mang màu sắc tôn giáo tại miền Nam Việt Nam ở cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.
Việc phá Khám Lớn Sài Gòn để cứu Phan Xích Long thất bại, ông Tư Mắt bị bắt đưa ra Tòa khép vào tội “gia nhập hội kín ám trợ Cường Để”, nhưng Tòa chỉ kêu án vài năm rồi thả ông, nhằm xoa dịu những phong trào chống Pháp đang lên cao ở Nam Kỳ.
Nhiều người chỉ biết đến Tư Mắt là một gã giang hồ khét tiếng mà ít ai biết con người này là một người con rất có hiếu và có một cái tâm hướng về Phật. Vào những ngày đầu tháng hoặc cuối tuần, Tư Mắt thường vắng mặt với đàn em mà lui vào chùa Giác Lâm để tĩnh tâm hướng Phật.
Cuộc đời của ông lúc trẻ là một thời oanh liệt nhưng đến gần cuối đời ông giác ngộ, muốn tìm chốn tu hành.
Khi ông được tin nhà ông Đốc học Đoàn Văn Bản ở Cầu Kho thường có tổ chức Đàn Cơ thỉnh Tiên, ông tìm đến xem hư thực như thế nào. Ở đây, ông chứng kiến được sự huyền diệu của Đức Chí Tôn qua cơ bút nên ông quyết định xin nhập môn cầu đạo. Chính trong Đàn Cầu Kho này đã thâu nhận ông làm môn đệ của Đấng Cao Đài Thượng Đế vào năm 1926.
Ông là người con có hiếu, thường hầu đàn cầu hỏi Đức Chí Tôn về tình trạng hiện thời của cha mẹ ông thăng hay đọa, ở cõi giới nào. Trong Đàn cơ ngày 25 tháng 1 năm Bính Dần (Dl. 9/3/1926), Đức Chí Tôn giáng cơ dạy ông và cho biết như sau:
Mắt! Nghe dạy:
Trước vốn Hỏa Thần ở Ngọc Cung,
Giúp Nam không đặng phận tôi cùng.
Nước đời lắm nỗi chua cay bấy,
Còn đợi chi mong thế vẫy vùng.
Ngươi muốn biết đặng Cha ngươi thế nào, hỏi nơi ngươi. Hễ tu thì cứu đặng Cửu Huyền Thất Tổ. Ngươi là hiếu hạnh, chẳng lẽ để cha mẹ chịu đọa A Tỳ. Nghe mà ăn năn sám hối.
Cũng trong Đàn cơ nầy, khi tái cầu Đức Chí Tôn giáng cơ lại dạy ông nữa:
Mắt! Ngươi muốn hiểu Cha ngươi thể nào, ấy là hiếu hạnh. Ta khen đó. Ngươi làm tội chớ Cha ngươi là trung hiếu lưỡng toàn, hay thương yêu đồng chủng, mà bị tội giáo tử bất nghiêm, để đến đỗi hại sanh linh đã lắm lúc nên bị tội liên can đó mà thôi, phải ở tại ngục Nguơn Tiêu mà đợi ngươi đến.
Ngươi phải ăn năn, khuyến thiện và tu tâm dưỡng tánh đặng độ nó và ngày sau đặng quy vị mà khỏi đọa luân hồi.
Nghe và tuân lịnh dạy.
Tâm thành của ngươi mới đặng mà thôi. Ngươi muốn vậy, làm lành lánh dữ. Ngày nào đặng vậy, Ta sẽ cho cha ngươi về nói lại cho ngươi biết.
Tư Mắt ngày xưa có ba người vợ rất trung thành với ông. Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có ghi lại lời dạy của Đức Chí Tôn cho vợ ông và dạy ông phải lo trị bịnh cho vợ. Bài Thánh giáo như sau:
“Thầy dạy:
Nắm chặt trăm năm một chữ đồng,
Hễ chồng thì của vợ thì công.
Trợ nguy tế hiểm con ra sức,
Ðạo đức chung lo trọn tấc lòng.
Thầy cám Ái nữ. Mắt! Vợ con nó lại bị khiếm huyết mà biến nhiều bịnh; mùa nầy chẳng nên uống thuốc Tàu, Thầy dặn con tuân theo toa Thầy mà cho nó uống Bilinne”.
Một thời gian sau khi nhập môn, ông hiến căn nhà của ông ở tại Phú Thọ, Chợ Lớn để làm ngôi Thánh thất thờ Đức Chí Tôn, nên bổn đạo đương thời gọi Thánh thất ấy là chùa Tư Mắt. Và trong Đàn cơ ngày 26 tháng 10 năm Bính Dần (1927), Ông được Đức Chí Tôn phong làm Phụ Đạo Chưởng Nghiêm Pháp Quân, một phẩm chức sắc của đạo Cao Đài.
Trong Đàn cơ ngày 20 tháng 7 năm Bính Dần (Dl. 27/8/1926), Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn dạy các môn đệ như sau:
“Học, con khá nghe lời dạy dỗ của mấy anh con mà hành bổn phận.
Hương, con phải rán hết sức con. Thầy vùa giúp con.
Trước, con đừng mờ hồ hoài vậy nghe.
Nghĩa, Thầy sẽ trọng dụng con.
Ðức, Thầy sẽ giao Trung Kỳ cho con mở đạo.
Tràng, từ đây con phải nhớ hoài hình phạt con đã chịu rồi đó nghe!”.
Đoạn Thánh Ngôn trên Đức Chí Tôn gọi Tư Mắt là Trước, nhưng điều đặc biệt,là Ngài không dùng tên Trước để đặt Thánh danh mà lấy tục danh Tư Mắt, rồi sửa lại thành “Mục” (mắt) để ban cho ông. Do vậy mà Thánh danh của ông là Thái Mục Thanh.
Trong Đàn cơ tại Bà Rịa, ngày 19 tháng 10 năm Đinh Mão (Dl. 13/11/1927), Đức Chí Tôn giáng cơ khuyên ông Tư Mắt, thánh giáo dạy như sau:
“Tương, con bảo Thái Mục Thanh ra con. Con khuyên nó chớ để dạ ưu phiền, phải tập tánh từ bi chi đức.
Mục kiến Tam Thanh thế bất thành,
Tác quyền chuyên đảo đạt công danh.
Thiên cơ hà lộ khuynh tài chánh,
Nhứt nhựt dĩ nhàn nhứt nhựt thanh.
Con cũng bảo Ngọc Lịch Nguyệt đến trần tố với nó nghe. Muôn việc chi mà chẳng trông cậy nơi Thầy thì chẳng hề đặng, còn nó lầm tưởng rằng, mỗi mỗi đều do nơi Phàm giáo. Hễ có Phàm giáo mà chẳng có Thánh giáo thì làm sao Khai Đạo cho thông mối. Bảo chúng nó tập tánh yêu dấu của Thầy mà truyền Đạo cùng cư xử đường đời”.
Mặc dù đã nhập môn vào Đạo, được phong phẩm tước, hiến nhà làm Thánh Thất, nhứt là được Đức Chí Tôn thương yêu dạy dỗ, nhưng tính khí ông vẫn còn ngang tàng, không chịu sửa cải. Trong Đàn cơ ngày rằm tháng chạp năm Giáp Dần, ông Tư Mắt bị Đức Lý Giáo Tông quở như sau: “Mục Thanh chẳng phải là chúa của nền Ðạo nghe à”. (Đạo Sử của Bà Hương Hiếu).
Như ta biết, Đức Cao Thượng Phẩm, người có công lớn trong việc phá rừng xây Tòa thánh, khi bị bọn người xấu vu cáo đục tủ hành hương lấy tiền của Ðạo bỏ túi riêng, ông Tư Mắt nghe lời người ta xúi giục đứng ra lãnh đạo một nhóm côn đồ ở Chợ Lớn kéo lên Tòa Thánh, dùng bạo lực xua đuổi Ðức Thượng Phẩm ra khỏi Toà Thánh, khiến Ngài phải lui về Thảo Xá Hiền Cung cho đến ngày Đăng Tiên.
Cái chết của Tư Mắt thật là thê thảm.
Nguyên vào một đêm trong năm 1929, ông nằm dưới nhà, chẳng may trên gác cây, mèo chạy làm thùng dầu lửa ngã, dầu theo kẻ ván chảy xuống chỗ ông đang nằm, có ngọn đèn chong để kế bên giường, hơi dầu bắt lửa phựt cháy to, khiến ông bị chết cháy.
Nhưng cũng có người lại cho rằng ông do cây đèn manchon treo giữa nhà bị phát nổ đèn phựt cháy luồn theo cái dây bơm hơi chuyền xuống đất, ông lại nằm cạnh cái bơm hơi nầy, lửa bắt cháy qua cái mền đang đắp. Ông bị phỏng nặng nên vừa chuyển đến bệnh viện thì chết.
1.- Mắt (Tư Mắt):
Mắt! Vợ con nó lại bị khiếm huyết mà biến nhiều bịnh; mùa nầy chẳng nên uống thuốc Tàu, Thầy dặn con tuân theo toa Thầy mà cho nó uống Bilinne.
(Đạo Sử).
2.- Trước (Nguyễn Phát Trước):
Trước, con đừng mờ hồ hoài vậy nghe.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
私 密
Tư: Riêng, thuộc về cá nhân, riêng của một người. Mật: Bí mật, cần được giữ kín.
Tư mật ý nói cầu nguyện việc riêng tư một cách thầm kín bí mật.
Bần Đạo khuyên cả Hội Thánh nam nữ đừng ai tư mật mà làm cho người phát nộ thì rất rủi cho Hội Thánh lắm nghe.
(Bát Đạo Nghị Định).
私 義
Tư: Riêng tư. Nghĩa: Cách đối xử theo việc phải, chánh đáng.
Tư nghĩa là vì tình nghĩa cá nhân, tức có cách đối xử riêng không mất lẽ công bình, không chánh đáng.
Như: Vì tư nghĩa mà làm cho một vị quan phải hành xử mất lẽ công bình.
Thảng như chức sắc nào vì tư tình tư nghĩa đem một người không xứng đáng thì vị chức sắc ấy phải chịu một hình phạt của Hội Thánh định tội.
(Đạo Luật Mậu Dần).
司 法
Tư: Trông coi, quản lý. Pháp: Luật pháp.
Tư pháp là cơ quan quản lý về pháp luật, chuyên xét xử các hành vi phạm pháp và các vụ kiện tụng.
Toà án thuộc cơ quan Tư pháp.
Quyền tư pháp của Đời là để bảo vệ pháp luật, có nhiệm vụ giải thích tuỳ trường hợp thực tế, để cho mọi người biết tôn trọng các pháp luật ấy, nghĩa là giải quyết các vụ tranh tụng quyền lợi giữa nhơn dân và trừng trị những tội xâm phám pháp luật.
Quyền tư pháp trong đạo Cao Đài để bảo thủ chơn truyền của Đức Chí Tôn và gìn giữ các cơ quan Chánh trị Đạo đi trong khuôn viên của Đạo pháp. Quyền tư pháp đó được giao cho Hiệp Thiên Đài đảm nhiệm.
Hiệp Thiên Đài có ba chi: Chi Pháp, phận sự định án, Chi Đạo, phận sự cải án, Chi Thế, phận sự buộc tội.
Về mặt Đạo quyền Tư pháp do Hiệp Thiên Đài đảm nhiệm, có phận sự bảo thủ chơn truyền của Đức Chí Tôn...
(Chánh Trị Đạo).
姿 丰
Tư: Dáng vẻ, tính trời sinh. Phong: Dáng đẹp tốt.
Tư phong, như chữ “Phong tư 丰 姿”, là dáng dấp xinh đẹp của con người.
Xem: Phong tư.
Huệ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.
(Bài Thài Lục Nương).
Phẩm cách tư phong trang tuấn kiệt,
Mầng cho đất Việt trổ Thần Tiên.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
私 方
Tư: Riêng tư. Phương: Địa phương, vùng, miền.
Tư phương là vùng đất riêng, ý nói chỉ trong phạm vi vùng đất riêng của mình, chứ không thể mở rộng ra được.
Vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
資 產
Tư: Của cải. Sản: Tài sản.
Tư sản là của cải và sản nghiệp.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Những đất hoang vu, ông Hương Chủ khai mở thành công điền, toàn thể dân đinh buộc họ duy có làm xâu mà thôi, mà chẳng phải làm xâu như bây giờ, người nào có làm xâu thì số lúa tư sản của mình được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị trích mấy phần mười số lúa tư sản của mình đó.
Dù ai có hỏi bao tư sản,
Rằng miếng tâm điền đủ cấy gieo.
(Thơ Thuần Đức).
私 心
Tư: Riêng, thuộc về các nhân, riêng của một người. Tâm: Lòng. Lòng dạ.
Tư tâm là lòng lợi kỷ, tức sự suy tính vì lợi ích riêng của cá nhân.
Thuyết Đạo Thượng Sanh dạy: Những ông Hiền được đời kính nể mến phục vì những đấng ấy có tư tưởng cao siêu, hành vi xuất chúng, lúc nào cũng cứ ngay thẳng mà làm điều lành, điều phải, không vì tư tâm tư lợi mà hại đạo lý.
Diệt bản ngã bỏ quyền dụng lý,
Khử tư tâm hiệp ý Ðại Ðồng.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
私 心 我 見
Tư tâm: Lòng lợi kỷ, tức sự suy tính vì lợi ích riêng của cá nhân. Ngã kiến: Cái thấy của riêng mình.
Tư tâm ngã kiến là vì lòng lợi kỷ và chấp cái thấy biết của riêng mình.
Người có tư tâm ngã kiến là người chỉ có biết mình, là mình đúng chứ không bao giờ nghĩ đến người khác.
Diệt được cái Ta là tiết chế được tình dục, đoạn trừ tư tâm ngã kiến, rồi nhứt cử nhứt động đều quay về vị tha, quên cả mình để mưu lợi cho người.
(Thiên Đạo).
私 情
Tư: Riêng tư. Tình: Tình cảm.
Tư tình là tình cảm riêng tư, tức là vì tình cảm cá nhân mà làm, mất lẽ công bình.
Như: Vì tư tình mà xử án thì chắc chắn vụ án đó sẽ bị oan sai.
Thảng như chức sắc nào vì tư tình tư nghĩa đem một người không xứng đáng thì vị chức sắc ấy phải chịu một hình phạt của Hội Thánh định tội.
(Đạo Luật Mậu Dần).
Tư 咨: Nói về cơ quan chánh quyền gửi công văn cho nhau. Tờ: Văn thư, phúc trình, báo cáo, các loại giấy tờ.
Tư tờ là nói cơ quan nầy gửi công văn đi cơ quan kia.
Như: Chủ tịch xã tư tờ thẳng lên quan tỉnh.
Như có điều chi sái luật Đạo mà Chánh Trị sự đã nhiều phen tư tờ cho Cửu Trùng Đài...
(Pháp Chánh Truyền CG).
思 想
Tư: Suy nghĩ, lo. Tưởng: Nghĩ ngợi, nhớ.
Tư tưởng là cái hiện tượng về ý thức, do kinh nghiệm hay tư lự mà phát sinh ra, tức là ý nghĩ sâu sắc. Như: Anh ấy có tư tưởng tiến bộ.
Thánh giáo Thầy dạy: Từ đây nên thận trọng gìn giữ Thánh đức, để tâm sửa cải lề lối hành sự cho hợp với đạo lý quang minh, bỏ tư tưởng mờ hồ thì nhơn sanh mới trông nhờ giáo hoá và hấp thụ được triết lý cao siêu của nền chánh giáo.
Gieo tư tưởng cộng hoà toàn thể,
Chỉ phương tu đoạt huệ thành Tiên.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tôn Giáo cũng bất đồng tư tưởng,
Ðạo Hồi dùng tín ngưỡng cực nghiêm.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
Tư: Riêng tư và có ý gian. Thông: Qua lại với nhau.
Tư thông là liên hệ, tiếp xúc ngấm ngầm với đối phương để mưu làm phản.
Như: Tư thông với phe nghịch để âm mưu phá Đạo.
Tư thông thuộc Đệ nhị hình trong Thập hình của Đức Lý Giáo Tông, ai vi phạm thì phạt giáng cấp tới tín đồ hay buộc hành Đạo ngoại quốc, trừ Ai Lao, Tần Quốc.
Đệ nhị hình:
1. Tư thông.
2. Dấy loạn chúng sanh.
(Thập Hình Lý Giáo Tông).
Tư: Thuộc về cá nhân, riêng của một người. Thương: Buôn bán.
Tư thương là chỉ người buôn bán cá thể. Như: Những tư thương ở chợ đòi tự do kinh doanh.
Nhưng lời khuyên nhủ của anh,
Có đâu danh dự trong ngành tư thương...
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
資 助
Tư: Tiền bạc, của cải. Trợ: Giúp đỡ.
Tư trợ là giúp đỡ tiền bạc, của cải cho, tức đem tiền của, vật chất trợ giúp người tàn tật, khó khăn nghèo khổ.
Như: Miền Trung gặp nạn bão lụt người dân Sài Gòn tư trợ cho qua lúc đói khổ.
Một người trong đạo gặp tai nạn thình lình thì bổn đạo trong Họ hãy tuỳ hỷ chung nhau tư trợ cho qua lúc ngặt nghèo.
(Tân Luật).
咨 傳
Tư 咨: Nói về cơ quan chánh quyền gửi công văn cho nhau. Truyền: Trao cho, chuyển đi.
Tư truyền là nói cơ quan cấp trên gửi công văn truyền lịnh cho các nơi thi hành.
Như: Quan tỉnh tư truyền cho các quan địa phương phải nghiêm túc đề phòng cháy nổ.
Những chi sái luật Đạo, chẳng y theo Hội Thánh tư truyền, hoặc sửa cải Tân Luật,...
(Pháp Chánh Truyền CG).
Hay “Ty trúc”.
Tư (ty): Dây đàn, tiêu biểu cho loại nhạc khí. Trước (trúc): Cây trúc, đùng để chỉ loại nhạc khí làm bằng trúc như ống sáo, ống địch...
Tư trước, như chư “Ty trúc 絲 竹”, gọi chung các loại đàn và sáo.
Dữ tư trước thêm mùi du thuỷ,
Cách sơn xuyên hoà mỹ nương nhau.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
斯 文
Tư văn chỉ nền văn hoá trong đó bao gồm lễ nhạc, giáo hoá, pháp độ của thánh hiền truyền lại.
Luận Ngữ có câu: Thiên chi vị táng tư văn dã, Khuông nhân kỳ như dư hà 天 之 未 喪 斯 文 也, 匡 人 其 如 予 何, nghĩa là nếu trời còn chưa muốn tiêu diệt nền văn hoá đó, thì người đất Khuông kia bắt ta thế nào được?
Về sau, tư văn dùng để chỉ chung quan viên trong làng hay những nhà Nho học.
Bẩm thụ tư văn vốn ở Trời,
Thi nhân sứ mạng phải lo rồi.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Hay “Tư vị”.
Tư: Riêng, riêng tư. Vì: Do chữ “Vị” là bởi, vì.
Tư vì, như chữ “Tư vị 私 為”, là vì tình riêng, không công bằng, có ý thiêng kiến nghiêng về một phía.
Như: Làm việc, muốn được công bằng thì không nên tư vì một ai, dù đó là người thân thiết.
Xem: Tư vị.
Sao bằng ở phải buổi đầu,
Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
(Kinh Sám Hối).
私 為
Tư: Riêng, riêng tư. Vị: Vì.
Tư vị là vì tình riêng, ý muốn nói vì thiên kiến nên không công bình.
Thánh giáo Thầy có dạy: Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật còn phàn nàn trách cứ Thầy thay! Các con ôi! Ðã gọi là Ðấng cầm cân, lẽ công bình thiêng liêng đâu mà Thầy đặng phép tư vị. Thầy lấy lẽ công bình thì tức phải chiếu theo Thiên điều; mà chiếu theo Thiên điều thì con cái Thầy, tức là các con, phải đoạ trầm luân đời đời kiếp kiếp.
Công bình thưởng phạt không tư vị,
Chánh trị thiêng liêng luật thẳng băng.
(Thơ Thái Đến Thanh).
1.- Tứ 四 là bốn. Như: Cúng tứ thời, tứ quý, tứ phương, tam tùng tức đức.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Thầy dạy Nữ phái biết trọng Tam tùng, Tứ đức; Nam phái Tam cang, Ngũ thường. Hễ Nhơn đạo thành thì là phù hạp Thiên đạo, nghe à!
Ðâu là cửa Thánh với đâu phàm,
Mà cứ để lòng tính tứ tam.
(Đạo Sử).
Cõi trần tục trưng bày đủ cách,
Nhủ các con xa vách tứ tường.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Chuyên gìn Tứ đức với Tam tùng,
Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.
(Đạo Sử).
2.- Tứ 賜 là Đức Chí Tôn hay vua ban cho kẻ dưới. Như: Ân tứ, sắc tứ.
Thánh giáo Thầy có câu: Xưa sanh linh lắm lần hy sinh vì Ðạo, song chẳng đặng ân tứ cho bằng các môn đệ Thầy ngày nay, các con còn chi hơn nữa mà ngán lòng dừng bước.
Thành tâm tu niệm đắc Thiên ân,
Ân tứ hiền nhân dữ thiện nhân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Linh hồn thiên tứ nhi thường hữu,
Nhục thể thổ sanh sự viết vô.
(Thơ Thông Quang).
3.- Tứ 思 là ý nghĩ. Như: Ý tứ, Văn ít tứ, tứ riêng.
Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Thầy dặn các con một điều, nhứt nhứt đều đợi lịnh Thầy, chẳng nên lấy tứ riêng mà phán đoán chi hết.
Vui đón ngày xuân thơ nữ sĩ,
Năm vần rỡ rỡ tứ uyên thâm.
(Thơ Chơn Tâm).
四 恩
Tứ ân là bốn trọng ân.
Theo Phật giáo, bốn mối ơn mà người Phật tử phải đền đáp, báo ơn. Bốn ân đó là:
1/ Ân cha mẹ, ông bà, tổ tiên;
2/ Ân quốc gia, xã hội, quê hương, đất nước;
3/ Ân tam bảo;
4/ Ân chúng sanh, đồng bào, đồng loại.
Một thuyết khác cho bốn ân đó là:
1/ Ân cha mẹ;
2/ Ân quốc gia, xã hội;
3/ Ân sư trưởng, thầy tổ;
4/ Ân thí chủ.
Theo giáo Lý, tứ ân của người tín đồ Cao Đài là:
1.- Ân cha mẹ đào tạo ra xác thân.
2.- Ân cha mẹ thiêng, tức Chí Tôn, Phật Mẫu.
3.- Ân quốc gia xã hội.
4.- Ân thầy dạy dỗ nên người.
Liễn thi luận đạo hành tam lập,
Khổ hạnh thìn lòng báo tứ ân.
(Thơ Huệ Phong).
四 民
Tứ: Bốn. Dân: Tiếng gọi chung người trong một nước, một xứ.
Tứ dân là bốn hạng dân trong xã hội: Sĩ là học trò, nông là người làm ruộng, công là người làm thợ, thương là người buôn bán.
Xem: Bốn dân.
Bình thường ngoài đời dầu cho quan dân, tứ dân, tứ thứ: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Tứ: Bốn. Diệu: Hay, đẹp, quý báu, mầu nhiệm. Đề (đế): Sự thật, chơn lý.
Tứ Diệu Đề, còn gọi là “Tứ Thánh Đế 四 聖 諦”, là bốn chơn lý huyền diệu để giải thoát con người khỏi vòng phiền não, luân hồi nơi cõi trần.
Bất cứ một sự khổ đau nào cũng có nguyên nhân của nó, người tu tập phải nhận thức và phân tích nguyên nhân đó thì cũng sẽ có phương vượt qua sự đau khổ ấy. Tứ Diệu Đế là giáo lý căn bản của Đạo Phật, gồm có:
1. Khổ đế là chân lý trình bày cho chúng ta thấy những nỗi khổ đau trên thế gian này. Sự có mặt của khổ đau trong đời sống là một sự thật hiển nhiên.
2. Tập đế là một chân lý trình bày nguyên nhân của sự đau khổ. Nguyên nhân sâu xa nhất là vô minh, nguyên nhân gần dễ hiểu nhất là lòng tham ái và chấp thủ. Các phiền não, lậu hoặc tích tập lại tạo thành cái năng lực đưa đến sự khổ đau.
3. Diệt đế là một chân lý trình bày trạng thái an lạc, hạnh phúc khi đã diệt trừ hết vô minh, phiền não, dục vọng, những nguyên nhân của đau khổ. Diệt đế là chấm dứt hoàn toàn lòng tham dục, từ bỏ và giải thoát mọi sự ràng buộc.
4. Đạo đế là một chân lý trình bày những phương pháp tu tập có khả năng trừ diệt đau khổ và đạt được mục đích giải thoát.
Đạo đế chính là Bát Chánh Đạo.
Tìm câu Bát nhã Ba La Mật,
Ngắm cảnh Vô ưu Tứ Diệu Đề.
(Thơ Vạn Năng).
四 大
Tứ: Bốn. Đại: Lớn.
Tứ đại là bốn thứ lớn trong trời đất, tức là bốn yếu tố tạo nên xác thân con người. Đó là bốn nguyên tố lớn: Đất (địa), nước (thuỷ), gió (phong), lửa (hoả).
Theo Phật giáo, thân thể con người do bốn thứ trên hợp lại mà thành, nên gọi là “Tứ đại giả hiệp 四 大 假 合”.
Giả hiệp là tạm hợp trong một thời gian khi xác thân còn sống. Khi xác thân chết, thì bốn nguyên tố đó tan rã để về với vũ trụ.
Quan niệm thân thể của chúng ta do tứ đại giả hiệp, không có thực thể, là một phương pháp quán chiếu để diệt trừ ngã chấp.
Trần khổ gắng tu thân tứ đại,
Thánh danh hằng niệm lý tam tài.
(Thơ Huệ Phong).
四 大 部 洲
Khi nghiên cứu về “Tứ Đại Bộ Châu”, chúng ta thấy trong Kinh sách Cao Đài có nói về Tứ Đại Bộ Châu nầy.
Xét về giáo lý Cao Đài, trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy như sau: “Tam thập lục thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải tinh tú, còn lại Thất thập nhị địa và Tam thiên thế giới thì đều là tinh tú, Tính lại ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao”.
Và đoạn khác, Ngài dạy: “Đứng bực Đế vương nơi trái địa cầu này chưa đặng vào bực chót của Địa cầu 67. Trong Địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quý trọng của mỗi Địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới đệ nhứt cầu, Tam thiên thế giới, qua khỏi Tam thiên thế giới thì mới đến Tứ Đại Bộ Châu, qua Tứ Đại Bộ Châu mới vào đặng Tam thập lục thiên, vào Tam thập lục thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng lên đến Bạch Ngọc Kinh”.
Như vậy, Tứ Đại Bộ Châu trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Chí Tôn dạy không phải tinh tú, nằm ở không không trên không khí, dưới Tam thập lục thiên và trên Tam thiên thế giới, tức là Tứ Đại Bộ Châu thuộc trong cõi thiêng liêng.
Khi nói về cái chết của Ngài Chưởng Pháp Thượng Tương Thanh, Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy hai Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt vào ngày 7 tháng 11 năm Bính Dần (Dl. 11-12-1926) như sau: “Trung, Lịch, hai con phải dụng Ðại lễ mà an táng cho Tương, nghe! Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào đem Tương vào Tam thập lục Thiên, phải để nó đợi nơi Ðông Ðại Bộ Châu mà chờ Toà Tam Giáo phát lạc”.
Qua đoạn Thánh ngôn nầy, chúng ta suy ra được rằng: Đông Đại Bộ Châu là một cõi dưới Tam thập lục Thiên, nhưng trên Tam Thiên thế giới về phía Đông của Tứ Đại Bộ Châu nơi cõi Thiêng liêng nầy.
Còn theo Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế thì hai câu: “Thượng chưởng Tam thập lục thiên, Tam thiên thế giới; Hạ ốc Thất thập nhị đia,Tứ Đại Bộ Châu”, có nghĩa là Thượng Đế, trên thì chưởng quản ba mươi sáu tầng Trời, ba ngàn Thế giới; dưới thì chưởng quản bảy mươi hai Địa cầu và bốn Đại Bộ Châu.
Như vậy theo ý nghĩa của Kinh, Tứ Đại Bộ Châu này, khác với Tứ Đại Bộ Châu trên, nằm bên Thất thập nhị địa, chia ra theo bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc của Thất thập nhị địa:
|
Phía đông là Đông Thắng Thần Châu |
|
東 勝 神 洲. |
|
Phía tây là Tây Ngưu Hoá Châu |
|
西 牛 貨 洲. |
|
Phía nam là Nam Thiệm Bộ Châu |
|
南 贍 部 洲. |
|
Phía bắc là Bắc Câu Lư Châu |
|
北 俱 閭 洲. |
Trong Tứ Đại Bộ Châu nầy, Địa cầu 68 của nhơn loại chúng ta thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, cho nên trong “Bài Xưng Tụng Công Đức Phật Tiên Thánh Thần” có câu:
Lòng sở vọng lâm dâm tụng niệm,
Xin giải nàn Nam Thiệm Bộ Châu.
Trong Tứ Đại Bộ Châu nầy, Đức Hộ Pháp vâng lệnh Đức Chí Tôn cầm quyền giáo hoá ba châu và tám Bộ, nên người ta xưng tụng Ngài là là “Tam Châu Bát Bộ Hô Pháp Thiên Tôn”.
Hạ ốc Thất thập nhị địa,
Tứ Đại Bộ Châu.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
四 大 條 規
Tứ đại: Bốn điều lớn. Điều quy: Những điều khoản phép tắc quy định.
Tứ Đại Điều Quy là bốn phép tắc quan trọng mà người tín đồ Cao Đài phải giữ.
Nguồn gốc “Tứ Đại Điều Quy” nầy được Hội Thánh lấy từ Minh Lý, do Ngài Minh Thiện dịch ra Việt ngữ của ông Thương Châu Tử (sách chữ Tàu của phái Minh Sư).
Trong Tân luật đạo Cao Đài, chương 5 điều thứ 22 quy định: “Buộc phải trau dồi đức hạnh, giữ theo Tứ Đại Điều Quy” là:
1.- Phải tuân lời của kẻ bề trên. Chẳng hổ chịu cho bậc thấp hơn điều độ. Lấy lễ hoà người. Lỡ lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.
2.- Chớ khoe tài, đừng cao ngạo. Quên mình mà làm nên cho người.Giúp người nên đạo. Đừng nhớ cừu riêng. Chớ che lấp người hiền.
3.- Bạc tiền xuất nhập phân minh. Đừng mượn vay không trả. Đối với trên, dưới đừng lờn dể. Trên dạy dưới lấy lễ. Dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
4.- Trước mặt sau lưng cũng đồng một bực. Đừng kỉnh trước rồi khi sau. Đừng thấy đồng đạo tranh đua ngồi xem không để lời hoà giải. Đừng lấu chung làm riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung. Pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng mà trái trên dể dưới. Đừng cậy quyền mà yểm tài người.
Bảo sanh nhơn nghĩa thay đời khổ,
Tứ Đại Điều Quy vẹn phận mình.
(Thơ Huệ Phong).
四 堵 牆
Tứ: Bốn. Đổ: Bức vách. Tường: Bức tường gạch.
Tứ đổ tường, hay “Tứ đổ 四 堵”, là bốn vách tường xây kín, không có lối thoát.
