U-Ư
幽 暗
U: Tối tăm. Ám: Tối.
U ám là tối tăm. Như: Bầu trời ám.
Thánh giáo Thầy trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có đoạn dạy: Các con thoát đặng khỏi nơi u ám là bởi đạo đức. Các con sẽ đặng trọng kỉnh cũng bởi đạo đức. Thầy bồi đắp một sự ghét bỏ các con gần trên một trăm thế kỷ. Vậy các con phải chung hiệp cùng nhau.
Trăng khuya cứ một màu u ám,
Nét tịch liêu chìm đắm mông lung.
(Phù Kiều Hận Sử).
Ngùi trông đỉnh hộ mây u ám,
Chạnh ngắm bàn linh ảnh rụng rời.
(Thơ Vạn Năng).
幽 隱
U: Sâu kín. Ẩn: Giấu kín.
U ẩn là giấu kín, tức ý tứ sâu kín, không rõ ràng. Như: Bài văn có ý u ẩn.
U ẩn còn có nghĩa là thầm kín, không bộc lộ ra ngoài. Như: Nỗi buồn u ẩn, tâm sự u ẩn trong lòng.
Nói về mục đích của nhạc, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có câu: Tả đặng tánh tình u ẩn của con người, vì hễ lòng phiền muộn thì tiếng nhạc ai oán bi thương, còn lòng thơ thới vui vẻ, thì tiếng nhạc ôn hoà lạc thú.
Là vì từ xưa đến nay kinh sách luận về Đơn-Kinh không phải ít, nhưng lời nói rất u ẩn, lý thuyết rất kín đáo.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
幽 途
U: Tối tăm. Đồ: Con đường.
U đồ là con đường tối tăm, ý chỉ con đường dẫn đến cõi Âm quang, Địa phủ.
Xem: Xuất U đồ.
Tam Kỳ vận chuyển kim quang hiện,
Sám hối âm hồn xuất u đồ.
(Kệ Chuông).
幽 險
U: Tối tăm, hoặc chỉ cõi Âm phủ. Hiểm: Có thể gây nguy hại cho mình.
U hiểm là tối tăm và nguy hiểm.
U hiểm còn dùng để chỉ cõi U Minh Ðịa phủ.
Thánh giáo Thầy có dạy: Các con trước đã vì Thiên mạng phải bỏ các ngôi cao đặng đem mình vào nơi khổ não, Thầy chỉ đường vẽ bước, dạy từ nét, dẫn từ dặm đường mà đem các con về chốn Cực Lạc xưa, các con chẳng chịu vầy hiệp nhau cho đặng bền, cho thân ái, đặng tiến bước đường, thì Thầy cũng lắm nỗi thương đau mà nắm cân công bình ngó xem một phần trong các con sa nơi u hiểm.
Nền Ðạo vừa khỏi lối chông gai, lại phải còn gặp nỗi u hiểm, ráng cẩn thận và biết dìu bước theo thế thời thì công trình khỏi phải trôi theo dòng bích.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
幽 顯
U: Tối tăm, hoặc chỉ cõi Âm phủ. Hiển: Sáng sủa rõ ràng, chỉ cõi Dương gian.
U hiển tức là chỉ Âm phủ và Dương gian, hoặc chỉ người chết và người sống.
Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,
Hộ thương sanh u hiển khương ninh.
(Kinh Tận Độ).
U hiển không từ nhơn nghĩa cũ,
Gặp nhau xin phó bóng thiều quang.
(Đạo Sử).
幽 魂
U: Tối tăm, vắng vẻ. Hồn: Linh hồn, phần thiêng liêng vô hình của con người.
U hồn là chỉ người chết, hoặc vong hồn người mất ở cõi Âm phủ.
Chôn chơn vừa vặn cũng chôn hồn,
Chuông gióng u hồn nhẫn nhắc khôn.
(Đạo Sử).
幽 玄
U: Tối tăm, vắng vẻ. Huyền: Sâu kín.
1.- U huyền là kín nhiệm khó thấy, khó hiểu. Như: Lý của Phật pháp rất u huyền khó thấu đạt.
Pháp đạo u huyền nên tả chép vào đơn thơ để lưu truyền lại, nhưng những lời trong đó rất ẩn vi khó hiểu khó tầm.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- U huyền là vắng vẻ sâu kín.
Như: Rừng sâu núi thẳm là cảnh u huyền dành cho những bậc luyện đạo.
Cho nên khi tâm tịnh thường cảm hoài, hằng tìm nơi u huyền mà nghĩ nghị trong trí khôn,...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
幽 苦 窮 愁
U khổ: Nơi tối tăm và chịu nhiều khổ sở. Cùng sầu: Vô cùng sầu thảm.
U khổ cùng sầu là chỉ nơi tối tăm, khổ sở và chịu nhiều nỗi sầu thảm.
Bước luân hồi sẽ dẫn vào nơi u khổ cùng sầu mà đoạ đày đời đời kiếp kiếp.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
幽 厲
U Lệ tức là U Vương và Lệ Vương.
U Vương thuộc đời nhà Châu, là con của Tuyên Vương, tên là Cung Niết, vì đam mê tửu sắc, sủng ái Bao Tự, lại phế bà Khương Hoàng hậu, và Thái tử Nghi Cữu, nên Thân Hầu, là cha Khương hậu, cầu viện rợ khuyển nhung đem binh đánh giết Châu U Vương. U Vương làm vua được 11 năm.
Lệ Vương, cũng thuộc nhà Châu, cháu bốn đời của Mục Vương, tên là Hồ, tính bạo ngược, tin dùng kẻ sàm nịnh, xa lánh tôi hiền, thi hành chính sách tàn bạo, bắt giết những kẻ nói xấu nhà vua. Dân chúng oán ghét nổi lên đánh đuổi Lệ Vương vào đất Phệ và mất ở đấy, tại vị được 51 năm.
Nên mới giáng thế phục hưng chơn truyền để chỉnh đốn đời U Lệ trở lại đời Nghiêu, Thuấn...
(Đại Thừa Chơn Giáo).
幽 暝
U: Tối tăm. Minh: mờ tối.
1.- U minh là cõi u tối, tức chỉ cõi âm phủ.
Thánh giáo Thầy có câu: Ai giữ trọn bực phẩm thì đặng Toà Nghiệt Cảnh tương công chiết tội, để vào địa vị cao hơn chốn Ðịa cầu 68 nầy; ai chẳng vẹn trách nhậm nhơn sanh phải bị đoạ vào nơi U minh Ðịa, để trả cho xong tội tình căn quả cho đến lúc trở về nẻo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi cũ, bằng chẳng biết sửa mình thì luật Thiên điều chồng chập, khổ A Tỳ phải vướng muôn muôn đời đời mà đền tội ác.
Nam Nhạc cho xem hình trị thế,
U minh hiểu phỏng luật răn đời.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Tiếng u minh là âm thanh của chuông u minh, một loại chuông lớn gọi là Đại hồng chung, vì loại chuông này miệng quay xuống đất, ý muốn nói tiếng ngân vang của chuông u minh thấu tận xuống địa phủ.
Một tiếng U minh gióng cửa không,
Phồn hoa giục tỉnh giấc đương nồng.
(Đạo Sử).
Tiếng U minh tía lia gợi thảm,
Giọng kình khua cửa phạm dập dồn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
U minh inh ỏi tiếng chuông vàng,
Gót dạo quanh chùa bước nhặt khoan.
(Thơ Thuần Đức).
幽 暝 地
U Minh: Cõi tối tăm, dùng để chỉ cõi Âm phủ. Địa: Vùng, cõi.
U Minh địa là cõi U Minh, tức chỉ cõi Âm cung, Địa phủ, là nơi chịu hình phạt của chơn hồn có tội.
Ai chẳng vẹn trách nhậm nhơn sanh phải bị đoạ vào nơi U Minh Ðịa, để trả cho xong tội tình căn quả...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
幽 暝 偈
U Minh: Cõi U Minh, chỉ cõi Địa phủ. Kệ: Một bài thi ngắn hay dài hoặc để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp, hay một bài kinh, hoặc để răn dạy đệ tử, hoặc để cầu nguyện.
U Minh kệ là một bài kệ gồm 34 câu cầu nguyện trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để ngâm lên kèm theo tiếng Đại hồng chung thấu đến cõi U minh (Âm phủ), hầu thức tỉnh các tội hồn, biết ăn năn sám hối cầu nguyện với Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng cứu độ cho.
Trong Đạo Cao Đài, vào ba tháng của ba nguơn trong một năm là tháng giêng (thượng nguơn), tháng bảy (trung nguơn) và tháng mười (hạ nguơn), tại Toà Thánh và các Thánh Thất cũng như Điện Thờ Phật Mẫu tại địa phương đều phải phân công trực dộng chuông U minh suốt ngày đêm, liên tục suốt tháng.
