TỪ NGỮ ĐIỂN CỐ CAO ĐÀI

 

 

Danh mục vần TH

 

THA

Tha

Tha bang

Tha chủng

Tha giác

Tha hương

Tha nhân

Tha phương

Tha quả vong căn

Tha tín

Tha thứ

Tha thướt

 

THÀ

Thà

Thà cam

Thà xuống Âm Cung chia khổ tội

 

THẢ

Thả

Thả lá

Thả lá hồng

 

THÁC

Thác

Thác sống

 

THÁCH

Thách

 

THẠCH

Thạch bàn

Thạch động

Thạch Sùng Vương Khải

 

THAI

Thai

Thai bào

 

THÁI

Thái Ất Thiên Tôn

Thái Bạch

Thái Bạch Kim Tinh

Thái bình

Thái Bình Dương

Thái căn tánh định

Thái Công Tướng Phụ

Thái Cực

Thái Cực Thánh Hoàng

Thái dương

Thái độ

Thái hoà

Thái Hộ Lương Công

Thái lai

Thái quá bất cập

Thái Sơn

Thái Tây

Thái thậm

Thái Thú

Thái Thuận

Thái Thượng

Thái Thượng Đạo Tổ

Thái Thượng Lão Quân

 

THÀI

Thài

 

THẢI

Thải

 

THÃI

Thãi

 

THAY

Thay

Thay duyên đổi nợ

Thay đen đổi trắng

Thay đổi

Thay lòng

Thay mặt

Thay thân Tạo hoá

Thay thế

Thay Trời tạo thế

Thay xiêm đổi áo

 

THÀY

Thày lay

 

THẢY

Thảy

 

THAM

Tham

Tham danh lợi

Tham danh chác lợi

Tham danh trục lợi

Tham dục

Tham dự

Tham gian bạo ngược

Tham giàu phụ khó

Tham lam

Tham lạm

Tham lê bỏ lựu

Tham lựu bỏ đào

Tham nhũng

Tham phú

Tham phú phụ bần

Tham tàn

Tham tâm

Tham thì phải thâm

Tham thiền

Tham thiền nhập định

Tham vọng

 

THÁM

Thám

 

THẢM

Thảm

Thảm bại

Thảm đạm

Thảm hoạ

Thảm kinh

Thảm khổ

Thảm khốc

Thảm não

Thảm sầu

Thảm tín

Thảm thiết

Thảm thương

Thảm trạng

 

THAN

Than

Than khóc

Than ôi

Than thở

Than van

Than vãn

 

THÁN

Thán

Thán oán

 

THẢN

Thản

Thản nhiên

 

THANG

Thang

Thang mây

Thang thuốc

Thang Trời

Thang Võ

Thang vô ngằn

 

THÁNG

Tháng

Tháng lụn năm chầy

Tháng lụn ngày qua

Tháng Thuấn ngày Nghiêu

 

THẢNG

Thảng

Thảng mảng

Thảng như

 

THANH

Thanh

Thanh âm

Thanh bạch

Thanh bai

Thanh bần

Thanh bần thường lạc

Thanh bình

Thanh bường

Thanh cao

Thanh Cân

Thanh cung

Thanh chước

Thanh danh

Thanh đạm

Thanh Đạo

Thanh giá

Thanh khí

Thanh khí ứng cầu

Thanh lặng

Thanh lâu

Thanh liêm

Thanh liêm chánh trực

Thanh loan

Thanh long

Thanh my

Thanh minh

Thanh niên

Thanh nhã

Thanh nhàn

Thanh phong

Thanh quang

Thanh sắc

Thanh sơn

Thanh Sơn Đạo Sĩ

Thanh sử

Thanh tao

Thanh tâm

Thanh tâm quả dục

Thanh Tâm Tài Nữ

Thanh tân

Thanh tịnh

Thanh Tịnh Đại Hải Chúng

Thanh thản

Thanh thao

Thanh thế

Thanh Thiên

Thanh thoát

Thanh trừng

Thanh trược

Thanh u

Thanh vắng

Thanh vân

Thanh Vương Đại Hội

Thanh xuân

Thanh xuân bất tái

 

THÁNH

Thánh

Thánh ân

Thánh bất khả tri

Thánh cốc

Thánh cốt

Thánh chất

Thánh chỉ

Thánh chúa

Thánh danh

Thánh đản

Thánh đạo

Thánh địa

Thánh điện

Thánh đức

Thánh giáo

Thánh Giáo Tâm Kinh

Thánh hiền

Thánh hình

Thánh huấn

Thánh Huấn Giác Mê

Thánh ý

Thánh Kinh

Thánh lịnh

Thánh luật

Thánh miếu

Thánh Ngôn

Thánh nhân

Thánh Nho

Thánh nhơn

Thánh phàm

Thánh quân

Thánh tâm

Thánh Toà trấn tịnh

Thánh Toà lợp tranh

Thánh Tông Đồ

Thánh Tử Đạo

Thánh Tượng

Thánh thai

Thánh thân

Thánh Thần Tiên Phật chi chủ

Thánh Thất

Thánh Thất Cầu Kho

Thánh Thể

Thánh thót

Thánh trị

Thánh triết

Thánh truyền

Thánh trước hiền xưa

Thánh vệ

Thánh vị

Thánh vức

 

THÀNH

Thành

Thành bại

Thành công

Thành dạ

Thành danh

Thành đạo

Thành đạt

Thành đô

Thành độc Sớ văn

Thành ý

Thành kiên luỹ cố

Thành kiến

Thành kỉnh

Thành khẩn

Thành lập

Thành luỹ

Thành ngữ

Thành phục

Thành quả

Thành sầu

Thành song

Thành sự do Thiên

Thành tâm

Thành tích

Thành tín

Thành tựu

Thành Thang

Thành thật

Thành thị

Thành thị thôn quê

Thành trì

Thành Uổng Tử

Thành vàng

 

THẢNH

Thảnh thoát

Thảnh thơi

 

THẠNH

Thạnh

Thạnh hành

Thạnh nộ

Thạnh suy

Thạnh tình

Thạnh thế

Thạnh trị

 

THAO

Thao

Thao lược

Thao tác

Thao thức

 

THÁO

Tháo

 

THẢO

Thảo

Thảo căn mộc bổn

Thảo Đường

Thảo hài

Thảo luận

Thảo mộc

Thảo ngay

Thảo xá

Thảo Xá Hiền Cung

 

THÁP

Tháp

Tháp Đầu Sư

Tháp Giáo Tông

Tháp Hộ Pháp

Tháp tùng

 

THAU

Thau

 

THẮC

Thắc mắc

Thắc thẻo

 

THĂM

Thăm

Thăm lom

Thăm thẳm

Thăm ván bán thuyền

Thăm viếng

 

THẮM

Thắm

Thắm nghĩa nặng tình

Thắm đậm

Thắm thiết

 

THẲM

Thẳm

 

THĂNG

Thăng

Thăng bằng

Thăng cấp

Thăng chức

Thăng hà

Thăng Long

Thăng phẩm vị

Thăng quan tiến chức

Thăng Thiên

Thăng thưởng

Thăng trầm

 

THẮNG

Thắng

Thắng cảnh

Thắng khổ

Thắng lợi

 

THẰNG

Thằng

 

THẲNG

Thẳng

Thẳng băng

Thẳng dùn

Thẳng rẳng

 

THẮP

Thắp

Thắp nhang

 

THẮT

Thắt

Thắt chặt

Thắt dạ

Thắt ngặt

 

THÂY

Thây

Thây đi thịt chạy

Thây phàm

Thây thi

 

THẤY

Thấy

Thấy lân

 

THẦY

Thầy

Thầy giáo

Thầy pháp

 

THÂM

Thâm

Thâm ân

Thâm cảm

Thâm giao

Thâm hiểm

Thâm ý

Thâm niên

Thâm nhiễm

Thâm nhập

Thâm sơn cùng cốc

Thâm tạ

Thâm tâm

Thâm tình

Thâm thuý

Thâm trầm

Thâm trọng

Thâm u

Thâm uyên

Thâm viễn

 

THẤM

Thấm

Thấm nghĩa nặng tình

Thấm nhuần

Thấm thía

Thấm thoát

 

THẦM

Thầm

Thầm lặng

Thầm vái

 

THẨM

Thẩm mỹ

Thẩm phán

Thẩm quyền

 

THẬM

Thậm

Thậm chí

Thậm thâm

Thậm trọng

 

THÂN

Thân

Thân ái

Thân bằng

Thân bằng cố hữu tế lễ

Thân bèo

Thân cận

Thân côi

Thân cuội

Thân danh

Thân goá

Thân giống Càn khôn

Thân hầu phận thiếp

Thân hình

Thân hoà làm một

Thân Hồ tâm Hớn

Thân hữu

Thân mật

Thân mòn gối mỏi

Thân mòn gối run

Thân nghiệp

Thân phàm

Thân phận

Thân phụ

Thân quyến

Thân sanh

Thân sinh

Thân sơ

Thân tằm

Thân tâm

Thân tín

Thân tộc

Thân thể

Thân thích

Thân thiện

Thân thiết

Thân trăm tuổi

 

THẦN

Thần

Thần an

Thần bí

Thần biến

Thần bút

Thần cơ

Thần cư tại Nhãn

Thần chú

Thần chung

Thần dân

Thần đồng

Thần đồng vấn Khổng Tử

Thần giao

Thần hao

Thần Hoàng

Thần Hoàng Bổn Cảnh

Thần hôn

Thần linh

Thần Linh Học

Thần lực

Thần minh

Thần Nông

Thần Nữ

Thần nhường quỷ sợ

Thần phẩm

Thần Phù

Thần sắc

Thần sầu quỷ khốc

Thần Siêu Thánh Quát

Thần Tiên chẳng xa

Thần tỉnh

Thần tỉnh mộ khang

Thần Tú

Thần tướng

Thần Thánh

Thần thoại

Thần thông

Thần thông biến hoá

Thần Thông Nhơn

Thần thức

Thần trí

Thần oai

Thần vị

Thần xỉ

 

THẪN

Thẫn thờ

 

THẬN

Thận

Thận chung

Thận độc

Thận trọng

 

THẤP

Thấp

Thấp chủm

Thấp hèn

Thấp kém

Thấp thoáng

Thấp thỏi

Thấp thỏm

 

THẬP

Thập ác

Thập Can

Thập Điện Diêm Cung

Thập Điện Từ Vương

Thập hình

Thập loại

Thập niên đăng hỏa

Thập Nhị Bảo Quân

Thập Nhị Chi

Thập Nhị Đẳng Cấp

Thập Nhị Khai Thiên

Thập Nhị Thời Quân

Thập Nhị Thời Thần

Thập phương

Thập phương chư Phật

Thập tam ma

Thập Tự Giá

Thập Thiên Can

Thập thò

Thập trai

 

THẤT

Thất

Thất bại

Thất bát

Thất bửu

Thất Công

Thất chánh

Thất chí

Thất chơn truyền

Thất đạo

Thất đạo tâm

Thất đầu xà

Thất đức

Thất gia

Thất giáo

Thất hiếu

Thất học

Thất kinh

Thất kỳ truyền

Thất khiêm cung

Thất lễ

Thất mùa

Thất Nương Diêu Trì Cung

Thất Nương khêu đuốc đạo đầu

Thất ngôi diệt vị

Thất nghĩa

Thất nghiệp

Thất phách

Thất phu

Thất quốc

Thất Sơn

Thất tịch

Thất tiết

Thất tín

Thất tinh

Thất tình

Thất Tổ

Thất tuần

Thất Thánh

Thất thập cổ lai hy

Thất thập nhị địa

Thất thập nhị hiền

Thất thế

Thất thể đạo

Thất thệ

Thất thố

Thất thủ

Thất thường

Thất truyền

Thất ức

Thất ức niên

Thất vị

Thất vọng

 

THẬT

Thật

Thật hành

Thật lòng

Thật tình

Thật thà

 

THÂU

Thâu

Thâu các Đạo hữu hình

Thâu đa

Thâu đa nạp thiểu

Thâu đêm

Thâu đoạt

Thâu hoạch

Thâu hồi

Thâu nhập

Thâu phục

Thâu thập

 

THẤU

Thấu

Thấu đáo

Thấu hiểu

Thấu triệt

 

THE

The

 

THÈM

Thèm

Thèm khát

Thèm muốn

 

THEN

Then

Then chốt

 

THẸN

Thẹn

Thẹn bóng

Thẹn thuồng

 

THEO

Theo

Theo dõi

Theo chơn dõi bước

 

THÈO

Thèo lẻo

 

THÉP

Thép

 

THÊ

Thê

Thê lương

Thê lương thảm đạm

Thê noa

Thê nhi

Thê tử

Thê thảm

Thê thằng tử phược

Thê thiếp

Thê vinh tử ấm

 

THẾ

Thế

Thế cuộc

Thế chiến

Thế đạo

Thế giái

Thế gian

Thế giới

Thế giái ba ngàn

Thế giới như nhà

Thế hệ

Thế kỷ

Thế luật

Thế lực

Thế lực phàm phu

Thế phiệt

Thế sự

Thế tình

Thế Tôn

Thế tục

Thế thái nhân tình

Thế Thiên hành hoá

Thế thời

Thế thượng

Thế thượng vô nan sự

Thế trần

Thế trọng

Thế vị

 

THỀ

Thề

Thề non

Thề non hẹn biển

Thề nguyền

 

THỂ

Thể

Thể cách

Thể chất

Thể diện

Thể hài

Thể hoà

Thể lệ

Thể phách

Thể pháp

Thể Thiên hành chánh

Thể Thiên hành đạo

Thể Thiên hành hoá

Thể thống

 

THỆ

Thệ

Thệ hải sơn minh

Thệ nhứt tâm

 

THÊM

Thêm

 

THỀM

Thềm

Thềm quế

 

THÊNH

Thênh thang

Thênh thênh

 

THẾ

Thế phát

 

THẾT

Thết đãi

 

THÊU

Thêu

Thêu dệt

 

THI

Thi

Thi ân

Thi ân bố đức

Thi ân tế chúng

Thi cử

Thi đàn

Thi điếu

Thi đua

Thi gia

Thi hài

Thi hành

Thi hào

Thi hữu

Thi lá

Thi nhân

Thi nhân tế chúng

Thi phàm

Thi pháp

Thi phú

Thi rượu đờn cờ

Thi thố

Thi thơ

Thi thơ chi phố

Thi thư

Thi xã

 

THÍ

Thí

Thí mạng

Thí nghiệm

Thí pháp

Thí phát

Thí tài

Thí tiền thí bạc

Thí thân

 

THÌ

Thì

Thì giờ

 

THỈ

Thỉ

Thỉ chung

 

THỊ

Thị

Thị chi chứng quả

Thị dục

Thị khi

Thị không thị sắc

Thị nữ

Thị nhận

Thị nhục

Thị phi

Thị thành

Thị thiềng

 

THÍCH

Thích

Thích Ca

Thích chí

Thích Đạo

Thích giáo

Thích lưng con

Thích Tiên Nho

Thích thú

Thích trung

Thích ứng

 

THIÊM

Thiêm thiếp

 

THIỀM

Thiềm

Thiềm cung

 

THIÊN

Thiên

Thiên ân

Thiên Bàn

Thiên binh

Thiên các

Thiên can

Thiên cảnh

Thiên cổ

Thiên Công

Thiên cơ

Thiên cung

Thiên chiếu

Thiên chức

Thiên đàng

Thiên đạo

Thiên địa

Thiên địa giao thới

Thiên địa giao thừa

Thiên địa hữu âm dương

Thiên địa tất giai tri

Thiên địa vô tư

Thiên điều

Thiên điều tại thế

Thiên đình

Thiên định

Thiên đồ

Thiên đường

Thiên hạ

Thiên hạ đại đồng

Thiên Hậu

Thiên hình vạn trạng

Thiên Hỷ Động

Thiên hương

Thiên hương quốc sắc

Thiên ý

Thiên kiều

Thiên kim

Thiên khai Huỳnh Đạo

Thiên la đia võng

Thiên lao

Thiên lịch

Thiên lý

Thiên lôi

Thiên luật

Thiên lực

Thiên lương

Thiên ma bách chiết

Thiên mạng

Thiên môn

Thiên niên

Thiên ngoại

Thiên Nguơn Bát Quái Mạo

Thiên nhai hải giác

Thiên nhan

Thiên Nhãn

Thiên nhiên

Thiên phẩm

Thiên phong

Thiên phong dĩ hạ

Thiên phục

Thiên Quân

Thiên sai

Thiên sắc

Thiên sầu địa thảm

Thiên số

Thiên số nan đào

Thiên sứ

Thiên tác nghiệt du khả di

Thiên tai

Thiên tai địa ách

Thiên tài

Thiên tải

Thiên tánh

Thiên tào

Thiên tâm

Thiên Tiên

Thiên Tôn

Thiên tùng nhân nguyện

Thiên tư

Thiên tứ

Thiên tử

Thiên tước

Thiên Thai

Thiên Thai bảy lão

Thiên Thai Kiến Diện

Thiên Thần

Thiên thi

Thiên thiều

Thiên thơ

Thiên thời

Thiên thời địa lợi

Thiên thu

Thiên thư

Thiên trị

Thiên tru địa lục

Thiên văn

Thiên vận

Thiên vị

Thiên võng

 

THIỀN

Thiền

Thiền định

Thiền lâm

Thiền môn

 

THIỂN

Thiển cận

 

THIỆN

Thiện

Thiện ác

Thiện ác đáo đầu

Thiện cảm

Thiện căn

Thiện chí

Thiện duyên

Thiện lương

Thiện mỹ

Thiện nam chơn nữ

Thiện nam tín nữ

Thiện nam tử thiện nữ nhân

Thiện niệm

Thiện nguyện

Thiện quả

Thiện tâm

Thiện tín

 

THIÊNG

Thiêng

Thiêng liêng

Thiêng liêng chi vị

Thiêng Liêng Hằng Sống

 

THIẾP

Thiếp

Thiếp thê

 

THIỆP

Thiệp

Thiệp hồng

 

THIẾT

Thiết

Thiết đãi

Thiết đàn

Thiết giáp

Thiết yếu

Thiết lập

Thiết lễ

Thiết nghĩ

Thiết Quả

Thiết tưởng

Thiết tha

Thiết thạch

Thiết thực

 

THIỆT

Thiệt

Thiệt bỏ giả vay

Thiệt chiến

Thiệt dạ

Thiệt giả

Thiệt hại

Thiệt hành

Thiệt hơn

Thiệt hư

Thiệt tướng

Thiệt thà

Thiệt thòi

 

THIÊU

Thiêu

Thiêu huỷ

Thiêu tàn

Thiêu thân

 

THIẾU

Thiếu

Thiếu hụt

Thiếu niên

Thiếu sót

Thiếu thốn

 

THIỀU

Thiều

Thiều quang

Thiều quang nhị bá

 

THIỂU

Thiểu

Thiểu đức

Thiểu khí

Thiểu số

 

THÌN

Thìn

Thìn dạ

Thìn lòng

 

THINH

Thinh

Thinh âm

Thinh danh

Thinh giá

Thinh không

Thinh sắc

Thinh thế

Thinh thinh

 

THÍNH

Thính

Thính đắc ngã ngôn

Thính giả

Thính Thiện

 

THÌNH

Thình lình

 

THỈNH

Thỉnh

Thỉnh an

Thỉnh giáo

Thỉnh nguyện

Thỉnh nhập

Thỉnh Thoảng

 

THỊNH

Thịnh

Thịnh nộ

Thịnh soạn

Thịnh vượng

 

THỊT

Thịt

Thịt nát xương tan

Thịt xáo nồi da

Thịt xương

 

THIU

Thiu thiu

 

THỎ

Thỏ bạc

Thỏ chết chồn rầu

Thỏ lặn ác tà

Thỏ ngọc

Thỏ thẻ

 

THỌ

Thọ

Thọ ân

Thọ đắc kỳ truyền

Thọ giáo

Thọ giới

Thọ hình thập tự

Thọ khảo

Thọ khổ

Thọ lãnh

Thọ lịnh

Thọ mạng

Thọ ơn

Thọ pháp

Thọ phong

Thọ phục

Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung

Thọ sanh

Thọ sắc

Thọ tang

Thọ tỷ Nam san

Thọ tội

Thọ tước

Thọ trì

Thọ truyền bửu pháp

 

THOA

Thoa

 

THOẢ

Thoả

Thoả chí

Thoả lòng

Thoả mãn

Thoả nguyền

Thoả nguyện

Thoả tình

Thoả thích

Thoả thuận

 

THOÁI

Thoái bộ

Thoái vị

 

THOẠI

Thoại khí

Thoại vũ

 

THOÀN

Thoàn

Thoàn mây

 

THOÁNG

Thoáng

Thoáng qua

 

THOẢNG

Thoảng

 

THOÁT

Thoát

Thoát ách tiêu tai

Thoát đọa luân hồi

Thoát khổ

Thoát ly

Thoát lưới

Thoát mê

Thoát mê tân

Thoát nạn

Thoát phàm

Thoát tai

Thoát tội

Thoát tục

Thoát tục siêu phàm

Thoát thân

Thoát trần

Thoát trần đăng Tiên

Thoát xác

 

THOẠT

Thoạt

Thoạt còn thoạt mất

 

THÓC

Thóc

 

THỌC

Thọc

Thọc thò

 

THOI

Thoi

Thoi đưa

 

THÓI

Thói

Thói bộc dâu

Thói bướm ong

Thói đời

Thói yến anh

Thói mạt

Thói tệ

Thói tục

Thói thường

 

THON

Thon von

 

THỎN

Thỏn mỏn

 

THONG

Thong dong

Thong dung

Thong thả

 

THÕNG

Thõng

 

THÔ

Thô

Thô bỉ

Thô kệch

Thô kịch

Thô sơ

Thô tục

 

THỐ

Thố lộ

Thố tử hồ bi

 

THỔ

Thổ

Thổ địa Long Thần

Thổ võ

 

THÔI

Thôi

Thôi nôi

Thôi thúc

 

THỐI

Thối

Thối bộ

Thối bước

Thối bước lui chơn

Thối chí

Thối chí ngã lòng

Thối lui

Thối nhập

Thối tâm

Thối trầm

 

THỔI

Thổi

 

THÔN

Thôn

Thôn dã

Thôn lân

Thôn lý

Thôn quê

 

THỐN

Thốn thiếu

 

THỔN

Thổn thức

 

THÔNG

Thông

Thông cảm

Thông công

Thông đồng

Thông gia

Thông hiểu

Thông minh

Thông ngôn

Thống ngự vạn vật

Thông suốt

Thông Sự

Thông thái

Thông Thiên định Địa

Thông Thiên Giáo Chủ

Thông thuộc

Thông thương

Thông tri

Thông truyền

 

THỐNG

Thống Đốc

Thống hiệp

Thống khổ

Thống ngự vạn vật

Thống nhứt

Thống quản

Thống thiết

Thống trị

Thống truyền

 

THỐT

Thốt

 

THƠ

Thơ

Thơ bé

Thơ cảo

Thơ cưu

Thơ chim

Thơ đàn

Thơ đào

Thơ hương

Thơ ngây

Thơ phú

Thơ sanh

Thơ song

Thơ tín

Thơ thẩn

Thơ thới

Thơ trang

Thơ truyện

Thơ viện

 

THỜ

Thờ

Thờ cha kính mẹ

Thờ chồng

Thờ mất như còn

Thờ phượng

Thờ phụng

Thờ thân

 

THỞ

Thở

Thở than

 

THỢ

Thợ mộc

Thợ rèn

Thợ tạo

 