Người xưa thường ví bốn điều ăn chơi tệ hại của con người là Tửu, Sắc, Tài, Khí như bị bốn bức vách tường bao vây kín, không có lối ra đành chết trong đó.
Vì vậy, tửu, sắc, tài, khí được gọi là Tứ đổ, Tứ tường, hay Tứ đổ tường.
Tửu: Rượu. Người bị say mê rượu thịt thì bị cuồng tâm loạn trí, tinh thần rối loạn, thể xác suy nhược. Chính vì thế mà người ta cho rằng: Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tại thị 酒 入 心 如 狗 狂 在 市, nghĩa là rượu nhập tâm như chó điên giữa chợ.
Sắc: Sắc đẹp đàn bà. Người bị đắm sắc thì tinh hao khí kiệt, tinh thần hôn muội, thể xác gầy mòn. Do vậy, người ta mới cho rằng: Sắc bất ba đào dị nịch nhân 色 不 波 濤 易 溺 人, nghĩa là sắc đẹp không có sóng mà có thể nhận chìm người.
Tài: Cờ bạc. Người ham mê cờ bạc thì tan nhà nát cửu, hư hại phẩm cách con người. Vì vậy, Bàng Đức Công mới có thơ rằng: Y sam lam lũ thân bằng tiếu, điền địa tiêu ma cốt nhục sân 衣 衫 襤 褸 親 朋 笑, 田 地 消 磨 骨 肉 嗔, nghĩa là quần áo tả tơi bạn bè cười nhạo, ruộng vườn hao mất anh em hờn.
Khí: Thuốc phiện, ma tuý. Người bị nghiện ngập ma tuý thì mất hết nhân phẩm, trộm cắp, cướp giựt, thân tàn ma dại.
Đối với Tôn giáo, Khí còn là tính khí của con người, tức là nộ khí, sân khí. Người bị khí sân hận nung nấu làm cho tâm trí mờ ám, hôn muội mà gây điều sái quấy, tội lỗi.
1.- Tứ đổ tường:
Tửu, Sắc, Tài, Khí tứ đổ tường,
Đa thiểu hiền ngu tại nội sương.
(Quan Thánh Giáng Bút).
2.- Tứ đổ:
Chúng đủ thuốc mê hồn cám dỗ,
Sắc tài quyền tứ đổ đưa ra.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
四 德
Tứ: Bốn. Đức: Đức hạnh.
Tứ đức là bốn đức hạnh mà người phụ nữ phải gìn giữ. Đó là công, dung, ngôn, hạnh.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Chư ái nữ, Thầy vì Tam Kỳ Phổ Ðộ, chẳng phân cao thấp, sang hèn. Thầy chỉ khuyên một điều là đạo hạnh các con phải giữ hằng ngày cho nhằm phương pháp Nhơn đạo, tức là Tứ Ðức đó vậy. Các con hiểu à!
Phận gái tam tùng cùng tứ đức,
Tề gia nội trợ vẹn là ngoan.
(Giới Tâm Kinh).
Dạy rõ nghĩa tam tùng tứ đức,
Trăm việc nhà sau trước nhắm xem.
(Phương Tu Đại Đạo).
Chuyên gìn tứ đức với Tam tùng,
Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.
(Đạo Sử).
四 海
Tứ: Bốn. Hải: Biển.
Tứ hải là bốn biển, dùng để chỉ khắp mọi nơi, hay khắp thế giới.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo nói dầu cho bực Công Khanh Vương Hầu Khanh Tể giá như phú hữu tứ hải thế nào đi nữa nội trong một kiếp sanh là hết, chúng ta ngó thấy trường đời nào là Đài Tần Đảnh Hớn, ngày nay danh thể có còn tồn tại chăng?
Xem: Tứ hải ngũ hồ.
Hào hiệp lòng quen kết nghĩa cùng,
Anh hùng tứ hải bước thung dung.
(Đạo Sử).
Quân tử cửu châu gầy đại nghiệp,
Trượng phu tứ hải tạo thành gia.
(Thơ Thông Quang).
四 海 皆 兄 弟
Tứ hải: Bốn biển, chỉ khắp mọi nơi. Giai: Đều. Huynh đệ: Anh em.
Tứ hải giai huynh đệ là bốn biển đều là anh em, ý chỉ nhơn loại trên toàn thế giới đều là anh em một nhà.
Trong sách Luận Ngữ có câu: Quân tử kính nhi vô thất, dữ nhân vô cung nhi hữu lễ, tứ hải chi nội giai huynh đệ 君 子 敬 而 無 失, 與 人 無 躬 而 有 禮, 四 海 之 內 皆 兄 弟, nghĩa là người quân tử kính mà không để mất, đối xử với người thì khiêm cung mà có lễ phép, trong bốn biển đều là anh em với nhau.
Theo triết lý của đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu là cha mẹ thiêng liêng của toàn nhơn loại thì con người trong toàn thế giới đều là anh em.
Biết nhận nhơn loại là anh em, là cốt nhục, đồng chung mà ra, biết nhìn câu: “Tứ hải giai huynh đệ”.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
四 海 五 湖
Tứ hải: Bốn biển. Ngũ hồ: Năm hồ.
Tứ hải ngũ hồ là bốn biển năm hồ, ý muốn nói khắp mọi nơi trong thế giới.
Tứ hải ngũ hồ đồng nghĩa với thành ngữ Nôm là “Năm châu bốn biển”.
Không toan sớm đói chiều no,
Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Trai lớn khôn tứ hải ngũ hồ,
Vai gánh nặng cơ đồ công tổ phụ.
(Phương Tu Đại Đạo).
四 皓
Tứ: Bốn. Hạo: Sáng sủa như lúc mặt trời mới mọc.
Đầu đời Hán, có bốn vị ẩn sĩ ở núi Thương Sơn, tuổi hơn tám mươi, tóc râu bạc trắng, đời gọi là “Thương Sơn Tứ hạo 蒼 山 四 皓”.
Tứ Hạo là bốn vị ẩn sĩ gồm: 1. Đông Viên Công. 2. Ỷ Lý Quý. 3. Hạ Huỳnh Công. 4. Lộc Lý Tiên Sinh.
Vua Hán Cao Tổ có cho người đến mời “Thương Sơn Tứ Hạo” ra làm quan, nhưng bốn ông đều từ chối.
Gầy dựng xong cho Lưu Bang thì Trương Tử Phòng ẩn chốn núi non, vui cùng Tứ hạo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
四 向
Tứ: Bốn. Hướng: Phía ngay mặt mình.
Tứ hướng, như chữ “Tứ phương 四 方”, là bốn phía, bốn phương, bốn hướng.
Giảng về Phật Mẫu Chơn Kinh, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chiếu theo lịnh dạy của Ðức Chí Tôn, Từ Huyên là Mẹ sanh của chúng ta, thọ sắc độ rỗi vạn linh tứ hướng, tức là con cái của Ngài không bỏ sót một ai.
Xem: Tứ phương.
Giặc tứ hướng đao binh khởi động,
Dấy can qua các giống giết nhau.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Tứ hướng trung ương hầu Ngũ nhạc,
Thiên binh thần tướng đến ngàn trùng.
(Thiên Thai Kiến Diện).
四 苦
Tứ: Bốn. Khổ: Vất vả, khổ sở.
Tứ khổ là bốn điều khổ não mà con người nơi cõi trần, ai cũng phải gánh chịu, không ai thoát khỏi. Đó là Sanh, lão, bịnh, tử.
Diễn Văn Đức Quyền Giáo Tông năm Giáp Tuất, 1934 có câu: Khi Ðức Thích Ca mở Ðạo Phật thì nhơn sanh buổi ấy còn Thánh Ðức nhiều; cá nhơn đều ngán sự khổ não truân chuyên ở thế nên Thiên Ðình phú cho Ngài lấy tôn chỉ tiêu cực diệt Tứ khổ (Sanh, Lão, Bịnh, Tử) mà độ chúng.
Khổ nội thân tứ khổ không sai,
Cầu bất tử là cầu đày thân khỏi tội.
(Thơ Hộ Pháp).
Đời lẩn quẩn không ngoài tứ khổ,
Đạo độ đời chỉ rõ trường sanh.
(Thơ Hộ Pháp).
四 靈
Tứ: Bốn. Linh: Thiêng liêng, huyền diệu.
Tứ linh là bốn con vật thiêng liêng gồm: Long (Rồng), Lân (Kỳ lân), Quy (Rùa), Phụng (Phượng).
Bốn con vật Long, Lân, Quy, Phụng đều có tánh linh, mỗi khi xuất hiện nơi đâu là mang đến điềm lành ở đó, hay báo hiệu cho biết có Thánh nhân ra đời lập đời thái bình thịnh trị.
Trong Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn dạy Giáo Hữu Thượng Kiệt Thanh làm cái Ngai Giáo Tông có chạm Tứ linh như sau: Nhứt là cái ngai của Giáo Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ Tứ Linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng...
Lại biểu lộ Tứ linh trên nóc,
Cột hai hàng ngắm dọc rồng xanh.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Hình Tứ linh chung quanh đắp nổi,
Kiến trúc đều mỗi mỗi dày công.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
四 娘 瑤 池 宮
Hay “Tứ Nương”.
Tứ Nương, hay Tứ Nương Diêu Trì Cung, là vị Tiên Nương đứng hàng thứ tư trong Cửu Vị Tiên Nương. Nơi Chánh Điện thờ tại Báo Ân Từ, Tứ Nương mặc áo màu đỏ, ngồi bên mặt Đức Phật Mẫu, tay cầm Kim Bản.
Tứ Nương có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn lên tầng Trời Huỳnh Thiên, là tầng Trời thứ tư trong Cửu Trùng Thiên. Nơi đây, nhờ thuyền rồng ngũ sắc đưa vào Cung Tuyệt Khổ yết kiến Đức Huyền Thiên Quân, dìu Chơn hồn chun ngang Bát quái, thiêu hết oan gia nghiệt chướng, để được nhẹ nhàng lên núi Thái Sơn, qua cung Đâu Suất, cỡi Kim mao hẩu về cõi Xích thiên.
Trên tầng Trời Huỳnh Thiên, Tứ Nương làm giám khảo tuyển chọn các bậc văn tài trong mỗi khoa thi, ai là người hiền đức, tài giỏi thì được Bà hộ trì cho thi đậu để đem tài năng ra giúp đời.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Tứ Nương có tên Gấm, nên bài thài hiến lễ Tứ Nương trong lễ Hội Yến Diêu Trì Cung khởi đầu bằng chữ “Gấm”.
Gấm lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa.
Đợi trong Nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng chẳng ngừa Tiên thi.
Kiếp giáng trần nầy Bà không giáng cơ cho biết Bà được giáng sinh ra ở thời kỳ nào, nhưng có một tài liệu cho rằng Bà Tứ Nương có một kiếp sinh ra vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh, tên là Lê Thị Gấm, bị chết trong chiến tranh vừa mới chín tuổi. Sau đó linh hồn Bà Gấm mới chuyển kiếp vào nhà họ Đoàn là Đoàn Doãn Nghi, rồi ông Nghi mới sinh ra Bà Đoàn Thị Điểm. Như vậy Bà Lê Thị Gấm là tiền thân của Bà Đoàn Thị Điểm.
Chính do tài liệu đó, hiện nay có một số người trong đạo Cao Đài cho rằng Bà Đoàn Thị Điểm chính là Tứ Nương Diêu Trì Cung.
Điều nầy theo chúng tôi nên đặt thành nghi vấn chờ sau có điều kiện Hội Thánh sẽ đem ra cầu hỏi nơi Bà hoặc các Đấng Thiêng liêng cho chính xác hơn.
Bởi có ba điểm mà chúng ta có thể nghi ngờ Bà Đoàn Thị Điểm không phải là Tứ Nương Diêu Trì Cung:
1- Bà giáng cơ dạy đạo, ban kinh Thế Đạo hay tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận không xưng hiệu Tứ Nương mà dùng tên Đoàn Thị Điểm.
Bà Đoàn Thị Điểm đối với đạo Cao Đài chẳng ai trong chúng ta còn lạ, Bà vốn là tác giả của các bài kinh Thế Đạo như: Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà, Kinh Tụng Khi Thầy Quy Vị, Kinh Cầu Tổ Phụ Đã Quy Liễu, Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Quy Liễu, Kinh Tụng Huynh Đệ Mãn Phần, Kinh Tụng Khi Chồng Quy Vị, Kinh Tụng Khi Vợ Quy Liễu, tất cả là tám bài kinh.
Nhứt là Bà giáng cơ ban cho quyển Nữ Trung Tùng Phận, một tác phẩm theo thể thơ song thất lục bát gồm 1401 câu để dạy dỗ đạo lý cho nữ phái đạo Cao Đài.
Chúng ta có điều thắc mắc là tại sao Bà là Tứ Nương Diêu Trì Cung, khi ban tám bài kinh, tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận Bà không giáng xưng là Tứ Nương mà lại đề tên là Đoàn Thị Điểm.
2.- Bà chính là học trò của Thất Nương Diêu Trì Cung.
Theo lời giáng dạy của Bà tại Hộ Pháp Đường ngày 13 tháng 6 năm Bính Tý (Dl. 30/7/1936) do Hộ Pháp và Tiếp Đạo phò loan, Bà xưng danh là Đoàn Thị Điểm và cho biết như sau:
Thiếp chào Thiên Tôn, Chơn Quân và mấy em.
Cười... Hèn lâu chẳng gặp, lòng vẫn nhớ nhau. Hôm nọ, thiếp có đặng mạng lịnh của thầy thiếp là Thất Nương dạy thiếp từ đây để lòng giáng dạy thường nữ phái. Thiếp chỉn tiếc một điều là không cơ bút. Vậy, thiếp nín nẳm đợi Lê Chơn Quân trở về Toà Thánh, thiếp sẽ giáng mỗi tháng hai kỳ.
Nếu Bà Đoàn Thị Điểm là học trò của Thất Nương Diêu Trì Cung, như vậy Bà khó có thể là Tứ Nương, đồng phẩm vị với Thất Nương.
3- Khi vừa quy vị Bà còn ở Thanh Tịnh Đại Hải Chúng nhờ lập công và Bà Thất Nương dìu dẫn nên bà mới được về cung Diêu Trì.
Điều nầy do Đức Hộ Pháp khi nói về Bà Đoàn Thị Điểm có cho biết trong bài Thuyết Đạo vào ngày 26 tháng 10 năm Tân Mão (Dl. 24/11/1951) như sau:
Khi Bà Đoàn Thị Điểm quy vị, bị ngồi nơi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, nhờ cô Thất Nương xuống độ Bà về Lôi Âm Tự, rồi nhờ Bà viết ra một cuốn Nữ Trung Tùng Phận, Bà mới siêu thoát được.
Cô Tứ Nương cầm riêng Kim Bản,
Cõi Huỳnh Thiên điểm rạng văn tài.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
四 方
Tứ: Bốn. Phương: Hướng, phía, góc.
Tứ phương như chữ “Tứ hướng”, là bốn hướng trời gồm: Đông, Tây, Nam, Bắc. Tứ phương dùng để chỉ các phương trời, hay tất cả các nơi.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong thời kỳ Đức Khổng Phu Tử lập Đạo giáo giáng sanh nhằm lúc thời bình lập đời quân chủ, khi Đức Mạnh Tử giáo dân nhằm lúc thời loạn phong trào sôi nổi, giặc giã tứ phương, bởi vậy cho nên Ngài lập đời lấy cái thuyết Quân Chủ dân quyền, tức là Quân Chủ lập hiến mới thâu phục được lòng dân.
Giúp người tâm trí hành Thiên mạng,
Tuyển bực nhân hiền trấn tứ phương.
(Thơ Bảo Pháp).
四 季
Tứ: Bốn. Quý: Mùa, ba tháng một quý.
Tứ quý là bốn mùa trong một năm. Đó là xuân, hạ, thu, đông.
Như: Hoa nở tứ quý, bộ tranh tứ quý.
Hữu vân hữu võ hữu phong ba,
Nhựt Nguyệt Âm Dương tứ quý hoà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Tứ sinh”.
Tứ: Bốn. Sanh (sinh): Sinh ra, sống.
Tứ sanh, như chữ “Tứ sinh 四 生”, là bốn loài vật chia theo cách được sinh ra, gồm: Thấp sinh, tức sinh ra nơi ẩm thấp như trùng, dế..., Hoá sinh, tức sinh ra do sự biến hoá như ruồi, muỗi..., Noãn sinh, tức sinh ra bằng trứng như gà, vịt..., Thai sinh, tức sinh ra từ bào thai như trâu, chó...
Trong Đạo Cao Đài, bài Kệ Chuông U minh, lời nguyện thứ sáu có câu: Tam thế tứ sanh chi nội các miễn luân hồi 三 世 四 生 之 內 各 免 輪 迴, nghĩa là tất cả các loài vật tứ sanh trong thời gian ba đời đều khỏi phải bị luân hồi chuyển kiếp.
Tam thế tứ sanh chi nội các miễn luân hồi.
(Kệ U Minh).
四 散
Tứ: Bốn. Tán: Tản ra, tan ra.
Tứ tán là tan ra bốn phía, tức tản ra khắp mọi hướng.
Như: Gia đình tứ tán, mỗi người một phương, giặc đến dân chúng chạy tứ tán.
Nhắc lại, khi Đức Khổng Phu Tử mất rồi Thất thập nhị Hiền tứ tán ra mỗi người một nơi dạy học.
(Giáo Lý).
Tứ: Bốn, chỉ bốn phía. Tung: Làm cho tách rời ra một cách lộn xộn, không có trật tự nào cả.
Tứ tung là ở bất cứ chỗ nào, khắp mọi nơi.
Tứ tung còn có nghĩa là lộn xộn, bừa bãi, để bất cứ đâu một cách hoàn toàn không có thứ tự. Như: Nhà dột tứ tung, tủ quần áo bị lục tứ tung.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hỏi thử ngày giờ gần đây ta thấy cái hại trong nước là tại làm sao chăng? Cả đạo nhơn luân điên đảo, biểu sao không trộm cướp loạn lạc, giặc giã tứ tung cho được!
Đồng bào chi phối phân trăm mảnh,
Xã hội lộn ngầu ngả tứ tung.
(Thơ Hộ Pháp).
Ấy cũng bởi sóng xô gió đẩy,
Cá trong đìa mới nhảy tứ tung.
(Thơ NĐS Hương Thanh).
四 牆
Tứ: Bốn. Tường: Vách.
Tứ tường, tức tứ đổ tường 四 賭 牆, là bốn tấm vách, ý chỉ bốn điều ham mê tệ hại, đó là: Uống rượu, chơi gái, đánh bạc, hút thuốc phiện, làm hư hỏng con người.
Danh ngôn ngày xưa có câu: Tửu sắc tài khí tứ đổ tường 酒 色 財 氣 四 賭 牆, nghĩa là rượu, nữ sắc, tham của, trang sức là bốn tấm vách làm cho con người đam mê, không thể vượt thoát ra được.
Xem: Tứ đổ tường.
Cõi trần tục trưng bày đủ cách,
Nhủ các con xa vách tứ tường.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Người mắc trong tứ tường, vách cao mà không cửa,
Có thang Trời đà bắt dựa, kíp mau leo.
(Giác Mê Khải Ngộ).
四 象
Theo Dịch học, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi là Âm Dương, Lương Nghi Âm Dương mới sinh ra Tứ Tượng là Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm.
Ngoài ra có thuyết cho rằng:
1.- Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả là Tứ Tượng.
Hệ từ trong Dịch có câu: Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng. Chú thích: Kim Mộc Thuỷ Hoả thụ bẩm từ Trời Đất mà có, như vậy Kim Mộc Thuỷ Hoả được sinh từ Âm Dương, tức Lưỡng Nghi mà ra.
2.- Sách Chu Dịch Chiết Trung dẫn lời Thiệu Ung: Tứ Tượng là Âm, Dương, Cương, Nhu.
Ta biết có Âm, Dương mới sinh ra Trời, có Cương, Nhu sau mới sinh ra Đất.
Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn khôn Thế giới.
Biến Tứ Tượng nói sanh Bát Quái,
Thập Nhị Chi lại với Thập Can.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Hay “Tứ Thư”.
Tứ: Bốn. Thơ (thư): Sách.
Tứ thơ, như chữ “Tứ thư 四 書”, là bốn bộ sách quan trọng của Nho giáo, được các môn đệ của Đức Khổng Tử biên soạn, sau khi Ngài mất.
Đời Nam Tống, niên hiệu Thuần Hy, Sửa sang lại khoa cử, Châu Hy lấy bốn quyển là Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử hợp lại gọi chung là Tứ Thư, rồi đem chú thích để người học được rõ.
Tứ Thơ: Bốn bộ sách nầy do ngưưòi sau soạn. Nhắc lại, khi Đức Khổng Phu Tử mất rồi Thất thập nhị Hiền tứ tán ra mỗi người một nơi dạy học.
(Giáo Lý).
四 時
Tứ: Bốn. Thời: Thời điểm trong một ngày đêm.
Tứ thời là bốn thời điểm trong một ngày đêm là Tý, Mẹo, Ngọ, Dậu mà người tín đồ Cao Đài phải thiết lễ cúng Đức Chí Tôn tại Thánh Thất hay Thiên Bàn tại tư gia, gọi là Cúng Tứ thời.
Theo Dịch học, bốn thời điểm đó ở vị thế đặc biệt của hai khí Âm Dương.
Thời Tý: Lúc 12 giờ khuya, khí Âm cực thịnh, khí Dương khởi sinh.
Thời Mẹo: Lúc 6 giờ sáng, hai khí Âm Dương giao hoà với nhau.
Thời Ngọ: Lúc 12 giờ trưa, khí Dương cực thịnh, khí Âm khởi sinh.
Thời Dậu: Lúc 6 giờ chiều, hai khí Âm Dương giao hoà với nhau.
Tam Trấn thừa hành cơ chuyển thế,
Tứ thời xưng tụng Đấng Khai Thiên.
(Thơ Huệ Phong).
Tứ thời: Bốn thời điểm trong ngày đêm. Nhật tụng: Cúng tụng hằng ngày.
Tứ Thời Nhựt Tụng 四 時 日 誦 là bốn thời điểm tụng kinh của tín đồ đạo Cao Đài trong ngày tại Thánh Thất hay tại tư gia.
Những bài kinh dùng để tụng trong bốn thời kể trên được in trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đao, gồm tám bài: Niệm Hương, Khai Kinh, Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế, Kinh Phật Giáo, Kinh Tiên Giáo, Kinh Nho giáo, Bài Dâng Rượu (hay trà), Ngũ Nguyện.
Nếu cúng vào thời tý và ngọ thì rót rượu và đọc bài kinh Dâng Rượu.
Nếu cúng vào thời mẹo và dậu thì rót trà và đọc bài kinh Dâng Trà.
Tứ thời nhật tụng trau mình,
Trọn câu minh thệ, thần linh chứng lòng.
(Thơ Huệ Nhật).
四 處
Tứ: Bốn, chỉ số lượng, trên ba dưới năm. Xứ: Nơi ở, miền, nước.
Tứ xứ là bốn phía ở chung quanh, khắp mọi nơi, ý chỉ toàn cả các nơi trên thế giới.
Như: Người tứ xứ tụ họp về đây rất đông, đạo Cao Đài mới chín mươi mấy năm đã phổ truyền khắp tứ xứ.
Học cho rộng giao thông tứ xứ,
Học cho cùng xủ sự ngoại lân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
1.- Từ là bắt đầu, kể khởi đầu. Như: Từ đó, từ đây, từ khi, từ rày, từ sáng đến tối.
Thánh giáo Thầy có câu: Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho Thần hiệp Tinh, Khí đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
Một nhà vầy hội rất mừng thay,
Ðạo Thánh từ đây đặng vẹn ngay.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Khiêm cung từ thuở tuổi thơ sanh,
Thương mẹ hiếu cha lắm nhọc nhằn.
(Đạo Sử).
2.- Từ, như chữ “Từng”, chỉ mỗi cái một, tức chỉ mỗi một đơn vị riêng lẻ, hết đơn vị nầy đến đơn vị khác.
Như: Từ người, từ ngày, từ câu từ chữ, lo từ ly từ tý.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Thầy buộc phải nói rõ cho các con đừng lầm mà trách Thầy. Cha hiền chả biết hành hạ con cái bao giờ. Thầy đã đến mà dìu dắt từ đứa thì lẽ nào lại đành lòng xô đuổi.
Thử từ nết khi chung lúc chạ,
Gióng từ hơi hoà nhã tơ loan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Cha mẹ dạy sanh tiền chẳng phục,
Đến lớn khôn ngồi khóc nhắc từ lời.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Từ 詞 là lời, lời nói. Như: Ngôn từ, văn từ, đại từ, danh từ, từ chương.
Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Hiền hữu có nhớ những lời Bần Đạo đã giãi bày lúc trước bằng nhiều cách và lấy danh từ khác nhau mà dìu dẫn chăng?
Đàm luận ôn hoà, đầy khí phách,
Ngôn từ tao nhã đủ tinh thần.
(Thơ Thông Quang).
4.- Từ 辭 là chối, nhường, không nhận, xin thôi. Như: Từ quan, từ chức, từ chối, từ bỏ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nhưng đã từ bỏ cảnh phồn hoa để sống về mặt Ðạo, đã quyết chí hy sinh để cứu vớt kẻ trầm luân nơi khổ hải thì dầu cực nhọc bao nhiêu, chúng ta dễ gì nản chí.
Đừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa đòn roi không từ.
(Kinh Sám Hối).
Từ bỏ lần hồi lầm lỗi trước,
Tự nhiên bể khổ lánh xa vời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lộc Hớn từ vinh Trương học chước,
Cầm đường tiếng hạc phủi muôn chung.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
5.- Từ là giã nhau, từ biệt nhau.
Như: Từ biệt bạn bè, từ tạ lên đường, sau cơn bịnh hai tháng anh ấy đã từ trần.
Thầy giã từ các con. Các con sẽ còn học hỏi nhiều việc khác nữa với mấy vị môn đồ của Thầy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
6.- Từ 慈 là lành. Như: Hiền từ, từ ái, từ bi, từ thiện, nhân từ đạo đức, Đại Từ Phụ.
Thánh giáo của Đức Chí Tôn bằng Pháp văn được Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Thầy được hiểu lòng nhân đức, tánh từ thiện của con, nên Thầy cho con được thoả nguyện.
Thuyền từ sông lệ buồm trương cánh,
Cảnh trí rừng thung khách lướt đường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chích mát oan gia đôi lứa cách,
Chẳng lo tu tánh đặng từ hoà.
(Đạo Sử).
7.- Từ 徐 là thong thả. Như: Làm từ từ, đi từ từ.
Thánh giáo Thầy có câu dạy: Các con hãy suy đó mà gìn trọn phẩm hạnh, vẹn giữ bước đường, chậm rãi từ năm từ hồi thì tự nhiên được lương tâm yên tịnh.
Nếu muốn an vui theo lẽ đạo,
Từ từ đừng vọng vị cao lương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
慈 愛
Từ: Người trên thương yêu kẻ dưới, tình thương. Ái: Yêu, thương.
Từ ái là lòng thương yêu.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Theo tình cảm, trước hết ta phải thương những người thân cận như là cha, mẹ, anh, em và gia tộc, thứ nữa ta phải nới rộng tình thương tới cả nhơn loại, vì đức Nhân là tiêu chuẩn của lòng từ ái và tánh vị tha, không thể khép vào một chỗ chật hẹp được.
Từ ái làm nền an thổ võ,
Đức ân dụng phép tạo nhơn duyên.
(Thài Thượng Sanh).
Lập quyền vẹn giữ gương từ ái,
Bủa đức bền trau chí Thánh hiền.
(Thơ Tiếp Đạo).
慈 恩
Từ: Thương yêu kẻ dưới. Ân: Ơn huệ.
Từ ân là ơn huệ của người trên vì thương yêu mà ban cho kẻ dưới.
Như: Phật Mẫu thương yêu chúng sanh, nên từ ân của Ngài được gội khắp.
Đại thiên Thế giới, dương tụng từ ân,
Vĩnh kiếp quần sanh, ngưỡng kỳ huệ đức.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Đàn tràng viên mãn, Chức sắc quy nguyên.
Vĩnh mộc từ ân, phong điều võ thuận.
(Kệ Chuông).
慈 悲
Từ: Thương yêu. Bi: Thương xót.
1.- Từ bi là lòng thương yêu, lo lắng mong giúp đỡ cho chúng sanh được an lành và cứu vớt chúng sanh ra khỏi tai ương, khổ não.
Lòng từ bi phải là một chân tâm, xuất phát từ lòng trắc ẩn thành thật, không vụ lợi, không phân biệt thân sơ hay sang hèn. Từ bi là một thứ tình thương đem đến niềm an vui cho kẻ khác. Người có từ tâm, thì lúc nào cũng muốn tạo và dâng hiến sự an lành, hạnh phúc cho kẻ khác, còn người có lòng từ bi thì bao giờ cũng mong xoa dịu hay làm vơi bớt những nỗi đau của kẻ khác.
Ban cho điều sung sướng, cứu giúp sự khổ não, mà làm sao tự ta không thấy mình là người ban ơn, người là kẻ thọ ơn, như thế mới thật là lòng từ bi.
Đại Từ Phụ từ bi tạo hoá,
Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn.
(Kinh Tận Độ).
Phẩm cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.
(Đạo Sử).
Lần chuổi hột từ bi cứu khổ,
Nương gió thanh trăng tỏ là nhà.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Từ bi hay Đại Từ bi là lòng từ bi tối thượng, chỉ đạt được khi đã đạt được trí huệ tối thượng, tức là tâm từ bi tuyệt đối, vô điều kiện, chỉ có được nhờ sự giác ngộ rốt ráo về chân lý. Đó là lòng từ bi của Đức Thượng Đế và chư Phật Tiên.
Như vậy, Từ Bi hay Đại Từ Bi dùng để chỉ Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu hay chư Phật.
Từ Bi giá ngự rạng môn thiền,
Đệ tử mừng nay hữu huệ duyên.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Vừa mở mắt giựt mình thức dậy,
Con mang ơn cúi lạy Từ Bi.
(Kinh Thế Đạo).
Biết chăng cái thảm mất chồng,
Xin cho thiếp dựa nơi lòng Từ Bi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
辭 別
Từ: Cáo từ. Biệt: Phân, chia.
Từ biệt là cáo từ để ra đi.
Bài Điếu văn của Đức Thượng Sanh đọc trước Liên đài Ngài Bảo Văn Pháp Quân có câu: Tuy đã biết nợ Ðạo rồi xong, tuồng đời chấm dứt, Ngài đã trả xác trần lại cho gió bụi để trở về với Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ, và rồi đây chúng tôi có thể tiếp xúc với Ngài bằng huyền cơ diệu bút, nhưng trước cảnh từ biệt kẻ mất người còn, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi, mến tiếc khi nhớ đến bạn đồng thuyền đã cùng chúng tôi chia sớt ấm lạnh, mặn nồng và chung lưng đâu cật trót hơn mấy mươi năm để mưu cầu hạnh phúc của nhơn loại.
Lệ đoanh tròng như chực tuôn rơi,
Từ biệt dầu ai cũng ngậm ngùi.
(Thơ Hoài Tân).
Từ: Không nhìn nhận, tự coi là không có quan hệ, không trách nhiệm. Bỏ: Không dùng, không nhìn nhận.
Từ bỏ là bỏ đi không nhìn nhận, tự coi là không quan hệ gì nữa.
Từ bỏ còn có nghĩa là thôi không tiếp tục theo đuổi.
Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy đã chán mắt thấy phái Nữ hành đạo thế nào, biết bao phen Thầy buồn, mà buồn rồi lại giận, muốn chẳng lập Nữ phái mà làm gì, nhưng trai gái cũng đồng con, Thầy không nỡ đành lòng từ bỏ.
Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,
Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.
(Kinh Thế Đạo).
Từ bỏ lần hồi lầm lỗi trước,
Tự nhiên bể khổ lánh xa vời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Tự cổ chí kim”.
Từ (tự): Bắt đầu, kể khởi đầu. Cổ: Xưa. Chí: Đến, tới. Kim: Nay, hiện thời.
Từ cổ chí kim, như chữ “Tự cổ chí kim 自 古 至 今”, là từ xưa tới nay.
Nói về đức tính của Ngài Quan Thánh, Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Tánh Ðức Ngài trọng nghĩa như Thái Sơn, nay thấy kẻ yếu thế đã hạ mình, phần Tào Tháo thiết tha khẩn cầu, phần binh tướng Tào Tháo khép nép rơi lụy nên Ðức Ngài động lòng cảm niệm quay ngựa ra lịnh cho binh mã của mình dang ra để cho Tào Tháo và binh tướng đều chạy qua khỏi, không giết người dưới ngựa, mặc dù có lập sanh tử trạng, thà cam chịu chết để trả xong ơn nghĩa, từ cổ chí kim không có người thứ hai như vậy.
Chúng ta đã ngó thấy, từ cổ chí kim có cái cường lực hình thể nào làm cho họ khủng khiếp, sợ hãi chăng?
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Từ: Khước bỏ. Chối: Không nhận.
Từ chối là không nhận, tức là chẳng chịu nhận cái được dành cho, hoặc được yêu cầu. Như: Từ chối sự giúp đỡ của bạn bè.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Hễ luận theo cái khuôn luật tạo đoan ấy, đặng định tiến triển của ta, thì ta thuận Đạo, đạt Đạo, còn trái lại là theo con đường vật loại, là Đời, tinh thần mà ta bỏ, tức nhiên chính mình chúng ta từ chối địa vị thiêng liêng ta có, hay là chúng ta tự lên án cho chúng ta ai đã chối Đạo theo thường tình gọi là bỏ Đạo, là người đó họ chối cái phận sự làm người, tức nhiên từ chối phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, điều đó không có phi lý.
Thầy đã cho kẻ thù Thầy đặng hưởng ân điển của Thầy, lẽ nào truất bỏ phần của các con, song tại các con từ chối, đáng thương mà cũng đáng ghét!
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
祠 堂
Từ: Miếu thờ, nhà thờ họ. Đường: Cái nhà.
Từ đường là nhà thờ tổ tiên của một dòng họ. Như: Làm lễ từ đường để phát hành.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thiết lễ Tân quan, khi vị Tân quan vào bái lễ Từ đường, rồi trở ra hội yến với các quan.
Phạm phủ ân thâm thiên cổ tại,
Từ đường nghĩa trọng bách niên tồn.
(Liễn Nội Tông Phạm Phủ).
Từ: Cáo từ. Giã: Giã biệt.
Từ giã là chào người có quan hệ thân thiết, gắn bó để lên đường đi xa.
Từ giã còn có nghĩa là giã biệt ra đi với ý nghĩ là không có dịp trở về gặp lại nhau nữa.
Thánh giáo Đức Chí Tôn bằng Pháp văn, do Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có đoạn: Con ráng tiếp tục đi trên con đường vạch sẵn ấy để theo đuổi đến mức cuối cùng. Nhiều Ðấng Anh linh sẽ dìu bước cho con. Các lời cầu nguyện của con sẽ được chuẩn nhận. Bấy nhiêu đây đủ rồi. Từ giã con.
Từ giã các con ở lại trần,
Mẹ về Tiên cảnh dạ bâng khuâng.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
徐 甲
Từ Giáp là người đánh xe và chăn con thanh ngưu (con trâu xanh) cho Đức Lão Tử.
Theo lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, khi Từ Giáp đánh xe cho Lão Tử đi về hướng tây, đến ải Hàm Cốc, Lão Tử bảo Từ Giáp: Ngươi theo ta đã lâu, đánh xe cho ta đi mà ta chưa thưởng tiền. Nay đến ải Hàm Cốc, ta sẽ thưởng cho ngươi 30 muôn tiền điếu. Từ Giáp lấy làm thích chí lắm. Vừa đến ải, Từ Giáp hỏi Lão Tử lấy tiền như đã hứa. Lão Tử đáp rằng: Nay mới tới ải Hàm Cốc ta chưa có tiền, đợi ta đi đến các nước, ta sẽ thưởng tiền thêm cho ngươi. Từ Giáp nghe lời, dẫn thanh ngưu ra đồng cho ăn cỏ.
Đức Lão Tử bẻ một nhánh hoa, biến thành một cô gái xinh đẹp để thử Từ Giáp. Cô gái đẹp la cà đến Từ Giáp trêu ghẹo, Từ Giáp vui vẻ mới cùng nàng hứa hẹn kết duyên. Do vậy, Từ Giáp không muốn theo Lão Tử nữa, định bụng ở lại cưới người con gái làm vợ.
Đến chiều Từ Giáp dẫn thanh ngưu về, đòi tiền Lão Tử cho bằng được. Lão Tử hẹn sau sẽ trả, nhưng Từ Giáp không chịu đòi đi quan sở tại kiện Lão Tử để đòi tiền. Lão Tử giận nói: Ngươi theo ta hơn hai trăm năm nay, đáng lẽ phải đầu thai ba kiếp, may nhờ ta cho uống lá bùa Thái huyền mà ngươi được sống đến ngày nay, sao không biết mang ơn mà lại kiện ta?
Lão Tử nói dứt thì lá bùa Thái huyền từ trong miệng Từ Giáp bay ra. Từ Giáp ngã xuống, rũ thành một đống xương.
Doãn Hỷ thấy vậy thất kinh, bèn xin Lão Tử tha tội cho Từ Giáp. Đức Lão Tử liền quăng lá bùa trở lại đống xương thì Từ Giáp huờn hình sống lại. Doãn Hỷ thay Lão Tử lấy số tiền trả cho Từ Giáp. Từ Giáp được tiền liền ra đồng đi tìm cô gái nọ, tìm mãi không thấy, vào làng hỏi thăm cũng không ai biết cô gái ấy. Loanh quanh tìm kiếm cả ngày, quá ư mệt mỏi, Từ Giáp bèn ngồi xuống nghỉ, bỗng chợt tỉnh ra, biết Lão Tử hoá phép thử mình. Chàng ăn năn hối ngộ, cầu xin Lão Tử tha tội, nguyện quyết chí theo hầu Đức Lão Tử.
Từ đó, Lão Tử truyền đạo cho Từ Giáp tu thành tiên, giữ nhiệm vụ chăn con thanh ngưu và đánh xe cho Đức Lão Tử.
Bên trong hành lang Nam phái tại Báo Ân Từ có vẽ khuôn hình nói tích “Từ Giáp chăn thanh ngưu”.
Từ Giáp tu, tánh còn sanh sự,
Dẫy xe cho Lão Tử đòi tiền.
Giữ trâu gặp gái hứa duyên,
Ngài thương thử pháp Thái huyền hồi sinh.
(Báo Ân Từ).
慈 航 菩 薩
Hay “Từ Hàng”.
Từ: Lòng thương người. Hàng: Chiếc thuyền. Bồ Tát: Bậc đã giác ngộ, nhưng không an hưởng Niết bàn mà vẫn lặn lội trong sáu cõi để cứu độ chúng sinh.
Từ Hàng là thuyền từ, chỉ Từ Hàng Đạo Nhơn hay Từ Hàng Bồ Tát.
Từ Hàng là một vị Phật, nhưng vì lòng thương xót chúng sanh, nên Ngài vẫn giữ nhiệm vụ cứu khổ, tế độ sinh linh đang bị đoạ trần. Vì thế, Danh hiệu Ngài được ví như chiếc thuyền từ bi cứu vớt người đưa qua biển khổ. Mặc dầu là Phật vị, nhưng Ngài vẫn xưng danh hiệu Bồ Tát, hay Đạo Nhơn và nhiều lần chiết Chơn linh giáng phàm để cứu độ quần linh.
Trong thời nhị kỳ Phổ Độ, Từ Hàng Bồ Tát có giáng linh xuống làm hai vị nữ nhân là Thị Kính và Diệu Thiện, sau đó tu hành đắc quả thành Quan Âm Bồ Tát, hay Phật Bà Quan Âm. Trong Thánh giáo ngày 22-7-1926, Chí Tôn có cho biết: “Người gọi Quan Âm là Nữ Phật Tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhơn biến thân. Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần đời nhà Thương”.
1.- Từ Hàng Bồ Tát:
Tùng lịnh Từ Hàng Bồ Tát, năng du Ta Bà Thế Giái thi pháp hộ trì vạn linh sanh chúng
(Di Lạc Chơn Kinh).
2.- Từ Hàng:
Cung Tận Thức thần thông biến hoá,
Phổ Đà Sơn giải quả Từ Hàng.
(Kinh Tận Độ).
Rừng trước Từ Hàng ngắm thảnh thơi,
Biến thân Nam Hải tiếng lưu đời.
(Thơ Tiếp Đạo).
慈 和
Từ: Lòng thương yêu người, vật. Hoà: Hoà thuận, không sinh sự.
Từ hoà là nhơn từ và hoà thuận, tức có lòng thương yêu, giúp đỡ hết và hoà đồng với mọi người.
Thuyết Đạo Hộ Pháp về Quan Âm Như Lai có câu: Buổi Tam Kỳ Phổ Độ nầy Đức Chí Tôn đã chọn lựa một Đấng cao trọng cho đến mặt địa cầu 68 nầy, có lẽ chúng ta đều biết danh Ngài hết, nhứt là Ngài lựa chọn một Đấng có thâm tình với nòi giống chúng ta hơn hết, cái tánh đức từ hoà yêu ái của Ngài, chúng ta đừng kiếm Đức Quan Âm đâu xa hơn là Thị Kính.
Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Rán tập thành sửa tánh từ hoà.
(Kinh Sám Hối).
Dạy kỉnh người lòng dạ từ hoà,
Đừng lựa lịch sắc hoa toan gắn bó.
(Phương Tu Đại Đạo).
慈 惠
Từ: Lòng thương yêu người, vật. Huệ: Lòng nhân ái.
Từ huệ là có lòng thương người mến vật. Chí từ huệ là ý chí của người có lòng nhân ái.
Như: Lòng từ huệ của Đức Phật Mẫu với toàn con cái thật là vô biên.
Chí từ huệ giúp an lê thứ,
Thông rõ đời nhơn sự kiết hung.
(Xưng Tụng Công Đức).
慈 萱
Từ: Yêu mến, chỉ người mẹ. Huyên: Cỏ huyên, một loại cỏ ngày xưa thường trồng nơi bà mẹ ở, chỉ bà mẹ.
1.- Từ huyên chỉ người mẹ hiền lành, yêu thương nâng niu các con cái.
Cảm nghĩa từ huyên lánh cõi trần,
Cù lao chín chữ khó đền ân.
(Thơ Thái Phong).
Trên án nêu cao hình Bảo Pháp,
Trong tâm gợi nhớ bóng từ huyên.
(Thơ Hàn Sinh).
2.- Trong tôn giáo Cao Đài, chữ “Từ huyên” dùng để chỉ bà mẹ Thiêng liêng, tức là Đức Diêu Trì Kim Mẫu.
Chiếu nhũ lịnh Từ huyên thọ sắc,
Độ anh nhi nam, bắc, đông, tây.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
瓷 器
Từ: Đồ sành sứ. Khí: Đồ vật, đồ dùng.
Từ khí là đồ sành sứ, tức những thứ đồ vật làm bằng đất nung như chén, ly tách, bình bông, dĩa quả...
Từ khí thường được dùng để chỉ những thứ đồ vật ở đình chùa hay Thánh Thất.
Trong đạo Cao Đài, Đạo Luật Năm Mậu Dần có quy định mỗi Thánh Thất phải lập một Bộ Từ khí để ghi chép những vật dụng trong Thánh Thất.
Mỗi Thánh Thất phải lập một cuốn bộ Từ khí biên các vật dụng của Đạo.
(Đạo Luật Mậu Dần).
慈 林 寺
Hay “Từ Lâm”.
Từ Lâm Tự là tên một ngôi chùa của Hoà Thượng Như Nhãn, được cất trên một cái gò đất lớn có mọc nhiều cây kén, nên còn được gọi là Chùa Gò Kén.
Hoà Thượng Như Nhãn trước kia trụ trì nơi chùa Giác Hải ở Phú Lâm Chợ Lớn, nên còn được gọi Hoà Thượng Giác Hải. Ông quyên tiền bổn đạo nơi chùa Giác Hải đến tỉnh Tây Ninh mua một khu đất rộng bốn mẫu tại Gò Kén, cách tỉnh lỵ khoảng năm cây số để xây dựng ngôi Từ Lâm Tự.
Chùa Từ Lâm được cất xong phần chánh điện vào năm 1926 thì Hoà Thượng Như Nhãn được Đức Chí Tôn giáng cơ độ theo đạo Cao Đài và phong làm Thái Chưởng Pháp vào ngày 5-9-1926. Khi Đức Chí Tôn dạy làm lễ khai đạo thì Hoà Thượng Như Nhãn hiến ngôi Từ Lâm Tự cho Đạo Cao Đài làm Thánh Thất tạm để tổ chức Đại lễ Khai đạo.
Sau ngày khai đạo, Hoà Thượng Như Nhãn đổi ý không muốn hiến chùa Từ Lâm cho đạo Cao Đài nữa, nên đòi chùa và kỳ hạn trong ba tháng đạo Cao Đài phải trả chùa lại. Vì vậy, Hội Thánh Cao Đài mới đi tìm mua được 100 mẫu đất rừng ở làng Long Thành tỉnh Tây Ninh để xây cất Toà Thánh.
1.- Từ Lâm:
Từ Lâm Gò Kén điểm ban sơ,
Nơi Đức Cao Đài khởi giáng cơ.
(Thơ Huệ Phong).
2.- Từ Lâm Tự:
Vì cớ nên mới có quỷ lộng tại Từ Lâm Tự buổi nọ, các ấn khác của Hộ Pháp có linh hay không mà quỷ lộng?
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Hay “Từ lệnh”.
Từ: Yêu mến, chỉ người mẹ. Lịnh (lệnh): Mệnh lệnh.
Từ lịnh, như chữ “Từ lệnh 慈 令”, là mệnh lệnh của bà mẹ hiền dạy dỗ.
Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng,
Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
慈 母
Từ: Hiền lành. Mẫu: Mẹ.
Từ mẫu là người mẹ hiền lành, luôn yêu thương lo lắng, và hy sinh cho con cái.
Trong Tôn giáo Cao Đài, Từ mẫu hay Đại Từ mẫu dùng để gọi Đức Diêu Trì Phật Mẫu.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Sự hội hiệp của toàn cả Chức sắc Phước Thiện nơi Tổ Ðình vào đầu tiết xuân để bái lễ Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu là một điều quý báu do nơi lòng hiếu kỉnh của các con cái đối với hai đấng Chí Linh là Ðại Từ Phụ và Ðại Từ Mẫu.
Từ mẫu xem qua bắt động lòng,
Tình thương vô tận, đứng ngồi, trông.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Lương y từ mẫu ơn như biển,
Cải tử huờn sanh nghĩa sánh trời.
(Thơ Thành Toại).
慈 嚴
Từ: Hiền lành, chỉ bà mẹ. Nghiêm: Trang nghiêm tôn kính, chỉ người cha.
Từ là đức tính của người mẹ, nên chữ từ nói về bà mẹ. Nghiêm là đức tính của người cha, nên chữ nghiêm nói về ông cha.
Như vậy chữ “Từ nghiêm 慈 嚴”, là tiếng dùng để chỉ mẹ lẫn cha.
Xem: Nghiêm từ.
Giữ tánh ôn hoà cùng huynh đệ,
Gìn tâm hiếu kỉnh với từ nghiêm.
(Thơ Thiên Vân).
慈 父
1.- Từ: Hiền lành. Phụ: Người cha.
Từ Phụ chỉ người cha hiền lành, tức người cha của hình hài xác thịt, có công đào tạo và dưỡng dục ta.
Nỗi riêng chưa vẹn thân từ phụ,
Nghĩa nặng đeo đai phận má đào.
(Thất Nương Giáng Bút).
2.- Từ phụ hay Đại Từ phụ, trong Tôn Giáo Cao Đài, còn dùng để chỉ Đức Chí Tôn, một Đấng có công sanh hoá ra muôn loài muôn vật, có lòng thương yêu vô bờ bến, nuôi nấng và dìu dẫn một cách đồng đều tất cả chúng sinh, tựa như một vị cha lành có lòng tha thiết, chắt chiu lo cho các con còn bé nhỏ: “Các con ôi! Thầy lấy đức háo sanh mà dìu dắt các con, chẳng khác nào như kẻ làm cha nưng niu dạy dỗ một trẻ bé trông cho mau trưởng thành, hầu lưu danh truyền nghiệp cho có tên tuổi với đời” (Thánh ngôn hiệp tuyển).
a.- Từ Phụ:
Sấp mình cúi lạy xin thưa,
Ơn Trên Từ Phụ cho chừa tội khiên.
(Kinh Thế Đạo).
Hiếu nghĩa tương lai sau tụ hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.
(Đạo Sử).
b.- Đại Từ Phụ:
Đại Từ Phụ từ bi tạo hoá,
Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn.
(Kinh Tận Độ).
慈 心
Từ: Người trên thương yêu người dưới, lòng thương người. Tâm: Lòng.
Từ tâm là lòng từ, tức lòng thương yêu con người.
Người có từ tâm là người có lòng yêu thương chúng sanh và mong muốn đem đến cho họ sự an lạc.
Từ tâm là một trong “Tứ vô lượng tâm 四 無 量 心”, đó là Từ, Bi. Hỷ, Xả.
Các con cúi đầu trình Sư Phụ,
Gìn từ tâm khuyến nhủ tăng đồ.
(Kinh Thế Đạo).
Râu mày dầu khác bậc quần thoa,
Là biết từ tâm với phụ tề.
(Bát Nương Giáng Bút).
Cột thân ái cậy lòng đạo đức,
Gầy từ tâm gắng sức ôn nhu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
慈 親
Từ: Chữ dùng để gọi bà mẹ. Thân: Tiếng dùng để chỉ Cha hoặc mẹ, như hai thân.
Từ thân là chỉ bà mẹ.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Mai chiều chúng ta đến thăm viếng Ðức Mẹ như Từ thân chúng ta vậy, mộ khang là: đến thăm mai chiều gọi là vấn an Ðức Mẹ đó vậy.
Hỏi số từ thân sẽ thế nào?
Tám mươi gần mãn số Thiên Tào.
(Đạo Sử).
Chạnh niềm cốt nhục thêm buồn tủi,
Thương nỗi từ thân luống thở than.
(Thơ Hương Cường).
慈 善
Từ: Từ bi, nhơn từ, chỉ lòng thương người. Thiện: Lành, việc lành.
Từ thiện là có lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khổ để làm phước. Như: Hội từ thiện.
Thần Hoàng Bổn Cảnh trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Nghĩ vì Thiên cơ đã định vậy, thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm lòng từ thiện ăn năn sám hối, lo việc tu hành, đồng với nhau cả quốc dân mà quỳ lụy khẩn cầu coi Trời đoái tưởng đến chăng.
Thầy được hiểu lòng nhân đức, tánh từ thiện của con, nên Thầy cho con được thoả nguyện.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
徐 恕
Từ Thứ là người đời Tam Quốc, làm quân sư cho Lưu Bị trước khi Lưu Bị gặp Khổng Minh.
Từ Thứ tự là Nguyên Trực, quê ở Vĩnh Châu, thuở nhỏ thích cung kiếm, lớn lên lo học hành, trở nên người tài giỏi, được Lưu Bị cho làm quân sư, lấy tên là Đan Phúc.
Tào Tháo biết Từ Thứ là người tài, muốn thu dụng, Trình Dục bèn bày kế, mạo chữ của mẹ Thứ kêu gọi Từ Thứ về quy hàng Tào Tháo.
Sau khi theo Tào, Từ Thứ trở về thăm mẹ, bà vừa thấy mặt con giận mắng cho một hồi, rồi treo cổ tự tử chết.
Lánh Hớn, Tử Phòng chưa phải dại,
Về Tào, Từ Thứ cũng là khôn.
(Thơ Hộ Pháp).
Từ: Bắt đầu, kể khởi đầu. Thử 此: Ấy, đó, cái ấy.
Từ thử là từ đó, kể từ lúc ấy.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Thầy đã gầy phương thế cho các con đủ quyền hành lập Ðạo, chờ các con nên thể thống. Chi chi từ thử cũng một tay Thầy. Thầy để rộng quyền cho các con thay mặt Thầy mà dìu dắt lấy nguyên nhơn, đã chịu nạn luân hồi nơi khổ cảnh.
Từ thử nước Nam chẳng Ðạo nhà,
Nay Ta gầy dựng lập nên ra.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chúng ta từ thử bạn đồng tâm,
Dìu bước nhơn sanh khỏi lạc lầm.
(Thơ Hộ Pháp).
徐 式
Từ Thức là người ở Hoá Châu nước ta, làm Tri huyện Tiên Du, đời nhà Trần. Gần huyện có một ngôi chùa nổi tiếng đẹp, trồng nhiều hoa mẫu đơn.
Hằng năm du khách đến xem đông như ngày hội. Năm Quang Thái thứ 9 (1396), trong số du khách có một thiếu nữ vô ý làm gãy một cành mẫu đơn. Nhà chùa bắt đền. Nàng không có sẵn tiền, lại không có người quen, nên không biết tính sao. May lúc ấy có Từ Thức đến, thấy vậy cởi áo thế cho nhà chùa, cô gái mới được tha về.
Từ Thức tính hào phóng, không thích gò bó trong chốn quan trường, nên treo ấn từ quan, đi ngao du sơn thuỷ. Một hôm, bơi thuyền dạo chơi cửa biển, chợt thấy hòn núi có phong cảnh kỳ vĩ, Từ Thức đi lần vào hang núi, liền gặp được người con gái làm gãy cành hoa mẫu đơn lúc trước. Nàng cho biết đây là cõi tiên và tên nàng là Giáng Hương có duyên phần với Từ Thức.
Hai người bèn kết làm vợ chồng với nhau. Được một năm ở cõi tiên, Từ Thức bỗng nhớ nhà, đòi trở về. Giáng Hương cầm ở lại hết sức nhưng không được, đành trao một bức thư và đưa chàng ra khỏi động. Khi về đến nhà mở ra xem, mới biết là thơ vĩnh biệt. Chàng thấy cảnh vật đổi khác rất nhiều, vì đã qua 60 năm nơi cõi trần, người cùng thời chết hết, con cháu không nhìn ra. Từ Thức buồn bã, bỏ nhà tìm lại con đường cũ, nhưng không thấy hòn núi. Về sau chàng mất tích luôn tại nơi ấy.
Trên hành lang Báo Ân Từ, về phía nam phái có vẽ một khuôn tranh lấy tích “Từ Thức viếng chùa xem hoa”.
Nào khi hỏi thăm hang Từ Thức,
Nào khi dò mấy bực cầu ô.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Cảnh vật chùa quyền thì sư vãi,
Giáng Hương sờ hoa gãy một cành.
Bắt đền, cô gái ngó quanh,
Từ Thức thế áo, sau thành Tiên duyên.
(Báo Ân Từ).
辭 榮
Từ: Chối, chối bỏ. Vinh: Vẻ vang, vinh hiển.
Từ vinh là từ chối sự vẻ vang vinh hiển.
Từ vinh, ở đây nói đến Trương Lương, một công thần của nhà Hán, được Lưu Bang phong Hầu, nhưng ông muốn ẩn thân tu hành, nên không nhận phẩm tước do vua ban tặng.
Xem: Lộc Hán từ vinh.
Lộc Hớn từ vinh Trương học chước,
Cầm đường tiếng hạc phủi muôn chung.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
1.- Tử 子 là con, bất luận trai hay gái. Như: Tử đệ (con và em), tử tôn, tử tức (con và dâu).
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu ngôi Vua truyền hiền thì chẳng nói chi, từ khi các vị Ðế Vương truyền tử đến giờ gia đình vẫn ở bên cạnh họ, họ phải bảo trọng gia đình trước nhứt, bởi gia đình của họ là Ðệ Nhứt gia đình trong quốc gia.
Nghiệp hồng dẫn tử hồi môn,
Chí công định vị vĩnh tồn Thiên cung.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Đấng nam tử đâu đâu cũng nợ,
Khắp năm châu khai mở quy mô.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tử 子 là thầy, tức gọi người đàn ông có học vấn và đức hạnh tốt. Như: Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Mạnh Tử, Tử Lộ.
Thánh giáo Chí Tôn có câu dạy: Người gọi Lão Tử là Tiên Tổ giáo, thì Lão Tử cũng sanh ra đời nhà Châu.
Sang như Tử Lộ đạo không lo,
Nghèo đặng nên trang sửa nghiệp trò.
(Đạo Sử).
3.- Tử 死 là chết. Như: Tử địa, tử nạn, sinh ly tử biệt.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Cái xuân kia chẳng đợi người mà bước đời càng gay trở, lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều quang nhặt thúc, con đường hy vọng chẳng biết đâu là tột cùng mà bước đời xem đà mòn mỏi, sự thác vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sanh ly pha màu tử biệt, làm cho sự vui vẻ giàu sang danh vọng đều thành ra một giấc huỳnh lương, rồi đây vĩnh biệt ngàn năm, tội tình muôn kiếp.
Sanh ấy ký, tử là quy,
Diệu huyền cơ tạo chẳng gì gọi hơn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
4.- Tử 梓 là cây tử, giống cây to thường trồng ở đầu làng, dùng để chỉ quê hương, hoặc để chỉ người cha.
Như: Tử phần, tử lý, cội tử.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
5.- Tử 紫 là màu tía.
Như: Tử khuyết (cổng nhà vua sơn màu tía), số tử vi, hồng lâu tử các, tử trúc (trước).
Mình không cao nếu muốn làm cao,
Gặp gió ái đừng xao đầu tử trước.
(Phương Tu Đại Đạo).
死 別
Tử: Chết. Biệt: Phân rẽ nhau.
Tử biệt là phân rẽ nhau lúc chết.
Đây là một điều khổ, nằm trong cảnh “Sanh ly tử biệt”, tức là xa lìa lúc sống và cách biệt khi chết.
Xem: Tử biệt sanh ly.
Thấy cơn tử biệt não nùng,
Hương thề tắt ngọn lạnh lùng tơ duyên.
(Kinh Thế Đạo).
死 別 生 離
Tử biệt: Chết thì từ biệt nhau. Sinh (sanh) ly: Sống thì chia lìa nhau.
Tử biệt sinh (sanh) ly là một cảnh khổ nhất của con người đó là vĩnh biệt lúc chết, chia lìa lúc sống.
Người xưa thường có câu thành ngữ: “Sinh ly tử biệt”, ý chỉ một điều khổ đau nhứt của người đời. Nhưng theo Phật, khổ là tại vì mình quá yêu thương, ham thích, không muốn xa lìa nên mới khổ. Điều khổ này gọi là “Ái biệt ly khổ 愛 別 縭 苦”.
1- Tử biệt sinh ly:
Tử biệt sinh ly do số mệnh,
Khẩn cầu hồn bác nhập Tây phang.
(Thơ Thu Quang).
2- Tử biệt sanh ly:
Lệ hàng nhớ lại cảnh chia phôi,
Tử biệt sanh ly nói chẳng rồi.
(Thơ Vạn Năng).
子 貢
Tử Cống là học trò của Đức Khổng Tử, họ Đoan Mộc tên Tứ, người nước Vệ, đời Xuân Thu. Tử Cống là người giàu có, giỏi về thương mãi, đi tới đâu người ta đều kính trọng.
Ngày xưa theo cổ lễ, cứ ngày mồng một đầu tháng, các vua chư hầu giết dê để làm lễ cúng ở Thái miếu gọi là lễ Cốc sóc, Tử cống muốn bãi bỏ lễ đó.
Nhưng Khổng Tử cho rằng nên giữ lễ ấy vì lễ Cốc sóc có nhiều ý nghĩa quan trọng hơn là một con dê.
Các Ðệ tử như Tử Lộ, Nhan Hồi, Tử Cống v.v... đều băn khoăn lo sợ cho Ngài, nhưng Ngài vẫn ung dung ngồi đàn hát.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
紫 氣 東 來
Tử khí: Một luồng khí màu tía, biểu hiện cho điềm lành, còn gọi là thoại khí hay thụy khí.
Do hơi của mây nên hiện ra nhiều loại màu sắc, sắc tía là một màu tươi tốt, ứng hiện ra điềm lành, nên khi có đám mây lành bay qua, được gọi là tường vân, tức là mây lành, tượng cho điềm tốt.
Đông lai: Từ hướng đông đến.
Theo bài kinh Tiên Giáo, Tử Khí đông lai là nói một luồng khí màu tía từ hướng đông bay đến tức là từ Lạc Dương Thành đến Hàm Cốc quan, báo hiệu cho Doãn Hỷ biết có Thánh Nhân là Đức Lão Tử đến.
Theo “Lão Quân nội truyện”, Trước khi Lão Tử đến ải Hàm Cốc, quan lệnh Doãn, tên Hỷ xem Thiên văn thấy vầng mây màu tía từ hướng đông bay đến, ông biết sẽ có vị Thánh Nhân đến ải, bèn sửa áo mão ra thành nghinh tiếp. Đức Lão Tử cỡi con thanh ngưu bay đến, Doãn Hỷ tiếp rước vào ải, xin thọ giáo học Đạo. Trước khi tiếp tục đi độ miền tây vực, Ngài có để lại cho Doãn Hỷ một bộ sách, gọi là “Đạo Đức Kinh”.
Tử khí đông lai,
Quảng truyền Đạo Đức.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
子 騫
Tử Khiên hay Mẫn Tử Khiên 閔 子 騫 là người con hiếu, bị mẹ kế đối xử rất khắc nghiệt, nhưng ông vẫn thờ cha và mẹ kế rất hiếu thảo.
Mùa đông, mẹ kế cho hai đứa con mình mặc áo bông ấm áp, còn cho ông mặc áo hoa lau, thưa mỏng, lạnh lẽo. Ông tuy thấy lạnh nhưng không hề dám oán trách mẹ.
Sau cha ông biết được bà mẹ ghẻ đối xử tệ với ông, tức giận định đuổi đi, Mẫn Tử Khiên quỳ lạy cha xin tha cho bà kế mẫu. Từ đó, bà mới đối xử tốt và thương yêu ông hơn.
Xem: Mẫn Tử.
Áo hoa lao Tử Khiên mặc vá,
Dẫy xe cha lạnh quá rời tay.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Vàng đem thử lửa tâm Dương Chấn,
Ngọc phải làu gương hạnh Tử Khiên.
(Thơ Huệ Phong).
死 離
Tử: Chết. Ly: Chia lìa, cách biệt.
Tử ly, đồng nghĩa với chữ “Tử biệt”, chỉ cái tình cảnh khổ đau là chết thì đành biệt ly.
Tử ly nói tắt của câu thành ngữ: “Tử biệt sinh ly 死 別 生 離”, nghĩa là chết thì xa cách, sống thì biệt ly.
Giá chi một mảnh xương tàn,
Đày cho thiếp nỗi đoạn tràng tử ly.
(Nữ Trung Tùng Phận).