Sau đây là nguyên văn 34 câu kệ bằng Việt Hán, kèm theo lời giải nghĩa:
1.- |
Hồng chung sơ khấu, bảo kệ cao ngâm
洪 鐘 初 扣 寶 偈 高 吟,
có nghĩa là bắt đầu dộng vào hồng chung và cao giọng ngâm bài kệ quý báu. |
2.- |
Thượng thông Thiên đàng, hạ triệt Địa phủ
上 通 天 堂, 下 徹 地 府,
nghĩa là trên thì thông suốt đến các cõi trời, dưới thì thấu suốt đến cõi Âm Quang. |
3.- |
Khánh chúc Tam Kỳ hoằng khai Đại Đạo
慶 祝 三 期 弘 開 大 道,
có nghĩa là chúc mừng cho nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mở rộng cửa để truyền bá khắp nơi. |
4.- |
Càn khôn đại thống, phổ cập ngũ châu
乾 坤 大 統, 普 及 五 洲,
nghĩa là thống quản cả Càn khôn Thế giới để phổ biến khắp cả năm châu. |
5.- |
Ân đức hoá thâm cao thăng Thiên vị
恩 德 化 深 高 升 天 位,
nghĩa là ơn đức giáo hoá sâu nặng làm cho phẩm vị được tăng cao. |
6.- |
Tam thế tứ sanh chi nội các miễn luân hồi
三 世 四 生 之 內 各 免 輪 迴,
nghĩa là tất cả các loài vật tứ sanh trong thời gian ba đời đều khỏi phải bị luân hồi chuyển kiếp. |
7.- |
Cửu u thập loại chi trung tất ly khổ hải
九 幽 十 類 之 中 必 離 苦 海,
nghĩa là mười loại chơn hồn trong chín cửa Địa ngục ắt được lìa khỏi biển khổ. |
8.- |
Ngũ phong thập võ miễn tạo cơ cẩn chi tai
五 風 免 造 饑 饉 之 災,
nghĩa là năm gió mười mưa xin thoát khỏi tai nạn mất mùa. |
9.- |
Nam mẫu Đông giao cu triêm Nghiêu Thuấn chi nhựt
南 畝 東 郊 俱 霑 堯 舜 之 日,
nghĩa là đất đai khắp trong nước đều thấm nhuần thời thái bình an lạc của Nghiêu Thuấn. |
10.- |
Can qua vĩnh tức, giáp mã hưu chinh
干 戈 永 息, 甲 馬 休 征,
nghĩa là giặc giã mãi ngưng, chiến tranh chấm dứt. |
11.- |
Trận bại thương vong Câu sanh Tịnh độ
陣 敗 傷 亡 俱 生 淨 土,
nghĩa là những người thương tích hay chết vì bại trận đều được sanh về cõi Tịnh độ (Cõi Cực Lạc Thế giới). |
12.- |
Phi cầm tẩu thú, la võng bất phùng
飛 禽 走 獸 羅 網 不 逢,
nghĩa là chim bay thú chạy, không gặp lưới rập đánh bắt. |
13.- |
Lãng tử cô nhi tảo hồi hương lý
浪 子 孤 兒 早 回 鄉 里,
nghĩa là những kẻ lang thanh hay những đứa mồ côi sớm trở lại quê hương xứ sở. |
14.- |
Vô biên thế giới Địa cửu Thiên trường
無 邊 世 界 地 久 天 長,
nghĩa là Càn khôn thế giới rộng lớn vô biên, Trời đất trường cửu. |
15.- |
Viễn cận đàn na tăng viên phước thọ
遠 近 檀 那 曾 圓 福 壽,
nghĩa là những thí chủ xa gần đều được gia tăng tuổi thọ và hạnh phúc. |
16.- |
Thánh Toà trấn tịnh, đạo pháp hưng thịnh
聖 座 鎮 淨, 道 法 興 盛,
nghĩa là Toà Thánh được giữ gìn yên tịnh, đạo pháp được hưng thịnh lâu dài. |
17.- |
Thổ địa Long thần an tăng hộ pháp
土 地 龍 神 安 僧 護 法,
nghĩa là các vị Thần cai quản đất đai và thần giữ gìn vùng biển giúp an cho kẻ tu hành và hộ trì đạo pháp. |
18.- |
Phụ mẫu, sư trưởng, lục thân quyến thuộc, lịch đại tiên vong đồng đăng giác ngạn
父 母 師 長, 六 親 眷 屬, 歷 代 先 亡 同 登 覺 岸,
nghĩa là cha mẹ, thầy và bậc trưởng thượng, sáu người thân yêu trong thân tộc, tổ tiên quá vãng lâu đời đều được vượt lên bờ giác, thoát khỏi luân hồi. |
19.- |
Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế, Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn
南 無 玄 穹 高 上 帝, 玉 皇 大 天 尊. |
20.- |
Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn
南 無 瑤 池 金 母 無 極 天 尊. |
21.- |
Nam Mô Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn
南 無 西 方 教 主 釋 伽 牟 尼 世 尊. |
22.- |
Nam Mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hoá Thiên Tôn
南 無 太 上 道 祖 三 清 應 化 天 尊. |
23.- |
Nam Mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn
南 無 孔 聖 先 師 興 儒 盛 世 天 尊. |
24.- |
Nam Mô Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai
南 無 常 居 南 海 觀 音 如 來. |
25.- |
Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
李 大 仙 長 兼 教 宗 大 道 三 期 普 度 |
26.- |
Nam Mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân
南 無 協 天 大 帝 關 聖 帝 君 |
27.- |
Nam Mô Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn
南 無 嘉 蘇 教 主 救 世 天 尊 |
28.- |
Nam Mô Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn
南 無 太 公 相 父 管 法 天 尊 |
29.- |
Nam Mô Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn
南 無 三 洲 八 部 護 法 天 尊 |
30.- |
Nam Mô Thập Phương Chư Phật vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ
南 無 十 方 諸 佛, 萬 掌 諸 仙, 蓮 臺 之 下. |
31.- |
Nam Mô Sơ hội Long Hoa Thanh Vương Đại Hội, Nhiên Đăng Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn
南 無 初 會 龍 花 青 王 大 會, 燃 燈 古 佛 掌 教 天 尊,
nghĩa là Nam Mô Sơ hội Long Hoa là một Đại Hội ở Nhứt Kỳ Phổ Độ, gọi là Thanh Vương Đại Hội, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật làm Giáo Chủ. |
32.- |
Nam Mô Nhị Hội Long Hoa Hồng Vương Đại Hội, Di Đà Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn
南 無 二 會 龍 花 紅 王 大 會 彌 陀 古 佛 掌 教 天 尊,
nghĩa là Nhị Hội Long Hoa là một Đại Hội ở vào Nhị Kỳ Phổ Độ, gọi là Hồng Vương Đại Hội, do Đức A Di Đà Phật làm Giáo Chủ. |
33.- |
Nam Mô Tam Hội Long Hoa Bạch Vương Đại Hội, Di Lạc Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn
南 無 三 會 龍 花, 彌 勒 古 佛 掌 教 天 尊,
nghĩa là Tam Hội Long Hoa là Đại Hội lần thứ ba vào Tam Kỳ Phổ Độ, gọi là Bạch Vương Đại Hội do Đức Di Lạc Vương Phật làm Giáo Chủ. |
34.- |
Nam Mô liệt Thánh đàn tràng hoà nam khể thủ
南 無 烈 聖 壇 塲 和 南 稽 首,
nghĩa là cầu nguyện với chư vi Thánh nơi đàn cúng tế chứng minh, xin cúi đầu lạy xuống. |
Từ câu 19 cho đến câu 30 gồm 11 câu dùng để cầu nguyện danh hiệu Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, Tam vị Đạo Tổ, Tam Trấn Oai Nghiêm, các Đấng trong Ngũ Chi Đại Đạo và chư Thần Thánh Tiên Phật mà trong Sớ Văn có tâu trình.
Ba câu 31, 32 và 33 là cầu nguyện ba Đấng Chưởng Giáo mở ba thời kỳ Đại hội Long Hoa: Đó là
Sơ hội Long Hoa, Thanh Vương Đại Hội, Nhiên Đăng Cổ Phât làm Chưởng Giáo.
Nhị Hội Long Hoa, Hồng Vương Đại Hội, Di Đà Cổ Phật làm Chưởng Giáo.
Tam Hội Long Hoa, Bạch Vương Đại Hội, Di Lạc Cổ Phật làm Chưởng Giáo.
Trung nguơn cuộc lễ bừng lên,
U Minh tiếng kệ vẳng trên chung đài.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
幽 閒
U: Sâu kín, lặng lẽ. Nhàn: Rảnh rang.
U nhàn là lặng lẽ thanh nhàn. Cảnh u nhàn cũng như cảnh tịnh, đó là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ai đặng phước thêm cao trọng, ai vô phần thì trí não vẫn mờ hồ, nét hạnh đời càng mê muội, biết biết không không, luật Trời đã định, phần công quả trả cho rồi thì cảnh u nhàn là nơi rước khách tục trong lúc chung quy đó.
Để bước tân xuân viếng núi Bà,
U nhàn cảnh tịnh hứng lòng ta.
(Thơ Huệ Nghiêm).
Người còn dan díu nơi trường mộng ảo,
Khó mong cho huờn đáo cảnh u nhàn.
(Giác Mê Khải Ngộ).
U ơ là từ chỉ lời nói không rõ ra tiếng gì cả. Như: Trẻ con mới học nói u ơ.
U ơ còn có nghĩa là không ra gì, không biết gì hết.
Sợ đàn em dại u ơ,
Khổ thà cam khổ cũng thờ dưỡng nghi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nỗi khó đời nỗi phận u ơ,
Mưu ai dạy đặng nhờ xây thế sự.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ướm hỏi Thánh linh đâu vắng dạng,
Mở lời miệng ngợi nói u ơ.
(Thiên Thai Kiến Diện).
幽 愁
U: Sâu kính, lặng lẻ. Sầu: Buồn rầu.
U sầu, như chữ “U buồn”, là sầu buồn một cách âm thầm, lặng lẻ, tức mối sầu ngầm, hay nỗi sầu sâu kín ở trong lòng.
Như: Tâm trạng u sầu, Nét mặt đượm vẻ u sầu.
Cho ai cởi mở vòng tơ rối,
Cho mối u sầu hết vấn vương.
(Thơ Thuần Đức).
幽 深
U: Tối tăm, vắng vẻ. Thâm: Sâu.
U thâm, như chữ “Thâm u 深 幽”, là sâu và tối, gợi vẻ tối tăm, huyền bí.
Như: Quang cảnh núi rừng u thâm.
Người Lùn vừa thọ, tướng vừa tiêu,
Cảnh vật u thâm giống cảnh chiều.
(Thiên Thai Kiến Diện).
幽 滯
U: Tối tăm, lặng lẽ. Trệ: Đọng lại, không thông.
U trệ là tối tăm, hoang vắng, ở đây dùng để chỉ ruộng bỏ hoang cây cỏ mọc um tùm, tối tăm.
Như: Nhà cửa không ai ở để u trệ suốt năm nay.
Bằng để u trệ không lo săn sóc, ruộng sẽ bị cỏ chạ cây rừng loán mọc, thành đất hoang vu,...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
幽 鬱
U: Tối tăm. Uất: Tức, kết tụ, không tan ra.
U uất là âm thầm. Như: Mối tình u uất.
U uất còn là buồn bực và tức tối dồn chứa trong lòng, không tỏ ra được. Như: Niềm tâm sự u uất.
Hồn thơ nay lắng niềm u uất,
Thoang thoảng nòi hương tập Ðại thành.
(Hiền Nhơn Lê Văn Trung).
Nỗi mất nước căm hờn lở đất,
Nỗi tù đày u uất tim gan.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
1.- Ủ là phủ cho kín cho ấm, hoặc trùm kín để giữ lửa, giữ nhiệt độ.
Như: Lấy chăn ủ cho con, ủ lò bếp cho ráo, mùa đông phải ủ ấm cho bé.
Thương lùm mả ủ thân ma,
Cốt căn báo đáp sơn hà gầy nên.
(Thất Nương Giáng Bút).
2.- Ủ chỉ về cây cỏ, hoa, lá héo rũ xuống, không tươi. Như: Liễu ủ đào phai, bông hoa héo ủ.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ðạo Trời dìu bước nhơn sanh, đường Thánh dẫn người phàm tục. Sanh nhằm lối may mắn đặng gặp một Ðạo Chánh, nếu chẳng lo dưỡng tánh trau mình, để bước vào con đường Cực Lạc, thoát đoạ Tam đồ, một mai cảnh ủ bông tàn, rốt cuộc lại ăn năn vô ích.
Hoa thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa thu ba e tuyết đông về.
(Nhứt Nương Giáng Bút).
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
(Bát Nương Giáng Bút).
3.- Ủ là chỉ nét mặt buồn bã, rầu rĩ không tươi tắn.
Như: Trải qua cảnh tang thương chị ấy lúc nào cũng mặt ủ mày chau.
Cớ sao như ủ như vày,
Hay là nhắc thiếp những ngày trao tơ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ủ: Héo rũ xuống, không tươi tắn, hoặc lộ vẻ buồn bã, rầu rĩ.
Ủ dột là ảm đạm, âm u, gây ấn tượng buồn, chán, thường chỉ về bầu trời mưa nắng.
Ủ dột còn dùng để chỉ nét mặt hay dáng điệu lộ vẻ buồn bã, rầu rĩ.
Như: Bầu trời ủ dột, vẻ mặt buồn rầu ủ dột.
Sầu đã cháy mặt hoa ủ dột,
Thảm đã tràn hình cốt héo don.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ủ dột rừng tòng xơ xác cảnh,
Rơi tan khối ngọc sụt sùi châu.
(Thơ Huệ Giác).
1.- Ủ ê dùng để chỉ bầu trời u ám, vần vũ, kéo mây, có hiện tượng trời sắp mưa.
Như: Bầu trời ủ ê, mưa bay lất phất.
Chiều thu nhắc ủ ê cảnh hạn,
Nhấp nhô xem cánh nhạn về non.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Ủ ê còn dùng để chỉ sự dã dượi, ủ rũ, có triệu chứng mệt mỏi trong người.
Như: Trong người đau ủ ê.
Tâm thần mỏi mệt ủ ê,
Khối sanh khi đã gần kề dứt hơi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Ủ ê còn có nghĩa là buồn rầu âm thầm và kéo dài.