THỚI

Thới

 

THỜI

Thời

Thời cơ

Thời cuộc

Thời duy Thiên vận

Thời đại

Thời gian

Thời giờ

Thời kỳ

Thời lai

Thời Quân

Thời tiết

Thời tự điều hoà

Thời thế

Thời thừa lục long

 

THƠM

Thơm

Thơm phức

Thơm tho

 

THỚT

Thớt dao

 

THU

Thu

Thu ba

Thu cúc

Thu không

Thu nhặt

Thu phân

Thu thập

 

THÚ

Thú

Thú cầm

Thú hình

Thú tiên

Thú tính

Thú trùng

Thú vị

 

THÙ

Thù

Thù hận

Thù hiềm

Thù nghịch

Thù oán

Thù tạc

 

THỦ

Thủ

Thủ bộ

Thủ cơ

Thủ giới

Thủ hiếu

Thủ lễ

Thủ lợi

Thủ nghĩa

Thủ phận

Thủ tiết

Thủ túc

Thủ thân

Thủ thường

 

THỤ

Thụ

Thụ huấn

 

THUA

Thua

Thua sút

 

THÙA

Thùa

 

THUẤN

Thuấn

Thuấn Đế

Thuấn Nghiêu

 

THUẦN

Thuần dương

Thuần hậu

Thuần khiết

Thuần lương

Thuần phong

Thuần phong mỹ tục

Thuần tâm mỹ tánh

Thuần tuý

 

THUẬN

Thuận

Thuận buồm xuôi gió

Thuận căn

Thuận dưới hoà trên

Thuận hoà

Thuận mạng

Thuận nghịch hành

Thuận nhơn tâm

Thuận tiện

Thuận tùng

Thuận Thiên

 

THUẬT

Thuật

 

THÚC

Thúc

Thúc đẩy

Thúc giục

Thúc hối

Thúc phược

Thúc Tề

Thúc thách

Thúc thủ

 

THỤC

Thục

Thục Đế

Thục nữ

 

THUÊ

Thuê

 

THUẾ

Thuế

Thuế sưu

 

THUI

Thui thủi

 

THÚI

Thúi

Thúi hôi

Thúi òm

Thúi ruồng

Thúi tha

 

THUỲ

Thuỳ dương

Thuỳ từ mẫn khổ

 

THUỶ

Thuỷ

Thuỷ chung

Thuỷ chung như nhứt

Thuỷ quái

Thuỷ tai

Thuỷ tổ

Thuỷ thổ

Thuỷ triều

 

THỤY

Thụy vũ

 

THUYÊN

Thuyên bổ

Thuyên dũ

Thuyên giảm

 

THUYỀN

Thuyền

Thuyền bá

Thuyền Bát Nhã

Thuyền Đạo

Thuyền huệ

Thuyền lan

Thuyền linh

Thuyền nan

Thuyền quày lại bến

Thuyền quyên

Thuyền rồng

Thuyền sen

Thuyền tình

Thuyền từ

Thuyền trưởng

 

THUYẾT

Thuyết đàn

Thuyết đạo

Thuyết giáo

Thuyết pháp

Thuyết phục

 

THUNG

Thung dung

Thung cỗi huyên già

Thung đường

Thung huyên

 

THÚNG

Thúng

 

THỦNG

Thủng

Thủng thẳng

 

THUỐC

Thuốc

Thuốc cá

Thuốc độc

Thuốc men

 

THUỘC

Thuộc

Thuộc địa

Thuộc hạ

 

THUỞ

Thuở

Thuở xưa

 

THỤT

Thụt

Thụt lùi

 

THƯ

Thư

Thư hùng

Thư Hùng Kiếm

Thư hương

Thư nhạn

Thư sinh

Thư song

Thư tịch

Thư tín

Thư thả

Thư thái

Thư thới

 

THỨ

Thứ

Thứ dân

Thứ dung

Thứ lỗi

Thứ thê

 

THỬ

Thử

Thử thách

 

THƯA

Thưa

Thưa kiện

Thưa nhặt

Thưa thớt

 

THỪA

Thừa

Thừa cơ

Thừa dịp

Thừa hành

Thừa lịnh

Thừa long

Thừa nhàn

Thừa thế

Thừa ưa

 

THỬA

Thửa

Thửa nguyền

 

THỨC

Thức

Thức giấc

Thức lệ

Thức tỉnh

Thức thời

 

THỰC

Thực

Thực bẩt cầu bão

Thực chứng

Thực hành

Thực hiện

Thực nhơn tài

Thực tế

Thực thi

 

THỪNG

Thừng

 

THƯỚC

Thước

Thước cưu

Thước kiều

Thước ngọc khuôn vàng

 

THƯƠNG

Thương

Thương cẩu

Thương dương múa

Thương đau

Thương ghét

Thương hải tang điền

Thương hại

Thương hoa tiếc nguyệt

Thương khách

Thương yêu

Thương Lang

Thương mãi

Thương mến

Thương nghị

Thương nhớ

Thương phong bại tục

Thương sanh

Thương tâm

Thương tưởng

Thương thuyết

Thương xót

Thương vong

 

THƯỜNG

Thường

Thường dân

Thường lệ

Thường niên

Thường ngũ

Thường Sơn

Thường tình

 

THƯỞNG

Thưởng

Thưởng ban

Thưởng ngoạn

Thưởng phạt

Thưởng phong

Thưởng răn

 

THƯỢNG

Thượng

Thượng cầm hạ Thú

Thượng cổ

Thượng chưởng Tam thập lục Thiên

Thượng đẳng

Thượng Đế

Thượng giới

Thượng hạ

Thượng hạ khắc nhau

Thượng Hoàng

Thượng Học Y Nông

Thượng Hội

Thượng hương

Thượng lộ

Thượng lưu

Thượng nguơn

Thượng nguơn Thánh đức

Thượng Phẩm

Thượng Phẩm cung nghinh

Thượng phụ

Thượng Sanh

Thượng sĩ

Thượng sớ

Thượng tấn

Thượng tấu

Thượng Tiên hoa

Thượng Tiên tửu

Thượng Tiên trà

Thượng Tượng

Thượng Thiên

Thượng Thiên Hỗn Nguơn

Thượng Thọ

Thượng thông Thiên đàng

Thượng thừa

Thượng trí

Thượng trình

Thượng Trung Nhựt

Thượng uyển

 

THƯỚT

Thướt tha

 

THỨU

Thứu lãnh

 

 

 

 

 

 

 

 

TH

 

THA

1.- Tha là miễn chấp, tức bỏ qua, không trách cứ hoặc trừng phạt.

Như: Tha tội chết, tội ác trời đất không dung tha, nó xúc phạm đến mà vẫn được tha lỗi cho.

Thánh giáo Thầy dạy Giáo Sư Ngọc Kinh Thanh có câu: Thầy đã hiểu lòng con ăn năn sám hối, nên Thầy đã tha tội trước cho con rồi.

Xin tha hoạ gởi tai rơi,

Hồn linh nhờ có ơn Trời chứng minh.

(Kinh Thế Đạo).

Ai sau gót giây lâu như nói,

Xin người thương tha lỗi khi xưa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Tha là giữ chặt bằng miệng, bằng mỏ mà mang đi.

Như: Cọp tha xác con nai, chim quạ bay tha mồi, kiến tha lâu đầy tổ.

Kìa ong kiến tha mồi dành để,

Cơn khốn cùng có thể nuôi thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Tha là kẻ khác, cái khác. Như: Tha nhân, tha hương, tha bang, lòng vị tha.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nhớ công ơn Ðức Ngài, chúng ta phải noi theo gương vị tha và đức chí thành của Ðức Ngài, tức là phải quên mình để phục vụ, cố gắng làm nên để cho nhơn sanh hưởng nhờ và cương quyết theo hoài bão xây dựng cho đến mức thành công.

Với tánh vị tha người vẫn sẵn,

Và lòng tri túc tớ hằng yên.

(Thơ Huệ Ngàn).

 

 

THA BANG

他 邦

Tha: Khác. Bang: Nước.

Tha bang, đồng nghĩa với chữ “Ngoại bang”, là chỉ một nước khác, nước ngoài.

Như: Nền chính trị đất nước đang rối loạn, trong thì nịnh thần làm loạn ngoài thì giặc tha bang.

Nợ cung kiếm chiến chinh là nghiệp,

Giúp quốc dân sánh kịp tha bang.

(Kinh Cúng Chiến Sĩ).

Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,

Văn hoá so cũng kịp tha bang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THA CHỦNG

他 種

Tha: Khác. Chủng: Dòng, giống.

Tha chủng là khác giống, tức người nước khác. Ý chỉ dân tộc khác.

Như: Nước mình không ở, lại đi sống với tha chủng.

Tương lai gởi lại tay tha chủng,

Mai một thương cho đám việt kiều.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THA GIÁC

他 覺

Tha: Người khác. Giác: Tỉnh ngộ.

Tha giác là giác ngộ người khác. Mình biết sám hối tu hành là tự giác, rồi đi thức tỉnh người khác gọi là tha giác, hay giác tha.

Tồn tâm tự giác nhi tha giác,

Dưỡng tánh canh tân hựu nhựt tân.

(Thơ Thân Dân).

 

 

THA HƯƠNG

他 鄉

Tha: Khác. Hương: Làng.

Tha hương tức là nơi đất khách quê người, chẳng phải làng sinh sống của mình.

Thành ngữ “Viễn xứ tha hương 遠 處 他 鄉” là xứ lạ quê người.

Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Người (Thông Sự) phải chăm nom, binh vực những kẻ cô thế, bất câu người có Đạo hay là ngoại Đạo, hoặc là bị tai nạn thình lình, hoặc bị nghèo nàn, đói khó, hoặc bị bịnh hoạn, cô thân, hoặc bị tha hương lữ thứ, hoặc bị yếu tha già thải, người đặng trọn quyền buộc Phó Trị Sự phải liệu phương giúp đỡ.

Viễn xứ tha hương sầu quạnh quẽ,

Mây vầng Tần lãnh buổi chiều hôm.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THA NHÂN

他 人

Hay “Tha nhơn”.

Tha: Khác. Nhân (Nhơn): Người.

Tha nhân, còn đọc “Tha nhơn”, là người khác.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Sợ e gia đình nào mực thước, thảng có điều vô phúc ấy sẽ xử đứa làm nhục đó, hình phạt nặng nề hơn kẻ tha nhơn.

Lòng công bình trên dưới ngợi khen,

Tâm chánh trực tha nhân sùng kính.

(Điếu Văn Đầu Sư).

 

 

THA PHƯƠNG

他 方

Tha: Khác. Phương: Phương hướng.

Tha phương là phương khác, phương lạ. Như: Tha phương cầu thực.

Đức Chí Tôn dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: Thầy đã có lời dặn con về việc phổ độ tha phương thì con cứ đó mà làm. Nhưng trước hết phải hiệp nhau mà bàn tính.

Mẹ già bận nỗi khôn ai đỡ,

Con trẻ tha phương chẳng kẻ dìu.

(Đầu Sư Hương Hiếu).

Lạnh nào hơn cái lạnh tha phương,

Giá buốt chiều đông thắm hận trường.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

THA QUẢ VONG CĂN

Tha quả: Tha thứ quả nghiệp xấu đã gây ra từ kiếp trước. Vong căn 亡 根: Bỏ đi cái căn quả dữ đã tạo ra.

Tha quả vong căn là tha thứ căn quả.

Căn là cái gốc rễ của việc làm ác từ kiếp trước, gây ra tai hoạ cho kiếp này phải đền trả.

Do gốc rễ đó mà kiếp sống của con người phải thọ lãnh cái nghiệp quả: Nếu kiếp trước làm điều lành thì kiếp này nhận được thiện quả; nếu kiếp trước làm những điều hung ác thì kiếp này phải lãnh ác căn. Như vậy, căn tạo thành cái quả cho con người phải thọ nhận, nên người ta thường gọi căn quả hay căn nghiệp.

Chốn Tây phương đường đi thong thả,

Cõi Diêm Cung tha quả vong căn.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THA TÍN

他 信

Tha: Người khác, chỉ ngôi thứ ba. Tín: Tin tưởng.

Tha tín là tin tưởng nơi người khác.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp, Tha tín có nghĩa: Là ta biết quang tiền dụ hậu, ta tin nơi ông Thầy dạy ta học các bài vở để lập thân cho nên người cao quý, lại có nhiều người trong xã hội chẳng phải họ cố ý dạy ta học, nhưng cái sở hành của họ, mọi điều phải trái lành dữ tội phước, thì nó thường hiện ra trước mặt ta, đó là một bài học, nên chú ý, rồi ta mới gồm tất cả mọi sự hành vi của người đời, ta sẽ lập lại làm quyển sách thứ nhì nữa, ta mới cân phân, lừa lọc, tuyển chọn điều hay lẽ phải, ta đem để lên Linh Ðài (tức là khối óc của ta) đặng làm phương pháp bảo vệ trường tồn tánh mạng của ta ấy là Tha tín.

Lập vị dạy dỗ điều lành,

Tự Tín, Tha Tín sở hành tu thân.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

THA THỨ

Tha: Thả ra, xá, không chấp. Thứ: Tha, bỏ cho qua, thứ lỗi.

Tha thứ là bỏ qua không trách cứ hoặc trừng phạt. Như: Tha thức lỗi lầm cho chị ấy.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: không chuyện chi cần, Thầy không muốn làm nhọc chư Tiên và chư Thần, mỗi vị đều có trách nhiệm riêng, con hiểu à! Xem đó thì các con khá dè dặt, kỉnh Thần, Thánh cho lắm, vì Thầy là bực Chí Tôn, lòng hay quảng đại mà tha thứ, chớ Thần, Thánh, hễ các con có lỗi thì cứ Thiên điều mà quở phạt các con, nghe à!

Nhờ Hậu thổ xương tàn gìn giữ,

Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên.

(Kinh Tận Độ).

Chở che khách tục hay tha thứ,

Yêu mến tăng đồ biết vực binh.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Tập trẻ đặng rộng lòng tha thứ,

Thì trẻ đà lánh dữ gần hiền.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THA THƯỚT

Tha thướt, như chữ “Thướt tha”, là có dáng cao rủ dài xuống, chuyển động một cách mềm mại, uyển chuyển.

Tha thướt là mềm mại có vẻ dong dỏng cao, nói hình dáng của người phụ nữ đẹp.

Như: Chị ấy có dáng đi yểu điệu, tha thướt.

Bầy én dập dìu mừng ríu rít,

Khóm tòng tha thướt vẻ đoan trang.

(Thơ Hiến Pháp).

Tha thướt cành mai khoe trước ngõ,

Lẳng lơ chiếc bướm lượn ngoài sân.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

THÀ

Thà có nghĩa là đành thế còn hơn. Như: Thà chết không chịu nhục, thà chịu đau chứ không bôi thuốc.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy hằng nói với các con rằng: Thà là các con lỗi với Thầy thì Thầy vì lòng từ bi mà tha thứ, chớ chẳng nên động đến oai linh chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, vì họ chẳng tha thứ bao giờ.

Sợ đàn em dại u ơ,

Khổ thà cam khổ cũng thờ dưỡng nghi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÀ CAM

Thà: Đành thế còn hơn. Cam: Chịu, đành.

Thà cam là đành phải cam chịu, thà rằng cam chịu.

Nói về đức tính của Ngài Quan Thánh, Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Tánh Ðức Ngài trọng nghĩa như Thái Sơn, nay thấy kẻ yếu thế đã hạ mình, phần Tào Tháo thiết tha khẩn cầu, phần binh tướng Tào Tháo khép nép rơi lụy nên Ðức Ngài động lòng cảm niệm quay ngựa ra lịnh cho binh mã của mình dang ra để cho Tào Tháo và binh tướng đều chạy qua khỏi, không giết người dưới ngựa, mặc dù có lập sanh tử trạng, thà cam chịu chết để trả xong ơn nghĩa, từ cổ chí kim không có người thứ hai như vậy.

Thà cam vui chốn động Đào,

Đừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian.

(Kinh Thế Đạo).

Thà cam chết sống với tình,

Chia tay chẳng chịu sớm đành phụ nhau.

(Thất Nương Giáng Bút).

Sợ đàn em dại u ơ,

Khổ thà cam khổ cũng thờ dưỡng nghi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÀ XUỐNG ÂM CUNG CHIA KHỔ TỘI

Thà xuống Âm Cung chia khổ tội”, đây là một câu thơ của Thất Nương Diêu Trì Cung tỏ bày niềm hiếu đạo trong một một đàn cơ với Đức Hộ Pháp.

Do sự tích như sau: Cô Thất Nương Diêu Trì Cung có tái kiếp xuống trần vào một gia đình họ Vương ở Chợ Lớn. Cô sanh năm Canh Tý (1900), có tên là Vương Thị Lễ, thân phụ là Vương Quan Trân làm Đốc Phủ, thân mẫu là Đỗ Thị Sang, con gái của Tổng Đốc Nguyễn Hữu Phương.

Cô Vương Thị Lễ, sau một cơn bịnh nặng, trút hơi thở cuối cùng vào 25 tháng 10 năm Mậu Ngọ (Dl. 28-11-1918), hưởng dương được 19 tuổi.

Cô Vương Thị Lễ chết đi, cảm thấy mình chưa làm tròn chữ hiếu của người con, nên trong một đàn cơ vào năm Ất Sửu (1925), có mặt ông Vương Quan Trân, cô giáng cho cha bài thi như sau:

Cúi lạy thân sinh thứ lỗi con,

Âm dương tuy cách, hiếu tâm còn.

Hồn quê níu nắm tình non nước,

Phách quế náu nương dạ sắt son.

Ác lặn hiên Đoài già nhắc nhỏm,

Nguyệt trầm non Thái trẻ thon von.

Thấy nhau thêm tủi đường ly biệt,

Đá nát xương tan nghĩa vẫn còn.

Theo lời Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, thuyết đạo tại Đền Thánh vào ngày 22 tháng 11 năm Đinh Hợi (1947) nói Ngọc Hư Cung có cho biết:

Vào năm 1929, cô Thất Nương (Vương Thị Lễ) hay tin thân phụ là Vương Quang Trân quy liễu, bị tội đoạ nơi Diêm Cung. Cô Thất Nương lén bỏ Diêu Trì Cung đặng đi xuống Diêm Cung để thức tỉnh cha của cô.

Vì phế phận nên Ngọc Hư Cung bắt tội Thất Nương, làm cho Diêu Trì Cung náo nhiệt, nhứt là Bát Nương, sợ cho Thất Nương bị tội ấy mà thất vị. Bát Nương mới giáng cơ báo tin cho Đức Phạm Hộ Pháp hay và yêu cầu Đức Hộ Pháp xin với Ngọc Hư Cung ân xá cho Thất Nương.

Đức Hộ Pháp liền lập đàn cơ, Thất Nương giáng tỏ bày nỗi niềm hiếu đạo:

Hỏi ai có biết hiếu ra sao?

Chín chữ cù lao giá thế nào?

Hình vóc cảnh Tiên còn dính máu,

Chơn Thần nước Phật giữ thai bào.

Nỗi riêng chưa vẹn thân từ phụ,

Nghĩa nặng đeo đai phận má đào.

Thà xuống Âm Cung chia khổ tội,

Cha vầy, ai nỡ ngự đài cao!

Đức Hộ Pháp đọc bài thi rồi thì xúc động từ tâm, nghĩ vì luật pháp quá nghiêm khắc, e rằng mặt thế nầy không ai tránh khỏi tội. Cô Thất Nương vì chữ hiếu mà phải bị phạt, thế thì luật công bình có lẽ còn chỗ khuyết điểm chăng?

Đức Hộ Pháp quyết định dâng sớ lên Đức Chí Tôn xin tội cho Thất Nương.

Đức Chí Tôn nhận được tờ sớ, liền giao cho Đức Lý Thái Bạch và nói rằng: Con coi, Tắc nó trách Thầy, ắt nó chưa hiểu rõ Luật công bình Thiên Điều thế nào, con cũng nên đến giải cho nó đặng hiểu.

Vâng lịnh Đức Chí Tôn, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ nói cho Đức Hộ Pháp hiểu rõ và cho bài thi về Luật Công Bình Thiêng Liêng:

Phải giữ chơn linh đặng trọn lành,

Ngọc Hư toàn ngự đấng tinh anh.

Luật điều Cổ Phật không chừa tội,

Hình phạt Chí Tôn chẳng vị tình.

Chánh trực kinh oai loài giả dối,

Công bình vùa sức kẻ chơn thành.

Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,

Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình.

Sau đó, Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng có thuyết đạo vào thời tý tại Đền Thánh ngày 15 tháng 12 năm Đinh Hợi (1947) nói về chữ hiếu của Thất Nương Diêu Trì Cung như sau:

“Thất Nương vì hiếu, khi hay tin cha mẹ mắc tội nơi Phong đô, liền bỏ cung Diêu Trì, xuống đó độ rỗi nên bị Thiên Đình bắt tội.

Đã hai kiếp sanh khổ vì tình, vì hiếu, nên sau khi Thất Nương được đặc ân của Ngọc Hư Cung xá tội, liền tình nguyện đến cõi Âm Quang độ rỗi các chơn hồn thất thệ, đặng trả nghĩa cho Thầy.

Trước khi đi trong một kỳ đàn, Thất Nương có đến từ giã, để lời than với Đức Hộ Pháp và một vài chức sắc Hiệp Thiên Đài. Bài thơ ấy như sau:

Hai kiếp đeo đai lắm nợ trần,

Cái thân vì khổ bận cho thân.

Niềm duyên đổ ngọc lan phòng nguyệt,

Nỗi hiếu rơi châu tưới mộ phần.

Giữ đạo mong chờ ngày độc tịch,

Bán mình quyết cứu độ song thân.

Nước non càng ngắm càng thêm chạnh,

Chạnh thảm khi mang mảnh xác trần.

Thất Nương là một một vị Nữ Phật thứ bảy trong hàng Cửu Vị Nữ Phật mà còn không tránh khỏi khổ. Đó là bài học của tâm hồn trí não, nếu tránh được khổ thì trên con đường lập vị, chúng ta rất may duyên sẽ gặp đặng Đức Chí Tôn mà hằng ngày Người hằng trông ngóng”.

Thà xuống Âm Cung chia khổ tội,

Cha vầy, ai nỡ ngự đài cao!

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

THẢ

1.- Thả là buông ra, không cầm giữ, để tự do hoạt động. Như: Thả chó, thả tù binh, thả thuyền xuống nước.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con.

Rước voi phá mã đào lăng miếu,

Thả rắn xua ong nhiễu điện tà.

(Đạo Sử).

Trai đừng thấy đỗ hoa vội vã,

Thả con ong nút phá nhụy hồng.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thả là bỏ xuống dòng nước nhằm một một mục đích nào đó.

Như: Thả cá nuôi, thả rau muống dưới ao, thả rong, thả theo dòng trôi.

Lời hẹn xưa còn vầng nguyệt chứng,

Hương thề nay thả giữa dòng trôi.

(Thất Nương Giáng Bút).

Trông tin nhạn về đông mòn mỏi,

Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Thả là buông cho rũ thẳng xuống.

Như: Thả mành cửa che gió, máy bay thả dù, thuyền câu thả lưới, đầu thả tóc.

Nhưng choàng ngang trên đầu một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí dài một mí vắn, ngay đầu tóc có giắt một bông sen.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THẢ LÁ

Thả: Bỏ xuống dòng nước nhằm một một mục đích nào đó. Lá: Bộ phận của cây, mọc ở cành, nhánh.

Thả lá viết bài thơ vào chiếc lá, rồi đem thả trôi theo dòng nước.