子 路
Tử Lộ là một trong hai mươi bốn người con hiếu thảo. Ông còn gọi là Tử Do, họ Trọng, tên Do, người đời Xuân Thu, học trò Đức Khổng Tử.
Ông là người rất có hiếu, thường đổi gạo để kiếm tiền nuôi mẹ. Khi ông làm quan, sống cuộc đời phú quý thì mẹ mất, nên thường than thở không còn được đội gạo kiếm tiền để nuôi mẹ nữa. Tử Lộ được xếp vào một trong nhị thập tứ hiếu (tức hai mươi bốn người con hiếu thảo).
Tử Lộ là người phục thiện, mỗi khi người ta nói đến lỗi lầm của mình thì lấy làm mừng rỡ: Tử Lộ nhơn cáo tri hữu quá tắc hỷ 子 路 人 告 知 有 過 則 喜.
Sang như Tử Lộ đạo không lo,
Nghèo đặng nên trang sửa nghiệp trò.
(Đạo Sử).
Bốn ngựa mạnh trì tay Tử Lộ,
Một bầu nhẹ rửa lưỡi chàng Nhan.
(Thơ Hộ Pháp).
Tử Lộ nghèo đường xa đội gạo,
Nuôi mẹ cha vẹn đạo làm con.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
子 牙
Tử Nha là tên chữ của Khương Thượng, được vua nhà Châu là Võ Vương tôn lên làm Thượng Phụ hay Tướng Phụ, hàm ân là Thái Công.
Lúc thiếu thời ông rất mộ đạo Tiên, nên tầm sư học đạo và thọ giáo Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn tại núi Côn Lôn. Ông quyết chí tu hành, không màng đến việc thế tục nữa, theo thầy lo tu hơn 40 năm trên núi.
Vào thời ấy, Trụ Vương vì đắm say nữ sắc của Đắc Kỷ, không lo việc triều chính, công thần nhiều vị khuyên can đều bị giết hại, nhân dân đồ thán, giặc cướp nổi lên bốn phía, vận nước suy vi.
Nguơn Thỉ Thiên Tôn khuyên Khương Tử Nha hạ trần để phò Châu, phạt Trụ. Khí số nhà Thương sắp mãn, vận nước Tây Châu hưng thịnh, nên Cơ Phát lên nối nghiệp cha, xưng hiệu Võ Vương, rồi cử binh phạt Trụ. Trên mười năm mới bình định xong tứ phương, vua lên ngôi thiên tử, phong Khương Tử Nha đứng đầu các bậc khai quốc công thần, và cho làm vua nước Tề, đời đời con cháu được phụ truyền tử kế mà hưởng lộc tại nước Tề.
Như lúc Tử Nha đưa cán trúc,
Câu thời câu vận cá nào ăn?
(Đạo Sử).
子 牙 除 精
Tử Nha, tên tộc là Lữ Vọng, còn gọi là Khương Thượng, hiệu là Phi Hùng, quê ở Hứa Châu.
Năm 32 tuổi, ông rất mộ đạo Tiên, nên tầm sư học đạo và thọ giáo Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn tại núi Côn Lôn. Ở núi tu được 40 năm, sau Nguơn Thỉ mới bảo ông xuống trần giúp nhà Châu dựng nghiệp.
Xuống núi Tử Nha được người bạn cũ ở triều ca là Tống Dị Nhân đứng ra cưới vợ cho ông và hướng dẫn làm ăn, sinh sống.
Sau nhiều lần mua bán thất bại, Tử Nha bèn đứng ra mở một tiệm coi bói. Ông bói đâu trúng đó nên nổi tiếng là bậc Thánh Nhân.
Ngày kia có một con yêu là Tỳ Bà tinh nghe tiếng, bèn biến hình người con gái đẹp tên là Ngọc Mỹ Nhơn đến để thử quẻ Tử Nha.
Thần nhãn của Tử Nha nhìn thấy Ngọc Mỹ Nhơn biết là yêu tinh nên nắm chặt cổ tay và làm phép không cho Mỹ Nhơn biến hình. Người dân thấy vậy tưởng Tử Nha là người dâm đảng, nên la lối om sòm. Tử Nha vẫn không buông tay, lấy nghiên mực đập vào đầu con yêu, máu tuôn ra. Ngọc Mỹ Nhơn giẫy giụa lung tung, nhưng không biến được. Lúc đó có quan thừa tướng là Tỷ Can cỡi ngựa đi ngang qua thấy vậy truyền quan địa phương bắt Tử Nha và giải người đàn bà đến trước Đền vua. Tử Nha vẫn nắm tay Ngọc Mỹ Nhơn.
Tử Nha tâu xin vua dùng lửa đốt thây con yêu tinh để hiện nguyên hình, vua chấp thuận. Lửa đốt hơn hai giờ, con yêu vẫn còn nguyên. Tử Nha phải dùng lửa Tam Muội thiêu, lát sau nó hiện nguyên hình là cây đờn Tỳ Bà bằng ngọc thạch.
Trên hành lang phía ngoài của Báo Ân Từ có vẽ khuôn hình lấy tích “Ngọc Mỹ Nhơn thử quẻ”.
Thần Tử Nha thấy liền yêu khí,
Chận bấm tay dụng ý trừ tinh.
Số người chưa rõ bất bình,
Lửa Tam Muội đốt hoàn hình mới hay.
(Báo Ân Từ).
死 如 歸
Tử: Chết. Như quy: Giống như trở về.
Tử như quy, đồng nghĩa với “Tử quy 死 歸”, là chết thì trở về.
Người xưa cho rằng: “Sinh ký tử quy 生 寄 死 歸” có nghĩa là sống gởi thác về, tức con người khi sống thì gởi thân xác tạm nơi cõi trần, lúc chết thì linh hồn trở về với cõi hằng sống.
Tử như sanh, vong như tồn, lòng kỉnh thành hữu cảm tắc thông,
Sanh như ký, tử như quy, tâm ngưỡng vọng hữu cầu tắc ứng.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Hay “Tử như sinh”.
Tử: Chết, mất. Như sinh (sanh): Như còn sống.
Tử như sanh, như chữ “Tử như sinh 死 如 生”, là chết như còn sống, ý muốn nói thờ phượng người mất như thờ khi còn sống.
Do câu nói của Đức Khổng Tử: Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn 事 死 如 事 生, 事 亡 如 事 存, nghĩa là thờ người chết như khi còn sống, thờ người mất cũng như lúc người còn.
Tử như sanh, vong như tồn, lòng kỉnh thành hữu cảm tắc thông,
Sanh như ký, tử như quy, tâm ngưỡng vọng hữu cầu tắc ứng.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
子 房
Tử Phòng là tên tự của Trương Lương, người đời Hán. Tổ tiên là người nước Hàn, đến ông là năm đời làm tướng. Khi Hàn bị Tần diệt, Trương Lương quyết chí báo thù, tìm cách mưu sát Tần Thuỷ Hoàng, nhưng việc không thành.
Hán Cao Tổ khởi binh, Trương Lương theo phò tá, lập nhiều công lớn. Lúc đánh thắng Sở Bá Vương Hạng Võ rồi lên ngôi, Cao Tổ phong cho Tương Lương tước Lưu Hầu. Nhưng vì quan niệm theo Đạo gia là “Công thành thân thối”, nên Trương Lương rút lui đi tu tiên và không thiết gì đến công danh phú quý.
Về đông hết kế Tử Phòng,
Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
(Ngụ Đời).
Tuỳ đời chẳng bỏ mưu Hàn Tín,
Trị thế hằng toan kế Tử Phòng.
(Đức Lý Đại Tiên).
Ðăng khoa thì có chức thì không,
Nghĩ đến thẹn cho mặt Tử Phòng.
(Đạo Sử).
Tử Phòng là tên tự của Trương Lương, người đời Hán, đi chơi vùng Hạ Bì, gặp một cụ già làm rơi chiếc dép xuống cầu, nhờ lượm. Tử Phòng ba lần lượm dép và mang vào chân cụ. Nhờ vậy, cụ già mới trao tặng cho Tử Phòng một cuốn Binh thư, sau làm thầy của các bậc Đế Vương.
Xem: Trương Lương dâng dép ba lần.
Tử Phòng dâng dép mà nên nghiệp,
Sào Phủ rửa tai mới bợn hồ.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Tử Phòng: Trương Lương. Lui binh: Làm cho binh giặc lui về. Sở Hạng: Sở Bá Vương Hạng Võ.
Trương Tử Phòng lập kế làm cho Sở Bá Vương Hạng Võ lui binh.
Do tích: Hàn Tín, vị tướng soái của Lưu Bang cầm quân đi tắt qua ngã Trần Thương, đánh úp Chương Hàm, lấy được Hàm Dương. Hạng Võ thua binh về thủ thành Cai Hạ, trong thành binh ít, lương cạn, nhưng Hạng Võ không nao núng, đánh lui hơn sáu mươi tướng nhà Hán. Hàn Tín mới nhờ Trương Lương giúp sức.
Trương Lương chờ vào một đêm khuya canh vắng, lên núi Kê Minh, thổi lên khúc tiêu sầu não, khiến tướng sĩ của Hạng Võ buồn chán, nhớ về quê hương bỏ đi gần hết, tám ngàn quân mà chỉ còn mấy trăm người.
Hạng Võ bỏ thành Cai Hạ, đem tàn quân đánh với quân Hán mấy trận oanh liệt, rồi chạy đến bờ sông Ô Giang cắt đầu tự vận.
Mượn phép Tử Phòng gầy nghiệp Hớn,
Lui binh Sở Hạng dựng san hà.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
子 腑
Tử: Con. Phủ: Các bộ phận trong bụng của con người, đối với tạng.
Tử phủ, như chữ “Tử cung”, là dạ con, tức chỉ nơi thai nhi nằm sâu trong bụng người mẹ.
Trông dạng hình lòng nhớ không nguôi,
Hình dường rọi vào nơi tử phủ.
(Phương Tu Đại Đạo).
子 縛 妻 繩
Tử phược: Có con thì bị trói buộc. Thê thằng: Có vợ thì bị buộc ràng.
Tử phược thê thằng là con ràng vợ buộc, ý nói không được tự do, bởi vì bị vợ con trói buộc.
Danh cương lợi toả không màng chuyện,
Tử phược thê thằng mãi vướng chân.
(Thơ Hoài Tân).
死 歸 生 寄
Tử quy: Chết về. Sanh ký: Sống gửi.
Tử quy sanh ký, bởi câu “Sanh ký tử quy 生 寄 死 歸”, tức là sống gởi thác về.
Đây là một quan niệm về triết lý nhân sinh của người Á Đông, cho rằng đời sống của con người ở thế gian chỉ là nơi gửi tạm tấm thân ngắn ngủi, trong khi đó cõi thiêng liêng mới thật sự là nơi trở về vĩnh viễn của linh hồn.
Theo triết lý đạo Cao Đài, con người đầu kiếp xuống trần để trả nghiệp, hoặc học hỏi trong thời gian một kiếp sống không quá trăm năm để tiến hoá chơn linh hầu trở về quê xưa cảnh cũ.
Xem: Sinh Ký Tử Quy.
Tuy đã biết tử quy sanh ký,
Câu biệt ly ai ngĩ cũng đau lòng.
(Văn Tế Bảo Đạo).
死 士
Tử: Chết. Sĩ: Người, chiến sĩ.
Tử sĩ là kẻ sĩ liều chết. Tử sĩ còn dùng để chỉ người chiến sĩ đã chết.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chúng ta phải thành tâm cầu nguyện cho những bạn trẻ ấy, ngoài ra nếu có dư dả, nên giúp đỡ những quả phụ cô nhi của tử sĩ đang sống trong cảnh cơ hàn vất vả còn có ý nghĩa hơn là phung phí ăn chơi trong ngày Tết.
Gió phất thoảng đưa hồn tử sĩ,
Sóng gào nhặt bước gót chinh phu.
(Thơ Thượng Sanh).
Hay “Tử sinh”.
Tử: Chết. Sanh (sinh): Sống.
Tử sanh, như chữ “Tử sinh 死 生”, là nói sự chết và sự sống của con người.
Cổ ngữ có câu: Sinh tử sự đại, vô thường tấn tốc 生 死 事 大, 無 常 迅 速, nghĩa là sinh tử là việc lớn, vô thường đến rất mau chóng.
Cơn nghèo khó chia lao sớt nhọc,
Cuộc tử sanh kết tóc chẳng rời.
(Phương Tu Đại Đạo).
Trăng già khen cũng chua cay lắm!
Thôi vậy thà cam trọn tử sanh.
(Thơ Thuần Đức).
Thưởng phạt cầm quyền toàn thế giái,
Tử sanh nắm mối khắp trần gian.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
Hay “Tử sinh sinh tử”.
Tử sanh sanh tử, như chữ “Tử sinh sinh tử 死 生 生 死”, là chết, sống và sống chết.
Mọi chúng sanh, mọi sự hiện hữu trên cõi đời hữu hình này đều phải có sống chết, sinh diệt theo nguyên lý duyên sinh duyên diệt. Cho nên việc sống chết theo quan niệm của Đạo là quá trình chuyển hoá miên viễn, có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc.
Sống chết đối với Tôn giáo là vấn đề chính yếu: “Sinh tử sự đại, vô thường tấn tốc 生 死 事 大 無 常 進 速”, nghĩa là sự sinh tử là việc lớn, vô thường đến rất mau chóng.
Đức Hộ Pháp cũng có nói: “Ôi! Kiếp sanh tại thế mang xác thịt, hỏi sống được mấy lát? Nội một giấc thức, giấc ngủ là thấy sự chết sống của kiếp con người, mang thi hài bóng dáng nầy là giả. Cảnh thiệt không phải ở đây, mà cảnh thiệt ở nơi chỗ khác kia, sao không tìm cảnh thiệt là cảnh tồn tại, lại chạy theo bóng?” Vì thế, tất cả các Đạo giáo đều dạy thoát ly sanh tử.
Tử sanh, sanh tử là chi?
Gẫm trong giấc mộng cũng bì như nhau.
(Kinh Thế Đạo).
Hay “Tử sinh Thiên định”.
Tử sanh (sinh): Chết sống. Thiên định: Do số Trời định đoạt.
Tử sanh (sinh) Thiên định 死 生 天 定 là sự sống chết do số Trời định đoạt.
Tử sanh âu cũng do Thiên định,
Tang hiếu vuông tròn nợ núi sông.
(Thơ Ngọc Nhượn Thanh).
仔 細
1.- Tử tế là chu đáo, tiêm tất. Như: Đi đường ăn mặc tử tế, con nhà tử tế, lấy nhau có cưới xin tử tế.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Qua muốn đứa nào cũng có đôi bạn chồng vợ tử tế rồi sanh con cho nhiều, phải biết dạy dỗ đặng tạo đời nên hay hư tương lai của nòi giống chủng tộc là “do mấy bà mẹ”.
Đừng thấy đặng nghiệp nhà tử tế,
Mà toan mưu tính kế buộc ràng.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tử tế còn dùng để chỉ tỏ ra có lòng tốt, chăm sóc đến trong đối xử với nhau.
Như: Ăn ở tử tế với nhau, được đối xử tử tế.
Gặp quan cũng đãi đằng tử tế,
Gặp dân thì thủ lễ kỉnh nhường.
(Phương Tu Đại Đạo).
Đời nói rể ít ai tử tế,
Vì tục phong hủ tệ mà ra.
(Phương Tu Đại Đạo).
死 節
Tử: Chết. Tiết: Tiết tháo, khí tiết.
Tử tiết là nói người vì muốn bảo vệ khí tiết nên đành phải liều mình chết, hay chết để giữ tròn tiết nghĩa.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Còn trong công cuộc định quốc, Bần Đạo nói có hai vị trung thần mà Hoàng Triều đã đặt họ là “Trung quân” tức là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, Tây Sơn đem cả lực lượng mình đặng lấy thành Bình Định, Võ Tánh với Cao Hoàng Gia Long chẳng cần gì phải giải vây cho thành Bình Định tức nhiên là Quy Nhơn, nên thừa cơ hội binh lực của Tây Sơn không có đề phòng mà đánh lấy luôn thành Phú Xuân, nhờ thế Gia Long tức nhiên Đức Cao Hoàng đã lấy Phú Xuân đặng hai người Ngô Tùng Châu và Võ Tánh tử tiết, thật sự ra Hoàng Đồ nước Việt Nam ta đặng thống nhứt từ Mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan ngày nay là nhờ lực lượng Cao Hoàng đã cầm vận mạng, và nhờ hai vị “tinh trung” Ngô Tùng Châu và Võ Tánh mà ta có thể hãnh diện nói rằng: Hai người ấy là người đồng bào
trong Nam ta đó vậy.
Dám toan tử tiết với tình,
Còn chi kể đến gia đình hư nên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
子 孫
Tử: Con. Tôn: Cháu.
Tử tôn là con và cháu.
Trong Minh Tâm Bửu Giám có câu: Tử tôn tự hữu tử tôn phước, mạc bả tử tôn tác mã ngưu 子 孫 自 有 子 孫 福, 莫 把 子 孫 作 馬 牛, là con cháu tự có cái phước của con cháu, đừng bắt con cháu làm thân trâu ngựa.
Ba đời nhơn nghĩa duyên còn hưởng,
Gắng để đức bền đến tử tôn.
(Đạo Sử).
Tu đặng cứu Cửu huyền Thất tổ,
Tu phòng sau độ rỗi tử tôn.
(Thơ Bảo Pháp).
Tử: Con. Tức 息: Thôi nghỉ, con. Tức 媳: Con dâu.
Tuỳ theo chữ “Tức” mà ta có hai nghĩa như sau:
- Tử tức 子 息 là chỉ con cái. Như: Đường tử tức của cô ấy rất muộn màn.
- Tử tức 子 媳 nghĩa là con và dâu.
Tử tức bạn còn đang bận rộn,
Sinh nhai tôi cũng quá lo lường.
(Thơ Chơn Tâm).
死 屍
Tử: Chết. Thi: Thi hài, thi thể, tức là xác thân của người đã chết.
Tử thi là thân thể người đã chết, tục gọi là thây ma. Như: Khám nghiệm tử thi, tử thi được liệm kín đáo.
Đầu sương chất trắng khối tình,
Bao nhiêu ân ái trong mình tử thi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
死 亡
Tử: Chết. Vong: Mất.
Tử vong là chết mất, thường dùng để chỉ người bị bệnh chết.
Như: Ca mổ của bệnh viện bị hai trường hợp tử vong, tỷ lệ tử vong trong tai nạn giao thông năm nay thấp.
Theo sách Lễ Ký, lòng người ta lúc nào cũng có muốn sự ăn uống, sự trai gái và sợ cái nạn tử vong, bần khổ.
(Giáo Lý).
Tử: Chết. Xích: Dây xích, hay dây lòi tói, tức là dây sắt gồm nhiều khoanh tròn móc vào nhau.
Tử xích là sợi dây xích (hay dây lòi tói) trói buộc con người vào chỗ chết.
Toan cởi lau ẩn dật chốn non xanh,
Thương chủng tộc lao đao vòng tử xích.
(Văn Tế Tiểu Tường).
1.- Tự 字 là chữ.
Như: Tự dạng, tự vựng, tự điển Việt Hán, hồng thập tự (chữ thập đỏ).
Trên cây Thập Tự suốt mồ hôi,
Ðổ máu vì thương tội lỗi đời.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Tự 自 là từ. Như: Tự trước đến giờ, tự đâu mà đến, tự cổ chí kim.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Hỡi nầy dân tộc có diễm phước, Thầy sẽ làm thoả mãn tánh hiếu kỳ của con. Là loài người, các con có biết tự đâu các con đến chăng?
Khối vật chất vô hồn viết tử,
Đất biến hình tự thử quy căn.
(Kinh Tận Độ).
3.- Tự 自 là chính bản thân mình. Như: Tự tay làm ra, mình tự nghĩ lấy, nhà tự cất.
Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Chư hiền hữu đã đặng phép tự biến tự liệu mà hành đạo, thế thì hiệp vầy chung lo, thảo thuận cùng nhau, còn chi hơn nữa đặng?
Ai ôi! Tự nghĩ biết lo xa,
Xa bốn phương Trời cũng kiếm ra.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Sai lầm một thuở biết ăn năn,
Năn nỉ lòng kia tự xét rằng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
4.- Tự 祀 là thờ phụng. Như: Tế tự, phụng tự.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thần Hoàng Bổn có dạy: Ta cũng tỏ cho chư chức sắc hiểu rằng: Tế tự là tại sao? Phàm có lòng tin mới cúng chớ. Cúng là lấy có lễ đó, gọi là kỉnh trọng, chớ Thần Thánh, nào ăn của ai.
Sự tế tự sửa theo Tam Kỳ Phổ Ðộ, cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à!
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
5,- Tự 寺 là chùa. Như: Lôi Âm Tự, Thần từ Phật tự.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Ðộ, Quỷ Vương đã khởi phá khuấy chơn đạo, đến danh Ta nó còn mượn, duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.
Am tự đóng chặt gài bước tục,
Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
6.- Tự 嗣 là nối dõi, chỉ con cháu nối dòng, nối dõi.
Như: Kế tự, lập tự, tuyệt tự, thừa tự.
Lời đáp từ của Đức Hộ Pháp tại Giáo Tông Đường trong dịp lễ các Cơ quan chúc xuân Đức Ngài năm Quý Tỵ có câu: Khi thầy ở Hải Ngoại về, Thầy có giao một tờ hoà ước với kẻ cầm quyền nước Pháp, ở trong đó Thầy nhứt định phải trả từ mũi Cà Mau dĩ chí đến ải Nam Quan lại, tức nhiên Hoàng Đồ đất Việt Nam phải giao dưới quyền lãnh đạo của nhà Vua Bảo Đại là người kế tự cho các Đế Vương ta.
Mặc dầu có mất chút ít mà có kế nghiệp đặng khỏi tuyệt tự, thì Bần Đạo dám chắc họ không hưởng được hạnh phúc nào bằng.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
自 愛
Tự: Mình, chính mình. Ái: Yêu, thương.
Tự ái là tự yêu mình, tự xem mình là trọng.
Vì tự ái tức quá yêu mình, xem mình là trọng, nên khi có người chê mình, nói xấu mình thì tỏ ra giận dữ hoặc sinh ra hiềm thù, oán ghét.
Như: Tính anh hay tự ái, mới nói chơi mà đã tự ái.
Đừng vì một tranh chấp, hoặc một tự ái nhỏ nhen mà làm mất niềm hoà khí, phạm nghĩa đồng môn.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
自 變 自 料
Tự: Mình, chính mình. Biến: Thay đổi, quyền biến. Liệu: Tính toán sắp đặt.
Tự biến tự liệu là tự có thể quyền biến mà làm cho thích hợp và tự lo tính mọi công việc để đạt được kết quả.
Chư hiền hữu đã đặng phép tự biến tự liệu mà hành đạo, thế thì hiệp vầy chung lo, thảo thuận cùng nhau, còn chi hơn nữa đặng?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tự: Mình, chính mình. Cải: Sửa, thay đổi.
Tự cải là tự mình sửa lỗi, tự mình thay đổi. Như: Người tu nếu thấy điều sái quấy thì phải biết tự cải.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Ðã chẳng biết tự cải lại bợn thêm tánh tối tục mà để cho cả muôn người phải chịu khổ tâm, thế thì hành đạo như vậy có giúp đặng ai chăng?
Mấy kẻ xét mình tâm tự cải,
Thân danh bể khổ mặc buông trôi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
自 高
Tự: Mình, tự thân mình. Cao: Cao quý.
Tự cao là tự cho mình là cao quý, hoặc tự cho mình là hơn người và có ý tỏ ra coi thường người khác. Như: Muốn giao tiếp bạn bè anh phải bỏ tính tự cao tự đại.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Người hành đạo chẳng đủ quyền chế cải, kẻ tự cao muốn chiếm vị cầu danh, nghịch tư cách đối đãi với thế tình, gây ác cảm mà tạo thù oán.
Ðá thử vàng kia rõ tuổi cao,
Phải nên danh cả chớ tự cao.
(Đạo Sử).
Bởi gà là đứa vô suy,
Tưởng đâu mình bảnh nên thì tự cao.
(Thơ Hộ Pháp).
自 古 至 今
Tự cổ: Từ xưa. Chí kim: Đến nay.
Tự cổ chí kim là từ xưa đến nay.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tự cổ chí kim, vì không giữ mình được trong sạch cho nên con người phải chịu làm nô lệ cho xác thịt để cho dục vọng lôi cuốn gây thành tam nghiệp, tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, phải chịu chìm đắm trong vòng sanh tử luân hồi...
Sự xung đột của quyền Ðời và quyền Ðạo tự cổ chí kim tự nhiên đều có.
(Diễn Văn Quyền Giáo Tông).
自 強
Tự: Mình, tự thân mình. Cường: Mạnh.
Tự cường là tự làm cho mình ngày một mạnh lên, không chịu thua kém người.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoan: Sự giải thoát cho ta, ta phải tự lo lấy, không có quyền lực Thiêng liêng nào giúp sức cho ta, cũng như một chiến sĩ xông pha ngoài tiền tuyến, ta phải tự lực tự cường mới có thể chống ngăn kẻ địch. Ta còn hay mất đều do nơi sức ta, không ai chen vào phụ giúp ta được.
Hữu nhơn hữu đức thâu quần chúng,
Vô uý vô tư mới tự cường.
(Tôn Sơn Chơn Nhơn).
自 招 其 禍
Tự chiêu: Tự mình rước tới, tự mình vời đến. Kỳ hoạ: Cái tai hoạ.
Tự chiêu kỳ hoạ là tự rước lấy hoạ, tức là tai hoạ do chính mình vời đến.
Trong Kinh Cảm Ứng có câu: Hoạ phúc vô môn duy nhân tự triệu 禍 福 無 門 惟 人 自 召, tức hoạ phước không có cửa, do mình tự vời tới.
Chứ biết lỗi mà cứ ngoan cố đi vào chỗ sai lầm, đó là tự chiêu kỳ hoạ.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
自 主
Tự: Chính mình. Chủ: Có quyền đối với việc gì.
Tự chủ là tự mình làm chủ.
Quyền tự chủ là quyền tự mình làm chủ lấy mình, tức là cái quyền riêng của cá nhân mình để tự định đoạt lấy số phận mình.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Quyền tự chủ ấy, vẫn đã định trước đặng làm cho cả nhơn sanh vui theo cơ tấn hoá thì dầu cho Thầy cũng không cải qua đặng; vì hễ sửa cải thì là mất lẽ công bình thiêng liêng đã định, làm chinh nghiêng cơ thưởng phạt.
Dầu chăng phải mực Thiên điều,
Cũng quyền tự chủ dắt dìu thiên lương.
(Kinh Tận Độ).
Tam Kỳ tự chủ là Trời,
Diệu huyền giáng bút để lời dạy khuyên.
(Lục Nương Giáng Bút).
自 專
Tự: Mình, chính mình. Chuyên: Tự tiện.
Tự chuyên là nói tự hành động lấy một mình, không theo ai, không kể đến ai.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Lê Văn Trung xuống Sa Đec có câu: Xuống đó không phải cầu Thầy, chỉ nói Đạo và khuyên nhủ chư Đạo hữu là đủ, cấm nhặt Cơ Bút, chúng nó có tự chuyên thì để Lý Thái Bạch trọn quyền định đoạt.
Con lớn khôn mình chớ tự chuyên,
Con đủ trí lời khuyên tua nhậm lẽ.
(Phương Tu Đại Đạo).
自 滅
Tự: Mình, tự thân mình. Diệt: Làm cho không còn tồn tại nữa, mất.
Tự diệt là tự mất đi, hoặc tự giết lấy mình.
Trong Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Được tạo hoá, nhơn loại tất phải tấn hoá. Tấn hoá tất phải tranh đấu. Tranh đấu tất phải tự diệt. Đó là thời kỳ Trung nguơn, tức là nguơn Tấn hoá, nguơn Tranh đấu, nguơn Tự diệt.
Trị theo đời mà dân chúng vẫn lầm than,
Đó là dìu chúng đến con đàng tự diệt.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Mệnh thiên giữ vững tay cầm,
Đoạt phương tự diệt giải phần hữu sanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
自 由
Tự: Mình, chính mình. Do: Bởi, tại theo.
Tự do là chỉ muốn theo ý mình chứ không chịu ai bó buộc, tức chẳng bị ràng buộc, kiểm soát.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng dạy: Tóm lại, thà cực mà được thong thả, còn hơn sướng mà phải chịu nguy hiểm. Có mối Ðạo dìu mình được tự do thiêng liêng, mà cái tự do thiêng liêng ấy, ta hãy làm con hạc nội mới mong chiếm được.
Mưu định quốc anh minh trị nước,
Giúp giống nòi bảo được tự do.
(Kinh Cúng Chiến Sĩ).
Đêm chầy nghe đã tàn canh,
Vừng đông tin nhắn đất lành tự do.
(Xuân Hương Giáng Bút).
自 大
Tự: Chính mình. Đại: To, lớn.
Tự đại là tự cho mình là lớn, là quan trọng, là cao, chỉ người kiêu ngạo. Như: Tự cao tự đại.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Quan Thánh Đế Quân có câu: Tánh kiêu căng tự đại là hang thẳm chôn lấp trọn thân hình hồn phách đó. Nên ghi nhớ mà lập tâm sửa mình.
Chỉ trích thành tự kiêu tự đại,
Tu đừng cho vấp phải điều này.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
自 度
Tự: Mình, chính mình. Độ: Cứu giúp.
Tự độ là tự mình cứu lấy mình.
Muốn tự mình cứu lấy mình thì tự mình phải biết lo tu hành, bồi công lập đức để tự giải thoát cho mình khỏi luân hồi sinh tử.
Các chơn hồn đặng tự hối hay là đặng giáo hoá mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
自 覺
Tự: Chính mình. Giác: Biết một cách rõ ràng, một cách sáng suốt, không thể nào lầm lạc được. Giác còn có nghĩa là sự chân thật, sự sáng suốt thấy rõ được tất cả mọi việc sai lầm, ác đức và dứt bỏ hẳn theo chơn lý.
Tự giác là giác ngộ, nghĩa là mình làm việc gì gây ra lỗi lầm thì tự mình biết lấy, chứ không đợi đến người khác phê bình chỉ trích.
Theo Phật, “Tự giác giác tha 自 覺 覺 他”, tức là mình tự giác ngộ lấy mình rồi mới giúp người khác giác ngộ như mình.
Nếu chúng ta thắng được phàm tánh chúng ta, cái Đạo tâm chúng ta đủ năng lực thắng đặng tức nhiên là cái cơ quan tự giác chúng ta đạt đặng.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
自 覺 而 他 覺
Hay “Tự giác nhi giác tha”.
Tự giác: Giác ngộ cho chính mình. Nhi: Mà, rồi. Tha giác: Hay giác tha, là giác ngộ cho kẻ khác.
Tự giác nhi tha giác, như câu “Tự giác nhi giác tha” là mình giác ngộ cho chính mình rồi, mới đi giác ngộ cho người khác.
Nói về đức chí thành, Đức Thượng Sanh có dạy: Có cái căn bản đó, người ta mới mong trau dồi hạnh đức chí quyết tự giác nhi giác tha, không thể lầm đường lạc nẻo.
Tồn tâm tự giác nhi tha giác,
Dưỡng tánh canh tân hựu nhựt tân.
(Thơ Thân Dân).
自 悔
Tự: Mình, chính mình. Hối: Hối hận, ăn năn.
Tự hối là tự mình ăn năn chừa lỗi.