Như: Đau buồn ủ ê hàng tháng.
Chừ sao bướm cũ lìa huê,
Vườn thu vắng khách, ủ ê canh tàn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ngài Hộ Pháp ủ ê trong dạ,
Khổ Hiền Trang bươn bả đến nơi.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Ủ: Héo rũ, không tươi tắn, buồn bã, rầu rĩ. Rũ: Bị gục xuống, lả xuống.
Ủ rũ là chỉ cành lá của cây ở trạng thái héo rũ xuống, hầu như không còn sức sống.
Ủ rũ còn dùng để chỉ sự buồn rầu đến mức như rũ xuống, không còn hơi sức nữa.
Như: Trời nắng gắt cây cối ủ rũ, ngồi ủ rũ một mình.
Nơi đàn nội sum vầy đông đủ,
Nhìn các con ủ rũ tấm lòng.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Úa là ngả sang màu vàng và héo dần, không còn xanh tươi nữa.
Như: Lá cây vàng úa, được mùa lúa úa mùa cau, cảnh mùa đông úa tàn, áo màu cỏ úa.
Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Ðạo vốn cây che mát mẻ đường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Non nước đìu hiu xuân vắng chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Úa: Ngả sang màu vàng và héo dần dần, không còn xanh tươi nữa.
Úa xào là héo vàng, có hiện tượng ngả màu vàng, rũ xuống, nhăn nheo vì thiếu nước.
Úa xào còn có nghĩa héo hắt, héo hon, mất vẻ tươi tắn, do buồn rầu hay đau khổ.
Như: Nhánh cây gãy nên lá bị úa xào, Bị cha mẹ rầy nên mặt mày nó úa xào.
Chừ sao bỏ cảnh úa xào,
Nhụy phai hương lợt, khuôn rào tả tơi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Cớ sao cảnh tịnh úa xào,
Hay là thấy thiếp mà sầu lẻ loi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ủa là tiếng thốt ra biểu lộ sự sửng sốt, ngạc nhiên.
Như: Ủa có chuyện gì vậy, ủa sao anh bây giờ mới đến, ủa đường xá xa xôi anh muốn đi bằng gì vậy.
Hồi nao chàng hỏi chị bên kia,
Sảng sốt day qua, ủa lạ kìa!
(Thiên Thai Kiến Diện).
蘊 曲
Uẩn: Chất chứa, sâu kín. Khúc: Nỗi niềm.
Uẩn khúc là điều rắc rối, éo le còn giấu kín, chưa được làm sáng tỏ hoặc chưa bày tỏ ra.
Như: Việc nầy có nhiều uẩn khúc bên trong.
Niềm uẩn khúc nhập nhoà trí não,
Luống thương sanh rào rạo buồng gan.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
1.- Uất 鬱 là có điều tức giận mà phải nén lại trong lòng đến mức cảm thấy không còn chịu nổi nữa.
Như: Phẫn uất, u uất, uất hận, uất ức.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Sống trong cảnh bất đồng biểu sao họ không phẫn uất, không thù hận kiếp sanh, trong kiếp sanh ấy họ thù hận mà không biết ai đặng trả cái thù hận ấy, thành thử họ oán hận toàn thể bạn đồng sanh của họ, tức nhiên toàn thể nhơn loại.
Quan Thống Đốc uất hơi hậm hực,
Mời Hộ Pháp chọc tức tại dinh.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
2.- Uất 蔚 là cây cỏ tốt tươi. Như: Uất mậu, sầm uất.
Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Không có Ðức Hộ Pháp thì nơi đây vẫn còn là những đám rừng rậm sầm uất.
Sầm uất rừng thiêng trước Tổ đình,
Hai bên xanh ngắt một màu xinh.
(Thơ Thiên Vân).
鬱 抑
Uất: Có điều tức giận mà phải nén lại trong lòng đến mức cảm thấy không còn chịu nổi nữa. Ức: Tức tối, đè ép.
Uất ức là lòng uất hận mà không làm gì được, cảm thấy không sao chịu đựng nổi. Như: Lòng uất ức.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Chúng sanh là thế, mà muốn cho biết thế, thì phải thân cận chúng sanh, gần chúng sanh thì mới biết đặng sự hạnh phúc cùng sự uất ức của chúng sanh.
Hễ của hết thì tình cũng dứt,
Hại gái lành uất ức liều thân.
(Phương Tu Đại Đạo).
穢
Uế là nhơ bẩn, nhớp nhúa. Như: Vùng nầy bị uế khí xông lên, đống rác bay hơi mùi uế vật.
Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, bài giáng Quý Cao có dạy: Ngũ kỵ: Hành, tỏi, xả, ớt, tiêu. Theo Phật Giáo thì kỵ, Tiên Giáo thì không.
Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Quý Cao có câu dạy: Phật vì tích Thanh Ðề Mục Liên gọi là uế vật... là phi, Tiên Ðạo cho dùng các thảo mộc, chẳng kỵ vật chi.
Mùi ngào ngạt thơm luôn Thánh thể,
Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.
(Kinh Tận Độ).
Uế: Dơ bẩn, nhớp nhúa. Trược (trọc): Đục, bẩn, không trong, không sạch.
Uế trược, như chữ “Uế trọc 穢 濁”, là dơ bẩn, nhớp nhúa, hôi hám.
Như: Đống rác lâu năm xông lên mùi uế trược.
Đồ dơ giặt đổ rạch sông,
Đương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
(Kinh Sám Hối).
Uể oải là chậm chạp, gượng gạo, thiếu nhanh nhẹn, thiếu hăng hái. Như: Uể oải bước từng bước một, nói giọng uể oải.
Uể oải còn dùng để chỉ mệt mỏi, không hăng hái, không thiết gì nữa. Như: Uể oải không muốn ăn.
Thân nghe yếu, óc nghe đừ,
Tay chân uể oải hồn như dật dờ.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
威 名
Uy: Oai lực có vẻ tôn nghiêm, khiến người phải nể sợ. Danh: Tên.
Uy danh là uy quyền và danh tiếng, Như: Uy danh của đạo Cao Đài, càng ngày càng lừng lẫy.
Trong Huấn từ Thượng Sanh đọc trong buổi lễ nhậm chức Quyền Ðầu Sư của Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước có câu: Cái quyền chỉ huy ấy phải được triệt để ủng hộ, kính nể, trật tự mới phân minh, mối giềng mới chặt chẽ, người cầm quyền mới có thể bảo thủ uy danh của Ðạo, trụ vững tinh thần để điều khiển dìu dắt con cái của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ đi trọn vẹn trên đường Thánh Ðức.
Ðời người làm tướng của Ðức ngài uy danh lừng lẫy dù cho kẻ thù nghịch của Ðức ngài cũng phải kiêng nể kính phục.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
威 雄
Uy: Oai lực có vẻ tôn nghiêm, khiến người phải nể sợ. Hùng: Khoẻ, giỏi.
Uy hùng, còn đọc “Oai hùng” là hào hùng, thể hiện khí thế mạnh mẽ.
Như: Trang sử uy hùng.
Tên tuổi các con mới ghi tạc nơi Đài Vân mà lưu lại những trang sử uy hùng cho hậu thế.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
威 靈
Uy: Oai lực có vẻ tôn nghiêm, khiến người phải nể sợ. Linh: Linh thiêng.
Uy linh là cái oai đức có vẻ tôn nghiêm, khiến người ta phải sợ, như kiêng thần thánh linh thiêng.
Uy linh cũng có nghĩa là oai quyền thiêng liêng.
Như: Uy linh của Trời đất, uy linh của các bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Anh tuấn đất gìn nung khí phách,
Uy linh Trời giữ tạc đài liên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vùng Nam Hải uy linh nhứt quốc,
Cỏ rẻ hai chia đất rắp ranh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đạo sử phô bày tranh cẩm tú,
Tổ Đình diễn tả nét uy linh.
(Thơ Thượng Sanh).
威 儀
Uy: Oai lực có vẻ tôn nghiêm, khiến người phải nể sợ. Nghi: Hình dáng bên ngoài.
Uy nghi là hình dáng bên ngoài có vẻ trang nghiêm, lẩm liệt, gợi sự tôn kính.
Như: Ngôi Đền Thánh uy nghi, Đức Hộ Pháp đứng trên Thất đầu xà trông uy nghi.
Văng vẳng bên tai lời chỉ giáo,
Mơ màng trong mộng Đấng uy nghi.
(Thơ Thuần Đức).
Hộ Pháp uy nghi chưởng bát hồn,
Tuyển thăng thừa lịnh Đại Thiên Tôn.
(Thơ Huệ Phong).
威 嚴
Uy: Oai lực có vẻ tôn nghiêm, khiến người ta phải nể sợ. Nghiêm: Không biểu lộ tình cảm, gây cảm giác nể sợ.
Uy nghiêm là có dáng vẻ rất trang nghiêm, gợi sự tôn kính của mọi người.
Như: Không khí uy nghiêm của buổi cúng lễ, ngôi thờ tự trông rất uy nghiêm.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngày nay Hội Thánh tiếp tục gìn giữ dấu tích của Ðức Ngài và tô điểm cho nó còn vẻ uy nghiêm mãi mãi.
Ba ông mặc áo dài khăn đóng,
Sáu mắt nhìn trang trọng uy nghiêm.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
威 權
Uy: Có dáng vẻ tôn nghiêm, làm cho người khác kính sợ. Quyền: Được phép làm, quyền hành.
Uy quyền là người vừa có quyền hành lại vừa có oai nghi, làm cho người khác phải sợ.
Như: Uy quyền của Toà án.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong trường hợp nào cũng phải giữ uy tín của mình và nâng cao uy quyền của Hội Thánh.
Cảm hoá môn sinh tùng luật pháp,
Khuyên lơn chức sắc trọng uy quyền.
(Thơ Thái Đến Thanh).
威 信
Uy: Có dáng vẻ tôn nghiêm, làm cho người khác kính sợ. Tín: Tin.
Uy tín là tín nhiệm và kính nể, tức là có sự tín nhiệm và mến phục của mọi người.
Như: Việc làm của anh ấy gây mất uy tín.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Chúng ta nên quan sát cả tình thế nước nhà, cái tình thế đương nhiên của nòi giống ta, không phải năng lực chúng ra gầy nên uy tín cao trọng của nó đương nhiên được, quyền năng ấy là quyền năng vô hình trong tay của Đấng Tối Cao tối trọng, quyền năng vô biên kia của Đức Chí Tôn của Đại Từ Phụ đó vậy.
Trong trường hợp nào cũng phải giữ uy tín của mình và nâng cao quyền của Hội Thánh.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
畏 死
Uý: Sợ. Tử: Chết.
Uý tử là sợ chết.
Thành ngữ Việt Hán thường có câu: “Tham sanh uý tử 貪 生 畏 死” nghĩa là tham sống sợ chết.
Sách Nho có câu: Ái quốc ưu dân hà uý tử? 愛 國 憂 民 何 畏 死, có nghĩa là nếu yêu nước và lo cho dân thì sao lại sợ chết?
Nợ đạo ân thầy đâu uý tử,
Đường tên mũi đạn dám hy sinh.
(Thơ Chơn Tâm).
慰 勞
Uỷ: An ủi. Lạo: Khuyến khích, uỷ lạo.
Uỷ lạo là thăm hỏi để vỗ về, an ủi, hoặc động viên những người làm việc vất vả, khó nhọc hoặc bị tai nạn.