Do tích: Vu Hựu đời Đường nhặt được chiếc lá đỏ trong dòng ngự câu trôi ra, có đề bài thơ rằng: Lưu thuỷ hà thái cấp, thâm cung tận nhật nhàn, ân cần tạ hồng diệp, hảo khứ đáo nhân gian 流 水 何 太 急, 深 宮 盡 日 閒. 慇 勤 謝 紅 葉, 好 去 到 人 間, nghĩa là nước chảy sao vội quá, trong cung sâu trôi suốt ngày, ân cần từ giã chiếc lá đỏ, hãy đi tới nhân gian cho tốt.

Vu Hựu cũng đề một bài thơ vào chiếc lá khác thả trên giòng nước cho trôi vào cung. Cung nữ là Hàn Thúy Tần nhặt được cất đi.

 Mười năm sau nhà vua có dịp thải cung nữ, tình cờ Vu Hựu cùng Hàn Thúy Tần kết duyên với nhau, cùng đem chiếc lá đỏ có đề thơ khi trước ra coi, té ra chiếc lá đề thơ là người mối Thuý Tần có thơ rằng: Nhất liên thi cú tuỳ lưu thuỷ, thập tải ưu tư mãn tố hoài, kim nhật đô thành loạn phượng hữu, phương tri hồng diệp thị lương môi 一 聯 詩 句 隨 流 水, 十 載 幽 思 滿 素 懷. 今 日 都 成 鸞 鳳 友, 方 知 紅 葉 是 良 媒, nghĩa là một tập câu thơ theo nước chảy, nỗi nhớ thầm chứa chất trong lòng mười năm, ngày nay đều thành bạn loan phượng, mới biết lá đỏ là người mối tốt.

Xem: Lá Hồng.

Khó toan thả lá trao lời ngọc,

Không thể biên thư gửi gió ngàn.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THẢ LÁ HỒNG

Thả: Bỏ xuống dòng nước nhằm một một mục đích nào đó. Lá hồng: Hay lá vàng, là lá cây bị úa vàng sắp rụng.

Thả lá hồng tức đề thơ trên chiếc lá hồng rồi thả xuống dòng ngự câu.

Do tích cung nữ Hàn Thúy Tần và Vu Hựu đề thơ trên lá hồng, thả xuống dòng nước, trao đổi cho nhau.

Sau Hai người tình cờ kết duyên nhau, cho chiếc lá hồng là vật đã làm mai mối.

Xem: Lá hồng.

Trông tin nhạn về đông mòn mỏi,

Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÁC

Thác là chết. Như: Sống thác, sống gởi thác về.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Sự thác cũng có khi vui mà cũng có lúc buồn. Người thế nếu biết sống, nghĩa là biết dụng mình cho có ích vào xã hội, biết dưỡng tánh tu thân, thì sự thác chẳng qua là sự mong mỏi của kẻ hành trình đã xong trách nhậm, trở về phục sự đặng lãnh phần thưởng xứng đáng mà thôi.

Âm đài gông tróng sẵn sàng,

Chờ khi thác xuống cổ mang hành hình.

(Kinh Sám Hối).

Không đành nói thác ra ma.

Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÁC SỐNG

Thác: Chết. Sống: Có sinh khí và hoạt động.

Thác sống, như chữ “Sống thác”, là chỉ việc chết và sống của con người.

Thác sống còn dùng để chỉ thái độ quyết liệt, một mất một còn.

Xem: Sống thác.

Niềm chồng vợ vui buồn chung cộng,

Chữ ái ân thác sống gởi thịt xương.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÁCH

Thách là nói khích nhằm làm cho người khác dám đương đầu một việc gì đó, hoặc thi tài với mình.

Như: Thách dám làm việc ấy, thách đấu gươm, thách nhau cùng chạy về nhà, thử thách.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, có đoạn: Quỷ Vương đến trước Bạch Ngọc Kinh xin hành xác và thử thách các con. Thầy chẳng chịu cho hành xác.

Dụng văn hoá trau tria nữ phách,

Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẠCH BÀN

石 盤

Thạch: Đá. Bàn: Cái mâm.

Thạch bàn là phiến đá lớn như cái mâm, ở Bàn Khê trên dòng sông Vị, nơi Lữ Vọng sống ẩn dật, ngồi câu cá khi chưa gặp thời.

Nghĩa bóng: Chỉ nơi ẩn dật.

Xem: Lữ Vọng.

Tử Nha ngồi chốn thạch bàn,

Thả câu sông Vị ẩn tàng Thiên cơ.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THẠCH ĐỘNG

石 峒

Thạch: Đá. Động: Cái hang núi, hang động.

Thạch động là cái hang núi, động bằng đá, chỉ nơi tu hành hoặc nơi các vị Tiên ở.

Như: Các vị Tiên thường vào thạch động để tu hành.

Chẳng ham danh lợi chẳng mê trần,

Thạch động tu hành thân độ thân.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THẠCH SÙNG VƯƠNG KHẢI

石 崇 王 愷

Thạch Sùng 石 崇 người đời Tây Tấn, tên chữ là Quý Luân, hiệu là Tề Nô, ông có tư chất thông minh, nhiều mưu trí ngay từ thuở nhỏ. Cha ông là Thạch Bào, lúc gần chết, chia gia tài cho các con thì Thạch Sùng được phần ít nhất. Bà vợ thấy vậy hỏi chồng: Tại sao không chia đều cho các con?

Thạch Bào đáp: Tuy bây giờ chia cho nó ít, nhưng ngày sau nó sẽ giàu hơn mấy đứa kia gấp bội.

Năm 20 tuổi, Thạch Sùng nhờ tài năng nên được bổ làm quan lệnh Tu Vũ, rồi sau đổi ra làm Thái thú Thành Dương. Đến đời Tấn Vũ Đế, Thạch Sùng làm Thứ sử Kinh Châu, kiêm chức Hiệu úy Nam man. Nhờ tư thông với giặc cướp, cướp của những người đi buôn, nên chẳng bao lâu, Thạch Sùng trở nên đại phú.

Thạch Sùng cất một biệt thự rất tráng lệ ở Lũng Kim Cốc dành cho người thiếp yêu, xinh đẹp là Lục Châu ở và cùng với các bạn là Vương Khải, Dương Tú thường hội họp tại đây để ăn uống, chơi bời xa xỉ, nổi tiếng là nhân vật giàu có nhứt đương thời.

Trong triều thời bấy giớ có vị Tướng quốc là Tư Mã Luân tin dùng một gia thần là Tôn Tú.

Tôn Tú nghe nói Thạch Sùng có nàng ái cơ tên là Lục Châu nhan sắc xinh đẹp, lại thêm cầm kỳ thi hoạ, giỏi múa hát, được Thạch Sùng yêu mến, để ở riêng trên lầu Kim Cốc. Tôn Tú bèn sai sứ đến gặp Thạch Sùng nói: Quan Thị Trung xin ngài đưa Lục Châu tôi rước về dâng cho Tướng quốc.

Thạch Sùng bảo: Không được, Lục Châu là ái cơ của ta, dẫu thế nào cũng không cho bắt.

Sứ phải trở về báo lại với Tôn Tú. Tôn Tú nghe qua cả giận, bèn vào bẩm với Tư Mã Luân: Thạch Sùng, Phan Nhạc có ý phản, ỷ thế giàu có âm mưu làm loạn, nếu bây giờ không trừ, sau hối không kịp.

Tư Mã Luân nói: Nếu thế thì cứ bắt nó giết đi.

Tôn Tú được lệnh, đem 200 quân đến vây nhà Thạch Sùng vào bắt nàng Lục Châu. Lục Châu nhảy từ lầu cao xuống đất tự tử, không chịu về với Tôn Tú. Rồi quân lính bắt Thạch Sùng giải đến pháp trường xử tử. Thạch Sùng bị chém chết, gia sản bị tịch thu. Năm đó ông 52 tuổi.

Tương truyền, Thạch Sùng sau khi bị giết chết hoá ra con thằn lằn (thạch sùng), vì tiếc của, nên suốt ngày cứ chắc lưỡi.

Thời bấy giờ ở đất Đông Hải có Vương Khải 王 愷, làm quan đến chức Hậu Tướng quân, có người chị làm Hoàng Hậu, nổi tiếng là giàu có, xa xỉ cũng vào bậc nhứt, thường cùng Thạch Sùng trang sức nhà cửa rất sang trọng và ăn mặc cực kỳ xài phí.

Thạch Sùng và Vương Khải thường bày trò thi của. Thạch Sùng nghe nói Vương Khải lấy mật rửa chảo, Thạch Sùng bèn ra lịnh cho đầy tớ dùng nến đốt lửa thay củi. Việc nầy truyền đi, ai cũng nói Thạch Sùng và Vương Khải vô cùng xa xỉ.

Vương Khải muốn khoe sự giàu có của mình, trên con đường dẫn tới tư dinh, suốt bốn mươi dặm, cho người lấy trướng lụa đem ra trải suốt con đường. Thạch Sùng muốn hơn Vương Khải, cũng đem trướng lụa ra trải, dài được 50 dặm. Vương Khải dùng phấn đá đỏ quét vôi nhà thì Thạch Sùng lại dùng hồ tiêu quét lên vách.

Theo Kho Tàng Truyện Cổ Việt Nam, Vương Khải thường đem vật quý ra đấu phú, đều thua Thạch Sùng, nên mới dùng kế đem nồi bể ra thi đấu. Thạch Sùng không có, Vương Khải nhờ đó mà được thắng.

Kìa Bá Di, Thúc Tề,

mượn cảnh không dứt rồi mối tệ,

Nọ Thạch Sùng, Vương Khải,

cũng danh tiếng ai có kể ra gì?

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

THAI

1.- Thai là thể sống đang hình thành và lớn lên trong bụng mẹ. Như: Đàn bà có thai, đầu thai.

Nói về tiểu sử Đức Jésus Christ, Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Khi đó bà đã có thai gần ngày sanh, nghĩ mình đã có căn tu, đến ngày Ðại Lễ không thể ở nhà được, bụng mang dạ chửa, cũng rán đi đến chầu lễ thường lệ.

Phạt răn quến gái, dụ trai,

Bày ra thuốc độc, phá thai tuyệt loài.

(Kinh Sám Hối).

2.- Thai là ngọn núi, tiếng kết hợp với từ “Thiên”, thành “Thiên thai”, dùng để chỉ cõi Tiên.

Như: Tam thai, động Thiên thai.

Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng Đảo,

Động Thiên Thai bảy Lão đón đường,

(Kinh Tận Độ).

Thiên Thai nào phải tại trần nầy,

Chẳng phải giữa Trời, chẳng phải mây.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dò đon cho rõ nẻo Thiên thai,

Cái tiếng tài khen chẳng phải tài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THAI BÀO

胎 胞

Thai: Thể sống hình thành và lớn lên trong bụng mẹ. Bào: Cái thai.

Thai bào, bởi chữ “Bào thai 胞 胎”, là chỉ cái thai nằm trong bụng người mẹ.

Như: Thai bào tượng trong bụng bà mẹ phải đủ chín tháng mười ngày.

Hình vóc cảnh Tiên còn dính máu,

Chơn Thần nước Phật giữ thai bào.

(Thất Nương Giáng Bút).

Dầu lớn khôn tước cả quyền cao,

Cũng nhớ thuở thai bào công chín tháng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÁI ẤT THIÊN TÔN

太 乙 天 尊

Thái Ất Thiên Tôn là một vị đại Tiên, học trò của Nguơn Thỉ Thiên Tôn, thầy của Tam Thái Bảo Na Tra, đời nhà Châu.

Thái Ất Thiên Tôn có nhiệm vụ chưởng quản bộ sổ ở cõi Phong Đô.

Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,

Miền Âm cảnh ngục môn khai giải.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THÁI BẠCH

太 白

Thái Bạch, còn gọi là “Lý Bạch 李 白”, quê ở đất Thục, làng Thanh Liên, huyện Xương Minh, tỉnh Tứ Xuyên, hiệu là Thanh Liên Cư Sĩ, là một thi hào bậc nhứt đời Đường, tính tình hào hiệp, thích uống rượu ngâm thơ.

Khi sinh Ngài, Bà Mẹ nằm mộng thấy sao Kim, tức sao Trường Canh hay sao Thái Bạch Kim Tinh sa xuống mình của Bà, nên đặt tên cho Ngài là Lý Thái Bạch, gọi tắt là Lý Bạch.

Hồi được bảy tuổi, Lý Thái Bạch chưa biết nói, nhưng khi bà mẹ bồng lên lầu, bổng nhiên Ngài ngâm được bốn câu thơ mà ý thực quái dị: Nguy lâu cao bách xích, Thủ khả trích tinh thần. Bất cảm cao thanh ngữ, Khủng kinh thiên thượng nhân 不 敢 高 聲 語 手 可 摘 星 晨. 危 樓 高 百 尺, 恐 驚 天 上 人, nghĩa là: Vòi vọi lầu trăm thước, Vói tay hái được sao. Chỉ e nói lớn tiếng, Kinh động Tiên trên cao.

Lớn lên, Thái Bạch tướng mạo khôi ngô, cốt cách thanh kỳ, thông minh dĩnh ngộ. Lúc thiếu thời Ngài có tài văn chương, nổi tiếng là một thi gia, được người đương thời tặng danh hiệu là “Ông Tiên bị đày” (Thiên thượng trích Tiên nhân 天 上 謫 仙 人).

Bản tính của Ngài không ham danh lợi, thích đi chơi khắp các danh thắng ở bờ sông Trường giang, giao du với những ẩn sĩ mà đời gọi là Trúc Khê lục dật.

Năm 30 tuổi danh tiếng của Lý Thái Bạch chói lọi khắp mọi nơi, không ai mà chẳng biết đến Ngài. Một hôm, Ngài vào một quán rượu ở đất Hồ Châu, ngồi trên lầu uống rượu ngâm thơ.

Lúc đó vị quan Tư Mã đất Hồ Châu là Giả Diệp đi ngang qua, nghe tiếng Thái Bạch ngâm thơ, bèn sai người hỏi xem ai?

Lý Thái Bạch liền đáp bằng bốn câu thơ:

Thanh Liên Cư sĩ, Tiên trần giới,

Quán rượu ba mươi tuổi chẳng cầu.

Tư Mã Hồ Châu sao khéo hỏi,

Như Lai kim túc ấy thân sau.

Giả Diệp nghe qua giật mình hỏi: Ông có phải là Lý Trích Tiên ở đất Thục đó chăng?

Rồi Giả Diệp ân cần mời Lý Bạch về tư dinh đàm đạo, thơ rượu suốt mười ngày và thành thật khuyên Ngài đi Trường An ứng thí.

Sau Ngài được vua phong đến chức Hàn lâm học sĩ, nhưng vì không ham danh lợi, quyền tước, nên Ngài không chăm lo việc nước, mà chỉ uống ruợu ngâm thi mà thôi.

Vua Đường Huyền Tôn rất trọng Ngài, nhưng Ngài không như bọn phàm phu khác, chịu đem cái tài hoa của mình nịnh nọt bọn vương hầu, trái lại, Ngài xin trở về hưởng nhàn. Có lần say ruợu Ngài ngâm nga chí của mình, coi đời như giấc mộng, bon chen làm chi cho cực lòng.

 

處 世 若 大 夢

 

Xử thế nhược đại mộng

 

胡 為 勞 其 生

 

Hồ vi lao kỳ sinh?

 

所 以 終 日 醉

 

Sở dĩ chung nhật tuý,

 

頹 然 臥 前 楹

 

Đồi nhiên ngọa tiền doanh.

 

覺 來 眄 庭 前

 

Giác lai miện đình tiền,

 

一 鳥 花 間 鳴

 

Nhất điểu hoa gian minh.

 

借 問 此 何 日

 

Tá vấn thử hà nhật?

 

春 風 語 流 鶯

 

Xuân phong ngữ lưu oanh.

 

感 之 欲 嘆 息

 

Cảm chi dục thán tức,

 

對 之 還 自 傾

 

Đối chi hoàn tự khuynh.

 

浩 歌 待 明 月

 

Hạo ca đãi minh nguyệt,

 

曲 盡 已 忘 情

 

Khúc tận dĩ vong tình.

Nghĩa là:

Ở đời tựa giấc chiêm bao,

Làm chi mà phải lao đao nhọc mình.

Suốt ngày mượn chén khuây tình,

Say rồi nghiêng ngửa bên mành hàng ba.

Tỉnh ra trông mé trước nhà,

Một con chim hót trong hoa ngọt ngào.

Hỏi xem ngày ấy ngày nào,

Chim oanh ríu rít đón chào gió đông.

Thở than cảm xúc nỗi lòng,

Chuốc thêm ít chén say cùng cảnh vui.

Hát ngao chờ bóng trăng soi,

Ca vừa dứt khúc, đã nguôi mối tình.

(Trần Trọng Kim dịch).

Bạn của Thái Bạch là Hạ Tri Chương xem ông như trích tiên xuống trần, mới tiến cử đến Đường Huyền Tông, được vua phong chức Hàn lâm, và rất được yêu kính. Sau bị Cao Lực Sĩ gièm pha với Dương Quý Phi, nên vua không tin dùng nữa và đuổi về.

Nhân loạn An Lộc Sơn, Lý Thái Bạch bị liên can với Lân Đương nên bị bắt giam, rồi bị đày, sau được đại xá. Đời vua Túc Tông 762, Lý Bạch mất, thọ 61 tuổi.

Trong Đạo Cao Đài, Lý Thái Bạch được Đức Chí Tôn phong làm Nhứt Trấn Oai Nghiêm, kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy vì lòng từ bi thương môn đệ phong tịch lần nầy là lần chót, vì Tân Luật đã hoàn toàn, nếu chẳng do theo đó thì Lý Bạch hằng kêu nài, Quan Thánh và Quan Âm cũng hiệp sức mà dâng sớ kêu về sự ấy.

Linh Tiêu Thái Bạch Trường Canh,

Truyền tâu Đế Khuyết dữ lành nhơn gian.

(Xưng Tụng Công Đức).

Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,

Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.

(Đạo Sử).

 

 

THÁI BẠCH KIM TINH

太 白 金 星

Hay “Thái Bạch Trường Canh”.

Thái Bạch là một vì sao Kim (hay Kim Tinh), còn được gọi là sao Trường Canh.

Thái Bạch Kim Tinh, hay “Thái Bạch Trường Canh 太 白 長 庚”, nói tắt “Thái Bạch”, là một vị Tinh Quân cai quản ngôi sao Thái Bạch.

Vị Tinh Quân nầy giáng trần vào thời nhà Đường bên Trung Hoa. Bà mẹ nằm chiêm bao thấy sao Thái Bạch (sao Trường Canh) rơi vào lòng bà, sau đó bà sinh ra người con trai đặt tên là Lý Thái Bạch. Lớn lên Lý Thái Bạch là một đại thi gia đời nhà Đường.

Trong đạo Cao Đài, Lý Thái Bạch là một vị Đại Tiên Trưởng, thọ lịnh Đức Chí Tôn làm Nhứt Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Tiên Giáo và kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Xem: Lý Bạch.

1.- Thái Bạch Kim Tinh:

Thái Bạch Kim Tinh đương trị thế,

Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.

(Đức Lý Giáo Tông).

2.- Thái Bạch Trường Canh:

Linh Tiêu Thái Bạch Trường Canh,

Truyền tâu Đế Khuyết dữ lành nhơn gian.

(Xưng Tụng Công Đức).

 

 

THÁI BÌNH

太 平

Thái: Rất. Bình: Yên ổn.

Thái bình đồng nghĩa với chữ thanh bình, chỉ cảnh đất nước yên ổn.

Đức Chơn Cực Lão Sư trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, có đoạn day: Chư đạo hữu phải biết rằng, Ðạo trước khi gieo truyền cho ngoại quốc, phải dìu dắt kết chặt dân sanh nơi vùng Nam nầy, đặng cùng nhau chung hợp trên con đường hoà bình, chậm rãi lần ra khỏi lối khốn khổ lao lung nơi cõi trần nầy, rồi tự tại ngâm câu thái bình. Chừng ấy, chim về cội, cá về sông, hớn hở trau lòng thiện niệm mà bước lên nấc thang thiêng liêng mới đặng.

Giúp dân hưởng chữ thái bình,

Văn ban võ bá triều đình đặc an.

(Kinh Thế Đạo).

Thái bình trăm họ nhìn chơn Chúa,

Thạnh trị ba châu trổ trí Thần.

(Đạo Sử).

Còn chi hai chữ thái bình.

Ngửa nghiêng chín bệ, gập ghình ba châu.

(Ngụ Đời).

 

 

THÁI BÌNH DƯƠNG

太 平 洋

Thái Bình: Tên một cái biển lớn. Dương: Biển.

Thái Bình Dương là một cái biển lớn trong ngũ đại dương. Thái Bình Dương ở khoảng giữa Mỹ Châu, Á Châu và Úc Châu.

Náo nhiệt Trung Huê chịu chiến trường,

Rồi đây lửa dậy Thái Bình Dương.

(Tôn Sơn Giáng Bút).

Thái Bình Dương hải chừng mô thấy,

Các nước xua bình ấy Thánh điều.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THÁI CĂN TÁNH ĐỊNH

Thái (thể): Cải, một loại rau thường dùng để nấu canh. Căn: Rễ của các loại cây. Tánh (tính): Bản nhiên của Trời phú cho. Định: Yên ổn.

Thái căn tánh định, “Thể căn tính định 菜 根 性 定”, tức là dầu ăn rễ rau cải cũng thơm ngon.

Sách Ích Trí có câu: Tâm an mao ốc ổn, tánh định thể căn hương 心 安 茅 屋 穩, 性 定 菜 根 香, nghĩa là cái tâm yên thì ở nhà tranh cũng yên, tánh mình định, dầu ăn rễ rau cũng thơm.

Tuy là mao ốc tâm an,

Thể căn tánh định, hân hoan tinh thần.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THÁI CÔNG TƯỚNG PHỤ

太 公 相 父

Thái Công Tướng Phụ hay: “Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn 太 公 相 父 管 法 天 尊” là Thánh danh của Đức Khương Thái Công.

Tại Toà Thánh Tây Ninh, nơi chánh điện, ngoài quả Càn Khôn để biểu tượng cho Đức Chí Tôn, phía dưới còn có các Long vị thờ Tam vị Giáo Chủ, Tam Trấn Oai Nghiêm và Ngũ Chi Đại Đạo. Trong Ngũ Chi Đại Đạo, có một Long vị viết “Khương Thượng Tử Nha” là Đấng chủ về Thần đạo.

Khi dâng Sớ lên để tâu trình với Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng liêng, trong đó, vị chủ về Thần đạo là Khương Thái Công, với Thánh danh Ngài là “Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn 南 無 太 公 相 父 管 法 天 尊”.

Ngoài ra trong bài Kệ Chuông U Minh, lời nguyện thứ 28 cũng có câu: Nam Mô Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn.

Thái Công

Thái Công tức “Thái Công Vọng”, tự Tử Nha, tên chữ là Lữ Vọng. Tử Nha là một vị hiền thần của vua Văn Vương, họ Khương tên Thượng, câu ở bờ sông Vị.

Khi Tây Bá Hầu Cơ Xương (sau là vua Châu Văn Vương) đi săn, gặp Khương Thượng đang câu cá ở phía bắc sông Vị. Cơ Xương bèn đến đàm luận rất tâm đầu ý hợp, nên ngưỡng mộ tài năng của Ngài.