Thánh giáo Thầy có dạy: Kẻ vô phước dụng tà tâm làm một món lợi riêng, quên cả điều hành phạt đã kế bên mình, chới với cả muôn triệu giữa dòng, mà chẳng chịu sớm tự hối đặng gỡ lần mối hoạ sau.
Ðạo Trời mầu nhiệm, khá biết xét mình, sau khỏi điều tự hối. Chúng sanh khá biết cho.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tự 嗣: Nối dõi, chỉ con cháu nối dòng, nối dõi. Kế 繼: Nối theo, tiếp theo. Phụng thờ: Thờ cúng.
Tự kế phụng thờ là nói con cháu nối dõi để thờ phụng tổ tiên ông bà, hoặc những người kế tiếp các vị tiền bối để lo tế tự tại đình, miếu.
Định hương hoả, hằng ngày quý tế,
Lập pháp gia, tự kế phụng thờ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
自 驕
Tự: Mình, chính mình. Kiêu: Ngạo mạn, không chịu phục tùng.
Tự kiêu là tỏ ý kiêu căng, ngạo mạn.
Trong quyển Đạo Sử, Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dạy: Thường ngày công phu mà mình chất chứa tánh tự kiêu thì cũng không mong đắc chánh quả được, bất quá đắc một vị Ðịa Tiên đó thôi.
Chỉ trích thành tự kiêu tự đại,
Tu đừng cho vấp phải điều này.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
自 立
Tự: Mình, chính mình. Lập: Đứng.
Tự lập là mình tự đứng lên, tức tự mình xây dựng lấy cuộc sống cho mình, không nhờ cậy vào ai. Như: Mồ côi từ nhỏ nên nó sống tự lập.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Thầy đã nói cho các con hay trước rằng, nếu các con không tự lập ở cõi thế nầy, là cái đời tạm của các con, thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng.
Ấy vậy, cái vấn đề tự lập là vấn đề các con phải lo đó.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
自 料
Tự: Mình, chính mình. Liệu: Toan tính, lo lường.
Tự liệu là tự mình tính toán lo liệu. Như: Những công việc do mình gây ra thì phải tự liệu lấy.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã cho phép con và các môn đệ có trách nhậm xứng đáng đặng tự liệu chung lo mà làm cho hoàn toàn nền Ðạo của Thầy đã vun đắp từ bấy nay.
Chư hiền hữu đã đặng phép tự biến tự liệu mà hành đạo, thế thì hiệp vầy chung lo, thảo thuận cùng nhau, còn chi hơn nữa đặng?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
字 雷 貯 炳
Tự: Chữ viết. Lôi: Sấm sét. Trữ: Chứa, cất. Bính: Sáng rực rỡ.
Tự lôi trữ bính là chữ viết vừa được chế ra thì sấm sét nổ vang.
Bởi việc sáng chế ra chữ viết là một việc làm vĩ đại của các bậc Thánh hiền, đánh dấu một giai đoạn quan trọng của loài người, vì từ đó con người được mở mang, trí tuệ được khai hoá, khiến cho con người hiểu được luân thường đạo lý, chẳng khác nào Trời gây ra mưa giông và nổi cơn sấm sét làm tỉnh thức con người.
Trong quyển Tứ Thời Nhựt Tụng, hai Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt có viết: “Ông Thương Hiệt, người có đức thông minh duệ trí, trên thì xem tượng sao, dưới thì xét soi dấu chơn chim, chế ra văn tự. Khi văn tự thành rồi thì “Thiên vũ túc, quỷ dạ khốc 天 雨 粟, 鬼 夜 哭”, nghĩa là Trời mưa lúa, quỷ khóc đêm.
Tương truyền rằng khi văn tự được hình thành rồi thì Trời gây mưa giông và nổi cơn sấm sét. Bởi nhờ Thánh Hiền chế ra chữ viết mới có Kinh sách ra đời để truyền đạt những giáo lý của Thánh nhân từ đời nầy qua đời khác.
Tự lôi trữ bính,
linh ư phụng lãnh,
(Kinh Cúng Tứ Thời).
自 力
Tự: Mình, chính mình. Lực: Sức lực.
Tự lực là chỉ nhờ sức lực của chính mình mà thành việc, không nhờ tha lực.
Tự lực còn có nghĩa hết sức mình.
Trong việc tu hành, muốn được giải thoát khỏi kiếp sinh nơi trần lao giả tạm này để về với ngôi xưa vị cũ thì người tu phải nhờ vào hai nguồn lực: Tự lực và tha lực. Tự lực là sức mạnh của mình, nhờ vào năng lực của chính mình để đạt đến giải thoát. Tha lực là sức mạnh từ bên ngoài, hay nương vào sức thiêng liêng của các Đấng để trợ giúp.
Tuy vậy trong ý nghĩa sâu xa hơn, tất cả chúng sanh đều sẵn thiên tánh, nên sự phân biệt tự lực hay tha lực cũng chỉ là phương tiện trong việc tu mà thôi. Nương nhờ tha lực cũng cần đến tự lực, tự lực là điều kiện cần thiết cho việc tu, có quyết tâm, cố gắng mới mong đạt thành như lời Thánh giáo Đức Chí Tôn đã dạy: “Nếu các con không tự lập ở cõi thế này, là cái đời tạm của các con, thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng”.
Phật giáo cho rằng điều kiện cần thiết của sự giải thoát là Tự lực nghĩa là phải có sự nổ lực cố gắng của chính con người muốn giải thoát, bằng không thì dụng phương pháp nào cũng chỉ là vô ích.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
自 明
Tự: Mình, chính mình. Minh: Sáng.
Tự minh là tự mình học tập, trau giồi để cho mình được sáng suốt.
Như: Người tu hành dứt bỏ được thất tình lục dục thì lúc đó trí huệ tự minh.
Chớ nên xao tâm động trí, ngơ ngẩn theo thường tình, thì não cân được tự minh, mới có thể ngăn cản tà mị độn nhập vào mà khuấy rối.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
自 然
Tự: Từ, đương khi không mà có. Nhiên: Như vậy, vốn sẵn.
Tự nhiên là đương nhiên sinh ra, do thiên nhiên cấu thành, không phải sức người làm ra, hay không miễn cưỡng được. Như: Quy luật tự nhiên.
Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có câu: Bần Đạo để cho mỗi người tự do định phận, lại tuỳ thế khó khăn mà gầy thành công quả. Ấy vậy, nếu lấy phép công bình thì tự nhiên nên thì thâu, hư thì bỏ.
Ðừng bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,
Tự nhiên rõ thấu Ðạo cao thâm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Từ bỏ lần hồi lầm lỗi trước,
Tự nhiên bể khổ lánh xa vời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thăng Long bao thuở nâng hùng khí,
Gia Ðịnh tự nhiên chấp ấn quyền.
(Đạo Sử).
自 負
Tự: Mình. Phụ: Cậy vào.
Tự phụ là cậy mình làm được mà có ý khinh người, tức tự đánh giá cao về tài năng, thành tích, do đó coi thường mọi người, kể cả người trên mình.
Như: Nó thường tự phụ là thông minh học giỏi.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Lại có lắm kẻ đáng thương hại tự phụ rằng, họ hiểu thấu cả lẽ mầu nhiệm của Ðấng Tạo hoá. Nhưng Thầy không bao giờ cho một kẻ nào dưới cõi trần nầy tiết lậu Thiên cơ cả.
Chớ tự phụ, cũng đừng khi ngạo,
Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.
(Giới Tâm Kinh).
自 決
Tự: Chính mình. Quyết: Đoán, định.
Tự quyết là tự mình giải quyết lấy vấn đề của mình. Như: Quyền dân tộc tự quyết.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Đến chừng nào chư Đạo hữu không sức kềm chế vững với lũ tà tâm, chừng chúng nó tự quyết không sửa cải, tự đem mình hiến cho tà quái, thì đó là đường cùng của Đạo, đó là ngày những nguyên nhân hữu công bỏ xác Đạo lại trọn trong cả 36 động Quỷ vương, lại cũng là ngày cửa Phong đô mở lớn đặng chờ rước kẻ vô đạo.
Chúng ta, ai có trải qua những ngày đau khổ vì bị dục vọng lôi cuốn vì mình không tự quyết thắng mình.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
敘 事
Tự: Thuật lại. Sự: Việc.
Tự sự là kể đầu đuôi sự tình.Như: Anh ta ngồi tự sự đầu đuôi câu chuyện.
Tự sự còn có nghĩa là một lối văn, văn tự sự, cốt bày tỏ sự thật, cũng gọi là văn truyện ký.
Âm thầm tự sự ai hay biết,
Lật bật đông phong tối thổi vèo.
(Thơ Huệ Giác).
自 作
Tự: Mình. Tác: Làm.
Tự tác là tự mình làm, hay tự ý mình làm. Như: Tự tung tự tác.
Lý Giáo Tông có dạy: Sự cải Thánh Ngôn đặng tự tác theo trí phàm là một hại chẳng nhỏ, nên chăm nom và liệu mà ngăn ngừa thói tà mị của nhiều Đạo hữu.
Tuân hành đúng mức, đường tu vững,
Tự tác sai chiều, bước Đạo nghiêng.
(Thơ Huệ Giác).
自 作 孽 不 可 壞
Tự tác nghiệt: Tự mình gây nên mầm ác. Bất khả hoại: Không thể tiêu hết được.
Tự tác nghiệt bất khả hoại là tự mình gây hoạ thì không thể tiêu diệt hết hoạ được.
Trong Kinh Thư cho rằng Trời xuống hoạ còn có thể tránh khỏi, còn người tư gây hoạ thì không thể sống còn.
Kinh Thơ dạy rằng: Thiên tác nghiệt du khả vi, tự tác nghiệt bất khả hoại.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
自 在
Tự: Mình, chính mình. Tại: Ở.
Tự tại là tiếng nhà Phật, có nghĩa chỗ nào, lúc nào cũng có mình ở đó.
Tự tại còn có nghĩa là thư thái, không có gì phải phiền muộn, tức ung dung làm chủ được thân tâm và hoàn cảnh, không bị ngoại cảnh chung quanh chi phối.
Tự do tự tại, tuỳ thuận tâm ý, làm bất cứ việc gì đều không chướng ngại. Đây là năng lực của chư Phật và Bồ Tát, còn gọi là vô ngại.
Tự tại, đồng nghĩa với tự toại là tuỳ ý, có vẻ thoả thích, không chi ràng buộc, hay phiền não.
Thánh giáo Thầy dạy: Con đã để dạ ưu tư về mối Ðạo, đã lắm lần trưu cay ngậm đắng mà nhuộm nét nâu sồng, mong trau rạng mảnh gương để soi chung bước đàng sau mà lần đến cảnh tự tại thung dung, tránh bớt muôn điều phiền não.
Cửa Phạm dò đon bước đến nơi,
Thong dong tự tại bất quy thời.
(Prasey Prakhet).
Hay “Tự tính”.
Tự: Mình, chính mình. Tánh (tính): Cái tánh vốn có của con người.
Tự tánh, như chữ “Tự tính 自 性”, là cái bổn tánh vốn có của mình.
Tự tánh do Trời ban cho nên còn gọi là chơn tánh hay Phật tánh. Tự tánh là bản tánh chân thật của chính mình vốn sáng suốt, thanh tịnh, không chút mê lầm, phiền não. Tự tánh hay chơn tánh, Phật tánh thường hằng, hiện hữu trong mọi chúng sinh.
Giác ngộ không phải đâu xa, mà chính là trở lại với tự tánh Như Lai của mình. Kiến tánh là thấy được tự tánh của mọi pháp.
Khi Lục Tổ Huệ Năng đại ngộ, Ngài nói rằng: Đâu ngờ tự tánh vốn thanh tịnh, không sanh diệt, tự đầy đủ, không dao động, hay sanh muôn pháp.
Người ta ai cũng có bẩm thọ của Đức Chí Tôn một điểm Linh quang, để làm tự tánh của mình.
(Giáo Lý).
自 信
Tự: Mình, chính mình. Tín: Tin tưởng.
Tự tín là tự tin lấy mình, tức là tin tưởng nơi sức lực và tài năng của mình.
Khi giải về Tự tín, Đức Hộ Pháp cho rằng: Là mình tin nơi sở sanh của mình có thể bảo đảm được sanh mạng cho mình. Con người từ buổi ấu thơ đã biết ăn, biết nói thì biết thương cha mẹ anh em. Ðến lúc trưởng thành cha mẹ dạy bảo công việc làm ăn, cho đến sự ở đời, giao thiệp cùng xã hội nhơn quần, việc nào lợi, điều nào hại, cha mẹ đã chỉ vẽ phân minh cũng như có một quyển sách lập thành để làm căn bản. Ngoài ra hằng ngày ta đã nghe và thấy các tấn tuồng của đời diễn ra từ lớp, hay dở tốt xấu, lành dữ, hư nên ta mới lấy đó mà kinh nghiệm kỹ càng rồi mới lọc lược cái hay, cái khéo ở trong đó mới lập lại làm với một quyển sách của cha mẹ dạy ta từ thử, rồi ta mới đem lên trên Linh Ðài, ta sẽ do theo đó mà làm mực thước cho sự hành vi của ta và ta đủ đức tin nơi đó, là cơ
bảo tồn lấy thân ấy gọi tự tín.
Lập vị dạy dỗ điều lành,
Tự Tín Tha Tín sở hành tu thân.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
自 省
Tự: Tự mình. Tỉnh: Xét.
Tự tỉnh là tự mình thức tỉnh, tức là tự xét trong mình phải trái hay dở thế nào để mà sửa chữa.
Đức Khổng Tử dạy về cách xét mình như sau: Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thang; kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh dã 見 善 如 不 及, 見 不 善 如 探 湯; 見 賢 思 齊 焉, 見 不 賢 而 內 自 省 也. Dịch vần: Thấy người làm việc tốt lành, Mình như thua kém, tiến lanh kịp người. Thấy ai xấu nết chớ cười, Xét xem mình có giống người ấy chăng?
Ngày ngày tập sửa tánh thành,
Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.
(Kinh Sám Hối Ngắn).
Đường tâm tự tỉnh chơn ra giả,
Nẻo đức gồm theo thiệt hoá chơi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Dòng trôi người của vẫn tiêu đồng,
Tự tỉnh trường tu gắng để công.
(Thơ Thượng Sanh).
自 遂
Tự: Chính mình. Toại: Thoả, tức được đầy đủ như mong muốn.
Tự toại là tự thoả thích, tức thoả mãn đúng như nguyện vọng hay ý mong muốn của mình.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Ðạo nên Ðời rạng, giũ áo phồn hoa nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc tự thanh cao, nếm mùi tự toại, dưỡng chí thanh nhàn, thì có chi hơn. Vậy là mầu, vậy là trí.
Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,
Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.
(Kinh Tận Độ).
Cực nhọc buồn vui đời đã chán,
Thôi thôi tự toại niệm Nam Mô.
(Đạo Sử).
Nghìn thu tự toại vô phiền não,
Muôn thuở an nhàn bất tái lai.
(Thơ Thông Quang).
自 尊
Tự: Mình, chính mình. Tôn: Quý trọng, kính trọng.
Tự tôn là tự trọng, tức có ý thức không để cho ai coi thường, coi khinh mình. Như: Lòng tự tôn dân tộc.
Tự tôn còn có nghĩa là tự phụ.
Lưu danh tự thế, thế năng tồn,
Tồn tính tồn tâm vật tự tôn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
自 述
Tự: Mình, tự mình. Thuật: Nói hay viết lại câu chuyện một cách tỉ mỉ, tường tận theo đúng trình tự xảy ra.
Tự thuật là kể, thuật lại.
Tự thuật còn là một lối văn, thơ tự kể về mình. Như: Một quyển tiểu thuyết viết theo lối tự thuật.
Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,
Một kiếp sanh của bậc văn tài.
(Nữ Trung Tùng Phận).
自 此
Tự: Từ đó, kể từ. Thử: Ấy, cái ấy, thế.
Tự thử là từ lúc ấy, từ lúc đó.
Như: Những việc lầm lỗi đã bị quả báo nặng nề, tự thử không dám làm sai trái nữa.
Khối vật chất vô hồn viết tử,
Đất biến hình tự thử quy căn.
(Kinh Tận Độ).
自 重
Tự: Tự mình. Trọng: Tôn trọng, tức đánh giá cao và tránh làm trái ý, tránh xúc phạm đến.
Tự trọng là biết trọng lấy mình, tức biết coi trọng và giữ phẩm cách của mình.
Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có câu: Nước Thiên đường thì ít kẻ, cửa Ðịa ngục vẫn nhiều người, chưa từng thấy hạng nhơn sanh nào mà tự trọng thân hình, chẳng hữu ích chi cho cả cơ Tạo, mà đoạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Có trong sạch, người hành đạo mới biết tự trọng, biết lẽ công bình, dìu dắt nhơn sanh trên đường Thánh đức.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Hay “Tự vẫn”.
Tự: Minh, chính mình. Vận (vẫn): Cắt cổ mà chết.
Tự vận, như chữ “Tự vẫn 自 刎”, là tự cắt cổ mà chết.
Tự vận, đồng nghĩa với chữ “Tự tử 自 死”, là tự giết chết mình một cách cố ý.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong khi có kẻ vì tình cảnh thống khổ về hình xác của họ mà tự tử, tức nhiên họ tự vận.
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận không màng thảo ngay.
(Kinh Sám Hối).
自 衞
Tự: Minh, chính mình. Vệ: Giữ gìn.
Tự vệ là tự bảo lấy mình chống lại mọi sự xâm phạm từ bên ngoài. Như: Đem theo vũ khí để tự vệ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Muốn thắng nó đặng thì trí lự tìm phương quyết thắng, tạo ra súng ống đặng tự vệ lấy mình, nên làm chủ nó được.
Muốn thắng nó đặng thì trí lự tìm phương quyết thắng, tạo ra súng ống đặng tự vệ lấy mình, nên làm chủ nó được.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
自 處
Tự: Tự mình. Xử: Quyết đoán.
Tự xử là tự mình xử lấy mình.
Người xưa thường có câu: Trí giả tự xử, ngu giả quan phân 智 者 自 處, 愚 者 官 分, nghĩa là người trí tự mình xử lấy mình, còn kẻ ngu thì nhờ quan phân giải.
Khuyên con nhớ hằng ngày tự xử,
Ấy là phương vẹn giữ nhơn luân.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tửa là sinh ra giòi con, đẻ những trứng nở thành giòi.
Như: Sao không lấy đồ đậy lại, phơi kiểu nầy, ruồi đậu nó tửa ba con giòi coi thấy mà ghê.
Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
(Kinh Sám Hối).
1.- Tựa là dựa vào, áp sát vào vật gì để nhờ vào đó mà giữ ở nguyên một tư thế nhất định.
Như: Đứng tựa cửa, tựa má kề vai, tựa lưng vào gốc cây, dựng xe đạp tựa vào bờ rào.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bao giờ cái phản động lực của mình cũng do nơi quyền năng vô đối của năng lực nhơn quyền Thiêng Liêng kia đã đem đến, hễ có dữ, có hiền, vì có bất công, vì có đau khổ, của những kẻ cô thế bị cường quyền áp bức, họ không biết nương tựa nơi đâu đặng họ tự vệ lấy họ, tự bảo lấy họ, cái bất công ấy dẫy đầy nơi mặt thế gian này.
Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng,
Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Chàng vui thiếp cũng vui càn,
Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Tựa, như chữ “Tợ”, là giống như.
Như: Hai loại hàng nầy tựa như nhau, nhìn hòn đá tựa hình Đức Phật ngồi.
Nhang thơm tốc đốt nực nồng,
Ðèn loà ngọn lửa tựa rồng phun châu.
(Bài Mừng Thay).
Lòng tựa thép giũa mòn sắt cứng,
Ý như Trời chịu đựng phong ba.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
3.- Tựa là bài văn đề ở đầu một quyển sách.
Như: Đề tựa cho tác phẩm, Lời Tựa quyển kinh Thiên, Thế Đạo là do Hội Thánh viết.
Thơ, biểu nó viết chữ tựa lơn lớn một chút, còn Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh và Tờ Khai Đạo, con cứ làm, Thầy cho phép.
(Thánh Giáo Chí Tôn).
Tựa: Dựa. Cửa: Chỗ mở để ra vào.
Tựa cửa, bởi chữ “Ỷ môn 倚 門”, là dựa vào cửa.
Do tích trong Chiến Quốc Sách: Vương Tôn Giả thờ vua Tề rất cần mẫn, sáng đi chiều về.
Bà mẹ Vương thường trông con, khi mai đi chiều về tựa cửa trong nhà mà trông, khi tối đi mà mai không về bà lại ra tận cửa ngõ mà trông. Do vậy, “Ỷ môn” là tựa cửa trong nhà, “Ỷ lư” là tựa cửa ngõ dùng để chỉ mẹ tựa cửa trông chờ con.
Sớm chiều tựa cửa chờ tin nhạn,
Ngày tháng nương hiên đợi bóng hồng.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Cơm dọn sẵn mẹ không dùng bữa,
Mỗi lúc chiều tựa cửa trông con.
(Thơ Thái Phong).
Tựa: Giống như. Hồ 乎: Chưng, như.
Tựa hồ, như chữ “Tự hồ 似 乎”, có nghĩa giống như là, có vẻ như là.
Như: Hai tay mỏi rụng tựa hồ muốn rớt ra, trông hòn đá tựa hồ bức tượng đứng.
Các con sanh nạnh nhau, tựa hồ chia phe phân phái, là điều đại tội trước mắt Thầy vậy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Tức là giận, bực không nói ra được mà khó chịu. Như: Tức mình, tức giận, anh ta tỏ vẻ tức lắm.
Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Muốn an tâm tỉnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, thì mới khỏi bực tức với những trò đã vì mạng lịnh thiêng liêng phô diễn ở nơi thâm hiểm nặng nề nầy.
Đừng tức mẹ vả xiên ngắt xéo,
Ấy phép linh mẹ sửa méo ra tròn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hễ ngốc mình đừng vội tức,
Vì mình chưa đúng bực thông minh.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tức 即 là liền ngay, nghĩa là. Như: Lập tức, tức thì, tức là, đang đấu tranh mà bỏ cuộc tức thua.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy. Phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe!
Phải phải cùng đời, đừng sửa quấy,
Quấy nhiều tức quỷ giục mình tham.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
即 急
Tức: Liền, ngay, lập tức. Cấp: Gấp.
Tức cấp, đồng nghĩa với chữ “Tức tốc 即 速”, là phải làm ngay lập tức, vì công việc đòi hỏi rất gấp.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Mỗi ngày phải chạy tờ nhựt để cho Chánh Trị Sự hiểu điều động tịnh trong địa phận của mình; nhứt là những sự chi làm hại cho phương diện Đạo thì phải tức cấp cho Thông Sự hay, đặng điều đình thế nào cho an ổn.
Toà Thánh thì có Nội Luật riêng, còn các Thánh Thất thì phải tức cấp lập Nội Luật phân quyền cho rành...
(Đạo Sử).
即 刻
Tức: Liền, ngay, lập tức. Khắc: Một phần tư giờ.
Tức khắc là liền ngay sau đó. Như: Nó sẽ về liền tức khắc, Làm trong một tức khắc sẽ xong.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người khách lữ hành biết mình đi lạc hướng, nhìn xem chặng đường như lạ cảnh đáng ngờ thì tức khắc trở lại con đường cũ.
Thương cửa bần hàn mà xuất Thánh,
Nếu thâu tức khắc hiếm người cười.
(Đạo Sử).
Tức nước: Vật chứa đầy ách nước, sắp bị tức vỡ. Bể bờ: Bờ cản hay thành chứa nước chung quanh bể tung.
Tức nước bể bờ là nước chứa quá đầy, khiến bờ cản bị vỡ tung, ý chỉ người bị dồn nén, bức hiếp thái quá, sẽ có thái độ phản ứng, chống trả.
Tức nước bể bờ tuôn thẳng trớn,
Cuồng phong lôi cuốn chảy càng hung.
(Thơ Hộ Pháp).
即 然
Tức: Ấy là, tự đó. Nhiên: Như vậy.
Tức nhiên có nghĩa là như vậy, tức là như vậy.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Khắp trong nhân loại trên mặt địa cầu nầy, phần đông vì kính thờ Tà quái, mà Tà quái vốn chứa sự chết, thì tức nhiên chúng nó ở trong vòng sự chết là phải tiêu diệt, thì bao giờ biết đặng sự hằng sống là gì. Cười...Nếu Thầy không đến kịp thì các con cũng vẫn bị trong vòng sự chết.
Tức thì bờ giác cận kề,
Tức nhiên nghiệp chướng lầm mê chẳng còn.
(Thơ Hộ Pháp).
Tức: Giận, bực không nói ra được mà khó chịu.
Tức tối là có cảm giác tức, khó chịu, hoặc tức giận, ấm ức trong lòng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Mang xác thịt phải chịu một phen thống khổ, đầu óc tính toán, tại sao mình tài tình hoạt động có hơn thiên hạ, mà làm thì thất bại, tục gọi không thời buồn bực, tức tối đủ thứ, rồi đành an ủi lấy mình bằng câu: “Tài mạng tương đố” mà thật ra không biết quyền năng do đâu mình phải chịu thống khổ như thế.
Căm hờn độc lập nồi da xáo,
Tức tối hoàn đồ đẫm máu xương.
(Thơ Nguyệt Quang).
即 是
Tức: Liền ngay. Thị: Là.
Tức thị có nghĩa chính là, ấy là. Như: Sắc tức thị không, không tức thị sắc.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Tuy nói rằng vị tha là hướng về tha nhơn, là vì người khác chớ theo lẽ Ðạo thì vì người khác chính là vì mình đó. Nói cho rõ hơn là ta lo cho người khác tức thị lo cho ta vậy.
Muốn suy nghĩ ra cho cạn lý,
Hễ sanh chồng tức thị sanh mình.
(Phương Tu Đại Đạo).
Tức: Liền, ngay, nghĩa là. Thì (thời): Chỉ khoảng thời gian nào đó.
Tức thì, như chữ “Tức thời 即 時”, là liền ngay lúc đó, liền ngay trước đó, hoặc nghĩa là, chính là.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Khi nọ, Chí Tôn biểu Bần Ðạo lại kệ “bàn viết” có sắp một dãy nhựt trình đặng rút ra hai tờ. Ngài lại dạy chị chúng ta là bà Phối Sư Bảy đứng bắt ấn, kế Bần Ðạo trải hai tờ nhựt trình sau lưng mà bà chị vẫn không biết. Tới lúc bắt ấn rồi, Bần Ðạo thưa: “Ðã trải rồi”. Tức thì bà chị nhảy ngược lại, đạp hai tờ nhựt trình. Bần Ðạo không hiểu nghĩa gì.
Xem: Tức thời.
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
(Kinh Sám Hối).
Tức thì bờ giác cận kề,
Tức nhiên nghiệp chướng lầm mê chẳng còn.
(Thơ Hộ Pháp).
即 時
Tức: Liền, ngay, nghĩa là. Thời (thì): Chỉ khoảng thời gian nào đó.
Tức thời là liền ngay lúc đó, hoặc nghĩa là, chính là. Như: Sau khi bấm huyệt thấy giảm ngay tức thời.
Bần Đạo đâu vọng ngữ nói chơi,
Dạy vợ chửa tức thời dạy trẻ.
(Phương Tu Đại Đạo).
即 說
Tức: Liền ngay, tức là. Thuyết: Nói rõ ra.
Tức thuyết là liền nói rõ ra.
Tín thọ phụng hành tức thuyết Chơn ngôn viết...
(Kinh Cứu Khổ).
Tưng bừng là ồn ào, làm náo động cả chung quanh.
Tưng bừng còn dùng để chỉ quang cảnh hay không khí nhộn nhịp, vui vẻ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Nơi trường đời người ta tranh giành nhau từ miếng ăn từ manh áo. Hơn nhau một lời nói là có sanh ra ấu ó tưng bừng, có khi đi đến kết cuộc thảm khốc.
Muôn tía tưng bừng điểm sắc mây,
Điềm lành hồng nhạn hiệp chung bầy.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Tân Sửu tưng bừng câu thiện nguyện,
Nhà nhà chuông mõ tiếng kêu vang.
(Thơ Thái Phong).
Tưng: Đưa lên cao một cách nhẹ nhàng, đề cao.
Tưng tiu, đồng nghĩa với chữ “Nâng niu”, là có những hành động, cử chỉ nhẹ nhàng, thể hiện sự quan tâm, quý mến.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Không có một điều gì mà Chí Tôn định trong Chơn giáo của Ngài, dầu Bí pháp, dầu Thể pháp mà vô ích đâu. Ðấng ấy là Ðấng tưng tiu, yêu ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều gì không cần ích mà con cái của Ngài nói rằng không muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa.
Khi anh được tưng tiu quý trọng,
Thì phòng khi thất vọng khổ nguy.
(Thơ Hộ Pháp).
1.- Từng, như chữ “Tầng”, là trải qua. Như: Từng chịu gian khổ, đã từng làm quan, tùng chịu cay đắng.
Thánh giáo Thầy có câu: Các con đã từng nghe lời Thầy khuyên nhủ về chuyện ngừa Cơ Bút, thế mà một phần chẳng chịu sửa cải đường ngay cho khỏi lâm vào nẻo tà mị, đã vi lịnh Thầy mà dìu dắt các con lạc bước.
Xem: Tầng.
Thanh sử từng nêu gương nữ kiệt,
Hồng ân chi kém bạn nam nhi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Từng lo tu luyện bấy lâu nay,
Chuộng Ðạo từ đây đã gặp Thầy.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Từng là mỗi cái một. Như: Từng người, từng ngày, từng việc, từng cái, từng tuổi, từng li từng tí.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chậm rải từng bước một, nhưng đi được bước nào vững bước nấy, không ham tranh giành, không muốn phô trương, không la lối để khoe danh, không ham quyền chác lợi, không thấy việc làm của người rồi bắt chước chạy theo, vì Hội Thánh quan niệm sứ mạng cứu độ người nơi bể khổ là cao trọng hơn cả mọi việc khác.
Noi chân theo dõi Thánh Hiền xưa,
Từng tuổi đời qua cũng đã vừa.
(Đạo Sử).
3.- Từng, cũng gọi “Tầng”, là mặt phẳng ngang ngăn chia không gian thành cõi giới, hoặc thành những phần trên dưới khác nhau về độ cao thấp.
Như: Chín từng trời, mấy từng mây, từng khí quyển.
Cao mấy từng mây lố mặt Trời,
Ðài sen vui nở nhánh bông tươi.
(Đạo Sử).
Tầng: Mặt phẳng ngang ngăn chia không gian thành cõi giới, hoặc thành những phần trên dưới khác nhau về độ cao thấp. Thiên: Cõi Trời.
Từng Thiên là tầng Trời, chỉ về các cõi Trời, cõi của các Chơn linh siêu thăng đắc đạo, tức là cõi của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Đóng Địa ngục mở tầng Thiên,
Khai đường Cực lạc, dẫn miền Tây phương.
(Kinh Tận Độ).
Từng: Từ biểu thị hành động đã diễn ra ở một thời gian trước. Trải: Đã từng qua, từng biết, từng chịu đựng.
Từng trải là đã trải qua nhiều nên có kinh nghiệm và hiểu biết nhiều.
Văn Tế Đức Cao Thượng Phẩm có đoạn: Toàn trong sáu tỉnh để tiếng ngợi khen, khắp cả muôn dân riêng phổ độ. Trước từng trải Biên Hoà, Sài Gòn, Gia Ðịnh, mới lần qua cửa Tiểu, đã mấy buổi nắng mưa cam chịu, Ðấng Tạo Ðoan soi tỏ rõ tấm kiên trinh, rồi lại từ Mỹ Tho, Sa Ðéc, Long Hồ, mà thẳng tới Bạc Liêu, biết bao phen sương tuyết dãi dầu, ơn Thượng Phẩm đáng ghi vào nơi phế phủ.