Uỷ lạo còn có nghĩa ân chỉ của nhà vua.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong bữa tiệc uỷ lạo nầy, sự hiện diện đông đủ của toàn thể chức sắc các cấp và nhơn viên công quả chứng tỏ mối dây thân ái đã thắt chặt tình huynh đệ thiêng liêng giữa con cái Đức Chí Tôn.
Liên quan, mừng chuyện mênh mông phởn,
Uỷ lạo, thương ai thấm thía buồn.
(Thơ Thanh Hương).
委 權
Ủy: Giao việc cho làm. Quyền: Quyền hành.
Ủy quyền là giao quyền hành của mình cho một người khác để thay mình làm việc.
Như: Cai quản ủy quyền cho Phó Cai quản làm việc.
Trong sách Giáo Lý Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Thế nên, trước khi truyền dạy Chánh Pháp, chính mình Đức Chí Tôn, hoặc ủy quyền cho các Đấng Trọn Lành, chọn lựa và huấn luyện Đồng Tử.
Bần Đạo đã định rồi sẽ ủy quyền trọn vẹn cho các cơ quan cầm quyền nhiếp chánh của Đạo...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
淵
Uyên là cái vực sâu. Nghĩa bóng: Sâu xa thâm thúy.
Như: Sơn cao uyên thâm (núi cao vực sâu), uyên nguyên (nguồn sâu), uyên bác, Nam uyên.
Thế đại Càn khôn cộng nhứt Thiên,
Nhơn như sa mạc tại thâm uyên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bất quản hổ tranh thâu Bắc Cực,
Chỉ nguy long đấu đoạt Nam uyên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
淵 博
Uyên: Sâu xa, thâm thúy. Bác: Rộng.
Uyên bác là sâu rộng, tiếng dùng để chỉ việc học hay kiến thức vừa có chiều sâu, lại vừa có bề rộng.
Đại Thừa Chơn Giáo dạy: Con người đã sẵn có cái Thiên tánh đặc biệt của Trời ban phú cho từ lúc mới đi đầu thai, rồi xuống ở thế gian này lại cần phải mượn lấy xác phàm mà kinh nghiệm mọi lẽ của trần để cho lần lần trở nên uyên bác, hầu tấn hoá mãi trên con đường đạo đức.
Tâm thì thiện mà linh uyên bác,
Giữ cho còn thì phát Thiên cơ,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Tinh thần uyên bác cao thâm,
Chỉ ư chí thiện lỗi lầm nhận ngay.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
淵 源
Uyên: Cái vực. Nguyên: Nguồn.
Uyên nguyên là nguồn suối, nguồn sâu, hay nguồn gốc của sự vật.
Đại Thừa Chơn Giáo dạy: Thế nên người tu hay người không tu mà muốn hoát thông sự vật, tham cứu uyên nguyên thì làm sao cũng phải tham thiền.
Đó là phần uyên nguyên của Khổng Giáo.
(Giáo Lý).
淵 深
Uyên: Cái vực. Thâm: Sâu.
Uyên thâm nghĩa đen là vực sâu thẳm, nói về những cái gì sâu thẳm.
Uyên thâm, nghĩa bóng chỉ việc học hay sức hiểu biết to lớn, sâu rộng. Như: Nhà nghiên cứu uyên thâm.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Muốn tự sửa mình trước phải giữ lòng dạ cho ngay thẳng, muốn giữ lòng dạ ngay thẳng trước phải luyện ý mình được thành thật, muốn cho ý mình thành thật, trước phải có kiến thức chu đáo và muốn có kiến thức chu đáo phải học và tìm biết suốt tới chỗ uyên thâm của sự vật.
Vui đón ngày xuân thơ nữ sĩ,
Năm vần rỡ rỡ tứ uyên thâm.
(Thơ Chơn Tâm).
鴛 鴦
Uyên: Chim trống của đôi uyên ương. Ương: Chim mái của đôi uyên ương.
Uyên ương là tên một loài chim sống ở dưới nước, con trống gọi là Uyên, con mái gọi là ương, lúc nào cũng đi thành đôi, không hề rời nhau. Tương truyền, cặp uyên ương nếu có một con chết thì con kia cũng chết theo.
Uyên ương dùng để ví vợ chồng thương yêu, hoà hợp, chung thuỷ cùng nhau.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo không cần tả, nó cường liệt phi thường làm sao đâu, chúng ta để mắt thấy một cặp uyên ương kia tự tử thà chết vì tình, chớ không chịu chia lìa yêu ái.
Diềm dà rõ nét tà dương bóng,
Ấm áp uyên ương trỗi khúc thiều.
(Lục Nương Giáng Bút).
Chắp cánh uyên ương tròn ước vọng,
Liền cành đào lý vững căn nguyên.
(Thơ Thuần Đức).
Um, như chữ “Om”, là to tiếng, hoặc nói lớn tiếng, gây ồn ào khó chịu.
Như: Sáng giờ nó khen um luôn, nói um lên cả làng đều nghe, chửi um nhà.
Con nói thông cha giả khen um,
Làm như bộ vui mừng con học giỏi.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Úm là ấp ủ cho ấm.
Như: Mẹ úm con trong lòng, lấy mền úm trẻ, mùa đông lạnh mặc nhiều áo để úm thân.
Đông lạnh ngắt mảnh mền úm trẻ,
Ngồi đêm trường quạnh quẽ phòng không.
(Kinh Thế Đạo).
2.- Úm là tiếng phù chú của nhà sư hay nhà phù thuỷ, cũng là câu Thần chú của Phật giáo Tây Tạng.
Câu Thần chú của Phật giáo Tây Tạng tương truyền do Đức Quan Âm Bồ Tát ban cho viết bằng Phạn ngữ là: “Om Mani Padme Hum”, phiên âm ra tiếng Việt là “úm ma ni bát rị hồng”, có người đọc “Án ma ni bát di hồng”.
An Nam mình kêu “ầm” còn theo Ðạo Pháp kêu “ùm”, vì cớ phép Phật sửa lại là “úm”: úm ma ni bát rị hồng.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Un, như chữ “hun”, là đốt cho cháy, không có lửa ngọn mà chỉ có khói.
Như: Đốt lửa để un muỗi, un đống rác ngoài bờ đi, đốt rơm ngoài đồng khói un khắp nơi.
Cam day hướng Bắc xét cho cùng,
Thấy lửa lẫy lừng trận khói un.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Un: Hun, đốt cho cháy không có ngọn lửa mà chỉ có khói, như un khói, un muỗi. Đúc: Rèn luyện.
Un đúc, như chữ “Hun đúc”, là được tạo nên qua một quá trình khổ luyện.
Thí dụ như: Thành công lớn cũng phải được un đúc ngay từ khi còn nhỏ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Các con sẽ lấy hết chí thành đã un đúc bấy lâu mà lần hồi lập cho hoàn toàn mối Ðạo.
Bền chí để ngươi xem bát địa,
Trời đương un đúc đấng anh hùng.
(Đạo Sử).
Nên gầy đạo đức đặng hồi nguyên,
Un đúc trẻ thơ đặng tánh hiền.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Un đúc lòng thành chờ máy Tạo,
Có ngày khuấy nước chọc trời Nam.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
雍 容
Ung: Êm hoà. Dung: Dáng mạo.
Ung dung là ôn hoà, thong thả, tức có dáng điệu, cử chỉ tỏ ra bình tĩnh, không hề có gì nôn nóng, vội vàng hay lo lắng bận rộn.
Ung dung còn có nghĩa dễ chịu, thoải mái, không vất vả lo lắng gì về điều kiện vật chất.
Như: Nghe hung tin mà nó vẫn ung dung, sống ung dung nhàn nhã.
Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh, trong quyển Thiên Đạo có viết: Phàm ở đời, bất câu vào cảnh ngộ nào, hễ tri túc là toại, tuỳ phận là yên; lập công với đời là phỉ nguyện chớ không cần khen thưởng; thấy lợi sợ điều phi nghĩa; gặp may không đắc chí, gặp rủi chẳng nao lòng, lành dữ đều phú cơ báo ứng, cứ ung dung thơ thới, chẳng cho lưới trần lao lung câu thúc. Đó là tự tại.
Muốn làm điều Nhân, người ta phải giữ lòng ngay thẳng, chẳng cho tư dục xen vào tâm, để cho nguồn Thiên lý ở trong tâm ung dung phát triển rồi ta cứ theo tiếng nói thiêng liêng đó mà làm cho hết sức mình.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
癰 疽
Ung: Mụt, nhọt độc. Thư: Nhọt mọc ngầm, không đỏ không có đầu.
Ung thư theo Đông y là hai loại nhọt, mụt độc loét miệng và nhọc bọc không có miệng.
Theo y học hiện thời, ung thư là u ác tính, thường có di căn, dễ gây tử vong.
Đôi khi ấy dường như đang bị phát bối ung thư, chịu đau đớn sầu than chẳng xiết...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
擁 護
Ủng: Giúp đỡ, bảo hộ. Hộ: Giup, giữ gìn.
Ủng hộ là giúp đỡ và hỗ trợ. Ủng hộ còn có nghĩa suy tôn mà hộ vệ. Như: Ủng hộ người nghèo, ủng hộ phong trào chống mù chữ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Như vậy Hội Thánh thật hân hạnh được sự ủng hộ triệt để của bổn Ðạo về mọi phương diện, kẻ đem công, người giúp của, chia sớt nỗi âu lo, đắp bồi chỗ thiếu thốn.
Thế nên quần chúng hiệp lại thành khối, tạo nên một lực lượng binh bị tương đương làm hậu thuẫn đối phó lại để ủng hộ cái chủ nghĩa của mình.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Uốn làm cho một vật có hình dáng theo ý mình định.
Như: Uốn cành cây cho thẳng, khua môi uốn lưỡi, uốn câu cho vừa miệng cá.
Thánh giáo Thầy có câu: Than ôi! Ðiều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi uốn lưỡi, mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.
Dễ là uốn lúc còn măng,
Sớm khuya đào luyện giữ chăn chớ lìa.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Uốn: Làm cho một vật có hình dáng theo ý mình định. Ba tấc: Ba mươi phân. Lưỡi: Bộ phận trong mồm, chủ để nếm, để nói.
Uốn ba tấc lưỡi ý nói trổ tài ăn nói để làm một việc gì đó, dùng với hàm ý chê bai.
Cơ tạo hoá vẫn công bình, nếu chẳng có sự khảo duợt của sóng gió thì ai ai cũng tự xưng mình là trọn Đạo, uốn ba tấc lưỡi để lòe thiên hạ chơi
(Thánh Giáo Thượng Phẩm).
Uốn: Làm cho một vật có hình dáng theo ý mình định. Nắn: Dùng tay sửa lại theo yêu cầu.
Uốn nắn là nắn, sửa theo ý mình. Uốn nắn còn có nghĩa là nắn nót từng chút một.
Như: Uốn nắn cung đàn.
Ngón đàn sáo thiên tư uốn nắn,
Lượng phù trầm để lắng cung tơ.
(Phù Kiều Hận Sử).
Uống là đưa chất lỏng vào miệng rồi nuốt. Như: Uống nước, uống rượu, uống thuốc.
Dạy về giới tửu, Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Hình chất con người vẫn là thú, phải ăn uống mới nuôi sự sống.
Quốc dân ăn thãi uống thừa,
Khôn ngăn bán lận khó ngừa buôn gian.
(Ngụ Đời).
Sự uống ăn xem sóc hẳn hòi,
Trong đi đứng chơi bời cho phải cách.
(Phương Tu Đại Đạo).
Uống ăn nuôi sống ý nói con người, cũng như bao sinh vật khác, sống ở thế gian này, cần phải ăn uống để nuôi sống thây phàm.