Cơ Xương nhớ lời trước đây tổ tiên nhà Châu là “Thái Công 太 公” dặn rằng sẽ có vị Thánh đến giúp cho đất nước nhà Châu được hưng thịnh. Do đó, Cơ Xương quả quyết rằng Khương Thượng chính là người mà Thái Công mong đợi trước đây, nên ông mới tôn Tử Nha là “Thái Công Vọng 太 公 望” (có nghĩa là người mà ông Thái Công mong đợi), rồi đón Ngài lên xe chở về cung và tôn Ngài làm thầy.

Như vậy Thái Công do chữ “Thái Công Vọng” viết tắt, để gọi Tử Nha, như “Khương Thái Công”.

Tướng Phụ

Lúc thiếu thời Khương Thượng rất mộ đạo Tiên, nên tầm sư học đạo và thọ giáo Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn tại núi Côn Lôn. Ngài quyết chí tu hành, không màng đến việc thế tục nữa, theo thầy lo tu hơn 40 năm trên núi.

Vào thời ấy, Trụ Vương vì đắm say nữ sắc của Đắc Kỷ, không lo việc triều chính, công thần nhiều vị khuyên can đều bị giết hại, nhân dân đồ thán, giặc cướp nổi lên bốn phía, vận nước suy vi.

Nguơn Thỉ Thiên Tôn khuyên Khương Tử Nha hạ trần để phò Châu, phạt Trụ. Đức Ngài phải nghe lời Thầy xuống núi, ngồi câu ở sông Vị mới gặp được Tây Bá Hầu Cơ Xương.

Khí số nhà Thương sắp mãn, vận nước Tây Châu hưng thịnh, nên Cơ Phát lên nối nghiệp cha, xưng hiệu Võ Vương, rồi tôn Khương Thượng là “Tướng Phụ 相 父” hay “Thượng Phụ”.

Sau đó vua Châu Võ Vương lập đàn bái tướng, phong Tử Nha làm Đại Nguyên Soái, cử binh phạt Trụ. Trên mười năm mới bình định xong tứ phương, vua lên ngôi thiên tử, phong Khương Tử Nha đứng đầu các bậc khai quốc công thần, và cho làm vua nước Tề, đời đời con cháu được phụ truyền tử kế mà hưởng lộc triều đình.

Như vậy, “Tướng Phụ” cũng như chữ “Thượng Phụ” là lời tôn của vua Võ Vương để gọi Ngài Khương Thượng.

Quản Pháp

Quản: Nắm, cai quản. Pháp: Pháp thuật, huyền phép.

Quản pháp là nắm giữ về pháp thuật huyền diệu.

Sau khi diệt được nhà Ân, vua Võ Vương lên ngôi, mở ra đời thạnh trị, thiên hạ thái bình, Khương Tử Nha còn nhận được sắc chỉ của Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn để lãnh nhiệm vụ phong thần và Ngài cầm quyền về Thần đạo, tức nắm về những huyền pháp thiêng liêng.

Thiên Tôn

Thiên tôn là một phẩm do Đức Thượng Đế phong thưởng cho các Đấng Thiêng liêng, trái với Thế Tôn là những bậc có các Đức tánh để người đời khâm phục kính ngưỡng, như: Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

Trong đạo Cao Đài, Ngài Khương Thái Công cũng phong là một vì Thiên Tôn, chủ về Thần Đạo, là một trong Ngũ Chi Đại Đạo.

Như vậy “Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn” là Thánh danh Đức “Khương Thượng Tử Nha” có nghĩa là vị Thiên Tôn chưởng quản về hàng Thần, có nhiều Pháp thuật huyền diệu và thiêng liêng.

Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn.

(Sớ Văn).

 

 

THÁI CỰC

太 極

Thái: Lớn, rất, cả. Cực: Đầu cùng.

Thái cực là lớn nhứt đến cùng tột.

Theo Dịch học, lúc trời đất chưa phân định, còn trong thời kỳ hỗn độn thì ngôi Thái cực xuất hiện, Thái cực mới sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái.

Trong hệ từ của Dịch có nói: Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái 易 有 太 極, 是 生 兩 儀, 兩 儀 生 四 象, 四 象 生 八 卦, nghĩa là Dịch có Thái cực, Thái cực sinh Hai nghi. Hai nghi sinh Bốn tượng, Bốn tượng sinh Bát Quái.

Theo triết lý đạo Cao Đài, Thái Cực là nguyên lý cùng của Vũ trụ, là khối Đại Linh Quang, là Đại Hồn của Thượng Đế, nên cũng được gọi là ngôi của Đức Chí Tôn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.

Xem: Thái Cực Thánh Hoàng.

Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,

Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.

(Đạo Sử).

Có sen, Bông, ngó, lá, gương,

Tượng hình Thái Cực Âm Dương vận hành.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THÁI CỰC THÁNH HOÀNG

太 極 聖 皇

Thái Cực: Ngôi Thái Cực. Theo thuyết Dịch học, nguyên thuỷ vũ trụ là khoảng không gian vô hình, thường được biểu tượng bằng một vòng tròn trống không, đó là Thái Cực.

Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thái Cực là ngôi của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. Thầy giải thích như sau: “Khi chưa có chi trong Càn Khôn Thế Giái thì khí hư vô sanh có một mình Thầy và ngôi của Thầy là ngôi Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hoá vô cùng, mới lập ra Càn Khôn Thế Giái”. Như vậy, ngôi Thái Cực có trước Trời đất và hoá sanh ra Càn Khôn vạn vật.

Thánh Hoàng: Vua Thánh, vị vua sinh hoá ra và cai quản chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Chí Tôn có trước Trời đất và sinh Thần, Thánh, Tiên, Phật. Thánh giáo cho biết như sau: “Một Chơn thần Thầy mà hoá sanh thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh...”

Thái Cực Thánh Hoàng là Vị vua Thánh ngự tại ngôi Thái Cực cầm quyền sinh hoá vạn vật. Đây cũng là Hồng danh của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Đại La Thiên Đế,

Thái Cực Thánh Hoàng.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THÁI DƯƠNG

太 陽

Âm dương là hai cực trong Dịch lý, có tính trái ngược nhau: Âm là đàn bà, mặt trăng, tối, lạnh, còn dương là đàn ông, mặt trời, sáng, nóng... Hoặc nơi người chết gọi là âm, chỗ người sống gọi là dương.

Như vậy “Thái dương” dùng để chỉ mặt trời, “Thái âm” chỉ mặt trăng.

Thái dương là mặt Trời thường được ví với Đạo, vua hay Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Thánh giáo Thầy có câu: Ai là khách hữu phần, ai là người vô quả, tánh thiêng liêng đã vì công lý mà ra tay tế độ, vớt kẻ giữa bến trần, khá biết thời thế lần vào nương dựa bóng thái dương, để bước vào con đường minh huệ, tìm suối lặng non Thần, rửa chút bợn nhơ đã vì phong trào mê muội mà cam chịu lấp kín gót trần.

Biển trần khổ vơi vơi trời nước,

Ánh thái dương giọi trước phương đông.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Màn trời biển vén móc thuyền câu,

Lố bóng thái dương nước đổi màu.

(Thất Nương Giang Bút).

Chờ bóng thái dương lên chính giữa,

Soi vào địa nghiệt mới tiêu tàn.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THÁI ĐỘ

態 度

Thái: Tình trạng bề ngoài. Độ: Mức độ.

Thái độ là trạng mạo và cử chỉ của người, tức xem xét cử chỉ, cách thức tỏ ra của người đó đối với một công việc gì.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Đức Lão Tử thì coi thường mọi việc thế tình, cho công danh phú quý là phù vân, nên chủ trương cái thái độ hờ hững lãnh đạm với ngoại giới.

Khi dắt trẻ đi chơi lựa chỗ,

Có văn nhơn thái độ tài tình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÁI HOÀ

太 和

Thái: Lớn, rất, cả. Hoà: hoà bình, êm thuận.

Thái hoà là nói khí âm dương giao hoà ngưng tụ lại, toả ra khắp nơi.

Thái hoà cũng là nói thời kỳ yên ổn thịnh trị, đồng nghĩa với chữ thái bình.

Thái hoà dương thạnh Ðạo nam khai,

Bạch tú Thiên đăng đắc cảm hoài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÁI HỘ LƯƠNG CÔNG

太 護 糧 工

Thái: Phái Thái của chức sắc Cửu Trùng Đài. Hộ: Chỉ về Hộ viện. Lương: Chỉ về Lương viện. Công: Chỉ về Công viện.

Do bài thi của Đức Lý Giáo Tông, phân chia Cửu viện thuộc quyền hành Chánh Phối Sư ba phái Thái, Thượng, Ngọc của Cửu Trùng Đài.

Chánh Phối Sư phái Thái Chưởng quản ba viện trong Cửu viện, mỗi viện lại đặt dưới quyền của một vị Thượng Thống và hai vị Phụ Thống.

Ba viện thuộc phái Thái trông coi là:

- Hộ viện, quản lý về tài chánh, sản nghiệp, thâu xuất tiền bạc của Hội Thánh.

- Lương viện, lo tiếp thu và phân phối về lương thực, chăm lo việc phòng trù, nuôi nấng những chức sắc và tín đồ đã hiến thân công quả trong các cơ quan trung ương của Đạo.

- Công viện, lo về tạo tác, tu bổ Toà Thánh, Báo Ân Từ, các dinh thự của Đạo, và phát triển ngành công nghiệp đem lợi tức cho Hội Thánh.

Xem: Cửu viện.

Thái Hộ, Lương, Công, nội chủ trương,

Thượng Nông, Y, Học, chấp phương cương.

(Lý Giáo Tông Giáng).

Chánh Phối Sư có ba đủ số,

Phái Thái thì giữ Hộ, Lương, Công.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THÁI LAI

Thới (thái): Thuận lợi, may mắn, An vui. Lai: Đến.

Thới lai, như chữ “Thái lai 泰 來”, là điều thuận lợi hay điều may mắn đưa đến.

Thành ngữ Việt Hán thường có câu: “Bĩ cực thái lai 否 極 泰 來”, tức là hết lúc vận xấu đến hồi vận tốt.

Thới lai bỏ lúc khổ khi xưa,

Những đức tài đông phải tính vừa.

(Đạo Sử).

 

 

THÁI QUÁ BẤT CẬP

太 過 不 及

Thái quá: Vượt quá mức độ. Bất cập: Chẳng kịp, thua sút.

Thái quá và bất cất cập là hai thái độ mà các Nho gia thời xưa thường khuyên người ta nên tránh, mà phải giữ mức trung dung.

Đạo Trung dung theo Khổng Mạnh là một quy tắc hành động của bậc hiền minh, hợp với lẽ đương nhiên, không thái quá, không bất cập, song phải biết quyền biến, biết tuỳ thời, tuỳ cảnh ngộ, tuỳ địa vị mà xử sự, lúc nên làm thì làm, lúc không nên làm thì không làm. Nghĩa là phải cho hợp tình hợp lý chứ không chấp nhứt.

Đây là thái độ của người Quân tử theo đạo Trung dung: Quân tử tố kỳ vị nhi hành, bất nguyện hồ kỳ ngoại; tố phú quý hành hồ phú quý; tố bần tiện hành hồ bần tiện; tố di địch hành hồ di địch; tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, quân tử vô nhập nhi bất đắc yên 君 子 其 位 而 行, 不 願 乎 其 外, 素 富 貴 行 乎 富 貴, 素 貧 賤 行 乎 貧 賤, 素 夷 狄 行 乎 夷 狄, 素 患 難 行 乎 患 難, 君 子 無 入 而 不 自 得 焉, nghĩa là người quân tử cứ theo địa vị mình mà ăn ở, không cần ở ngoài; địa vị giàu sang thì ăn ở theo cách giàu sang; địa vị nghèo hèn thì ăn ở cách nghèo hèn; ở nơi mọi rợ thì ăn ở theo cách mọi rợ; ở vào lúc hoạn nạn thì ăn ở theo cảnh hoạn nạn. Người quân tử ở vào cảnh nào cũng tự đắc (tức là vui vẻ, thản nhiên).

Chớ thái quá đừng lòng bất cập,

Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.

(Kinh Sám Hối).

Đời thái quá chuyển xây rồi bất cập,

Ham leo trèo nạn té sấp nó kề bên,

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

THÁI SƠN

泰 山

Thái Sơn là ngọn núi tại châu Thái An, phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông. Lại có tên là núi Thiên Tôn, hay núi Đại Tông, là hòn núi lớn nhứt trong Ngũ nhạc.

Nghĩa bóng: Thái Sơn dùng để chỉ sự to lớn.

Các vị vua chúa ngày xưa lúc thọ mệnh lên ngôi thường phong tặng hòn núi ấy.

Núi cao hơn 40 dặm, gộp đá phía đông nam trên chót núi, người đời kêu là hòn “Nhật quang”, là vì gà vừa mới gáy đợt nhứt, nếu người nào đứng trên hòn “Nhật quang”, thì xem thấy mặt trời bắt đầu mọc.

Sau Thầy hứa chắc đỡ nâng con,

Thiên Ấn Thái Sơn cũng chẳng mòn.

(Đạo Sử).

Thái Sơn ngã mất tầm cao đỉnh,

Lương mộc còn đâu bóng rợp hàng.

(Thơ Huệ Ngàn).

 

 

THÁI TÂY

泰 西

Thái: Thịnh vượng. Tây: Phương Tây.

Thái Tây là chỉ chung các nước cường thịnh ở phương Tây, tức là các nước ở Châu Âu gồm Anh, Pháp, Ý, Ðức, Hoà Lan, Bồ Ðào Nha...

Thánh giáo Thầy có dạy: Ðêm nay, 24 Décembre, phải vui mầng vì là ngày của Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây (Europe). Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta.

Phổ Độ kỳ hai Chúa giáng sanh,

Thái Tây tháng chạp sử ghi rành.

(Thơ Ngọc Nhượn Thanh).

Tinh thần thống nhứt truyền chơn giáo,

Đông Á xong rồi đến Thái Tây.

(Thơ Thượng Cảnh Thanh).

 

 

THÁI THẬM

太 甚

Thái: Rất. Thậm: Quá chừng.

Thái thậm, đồng nghĩa với chữ “Thái quá”, là quá chừng, quá lắm. Như: Tàn ác thái thậm.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Võ Tắc Thiên hoang dâm thái thậm, Tuỳ Dương Ðế lỗi đạo muôn phần, khi Sở Hạng bạo ngược vô biên, Tần Thuỷ Hoàng hôn quân cực điểm, nhưng than ôi! máy Thiên cơ buổi nọ, nếu phải chiều chuộng một ít vị công thần bị khép vào vòng những kẻ đã chịu sở bức, thì phải thay đổi, bôi xoá sự nghiệp non sông của những chúa tể ngu muội ấy chăng?

Kiêu hãnh thái thậm, vào muốn có người trình, ra muốn có kẻ cúi, khoát nạt, đè ép, biết mình mà chẳng màng biết đến người...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÁI THÚ

太 守

Thái Thú là tên một chức quan có nhiệm vụ trông coi một quận. Chức quan này được đặt ra từ thời nhà Tần.

Như: Quan Thái thú đi xem xét dân tình.

Nhớ cha mẹ khóc thôi thảm thiết,

Thái Thú nghe chi xiết xót thương.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THÁI THUẬN

蔡 順

Thái Thuận là một người con thảo trong nhị thập tứ hiếu, sinh vào đời nhà Hán, nhà nghèo, mồ côi cha từ bé, thờ mẹ rất có hiếu. Gặp năm loạn lạc thiếu đói, phải đi vào rừng tìm kíếm những quả dâu chín đem về cho đỡ đói. Khi tìm được quả nào chín, còn quả đỏ để ra một bên.

Một ngày kia, gặp vị tướng giặp Xích My đi qua, trông thấy hỏi: Vì cớ gì để làm hai nơi như thế? Thái Thuận trả lời: Quả nào chín thì ngọt, để riêng biếu mẹ tôi, còn quả nào đỏ thì chua, để dành tôi ăn. Vị tướng giặc khen là có hiếu, bèn truyền quân lấy một thùng gạo và một cái đùi trâu để tặng ông.

Thái Thuận đói vào rừng lượm trái,

Thứ dở ngon ngồi lại chia ra.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Thái Thuận hiếu, nghèo bèn lượm trái,

Giặc thương tình trẻ lại không cha.

(Báo Ân Từ).

 

 

THÁI THƯỢNG

太 上

Thái Thượng tức là Thái Thượng Lão Quân, là một vị tổ sư của Đạo Giáo.

Tương truyền Ngài họ Lý tên Nhĩ, thuỵ là Đam, tự là Bá Dương, mới sinh ra đã đầu bạc, nên người đương thời mới gọi là Lão Tử.

Xem: Thái Thượng Lão Quân.

Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông,

Ra tay dẫn độ, dày công giúp đời.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ

太 上 道 祖

Thánh danh đầy đủ của Đức Thái Thượng Đạo Tổ là “Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hoá Thiên Tôn 太 上 道 祖 三 清 應 化 天 尊”. Chúng ta thử tìm hiểu Thánh danh nầy.

Thái Thượng

Thái Thượng 太 上 hay Thái Thượng Lão Quân là tôn hiệu của một vị giáo chủ trong Tiên giáo (hay Đạo giáo).

Theo bài Kinh Tiên giáo (Thái Thượng chí tâm quy mạng lễ) của đạo Cao Đài, thì Thái Thượng Lão Quân có trước cả Trời đất, do khí tiên thiên hoá sinh ra:

Tiên Thiên khí hoá.

Thái Thượng Đạo Quân,

Như ta biết, Tiên Thiên khí còn gọi là nguyên khí, Hư vô chi khí, Hỗn nguơn khí. Khí nầy có trước khi Càn khôn Vũ trụ được thành hình.

Khi Trời đất chưa phân định thì khắp cả vòm trời chỉ có một khối khí duy nhất, gọi là tiên thiên hư vô khí. Khí hư vô này là một khối nguyên khí mới luân chuyển hoá sanh thành Đức Thái Thượng Đạo Quân.

Thông thường Đức Thái Thượng Lão Quân được đồng nhứt với Lão Tử, nhưng theo đạo Cao Đài, Lão Tử chỉ là một hoá thân giáng trần của Thái Thượng vào rằm tháng 2 đời nhà Châu bên Trung Hoa, như lời kinh Tiên giáo đã dạy:

Nhị ngoạt thập ngũ,

Phân tánh giáng sanh.

Như vậy Thái Thượng do khí Tiên thiên sinh ra, và sau đó Ngài có một kiếp giáng trần nhằm ngày rằm tháng hai vào năm 604 trước Công nguyên. (Đời nhà Châu bên Trung Hoa), được gọi là Lão Tử.

Đạo Tổ

Đạo Tổ là vị Tổ sư của Đạo giáo (hay Tiên giáo).

Nguyên Đức Lão Tử là chơn linh của Thái Thượng Lão Quân phân tánh giáng trần vào đời nhà Châu. Khi Lão Tử cỡi độc giác thanh ngưu về phía Tây để độ chúng sanh, đến ải Hàm Cốc Ngài ở lại dạy Đạo cho Doãn Hỷ và soạn ra bộ sách nói về Đạo Đức, sách phân làm hai thiên, gồm có trên 5000 chữ. Sau này quyển sách đó được gọi là “Đạo Đức Kinh” lưu truyền cho hậu thế, nên Ngài được Đạo giáo tôn xưng là “Giáo Chủ” hay “Đạo Tổ 道 祖” của tôn giáo nầy.

Tam Thanh Ứng Hoá

Tam Thanh.

Tam Thanh là ba ngôi của ba vị Tiên tối cao trong Đạo giáo tại Trung Hoa, gồm có: Ngọc Thanh là Nguyên Thủy Thiên Tôn, ngự tại cõi Thánh Cảnh.

Thượng Thanh là Linh Bảo Thiên Tôn, ngự tại cõi Chân Cảnh.

Thái Thanh là Đạo Đức Thiên Tôn, cũng chính là Thái Thượng Lão Quân, là Giáo Chủ Đạo giáo, ngự tại cõi Thanh Cảnh.

Trong các tranh vẻ hay tượng thờ Tam Thanh, cả ba được tạo hình thành ba ông già: Nguyên Thủy Thiên Tôn ngồi giữa, cầm viên ngọc, Đạo Đức Thiên Tôn ngồi bên trái, cầm cây quạt, Linh Bảo Thiên Tôn ngồi bên phải, cầm cây như ý.

Trong Đàn cơ ngày 1 tháng 4 năm Tân Mùi (Dl. 18/5/1931) tại Minh Thiện Đàn, Phú Mỹ, Đức Thái Thái Thượng Lão Quân có giáng cho một bài thi như sau:

Tam Thanh chưởng quản cả Ba Ngôi,

Độ thế kỳ ba cựu vị hồi.

Hỡi hỡi trần gian tua nhớ cảnh,

Căn xưa trở lại chớ buông trôi.

Theo đạo Cao Đài, Tam Thanh là ba ngôi phẩm, gồm Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh. Thái Thanh màu vàng, thuộc Phật, Thượng Thanh màu xanh, thuộc Tiên, Ngọc Thanh màu đỏ thuộc Thánh.

Tam Thanh thường dùng để đối với Tam Giáo và tam sắc. Nên lá cờ của Đạo Cao Đài gọi là cờ Tam Thanh, gồm ba màu đỏ, xanh, vàng.

Chức sắc Cửu Trùng Đài của Hội Thánh Cao Đài được chia là ba phái: Phái Ngọc, mặc Đạo phục màu đỏ, thuộc Nho giáo, nguơn tinh; phái Thượng, mặc Đạo phục màu xanh, thuộc Tiên giáo, nguơn khí; phái Thái, mặc Đạo phục màu vàng, thuộc Phật giáo, nguơn thần.

Tam Thanh ứng Hoá:

Theo Đạo giáo, Nguyên Thỉ Thiên Tôn là Đức Thượng đế, Đấng thứ nhất trong Tam Thanh với ngôi vị Ngọc Thanh. Hai vị kia là Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (tức Thái Thượng Lão Quân).

Chính vì vậy, Đạo giáo mới cho rằng Tam Thanh ứng hoá thành các đấng Thần, Thánh, Tiên, và sau đó các Thần, Thánh, Tiên đều quay về cõi Tam Thanh. Như vậy, Thái Thượng Lão Quân từ Tam Thanh mà ứng hoá ra.

Bài Kinh Tiên Giao của đạo Cao Đài cũng có dạy: “Đạo cao nhất khí, Diệu hoá Tam Thanh”, nghĩa là Đạo Vô vi của Đức Thái Thượng Đạo Quân có trước Trời đất, rất cao siêu, huyền diệu là do Hỗn nguơn nhứt khí, hay nguyên khí mà sinh ra Tam Thanh tức Ngọc Thanh. Thượng Thanh và Thái Thanh.

Theo truyện Phong Thần, khi phá trận Tru Tiên, Lão Tử dùng huyền diệu nguơn khí biến hoá ra Tam Thanh, tức ba người là Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái Thanh để xông vào ba cửa trận, cùng giúp Lão Tử phá trận Tru Tiên, đánh Thông Thiên Giáo Chủ. Tam Thanh đây cũng là ba sắc hào quang hay nguơn tinh, nguơn khí, và nguơn thần của Thái Thượng Lão Quân: Ngọc Thanh màu hồng, Thượng Thanh màu xanh, Thái Thanh màu vàng.

Trong truyện có bài thơ xưng tụng Đức Thái Thượng như sau:

Hồng Quân truyền phép Đạo đã thành,

Làm chủ Thần Tiên độ chúng sanh.

Biến thử ba hình ai dễ biết,

Cho hay Nguơn khí Hoá Tam Thanh.