Vó kỳ từng trải đường nguy hiểm,
Cánh hộc quen chiều gió ngược xuôi.
(Thơ Hộ Pháp).
Chợ đời từng trải gót phong sương,
Rõ mặt trần ai biết chán chường.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Tước 爵 là danh vị của nhà vua phong cho các Chư hầu về đời xưa. Có năm tước là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Như: Chức tước, phong tước, tước lộc.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã vì chúng sanh mà lập Ðạo, nhưng kẻ phàm tục còn ám muội, tham danh chác lợi, lấn tước cầu quyền, thì ấy là tự chúng nó gieo mình nơi vực thẳm.
Nhẫng lo trọng tước cao quyền,
Ðem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
(Ngụ Đời).
Lỡ làng duyên phận chớ buồn rầu,
Phải có cực nên mới tước cao.
(Đạo Sử).
Tước cả: Chức tước lớn lao. Quyền cao: Quyền hành cao trọng.
Tước cả quyền cao, như chữ “Quyền cao chức trọng”, là quyền tước đều lớn lao cao trọng.
Dầu lớn khôn tước cả quyền cao,
Cũng nhớ thuở thai bào công chín tháng.
(Phương Tu Đại Đạo).
爵 銜
Tước: Chức tước, phẩm tước. Hàm: Chức quan danh dự, không quyền hành chánh. Hàm: Còn có nghĩa là phẩm trật trong quan chế.
Tước hàm là phẩm tước hàm phong, tức được phong chức cho có danh dự chớ không có quyền hành chánh trong chế độ xưa.
Tước hàm trong Đạo Cao Đài được phong cho những vị Chức sắc có công nghiệp nhưng đã lớn tuổi, hoặc đau yếu, không thể bổ đi hành chánh được, gọi là chức sắc “Hàm phong”.
Tước hàm còn có nghĩa là phẩm trật, hay cấp bậc chức tước trong quan chế. Như: Tước hàm tam phẩm.
Mỗi đứa con đều có tên trong Thiên thơ cả, chức phận cũng đã tiền định, chớ chẳng phải tước hàm trần thế dâng cho kẻ lễ nhiều.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
爵 祿
Tước: Chức tước. Lộc: Bổng lộc, lợi lộc.
Tước lộc là chức tước và bổng lộc, ý chỉ quyền uy và lợi lộc.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhưng mà đối với Đức Ngài thì Đức Ngài coi vàng như củi mục, thị sắc đẹp như cây khô, tước lộc cũng không màng, một tấm lòng son thuỷ chung như nhứt.
Giàu sang, tước lộc không buồn nhắc,
Chỉ thích thanh nhàn cuộc sống thôi.
(Thơ Thiên Vân).
爵 權
Tước: Chức tước, một phẩm vị vua phong cho người có công. Quyền: Quyền hành.
Tước quyền là chức tước và quyền hành. Như: Người tu hành phải rời bỏ tước quyền thế gian.
Đường danh nẻo lợi như mây nổi,
Nhắc nhở làm chi chuyện tước quyền.
(Thơ Hàn Sinh).
爵 重
Tước: Chức tước. Trọng: Nặng, quan trọng, lớn.
Tước trọng là chức to, hoặc phẩm tước quan trọng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lấy tánh đức thường tình của một Bà Mẹ không có gì lạ, ta thấy vì trong một gia đình kia dầu rân rát, một người dầu quyền cao tước trọng, dầu làm quan Toà, quan Tham Biện hay Tể Tướng đi nữa mà bước vào nhà còn làm Tể Tướng thì Bà Mẹ không ưa lại thêm phiền lụy, làm quan với ai kia, chớ về nhà làm quan với gia đình à!
Nhẫng lo tước trọng cao quyền,
Đem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
(Ngụ Đời).
爵 位
Tước: Chức tước, một phẩm vị vua phong cho người có công. Vị: Chỗ ngồi, ngôi vị.
Tước vị là chức tước và ngôi vị.
Như: Tước vị trong tôn giáo do Đức Chí Tôn phong cho để điều hành nền Đạo.
Trung, Lịch, đã thọ sắc, cứ tước vị mà theo sắc mạng Ta.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tược là lộc, chồi non, bộ phận non phát sinh từ thân cây, sau thành cành, hoặc thân mới.
Như: Đâm chồi nảy tược, nhánh ương nầy đâm tược là thấy có dấu hiệu sống rồi.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Cây trong rừng hoặc trong vườn bị che khuất còn biết nghiêng mình, nảy chồi đâm tược. Hỏi tìm ai? Tìm Ðấng Tạo Ðoan.
Cội sởn sơ mới có đâm chồi trổ tược, nhành lá sum sê, hoa đơm sắc sảo, rồi mới đến trái oằn sai mà thành kết quả xứng đáng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
1.- Tươi là nói cây cỏ, hoa lá đã cắt, hái đang còn xanh, còn tốt, chưa héo, chưa khô, chưa úa.
Như: Rau tươi, bình hoa vẫn còn tươi đẹp, củi còn tươi chụm chưa cháy hết.
Hoa tươi, tòng bá, khác nhau xa,
Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa.
(Giới Tâm Kinh).
Liễu Huệ nhuần sương Liễu Huệ tươi,
Chiều Xuân nguyệt rạng vẻ hoa cười.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tươi là thịt hay tôm cá còn sống (chưa nấu chín), còn giữ nguyên chất, chưa ươn, chưa bị biến chất.
Như: Ăn tươi nuốt sống, miếng thịt bò còn tươi, tôm cá còn tươi.
Gặp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời.
(Kinh Sám Hối).
Tri cơ mầu nhiệm Ðạo không ngươi,
Ham rượu cho ngon miếng thịt tươi.
(Đạo Sử).
3.- Tươi là có sự biểu hiện vui vẻ, phấn khởi. Như: Mặt tươi như hoa, nụ cười tươi, vui tươi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chúng tôi vẫn lưu tâm lo tìm phương chước đem lại cho đời sống của bổn Ðạo một sự an ủi thiết thực, cần yếu và chúng tôi tin chắc rằng trong sự cộng tác thành thật của lưỡng đài Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài, chúng ta hy vọng một tương lai vui tươi tốt đẹp hơn.
Trót đã bao năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
(Thài Hộ Pháp).
Tươi: Nét mặt biểu hiện vui vẻ, phấn khởi. Cười: Nhếch môi hoặc há miệng lộ vẻ vui.
Tươi cười ý chỉ vẻ mặt có nét vui tươi, hồ hởi.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Nhưng nếu trong môn đệ đồng tâm chí như mấy con đây thì đường đi của các con sẽ vui vẻ tươi cười, chẳng chi chinh lòng nhau đặng. Các con nên suy nghĩ.
Huê đào từ trở sắc tươi cười,
Chẳng giữ gìn duyên kẻ một nơi.
(Đạo Sử).
Khổ thân em cũng tươi cười,
Chi chi xin nhớ hơn mười năm tu.
(Bát Nương Giáng Bút).
Tươi: Hoa lá, cây cối đã cắt, hái chưa héo, úa.
Tươi tắn là tươi vui, sáng sủa, có những nét phấn khởi trên gương mặt.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Nếu không có chất sanh thì thế nào tươi tắn đặng mà chứa sự sống. Như nó khô rũ thì là nó chết, mà các con nào ăn vật khô héo bao giờ; còn như nhờ lửa mà nấu thì là phương pháp tẩy trược đó thôi, chớ sanh vật bị nấu chưa hề phải chết.
Hoa mới nở mùa hoa tươi tắn,
Đạo vừa khai Đạo hẳn mặn mòi.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Tươi: Còn xanh, chưa úa, chư héo, xinh đẹp. Thắm: Còn màu, chưa phai lạt.
Tươi thắm là tươi, với những màu sắc đậm đà, trông rất đẹp đẽ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Một năm đã hầu mãn, hôm nay là buổi lễ cúng Tất Niên. Rồi đây chúng ta sẽ tạm nghỉ ít ngày để đón Xuân, cái Xuân nồng nàn xinh đẹp của võ trụ mà cũng là cái Xuân tươi thắm của người ở thế gian, một dịp thay cũ đổi mới gieo vào lòng nhân thế biết bao hy vọng để phấn khởi trên đường nhiệm vụ tương lai.
Non sông đượm vẻ màu tươi thắm,
Hồng lạc thay lông đẹp áo chầu.
(Lý Giáo Tông).
Tươi thắm non sông khắp đượm nhuần,
Muôn hồng nghìn tía báo tin xuân.
(Thơ Huệ Giác).
Trúc mai tươi thắm màu thân thiện,
Cầm sắt hoà chung nhịp xướng tuỳ.
(Thơ Thuần Đức).
Tưới là làm cho thấm ướt đều bằng cách đổ nước, hoặc phun nước trên bề mặt.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Khá tua tỉnh giấc mộng trần, quay về với đạo đức chơn thật, để sống lại những ngày giác ngộ sống với ý nghĩa cao đẹp vị tha.
Cây “giác ngộ” chỉ mọc giữa đám đất đau khổ (vì bị dục vọng lôi cuốn) lấy chúng sanh làm gốc, lấy lòng thương bao la làm nước tưới mới có hoa giữa trí tuệ.
Lánh đường trần tục đến non Tiên,
Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ướt gốc nở quên người tưới cội,
Xanh nhành vội dứt kẻ đào mương.
(Thơ Hộ Pháp).
1.- Tương 醬 là thứ nước chấm, làm bằng đậu nành lên men và muối.
Như: Đậu hủ kho tương, nhừ nát như tương.
Ca dao có câu: Muốn ăn đậu phụ tương tàu, Mài dao đánh kéo gọt đầu đi tu.
Mặn lạt tương dưa mến cửa thiền,
Ngoài vòng tục lự mảnh thân yên.
(Thơ Thuần Đức).
2.- Tương 湘 là tên một con sông ở tỉnh Hồ Nam bên Tàu. Tục truyền hai Bà vợ vua Thuấn ngồi bên sông Tương khóc chồng, vấy nước mắt vào cây trúc thành vết.
Như: Sông Tương, rèm Tương.
Xem: Tương Giang.
Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,
Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Tương 將 là sắp, hầu, không dùng một mình. Như: Tương lai.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Thầy há chẳng có lời tiên tri rằng Thần Linh Học là một nền đạo tương lai sao?
Tương lai gởi lại tay tha chủng,
Mai một thương cho đám việt kiều.
(Thơ Hộ Pháp).
相 愛
Tương: Với nhau, cùng nhau. Ái: Yêu mến, thương mến, thương yêu.
Tương ái là thương yêu nhau (thường dùng đi đôi với tương thân).
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Tình liên lạc mật thiết như cốt nhục, mà khuôn tuồng đó ngày nay đã mất rồi, vì chưng tư lợi tư kỷ nhiều quá mà làm cho tiêu diệt hết lòng tương ái tương thân trong hương đảng.
Giáo lý ấy đáng lẽ phải đem lại hoà bình và tương ái cho loài người, nhưng trái lại nó gây mầm chia rẽ và chiến tranh.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
將 功 折 罪
Tương công: Lấy cái công, hay công quả. Chiết tội: Trừ bớt điều tội lỗi.
Tương công chiết tội là lấy công quả đã làm được trong kiếp nầy trừ bớt tội lỗi đã làm trong kiếp trước.
Thánh Ngôn có câu: Thầy vì thương căn quả của các con mà lấy đức từ bi đặng Thiên phong cho các con là cố ý để cho các con hành đạo cho hoàn toàn, dễ bề tương công chiết tội tiền khiên, hầu nâng mình vào nơi cựu vị.
Ai giữ trọn bực phẩm thì đặng Toà Nghiệt Cảnh tương công chiết tội, để vào địa vị cao hơn chốn Ðịa cầu 68 nầy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tương: Một món ăn chay làm bằng hạt đậu nành. Dưa: Một loại trái trong rau cải.
Tương dưa, như chữ “Muối dưa”, dùng để chỉ người giữ giới chay lạt, ăn uống đạm bạc.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðời chuộng vinh sang, Ðạo chuộng khổ hạnh, đời ham trược phú, Ðạo giữ thanh bần, lên xe xuống ngựa chốn phồn hoa đổi lại cảnh lê hoắc nâu sồng, nơi cửa Ðạo tương dưa thanh đạm tháng ngày, để mặc miếng mỹ vị cao lương ngoài quán tục.
Khuya sớm tương dưa hết dục lòng,
Lòng dầu toan kế, kế sao xong.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
相 得
Tương: Cùng nhau. Đắc: Hợp ý với nhau.
Tương đắc là hoà hợp với nhau. Như: Hai người kết bạn với nhau rất tương đắc.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải có đoạn: Người gần gũi chúng sanh là Giáo Hữu. Thảng như có điều chi làm cho Đạo với Đời không tương đắc, sanh ra nghi hoặc, mờ hồ, thì không ai có thể quan sát và kiểm dượt đễ dàng hơn Giáo Hữu, nên Thầy mới giao trách nhậm riêng ấy cho, là vì vậy.
Đạo đời tương đắc cứ như nhiên,
Đời đạo đôi bên nắm vững quyền.
(Thân Dân).
Xác hồn tương đắc lẽ đương nhiên,
Nhân chánh Đường Nghiêu đức lập quyền.
(Thơ Thông Quang).
相 對
Tương: Cùng nhau, với nhau. Đối: Sánh nhau, ngang nhau, giáp mặt nhau.
Tương đối là đối nhau, so sánh với nhau được, tức ở mức nào đó, trong quan hệ so sánh với những cái khác cùng loại.
Như: Dạo nầy tương đối rỗi rảnh, bài luận nầy tương đối viết hay có ý nghĩa.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Cái công khó dạy dỗ trẻ em không phải đợi đổi một món thù lao tương đối như ở mặt đời, mà chỉ do nơi chí nhiệt thành phục vụ để góp phần công quả vào cuộc xây dựng về tinh thần đối với Ðại nghiệp của Ðạo.
Có nhiều khi trước cảnh ngộ ấy, chúng ta ngó thấy đời đạo đang tương đối cùng nhau.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
相 當
Tương: Cùng nhau. Đương: Vừa, cân ngang.
Tương đương ngang nhau, bằng nhau.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Vì lẽ, khi ta làm một việc gì, ta phải tiêu phí đi một ít nghị lực, sự làm của ta gây một phản động hay là một kết quả tương đương và người hành động phải hứng chịu kết quả đó.
Hai thuyết ấy tương đương với nhau, chiến đấu một cách kịch liệt thành ra hai khối Nga và Mỹ.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
湘 江
Tương giang là sông Tương, một dòng sông bắt đầu từ núi Dương Hải, huyện Hưng An, tỉnh Quảng Tây, chảy qua Hồ Nam, Trường An, đổ vào hồ Động Đình, dài hơn hai ngàn dặm. Trong văn chương thường dùng “Tương giang” để chỉ sự thương nhớ giữa trai và gái, hay sự ly biệt giữa đôi lứa.
Có hai điển tích:
1.- Dòng sông Tương, bởi tích vua Thuấn đi tuần thú ở Thương Ngô và chết ở nơi đó, Hai bà vợ là Nga Hoàng, Nữ Anh đi tìm chồng, đến đó buồn rầu, ngồi khóc than thảm thiết, nước mắt của hai bà vẩy vào trúc bên sông, làm cho cây trúc có đốm như đồi mồi.
2.- Do tích trong “Tình Sử” đời nhà Châu, Lương Ý yêu chàng Lý Sinh, sau phải xa nhau, nên có làm bài thơ “Tương Giang” (Sông Tương): Quân tại Tương giang đầu, Thiếp tại Tương Giang vĩ, Tương tư bất tương kiến, Đồng ẩm Tương Giang thuỷ 君 在 湘 江 頭, 妾 在 湘 江 尾. 相 思 不 相 見, 同 飲 湘 江 水. Nghĩa là: Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương. Nhớ nhau mà chẳng thấy, Cùng uống nước sông Tương.
Thương con thuyền bá nương buồm,
Thương dòng nhi nữ chứa hờn Tương giang.
(Thất Nương Giang Bút).
Chừ sao đổi dạ thay lòng,
Hẹn xưa bỏ chảy theo dòng Tương giang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Mảnh thân xin gởi bấy chừ,
Nương theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Tương hợp”.
Tương: Cùng nhau, với nhau. Hiệp (hợp): Hoà hợp.
Tương hiệp, như chữ “Tương hợp 相 合”, là hợp lại, hay hoà hợp với nhau.
Giải về Long mã, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong quyển Giáo Lý có viết: Long Mã tượng trưng Âm Dương tương hiệp, tức thời gian trôi qua mau lẹ và mang theo những tinh tuý của Trời Đất để chan rưới sự sống cho muôn loài vạn vật.
Sự sống của vạn loại trong Càn khôn Vũ trụ chỉ nhờ có vật chất và tinh thần tương hiệp mới thành.
(PhápChánh Truyền CG).
Tương: Cùng nhau, với nhau. Hội: Gặp gỡ, tụ họp.
Tương hội là gặp gỡ, tụ họp lại với nhau.
Khi thuyết về Tiên Thiên khí, Hậu Thiên khí và Vật chất khí, Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo giảng cõi Hư linh, nếu ta đạt pháp xuất ngoại xác thân, tương hội cùng các bạn cõi vô hình thì ta thấy khác hẳn theo tánh chất phàm tâm tưởng tượng.
Thảng các Tôn Giáo ấy Chí Tôn đem dung hoà đặng họ tương hội cùng nhau, mà họ không nghe, thì ta mới làm sao?.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
將 來
Tương: Sắp, hầu. Lai: Đến, tới.
Tương lai là cái về sau, tức việc sẽ tới. Như: Ngày nay chịu vất vả để tương lai huy hoàng.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Chúng tôi tin chắc rằng trong sự cộng tác thành thật của lưỡng đài Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, chúng ta hy vọng một tương lai vui tươi tốt đẹp hơn.
Hiếu nghĩa tương lai sau tựu hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cứu giống Lạc Hồng còn luyến thế,
Sửa đời Nam Việt lại tương lai.
(Bạch Vân Giáng Bút).
Tương: Cùng nhau. Lân (liên): Thương yêu.
Tương lân, như chữ “Tương liên 相 憐”, là cùng thương yêu hoà ái với nhau.
Xem: Tương liên.
Ba sinh hẹn ước đậm đà,
Xưa nay thanh khí vẫn là tương lân.
(Phù Kiều Hận Sử).
Tương 相: Cùng nhau, với nhau. Liên 憐: Thương yêu. Liên 連: Liền.
1.- Tương liên 相 憐 (hay tương lân) là cùng thương yêu nhau.
Tránh điều đố kỵ gây thù hận,
Lập chí tương liên vững nước nhà.
(Thơ Thượng Sanh).
2.- Tương liên 相 連 là nối liền với nhau.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong thời buổi ba tháng Bần Đạo nhập tịnh vào Trí Huệ Cung, cả tinh thần hồn phách của Bần Đạo tương liên với Đức Chí Tôn mà thôi, ngoài ra không còn biết điều chi nữa hết, điều đó là trọng yếu nên Bần Đạo định cho các cơ quan Chánh trị Đạo, mỗi cơ quan đều có chủ quyền sở hữu của mình giữ gìn đừng để mất.
Đời đạo tương liên gieo Thánh đức,
Nhơn sanh an hưởng cảnh Thần Tiên.
(Thơ Thân Dân).
相 遇
Tương: Với nhau. Ngộ: Gặp.
Tương ngộ là cùng nhau gặp gỡ.
Khi nói về cô hồn, ngạ quỷ, Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Còn kiếp chết của chúng ta sẽ được tương ngộ trên cảnh hư linh hằng sống kia, cái cảm tình của chúng ta ngày đó dầu cho dưa muối mà chúng ta nhớ cái thâm tình ấy là quý trọng.
Thử lòng tri kỷ đó mà thôi,
Tương ngộ có hơn bảy tháng rồi.
(Thất Nương Giang Bút).
相 如
Tương Như có hai điển tích:
1.- Tư Mã Tương Như 司 馬 相 如, một bậc văn tài đời nhà Hán, lại gẩy đàn rất hay.
Trác Văn Quân, một người con gái đẹp goá chồng, nghe Tư Mã Tương Như gẩy khúc “Phượng Cầu Hoàng” bèn phải lòng, trốn đi theo.
Ðắc lộ Tương Như còn khảy ngón,
Thương câu tuyết hứng đến nơi nầy.
(Đạo Sử).
Khúc trỗi hết bùi tai Trác Thị,
Câu rao càng lộ ngón Tương Như.
(Thơ Thuần Đức).
2.- Lạn Tương Như, người đời Chiến Quốc, làm Thượng Khanh nước Triệu, nhờ có công đem viên ngọc Biện Hoà của Triệu sang Tần đổi lấy mười lăm thành.
Xem: Ngọc Biện Hoà.
Bính ngọc Tương Như mấy được dành,
Chưa ra giá đáng xót oai danh.
(Đạo Sử).
相 分
Tương: Cùng nhau, với nhau. Phân: Chia lìa, chia rẽ, phân chia.
Tương phân là phân chia nhau hay chia rẽ nhau.
Trong quyển Phương Châm Hành Đạo, Đức quyền Giáo Tông có viết: vậy mới tránh khỏi “cái hại chia phe lập đảng” mới không lỗi câu “đồng Đạo tương phân”.
Giao tiếp cùng nhau cho có nét yêu dấu, tạc thù trong niềm đạo hữu, lại có dạ ghét lẫn tương phân.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
相 逢
Tương: Cùng nhau. Phùng: Gặp gỡ.
Tương phùng là cùng nhau gặp gỡ.
Người xưa cho rằng gặp gỡ cũng có duyên phần: Hữu duyên thiên lý năng tao ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng 有 緣 千 里 能 騷 遇, 無 緣 對 面 不 相 逢, nghĩa là có duyên ngàn dặm cũng hội ngộ, không duyên đối mặt cũng chẳng gặp nhau.
Đợi buổi bèo mây vầy một hội,
Tương phùng vui cạn chén liên hoan.
(Thơ Thuần Đức).
Khúc hát tương phùng cung nhịp lỗi,
Ngậm ngùi tưởng nhớ lúc chia phôi.
(Thơ Hoàng Nguyên).
相 關
Tương: Cùng nhau, với nhau. Quan: Liên hệ.
Tương quan nghĩa là có quan hệ với nhau.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Ngài quan niệm cái nguyên lý sinh tồn tự thể của con người, với cái nguyên tắc sinh tồn bản thể của vũ trụ, có những mối tương quan vô hình nhưng chặt chẽ, làm nhân duyên sinh khởi tồn tại cho nhau, nên muốn thanh tịnh vô vi để hoà mình cùng Ðạo, hầu tìm phương trường sanh bất tử.
Ta thấy cái tương quan nó làm cho chúng ta nhiều nỗi khổ não, buồn thảm hơn là ngày vui của hạnh phúc.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
相 殘
Tương: Cùng nhau, với nhau. Tàn: Làm hại.
Tương tàn là tàn hại nhau, tức giết hại lẫn nhau. Như: Cuộc nội chiến là cốt nhục tương tàn.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thậm chí ở trong vòng thân tộc cùng chung huyết thống, người đời cũng không tránh khỏi lâm vào cảnh cốt nhục tương tàn chỉ vì phân tranh quyền lợi.
Nhơn loại không biết nhìn nhau đồng căn bản, đồng cốt nhục và tương tàn với nhau, biểu Chí Tôn khoanh tay ngồi ngó cho đặng...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
相 殘 相 殺
Tương tàn: Tàn hại lẫn nhau. Tương sát: Giết chết lẫn nhau.
Tương tàn tương sát là giết hại lẫn nhau.
Nói về nền độc lập Việt Nam, Đức Hộ Pháp có câu: Nghĩ có một điều trong nhơn loại cái cảnh tranh quyền, tranh thế, các đảng phái tương tàn tương sát lẫn nhau, làm cho nòi giống đổ máu, nên họ giao quyền sở hữu lại cho mình để thí nghiệm coi mình có đủ tài năng, lực lượng cương quyết cầm độc lập hiện tại được chăng cho biết.
Tại sao trở lại giết nòi giống của mình, gây nạn tương tàn tương sát lẫn nhau?
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Tương: Cùng nhau, với nhau. Tợ (tự): In như, giống.
Tương tợ, như chữ “Tương tự 相 似”, là giống nhau, giống như vậy.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai có đoạn: Chư sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo. Phép hành đạo Phật giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến Tả Ðạo Bàng Môn. Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào, cứ ôm theo luật Thần Tú, thì đương mong mỏi về Tây phương mà cửa Tây phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành Chánh quả do nơi nào mà biết chắc vậy.
Lo điểm trang phấn sắc áo màu,
Coi tương tợ như đào hát bội.
(Phương Tu Đại Đạo).
相 思
Tương: Cùng nhau. Tư: Nhớ tưởng.
Tương tư là nhớ da diết, tức trai gái thương yêu nhau, tưởng nhớ nhau quên ăn bỏ ngủ, rồi sinh ra bịnh.
Như: Thương nhớ người mình yêu quá, rồi sinh ra bịnh tương tư.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,
Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Trượng phu hà hải đã đành,
Nỡ nào đày thiếp một mình tương tư.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tương Tử tức Hàn Tương Tử, sinh vào đời nhà Đường, là cháu gọi Hàn Dũ bằng chú.
Thuở nhỏ, Hàn Dũ ép cháu học Nho để tiến thân trên đường hoạn lộ, nhưng Hàn Tương Tử lại mộ đạo Thần Tiên. Vì vậy, Hàn Tương Tử thường tu tâm dưỡng tánh.
Sau đó, Hàn Tương Tử bỏ nhà lên non gặp được Hớn Chung Ly và Lữ Đồng Tân, ba người dắt nhau lên non hái đào chín. Hàn Tương Tử leo lên cây đào bị gãy nhánh, té xuống bỏ xác mà thành Tiên, đó là vị Tiên thứ bảy trong Bát Tiên.
Hàn Tương Tử thường cỡi trên con công.
Hớn Chung Ly,Thể Hoà, Tương Tử,
Tào Quốc Cựu, với Lữ Đồng Tân.
(Lược Thuật Toà Thánh).
相 親
Tương: Cùng với nhau. Thân: Gần gũi, thiên thiết.
Tương thân là cùng thân thiết với nhau. Như: Cùng là tín hữu phải biết tương thân tương ái.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phải chăng Ðức Chí Tôn đã chan rưới giọt hồng ân để cho anh lớn em nhỏ trong Ðạo cùng nhau khắng khít trong niềm hoà ái tương thân hầu đem lại cho đời khổ hạnh của chúng ta phần nào an vui và khích lệ trên đường phục vụ nhơn loại.
Một mối tương thân chừ nắm chặt,
Đạo nên thức tỉnh giấc chiêm bao.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
相 親 相 愛
Tương thân: Cùng thân thiết với nhau. Tương ái: Cùng thương yêu nhau.
Tương thân tương ái là cùng thương yêu lẫn nhau, và cùng thân thiết lẫn nhau.
Thánh giáo Chí Tôn dạy: Thầy mầng cho các con đã chịu lao tâm tiêu tứ mà vun đắp nền Ðạo, làm cho mối tương thân tương ái càng khắng khít vững bền, ráng công thêm nữa mà đi cho cùng bước đường của các con đã chịu lắm nhọc nhằn, vạch lối chông gai, dìu chơn hậu tấn.
Sự hội hiệp của các con chẳng phải vì nơi đạo đức mà thôi, lại cũng vì mối tương thân tương ái nữa.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
相 通
Tương: Đối lẫn nhau, với nhau. Thông: Suốt qua, hai bên hoà hợp nhau.
Tương thông là hai bên thông đồng với nhau.
Tương thông còn có nghĩa là hai bên có mối thông cảm với nhau.
Tang quyến sầu thương lần vĩnh biệt,
Đàn văn cảm kích mối tương thông.
(Thơ Hoàn Nguyên).
湘 水
Tương: Một dòng sông bắt đầu từ núi Dương Hải, huyện Hưng An, tỉnh Quảng Tây, chảy qua Hồ Nam, Trường An, đổ vào hồ Động Đình, dài hơn hai ngàn dặm. Thuỷ: Nước.
Tương thuỷ, như chữ “Tương Giang 湘 江”, là chỉ dòng sông Tương.
Trong văn chương người ta thường dùng “Tương giang” để chỉ sự thương nhớ giữa trai và gái, hay sự ly biệt giữa đôi lứa.
Xem: Tương thuỷ.
Ngừa thuyền Bát Nhã theo Tương thuỷ,
Hoạ giúp Thiên Tôn đóng cửu tuyền.
(Đoàn Thị Điểm Giáng).
相 知
Tương: Cùng nhau, với nhau. Tri: Biết.
Tương tri là hiểu nhau, biết rõ lòng của nhau.
Tương tri còn dùng để chỉ bạn bè tốt, tức bạn bè hiểu biết nhau và giúp đỡ nhau.
Cung Diêu ghé mắt thư hùng,
Reo tơ may gặp hội cùng tương tri.
(Nhứt Nương Giáng Bút).
相 助
Tương: Cùng nhau. Trợ: Giúp đỡ.
Tương trợ là giúp đỡ lẫn nhau.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chí nhiệt thành và lòng háo nghĩa của con cái Ðức Chí Tôn đã được chứng tỏ đúng lúc cần yếu, đó chính là một tinh thần đoàn kết và tương trợ thật cao cả, mà đó cũng là cái năng lực hữu hiệu do quyền thiêng liêng đã mầu nhiệm dành sẳn cho Thánh thể hữu hình của Ðại Từ Phụ tại thế.
Chúng ta dở lịch sử ra xem nhận thấy nhơn loại đã tạo từ trước, họ đã đạt đặng giống tương trợ nhau không xa không gần...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
相 稱
Tương: cùng nhau, với nhau. Xứng: Cân, vừa.
Tương xứng là xứng nhau, có mối quan hệ phù hợp với nhau về mức độ.
Như: Năng lực tương xứng với chức vụ.
Trong Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Cao Đài giáo xét như một Tôn giáo tổng hợp đã quy định những tôn giáo chính thống trên một căn bản chung và đặt giữa chúng nó những liên hệ tương xứng như muốn xác định rằng các tôn giáo chỉ là những lối thể hiện khác nhau của cùng một cái Đạo duy nhứt, vĩnh tồn.
Hình thức và tinh thần phải tương xứng, phải cùng tốt đẹp cùng nhau,...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Tướng 相 là hình dáng bên ngoài. Như: Tướng mạo, tướng phúc hậu, chơn tướng, thiệt tướng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy nói rõ, quyền Chí Tôn là Thầy, quyền Vạn linh là sanh chúng. Ngày nào quyền lực của Chí Tôn đặng hiệp một cùng Vạn linh thì Ðạo mới ra thiệt tướng.
Trau mình tới bộ hình tướng dạng,
Khá biết rằng em thoả mãn học gương.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tướng 將 là một chức quan võ cầm đầu một đạo binh. Như: Tướng sĩ, binh hùng tướng mạnh.
Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Lo ngoài quên trong, che bề trong trau bề ngoài, ấy là cách thức của Hớn Lưu Bang đối đãi với tướng sĩ đó, cũng như có xác không hồn, chuộng hữu hình mà quên các huyền bí chơn truyền.
Dựng nước chẳng ai tài tướng lược,
Liều mình thiếu kẻ đáng hùng anh.
(Đạo Sử).