Con người, so với muôn vật, có tánh linh hơn hết, vì bẩm thụ tam hồn: sanh hồn, giác hồn và linh hồn, vì thế cơ thể loài người cũng tiến hoá hơn loài vật. Cơ thể đó muốn tồn tại và trưởng thành, nó phải mượn vật thực ở thế gian để ăn uống, nuôi dưỡng hằng ngày. Thức ăn vì vậy cũng cao hơn loài vật.
Từ cổ xưa loài người đã biết tìm hoa quả để ăn, sau đó các thánh nhân đã dạy kết cây làm tổ, săn bắt thú rừng, chim cá mà ăn, đây là thời kỳ ngư lạp. Đến khi vua Thần Nông đẽo gỗ chế ra cày bừa, dạy dân làm ruộng và tìm ra ngũ cốc để làm lương thực cho dân, đó là tiến đến giai đoạn nông nghiệp, là giai đoạn con người đã biết dùng cơm, gạo để ăn rồi vậy.
Giữa vạn vật con người một giống,
Phải uống ăn nuôi sống thây phàm.
(Kinh Thế Đạo).
Uống nước: Đưa nước vào miệng để hút vào bụng. Nhớ nguồn: Phải ghi nhớ gốc gác.
Uống nước nhớ nguồn là một câu tục ngữ, đồng nghĩa với câu: “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, ý muốn nói khi được thọ hưởng điều gì thì phải nhớ ơn người đã làm ra.
Uống nước thì ta phải nhớ nguồn,
Tháng ba ngày giỗ Tổ Hùng Vương.
(Thơ Chơn Tâm).
枉
Uổng là phí hay mất đi một cách đáng tiếc do đã không được dùng một cách có ích. Như: Cầm theo thì nặng liệng thì uổng.
Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên Trưởng có câu: Vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng theo Thánh ý của Thầy, là bậc Chí Tôn đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh chúng.
Có hiệp đem đường nẻo mới thông,
Phân chia cội Ðạo uổng vun trồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cơm ngày hai bữa dư chi uổng,
Mặc thế đua chen thói bốc rời.
(Đạo Sử).
Làm như người trong dạ ngậm ngùi,
Rầu con dốt lo nuôi uổng gạo.
(Phương Tu Đại Đạo).
Uổng: Phí, đáng tiếc, mất công vô ích. Công: Nỗi vất vả làm nên công việc.
Uổng công là phí công, tức là bỏ công cán ra mà không giúp làm nên việc. Như: Uổng công chờ đợi hắn.
Thánh Ngôn Thầy có câu: Thầy vì thương chúng sanh, tưởng công lao của mỗi đứa nên chẳng nỡ để cho mối Ðạo điêu tàn, nhưng nếu trong các con chẳng có đứa nào lãnh phần chế biến làm cho hoà thuận chung vui, để cho đến đỗi hiềm thù oán ghét nhau, mà để trò cười muôn thuở, uổng công dìu dắt của Thầy bấy lâu, thì biển khổ sông mê là nơi các con chịu đời đời kiếp kiếp đó.
Càn Khôn đặng rạng danh khắp chốn,
Chẳng uổng công lăn lộn cơ đời.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Đừng làm điếm nhục mẹ cha,
Uổng công dạy dỗ cho ta nên người.
(Thơ Hữu Lộc).
枉 死
Uổng: Bị khuất, bị oan. Tử: Chết.
Uổng tử là không đáng chết mà chết, chết một cách oan ức, hay chết oan vì tự tử.
Thành Uổng tử, hay “Uổng tử thành 枉 死 城”, là một cái thành nơi Âm phủ, dùng để giam giữ các vong hồn của kẻ khi ở dương thế bị chết do tự tử.
Ngọc Lịch Minh Kinh có viết: “Thế tục nói sái rằng, ai bị thác oan thì hồn bị cầm nơi thành Uổng tử. Đời nghe lưu truyền lâu, cũng tin là thiệt! Sao không xét cho đủ lý, người đã thác oan còn cầm ngục là nghĩa gì? Cho đi thong thả chớ không cấm cố, song nán đợi kẻ giết mình xuống Âm phủ, hành tội trước mặt hồn oan cho hết tức, rồi mới cho đi đầu thai.
Còn thành này (Thành Uổng tử) để giam những kẻ vô cớ giận lẫy mà tự giết mình, trầm mình, thắt họng, uống thuốc độc... giam đỡ đợi hành tội, chưa đặng đầu thai”.
Thành Uổng tử cheo leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên xiết khóc than.
(Kinh Sám Hối).
Úp là che, đậy lên trên bằng một vật trũng lòng. Như: Úp lồng bàn lên mâm cơm, nồi nào úp vung nấy.
Nói về Xích Long Tinh, nguơn linh của Đức Quan Thánh, Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Dân làng biết mà cầu nguyện nơi Ngài cứu nạn. Ngài cũng thừa biết dân ấy bị Thiên điều hành pháp, nhưng vì lòng ái tuất thương sanh không nỡ để dân chết đói, nên Ngài làm mưa. Ngọc Hư Cung bắt tội sai Ngũ Lôi tru diệt. Ngài chạy trốn vào một cái chùa, nhờ ông thầy chùa lấy chuông úp lại.
Làm bên gái mẹ cha nghi bụng,
Sợ khó bề lấy thúng úp voi.
(Phương Tu Đại Đạo).
於
Ư là chưng, ở, tại, tiếng dùng để giúp lời. Như: Sinh ư Bắc phương, tội quy ư trưởng, quá ư tàn bạo.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhưng nếu người không hy sinh cho Ðạo, chỉ lo cho cá nhân mình thì chẳng những không mở rộng Ðạo mà còn làm cho danh Ðạo bị tổn thương, cái trách nhiệm ấy quá ư hệ trọng đối với quyền Thiêng Liêng!
Đành lòng nào lại chối lại từ,
Mình dở dạy tội quy ư trưởng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ừ là tiếng dùng để tỏ sự đồng ý, bằng lòng, sự nhất trí ý kiến của người trên đối với người dưới hay người ngang bằng với nhau.
Như: Ừ đúng như vậy, ừ được nhưng phải chịu khó làm lại cho hoàn hảo.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Tiếng “ừ” có thể bảo tồn toàn nhơn loại đặng, nói tiếng “không” đủ làm cho giặc giã chiến tranh, nhơn loại tự diệt.
Nương đời âu cũng cho đời trọng,
Phải phải không không cứ ừ ừ.
(Đạo Sử).
Dầu chê hàng đồ bỏ của hư,
Cũng nhẫn nhịn cứ ừ chịu phải.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ưa là lấy làm bằng lòng, lấy làm thích ý. Như: Ưa ca hát, ưa của ngọt, hai người không ưa nhau.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Ngôi vị Bạch Ngọc Kinh chẳng ưa chứa kẻ hung hăng, mà lạ một điều là kẻ hung hăng đạo đức thường phá cửa lúng đặng vào, địa vị phần nhiều đoạt bởi kẻ ấy.
Ra vòng thế tục ít người toan,
Vì chẳng ưa mua một chữ nhàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thị thành quen thú ít ưa quê,
Ăn mặn rồi ai cũng muốn chè.
(Đạo Sử).
Ưa: Lấy làm bằng lòng, lấy làm thích ý. Chuộng: Quý và thích hơn những cái khác.
Ưa chuộng là thích và quý hơn những thứ khác. Như: Mặt hàng đưỡ nhiều người ưa chuộng.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trái lại, nếu làm những điều dân ghét bỏ và ghét những điều dân ưa chuộng, hoặc ham muốn xa hoa, lo cho thân mình được sung sướng ngoài ra mặc kệ dân khốn khổ lầm than, ấy là hành động trái với lòng dân, người cầm quyền dầu có tài ba lỗi lạc cũng không khỏi đi đến con đường thất bại.
Dục tình luyến ái nên trừ,
Những điều ưa chuộng thì từ nó ra.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Ưa: Lấy làm bằng lòng, lấy làm thích ý. Thích: Muốn, ưa, vui.
Ưa thích, cùng nghĩa với chữ “Ưa chuộng”, là thích hoặc chuộng hơn những cái khác. Như: Bài hát được nhiều người ưa thích.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðã dấn thân vào trường thi công quả, quý vị phải chịu khó nhọc làm cho cái vốn đạo đức của mình ngày càng tăng lên mãi, phải biết ưa thích công việc mình làm thì việc làm mới có thành quả tốt đẹp và sẽ đem hạnh phúc đến cho mình, vì hạnh phúc không cốt làm việc gì ta thích mà thích việc gì ta làm.
Tà tâm xúi dục sự ngu hèn,
Ưa thích lợi quyền chuộng tiếng khen.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Ứa là tiết ra nhiều và chảy thành giọt. Như: Sung sướng quá ứa nước mắt, lụy ứa hai hàng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Đã hy sinh cái khối xương máu của Chiến Sĩ Cao Đài, làm thành, làm lũy đăïng bảo vệ sống còn của nòi giống dưới ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng. Nếu toàn thể đồng bào hiểu cái thâm ý của nó sẽ ứa lụy cùng Bần Đạo mà chớ.
An vui sao đặng buổi lầm than,
Nhìn thấy nhơn sanh luỵ ứa tràn.
(Thơ Tiếp Đạo).
Sóng trần bể khổ mây mờ mịt,
Nghĩ nỗi gần xa lệ ứa dầm.
(Thơ Huệ Giác).
1.- Ức 億 là mười muôn hay mười vạn, tức một trăm nghìn. Như: Thất ức niên, giàu sang ức vạn.
Thánh giáo Thầy có dạy: Ôi! Thầy vì mấy chục ức nguyên nhân, không nỡ để cho ngôi phẩm tan tành, chớ lấy luật Thiên thơ thì không một ai dự vào kim bảng.
Dầu mình có giàu sang ức vạn,
Nhớ lúc cha bạc tháng tiền ngày.
(Phương Tu Đại Đạo).
Thánh giáo bảo tồn thất ức niên,
Nhờ nơi Luật Pháp hiệp Chơn Truyền.
(Thơ Thượng Sanh).
2.- Ức 抑 là đè nén, hà hiếp. Như: Nó cậy quyền, cậy thế ức người ta.
Ức còn có nghĩa là có điều rất lấy làm tức, mà ở trong thế đành phải chịu, không làm gì được. Như: Bị ức, quan xử ức, uất ức.
Xưa coi nhẹ lời răn đạo đức,
Nay cam tâm ngậm ức nuốt oan.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Hễ của hết thì tình cũng dứt,
Hại gái lành uất ức liều thân.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Ức 憶 là nhớ, tưởng đến.
Như: Những việc xảy ra trước đây đều nằm trong ký ức, ghi lại một thiên hồi ức.
Rồi ký ức lần phai theo ngày tháng,
Cố quên đi những u ám thời qua.
(Thơ Hàn Sinh).
Ức 抑: Đè nén, áp bức, tức giận vì bị đè ép. Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm.
Ức lòng là lòng uất ức, tức giận vì bị chèn ép. Như: Ức lòng nên phải nói ra.
Ức lòng dễ tỏ đặng cùng ai,
Hiền đức mà sao chịu khổ hoài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ức: Có điều lấy làm tức mà ở trong thế đành phải chịu, không làm gì được. Oan: Bị quy cho tội mà bản thân không phạm.
Ức oan, như chữ “Oan ức 冤 抑”, là bị đè nén một cách rất bất bình, tức bị quá sức oan uổng đến mức uất ức, không thể chịu nổi.
Như: Chịu ức oan mà không thể nói được.