Thiên Tôn

Thiên Tôn là một phẩm do Đức Thượng Đế phong thưởng hoặc do vạn linh tôn thờ cho các Đấng Thiêng liêng, trái với Thế Tôn là những bậc có các Đức tánh tốt đẹp để người đời khâm phục kính ngưỡng, như: Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

Trong đạo Cao Đài, Ngài Thái Thượng Đạo Tổ cũng được phong là một vì Thiên Tôn, là một vị Giáo Chủ trong Tam Giáo, cầm quyền về Tiên Giáo.

Như vậy “Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hoá Thiên Tôn 太 上 道 祖 三 清 應 化 天 尊” là Thánh danh của Đức “Thái Thượng Lão Quân”, có nghĩa Đức Thái Thượng Lão Quân là Đạo Tổ của Tiên Giáo, một vị Thiên Tôn trong cõi Tam Thanh Ứng Hoá ra.

Nam Mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hoá Thiên Tôn.

(Kệ Chuông U Minh).

 

 

THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN

太 上 老 君

Thái Thương Lão Quân hay Thái Thượng Đạo Quân còn gọi là Thái Thượng Đạo Tổ, là vị Tổ Sư của Tiên giáo. Theo bài kinh Tiên giáo, thì Ngài do khí Tiên Thiên hoá sinh ra: Tiên thiên khí hoá Thái Thượng Đạo Quân 先 天 氣 化 太 上 道 君, nghĩa là Tiên Thiên khí hoá sinh ra Đức Thái Thượng Đạo Quân.

Thái Thượng Lão Quân có một kiếp giáng trần nhằm ngày rằm tháng hai vào đời nhà Thương bên Trung Hoa được gọi là Lão Tử.

Trong bài Kệ Chuông U Minh, lời nguyện thứ 22 có câu: Nam Mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hoá Thiên Tôn 南 無 太 上 道 祖 三 清 應 化 天 尊.

Xem: Lão Tử.

1. Thái Thượng Lão Quân:

Thái Thượng Lão Quân cây Phất chủ,

Văn Tuyên Khổng Thánh bộ Xuân thu.

(Thơ Huệ Phong).

2. Thái Thượng Đạo Quân:

Tiên Thiên khí hoá.

Thái Thượng Đạo Quân,

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THÀI

Thài là ngâm từng chữ của bài kinh hay bài thài với giọng ngân dài theo điệu nhạc Đảo Ngũ Cung.

Trong nghi lễ cúng tiểu, đại đàn tại Toà Thánh, đồng nhi thài ba bài Dâng Tam bửu, tức là Bài Dâng hoa, Dâng Rượu và Dâng Trà để Lễ Sĩ theo giọng thài và tiếng nhạc mà điện hương và tam bửu từ ngoại nghi vào nội nghi.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn dạy về nghi lễ cúng đàn tại Toà Thánh có câu: Tới khi thài, thì đờn Ðảo Ngũ Cung, rồi con lại bắt đầu đờn lại, cho môn đệ tụng kinh.

Diêu Trì Hội Yến nghiêm thay,

Tiêu thiều cung thỉnh giọng thài ngâm nga.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THẢI

Thải là bỏ ra, loại ra những cái không có tác dụng, không cần thiết, không dùng nữa.

Như: Xử lý nước thải, nhà máy thải bớt công nhân, cơ thể thải ra ngoài qua tuyến mồ hôi.

Vạn sự chung quy đều biến dịch,

Thiên nhiên đào thải luật do Trời.

(Thơ Huệ Ngàn).

 

 

THÃI

Thãi nói tắt của từ “Thừa thãi”, tức là có dồi dào nên thừa ra, không dùng hết được. Như: Ăn thãi uống thừa.

Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Tuồng chi hoa thãi hương thừa, Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.

Quốc dân ăn thãi uống thừa,

Khôn ngăn bán lận, khó ngừa buôn gian.

(Ngụ Đời).

 

 

THAY

1.- Thay là thế vào, lấy cái khác mà đổi cho cái nầy. Như: Thay áo, thay cột nhà, thay mặt.

Thánh giáo Thầy có câu: Trước khi thủ cơ hay là chấp bút, thì phải thay y phục cho sạch sẽ, trang hoàng, tắm gội cho tinh khiết, rồi mới đặng đến trước bửu điện mà hành sự, chớ nên thiếu sót mà thất lễ.

Chừng nào đất dậy Trời thay xác,

Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trời Âu biển Á chờ thay sắc,

Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thay là từ biểu thị sự tác động mạnh mẽ đến tình cảm người nói của một điều đạt đến mức độ rất cao.

Như: May thay, đẹp thay, đau đớn thay, mừng thay, thật là mỉa mai thay.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Rất đỗi Thầy là bực Chí Tôn đây mà còn bị chúng nó mưu lén cho qua Thánh ý Thầy thay! Một đàng trì, một đàng kéo, thảm thay các con chịu ở giữa.

Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,

Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.

(Kinh Sám Hối).

Mừng thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,

Bởi đức ngày xưa có buổi nay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thương thay trung tín một lòng thành,

Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.

(Đạo Sử).

 

 

THAY DUYÊN ĐỔI NỢ

Thay đổi: Thay cái nầy bằng cái khác. Duyên nợ: Quan hệ tình duyên ràng buộc tựa như nợ nần được định sẵn từ kiếp trước.

Thay duyên đổi nợ là thay đổi nợ duyên, ý chỉ người không giữ được lòng chung thuỷ, ăn ở phụ bạc.

Như: Người đàn bà ham vật chất thì chắc chắn thường thay duyên đổi nợ.

Dưới bóng trăng ai đã thề nguyền,

Rằng đặng phép thay duyên đổi nợ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THAY ĐEN ĐỔI TRẮNG

Thay đen: Thay thế cái đen. Đổi trắng: Đổi thành cái trắng, hàm ý không chung thuỷ.

Thay đen đổi trắng, đồng nghĩa với câu thành ngữ “Thay lòng đổi dạ”, ý nói không giữ được lòng son sắt với nhau, chỉ việc ăn ở phụ bạc.

Như: Lòng dạ con người hiện nay không chung thủy, thường thay đen đổi trắng.

Dầu chồng sanh thói lăng loàn,

Thay đen đổi trắng làm đàng mây mưa.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THAY ĐỔI

Thay: Bỏ ra, dùng thế vào một cái khác, hay người khác. Đổi: Đưa cái của mình để lấy cái của người khác, theo thoả thuận giữa hai bên.

Thay đổi là thay cái nầy bằng một cái khác. Thay đổi còn có nghĩa đổi khác đi, trở nên khác hơn trước.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn năm, muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.

Cơ Trời đến buổi đời thay đổi,

Ðạo Thánh nhằm khi khách gội nhuần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hư nên cũng có một đời,

Hay chi thay đổi nhành mai sái mùa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THAY LÒNG

Thay: Thế vào một cái khác. Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm.

Thay lòng là lòng dạ thay đổi, ý chỉ không giữ được lòng chung thuỷ, ăn ở phụ bạc.

Như: Thay lòng đổi dạ.

Chừ sao đổi dạ thay lòng,

Hẹn xưa bỏ chảy theo dòng Tương giang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THAY MẶT

Thay: Thế vào, lấy cái khác mà đổi cho cái nầy. Mặt: biểu tượng cho con người.

Thay mặt là lấy tư cách của người khác hoặc của một tổ chức nào đó. Như: Tôi thay mặt nó đi dự lễ.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy để rộng quyền cho các con thay mặt Thầy mà dìu dắt lấy nguyên nhơn, đã chịu nạn luân hồi nơi khổ cảnh.

Cơ chuyển thế nơi tay đả quả,

Thay mặt cho Tạo Hoá dựng đời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THAY THÂN TẠO HOÁ

Thay thân: Thay thế thân hình. Tạo hoá: Chỉ Trời, hay Đức Chí Tôn.

Thay thân Tạo hoá là nói con người thay thế hình ảnh của Đấng Tạo Hoá tại thế gian, tức con người giống như Tạo hoá.

Như ta biết, Trời Đất là Càn khôn do Âm Dương sinh hoá thì con người cũng do Âm Dương phối hợp mà thành.

Trời có tam bửu là Nhựt Nguyệt Tinh, Đất có tam bửu là Thuỷ hoả Phong, thì con người cũng có tam bửu là Tinh Khí Thần.

Hễ Trời có Ngũ hành là Kim Mộc Thuỷ hoả Thổ, Đất có Ngũ phương là Đông Tây Nam Bắc Trung ương, thì người cũng có Ngũ tạng là Tâm Can Tỳ Phế Thận. Nếu không có ngũ hành và ngũ phương thì không có Càn khôn Thế giới, còn nếu không có ngũ tạng thì cũng không có nhơn loại.

Tóm lại, con người cũng giống như trời đất, mà Trời đất là Đại Thiên địa thì con người là Tiểu Thiên địa.

Trong Kinh Tắm Thánh cũng có câu: “Đại Từ Phụ từ bi tạo hoá, Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn”, tức Đức Chí Tôn là Đấng cha lành to lớn mở lòng từ bi sinh hoá ra vạn vật, tạo nên hình thể con người giống như Ngài.

Thay thân Tạo Hoá là mình,

Nâng niu sanh chúng mới đành chữ nhơn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THAY THẾ

Thay: Bỏ ra, dùng thế vào một cái khác, người khác thường tốt hơn thích hợp hơn. Thế: Đưa cái khác vào chỗ của cái hiện đang thiếu.

Thay thế là thay vào chỗ cái, người không có, không còn hoặc không thích hợp nữa. Như: Đào tạo lớp người để sau nầy thay thế.

Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có dạy: Phàm Pháp luật lập thành đều tuỳ sở dụng, buộc kẻ chung công hiệp trí tác thành một cơ sở vĩ đại, đông tây tương thân tương ái. Bởi cớ mà Luật pháp vẫn nhiều mặt đặc biệt cùng nhau, tuỳ theo phương dụng, chẳng thế dùng một mặt Luật pháp nào mà thay thế vào một cơ sở khác hành vi cho đặng. Cần thì mới lập, còn vô ích thì bỏ.

Nhớ thiệt thòi nghĩ phận mà thương,

Nếu chồng nghĩa liệu lường thay thế.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THAY TRỜI TẠO THẾ

Thay Trời: Do chữ thế thiên 替 天, là thay mặt cho Trời, thay mặt cho Tạo hoá. Tạo thế: Tạo đời.

Thay Trời tạo thế tức là thay mặt cho Trời tạo lập nên cõi thế gian.

Vạn vật ở thế gian này sở dĩ có là nhờ có sự sinh của Trời đất. Con người là một phần trong vạn vật, cho nên cũng phải theo lẽ Trời mà biến hoá. Trời ban cho một Thiên tánh, và Đất tạo ra hình hài, cho nên con người cũng phải thay mặt cho Trời đất thực hiện sự sinh hoá ở cõi thế gian để tạo lập một xã hội loài người.

Con người nắm vững chủ quyền,

Thay Trời tạo thế giữ giềng nhơn luân.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THAY XIÊM ĐỔI ÁO

Thay: Lấy cái khác mà đổi cho cái nầy. Xiêm: Đồ mặc che nửa thân trước trong y phục của người quyền quý thời xưa. Đổi: Thế vào. Áo: Đồ mặc nửa thân trên.

Thay xiêm đổi áo là thay đổi xiêm áo, ý chỉ thay xiêm áo sạch sẽ để tiếp rước chư Thần thánh Tiên Phật.

Giờ tý đến thay xiêm đổi áo,

Các ông quỳ cầu đảo Thần linh.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THÀY LAY

Thày lay là xen vào việc của người khác, không dính dấp với mình.

Thày lay còn là có tính chất xiêu vẹo, không ngay hàng thẳng lối.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Vậy thì các em phải giữ lấy phận mình. Chị nghĩ cũng chưa kham, đừng thày lay cầu tội giùm cho kẻ khác. Chị rất cám cảnh, nhưng Thiên điều định vậy, biết liệu làm sao?

Cái tánh thày lay hay kiếm ngợi,

Nhiều phen đành chịu tới cùng phương.

(Đạo Sử).

Nghe qua đừng đến trên đem dưới,

Tọc mạch thày lay kiếm nói xằng.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THẢY

Thảy là tất cả, không trừ một ai, hay một cái gì.

Như: Hết thảy người ở đây đều muốn về, cả thảy đều đói bụng, bàn ghế đồ đạc thảy đều gọn gàng.

Thánh giáo Thầy có câu: Nếu Thầy không vì Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy thì Thầy đã y tấu lời xin của Giáo Tông mà huỷ trường công quả của các con hết thảy.

Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,

Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THAM

Tham là ham muốn không chính đáng và quá mức. Như: Tham tiền, tham ăn, tham danh, tham lợi, máu tham.

Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão Sư có câu: Ngày nào Ðạo nơi đây chưa hoà, người nơi đây chưa đủ sức kềm chế lấy nhau, và chưa đủ tinh thần ngay chánh, chỉ nẻo dẫn đàng, người Ðạo chưa phế được tham danh chác lợi, thì ngày ấy Ðạo nơi đây chưa gọi là trọn thành, thì cũng chưa một ai mong khởi công mà tầm địa vị thiêng liêng được.

E ra nhiều thiếp nhiều hầu,

Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THAM DANH LỢI

貪 名

Tham: Ham muốn quá mức. Danh lợi: Tiếng tăm và lợi lộc.

Tham danh lợi là ham muốn về tiếng tăm và lợi lộc.

Như: Người tu hành nếu còn tham danh lợi thì sẽ bị ràng buộc, khó thoát ra được.

Tham màu, tham sắc, tham hương,

Tham danh lợi cả, tham đường vinh hoa.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THAM DANH CHÁC LỢI

Tham danh 貪 名: Ham muốn, chạy theo tiếng tăm. Chác lợi: Mua, cầu điều lợi.

Tham danh chác lợi là nói kẻ ham mê và tranh giành, tìm cầu về danh lợi.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã vì chúng sanh mà lập Ðạo, nhưng kẻ phàm tục còn ám muội, tham danh chác lợi, lấn tước cầu quyền, thì ấy là tự chúng nó gieo mình nơi vực thẳm.

Người Ðạo chưa phế được tham danh chác lợi, thì ngày ấy Ðạo nơi đây chưa gọi là trọn thành.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THAM DANH TRỤC LỢI

貪 名 逐 利

Tham danh: Ham muốn, chạy theo tiếng tăm. Trục lợi: Đuổi theo, hay tranh giành lợi lộc.

Tham danh trục lợi, cũng như “Tham danh chác lợi”, là chỉ kẻ ham mê và tranh giành, theo đuổi về danh lợi.

Xem: Tham danh chác lợi.

Bội nghĩa vong ân khinh đạo đức,

Tham danh trục lợi loạn luân thường.

(Võ Thành Lượng).

 

 

THAM DỤC

貪 欲

Tham: Lòng ham muốn thái quá. Dục: Muốn.

Tham dục là lòng ham muốn quá mạnh.

Tham dục là tai hoạ, là sự chướng ngại cho sự tu tập. Kinh Pháp Cú bài kệ số 13 viết:

Như mái nhà vụn lợp,

Mưa liền xâm nhập vào.

Cũng vậy tâm không tu,

Tham dục liền xâm nhập.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có dạy: Vả lại tham dục, thị dục đều có trong mỗi con người dù Thánh hay phàm, dù mê hay ngộ, nhưng giữa người mê và người ngộ, kết quả tác động của thị dục không giống nhau...

Thoát khỏi tường tham dục, tránh nạn eo,

Người chí liệt ráng dòm theo đèn Ngọc Đế.

(Giác Mê Khải Ngộ).

Não phiền nếu dứt tâm yên ổn,

Tham dục mà ngưng trí nhẹ nhàng.

(Thơ Thiên Vân).

Nghiệp dày mắc phải tội tù,

Bởi chưng tham dục không tu chịu hèn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THAM DỰ

参 預

Tham: Dự vào, xen vào. Dự: Gia nhập, góp phần vào một hoạt động đã được tổ chức.

Tham dự là dự vào một hoạt động cụ thể nào đó. Như: Tham dự Đại Hội Nhơn Sanh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn dạy: Như thế sự cứu rỗi của mỗi người hoàn toàn tuỳ thuộc nơi người đó.Ðức Phật không tham dự vào công cuộc cứu rỗi của ai khác hết.

Nơi đàn nào mà khác hơn Thánh giáo và bày biện nhiều trái cách thì đạo hữu không phép tham dự.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THAM GIAN BẠO NGƯỢC

貪 奸 暴 虐

Tham gian: Tham lam gian trá. Bạo ngược: Hung bạo ngang ngược.

Tham gian bạo ngược chỉ người ngang tàng bạo ngược, có tính tham lam, gian trá.

Trừ đảng dữ tham gian bạo ngược,

Diệt những phường mưu chước cầu vinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THAM GIÀU PHỤ KHÓ

Tham giàu: Tham lam sự giàu sang. Phụ khó: Phụ rãy kẻ nghèo khó.

Tham giàu phụ khó là ham chạy theo sự giàu sang rồi quên đi hay phụ rãy kẻ nghèo khó.

Như: Người tu hành phải giữ lòng chung thủy, chớ tham phụ khó.

Đừng để dạ tham giàu phụ khó,

Mà ra lòng ham đó bỏ đăng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THAM LAM

貪 婪

Tham: Ham của. Lam: Ham ăn.

Tham lam là lòng ham ăn, tham của cải vật chất. Nghĩa bóng Ham muốn một cái gì thái quá.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy về tham lam như sau: “Các con có hiểu vì sao nhơn sanh có lòng tham lam chăng? Thì cũng muốn có nhiều kẻ phục tùng dưới quyền lợi của mình. Vã lại, người đời cần nhứt là cơm với áo. Nay muốn có nhiều kẻ phục tùng không chi bằng nắm chặt quyền phân phát áo cơm, phải dùng đủ mưu chước quỷ quyệt thâu đoạt lợi lộc, quyền thế. Vì vậy, mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh đấu, giựt giành; mạnh được, yếu thua, mất hẳn công bình, thiên nhiên Tạo hoá.

Ấy vậy, phải biết rằng: Tham lam vào tâm, tâm hết đạo đức; tham lam vào nhà, nhà hết chánh giáo; tham lam vào nước, nước mất chơn trị. Tham lam lộng khắp thế giới, thế giới hết Thần Tiên: Lòng tham lam có thể giục các con lỗi đạo cùng Thầy”.

Chớ oán chạ tham lam ngược ngạo,

Bội nghĩa ân trở tráo chước sâu.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THAM LẠM

貪 濫

Tham: Ham của. Lạm: Lấn vào, quá giới hạn.

Tham lạm là có lòng tham lấy vào của công để sử dụng việc riêng của mình.

Theo Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, người chức sắc tham lạm vào tài chánh sẽ bị khép vào tội Đệ tam hình thì phạt giáng cấp từ phẩm đương quyền xuống tới 2 hay 1 cấp.

Đệ tam hình:

1. Tham lạm tài chánh.

2. Giả mạo văn từ.

(Thập Hình Lý Giáo Tông).

 

 

THAM LÊ BỎ LỰU

lựu là những loại trái cây mà trong văn chương người ta thường ví với người đàn bà, con gái.

Tham lê bỏ lựu có ý nói ham mê cái mới, bỏ bê cái cũ, tức là có mới nới cũ.

Nghĩa bóng: Chỉ người thay lòng đổi dạ, vợ chồng không chung thuỷ nhau.

Chừ sao bỏ nghĩa én anh,

Tham lê bỏ lựu, phụ tình trước mai.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THAM LỰU BỎ ĐÀO

Lựu, đào trong văn chương cũng được ví với những người đàn bà, con gái.

Tham lựu bỏ đào, cùng nghĩa với câu thành ngữ “Tham lê bỏ lựu”, dùng để chỉ người có lòng dạ không chung thuỷ, mới chuộng cũ vong.

Xem: Tham lê bỏ lựu.

E ra nhiều thiếp nhiều hầu,

Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THAM NHŨNG

貪 冗

Tham: Ham muốn một cách thái quá, không biết dừng. Nhũng: Gian dối, rầy rà, làm phiền hà.

Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu và lấy của nhân dân.

Như: Quan tham nhũng là phải hối mại quyền thế.

Vợ không tham nhũng kim tiền,

Chồng lo trọn đạo nắm quyền chăn dân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THAM PHÚ

貪 富

Tham: Ham muốn một cách thái quá, không biết dừng. Phú: Giàu, nhiều tiền của.

Tham phú là ham muốn giàu sang.

Thành ngữ Việt Hán thường có câu: “Tham phú phụ bần 貪 富 負 貧” là ham giàu phụ nghèo.

Biểu đừng tham phú lại khi bần,

Cái phận nếu hiền dựa các lân.

(Đạo Sử).

 

 

THAM PHÚ PHỤ BẦN

貪 富 負 貧

Tham phú: Ham làm giàu. Phụ bần: Phụ rãy nghèo.

Tham phú phụ bần là ham chạy theo người giàu có, mà phụ rãy và khinh khi kẻ nghèo hèn.

Chớ nên quyến luyến hồng trần,

Chớ nên tham phú phụ bần rẽ hai.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THAM TÀN

貪 殘

Tham: Tham lam. Tàn: Tàn bạo.

Tham tàn là tham lam tàn bạo. Như: Những kẻ buôn người là bọn tham tàn bạo ngược.

Thánh giáo Bát Nương có câu: Lập quốc trị dân mà hành hạ áp bức dân, hoặc mở Đạo dìu đời độ chúng mà tham tàn bất chánh, đè chúng sắp làm nấc thang cho mình được đứng cao, thì cứu cánh thế nào, mấy anh tự biết.

Tham tàn chúng đã gây tai biến,

Oan khúc mình vương lấy thảm sầu.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THAM TÂM

貪 心

Tham: Ham muốn một cách thái quá. Tâm: Lòng.

Tham tâm là lòng tham, tức lòng ham muốn thái quá.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lẽ tất nhiên Ngài phải tầm phương giải kiết, chúng sanh đã thất đạo nhơn nghĩa, nhơn luân, sự tranh sống trước mặt của nhơn loại đã hết tánh chất loài người, cái tham tâm dục lợi càng buông lung thêm mãi, nên nạn tự diệt hầu gần, cũng do tại đó; ấy vậy muốn có món thuốc giải kiết cứu sống nó lại, thời tức phải phục hưng cái đạo nhơn nghĩa, đã có từ mới tạo Thiên lập Địa, đặng quy tựu thiên lương.

Nếu tính tham tâm giành giựt mãi,

Dầu giàu như núi cũng tiêu mòn.

(Đạo Sử).

 

 

THAM THÌ PHẢI THÂM

Tham thì phải thâm là một thành ngữ dùng để chê những người có tính tham lam, không suy xét chỉ vì tham số lợi nhỏ mà mất đi số vốn lớn.

Phàm làm người cần nên suy xét, hễ muốn có ăn thì phải tự thân lao động để kiếm tiền hay tạo ra của cải vật chất, đó là ta hưởng những thành quả do sức làm việc của bản thân mình. Còn tiền bạc, hay của phi nghĩa, của hoạnh tài, tức là của không phải do sức mình kiếm được mà do lường gạt, chiếm đoạt của người, hay của rơi hoặc tự dưng có được thì không nên tham lam.

Câu chuyện sau đây cho thấy điều đó.Khi Đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài cùng vị đại đệ tử A Nan Đà từ non Thứu Lãnh đi xuống Kinh thành khất thực. Đi giữa đường, ngang qua một bờ đất, Ngài thấy một ghè vàng.