Liệng giáo buông khiên binh đổ dữ,
Sa cơ thất trận tướng ra ngây.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Tướng hạc: Tướng đi yểu điệu, mảnh mai như chim hạc. Hình mai: Thân hình như hoa mai.
Tướng hạc hình mai, đồng nghĩa với câu thành ngữ “Mình hạc xương mai”, dùng để chỉ người con gái đẹp có hình dáng mảnh khảnh thanh nhã và quý phái.
Phàm phận gái đứng hàng khuê các,
Phải trau tria tướng hạc hình mai.
(Nữ Trung Tùng Phận).
將 軍
Tướng: Quan võ cầm đầu một đạo binh thời xưa. Quân: Binh lính.
Tướng quân là từ dùng để gọi một cách tôn kính vị tướng chỉ huy một đạo quân thời trước.
Sử Ký chép: Thiên hạ chi sự giai quyết ư tướng quân 天 下 之 事 皆 決 於 將 軍, nghĩa là công việc trong thiên hạ đều do tướng quân giải quyết.
Nếu là một đạo Thiên binh mà đã đứng ra bãi chiến trường chém tướng đoạt cờ bảo tồn quốc vận, ấy là tướng quân tạo thời cải thế...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
相 國
Tướng: Quan Thừa tướng hay Tể tướng. Quốc: Chỉ một nước.
Tướng quốc là một chức quan lớn, vào đời nhà Tần bên Trung Hoa, ngang hàng với Thừa tướng.
Đời Lữ Hậu nhà Hán đã từng cho quan Thừa tướng Tiêu Hà lãnh chức Tướng quốc.
Vâng ngọc âm từ chốn Thiên đình,
Xuống hạ giới làm con Tướng quốc.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
將 士
Tướng: Quan võ cầm đầu một đạo binh thời xưa. Sĩ: Binh lính, quân sĩ.
Tướng sĩ là tướng tá và binh sĩ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hại thay! Tới chừng lên Đế vị rồi, phong hầu, phong bá (Công, Hầu, Vương, Bá) cho cả hàng tướng sĩ của Ngài, tới trận Waterloo những kẻ sang trọng trở nên nhát nhúa mất chí khí anh hùng nên Ngài phải thua
Lo ngoài quên trong, che bề trong trau bề ngoài, ấy là cách thức của Hớn Lưu Bang đối đãi với tướng sĩ đó...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
將 帥
Tướng: Tướng sĩ, một chức quan võ. Soái: Hay suý, là thống suất.
Tướng soái là một võ quan cầm đầu quân lính. Đồng nghĩa với chữ “Tướng lãnh”.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có cho rằng: Kẻ phò cơ chấp bút cũng như tướng soái của Thầy để truyền đạo cho thiên hạ.
Hễ tướng soái chiến tranh là nghiệp,
Đạo đức sao cho hiệp Thiên đài.
(Xuân Hương Giáng Bút).
Thiên quân ví chẳng ra tiền đạo,
Tướng soái khó toan chiếm địa đầu.
(Quyền Giáo Tông).
Cửa Đạo nhờ ai nên tướng soái,
Anh hùng nào kẻ trọng tài hiền.
(Thơ Hiến Pháp).
Tướng: Tướng suý, quan võ cấp cao nhứt. Tá: Vị quan võ cấp trung, phò tá cho vị tướng.
Tướng tá 將 佐 là cấp tướng và cấp tá, là một từ dùng để gọi chung các quan võ bậc cao trong quân đội.
Như: Đoàn quân cảm tử, sau khi thất trận, tướng tá đã chết gần hết.
Tướng tá còn có nghĩa là tướng mạo. Như: Anh ta có tướng tá rất hung dữ.
Bởi vẽ hình tướng tá cùng nhà,
Vợ ghê sợ đẻ ra in dạng.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Tường 墻 là bức vách xây bằng gạch đá hay đấp bằng đất để ngăn từng buồng, hoặc từng nhà. Như: Tường rào bao quanh, hoa tường liễu ngõ.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Cả con cái Chí Tôn thấy một trường hợp nào bất chánh thì quan sát cái trạng thái của nền Chánh Giáo Ðức Chí Tôn đã cho hay trước, nó có đại hùng đại lực rồi nó phải đi trong con đường đại từ bi, coi chừng có đường nào đi qua đại ác của nó, cả thảy đều đứng lên làm một bức tường thiên nhiên gây thành một bức tường huyền diệu của Ðức Chí Tôn đặng cản ngăn che cho Ngài, cái nền Tôn Giáo của Ngài đừng cho đi vào đường đại ác.
Sá chi giống hoa tường liễu ngõ,
Hại nghiệp nhà nghiêng đổ như chơi.
(Phương Tu Đại Đạo).
Canh khuya, phòng vắng trơ thân Cuội,
Cổng kín, tường cao, ánh chị Hằng.
(Thơ Thuần Đức).
2.- Tường 墻, nghĩa bóng dùng để chỉ bức vách bao vây hay nhốt kín con người vào đó.
Như: Bức tường tham dục, tứ (bốn) tường.
Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Bởi vậy cho nên thất tình, lục dục nó luống mê sa mồi lợi lộc, bả vinh hoa mà chôn chặt con người trong bốn tường: sắc, tài, tửu, khí.
Thoát khỏi tường tham dục, tránh nạn eo,
Người chí liệt ráng dòm theo đèn Ngọc Đế.
(Giác Mê Khải Ngộ).
3.- Tường 詳 là biết, hiểu rõ, tỏ rõ. Như: Tỏ tường, chưa tường hư thực, xem tường mọi việc.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Từ Thượng Cổ các nhà triết học Á Đông đã quan sát tận tường cái hình trạng của trí thức tinh thần rồi.
Để tâm dưới ánh Chí linh,
Soi tường chơn lý chỉ rành chánh văn.
(Kinh Thế Đạo).
Tiền trình Thầy dạy các con tường,
Ðợi hạ sang năm mới tuyển lương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
4.- Tường 祥 là lành, điềm lành, điềm tốt.
Như: Năm mới được kiết tường, Điềm bất tường, cúng đại tường, tường quang.
Tường quang nhứt khí chiếu minh đông,
Tam Giáo quy nguyên dữ cộng đồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tường: Bức tường. Đông: Hướng đông.
Tường đông, hay “Đông tường 東 牆”, là bức tường nhà ở phía đông, tức tường nhà hàng xóm, chỉ nhà có con gái đẹp.
Do câu trong Mạnh Tử: Du đông lân nhi lâu kỳ xử tử 踰 東 鄰 而 摟 其 處 子, tức là trèo qua sang nhà láng giềng ở đàng đông để dụ dỗ con gái người ta.
Thơ Lý Bạch có câu: Tự cổ hữu tư sắc, Tây Thi tự đông lân 自 古 有 斯 色, 西 施 自 東 憐, nghĩa là từ xưa có sắc đẹp, Tây Thi ở nhà láng giềng phía đông.
Che đậy kín tường đông ong bướm,
Giấu nhặt nghiêm nhụy tướng hương hình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tường đông bóng nguyệt xế đầu nhành,
Con đã kiêng dè sợ Ðấng sanh.
(Đạo Sử).
祥 光
Tường: Điềm lành, điềm tốt. Quang: Ánh sáng.
Tường quang là ánh sáng lành, hay bóng hào quang báo điềm tốt lành.
Tường quang nhứt khí chiếu minh đông,
Tam giáo quy nguyên giữ cộng đồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tường quang chói rạng góc Trời Nam,
Phải vịn dấu Tiên, bỏ nết phàm.
(Đạo Sử).
詳 盡
Tường: Hiểu rõ, tỏ rõ. Tận: Dứt, hết.
Tường tận là rõ ràng, thấu đáo hết, tức tỏ rõ đến từng chi tiết vấn đề.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nhiều vị chưa am hiểu tường tận Luật pháp chơn truyền, nên lúc thi hành nhiệm vụ có lắm điều sơ suất đáng tiếc trong việc đối nội cũng như đối ngoại.
Khăn tang mấy thước đo tường tận,
Công nghiệp bao nhiêu thấy hiển nhiên.
(Thơ Thái Đến Thanh).
詳 述
Tường: Hiểu rõ, tỏ rõ. Thuật: Kể lại, chép lại.
Tường thuật là kể lại rõ ràng, tường tận. Như: Phóng viên tường thuật lại buổi lễ.
Khi Giảng về hai câu: Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo, Nam phong thử nhựt biến nhơn phong”, Đức Hộ Pháp có nói: Khi ấy Bần Ðạo đang học Pháp Văn. Lúc về thăm ông thầy Nho, khi đến đó ông mới tường thuật tình cảnh bối rối gia đình của một vị quan viên bà con xa với Bần Ðạo.
Hễ nói đến Đền thờ Tây Tạng Đức Chí Tôn đã đến Qua cũng nên tường thuật điều đó cho cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều nghe hiểu.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
祥 雲
Tường: Điềm lành. Vân: Mây.
Tường vân là chỉ đám mây báo cho điềm lành, hay điềm thiêng liêng.
Nghĩa rộng nói cảnh thái bình thịnh trị.
Nhìn cảnh trần chen luồng hắc khí,
Ngắm khung trời gợn ánh tường vân.
(Thơ Võ Thành Lượng).
Xác tục gởi nhờ ơn Hậu thổ,
Hồn thiêng nương tựa bóng tường vân.
(Thơ Hàn Sinh).
想
Tưởng là nghĩ đến, nhớ đến. Như: Tưởng tượng, tưởng vọng, nỗi niềm tưởng đến mà đau.
Thánh giáo Thầy có dạy: Than ôi! Ðiều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi uốn lưỡi, mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.
Nho nhã con tua tập tánh tình,
Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tẻ vui thú vị riêng mùi hưởng,
Ðừng tưởng vinh hoa khó phụ phàng.
(Đạo Sử).
想 念
Tưởng: Nhớ, nghĩ ngợi. Niệm: Nhớ.
Tưởng niệm là tưởng nhớ đến người đã chết với lòng tôn kính và biết ơn.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo xin cả toàn thể đứng yên lặng trong 5 phút đồng hồ để tưởng niệm đến các Thánh Tử Đạo, vì vận mạng của nước nhà, vì chánh thể của nền chơn giáo đã hy sinh đặng làm sứ mạng Thiêng Liêng của mình bằng xương máu.
Hoan nghinh đại nghiệp ơn khai sáng,
Tưởng niệm công trình lập kỷ cương.
(Thơ Thân Dân).
Ngậm ngùi tưởng niệm ân tiền bối,
Thành kỉnh đàn em lễ hiện chầu.
(Thơ Ngọc Nhượn Thanh).
Tưởng: Nhớ, nghĩ ngợi. Tin (tín): Cho là đúng sự thật, là có thật như vậy.
Tưởng tin, như chữ “Tưởng tín 想 信”, là có sự tin và tưởng nghĩ đến.
Tưởng tin còn có nghĩa “Tin tưởng”, tức là đem lòng tin một cách chắc chắn đặt vào việc gì.
Xem: Tin tưởng.
1.- Tưởng tin:
Làm người phải kỉnh thờ Thần Thánh,
Giữ lời nguyền tâm tánh tưởng tin.
(Kinh Sám Hối).
2.- Tưởng tín:
Tịnh niệm phép Nhiên Đăng tưởng tín,
Hư Vô Thiên đến thính Phật điều.
(Kinh Tận Độ).
想 象
Tưởng: Nhớ, nghĩ ngợi. Tượng: Hình trạng.
Tưởng tượng là do tư tưởng mà hình dung ra cái gì không có ở trước mắt, tức là nghĩa ra trong trí chứ không có thật.
Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp tuyển có dạy: Lão nên nói rằng, cơ thưởng phạt của Thiên thơ thì lắm điều trái hẳn với trí người tưởng tượng. Có nhiều khi thưởng hữu hình mà làm hình phạt vô vi, mà cũng có khi lấy hình phạt hữu vi mà thưởng thiêng liêng công nghiệp.
Mộng điệp còn ngày công quả rỗi,
Hồn linh dường tưởng tượng Huỳnh Tuyền.
(Đạo Sử).
Ðiểm viên một khắc hết hồi mơ,
Tưởng tượng chi chi tánh dật dờ.
(Đạo Sử).
Việc đã diễn ra ngoài tưởng tượng,
Chuyện rồi nghĩ lại ngỡ chiêm bao!
(Thơ Thuần Đức).
Hay “Tin tưởng Trời Phật”.
Tưởng Trời: Lúc nào cũng nghĩ và tin có Trời. Tin Phật: Hằng ngày tưởng nghĩ vào Đức Phật.
Tưởng Trời tin Phật tức là tin tưởng Trời Phật.
Trong quyển Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có đoạn: Hể chúng ta tin tưởng Trời Phật, thì Trời Phật cảm ứng với chúng ta. Đức tin tỷ như một vật chứa nước, cơ cảm ứng đối với đức tin ví như nước đem đựng vào.
Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
(Kinh Sám Hối).
1- Tượng 象 là hình trạng hiển hiện ra.
Như: Thai mới tượng hình, xem hiện tượng trên trời.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhưng mùa Xuân là mùa sinh hoá đem đến nguồn sống cho vạn vật, con người trước cái hiện tượng hoán cựu canh tân thiên nhiên cũng tạm dẹp nỗi lo âu thường ngày đón rước Xuân về với hy vọng ngày Xuân sẽ đem đến cho mình những gì vui tươi tốt đẹp theo như ý muốn.
Cung Diệt Bửu ngọc rèm đã xủ,
Nghiệp hữu hình tượng đủ vô vi.
(Kinh Tận Độ).
Đầu mới tượng óc còn thiếu chất,
Phân thông minh lật đật bỏ vào.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Tượng 像 là bức giấy, vải, trong đó có chữ viết, hay hình, ảnh, hoặc lấy cây, đất để tạc, đúc thành hình.
Như: Tượng Thiên Nhãn, tượng Phật, tượng Quan Âm, tượng thờ Ông Bà.
Buồn tình lóng nam mô câu tụng,
Nhìn tượng cây rồi khủng cho thân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tượng: Bức hình để thờ. Ngũ Chi: Ngũ Chi Đại Đạo: Phật Đạo, Tiên Đạo, Thánh Đạo, Thần Đạo, và Nhơn Đạo.
Tượng Ngũ Chi là bức tượng thờ Đức Chí Tôn, trong đó có hình Thiên Nhãn, tượng cho Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế; hình ba vị Giáo Chủ Nho, Thích, Đạo; hình Tam Trấn Oai Nghiêm và hình các Đấng thuộc Ngũ Chi Đại Đạo.
Sở dĩ gọi Tượng Ngũ Chi là vì dưới Thánh Tượng Thiên Nhãn, còn thờ các Đấng:
- Tam vị Giáo chủ:
Thích Ca Mâu Ni, Giáo chủ Phật đạo (giữa).
Thái Thượng Đạo Tổ, Giáo chủ Tiên đạo (phải).
Khổng Thánh Tiên Sư, Giáo chủ Thánh đạo (trái).
- Tam Trấn Oai Nghiêm:
Nhất Trấn Oai Nghiêm: Lý Đại Tiên Trưởng (Thái Bạch Kim Tinh) (ở giữa).
Nhị Trấn Oai Nghiêm: Quan Thế Âm Như Lai. (phải).
Tam Trấn Oai Nghiêm: Quan Thánh Đế Quân. (trái).
- Ngũ chi Đại Đạo: Hàng chính giữa có hình các Đấng kể từ trên xuống:
Phật Thích Ca tượng trưng cho Phật Đạo.
Thái Bạch Kim Tinh tượng trưng cho Tiên Đạo.
Da Tô Giáo Chủ (Jésus) tượng cho Thánh Đạo.
Khương Thượng Tử Nha tượng cho Thần Đạo.
Dưới cùng 7 cái ngai tượng trưng cho Nhơn Đạo.
Giáo điều thiên hạ từng quen biết,
Tất cả đều thờ Tượng Ngũ Chi.
(Thơ Vạn Năng).
Tượng: Bức tượng hay bức hình, hoặc viết chữ để thờ. Phật: Chỉ Đức Phật.
Tượng Phật là cốt tượng hình Đức Phật, hoặc hình vẽ Đức Phật lộng vào khuôn kiếng dùng để thờ phụng.
Bên Phật giáo, có nhiều loại Tượng Phật, như: Tượng Phật Thích Ca, Tượng Phật Di Đà, Tượng Phật Quan Âm.
Thánh giáo Thầy trong quyển Đạo Sử có dạy Ngài Thơ như sau: Thơ! nghe dạy, Thầy giao trọn quyền cho con lo liệu. Con phải nhớ khi Bính đem trái Càn khôn ấy về, con làm một cái cốt xây, để trái ấy lên Ðại Ðiện, nhớ day Con Mắt ra ngoài, rồi con lại lên tượng Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử mà để dựa dưới.
Phân nhau tượng Phật hình ma,
Phòng đào vận áo cà sa dối đời.
(Bát Nương Giáng Bút).
Đau đớn thế nắn ra tượng Phật,
Lánh khổ nên vụ tất cửa không.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tượng: Viết chữ để thờ. Tang: Nhà có người chết.
Tượng tang là một tấm vải trắng hình chữ nhựt lớn kích cỡ tuỳ vách bàn thờ, trong đó theo tôn ty người qua đời mà viết ở giữa một hàng chữ to từ trên xuống dưới, và hai bên có viết một cặp liễn. Tượng tang ngày xưa, sau khi chôn cất xong, người ta mới treo vào vách bàn thờ tang.
Khi còn buồn ngắm mây vầng tụ,
Lúc mất đau nhìn bức tượng tang.
(Thơ Thiên Vân).
Tượng: Bức tượng hay bức hình, hoặc viết chữ để thờ. Thờ: Thờ phượng.
Tượng thờ là cốt tượng, hay bức hình hoặc viết chữ vào một tấm khuôn để thờ cúng.
Lập Tượng thờ để thờ các Đấng Thiêng liêng hoặc ông bà, cha mẹ.
Tượng thờ trong Đạo Cao Đài tại các Thánh Thất địa phương là bức hình Thiên Nhãn do Hội Thánh cấp.
Còn Tượng Ngũ chi thờ tại tư gia cũng thỉnh từ Hội Thánh là một bức hình Tam giáo, Ngũ chi, trên là hình Thiên Nhãn; kế là tam vị Giáo Chủ: Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, Thái Thượng Đạo Tổ, Khổng Thánh Tiên Sư; kế tiếp là Tam Trấn Oai Nghiêm gồm: Lý Đại Tiên Trưởng, Quan Âm Như Lai, Quan Thánh Đế Quân; cuối cùng là bảy chiếc ngai: Một ngai Giáo Tông, ba ngai Chưởng Pháp, ba ngai Đầu Sư.
Rốn để bước đến gần điện Thánh,
Nhìn tượng thờ lại ngảnh thân mình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
象 徵
Tượng: Hình trạng. Trưng: Chứng, điềm.
Tượng trưng là cái dùng để ví với cái vô hình để cho người ta dễ hiểu, dễ nhớ, dễ cảm xúc.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Thánh giáo có giải rằng: Ðời Hớn ông Lưu Khoan lấy đức trị dân, khi dân phạm tội thì đánh bằng cái roi bồ, roi lát để tượng trưng sự răn phạt vậy thôi, chớ không bắt tù đày chi hết.
Dưới phân chín cấp nối liền,
Tượng trưng Cửu Phẩm Thần Tiên Thánh hình.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Tượng trưng Cửu phẩm giữa đền,
Chia thành đẳng cấp đôi bên phô bày.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
酒
Tửu là rượu, một loại chất lỏng, có vị cay nồng thường cất từ trái cây, hoặc gạo nếp đã ủ men.
Như: Tửu quán, tửu lượng mạnh, trà đình tửu điếm, tửu sắc tài khí.
Hơi Tiên tửu nực nồng thơm ngọt,
Phi Tưởng Thiên để gót tới nơi.
(Kinh Tận Độ).
Nâng khăn trắp giải buồn quân tử,
Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
(Nữ Trung Tùng Phận).
酒 店
Tửu: Rượu. Điếm: Quán.
Tửu điếm, đồng nghĩa với chữ “Tửu quán 酒 館”, là quán bán rượu, hay cửa hàng bán rượu.
Thành ngữ Hán Việt có câu: “Trà đình tửu điếm 茶 亭 酒 店” nghĩa là hàng trà quán rượu.
Nơi tửu điếm nhà lang khác hẳn,
Vợ chồng thường ít sẵn chiều thương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
酒 入 心 移
Tửu nhập: Rượu vào cơ thể con người. Tâm di: Khiên tâm tánh thay đổi.
Tửu nhập tâm di là rượu vào cơ thể thì khiến tâm tánh con người sẽ dời đổi.
Theo quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, ông Lê Châu Trì thường hay uống rượu, trở thành ghiền, nên Đức Lý Giáo Tông trong một Đàn cơ vào ngày 29 tháng 11 năm Bính Dần rầy ông Trì và buộc ông phải thề dứt bỏ rượu. Ngài dạy như sau:
Trì, nghe dạy. Sơn phải lấy một ly rượu nhỏ, một ly rượu lớn, rót ly nhỏ vào một ly lớn đem lại đây....
Ðưa cho nó cầm, đội ngay trán thề rằng: Tôi tên là Lê Châu Trì, thề uống Tiên Tửu một phen nầy với Lý Ðại Tiên, từ đây không uống nữa, như ngày sau phạm giái Ngũ Lôi đả tử.
Đức Lý còn dạy thêm: Như quỷ giục thì Hiền Hữu niệm câu nầy: “Tửu nhập tâm di, hại tổn bình sanh chi đức, tánh Thiên Ðạo diệt, dục tranh thế sự chi oan”.
Tửu nhập tâm di, hại tổn bình sanh chi đức, tánh Thiên Ðạo diệt, dục tranh thế sự chi oan.
(Đạo Sử).
酒 肉
Tửu: Rượu. Nhục: Thịt.
Tửu nhục là rượu thịt. Đây là một giới răn trong Ngũ giới cấm là “Tứ bất tửu nhục”.
Trong Tân Luật, Điều thứ tư Ngũ giới cấm có dạy rằng: Tứ bất tửu nhục là cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá độ, rối loạn tâm thần, làm cho náo động xóm làng, hoặc miệng ước rượu ngon, bụng mơ đồ mỹ vị.
Hiền ngu phân biệt kiệm ư cần,
Tửu nhục thường ta bại thử thân.
(Quan Thánh Giáng bút).
酒 舘
Tửu: Rượu. Quán: Nhà để bán cơm, bán nước.
Tửu quán, như chữ “Tửu điếm 酒 店” là quán bán rượu. Thành ngữ có câu “Trà đình tửu quán 茶 亭 酒 舘”, là tiệm trà quán rượu.
Như: Không lo học hành cứ la cà bên tửu quán.
Ðến khi trưởng thành 17, 18 tuổi, ôi thôi thanh lâu, tửu quán, trà đình, cờ bạc, không món nào mà cậu không có...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
酒 瓊
Tửu: Rượu, nước cất bằng trái cây, nếp ủ với men. Quỳnh: Ngọc quỳnh, một loại ngọc quý màu đỏ, thường được vua chúa hoặc các nhà phú quý dùng để chế thành chung uống rượu.
Tửu quỳnh là rượu đựng trong cái chung bằng ngọc quỳnh, ý muốn nói rượu ngọn, rượu quý.
Thiên Ân huệ chiếu giáng thiền minh,
Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh.
(Bài Dâng Rượu).
酒 色
Tửu: Rượu. Sắc: Sắc đẹp, chỉ đàn bà con gái.
Tửu sắc là chỉ những người ham mê rượu thịt và sắc đẹp của đàn bà con gái.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn dạy: Đức Chí Tôn lo lắng cho môn sinh như thế, là vì trên đường đời đầy dẫy những cạm bẫy hiểm nguy. Lòng ham muốn của con người lại vô bờ bến: Nào lợi, nào danh, nào tiền tài, nào tửu sắc.
Hỏi Đấng nam nhi xưa vẫn thế,
Bỏ mê tửu sắc có chi tài.
(Bát Nương Giáng Bút).
酒 茶
Tửu: Rượu, là loại chất lỏng có vị cay nồng, thường cất từ nếp, gạo hoặc trái cây ủ men. Trà: Lá chè đã sao, đã chế biến để pha nước uống.
Tửu trà là rượu và trà. Như: Mê say tửu trà thì phải đi vào trà đình tửu điếm.
Nâng khăn trắp giải buồn quân tử,
Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
(Nữ Trung Tùng Phận).
就
1.- Tựu là tới, đi theo. Như: Tựu học, tựu hội, tựu trung, tựu vị, tề tựu.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hôm nay phần đông Chức việc và Ðạo hữu nam nữ ở các nơi tựu về Toà Thánh để chứng kiến một công trình kiến trúc to tát đồ sộ, một ngôi nhà chung mà mỗi vị đều có góp phần xây dựng.
Hiếu nghĩa tương lai sau tựu hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Tựu là thành, nên. Như: Thành tựu.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Làm vua, làm thầy, làm công nghệ, làm đạo sĩ, cũng cần phải có cái chí lớn mới mong thành tựu đặng.
Danh vọng thường hay chống lại với đức hạnh. Nó rất ngắn ngủi và thường thành tựu nhờ nơi sự gian trá.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
就 會
Tựu: Đến, họp. Hội: Họp, nhóm.
Tự hội là đến một chỗ nào đó để họp nhau lại.
Trong Đạo Sử, Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có viết về Đức Thượng Phẩm như sau: Còn Ðức Thượng Phẩm, lớp thì hoà tâm với Chức Sắc lo tạo tác Toà Thánh, lớp thì bị nhà cầm quyền Pháp để ý nghi ngờ, vì nhơn sanh càng ngày càng tựu hội về tấp nập (đông đảo quá), nên ông Chánh Tham Biện (người Pháp) nay đòi Ðức Cao Thượng Phẩm ra hỏi, mai đòi tra vấn điều nầy lẽ nọ đủ điều, nhưng Ðức Cao Thượng Phẩm trả lời xuôi hết, thành thử họ phải để êm.
Hiếu nghĩa tương lai sau tựu hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
就 少 成 多
Tựu thiểu: Tập họp, hay gom góp những cái ít lại. Thành đa: Thành ra nhiều.
Tựu thiểu thành đa, đồng nghĩa với câu “Tích thiểu thành đa 積 少 成 多”, là hợp nhiều cái ít lại thành ra nhiều.
Xem: Tích thiểu thành đa.
Vì chưng tựu thiểu thành đa,
Hoạ tai báo ứng chẳng qua mảy hào.
(Kinh Sám Hối).
Tựu: Đến, tới, họp. Trào: Còn đọc là triều, là chỗ vua ra ngự để các quan vào chầu lễ.
Tựu trào, còn đọc là “Tựu triều 就 朝”, là tập trung ở triều đình để đến chầu vua và bàn luận việc nước.
Cao nghi đình bước trước hoà sau,
Như các quan viên buổi tựu trào.
(Thiên Thai Kiến Diện).
就 中
Tựu: Tới, đi theo. Trung: Giữa, trong ấy.
Tựu trung là cứ trong ấy, tức biểu thị điều sắp nêu ra là cái chung, cái chính trong những điều vừa nói đến.
Huấn từ Đức Thượng Sanh đọc trong lễ kỷ niệm Đức Hộ Pháp quy thiên có câu: Một sự tầm thường dễ thấy hơn hết là khi tụng kinh hoặc khẩn vái, cầu nguyện với các Ðấng Thiêng Liêng mà lòng không được nét chí thành thì sự cầu nguyện chẳng qua là làm cho có vẻ bề ngoài chớ tựu trung không bổ ích gì hết.
Tựu trung cái tâm lý chung của người đời là sợ đau khổ và sợ cả sự nghĩ đến đau khổ...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
就 位
Tựu: Tới, đến, họp. Vị: Ngôi, chỗ ngồi, chỗ đứng.
1.- Tựu vị là đến ngôi vị.
Như vậy, “quy tựu vị” là trở về ngôi vị, tức trở về với ngôi xưa vị cũ.
Kính lập công to quy tựu vị,
Tặng tiền phát khởi lập căn nguyên.
(Cửu Nương Giáng Bút).
2.- Tựu vị còn là từ trong nghi tiết cúng tế để các lễ sĩ xướng vào lễ hội cúng tế Đình Thần hay nghi tiết tang lễ trong tôn giáo.
Tựu vị có nghĩa là (tế chủ) đến chỗ đứng.
Tế chủ tựu vị.
(Nghi Tiết Tang Lễ).