Cật vấn cho ra lẽ ức oan,
Thôi con bớt thảm lụy tuôn tràn.
(Đạo Sử).
億 萬
Ức: Số đếm bằng mười vạn, hay một trăm ngàn. Vạn: Muôn, bằng mười ngàn.
Ức vạn là một từ dùng để chỉ số nhiều, không thể đếm hết được.
Nhứt thân ức vạn, Diệu huyền thần biến
Tử khí đông lai, Quảng truyền Đạo Đức.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
應
Ưng là thuận, bằng lòng. Như: Ưng ý, ưng tình, chọn mãi mà không ưng cái nào.
Trong Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Chức Sắc trong Ðạo đem hột giống nhơn nghĩa gieo khắp các nơi, mà nhơn sanh không ưng nạp, bởi họ không biết cái năng lực của họ mạnh mẽ thế nào, không cần để ý đến, chớ chi họ trọng dụng đạo nhơn nghĩa thử một thời gian coi có hiệu quả gì chăng?
Gạo cơm huỷ hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
(Kinh Sám Hối).
Đừng nghe tiếng mối mang vơ vẩn,
Phải trước rõ người cho tận mới ưng tình.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ưng: Thuận, bằng lòng vì hợp với ý mình. Bụng: Bụng con người, biểu tượng cho tâm lý, tình cảm.
Ưng bụng, đồng nghĩa với “Ưng ý”, là lấy làm bằng lòng vì hợp với ý của mình.
Như: Mua được món hàng ưng bụng.
Đến xem hàng gái phải cho coi,
Chừng ưng bụng mới đòi nạp lễ.
(Phương Tu Đại Đạo).
應 當
Ưng: Bằng lòng vì thích hợp với ý mình. Đương: Nhận lãnh, gánh vác.
Ưng đương là bằng lòng nhận lãnh.
Hai chữ nầy lập lại nhiều lần trong Di Lạc Chơn Kinh, thể hiện tấm lòng tha thiết, khẩn khoản của Đức Phật, đã bao lần đinh ninh dặn dò, khuyên lơn những mong người nghe kinh mau phát tâm cầu nguyện.
Nhược hữu chúng sanh văn ngã ưng đương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng...
(Di Lạc Chơn Kinh).
Ưng: Bằng lòng vì thích hợp với ý mình. Chịu: Nhận lấy điều không hay cho mình.
Ưng chịu là bằng lòng nhận chịu.Như: Kiếp trước làm ác kiếp nầy phải ưng chịu quả báo.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Cả đồng chủng của chúng ta ngày nay tinh thần đã đến bực lão thành rồi, chẳng còn ưng chịu nhục nhã tâm hồn như xưa nữa.
Trước ưng chịu duyên vầy Tần Tấn,
Hơn thua chi còn lấn hiếp nhau.
(Phương Tu Đại Đạo).
應 納
Ưng: Bằng lòng vì thích hợp với ý mình. Nạp: Thu vào, làm cho đến gần mình.
Ưng nạp là bằng lòng tiếp nhận, đồng ý thu nạp. Như: Sau khi phỏng vấn công ty đã ưng nạp vào làm việc.
Chức Sắc trong Ðạo đem hột giống nhơn nghĩa gieo khắp các nơi, mà nhơn sanh không ưng nạp,...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
應 順
Ưng: Bằng lòng hoặc thích vì hợp với ý mình. Thuận: Theo, bằng lòng.
Ưng thuận là chịu, bằng lòng, tức đồng ý với yêu cầu nào đó của người khác. Như: Mẹ đã ưng thuận.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Kẻ phàm dầu ly hương thuở ấu xuân đi nữa, lòng hằng hoài vọng. Chí Thánh dầu bị đoạ trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh. Nếu chẳng vậy, ai còn dám ưng thuận hạ thế cứu đời?
Đến xem hàng gái phải cho coi,
Chừng ưng thuận mới đòi nạp lễ.
(Phương Tu Đại Đạo).
應
Ứng là đáp lại, có mối liên hệ phù hợp tương đối với nhau. Như: Người hô kẻ ứng, lời hát ứng với câu nhạc.
Thánh giáo Đức Quan Âm Bồ Tát trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ba là có tế lễ thì tâm phải có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng là lẽ tự nhiên.
Huệ tâm là được giáng tâm viết ra, nghĩa là Ơn Trên ứng ra tư tưởng, còn đồng tử thì tả ra.
(Thiên Đạo).
Gieo giống chi mọc liền giống nấy,
Cảm vật nào vật ấy ứng cho.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
應 變
Ứng: Đáp lại, đối lại. Biến: Thay đổi.
Ứng biến là ứng phó một cách linh hoạt với những biến đổi bất ngờ.
Như: Tài ứng biến của anh ấy khi đối phó với mưa bão, tuỳ cơ ứng biến.
Nếu muốn lập công nơi đó, vì Thầy đã dạy, thì nên làm đi. Cách xây đổi phương lược tuỳ cơ ứng biến.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
應 用
Ứng: Đáp lại, đối lại. Dụng: Dùng.
Ứng dụng là đem ra dùng thật sự, hoặc đem cái lý thuyết dùng vào thực tiễn.
Như: Đem ứng dụng vào cuộc sống hằng ngày.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Quyền Giáo Tông có câu: Trung, con lập nhiều quá, mà mỗi chuyện lập chẳng bổ ích chi hết. Hễ phương nào hay thì để, phương nào phá hại nên thay thế, tuỳ cơ ứng dụng, như trị một nước, điều một đạo binh, cứ lầm lũi đi hoài, biểu sao không lầm lạc.
Nếu chưa gặp thời để ứng dụng tài đức thì đành cam lui bước, ẩn chốn lâm tuyền, bạn cùng non nước.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Hay “Ứng hợp”.
Ứng: Đáp lại, lên tiếng đáp lại lời kêu gọi. Hiệp (hợp): Hiệp nhau, giống nhau.
Ứng hiệp, như chữ “Ứng hợp 應 合”, là đáp lại bằng một cách hoà hợp.
Cái tình cảm hoá của con người là tình thường ứng hiệp Trời Ðất.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
應 化 三 清
Ứng hoá: Biến hoá hiện ra bằng hình ảnh. Tam Thanh: Ba ngôi phẩm trong đạo Cao Đài gồm Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh.
Ứng hoá tam thanh là nói Đức Lão Tử dùng huyền diệu nguơn khí ứng hoá ra Tam Thanh, tức ba người là Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái Thanh để xông vào ba cửa trận Tru Tiên, cùng giúp Lão Tử đánh Thông Thiên Giáo Chủ.
Tam Thanh đây cũng là ba sắc hào quang hay nguơn tinh, nguơn khí, và nguơn thần của Thái Thượng Lão Quân: Ngọc Thanh màu hồng, Thượng Thanh màu xanh, Thái Thanh màu vàng.
Tam Thanh còn là ba ngôi phẩm trong đạo Cao Đài gồm Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh. Thái Thanh màu vàng, thuộc Phật, Thượng Thanh màu xanh, thuộc Tiên, Ngọc Thanh màu đỏ thuộc Thánh.
Lão Quân ứng hoá Tam Thanh,
Khuyến răn nhơn vật lòng lành chớ xao.
(Xưng Tụng Công Đức).
應 夢 保 生
Ứng mộng: Hiện ra trong chiêm bao. Bảo sanh: Bảo vệ mạng sống, hay giữ vẹn sanh linh.
Ứng mộng bảo sanh là nói các Đấng Thiêng liêng ứng cho điềm chiêm bao chỉ dạy cách bảo sanh nhơn loại.
Người làm vua có lòng nhơn từ, hết lòng thương yêu dân chúng, tức là hợp với lòng Trời, thì sẽ được các Đấng Thiêng liêng ứng vào giấc mộng để chỉ dạy cách bảo hộ sự sống cho nhơn sanh.
Đức Khổng Phu Tử là người suốt đời có lòng thương dân, nên trong Chương Thuật Nhi, mục “Mộng kiến Chu Công” (Nằm mộng thấy Chu Công) kể lại cho ta biết Chu Công Đán cũng từng về ứng vào giấc mộng của Ngài, khuyên dạy đạo lý cứu khổ cho nhơn sanh.
Ứng mộng bảo sanh,
thùy từ mẫn khổ.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
應 接
Ứng: Đáp lại, lên tiếng đáp lại lời kêu gọi. Tiếp: giúp sức thêm vào.
Ứng tiếp là tiếp đãi khách khứa.
Đáp lại lời cầu cứu, đến tiếp sức, hoặc đem binh đến tiếp sức, cũng gọi là ứng tiếp.
Cớ hiển hiện nào ai nói hiếp,
Phòng toan phương ứng tiếp binh lời.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hễ nghe lịnh mẹ hô ứng tiếp,
Chẳng mặt nào lấn hiếp đặng mình.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Ước là đoán định một cách đại khái.
Như: Thủa ruộng ước khoảng năm công, người ấy ước chừng bốn mươi tuổi, đường về ước độ một cây số.
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Ước 約 là hẹn. Như: Ước nhau đi chơi, lời thề ước, ký hoà ước, phụ lời ước.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo chung chia đau thảm cùng con cái của Ngài, thảm khổ cũng có, mà vui hứng cũng có, buồn vui lẫn lộn với nhau, nhứt là đàn anh của chúng ta buổi nọ, niên cao kỷ trưởng, khi nghe tiếng gọi Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn, họ quyết đem mảnh thân phàm của họ dâng hiến làm tế vật của Ngài, dầu làm tay chơn cho Ngài, vì cớ mà bản hoà ước của họ đối với cả chơn hồn nguyên nhân là họ lãnh sứ mạng thiêng liêng vậy.
Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy,
Nào dè có đặng buổi hôm nay.
(Huệ Mạng Trường Phan).
Nào khi ước giữ niềm son sắt,
Nào thề non nắm chặt dải đồng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Ước 約 là mong cầu. Như: Ước được đi du lịch, ước gì được trúng số độc đắc.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Ngài liền nói: “Thầy đến lập cho nước Việt Nam nầy một nền Quốc Ðạo”, nghe xong Bần Ðạo từ đấy hình như phiêu phiêu lên giữa không trung mơ màng như giấc mộng. Ðược nghe nói cái điều mà mình thèm ước, nên Bần Ðạo không từ chối đặng.
Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần luống ước cầu may.
(Kinh Sám Hối).
約 交
Ước: Mong mỏi. Giao: Qua lại lẫn nhau.
Ước giao, như chữ “Giao ước 交 約”, là những điều ước kết giao với nhau, tức là những lời hai bên hẹn hò giao kết nhau. Như: Hai người đã ước giao với nhau.
Xem: Giao ước.
Bà nghe nhục nhã trăm bề,
Quyên sinh rảnh kiếp lỗi thề ước giao.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Ước: Mong mỏi. Hẹn: Hứa làm việc gì.
Ước hẹn, như chữ “Hẹn ước”, là hứa hẹn. Như: Đôi trẻ đã ước hẹn với nhau.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy: Có chứng Hiệp Thiên Đài những lời ước hẹn nghe. Vậy thì Hộ Pháp và cả Hiệp Thiên Đài hiệp công cùng Lão mà vun đắp Thánh giáo của Thầy, đừng phân quyền sanh rối loạn nữa nghe.
Năm tháng chưa phai lời ước hẹn,
Tẻ vui còn nhớ buổi sum vầy.
(Thơ Thuần Đức).
Bút mực dễ phai lời ước hẹn,
Văn từ khó tả buổi chia phôi.
(Thơ Hàn Sinh).
Ước: Mong mỏi. Mong: Chờ đợi.