Đức Phật bảo A Nan Đà rằng: “Nầy A Nan! Ngươi có thấy đây là một loài rắn độc không?”.

Ngài A Nan cung kính bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Thật là một loài rắn độc, rất đáng sợ hãi!”.

Rồi hai người ra đi. Đương lúc ấy, có một tiều phu đứng gần nghe được, vội đến xem, thấy một ghè đậy kín. Anh mở ra, thấy toàn là vàng. Anh cười thầm Đức Phật và đệ tử Ngài không biết dùng thứ ấy, còn cho là rắn độc.

Trước khi đem về, anh sung sướng la lên rằng: “Tôi xin nguyện rắn độc này luôn luôn cắn tôi, cha mẹ tôi, vợ con tôi, và quyến thuộc tôi. Tôi không cảm thấy đau đớn gì hết!”.

Sau khi được ghè vàng, anh tiều phu kia trở thành người trưởng giả giàu có kiêu sa. Làng xóm nghi kỵ, không biết vì sao anh giàu sang đột ngột như vậy. Tiếng đồn vang đến tai vua A Xà Thế, nên vua đòi đến hỏi. Anh ấp úng, không muốn nói lượm được ghè vàng. Vua cho là người gian, ra lệnh tịch thu gia tài và bắt anh ta cùng tất cả bà con quyến thuộc đem đi hành hình.

Đi giữa đường anh ta khóc lóc: “Ngài A Nan ơi! Thật là một thứ rắn độc! Rắn độc nó cắn tôi và cắn hết bà con của tôi đây!”.

Bọn lính nghe anh ta luôn gọi Ngài A Nan Đà, bèn trở lại tâu cho vua hay.

Vua ra lệnh đem anh ta về, hỏi lại. Lần này anh ta mới chịu thưa thiệt nguyên do được ghè vàng.

Nghe xong, vua bảo anh tiều phu rằng: “Tội ngươi đáng chết, nhưng may duyên gặp Đức Thế Tôn, nên ta tha tội cho ngươi và bà con ngươi. Ngươi được đem vàng bạc về và từ nay phải sửa đổi tự tâm, tu hành theo thiện nghiệp”.

Trong quyển Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn: “Thậm ái tất thậm phí, Đa tàng tất đa vong. Tri túc bất nhục. Tri chỉ bất đãi, Khả dĩ trường cửu”. Tham thì thâm, chứa nhiều ắt mất nhiều. Biết đủ không nhục, biết dừng chân ở ngoài vòng tranh đấu lợi danh thì không hại và có thể lâu dài.

Làm người phải khá xét suy,

Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THAM THIỀN

Tham: Dự vào, suy nghiệm. Thiền: Yên lặng để chiêm nghiệm đạo lý.

Tham thiền là ngồi yên lặng nhằm lắng đọng tất cả vọng tưởng, tập trung tư tưởng để suy nghiệm về đạo lý cao siêu, làm cho trí huệ hoát khai, chơn tâm tỏ ngộ.

Đại Thừa Chơn Giáo có dạy: Người tu hành cần nhứt là phép tham thiền đặng tầm cái lý Ðạo cao siêu của Tạo Công đặt bày trên mấy cõi hư linh ngõ cho thấu triệt đến cả cội nguồn nguyên thỉ.

Không tham thiền định trí thì làm sao đoạt nổi Thiên cơ, hiểu điều mắc mỏ cho được. Thế nên người tu hay người không tu mà muốn hoát thông sự vật, tham cứu uyên nguyên thì làm sao cũng phải tham thiền.

Vã lại đã sanh ra đứng làm người mà nếu không hiểu biết cội nguồn nhơn loại, ví như loài người bắt đầu bởi đâu mà có? Có làm chi? Sao lại sanh rồi tử? Tử rồi sanh? Mà cứ mãi mãi, hoài hoài, vương vấn với bánh xe luân hồi của Tạo Hoá? Vào chi chỗ trần ai cay nghiệt biển khổ, sông mê, để chịu mang lấy kiếp nặng nề mà luống khổ tâm lao lực, sớm thảm, chiều phiền, rày than, mai khóc. Nếu tự hỏi mình bao nhiêu vấn đề ấy mà chẳng gia công nghiên cứu, tham khảo suy tầm cho tận cùng đáo để, hầu trực giác được cái nguyên lý của Ðạo thì há còn phương pháp nào khác nữa đâu? Vậy phương pháp ấy chính gọi là “Tham-Thiền” đó.

Không tham thiền thì làm sao mở mang trí hoá để đạt cho thấu cái lẻ hư vô huyền diệu. Nhưng phương pháp tham thiền rất là khó lắm. Trước hết cần phải chủ cái tâm vào một tư tưởng nào cho cao thượng, rồi mới lấy cái tư tưởng thanh quang ấy mà nghĩ ngợi cho cùng, xét cho tột thì huệ tâm tự phát, trực giác tự khai, chừng ấy chơn lý nó mới hiện bày ra một cách rõ ràng, minh bạch.

Tham thiền tầm lý huệ tâm khai,

Luyện Ðạo vận hành tạo Thánh-thai.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Ngày đêm luyện Đạo, tham thiền,

Là Cơ Xuất Thế Tiên Thiên phục hồi.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THAM THIỀN NHẬP ĐỊNH

参 禪 入 定

Tham: Suy xét. Thiền: Yên lặng để quán tưởng đạo lý. Nhập: Vào. Định: Giữ tâm cho tịnh, không vọng động.

Tham thiền nhập định nói tắt là “Thiền định”, là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhứt, không để cho tâm tán loạn, mà để cho tâm được vắng lặng hầu quán chiếu và suy nghiệm chân lý.

Pháp môn Thiền định (tham thiền nhập định) là một phương pháp tập trung tâm ý về một đối tượng duy nhứt để điều phục thân tâm và khơi dậy trí huệ giác ngộ.

Thiền định dứt bặt các duyên, giữ tâm ý thanh tịnh, ngoài không theo các tướng, trong tâm chẳng bị loạn, trong sạch mọi vọng tưởng. Khi tâm an định trí tuệ sẽ phát sinh và phiền não được gạn lọc ra khỏi nội tâm.

Trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ số 110 có câu:

Dầu sống một trăm năm.

Ác giới, không thiền định,

Tốt hơn sống một ngày,

Trì giới tu thiền định.

Đại Thừa Chơn Giáo cũng có câu: Hễ nhập định đặng như vậy thì tham thiền mới thấy kết quả tốt đẹp phi thường, vì mỗi khi tham thiền mà trầm tư mặc tưởng vào một vấn đề gì thì các bộ phận, máy móc trong châu thân nó lần lần ngưng nghỉ bớt, mà để cho chơn thần các con xuất ra khỏi xác theo lằn tư tưởng lóng nghe cái lý thiên nhiên.

Một buổi trưa Ngài đang tham thiền nhập định tại chơn núi, chính Vadatha lăn đá xuống để cho Ngài chết...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THAM VỌNG

貪 望

Tham: Lòng ham muốn không chính đáng. Vọng: Mong ước, mong cầu.

Tham vọng là lòng ham muốn, mong ước quá lớn lao, vượt xa khả năng thực tế, khó có thể đạt được.

Như: Tham vọng làm bá chủ toàn cầu, nó có tham vọng giải quyết mọi việc ngoài khả năng của nó.

Vì một tham vọng hoặc vì tranh giành quyền lợi, người chức sắc hay tín hữu có manh tâm làm cho nền Ðạo phải mang tai tiếng...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÁM

Thám là dò xét, thăm dò.

Như: Dọ thám, thám hiểm dưới biển Thái Bình Dương, nó đi dò la thám thính khắp mọi nơi.

Sự thật cũng có chứa bọn ấy mà vụ nầy phát giác là do nhơn viên dọ thám biết rõ mà điềm chỉ.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẢM

Thảm là xót xa, đau đớn đến mức làm ai cũng phải động lòng. Như: Chết thảm, khóc nghe rất thảm.

Thánh giáo Thầy có câu: hoạ Âu tai Á sẽ vì nơi Thiên thơ mà sát phạt, gieo sầu để thảm cho những giống dân nào đã vì hung bạo mà gây nên điều thán oán khắp cả Càn khôn nầy.

Một miếng đỉnh chung trăm giọt thảm,

Phải toan lui gót tránh vòng tham.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phép nước đòi cơn mây gió thảm,

Nghiệp nhà lắm lúc nước non sầu.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

THẢM BẠI

慘 敗

Thảm: Xót xa, đau đớn đến mức làm ai cũng phải động lòng. Bại: Thua thiệt, thất bại.

Thảm bại là thất bại một cách đau đớn. Như: Mông Cổ đến Việt nam bị đánh thảm bại phải rút quân về.

Hốt Tất Liệt thâu cả Hoàng đồ bên Âu Châu, đặt gót tới Việt Nam bị thảm bại.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẢM ĐẠM

慘 淡

Thảm: Thương xót, đau đớn. Đạm: Nhạt, lạt lẽo.

Thảm đạm là gầy gò khô héo.

Thảm đạm còn có nghĩa buồn thảm, lanh lẽo. Như: Nét mặt nó xem có vẻ thảm đạm.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Bần Ðạo chỉ nhắc lại cho con cái của Ðức Chí Tôn thấy rõ, nhơn loại hiện nay đã xu hướng theo hạng trí thức tinh thần khoa học thì có kể đâu là thương chủng tộc, nên ngày nay đã gây ra biết bao tấn tuồng thê lương thảm đạm, nhơn loại hết yêu ái nhau, mà trái lại người với người họ đối nhau còn quá hơn thú dữ, người với người mà họ chưa biết tôn trọng mạng sống với nhau, họ lại đoạt mạng sống của nhau đặng tìm hạnh phúc.

Xem cây cỏ như màu thảm đạm,

Ngó thú cầm dường cảm đau thương.

(Nữ Trung Tùng Phận).

U ám mịt mờ màu thảm đạm,

Thúi hôi nhơ nhớp cảnh đìu hiu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THẢM HOẠ

慘 禍

Thảm: Xót xa, đau đớn đến mức làm ai cũng phải động lòng. Hoạ: Tai vạ, việc rủi.

Thảm hoạ là tai hoạ lớn, gây nhiều cảnh đau thương, thảm thiết. Như: Thảm hoạ chiến tranh.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Ðức Chí Tôn có dạy là dân tộc Việt Thường đang ở trong vòng vay trả oan nghiệp, nhưng hơn 20 năm qua đã hứng chịu nạn binh đao thảm khốc, sự đau khổ đã chập chồng trên đất nước, dù là nơi an tịnh tu hành cũng không tránh khỏi thảm hoạ chết chóc, sự nghiệp tiêu tàn, cửa nhà đổ vỡ. Chúng ta trong cửa Ðạo, vì lòng bác ái đối với nhơn sanh, vì tình thương tổ quốc, phải luôn luôn để tâm cầu khẩn Ðấng Chí Tôn chan rưới hồng ân, xoá bớt tội tình cho Việt Chủng.

Bần Đạo thấy Ngài (Khai Pháp) buồn kiếm chước cho vui đở, và lần lượt kiến tạo Trí Giác Cung được khuyên Ngài vào ở cho an tịnh cho bớt cảnh thảm hoạ trên diễn mãi trước mắt hằng ngày.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẢM KINH

慘 驚

Thảm: Đau thương đến mức làm ai cũng phải động lòng. Kinh: Sợ sệt.

Thảm kinh là đau đớn và kinh sợ. Như: Năm 1945 người dân miền Bắc bị nạn đói chết thấy thảm kinh.

Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,

Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THẢM KHỔ

慘 苦

Thảm: Thương xót, đau đớn. Khổ: Đau đớn, vất vả.

Thảm khổ là khổ sở thảm thiết.

Thánh giáo Thầy dạy: Dùng hết mưu chước quỷ quyệt thâu đoạt cho đặng lợi lộc quyền thế cho nhiều, vì vậy mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh tranh đấu đấu, giựt giựt giành giành, gây nên mối loạn, nhơn loại nghịch lẫn nhau, giúp cho phép Tà quyền, mạnh hơn, yếu thiệt, mất phép công bình thiêng liêng Tạo hoá. Cái trường thảm khổ của thế gian cũng do nơi đó mà ra.

Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi,

Quên trần ai mong mỏi Động Đào.

(Kinh Tận Độ).

Nước Nam thảm khổ ê chề,

Đem thân mày liễu tô về giang san.

(Bát Nương Giáng Bút).

Lấy đau thương làm thuốc cầm duyên,

Pha thảm khổ hương nguyền kia mới đượm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẢM KHỐC

慘 酷

Thảm: Thương xót, đau đớn. Khốc: Rất, ngược bạo.

Thảm khốc là hết sức tàn khốc, tức gây ra những cảnh rất thảm thương. Như: Chiến tranh là gây sự tàn sát thảm khốc.

Thánh giáo của Đức Diêu Trì Nương Nương: Mấy con! Mẹ lấy làm đau đớn thấy nhơn sanh trong cửa Đạo, đã vì Đạo vì nhà chịu bao điều thảm khốc, bao nhiêu người đã bỏ mạng vùi xương, bao nhiêu điều còn ấp ôm thống khổ.

Bần Ðạo tưởng chắc từ chưa có loài người đến giờ, chưa có trận chiến tranh nào sát hại nhơn loại thảm khốc dường ấy.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẢM NÃO

慘 惱

Thảm: Thương xót, đau đớn. Não: Khổ trong lòng.

Thảm não là buồn thảm não nề. Như: Bộ mặt chị ấy xem rất thảm não.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Vì xã hội lấy cường lực, lấy tàn ác sát hại sanh vật làm căn bản, nhìn thấy cảnh mạnh đặng, yếu thua, khôn còn, dại mất, đã lưu lại tấn tuồng thảm não nơi mặt địa cầu này cái quả nghiệp vô tận vô biên của họ hôm nay họ phải trả.

Nhìn thấy cảnh mạnh đặng, yếu thua, khôn còn, dại mất, đã lưu lại tấn tuồng thảm não nơi mặt địa cầu.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẢM SẦU

慘 愁

Thảm: Thương xót, đau đớn. Sầu: Buồn rầu.

Thảm sầu là thương xót buồn rầu, hay buồn thảm âu sầu. Như: Nhiều nỗi thảm sầu.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có viết: Về tổ quốc sau khi đã chịu đủ vị thảm sầu, tưởng đã đủ cớ phô bày cho cả chúng sanh thấy đặng rõ ràng chơn tướng của Ðạo, đã nung chuốt với sự thảm khổ vô hạn của mình đặng vẽ vời giọt huyết lệ, hai chữ nhơn nghĩa cho đời; nào dè trái lại thấy chan chán trước mặt một tấn tuồng bi thảm, nước mất nhà tan, xương chồng máu đổ.

Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu,

Ăn thể ăn di chịu thảm sầu.

(Đạo Sử).

Thầy còn đang chịu cơn lao lý,

Tớ lại màng chi phận thảm sầu.

(Thơ Hộ Pháp).

Tham tàn chúng đã gây tai biến,

Oan khúc mình vương lấy thảm sầu.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THẢM TÍN

慘 信

Thảm: Thương xót, đau đớn. Tín: Thư từ, tin tức.

Thảm tín là tin buồn thảm, tức những tin tức đưa đến gây mối thảm sầu trong lòng.

Như: Vừa mới nhận được thảm tín từ quê nhà.

Các chỗ ấy dẫy tràn thảm tín,

Càng ở gần khó nhín sầu than.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẢM THIẾT

慘 切

Thảm: Đau thương đến mức làm ai cũng phải động lòng. Thiết: Cắt.

Thảm thiết là thê thảm thống thiết, tức đau xót trong lòng như cắt ruột.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Chư đạo hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như kẻ không hồn, thấy càng thảm thiết!

Chốn Dạ đài Thập Điện Từ Vương,

Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.

(Kinh Tận Độ).

Dồn dập mối sầu thân thảm thiết,

Thầy khuyên hành đạo sẽ vui lòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẢM THƯƠNG

慘 傷

Thảm: Thương xót, đau đớn. Thương: đau đớn xót xa, như thương thân, thương tâm.

Thảm thương là đau đớn thương xót. Như: Chết một cách thảm thương, tai nạn thảm thương.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hằng ngày diễn ra nhiều tấn tuồng thảm thương, bi kịch, xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế không thể nào ngưng được.

Ðui mù hiếm kẻ cẳng dò đường,

Mò cát kiếm vàng thấy thảm thương.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THẢM TRẠNG

慘 狀

Thảm: Thương xót, đau đớn. Trạng: Cảnh tượng bề ngoài, như trạng thái, trạng huống.

Thảm trạng là tình trạng bi thảm, trông thấy bắt xót xa, đau lòng. Như: Thản trạng của xã hội hiện nay.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Sưu Tập có đoạn dạy: Tiếc thay! Hơn năm năm chầy, Thầy để hết gan tấc đem Thánh đức mà nhồi nắn các con, nay cũng còn thấy dưới mắt Thầy một cái thảm trạng phàm tình gây cuộc nầy.

Nói về cái thảm trạng của quốc dân Việt Nam hồi thuở lập quốc, một tình trạng thống khổ đã làm cho Bần Đạo phải nghẹn ngào.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THAN

1.- Than là một loại nhiên liệu rắn, màu đen, do gỗ cháy dở, hoặc do cây cối chôn vùi dưới đất phân huỷ dần qua nhiều thế kỷ biến thành mỏ than.

Trong bài Diễn văn của Đức Quyền Giáo Tông đọc tại Toà Thánh ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất có câu: Ðã chín năm xông lướt trên con đường đi than lửa, bước chông gai mà cũng có thể bảo thủ chơn truyền của Thầy vững vàng toàn hảo, thì không phải là một tay giả mạo hay là một đứa tội nhơn, mà làm cho Thánh chất đặng thắng hơn phàm tánh.

Than chưa ngún lửa cuộc đời qua,

Nhưng bởi mến con hứa đặng nhà.

(Đạo Sử).

2.- Than là kể lể những nỗi buồn bực, khổ sở trong lòng. Như: Than thầm, than thân trách phận.

Thánh giáo Đức Thích Ca Mâu Ni Phật viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chuyển Đạo Nam Phương có dạy: Thầy thường than rằng: Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh, nên Thầy nôn nóng nhưng Thiên cơ chẳng nghịch đặng. Ma quỷ hằng phá Chánh mà giữ Tà, chư Tiên Phật trước chưa hề tránh khỏi.

Mau bước lui lần qua cõi tục,

Cười than vui khóc, thấy hay chưa?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Công khó hay than cho nỗi khó,

Ðiều sang tánh lại hám mùi sang.

(Đạo Sử).

 

 

THAN KHÓC

Than: Nói lên lời cảm thương cho nỗi đau bất hạnh của mình. Khóc: Chảy nước mắt do đau đớn, buồn rầu hay xúc động mạnh.

Than khóc, như chữ “Khóc than”, là vừa buông ra những lời than thở, buồn rầu, vừa khóc lóc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trên bước đường lập vị, có khi quá khiếm khuyết về vật chất, quá khổ đau vì đời sống vất vả thất thường, người tu hành có thể than khóc và rối loạn tinh thần. Nhưng tin tưởng nơi lòng yêu thương của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ và nơi tấm thạnh tình chia vui sớt nhọc của các bạn đồng thuyền, người đau khổ cũng tự an ủi được vì ở trong cảnh ngộ đó cũng chưa phải là quá thất vọng chán nãn đưa đến chỗ bán đồ nhi phế bỏ dở hành trình.

Thây người máu chảy dầm dề,

Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THAN ÔI

Than: Nói lên lời cảm thương cho nỗi đau bất hạnh của mình. Ôi: Tiếng than, tiếng kêu.

Than ôi là từ biểu lộ sự đau buồn, thương tiếc.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Than ôi! Ðã bước chân vào đường đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn, thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền Thánh giáo đâu?

Sau đặng nên nhà công chớ nại,

Khiến điều oan trái chớ than ôi.

(Đạo Sử).

Lời lỗ không người binh vực đỡ,

Than ôi! cô quạnh phận hồng nhan.

(Đạo Sử).

 

 

THAN THỞ

Than: Nói lên lời cảm thương cho nỗi đau bất hạnh của mình. Thở: Nói ra những lời không hay.

Than thở là kêu than, và thổ lộ những nỗi buồn rầu đau khổ của mình.

Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung có câu: Em xin nhắc nhở điều nầy: Ngày hội Ngọc Hư đặng lo phương tiếp pháp của Tây Phương Cực Lạc qua, Em đã đặng nghe thấy những lời của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát than thở rằng: Ngài là Phật nên khó gần gũi các hồn Nữ phái mà khuyến giáo cơ giải thoát mê đồ.

Lòng đừng so thiệt tính hơn,

Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.

(Kinh Sám Hối).

Nhiều phen than thở phận côi cùng,

Chẳng biết cùng ai tỏ dạ trong.

(Đạo Sử).

Buồn than thở khi trưa lúc tối,

Quặn chín chiều ruột rối vò tơ.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THAN VAN

Than: Kể lể nỗi buồn khổ trong lòng. Van: Kêu xin, thường than khóc.

Than van, cũng như chữ “Than vãn”, là than thở, kể lể nhiều nỗi ẩn khúc trong lòng.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Lý Giáo Tông nhắc lại lời của Đức Chí Tôn đã dạy: Bởi các con phải chịu luật luân hồi, vì cớ mà các con phải chịu điều khổ sở như vậy, các con chớ than phiền, chính theo lời thề của các con thì Thầy hành các con cho đúng lẽ. Vậy mới xứng đáng là môn đệ của Thầy. Có nhiều đứa vì không rõ luật Thiên điều, cứ than van mãi.”

Mái tóc điểm sương chưa học Ðạo,

Hoạ kề dầu hối khó than van.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Một tiếng than van thân cực nhọc,

Một oan chẳng chịu muốn gầy hai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THAN VÃN

Than: Kể lể nỗi buồn khổ trong lòng. Vãn: Điệu hát giọng buồn, thường than khóc.

Than vãn là than thở và kể lể, mong có sự đồng cảm, xót thương.

Như: Chị ấy ôm ấp sự tủi nhục trong lòng, không có một lời than vãn.

Bởi rẽ bạn với ai than vãn,

Ngó trăng thu thêm ngán ngày qua.

(Tứ Nương Giáng Bút).

 

 

THÁN

1.- Thán là than thở, không dùng một mình.

Như: Thán oán, dân chúng hiện nay ta thán về việc môi trường bị ô nhiễm.

Thiên căn chánh kiếp chỉ tâm hành,

Thán thế bất hoà chỉ cạnh tranh.

(Đạo Sử).

2.- Thán là than đốt. Như: Đồ thán, bùn than, ý nói trong cảnh bùn lầy và than nóng. Chỉ sự hết sức vất vả, khổ cực.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu trong nước mà cầu lợi như thế, thì bá tánh phải chịu lao lung, muôn dân đồ thán, trong nước thế nào bình trị được?

Nhơn sanh đồ thán cơn binh lửa,

Thế giới thương đau nỗi lực quyền.

(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).

 

 

THÁN OÁN

歎 怨

Thán: Than thở. Oán: Giận hờn.

Thán oán là than và oán trách. Mọi người thán oán về việc cầu kinh đã xuống cấp trầm trọng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Hoạ Âu tai Á sẽ vì nơi Thiên thơ mà sát phạt, gieo sầu để thảm cho những giống dân nào đã vì hung bạo mà gây nên điều thán oán khắp cả Càn khôn nầy.

Nhưng cũng có nhiều đứa dụng tà tâm mà làm cho có sự thán oán trong nền Ðạo của Thầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẢN

Thản là rộng rãi, bằng phẳng, vui vẻ.