)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |
Danh mục vần T
TA
• Ta bà
• Ta bà ha
• Ta đây Đấng Ngọc Hoàng
• Ta hồ
• Ta thán
TÁ
• Tá cơ
• Tá danh
• Tá điền
• Tá Lý
• Tá phàm
• Tá thế
• Tá trần
TÀ
• Tà
• Tà chánh
• Tà dâm
• Tà dương
• Tà đạo
• Tà gian
• Tà huy
• Tà khí
• Tà mị
• Tà nguyệt
• Tà pháp
• Tà quái
• Tà quyền
• Tà tây
• Tà tâm
• Tà tinh
• Tà thần
• Tà thần tinh quái
• Tà thuyết
• Tà vạy
TẢ
• Tả
• Tả ban
• Tả chi hữu dực
• Tả đạo
• Tả đạo bàng môn
• Tả khuynh
• Tả Hữu Phan Quân
• Tả tơi
TẠ
• Tạ ơn
• Tạ thế
TÁC
• Tác
• Tác hiệp
• Tác hợp
• Tác phong
• Tác tệ
• Tác thành
TẠC
• Tạc
• Tạc dạ ghi xương
• Tạc tượng lầu chuông
• Tạc thù
TÁCH
• Tách
• Tách dời
TAI
• Tai
• Tai ách
• Tai bay
• Tai bay họa gởi
• Tai biến
• Tai hại
• Tai hoạ
• Tai mắt
• Tai nàn
• Tai nạn
• Tai nguy
• Tai qua
• Tai trời
• Tai ương
TÁI
• Tái
• Tái cầu
• Tái diễn
• Tái hiệp
• Tái kiếp
• Tái lập
• Tái ngộ
• Tái nhậm
• Tái ông mất ngựa
• Tái phạm
• Tái sanh
• Tái tạo
• Tái tê
• Tái thế
• Tái thệ
• Tái thiết
• Tái thủ quyền hành
TÀI
• Tài
• Tài ba
• Tài bồi
• Tài cán
• Tài chánh
• Tài danh
• Tài đức
• Tài hoa
• Tài liệu
• Tài lực
• Tài mạo
• Tài mạng ghét nhau
• Tài năng
• Tài sản
• Tài sắc
• Tài sơ
• Tài tai luôn vần
• Tài tình
• Tài tử giai nhân
• Tài thần
• Tài trí
• Tài vật
TẠI
• Tại
• Tại gia
• Tại vị
TAY
• Tay
• Tay co
• Tay nhúng chàm
• Tay sai
• Tay trắng
• Tay trơn
TÀY
• Tày
• Tày non tợ biển
TAM
• Tam
• Tam bành
• Tam bảo
• Tam bửu
• Tam cang
• Tam công
• Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn
• Tam dương
• Tam đa
• Tam đồ
• Tam độc
• Tam Giáo
• Tam Giáo Đài
• Tam Giáo một nhà
• Tam Giáo quy nguyên
• Tam Giáo Toà
• Tam huê tụ đỉnh
• Tam hoàng
• Tam hội Long Hoa
• Tam hồn
• Tam Kỳ
• Tam Kỳ khai hiệp Thiên thi
• Tam Kỳ Phổ Độ
• Tam lập
• Tam muội
• Tam niên nhũ bộ
• Tam Nương Diêu Trì Cung
• Tam nguyên
• Tam nguơn
• Tam nghiệp
• Tam Phái
• Tam phân
• Tam Quan
• Tam quang
• Tam quy
• Tam quy ngũ giới
• Tam sanh
• Tam sinh
• Tam sơn
• Tam tai
• Tam tài
• Tam tài Ngũ khí
• Tam Tạng
• Tam Tông Chơn Giáo
• Tam tùng
• Tam tùng tứ đức
• Tam Thanh
• Tam Thánh ký hoà ước
• Tam thập lục Động
• Tam thập lục Thánh
• Tam thập lục thiên
• Tam thế
• Tam thế Phật
• Tam thiên đồ đệ
• Tam thiên thế giới
• Tam thừa
• Tam Trấn Oai Nghiêm
• Tam xích thổ
TÁM
• Tám đấu
• Tám tiết
TÀM
• Tàm
TẠM
• Tạm
• Tạm biệt
• Tạm cách
TAN
• Tan
• Tan hiệp
• Tan hoang
• Tan nát
• Tan như giá
• Tan tác
• Tan tành
TÁN
• Tán
• Tán dương
• Tán đởm
• Tán Tiên
• Tán tụng
TÀN
• Tàn
• Tàn bạo
• Tàn canh
• Tàn hại
• Tàn y
• Tàn sát
• Tàn tạ
TẢN
• Tản
• Tản Đà
• Tản mạn
• Tản mát
TẠN
• Tạn
• Tạn mặt
TANG
• Tang
• Tang biến thương dồn
• Tang bồng
• Tang bồng hồ thỉ
• Tang chế
• Tang chủ
• Tang dâu
• Tang du
• Tang điền thương hải
• Tang hôn
• Tang y
• Tang lễ
• Tang phục
• Tang quyến
• Tang tóc
• Tang thương
TÁNG
• Táng an
• Táng đởm
• Táng tận lương tâm
TÀNG
• Tàng
• Tàng ẩn
TẠNG
• Tạng phủ
TANH
• Tanh
• Tanh hôi
• Tanh khét
TÁNH
• Tánh
• Tánh chất
• Tánh danh
• Tánh hạnh
• Tánh hiệp vô vi
• Tánh lành
• Tánh linh
• Tánh linh hơn vật
• Tánh mạng
• Tánh mệnh song tu
• Tánh phàm
• Tánh tình
• Tánh tục
• Tánh thành
• Tánh thần
• Tánh thiện
• Tánh thiện lương
TAO
• Tao
• Tao đàn
• Tao loạn
• Tao ngộ
• Tao nhã
• Tao nhân
• Tao phùng
TÁO
• Táo
• Táo Quân
TÀO
• Tào
• Tào khang
• Tào khương
• Tào Quốc Cựu
• Tào Tháo
TẢO
• Tảo
• Tảo đắc
• Tảo hôn
• Tảo mộ
• Tảo tần
• Tảo thanh
TẠO
• Tạo
• Tạo công
• Tạo dựng
• Tạo định
• Tạo đoan
• Tạo hoá
• Tạo Hoá Huyền Thiên
• Tạo Hoá Huyền Thiên Cửu Vị Nữ Phật
• Tạo Hoá Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu
• Tạo lập
• Tạo nhà cõi Thiên
• Tạo tác
• Tạo thế
• Tạo thiên lập địa
• Tạo thời cải thế
• Tạo vật
TẠP
• Tạp
• Tạp niệm
• Tạp nhạp
• Tạp tụng
TÁT
• Tát
• Tát biển đông
TẠT
• Tạt
TÀU
• Tàu
TẮC
• Tắc
• Tắc Y
TĂM
• Tăm
• Tăm cá
• Tăm hơi
• Tăm tối
TẮM
• Tắm
• Tắm rửa
• Tắm Thánh
TẰM
• Tằm
• Tằm tơ
TĂNG
• Tăng
• Tăng chúng
• Tăng đồ
• Tăng gia
• Tăng long đắc thọ
• Tăng Sâm
• Tăng tiến
TẶNG
• Tặng phong
TẮT
• Tắt
• Tắt lửa lòng
TẤC
• Tấc
• Tấc bóng
• Tấc dạ
• Tấc đất ngọn rau
• Tấc hơi
• Tấc lòng
• Tấc son
• Tấc thành
TÂY
• Tây
• Tây Âu
• Tây Âu khai dân khí
• Tây Bá Hầu
• Tây Bích Đông Lao
• Tây độ
• Tây phang
• Tây phương
• Tây phương cõi Phật
• Tây phương Cực Lạc
• Tây Phương Giáo Chủ
• Tây Phương Phật Tổ
• Tây Sơn Đạo
• Tây Tử
• Tây Thi
• Tây trúc
• Tây vức
• Tây Vương Mẫu
TẨY
• Tẩy
• Tẩy nhơ
• Tẩy trược
TÂM
• Tâm
• Tâm ấy toà sen
• Tâm ẩn ái
• Tâm bịnh
• Tâm can
• Tâm cơ
• Tâm chánh
• Tâm chí
• Tâm chơn chánh
• Tâm đạo
• Tâm đắc
• Tâm đăng
• Tâm đầu
• Tâm đầu ý hiệp
• Tâm địa
• Tâm điền
• Tâm đức
• Tâm giao
• Tâm hạnh
• Tâm hoả
• Tâm hồn
• Tâm hồn gió tuyết
• Tâm huyết
• Tâm hương
• Tâm kinh
• Tâm khảm
• Tâm không lìa đạo
• Tâm lý
• Tâm linh
• Tâm mạng
• Tâm niệm
• Tâm nguyền
• Tâm phàm
• Tâm pháp
• Tâm sự
• Tâm tang
• Tâm tánh
• Tâm tình
• Tâm tu
• Tâm tư
• Tâm thành
• Tâm thành chánh trực
• Tâm thần
• Tâm trí
• Tâm truyền
• Tâm ưu
• Tâm viên
TẤM
• Tấm
• Tấm lòng
• Tấm mẳn
• Tấm son
• Tấm tình
• Tấm thân
TẦM
• Tầm
• Tầm bậy
• Tầm chân
• Tầm chơn
• Tầm chương trích cú
• Tầm đạo
• Tầm hiền
• Tầm khào
• Tầm phào
• Tầm phương
• Tầm sư học đạo
• Tầm Tiên
• Tầm thường
TẨM
• Tẩm
TÂN
• Tân dân
• Tân học
• Tân kinh
• Tân khổ
• Tân lang
• Tân luật
• Tân niên
• Tân nương
• Tân pháp
• Tân phong
• Tân sử
• Tân toan
• Tân trào
• Tân xuân
• Tân xuân nguyên đán
TẤN
• Tấn
• Tấn bộ
• Tấn hoá
• Tấn phát
• Tấn phong
• Tấn Tần
• Tấn thối
TẦN
• Tần
• Tần Cối
• Tần lãnh
• Tần nhơn
• Tần quốc
• Tần Tấn
• Tần Thuỷ Hoàng
TẨN
• Tẩn liệm
TẬN
• Tận
• Tận chí
• Tận diệt
• Tận đoạ tam đồ
• Tận độ
• Tận độ chúng sanh
• Tận độ nhơn sanh
• Tận lực
• Tận nhơn lực tri thiên mạng
• Tận tâm
• Tận tuỵ
• Tận tuyệt
• Tận thế
• Tận thế Long Hoa
• Tận thiện tận mỹ
• Tận trung
• Tận trung báo quốc
TẦNG
• Tầng
TẤP
• Tấp
• Tấp nập
TẬP
• Tập
• Tập dượt
• Tập kiết nghinh tường
• Tập quán
• Tập rèn
• Tập tành
• Tập thành
• Tập thể
• Tập trung
TẤT
• Tất
• Tất cả
• Tất đắc
• Tất giao
• Tất yếu
• Tất viên
TẬT
• Tật
• Tật bịnh
• Tật đố
• Tật nguyền
TẤU
• Tấu văn
TẨU
• Tẩu thú
TÉ
• Té
• Té ra
TẺ
• Tẻ vui
TẼ
• Tẽ
TEO
• Teo
TÈM
• Tèm hem
TÊ
• Tê
• Tê tái
TẾ
• Tế
• Tế bạt
• Tế chẩn
• Tế chủ
• Tế chúng
• Tế điện
• Tế độ
• Tế hiểm
• Tế lễ
• Tế nguy
• Tế phước
• Tế tự
• Tế thế
• Tế trợ
TỀ
• Tề
• Tề gia
• Tề gia nội trợ
• Tề gia trị quốc
• Tề my
• Tề phụ hàm oan
• Tề tựu
• Tề Thiên Đại Thánh
TỂ
• Tể Tướng
TỆ
• Tệ
• Tệ đoan
• Tệ hại
TÊN
• Tên
• Tên đạn
• Tên tuổi
TI
• Ti tí
TÍ
• Tí tách
• Tí ti
TỈ
• Tỉ mỉ
TÍA
• Tía lia
TÍCH
• Tích
• Tích ác phùng ác
• Tích cực
• Tích đức
• Tích đức tu nhân
• Tích phước
• Tích thiểu thành đa
• Tích trữ
• Tích trượng
TỊCH
• Tịch
• Tịch cốc
• Tịch dương
• Tịch Đạo
• Tịch liêu
• Tịch mịch
TIẾC
• Tiếc
• Tiếc nuối
• Tiếc thương
• Tiếc xuân
TIỆC
• Tiệc
• Tiệc hoa
• Tiệc ngọc
TIÊM
• Tiêm tất
TIỀM
• Tiềm lực
• Tiềm thức
TIỆM
• Tiệm
TIÊN
• Tiên
• Tiên bang
• Tiên Bồng
• Tiên cảnh
• Tiên cốt Phật căn
• Tiên Cô
• Tiên cung
• Tiên cung Phật xứ
• Tiên đạo
• Tiên gia
• Tiên giáo
• Tiên giáo tâm kinh
• Tiên hoàn
• Tiên y
• Tiên liệt
• Tiên liệu
• Tiên linh
• Tiên long
• Tiên nữ
• Tiên Nương
• Tiên nghiêm
• Tiên Nho
• Tiên Nho Thích
• Tiên phàm
• Tiên phong Phật cốt
• Tiên tằng tổ khảo
• Tiên tịch
• Tiên tiến
• Tiên Tử
• Tiên tửu
• Tiên thiên hậu thiên
• Tiên Thiên khí hoá
• Tiên tri
• Tiên triệu
• Tiên vị
• Tiên xa
TIẾN
• Tiến
• Tiến bộ
• Tiến cử
• Tiến dẫn
• Tiến hành
• Tiến hoá
• Tiến triển
TIỀN
• Tiền
• Tiền bạc
• Tiền bối
• Tiền căn
• Tiền căn hậu quả
• Tiền căn hậu kiếp
• Tiền công
• Tiền của
• Tiền duyên
• Tiền duyên hậu vận
• Tiền đạo
• Tiền định
• Tiền đồ
• Tiền khiên
• Tiền nhân
• Tiền tài
• Tiền tài danh vọng
• Tiền trình
TIỄN
• Tiễn
• Tiễn hành
• Tiễn phu
• Tiễn thăng
TIỆN
• Tiện
• Tiện nghi
• Tiện tặn
• Tiện tỳ
TIẾNG
• Tiếng
• Tiếng khen
• Tiếng khóc roi
• Tiếng muông giọng lợn
• Tiếng ngọt lời ngon
• Tiếng rằng
• Tiếng sấm bên tai
• Tiếng tăm
• Tiếng tiêu khải phụng
• Tiếng trống giác mê
• Tiếng U minh
TIẾP
• Tiếp
• Tiếp dẫn
• Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
• Tiếp diễn
• Tiếp dưỡng
• Tiếp Đạo
• Tiếp điển
• Tiếp đón
• Tiếp giá
• Tiếp Lễ Nhạc Quân
• Tiếp nghinh
• Tiếp nhận
• Tiếp Pháp
• Tiếp rước
• Tiếp tân
• Tiếp tục
• Tiếp Thế
• Tiếp vật
• Tiếp xúc
TIỆP
• Tiệp
TIẾT
• Tiết
• Tiết chế
• Tiết giá
• Tiết hạnh
• Tiết kiệm
• Tiết lậu
• Tiết liệt
• Tiết lộ
• Tiết ngọc
• Tiết nghĩa
• Tiết phụ
• Tiết sạch
• Tiết tháo
• Tiết trinh
TIÊU
• Tiêu
• Tiêu biểu
• Tiêu cực
• Tiêu chàng Sử
• Tiêu chuẩn
• Tiêu dao
• Tiêu Diện Sĩ
• Tiêu diệt
• Tiêu diêu
• Tiêu điều
• Tiêu hao
• Tiêu huỷ
• Tiêu mòn
• Tiêu phí
• Tiêu phòng
• Tiêu quả tiền khiên
• Tiêu tan
• Tiêu tàn
• Tiêu tận
• Tiêu tứ
• Tiêu tức
• Tiêu Tương
• Tiêu thiều
• Tiêu trừ
TIỀU
• Tiều
• Tiều lão
• Tiều phu
• Tiều tuỵ
TIỂU
• Tiểu
• Tiểu đàn
• Tiểu đồng
• Tiểu đăng khoa
• Tiểu long nuốt ngựa
• Tiểu phục
• Tiểu quốc
• Tiểu tường
• Tiểu Thiên địa
• Tiểu thiếp
• Tiểu thơ
• Tiểu Thừa
TIM
• Tim
TÌM
• Tìm
• Tìm hiếu truyền hiền
• Tìm kiếm
• Tìm lúa khoai
• Tìm tỏi
• Tìm thuyền Bát Nhã lánh mê tân
• Tìm vợ dâng dưa
TIN
• Tin
• Tin cậy
• Tin én
• Tin hồng
• Tin mai
• Tin nhàn
• Tin nhạn
• Tin nhắn
• Tin sương
• Tin tưởng
• Tin xuân
TÍN
• Tín
• Tín đồ
• Tín hữu
• Tín ngưỡng
• Tín nghĩa
• Tín thành
TINH
• Tinh
• Tinh anh
• Tinh ba
• Tinh Đẩu
• Tinh đời
• Tinh hoa
• Tinh huyết
• Tinh yêu
• Tinh Khí Thần
• Tinh khiết
• Tinh ma
• Tinh quái
• Tinh ranh
• Tinh sạch
• Tinh sương
• Tinh tấn
• Tinh tiến
• Tinh tú
• Tinh thần
• Tinh thông
• Tinh trung
• Tinh trung hai chữ
• Tinh vệ
• Tinh vi
TÍNH
• Tính
• Tính nết
• Tính toán
• Tính thiệt so hơn
TÌNH
• Tình
• Tình ái
• Tình cảnh
• Tình cốt nhục
• Tình chung
• Tình dục
• Tình duyên
• Tình hình
• Tình ý
• Tình lang
• Tình lợt duyên phai
• Tình nồng
• Tình nghĩa
• Tình nghĩa phu thê
• Tình nhơn
• Tình riêng nghĩa công
• Tình si
• Tình sử
• Tình tệ
• Tình tự
• Tình thâm
• Tình thế
• Tình thương
• Tình trọng của khinh
TỈNH
• Tỉnh
• Tỉnh giấc
• Tỉnh hồn
• Tỉnh mộng
• Tỉnh ngộ
• Tỉnh say
• Tỉnh thân
• Tỉnh thế
• Tỉnh thức
• Tỉnh trí
TỊNH
• Tịnh dục
• Tịnh dưỡng
• Tịnh đàn
• Tịnh đế
• Tịnh độ
• Tịnh đường
• Tịnh luyện
• Tịnh niệm
• Tịnh tâm
• Tịnh Tâm Đài
• Tịnh Tâm Xá
• Tịnh toạ
• Tịnh thất
• Tịnh thuỷ
TÍT
• Tít
TY
• Ty
TÝ
• Tý
• Tý thời
TỲ
• Tỳ
• Tỳ bà
• Tỳ Hớn
• Tỳ Văn Tỳ Vũ
• Tỳ vị
TỶ
• Tỷ
• Tỷ nương
• Tỷ phù
TỴ
• Tỵ ác
• Tỵ hiềm
• Tỵ trần
TO
• To gan
TÒ
• Tò mò
TỎ
• Tỏ
• Tỏ bày
• Tỏ rạng
• Tỏ rõ
• Tỏ tường
TOÀ
• Toà
• Toà án
• Toà án lương tâm
• Toà báo
• Toà Đạo
• Toà Nội Chánh
• Toà Nghiệt Cảnh
• Toà phán xét
• Toà sen
• Toà sen chín phẩm
• Toà Tam Giáo
• Toà Thánh
TOẢ
• Toả
TỌA
• Tọa
• Tọa thiền
• Tọa vị
TOẠI
• Toại
• Toại chí
• Toại hưởng
• Toại kỳ sở nguyện
• Toại Nhân
TOAN
• Toan
• Toan lo
• Toan tính
TOÁN
• Toán
• Toán số
TOÀN
• Toàn
• Toàn bích
• Toàn cầu
• Toàn dân
• Toàn năng
• Toàn quyền
• Toàn tri
• Toàn tri năng tận thiện mỹ
• Toàn vẹn
TÓC
• Tóc
• Tóc điểm hoa
• Tóc hoa râm
• Tóc điểm sương
• Tóc râu
• Tóc tơ
• Tóc xanh
TỌC
• Tọc mạch
TOE
• Toe toét
TOM
• Tom góp
TÓM
• Tóm
• Tóm thâu
TÒNG
• Tòng
• Tòng bá
• Tòng cúc
• Tòng quân
TÔ
• Tô điểm
• Tô Đỗ
• Tô Huệ
• Tô lão
• Tô mày vẽ mặt
• Tô Võ
• Tô Võ chăn dê
TỐ
• Tố bần hàn
• Tố tụng
TỔ
• Tổ
• Tổ án
• Tổ chức
• Tổ Đình
• Tổ đường
• Tổ hiển
• Tổ Hùng Vương
• Tổ nghiệp
• Tổ phụ
• Tổ quán
• Tổ quốc
• Tổ sư
• Tổ tiên
• Tổ tông
TỐC
• Tốc
• Tốc ký
TỘC
• Tộc
• Tộc chủng
• Tộc Đạo
TÔI
• Tôi
• Tôi con
• Tôi đòi
• Tôi hiền chúa thánh
• Tôi loàn con giặc
• Tôi mọi
• Tôi tớ
• Tôi thần
• Tôi trung
TỐI
• Tối
• Tối cao
• Tối cổ
• Tối linh
• Tối mắt
• Tối tăm
• Tối thượng
• Tối trọng
TỒI
• Tồi phong
• Tồi phong bại tục
• Tồi tệ
TỘI
• Tội
• Tội báo
• Tội căn
• Tội căn báo ứng
• Tội chướng
• Tội hình
• Tội khiên
• Tội lỗi
• Tội nghiệp
• Tội nhơn
• Tội phước
• Tội quá
• Tội quy ư trưởng
• Tội tình
• Tội tù
• Tội thần
TÔN
• Tôn
• Tôn chánh
• Tôn chỉ
• Tôn kính
• Tôn kỉnh
• Tôn nghiêm
• Tôn phu nhân
• Tôn sùng
• Tôn sư
• Tôn Tẫn
• Tôn ty
• Tôn ty phẩm trật
• Tôn ty thượng hạ
• Tôn thờ
• Tôn trọng
• Tôn Văn
• Tôn Võ Tử
TỐN
• Tốn
• Tốn của
• Tốn tiền
TỒN
• Tồn
• Tồn cổ
• Tồn tại
• Tồn tâm
• Tồn tâm dưỡng tánh
• Tồn thần
• Tồn vong
TỔN
• Tổn
• Tổn đức
• Tổn thương
TÔNG
• Tông
• Tông Đạo
• Tông Đạo Bắc Phần
• Tông Đạo Tần Nhơn
• Tông đồ
• Tông đường
• Tông môn
• Tông tổ
• Tông tộc
TỐNG
• Tống biệt
• Tống cựu nghinh tân
• Tống chung
• Tống Hoằng
• Tống Hoằng chí trượng phu
• Tống thâu thiên hạ
TỔNG
• Tổng
• Tổng Giám
• Tổng hợp
• Tổng Khậu
• Tổng Lái
• Tổng luận
• Tổng Mũi
• Tổng pháp tông
• Tổng quát
• Tổng thị không
• Tổng Thương
TỐP
• Tốp
TỐT
• Tốt
• Tốt đẹp
• Tốt nghiệp
• Tốt tươi
• Tốt thể đẹp hình
TỘT
• Tột
• Tột bực
• Tột phẩm
• Tột lý
TƠ
• Tơ
• Tơ duyên
• Tơ đỏ
• Tơ đồng
• Tơ hồng
• Tơ loan
• Tơ lòng
• Tơ mành
• Tơ nguyệt
• Tơ tằm
• Tơ Tần chỉ Tấn
• Tơ tình
• Tơ tóc
• Tơ thắm
TỚ
• Tớ
TỜ
• Tờ
• Tờ Khai Đạo
• Tờ mây
• Tờ mờ
TỢ
• Tợ
TƠI
• Tơi
• Tơi bời
TỚI
• Tới
• Tới lui
TỞI
• Tởi làm chùa
TỞN
• Tởn
TU
• Tu
• Tu cứu Cửu Huyền Thất Tổ
• Tu chỉnh
• Tu chơn
• Tu chơn dưỡng tánh
• Tu đức
• Tu hành
• Tu hít
• Tu học
• Tu kiều bồi lộ
• Tu La
• Tu luyện
• Tu my
• Tu niệm
• Tu nhân tích đức
• Tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời
• Tu sĩ
• Tu tâm
• Tu tạo
• Tu tâm dưỡng tánh
• Tu tâm luyện tánh
• Tu tề
• Tu tề trị bình
• Tu tỉnh
• Tu tịnh
• Tu thân
• Tu trì
• Tu vi
TÚ
• Tú
• Tú cẩm
• Tú cẩm thiêm hoa
• Tú cầu
TÙ
• Tù
• Tù đày
• Tù giam
• Tù lao
TỦ
• Tủ
TỤ
• Tụ
• Tụ họp
• Tụ hội
TUA
• Tua
• Tua thìn
TÚA
• Túa lua
TUÂN
• Tuân
• Tuân hành
• Tuân y
• Tuân lịnh
• Tuân lời
• Tuân mạng
• Tuân mạng lịnh
TUẤN
• Tuấn
• Tuấn kiệt
• Tuấn tú
TUẦN
• Tuần
• Tuần cửu
• Tuần hoàn
• Tuần huờn
• Tuần khắp xét tra
• Tuần lễ
• Tuần tự
TUẪN
• Tuẫn tiết
TUẤT
• Tuất
TÚC
• Túc
• Túc đế
• Túc y túc thực
• Túc thực túc y
• Túc trái
TỤC
• Tục
• Tục bản
• Tục kiếp
• Tục lệ
• Tục lệ cổ truyền
• Tục luỵ
• Tục lự
• Tục phàm
• Tục tánh
• Tục tĩu
• Tục tử
• Tục trái
• Tục trần
TUẾ
• Tuế nguyệt
TÚI
• Túi
• Túi bụi
• Túi gió trăng
• Túi tham
TỦI
• Tủi
• Tủi phận
• Tủi thầm
TỤI
• Tụi
• Tụi hoa
TUY
• Tuy
• Tuy vân
TUÝ
• Tuý mộng
• Tuý Sơn Vân Mộng
TUỲ
• Tuỳ
• Tuỳ cơ
• Tuỳ cơ ứng biến
• Tuỳ duyên
• Tuỳ duyên tuỳ phận
• Tuỳ Dương Đế
• Tuỳ hỷ
• Tuỳ nghi
• Tuỳ phận tuỳ duơn
• Tuỳ tiện
• Tuỳ tùng
• Tuỳ thân
• Tuỳ thời
TUYÊN
• Tuyên
• Tuyên bố
• Tuyên dương
• Tuyên dương công trạng
• Tuyên ngôn
TUYỀN
• Tuyền đài
TUYỂN
• Tuyển
• Tuyển cử
• Tuyển đức lọc tài
• Tuyển hiền
• Tuyển Hiền chọn Thánh
• Tuyển phong
• Tuyển phong Phật vị
• Tuyển thăng
TUYẾT
• Tuyết
• Tuyết giá
• Tuyết ngọc
• Tuyết sương
TUYỆT
• Tuyệt
• Tuyệt bút
• Tuyệt cốc
• Tuyệt diệu
• Tuyệt đỉnh
• Tuyệt đối
• Tuyệt giống dứt nòi
• Tuyệt loài
• Tuyệt luân
• Tuyệt mạng
• Tuyệt sinh
• Tuyệt tự
• Tuyệt thực
• Tuyệt vọng
TÙM
• Tùm lum
TUNG
• Tung
• Tung hoành
• Tung nổ
TÚNG
• Túng
• Túng cùng
• Túng ngặt
• Túng tíu
TÙNG
• Tùng
• Tùng bách
• Tùng binh
• Tùng chinh
• Tùng đinh
• Tùng khổ
• Tùng lâm
• Tùng lịnh
• Tùng lương
• Tùng phu
• Tùng phụ
• Tùng phục
• Tùng quân
• Tùng quyền
• Tùng tử
• Tùng thế
• Tùng thiên
TỤNG
• Tụng
• Tụng đình
• Tụng kinh
• Tụng niệm
• Tụng Nhơn Quả
TUỔI
• Tuổi
• Tuổi hạc
• Tuổi tên
• Tuổi thọ
• Tuổi xanh
• Tuổi xuân
TUÔN
• Tuôn
• Tuôn trào
TUÔNG
• Tuông
• Tuông bờ lướt bụi
TUỒNG
• Tuồng
• Tuồng đời
• Tuồng thế
TUỐT
• Tuốt
TƯ
• Tư
• Tư bổn
• Tư bề
• Tư cách
• Tư chất
• Tư dục
• Tư duy
• Tư hoài
• Tư kỷ
• Tư lịnh
• Tư lộc
• Tư lợi
• Tư lự
• Tư lương
• Tư Mã
• Tư Mã Ý
• Tư Mắt Nguyễn Phát Trước
• Tư mật
• Tư nghĩa
• Tư pháp
• Tư phong
• Tư phương
• Tư sản
• Tư tâm
• Tư tâm ngã kiến
• Tư tình
• Tư tờ
• Tư tưởng
• Tư thông
• Tư thương
• Tư trợ
• Tư truyền
• Tư trước
• Tư văn
• Tư vì
• Tư vị
TỨ
• Tứ
• Tứ ân
• Tứ dân
• Tứ Diệu Đề
• Tứ đại
• Tứ Đại Bộ Châu
• Tứ Đại Điều Quy
• Tứ đổ tường
• Tứ đức
• Tứ hải
• Tứ hải giai huynh đệ
• Tứ hải ngũ hồ
• Tứ hạo
• Tứ hướng
• Tứ khổ
• Tứ linh
• Tứ Nương Diêu Trì Cung
• Tứ phương
• Tứ quý
• Tứ sanh
• Tứ tán
• Tứ tung
• Tứ tường
• Tứ tượng
• Tứ thơ
• Tứ thời
• Tứ Thời Nhựt Tụng
• Tứ xứ
TỪ
• Từ
• Từ ái
• Từ ân
• Từ bi
• Từ biệt
• Từ bỏ
• Từ cổ chí kim
• Từ chối
• Từ đường
• Từ giã
• Từ Giáp
• Từ Hàng Bồ Tát
• Từ hoà
• Từ huệ
• Từ huyên
• Từ khí
• Từ Lâm Tự
• Từ lịnh
• Từ mẫu
• Từ nghiêm
• Từ phụ
• Từ tâm
• Từ thân
• Từ thiện
• Từ Thứ
• Từ thử
• Từ Thức
• Từ vinh
TỬ
• Tử
• Tử biệt
• Tử biệt sinh ly
• Tử Cống
• Tử khí đông lai
• Tử khiên
• Tử ly
• Tử Lộ
• Tử Nha
• Tử Nha trừ tinh
• Tử như quy
• Tử như sanh
• Tử Phòng
• Tử Phòng dâng dép
• Tử Phòng lui binh sở hạng
• Tử phủ
• Tử phược thê thằng
• Tử quy sanh ký
• Tử sĩ
• Tử sanh
• Tử sanh sanh tử
• Tử sanh Thiên định
• Tử tế
• Tử tiết
• Tử tôn
• Tử tức
• Tử thi
• Tử vong
• Tử xích
TỰ
• Tự
• Tự ái
• Tự biến tự liệu
• Tự cải
• Tự cao
• Tự cổ chí kim
• Tự cường
• Tự chiêu kỳ hoạ
• Tự chủ
• Tự chuyên
• Tự diệt
• Tự do
• Tự đại
• Tự độ
• Tự giác
• Tự giác nhi tha giác
• Tự hối
• Tự kế phụng thờ
• Tự kiêu
• Tự lập
• Tự liệu
• Tự lôi trữ bính
• Tự lực
• Tự minh
• Tự nhiên
• Tự phụ
• Tự quyết
• Tự sự
• Tự tác
• Tự tác nghiệt bất khả hoại
• Tự tại
• Tự tánh
• Tự tín
• Tự tỉnh
• Tự toại
• Tự tôn
• Tự thuật
• Tự thử
• Tự trọng
• Tự vận
• Tự vệ
• Tự xử
TỬA
• Tửa
TỰA
• Tựa
• Tựa cửa
• Tựa hồ
TỨC
• Tức
• Tức cấp
• Tức khắc
• Tức nước bể bờ
• Tức nhiên
• Tức tối
• Tức thị
• Tức thì
• Tức thời
• Tức thuyết
TƯNG
• Tưng bừng
• Tưng tiu
TỪNG
• Từng
• Từng Thiên
• Từng trải
TƯỚC
• Tước
• Tước cả quyền cao
• Tước hàm
• Tước lộc
• Tước quyền
• Tước trọng
• Tước vị
TƯỢC
• Tược
TƯƠI
• Tươi
• Tươi cười
• Tươi tắn
• Tươi thắm
TƯỚI
• Tưới
TƯƠNG
• Tương
• Tương ái
• Tương công chiết tội
• Tương dưa
• Tương đắc
• Tương đối
• Tương đương
• Tương giang
• Tương hiệp
• Tương hội
• Tương lai
• Tương lân
• Tương liên
• Tương ngộ
• Tương Như
• Tương phân
• Tương phùng
• Tương quan
• Tương tàn
• Tương tàn tương sát
• Tương tợ
• Tương tư
• Tương tử
• Tương thân
• Tương thân tương ái
• Tương thông
• Tương thuỷ
• Tương tri
• Tương trợ
• Tương xứng
TƯỚNG
• Tướng
• Tướng hạc hình mai
• Tướng quân
• Tướng quốc
• Tướng sĩ
• Tướng soái
• Tướng tá
TƯỜNG
• Tường
• Tường đông
• Tường quang
• Tường tận
• Tường thuật
• Tường vân
TƯỞNG
• Tưởng
• Tưởng niệm
• Tưởng tin
• Tưởng tượng
• Tưởng Trời tin Phật
TƯỢNG
• Tượng
• Tượng Ngũ Chi
• Tượng Phật
• Tượng tang
• Tượng thờ
• Tượng trưng
TỬU
• Tửu
• Tửu điếm
• Tửu nhập tâm di
• Tửu nhục
• Tửu quán
• Tửu quỳnh
• Tửu sắc
• Tửu trà
TỰU
• Tựu
• Tựu hội
• Tựu thiểu thành đa
• Tựu trào
• Tựu trung
• Tựu vị

|