Ước mong, như chữ “Mong ước”, là ý mong muốn, hoặc có ý mong mỏi chờ đợi. Như: Chỉ ước mong một cuộc sống hạnh phúc.
Thánh giáo Diêu Trì Nương Nương có dạy: Thiếp ước mong cho Hiệp Thiên Đài để hết công tâm mà lo lắng chủ nghĩa chung là lập nền tảng chắc chắn để độ sanh linh đi đến con đường giải thoát.
Đã từng cực nhọc đắp nên nhân,
Chưa toại ước mong vội lành trần.
(Thơ Huệ Giác).
Thay đổi tuỳ cơ trên phán định,
Ước mong bổn đạo hưởng vinh vang.
(Thơ Hiến Pháp).
Ước: Mong mỏi. Mơ: Tưởng thấy phảng phất trong giấc ngủ.
Ước mơ, do chữ “Mơ ước”, là mong muốn thiết tha những điều tốt đẹp trong tương lai cuộc sống. Như: Sống trong ước mơ.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Các con xa Thánh giáo của Thầy đã lâu, tưởng lòng hằng ước mơ hoài vọng, mà Thầy lâu đến để lời tâm huyết chỉ giáo cho các con, Thầy cũng buồn lòng mà thấy bầy con lao nhao lố nhố lặn hụp chìm đắm giữa cõi hư sanh nầy.
Chờ cho trễ bước thuyền xa bến,
Bến tục thoát vòng hết ước mơ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vầng trăng mờ tỏ soi tiềm thức,
Làn gió dịu hiền thả ước mơ.
(Thơ Thanh Hương).
Hay “Ước nguyện”.
Ước: Mong mỏi. Nguyền (nguyện): Mong muốn.
Ước nguyền, như chữ “Ước nguyện 約 願”, là điều ước muốn trong lòng, mong muốn thiết tha.
Như: Hôm nay điều ước nguyền đã thoả rồi.
Xem: Ước nguyện.
Thi mầng đôi lứa thành gia thất,
Lời chúc ba sinh phỉ ước nguyền.
(Thơ Thuần Đức).
約 願
Ước: Mong mỏi. Nguyện (nguyền): Mong muốn.
Ước nguyện, như chữ “Nguyện ước”, là điều ước muốn trong lòng.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhắc lại lời dạy của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ nêu lại cái tình tương thân, tương ái giữa bạn đồng Ðạo, tôi chỉ ước nguyện các bạn chức sắc nơi Trung ương cũng như địa phương cùng nhau thắt chặt giải đồng, đừng vì một tranh chấp, hoặc một tự ái nhỏ nhen mà làm cho mất niềm hoà khí, phạm nghĩa đồng môn.
Có Trời soi thấu, hiểu giùm con,
Ước nguyện than ôi chẳng đặng tròn.
(Thơ Hoài Tân).
約 望
Ước: Mong mỏi. Vọng: Trông mong.
Ước vọng là điều mong muốn rất thiết tha. Như: Ước vọng đất nước được hoà bình.
Giáng cơ nơi Thảo Xá Hiền Cung, Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có đoạn dạy: Thưa chị, Em chẳng dám nào xin cạn tỏ ra đây nhiều điều ước vọng của Thầy Em và Quan Âm Bồ Tát. Cả cơ độ tận Nữ phái chỉ xu hướng về trí thức tinh thần. Có đủ trí thức tinh thần mới mong đoạt đặng sự khôn ngoan của cơ Tạo hoá. Đoạt đặng cơ Tạo hoá mới đắc đạo đặng.
Cái khổ của đời mình ước vọng,
Cái chê của chúng lại nài cầu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chắp cánh uyên ương tròn ước vọng,
Liền cành đào lý vững căn nguyên.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Ướm là mặc thử, tức so quần hoặc áo vào người xem có vừa không, nghĩa rộng thử xem có chịu không.
Như: Ướm lòng, ướm sức, ướm toan.
Thương tiếng dế năm canh trỗi giọng,
Tưởng như dường ướm gióng dây loan.
(Thất Nương Giáng Bút).
Ướm toan mượn giọt máu đào,
Nhành dương rưới tắt nhọc lao khổ mình.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
2.- Ướm còn có nghĩa là sắp sửa, tức việc sắp xảy ra ngay trước mắt.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Trường công quả đã hầu mãn, các con lại phải đến cảnh gay go, vó ký ướm ngập ngừng mà cánh hồng toan lướt gió.
Cành dương lác đác sương sa,
Bóng quang âm ướm thoát qua biển trần.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Soi kính cũ mặt hoa đã nhíu,
Tóc hoa râm mày liễu ướm sương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ướm: Sắp sửa, tức việc sắp xảy ra ngay trước mắt. Chín: Nói quả cây đã già, vỏ trái ửng vàng, hồng.
Ướm chín là trái cây đã sắp sửa chín. Như: Đào Tiên đã ướm chín.
Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,
Chén trường sanh có lịnh ngự ban.
(Kinh Tận Độ).
Ướm: Thử xem có vừa lòng vừa ý không. Hỏi: Han, tỏ ý mình muốn biết việc gì để người ta đáp lại.
Ướm hỏi là hỏi thử để thăm dò ý kiến xem có thuận không, có bằng lòng không.
Như: Chưa dám làm mới ướm hỏi xem chịu không.
Ướm hỏi Thánh linh đâu vắng dạng,
Mở lời miệng ngợi nói u ơ.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Ướm: Sắp sửa, tức việc sắp xảy ra ngay trước mắt. Trở: Di chuyển, thay đổi ngược lại.
Ướm trở là sắp sửa trở lại, sắp thay đổi.
Như: Mùa thu sắp dứt ướm trở về đông, ướm trở sang xuân.
Màu thu cảnh ướm trở về đông,
Ðạo đức soi gương đã vẹn lòng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tà nguyệt vườn thu ướm trở đông,
Nhạn về đảnh Bắc tiếng qua sông.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðông tàn cảnh ướm trở nên xuân,
Xuân nở vườn mai há mấy lần?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ưỡn là đưa ngực hay bụng ra phía trước bằng cách hơi ngửa về đằng sau.
Như: Nó đi hơi ưỡn người, bụng ưỡn về phía trước, đứng ưỡn ngực để nhận huy chương.
Đôi mắt nhắm bên hông gió thoảng,
Ưỡn mình lên mũi thoáng hương đưa.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
1.- Ương 央 là ở chính giữa, không dùng một mình. Như: Trung ương.
Thánh giáo Thái Thượng Đạo Tổ dạy Ngài Bảo Văn Pháp Quân có câu: Nền Ðại Ðạo đã chia ba, theo lời Bần Đạo đã nói, M. Ng. hiền hữu muốn lập công nơi nào? Toà Thánh, Trung Ương, Hậu Giang?
Giang san in vẻ đẹp như thêu,
Ngảnh lại trung ương thấy chẳng đều.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Ương 殃 là vạ, tai nạn. Như: Tai ương, hoạ ương.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp Có câu: Một khi đã thấy sự đau khổ hoạn nạn, tai ương của quần chúng thì nó cảm hoá xúc động đến tâm thương yêu lan tràn ra, không biết đâu là giới hạn, ấy là tánh từ bi đó.
Tai ương hoạn hoạ luống ưu sầu,
Vì bởi hay bày chước hiểm sâu.
(Giới Tâm Kinh).
Như nhiên lành phước dữ tai ương,
Một trả một vay cũng lẽ thường.
(Đạo Sử).
3.- Ương 鴦, do chữ “Uyên ương 鸳 鴦”, là một loài chim thuộc vịt, con đưc gọi uyên, và con cái gọi là ương, lúc nào cũng đi đôi với nhau.
Nghĩa bóng: Chỉ vợ chồng hoà thuận, gắn bó nhau. Như: Đôi chim uyên ương.
Kìa oan ương ấp nhau chẳng hở,
Nọ én anh rỉ rả kêu thương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ương: Ở trạng thái uể oải, không được hăng hái trong hành động. Yếu: Không khoẻ, thiếu sức mạnh.
Ương yếu là có thể lực kém, sức khoẻ kém, hay bệnh hoạn, thiếu hăng hái.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Tôi nhận thấy Hội Thánh Phước Thiện có nhiều thiện chí xây dựng, nhứt là vị chưởng quản Phước Thiện từ mấy năm nay đã gắng sức thực hành công tác từ thiện để giúp ích cho người già cả và cho Ðạo hữu trong lúc ương yếu, bịnh hoạn.
Lớp lương tháng chẳng tròn, nỗi vợ con ương yếu,
Rủi phải cơn thốn thiếu, chịu người níu kẻ đòi.
(Ngụ Đời).
Ướt là ở tình trạng có thấm nước, hay có nước trên bề mặt. Như: Ướt áo, ướt mình, ướt tập vở.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Chẳng khác nào ngồi nhà thấy kẻ mắc mưa ướt mình, nhảy ra che cho ướt, lại khen rằng mát thì muội lắm đó.
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nâu sồng khổ hạnh phép gần Tiên,
Như bước ướt chơn mới đến thuyền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ướt: Thấm nước vào.
Ướt át là nói tình cảm có tính chất lâm li mùi mẩn. Như: Tâm hồn chị ấy rất ướt át.
Ướt át còn là ướt nhiều, gây cảm giác khó chịu. Như: Mưa dầm đường sá, áo quần ướt át.
Mịt mịt mây bay cuộn bóng thiều,
Trời thu ướt át cảnh buồn hiu.
(Thơ Thượng Sanh).
Nắng giọi tờ mờ kinh Lá bối,
Mưa sa ướt át cốt Thần tiên.
(Thơ Chơn Tâm).
1.- Ưu 憂 là lo. Như: Ưu tư, ưu lự, ưu phiền, ưu sầu.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Dầu kẻ nào tội tình ưu lự thế mấy mà bước vô Ðền Thánh rồi, cũng phải tập tánh cho thanh khiết, bỏ cả những tư tưởng phàm tục, để tâm nhứt nguyện mới có sự hưởng ứng.
Dứt tình ái, giải sầu ưu,
Hễ thương thì cũng lo mưu giữ mình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Ưu 優 là là hơn tốt, trái với liệt 劣 là thua, xấu.
Như: Ưu hạng, trường học nầy có ưu điểm là mát mẽ, công ty ưu đãi cô ấy, nó có nhiều ưu thế.
Những tư tưởng nầy không bị những luồng khác cuốn đi, mà lần lần nó chiếm một địa vị ưu thế.
(Giáo Lý).
憂 愛
Ưu: Lo lắng. Ái: Yêu mến.
Ưu ái là thương yêu và lo lắng.
Ưu ái còn do chữ “Ưu quốc ái dân 憂 國 愛 民”, tức là lo lắng việc nước, thương yêu nhân dân.
Trong bài Nhạc Dương Lâu ký của Phạm Trọng Yêm có câu: Cư miếu đường chi cao tắc ưu kỳ dân, xử giang hồ chi viễn, tắc ưu kỳ quân 居 廟 堂 之 高 則 憂 其 民, 處 江 湖 之 遠 則 憂 其 君, nghĩa là khi ở ngôi cao chốn triều đình thì lo về nhân dân, khi ở chốn giang hồ xa xôi thì lo cho vua.
Phủi tay danh lợi lòng thư thái,
Ưu ái hoà mình với chúng sanh.
(Thơ Thuần Đức).
Cho cảnh thanh bình về sớm sớm,
Cho lòng ưu ái nhẹ lâng lâng.
(Thơ Thuần Đức).
憂 民
Ưu: Lo lắng. Dân: Dân chúng.