Như: Đầu óc anh ấy lúc nầy rất thanh thản, khi hành Đạo phải thản nhiên trước lời chỉ trích.

Bẽ bàng thân phận chưa thanh thản,

Ngán ngẩm công danh quá muộn màng.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

THẢN NHIÊN

坦 然

Thản: Rộng rãi, bằng phẳng, vui vẻ. Nhiên: Như thế.

Thản nhiên là có dáng vẻ tự nhiên như thường, coi như không có gì xảy ra.

Như: Hắn rất sợ chết nhưng giả vờ thản nhiên trước việc nguy hiểm.

Ví như lời chỉ trích chỉ do sự ganh tỵ mà ra thì ta nên thản nhiên tiếp tục làm việc phải.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THANG

1.- Thang là vật làm bằng tre, gỗ, gồm hai thanh song song dựng đứng, nối liền với nhau bằng nhiều thanh ngang ngắn, cách đều nhau thành bậc.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Công quả tuy nhọc nhằn, nhưng địa vị cao thượng cũng chẳng phải dễ đoạt được. Có vì chúng sanh mà khổ tâm hành đạo, có khó nhọc, có dãi dầu sương mơi nắng xế, mà quên bậc phẩm vô vị ở cõi trần nầy, có vày vã nẻo gai chông lần theo bước đường hạnh đức, mới có ngày vui vẻ bất tận, mới có buổi an hưởng địa vị thiêng liêng, tránh điều phiền não, thoát đoạ luân hồi, mới có lúc rảnh nợ phong trần, nhàn xem sự thế, non cao suối lặng, động mát rừng thanh, là chỗ con lấy đạo đức làm thang để bước lên cho cùng tột.

Tầng Trời gắng bước lên thang,

Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.

(Kinh Tận Độ).

Thuyền Ðạo đẩy đưa lằn sóng biển,

Bước đời dùn thẳng bước thang Trời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thang là nước đun nóng, sôi, hoặc chỉ chén nước thuốc.

Như: Thang oa cận (nồi nước sôi gần một bên), bệnh nầy phải uống ba thang thuốc.

Lung kê hữu mễ thang oa cận,

Dã hạc vô lương Thiên Ðịa khoan.

(Lý Bạch Giáng Bút).

Gái nồi cơm bát nước đói no,

Trai thang thuốc ngày lo an vấn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THANG MÂY

Thang mây, bởi chữ Hán là “Vân thê 雲 梯”, là cái thang để bước lên mây.

Thang mây dùng chỉ lúc được thoả chí lên tận mây, để diễn tả thành đạt của công danh sự nghiệp.

Chuông Thánh tri hồn reo đảnh Việt,

Thang mây đưa bước đến non Thần.

(Bảo Văn Pháp Quân).

Căn sanh nếu được rồi vay trả,

Mượn nấc thang mây bước tận trời.

(Thơ Hương Ánh).

 

 

THANG THUỐC

Thang: Tập hợp những vị thuốc đông y dùng để sắc chung với nhau trong một lần. Thuốc: Chất được chế biến dùng để chữa bệnh.

Thang thuốc, như chữ “Thuốc thang”, là thuốc dùng để phòng hoặc chữa bệnh, thường dùng cho đông y.

Khi già yếu cần lo thang thuốc,

Trong gia đình thông thuộc liệu giùm phương.

(Phương Tu Đại Đạo).

Cơn bịnh hoạn ân cần thang thuốc,

Khi rầu buồn dịu ngọt khuyên lơn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THANG TRỜI

Thang: Vật để leo làm bằng tre, gỗ, gồm có nhiều bậc. Trời: Chỉ cõi Thiên.

Thang Trời là cái thang bắc lên tận Trời cao.

Thánh giáo Thầy có dạy: Ðạo mở chủ ý dìu dắt những kẻ hữu phần, đặng ráng cùng nhau dắt lên khỏi con đường trắc trở, vẹt nẻo chông gai, bước tận đến thang Trời hội hiệp cùng Thầy trong buổi chung qui.

Thuyền Ðạo đẩy đưa lằn sóng biển,

Bước đời dùn thẳng bước thang Trời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THANG VÕ

湯 武

Hay “Thang Vũ”.

Thang Võ là hai ông vua thời nhà Thương và nhà Châu, đó là vua Thành Thang và vua Võ Vương.

Thành Thang là vị vua đứng lên diệt nhà Hạ, sáng nghiệp nhà Thương.

Võ Vương là con của vua Châu Văn Vương, tên Phát, cuối đời nhà Ân Trụ, kế vị cha giữ chức Tây Bá. Sau thống lãnh quân chư hầu đông chinh, đánh bại vua Trụ ở Mục Dã, diệt nhà Ân, dựng nên nghiệp nhà Châu.

Cày mây cuốc nguyệt chờ Thang Võ,

Rằng biết cho dân chịu buộc ràng.

(Đạo Sử).

 

 

THANG VÔ NGẰN

Thang: Vật để leo làm bằng tre, gỗ, gồm có nhiều bậc. Vô: Nói tắt của vô số, nhiều. Ngằn: Bậc thang.

Thang vô ngằn là cái thang có vô số nấc, có thể bắc lên cao tận trời.

Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÁNG

Tháng là chỉ khoảng thời gian một phần mười hai trong một năm, tức khoảng hai mươi chín hay ba mươi ngày, tuỳ theo tháng thiếu đủ. Như: Tháng ngày, một năm gồm mười hai tháng.

Thánh giáo Thầy có câu: Lần lựa cúc xủ sương tan, mai gầy sen nở, ngày tháng qua chẳng là bao mà thế thái nhơn tình biết bao thay đổi!

Lần lừa ngày tháng cảnh đưa xuân,

Ướm chổi huỳnh lương tỉnh dậy lần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cải hạnh đố ngươi về tập thử,

Tháng sau sẽ đến trước trình Ta.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÁNG LỤN NĂM CHẦY

Tháng lụn: Tháng lần lần qua đi sắp hết. Năm chầy: Năm muộn.

Tháng lụn năm chầy là nói ngày tháng trôi đi, năm tuy chậm, nhưng rồi cũng sẽ qua.

Phải cố tâm mài giũa, gắng công tháng lụn năm chầy thì một ngày kia mới thấy lố hình ngọc quý.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÁNG LỤN NGÀY QUA

Tháng lụn: Tháng lần đi sắp hết. Ngày qua: Ngày đã dần trôi qua.

Tháng lụn ngày qua là nói ngày qua đi sắp hết tháng, ý chỉ thời gian trôi qua dần. Như: Tháng lụn ngày qua nuôi con đã khôn lớn.

Nho phong một cửa để khuyên người,

Tháng lụn ngày qua đã bỏ trôi.

(Đạo Sử).

Tháng lụn ngày qua dồi đạo hạnh,

Đêm chầy canh vắng dưỡng tinh thần.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÁNG THUẤN NGÀY NGHIÊU

Tháng Thuấn ngày Nghiêu, bởi câu “Nghiêu thiên Thuấn Nhật 堯 天 舜 日”, là nói ngày tháng của hai đời vua Nghiêu và vua Thuấn.

Tháng Thuấn ngày Nghiêu dùng để chỉ thời thái bình thịnh trị như hai đời vua Nghiêu Thuấn.

Xem: Nghiêu thiên Thuấn nhật.

Lập pháp Đạo Trời vui tháng Thuấn,

Xây nền đời mới hứng ngày Nghiêu.

(Thơ Thanh Hương).

 

 

THẢNG

Thảng là nếu như, giá phỏng như, hoạ hoằn lắm.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Lão chẳng nói rõ, hiền hữu cũng thấy hiển nhiên rằng từ thử, thảng Lão có muốn nên cho Ðạo đi nữa thì cũng không thi thố chi đặng với một Hội Thánh hữu hư vô thiệt, như vậy có phải?

Như thảng có kinh luật chi làm hại phong hoá thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẢNG MẢNG

Thảng mảng, đồng nghĩa với chữ “Thỏn mỏn”, có nghĩa là dần qua, ngày qua ngày, chỉ thời gian lần lần trôi qua đi. Như: Thảng mảng mà đã hai mươi năm, nỗi đau rồi cũng nguôi dần.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thảng mảng ngày qua tháng lại, hạ sanh con đầu lòng là Jésus.

Những thảng mảng tháng thâu năm lụn,

Sớm công phu, tối tụng Vãng sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẢNG NHƯ

倘 如

Thảng: Nếu, giá phỏng, hoạ hoằn. Như: Giống, bằng.

Thảng như là ví như. Ví dụ: Đường vào xóm rất thấp, thảng như mưa nhiều thì sẽ ngập láng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thảng như rủi năm nào thất bác, dân đói khó, thì lập tức mở kho ấy phát cho dân gọi là chẩn bần, mà đầu tiên đứng ra tế chẩn là ông Hương Chủ, khởi phát ở kho lúa của làng trước, khi nào thiếu mới lấy thêm ở kho quốc gia.

Thảng như có điều chẳng vừa ý thì nên ôn tồn, nhỏ nhẹ, bày tỏ chỗ thiệt hơn, chẳng khá cãi cọ mà sanh ngỗ nghịch.

(Giáo Lý).

 

 

THANH

1.- Thanh là tiếng dùng để chỉ từng đơn vị những vật có hình dài, mỏng, nhỏ bản.

Như: Thanh gươm, thanh tre, thanh sắt.

Vậy Quân Ðội Cao Ðài phải giữ gìn thanh gươm nghĩa hiệp, lá cờ nhơn nghĩa cho vững vàng.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Thanh là trong, không đục, không bợn. Như: Thanh bạch, thanh bần, thanh cao, thanh khiết.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy về cơ bút có câu: Nếu chấp cơ thì phải để ý thanh bạch, không đặng tưởng đến việc phàm.

Người hứng trăng thanh kẻ bụi vùi,

Âm dương cách trở chẳng cùng vui.

(Đạo Sử).

Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh,

Lòng thanh nhờ lẫn lóng hơi thanh.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

3.- Thanh là màu xanh da trời.

Như: Thanh thiên bạch nhựt, Kiều ở chốn thanh lâu, thanh y, thanh sử.

Lục chu may trộn giống màu thanh,

Bô vải mà che một tấc thành.

(Đạo Sử).

Ðế thất nhứt tâm trung khí dõng,

Thanh y xích diện hảo vinh phong.

(Quan Thánh Đế Quân).

Nhục thanh lâu kìa trước con người,

Hổ thay chúng miệng cười chẳng nhiếp.

(Phương Tu Đại Đạo).

4.- Thanh , còn đọc “Thinh”, là tiếng phát ra từ vật gì, là âm thanh.

Như: Âm thanh, thanh thế, thanh danh, thanh giá, thanh khí, thanh sắc.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Thanh danh của Ðạo là trọng hơn hết, chúng ta phải nâng cao cái thinh danh tôn quý ấy bằng việc làm thực tế chớ chẳng phải bằng lời nói suông và cái khổ của nhơn sanh càng được vơi bớt phần nào, chủ nghĩa Phước Thiện càng thêm bành trướng thì cái thinh danh của Ðạo càng được cao siêu và càng thêm chói rạng.

Khơi nguồn thanh khí thơ tràn mộng,

Kết nghĩa quỳnh dao bút trổ hoa.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

THANH ÂM

聲 音

Hay “Thinh âm”.

Thanh (thinh): Tiếng. âm thanh. Âm: Cái phát ra mà tai có thể nghe được.

Thanh âm, như chữ “Thinh âm”, là tiếng do một vật gì phát ra.

Trong tôn giáo, thanh âm là tiếng dùng để chỉ chung những gì có âm thanh, như âm nhạc, chuông, trống, mõ, tiếng kinh kệ...

Theo Đại Thừa Chơn Giáo, Đức Chí tôn lập Đạo kỳ ba này trái hẳn với Tam giáo, là lấy hữu hình để truyền đạo trước, tức lấy sắc tướng thanh âm độ đời một cách mau chóng, rồi sau đó mới lần lần dẹp hết chỗ hữu hình mà đi đến chỗ vô vi, là cơ siêu phàm nhập Thánh.

Cửa Phật lòng không ham sắc tướng,

Trường văn trống giục dội thanh âm.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THANH BẠCH

清 白

Thanh: Trong sạch. Bạch: Trắng.

Thanh bạch là trong trắng, chỉ cái hành vi trong sạch, không có điều gì tỳ vết.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Các con nếu biết đời khổ tâm, biết vày vò tình thế, biết chịu kém sút trong nẻo lợi đường danh, biết thiệt mình mà đặng cho kẻ khác, biết đổ lụy cho kẻ vui cười, biết nhọc nhằn trong kế sinh nhai, biết giữ tâm chí cho thanh bạch, đừng nhơ bợn của chẳng nên dùng, biết động mối thương tâm, thương người hơn kể mình, thì là các con được tắm gội hồn trong mà về cùng Thầy đó.

Xin gìn giữ thánh hình thanh bạch,

Xin xá ân rửa sạch tiền khiên.

(Kinh Tận Độ).

Thanh bạch một lòng vì đạo hạnh,

Có khi lóng đục bởi nhờ phèn.

(Đạo Sử).

Thanh bạch quyết gìn ra sức lái,

Sắt son bao quản nhọc công dò.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THANH BAI

Thanh bai là trong sạch, đẹp đẽ. Như: Giữ gìn tư cách cho thanh bai, trong sạch.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trái lại cái tâm được nuôi nấng, được nâng cao, cái tâm của các bậc phi thường như Ðịch Nhơn Kiệt đời Ðường, Quan Công Hầu đời Hớn là tâm làm cho những đấng ấy danh vọng xa bay, tiếng tăm lừng lẫy. Họ xem sắc đẹp như cây khô, thị tiền tài như dép rách, đời trong sạch thanh bai từng làm cho kẻ thù nghịch phải khép nép cúi đầu.

Tranh thế bớt pha lằn bợn trược,

Cuộc đời thêm rạng vẻ thanh bai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THANH BẦN

清 貧

Thanh: Trong sạch. Bần: Nghèo khó.

Thanh bần là nghèo mà trong sạch.

Sách Chu lễ có câu: Thanh bần thường lạc, trọc phú đa ưu 清 貧 常 樂, 濁 富 多 憂, nghĩa là nghèo mà trong sạch thì luôn vui vẻ, còn giàu mà nhơ bợn thì nhiều phiền não.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hiện giờ cùng chung chịu cảnh thanh bần của Đạo, chúng tôi phải tiết kiệm đồng tiền của Đạo hết sức cân phân lợi hại trước khi tiêu phí, vì đó là huyết mạch của nhơn sanh, chúng ta không có quyền phung phí vô lối.

Lụy châu đổ thương người lữ thứ,

Chốn phồn hoa vẫn giữ thanh bần.

(Bát Nương Giáng Bút).

Núi rừng thủ phận thanh bần,

Tịnh thanh một cõi phong trần mặc ai.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THANH BẦN THƯỜNG LẠC

清 貧 常 樂

Thanh bần: Nghèo mà giữ lòng trong sạch. Thường lạc: Luôn luôn vui vẻ.

Thanh bần thường lạc là người nghèo khó giữ lòng trong sạch thì luôn luôn lúc nào cũng được sự an vui.

Thực vậy, người giàu có tạo ra sự nghiệp với những mưu đồ bất chánh nên cứ mãi lo sợ không biết ngày nào phải đền trả hành vi xấu xa của mình, còn kẻ nghèo khó giữ lòng trong sạch với những hành động chơn chánh thì trong tâm họ lúc nào cũng an vui.

Ðó thiệt là “Thanh bần thường lạc, trược phú đa ưu”.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THANH BÌNH

清 平

Thanh: Trong sạch. Bình: Yên ổn.

Thanh bình là nói cuộc đời yên ổn, không có điều gì xáo trộn ý chỉ đất nước thái bình thịnh trị.

Như: Đất nước thanh bình, cuộc sống thanh bình.

Ấy là bước thanh bình chủng loại,

Cả nhơn sanh nhờ đoái Đài Cao.

(Lục Nương Giáng Bút).

Nén hương cầu sớm tan binh lửa,

Đời đạo thanh bình chóng phục hưng.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

THANH BƯỜNG

Thanh: Trong sạch. Bường (bình): Yên ổn.

Thanh bường, như chữ “Thanh bình 清 平”, là yên vui trong cảnh hoà bình. Như: Đất nước thanh bường.

Xem: Thanh bình.

Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước,

Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THANH CAO

清 高

Thanh: Trong sạch. Cao: Cao thượng, cao quý.

Thanh cao là thanh nhã và cao khiết.

Thanh cao còn dùng để chỉ khí tiết của người không chịu uốn mình để làm một điều gì trái với lương tâm, có một nhân cách trong sạch, cao quý.

Như: Người tu phải trau giồi tâm hồn cho thanh cao.

Thánh giáo Thầy có câu: Ấy vậy, Ðại Ðạo Tam Kỳ chẳng khác chi một trường thi công quả. Nếu biết ăn năn trở bước lại con đường sáng sủa, giồi tâm trau đức, đặng đến hội diện cùng Thầy, thì mới đạt đặng địa vị thanh cao trong buổi chung quy cho.

Thanh cao là biết ngon dưa muối,

Hơn ngự lầu yên ngó đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dầu rủi phận nợ thân chẳng vẹn,

Đạo cần vương nêu tiếng thanh cao.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Tuy phải chịu đầu trần mưa nắng,

Mà tinh thần trong trắng thanh cao.

(Thơ Đức Hộ Pháp).

 

 

THANH CÂN

青 巾

Thanh: Màu xanh. Cân: Cái khăn đội đầu.

Thanh cân là cái bao đảnh xanh, tức một cái khăn màu xanh quấn lại dùng để đội đầu.

Trong đạo Cao Đài, Đức Thượng Sanh, một phẩm Chức sắc của Hiệp Thiên Đài chi Thế, khi mặc Đại phục, đầu bịt Thanh cân.

Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Bộ Đại Phục (Của Đức Thượng Sanh) cũng y như của Thượng Phẩm, đầu bịt “Thanh Cân” nghĩa là: một bao đảnh xanh, lưng mang Dây Thần thồng nịt Dây Lịnh sắc, y như của Hộ Pháp và Thượng Phẩm, song mối phải thả ngay về bên tả.

Đầu bịt Thanh cân cầm phất chủ,

Lưng đeo hùng kiếm giữ cung Thiên.

(Thơ Phạm Mộc Bổn).

 

 

THANH CUNG

青 宮

Thanh: Màu xanh. Cung: Cung điện.

Thanh cung là cung điện sơn màu xanh.

Sách Thần Dị Kinh chép: Ở ngoài biển Đông Hải, núi Đông Minh có một cung điện vách tường bằng đá xanh, ngoài cửa có tấm bảng bằng bạc đề: Thiên địa trưởng nam chi cung 天 地 長 男 之 宮, tức là cung con trai trưởng của trời đất.

Nhân đó người ta gọi Thái tử là Đông cung (Cung ở Đông Hải), hoặc “Thanh cung 青 宮”.

Thanh cung còn dùng để chỉ mặt trăng (cung nguyệt, cung trăng).

Nơi Thanh cung hỏi Hằng Nga,

Vì ai ngọc đổ châu sa bấy chừ.

(Tứ Nương Giáng Bút).

 

 

THANH CHƯỚC

清 酌

Thanh: Trong sạch. Chước: Rót rượu.

Theo Hán Việt Từ Nguyên, Giáo sư Bửu Kế có giải thích: “Thanh chước” là rượu tinh khiết, ý nói thứ rượu trong sạch có thể rót để cúng tế được.

Chư Thiên phong nghiêm thiết Đàn tràng: Hương, đăng, hoa, trà, quả, thanh chước chi nghi thành tâm hiến lễ.

(Sớ Văn).

 

 

THANH DANH

聲 名

Thanh (thinh): Tiếng tăm. Danh: Tên họ.

Thanh danh, còn đọc là “Thinh danh”, là nói người có tiếng tăm, hay nổi tên tuổi.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Sự nhớ công ơn đó chẳng phải là bằng lời nói không, mà phải bằng những cử chỉ và hành động xây dựng, thế nào cho thanh danh Ðạo ngày càng thêm cao, thế nào cho Ðại nghiệp nầy được bành trướng và trường tồn mãi mãi.

Phất chủ quét tan lằn trược khí,

Thư hùng định vững bậc thanh danh.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THANH ĐẠM

清 淡

Thanh: Trong. Đạm: Lạt.

Thanh đạm là nói những thức ăn bình thường, giản tiện, không cần đến thức cao lương mỹ vị. Như: Bữa ăn rất thanh đạm.

Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðời chuộng vinh sang, Ðạo chuộng khổ hạnh, đời ham trược phú, Ðạo giữ thanh bần, lên xe xuống ngựa chốn phồn hoa đổi lại cảnh lê hoắc nâu sồng, nơi cửa Ðạo tương dưa thanh đạm tháng ngày, để mặc miếng mỹ vị cao lương ngoài quán tục.

Con đường hành Đạo thênh thang,

Muối dưa thanh đạm an nhàn từ đây...

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

Thanh đạm quen mùi sống hẩm hiu,

Hai ta xướng hoạ cảm tình nhiều.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THANH ĐẠO

清 道

Thanh: Trong sạch, còn là tên Tịch đạo Nam phái của đời Giáo Tông đầu tiên. Đạo: Tôn giáo, cũng là tên Tịch đạo Nam phái của đời Giáo Tông kế tiếp.

Thanh Đạo là nền tôn giáo trong sạch, chỉ nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Thanh Đạo còn dùng để chỉ tên hai Tịch đạo của đời hai vị Giáo Tông trong đạo Cao Đài.

Đời Giáo Tông đầu tiên (Đức Lý Giáo Tông), Thánh danh của chức sắc Cửu Trùng Đài Nam phái lấy chử “Thanh 清” làm Tịch đạo.

Đời Giáo Tông kế tiếp, Thánh danh của chức sắc Cửu Trùng Đài Nam phái lấy chữ “Đạo 道” làm Tịch đạo.

Thanh Đạo tam khai thất ức niên,

Thọ như địa quyển thạnh hoà Thiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THANH GIÁ

聲 價

Thanh (thinh): Tiếng tăm. Giá: Giá trị, phẩm giá.

Thanh giá, còn đọc “Thinh giá”, là chỉ người có tiếng tăm và có phẩm giá.

Như: Người quân tử phải giữ gìn thanh giá của mình.

Lòng son một thuở nêu thanh giá,

Bến mộng đòi phen biệt cố nhân.

(Thơ Nguyễn Nga).

 

 

THANH KHÍ

聲 氣

Thanh (thinh): Tiếng. Khí: Hơi.

Thanh khí, do câu trong Kinh Dịch: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu 同 聲 相 應, 同 氣 相 求, có nghĩa là cùng một thanh thì ứng với nhau, cùng một khí thì tìm lấy nhau.

Thanh khí nói sự cảm ứng tự nhiên của các vật cùng loại trong trời đất.

Vạn vật trong trời đất cùng một loài với nhau thì cảm ứng với nhau. Bạn bè chơi với nhau cùng ý cùng lòng mới thân nhau được.

Ngâm câu thanh khí trao lời ngọc,

Chuốc chén hoàng hoa hứng gió vàng.

(Thơ Chơn Tâm).

Sài, Triệu, Trịnh thể đồng chung trí,

Tình hữu giao thinh khí tương cầu.

(Báo Ân Từ).

 

 

THANH KHÍ ỨNG CẦU

聲 氣 應 求

Thanh: Tiếng. Khí: Hơi. Ứng: Đáp lại, đối lại. Cầu: Tìm kiếm, xin mong.