Ưu dân là vì dân mà lo lắng.
Cổ nhân thường nói: Ái quốc ưu dân hà uý tử? 愛 國 憂 民 何 畏 死, nghĩa là yêu nước lo dân sao lại sợ chết?
Tận tâm ái quốc ưu dân,
Đạo Trời trọn phận, nghĩa nhân vẹn toàn.
(Bài Chúc Đáo Tuế).
Ái chủng tìm cơ gầy tộc chủng,
Ưu dân định phép lập Tân dân.
(Thơ Thái Đến Thanh).
憂 患
Ưu: Lo lắng. Hoạn: Tai hại, hoạn nạn.
Ưu hoạn là sự lo lắng về hoạn nạn. Như: Đến mùa mưa, dân miền Trung mang nhiều nỗi ưu hoạn.
Muốn giữ cái tâm cho chính, sự sợ hãi, sự vui say, sự ưu hoạn làm cho cái tâm ta chênh lệch xao xuyến...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
憂 鄉
Ưu: Lo lắng. Hương: Quê hương.
Ưu hương là lo lắng cho quê hương, đất nước.
Thành ngữ Việt Hán có câu “Ái quốc ưu hương 愛 國 憂 鄉” là yêu mến tổ quốc, lo lắng quê hương.
Trong Ðặc San Thông Tin số 28, ngày 19/5/1971, nói về tiểu sử Đức Thượng Sanh có viết: Nỗi niềm ưu hương, ái chủng của Ngài đã thúc đẩy Ngài cần giao du với bạn bè hầu tìm người tri kỷ, tri âm, trong số ấy có Ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc, Võ Văn Sang v.v...
Câu văn ái chủng gầy dân khí,
Tiếng sấm ưu hương định quốc hồn.
(Bát Nương Giáng Bút).
Hùng khí từng nêu danh nghĩa sĩ,
Ưu hương đâu thiếu bậc trung can.
(Thơ Thượng Tuy Thanh).
優 劣
Ưu: Hơn, thắng. Liệt: Kém, thua.
Ưu liệt là hơn kém, thắng bại, do kết hợp hai từ: Ưu thắng, liệt bại.
Thánh giáo Thầy có câu: Cơ lập Ðạo là nhiệm mầu vô giá. Biết Ðạo, biết ta biết người, biết thế biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt, rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối.
Xem: Ưu thắng liệt bại.
Biết thế biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt, rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
憂 慮
Ưu: Lo lắng, buồn rầu. Lự: Nghĩ ngợi, suy tính.
Ưu lự là lo nghĩ, lo lắng suy nghĩ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Dầu kẻ nào tội tình ưu lự thế mấy mà bước vô Ðền Thánh rồi, cũng phải tập tánh cho thanh khiết, bỏ cả những tư tưởng phàm tục, để tâm nhứt nguyện mới có sự hưởng ứng.
Nhơn vô tùng thế đắc tùng Thiên,
Ưu lự trần gian ý vị nhiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
憂 煩
Ưu: Lo lắng. Phiền: Buồn rầu.
Ưu phiền là lo lắng buồn rầu. Như: Mang nhiều nỗi ưu phiền trong lòng.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đông Phương Sóc có dạy: Xét sớm mau lo liệu, đừng để muộn ăn năn, khuyên chớ có dùng dằng, ắt không tròn bổn phận. Chác chi điều cừu hận, làm cho bạn ưu phiền, dứt hết nợ oan khiên, ngày sau mình khỏi đọa.
Ở đời đây là chỗ ưu phiền,
Vui chi đó, thế quyền danh lợi.
(Lý Giáo Tông Giáng).
Ưu phiền than thở có ai thương,
Vinh nhục liếc xem sự tỏ tường.
(Thơ Hộ Pháp).
憂 君
Ưu: Lo, lo lắng. Quân: Vua.
Ưu quân là lo cho vua, hoặc lo cho vị lãnh đạo nước. Như: Ưu quân ái quốc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lòng ái quốc, ưu quân đã giúp vị Hoàng Thân ấy thoát nạn cùng gia đình thân tộc.
Học cho đúng bậc tài thần,
Ưu quân ái quốc vua cần dân nghinh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
憂 愁
Ưu: Lo lắng. Sầu: Buồn rầu.
Ưu sầu là lo buồn, tức là lo lắng buồn khổ.
Thánh giáo Đức Chí Tôn đã dạy: Sanh đứng làm người, trót đã mang vào mình một vai tuồng đặc biệt, đã chẳng lo bước hành trình cho xong mà đắp bồi nợ mảnh hình hài, ngọn rau tấc đất, lại chác lắm điều phiền não ưu sầu, lấy Thánh đức gọi là chơi, mượn hành tàng vô nghĩa mà làm cho vừa lòng ái mộ bất lương.
Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,
Cũng vì tà mị dẫn đường con thương.
(Tán Tụng Công Đức).
Tai ương hoạn hoạ luống ưu sầu,
Vì bởi hay bày chước hiểm sâu.
(Giới Tâm Kinh).
優 先
Ưu: Tốt, đầy đủ, hơn. Tiên: Trước.
Ưu tiên là đặc biệt trước những đối tượng khác, vì được coi trọng hơn.
Ưu tiên còn có nghĩa là cho được hưởng quyền ưu tiên trong một việc cụ thể nào đó.
Như: Ưu tiên tuyển chọn người tốt nghiệp chuyên môn, được hưởng quyền ưu tiên.
Đạo hợp tình thương, Đời hợp chúng,
Đạo Đời tương đắc điểm ưu tiên.
(Thơ Thái Phong).
Ưu: Lo lắng. Toan: Tính toán, lo liệu việc gì.
Ưu toan là lo lắng để tính toán một việc gì. Như: Bao nhiêu ưu toan trong lòng đã được giải quyết.
Nỗi nợ nỗi duyên đưa thảm đến,
Thành gia nào kẻ dạ ưu toan.
(Đạo Sử).
優 秀
Ưu: Hơn, tốt. Tú: Tốt đẹp.
Ưu tú là tốt đẹp nhất, được đánh giá cao hơn cả. Như: Anh ta là một học sinh ưu tú.
Trong lễ An vị Phật Mẫu nơi Điện Thờ Trường Quy Thiện, Đức Thượng Sanh có dạy: Ðức Chí Tôn dạy chúng ta lấy Nho Tông chuyển thế đặng xây dựng lại nền phong hoá ưu tú của nước nhà hầu tạo lập một nền Văn hoá tương lai cho toàn thể quốc gia trên thế giới.
Hội Thánh chỉ ước mong quý vị vững bước trên đường tu tập, giồi trau đức tính hầu trở nên những Chức Sắc ưu tú trong cửa Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
憂 思
Ưu: Lo, buồn. Tư: Nhớ, nghĩ.
Ưu tư là lo nghĩ hay lo buồn. Như: Vẻ mặt ưu tư.
Thánh giáo Thầy dạy: Con đã để dạ ưu tư về mối Ðạo, đã lắm lần trưu cay ngậm đắng mà nhuộm nét nâu sồng, mong trau rạng mảnh gương để soi chung bước đàng sau mà lần đến cảnh tự tại thung dung, tránh bớt muôn điều phiền não.
Tâm chí các con lay động ưu tư tất là Thần, Thánh dẫn đường để chỉ cho con ra khỏi lối mịt mờ...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
憂 世
Ưu: Lo lắng. Thế: Đời.
Ưu thế là lo cho đời.
Người xuất gia tu hành, không lo cho bản thân mình mà chỉ lo cho đời, nên trong Bát Đạo Nghị Định có Nghị Định thứ năm quy định: Buộc cả Chức Sắc đã thọ phong phải phế Ðời hành Ðạo, tức là bỏ đi đời sống riêng tư của mình mà lo về đời sống của chúng sanh.
Tài sơ chưa toại lòng ưu thế,
Chuyện cũ thêm buồn cảnh xuất gia.
(Thơ Thuần Đức).
優 勝 劣 敗
Ưu thắng: Tốt thì thắng. Liệt bại: Xấu thì thua.
Ưu thắng liệt bại tức là tốt đẹp, tài giỏi thì hơn, còn xấu xa, yếu hèn thì thua.
Thành ngữ này đồng nghĩa với câu: Mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất.
Hiện nay là buổi kim tiền, ưu thắng liệt bại, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
憂 時 憫 世
Ưu: Lo lắng. Mẫn: Thương xót. Thời thế: Việc đời xảy ra trong một thời kỳ.
Ưu thời mẫn thế là lo lắng và thương xót cho việc đời. Thường dùng để chỉ người sáng suốt, biết đường tiến thủ cho thích hợp với thời thế.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Mục đích của chính trị làm làm cho quốc gia hưng vượng, công lý thăng bằng, nhân dân no ấm, đó là đường lối chính trị thời xưa của những bậc ưu thời mẫn thế.
Khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế không thể nào ngưng được.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |
Danh mục vần U-Ư
U
• U ám
• U ẩn
• U đồ
• U hiểm
• U hiển
• U hồn
• U huyền
• U khổ cùng sầu
• U Lệ
• U minh
• U minh địa
• U minh kệ
• U nhàn
• U ơ
• U sầu
• U thâm
• U trệ
• U uất
Ủ
• Ủ
• Ủ dột
• Ủ ê
• Ủ rũ
ÚA
• Úa
• Úa xào
ỦA
• Ủa
UẨN
• Uẩn khúc
UẤT
• Uất
• Uất ức
UẾ
• Uế
• Uế trược
UỂ
• Uể oải
UY
• Uy danh
• Uy hùng
• Uy linh
• Uy nghi
• Uy nghiêm
• Uy quyền
• Uy tín
UÝ
• Uý tử
UỶ
• Uỷ lạo
• Ủy quyền
UYÊN
• Uyên
• Uyên bác
• Uyên nguyên
• Uyên thâm
• Uyên ương
UM
• Um
ÚM
• Úm
UN
• Un
• Un đúc
UNG
• Ung dung
• Ung thư
ỦNG
• Ủng hộ
UỐN
• Uốn
• Uốn ba tấc lưỡi
• Uốn nắn
UỐNG
• Uống
• Uống ăn nuôi sống
• Uống nước nhớ nguồn
UỔNG
• Uổng
• Uổng công
• Uổng tử
ÚP
• Úp
Ư
• Ư
Ừ
• Ừ
ƯA
• Ưa
• Ưa chuộng
• Ưa thích
ỨA
• Ứa
ỨC
• Ức
• Ức lòng
• Ức oan
• Ức vạn
ƯNG
• Ưng
• Ưng bụng
• Ưng đương
• Ưng chịu
• Ưng nạp
• Ưng thuận
ỨNG
• Ứng
• Ứng biến
• Ứng dụng
• Ứng hiệp
• Ứng hoá tam thanh
• Ứng mộng bảo sanh
• Ứng tiếp
ƯỚC
• Ước
• Ước giao
• Ước hẹn
• Ước mong
• Ước mơ
• Ước nguyền
• Ước nguyện
• Ước vọng
ƯỚM
• Ướm
• Ướm chín
• Ướm hỏi
• Ướm trở
ƯỠN
• Ưỡn
ƯƠNG
• Ương
• Ương yếu
ƯỚT
• Ướt
• Ướt át
ƯU
• Ưu
• Ưu ái
• Ưu dân
• Ưu hoạn
• Ưu hương
• Ưu liệt
• Ưu lự
• Ưu phiền
• Ưu quân
• Ưu sầu
• Ưu tiên
• Ưu toan
• Ưu tú
• Ưu tư
• Ưu thế
• Ưu thắng liệt bại
• Ưu thời mẫn thế

|