Thanh khí ứng cầu, bởi câu: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu 同 聲 相 應, 同 氣 相 求, có nghĩa là cùng một thanh thì ứng với nhau, cùng một khí thì tìm lấy nhau.

Thanh khí ứng cầu ý nói sự cảm ứng tự nhiên của các vật cùng loại trong trời đất.

Nghĩa bóng: Người đồng tư tưởng thì hợp nhau.

Thận chung truy viễn hầu tông tổ,

Thanh khí ứng cầu thỉnh bạn thân.

(Thơ Quốc Tuấn).

 

 

THANH LẶNG

Thanh: Trong sạch, sạch sẽ. Lặng: Im, yên lặng.

Thanh lặng là trong sạch và yên lặng.

Như: Buổi tối ở làng quê khung cảnh thanh lặng, trời vừa dứt mưa bầu trời trở nên thanh lặng.

Con nên biết, cứ ai lo phần nấy, đừng lỗi phận sự thì được thanh lặng yên vui.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THANH LÂU

青 樓

Thanh: Màu xanh. Lâu: Nhà lầu.

Thanh lâu là lầu xanh.

Ngày xưa dùng để chỉ nhà quyền quý. Theo Nam Sử, Đời Tề vua Võ Đế cho xây dựng lầu cao, trên sơn màu xanh, người đời gọi là thanh lâu. Sách Tào Thực chép: Thanh lâu lâm đại lộ, cao môn kết trùng quan 青 樓 臨 大 路, 高 門 結 重 關, nghĩa là lầu xanh chạy dài đến đường cái lớn, cửa cao có mấy tầng khoá chặt. Ý chỉ lầu của nhà phú quý.

Nhưng từ khi Lưu Mạo Lương có làm câu thơ: Xướng nữ bất thăng sầu, kết thúc hạ thanh lâu 唱 女 不 勝 愁, 結 束 下 青 樓, tức là người ca nhi không xiết buồn, thu vén xuống lầu xanh thì từ ngày đó chữ “Thanh lâu” mới dùng để chỉ nơi kỹ nữ ở (nhà điếm).

Hành đến chết huờn hồn sống lại,

Cho đầu thai ở tại thanh lâu.

(Kinh Sám Hối).

Đừng quen kết lũ vầy đoàn,

Cửa thanh lâu những rộn ràng gió trăng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Nghĩ dấu sắc màu chiền khó vẽ,

Chốn thanh lâu khó vẽ màu dà.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THANH LIÊM

清 廉

Thanh: Trong sạch. Liêm: Không tham lam.

Thanh liêm là người có đời sống trong sạch, không tham lam. Như: Cha làm quan được tiếng là thanh liêm.

Dạy về Liêm khiết, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Liêm tức là thanh liêm, liêm khiết, hay khiết kỷ, là bản tánh trong sạch, không nhơ bợn một mảy gì, một vật gì, một món tiền của nào bất chánh, không phải do nơi công lao của mình làm ra.

Khiết tính nết thanh liêm là trọng,

Phép tu thân nhớ bóng là hơn.

(Cửu Nương Giáng Bút).

Trọng câu phước đức dạ lo nhân,

Phải mặt thanh liêm giữ kiệm cần.

(Đạo Sử).

Nhượng đức khiêm tài người khó sánh,

Thanh liêm treo giá tấm gương lành.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

THANH LIÊM CHÁNH TRỰC

清 廉 正 直

Thanh liêm: Liêm khiết, có phẩm chất trong sạch. Chánh trực: Có tính ngay thẳng.

Thanh liêm chánh trực, như chữ “Liêm chính 廉 正”, ý chỉ người trong sạch, ngay thẳng.

Xem: Liêm chính.

May duyên gặp đặng vợ hiền,

Thanh liêm chánh trực giữ bền lòng son.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THANH LOAN

青 鸞

Thanh: Màu xanh. Loan: Một thứ chim cùng loài với chim phượng, phượng chim trống, loan chim mái.

Trong văn học, “Chim xanh” chỉ về tin tức, mai mối, do từ chữ “Thanh điểu 青 鳥” là chim loan màu xanh, một sứ giả của bà Tây Vương Mẫu đến báo tin cho Hán Võ Đế biết để nhà vua cùng vị Tiên là Đông Phương Sóc ra tiếp rước Bà.

Theo tôn giáo Cao Đài, Thanh loan là chim loan màu xanh, là chim lịnh của Đức Phật Mẫu. Ngoài ra, Đức Phật Mẫu cũng dùng chim thanh loan để ngự giá du hành.

Vì vây, trên nóc Báo Ân Từ hay các Điện thờ Phật Mẫu đều có đắp hình con chim thanh loan.

Xem: Chim xanh.

Dường đợi Thanh loan đến Hớn Đài,

Tửu Tiên chưa phỉ tỉnh cùng say.

(Bát Nương Giáng Bút).

Diêu Trì Kim Mẫu kỵ Thanh loan,

Cung thỉnh Trung thu ngự chứng Đàn.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THANH LONG

青 龍

Hay “Yểm Nguyệt Thanh Long Đao 掩 月 青 龍 刀”.

Thanh: Màu xanh. Long: Rồng.

Thanh long là rồng xanh.

Ở đây, Thanh long là tên một cây đao, còn gọi là Yểm Nguyệt Thanh Long Đao, một ngọn đao sắt bén của Quan Vân Trường.

Cây Thanh Long Đao nầy đã giúp cho Ngài lập được nhiều công to lớn cho nước Thục, đời Tam Quốc.

Thuyết Đạo về Quan Thánh Đế Quân, Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Ngài chỉ cởi ngựa xích thố, cầm Thanh Long đao, đốc xuất quân tuỳ tùng cũ ngày trước đẩy xe ra khỏi thành.

1. Thanh long:

Nương huệ kiếm đoạn vòng oan nghiệt,

Thủ Thanh long đặng diệt tà tinh.

(Lục Nương Giáng Bút).

Lên yên Xích thố về triều Hớn,

Hươi ngọn Thanh long giả tướng Tào.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

2. Yểm Nguyệt Thanh Long Đao:

Mỗi phen Ngài trở cây Yểm Nguyệt Thanh Long Ðao định vớt nhà nớ, thì nhà nớ nhảy xuống ngựa, chí khí đó thế gian hy hữu.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THANH MY

青 眉

Thanh: Xanh. My: Lông mày.

Thanh my là mày xanh, chỉ tuổi trẻ, thanh niên.

Huấn từ Thượng Sanh có dạy: Trên cõi tạm nầy, những nỗi buồn, vui, đau khổ, nhục vinh, là những đoạn trường mà khách trần, ai cũng phải trải qua từ thanh my chí bạch phát để nung đúc tâm hồn cho tới mức siêu nhiên.

Bước thế chịu đày khơi bạch phát,

Nguồn Tiên ráng lướt rạng thanh my.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tiệc ngọc vui vầy trang bạch phát,

Xe hoa mừng đón lứa thanh my.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THANH MINH

清 明

Thanh: Trong, không đục, không bợn. Minh: Sáng.

Thanh minh là một cái tiết vào tháng ba, khí trời mát mẻ trong trẻo.

Trong tiết này, người ta thường đi tảo mộ, tức là bày lễ cúng nơi phần mộ và dọn dẹp sạch sẽ chung quanh mộ.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có viết: Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.

Thanh Minh trong tiết vườn xuân,

Phụng chầu, hạc múa, gà rừng gáy reo.

(Đạo Sử).

 

 

THANH NIÊN

青 年

Thanh: Màu xanh da trời. Niên: Năm, tuổi.

Thanh niên là tuổi còn xuân xanh, chỉ người còn trẻ, đang còn ở độ tuổi trưởng thành.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trước nửa giờ lâm chung, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cùng tất cả Thanh niên Việt Nam hãy cương quyết phục cường cứu quốc, rồi Ngài nằm thiêm thiếp.

Lo chọn lấy thanh niên dũng chí,

Gởi sang trường võ bị Nhật hoàng.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THANH NHÃ

清 雅

Thanh: Trong sạch. Nhã: Tao nhã, trái với thô tục.

Thanh nhã là thanh tú và văn nhã, tức có vẻ đẹp nhã nhặn, lịch sự, ưa nhìn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Trời Nam may đặng một yếng sáng của Ðấng Ðại Từ Ðại Bi dẫn khách trần bước lần ra con đường hắc ám, để tránh khỏi bến mê, dụng nâu sồng thế cân đai, mượn khổ tâm thay chung đỉnh, lấy hạnh đức làm nấc thang bước lên tột lừng Trời, vẹt ngút mây xanh, trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ mầu nhiệm mà làm khách u nhàn thanh nhã, núi thẳm rừng xanh.

Hiệp ban lành nơi Tiên Cảnh quay về,

Chốn thanh nhã dựa kề câu thi phú.

(Giác Mê Khải Ngộ).

Rừng tòng thanh nhã say mùi Đạo,

Bể khổ mênh mang vớt khách trần.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

THANH NHÀN

清 閒

Thanh: Xong xuôi. Nhàn: Không bận rộn.

Thanh nhàn là thảnh thơi, nhàn nhã, không có việc gì ràng buộc, bận bịu.

Thánh giáo Thầy có câu: Ðạo nên Ðời rạng, giũ áo phồn hoa nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc tự thanh cao, nếm mùi tự toại, dưỡng chí thanh nhàn, thì có chi hơn. Vậy là mầu, vậy là trí.

Cầu xin trăm họ bình an,

Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.

(Kinh Sám Hối Ngắn).

Nghiệp nước nỗi nhà còn bận bịu,

Thanh nhàn chưa phải buổi xem mai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phù thế kiếp đời dường mộng ảo.

Thanh nhàn cửa đạo mới Thiêng liêng.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THANH PHONG

清 風

Thanh: Trong, không bợn. Phong: Gió.

Thanh phong là gió mát.

Thành ngữ Việt Hán có câu: “Thanh phong minh nguyệt 清 風 明 月” là gió mát trăng thanh.

Thơ của La Hồng Tiên có câu: Thanh phong minh nguyệt nhất thi nang 清 風 明 月 一 詩 囊, nghĩa là gió mát trăng thanh thơ một túi.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Vầng trăng đương soi sáng vũ trụ, bỗng nhiên một thoáng mây đen thoáng qua, tuy là làm cho lu mờ cảnh vật, nhưng đó chỉ là trong chốc lát. Một luồng thanh phong thổi tới, áng mây bị đẩy đi xa, ánh trăng cũng trở lại tỏ rạng khắp bốn phương trời.

Thưởng ngọn thanh phong đồng tiến bước,

Tu hành kịp buổi hội Long Hoa.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

THANH QUANG

青 光

Thanh: Màu xanh. Quang: Ánh sáng.

Thanh quang là ánh sáng màu xanh.

Theo ý nghĩa bài Kinh Đệ Tam Cửu trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo của Đạo Cao Đài, thì từng trời Thanh Thiên là một cõi giới có ánh sáng màu xanh rực rỡ soi khắp núi rừng trùng điệp.

Các chơn hồn về đến từng trời nầy, màu thanh quang có cảm giác sung sướng, vui vẻ để lên đường mà trông ngóng về cõi Thiêng Liêng.

Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn,

Chơn thần khoái lạc lên đàng vọng Thiên.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THANH SẮC

聲 色

Thanh: Tiếng, âm thanh. Sắc: Chỉ vẻ đẹp phụ nữ.

Thanh sắc là dùng để chỉ âm thanh và sắc đẹp, tức chỉ giọng nói và gương mặt của người phụ nữ đẹp.

Như: Thời son trẻ thanh sắc của cô ta vừa thanh tao vừa đẹp đẽ.

May gặp hoàng mai hai độ nở,

Ưa nhìn thanh sắc một trời thơ.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THANH SƠN

Thanh: Màu xanh. Sơn: Núi non.

Thanh sơn 青 山 là non xanh, núi màu xanh. Như: Thanh sơn lục thuỷ (nước biếc non xanh).

Thanh sơn nguyên bất lão, vị tuyết bạch đầu,

Lục thuỷ bổn vô sầu, nhơn phong sô diện.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THANH SƠN ĐẠO SĨ

青 山 道 士

Hay “Thanh Sơn”.

Thanh Sơn, còn gọi là Thanh Sơn Đạo Sĩ, là Thánh hiệu của Đức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Theo Thánh giáo, Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ là Sư Phó Bạch Vân Động, cùng với Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức Victor Hugo và Tôn Sơn Chơn Nhơn, tức Tôn Văn, là ba vị Thánh được linh Đức Chí Tôn ký Đệ Tam Thiên Nhơn hoà Ước để công bố cho toàn thể nhơn loại hầu thực thi bốn chữ “Bác Ái – Công Bình”.

Ba vị Thánh ở Bạch Vân Động còn có nhiệm vụ hộ giá Đức Mẹ, nên tại các Điện thờ Phật Mẫu ở địa phương đều có lập vị thờ Tam Thánh và khi cúng Phật Mẫu có niệm câu: Nam Mô Bạch Vân Động chư Thánh”.

1.- Thanh Sơn Đạo Sĩ:

Rồi mới đầu kiếp ở bên xứ Việt Nam, ta kêu là Thanh Sơn Đạo Sĩ tức nhiên là Trạng Trình đó vậy,

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Thanh Sơn:

Hay Thanh Sơn! Giỏi Thanh Sơn!

Trung nghĩa về Tiên cũng ngậm hờn.

(Lục Nương Giáng Bút).

Tài Thanh Sơn! Trí Thanh Sơn!

Câu văn tuyệt bút vẽ nên hờn.

(Thất Nương Giáng Bút).

Trung Thanh Sơn! Nghĩa Thanh Sơn!

Bởi tại đâu ăn oán nuốt hờn?

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THANH SỬ

青 史

Thanh: Màu xanh. Sử: Lịch sử.

Thanh sử là sử xanh.

Ngày xưa người ta dùng tre để chép sử. Cái sắc của cật tre vốn màu xanh, cho nên gọi là thanh sử.

Lý Bạch có câu: Thanh sử cựu danh truyền 青 史 舊 名 傳, tức là tên ngày xưa là thanh sử, cho đến nay còn truyền lại.

Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Những kẻ chí sĩ lãnh trách nhậm nghiêng vai gánh vác cả non sông đều làm phận sự. Công nghiệp nhiều ít ấy, tính lời vốn với Toà thiêng liêng, hoặc ghi tên tuổi vào thanh sử thiên niên, chớ chẳng phải để kể công trình với chúa tể ấy.

Thanh sử từng nêu gương nữ kiệt,

Hồng ân chi kém bạn nam nhi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Noi tiết phụ đời xưa thanh sử,

Sách có câu: Hiền nữ kỉnh phu.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THANH TAO

清 騷

Thanh: Trong Kinh Thi có thơ Thanh miêu, âm điệu rất cao nên gọi Thanh. Tao: Sở Từ có phú Ly Tao, lời lẽ rất hay, nên nói tắt là Tao.

Thanh tao ý chỉ lời văn, thơ, phú hay và chảy chuốt.

Hiện nay chữ “Thanh tao” thường dùng để chỉ thanh lịch và tao nhã.

Đại Thừa Chơn Giáo có đoạn: Tai nghe giọng phù trầm, lảnh lót thanh tao mà lòng không vọng động. Mắt thấy việc lạ lùng, xinh đẹp, tốt tươi mà ý chẳng say mê.

Xuân hoa rực rỡ muôn màu đẹp,

Xuân cảnh thanh tao một tiếng kình.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Thanh tao nhạc phụng trên dương liễu,

Chát chúa kèn nai dưới bá tòng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THANH TÂM

清 心

Thanh: Trong sạch. Tâm: Lòng.

Thanh tâm là cõi lòng trong sạch.

Như: Thanh tâm quả dục (lòng trong sạch và ít dục vọng), thanh tâm thường lạc.

An phận đường tu bền thiện niệm,

Thanh tâm thường lạc phép trau mình.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THANH TÂM QUẢ DỤC

清 心 寡 慾

Thanh tâm: Cái tâm trong sạch. Quả dục: Lòng ít ham muốn.

Thanh tâm quả dục là cái tâm trong sạch và giảm bớt điều ham muốn, tức bỏ những cái ham muốn xấu (ác dục) đưa đến khổ đau và thực hành những cái muốn tốt (thiện dục) đem lại an lạc hạnh phúc.

Sinh ký tử quy lời thế tục,

Thanh tâm quả dục gắng tu thiền.

(Thơ Tử Quy).

 

 

THANH TÂM TÀI NỮ

清 心 才 女

Thanh Tâm Tài Nữ là vị Nữ Tiên thuộc Diêu Trì Cung, có đầu kiếp tại Việt Nam, nhưng mất sớm lúc 18 tuổi do chết đuối nơi bãi biển Vũng Tàu.

Trước ngày khai nền Đại đạo, các chơn linh cao trọng có nhiệm vụ xuống thế độ đời thường tìm cách giáng cơ dạy đạo cho chúng sanh, trong đó có Bà Thanh Tâm Tài Nữ, một vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung cũng giáng dạy nhiều về giáo lý từ năm Mậu Thìn 1928 đến năm Quý Dậu (1933).

Theo Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp với đề tài “Kiếp Duyên và Kiếp Quả về Thanh Tâm Tài Nữ”, Ngài cho biết: Cô đầu kiếp tại Việt Nam, mất lúc 18 tuổi tại bãi biển Vũng Tàu. Khi được cứu rỗi về Cung Diêu Trì, Cô được lịnh Phật Mẫu dạy hiệp cùng Cửu Vị Tiên Nương giáng cơ dạy Đạo trong Trường Quy Thiện của Diêu Trì Cung lập tại Thảo Đường.

Qua lời kể lại của các vị tiền bối đạo Cao Đài, Bà Thanh Tâm Tài Nữ, tiền kiếp là một vị Nữ Tiên ở Cung Diêu Trì, có một kiếp giáng trần tại Việt Nam bị chết chìm nơi bãi biển Vũng Tàu ngày 5 tháng 4 năm Đinh Mão (Dl. 17/5/1927), được các vị chức sắc đương thời hành lễ tang và dâng sớ cầu xin Đức Phật Mẫu cứu rỗi cho chơn linh Bà.

Sau đó Đức Phật Mẫu có giáng cơ cho biết Bà Thanh Tâm đã được cứu rỗi trong một bài Thánh giáo năm Đinh Mão, có đoạn dạy như sau: Thiếp chứng lòng thành kỉnh và đạo đức của chư đạo hữu. Vả lại, Thanh Tâm có căn trước, nên thiếp vì chư đạo hữu mà cứu rỗi cho chơn linh của nó trước ngày mãn hạn. Vậy Thiếp đem chơn linhThanh Tâm về Diêu Trì Cung nghe kinh và học đạo đủ một trăm ngày cho chơn thần hườn nguyên, hườn nguyên rồi sẽ cho xuống hầu chuyện cùng chư đạo hữu.

Thế là sau đó Bà Thanh Tâm Tài Nữ có giáng cơ vào Ngày 4 tháng 3 năm Mậu Thìn (Dl. 23/4/1928). Bài Thánh giáo đó được trích trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau:

Mừng mấy anh.

Ðạo mở rộng, giống Ðạo gieo đã trót hai thu, mà người thiệt vì Ðạo chẳng có bao nhiêu. Thế nên hồi chưa mở rộng nền Ðạo, Ðức Thích Ca dòm vào thế cuộc mà than rằng:

Lộ vô nhơn hành,

Ðiền vô nhơn canh,

Ðạo vô nhơn thức,

Ta hồ tận chúng sanh!

Ba anh có hiểu chăng?

Sao gọi là: Lộ vô nhơn hành?

Ðường có người đi nhiều mà không ai là người phải, đường đi dập dìu thiên hạ mà toàn là ma hồn quỷ xác, tâm giả dối, hạnh hung bạo, mật chứa đầy tà khí, thế nào gọi là người!

Còn Ðiền vô nhơn canh là sao?

Ruộng đây là tỷ với Tâm, Tâm không ai giồi trau. Ðạo nơi Tâm, thì Tâm ví như Ðiền, có Ðiền mà chẳng cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột thì ruộng tất phải bỏ hoang, bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú.

Người mà có Tâm như vậy ra thế nào? Ruộng sẵn, giống sẵn, cày bừa sẵn, duy có ra công làm cho đất phì nhiêu đặng cho buổi gặt hưởng nhờ mà không chịu làm, thế thì phải diệt tận chơn linh.

Cho đến năm 1933, vì nhơn duyên của Bà còn phải nặng nợ với chúng sanh, nên Bà lại đầu kiếp qua Anh Quốc.

Trước khi đi Bà có đến từ biệt Đức Hộ Pháp trong một Đàn cơ ngày 12 tháng 1 năm Quý Dậu (Dl. 8/2/1933). Bài Thánh giáo đó như sau:

Mừng mấy anh, mấy chị,

Em sẽ tái kiếp Hồng mao, nên đến từ tạ.

Ðức Phạm Hộ Pháp hỏi: Sao em đầu kiếp xa vậy?

- Vì em có nhơn duyên nơi nước Anh. Em đầu kiếp xuống đây để đứng ngả ba đường đón Ðức Chí Tôn. Nếu có quên, nhờ quý anh nhắc, thức tỉnh em nhớ.

Em đã nói trước với quý anh rồi, có lạ chi dòng luân luân chuyển chuyển mà da díu bận lòng. Em đến giúp nên cơ Ðạo đặng báo nghĩa cho Chí Tôn.

Em nghe Chí Tôn nơi nầy, chạy theo nơi nầy không gặp. Em nghe nói nơi khác, chạy nơi khác, cũng không gặp.

Hỏi ra thì em khiếm khổ hạnh nên khó phép thấy Người, nên quyết luân hồi chịu khổ hạnh hầu gặp cho đặng, kẻo ức. Thương quá đỗi thương mà chưa từng thấy mặt.

Thưa mấy chị,

Ðã may duyên gần gũi hình bóng của Người, ráng đặng gặp Người, kẻo sau ăn năn uổng lắm!

Cái oan nghiệt kiếp sanh đáng ghê sợ chưa bằng không gặp mặt Chí Tôn, vì lẽ ấy mà biết bao nhiêu Tiên, Phật hạ trần chịu khổ.

Xin mấy chị nghe:

Phải đủ căn sanh mới thấy Trời,

Ai ai đừng tưởng dễ như chơi.

Nghe danh như chất chồng bên gối,

Cổ Phật không duyên khó gặp Người.

Nói về “Kiếp Duyên Kiếp Quả Của Chúng Ta”, Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Vị Thanh Tâm Tài Nữ trước kia vì tình mà chết, nên phải đầu kiếp, trước khi người đến tại nước Anh, người có đến đặng từ biệt chúng tôi, buổi ấy chúng tôi hỏi: Sao lại đến nước Anh, chớ không đến nước khác? Thanh Tâm Tài Nữ nói: Nhơn duyên của em nơi đó. Em cốt yếu đến nước Anh đặng đón đường Đức Chí Tôn đi ngang qua đấy.

Thiếp dặn Cửu Nương và Thanh Tâm Tài Nữ thay phiên nhau đem trí thức tinh thần thiêng liêng mà chế vào lòng các con, hoạ may giảm đặng lần lần tục tánh.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THANH TÂN

清 新

Thanh: Trong trẻo. Tân: Mới mẻ.

Thanh tân là trong sạch và mới mẻ, hoặc để chỉ người con gái non trẻ.

Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Thoắt đâu thấy một tiểu kiều, Có chiều phong vận có chiều thanh tân.

Phận liễu trao về trang mặc khách,

Nhà lan cười đón nét thanh tân.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

THANH TỊNH

清 淨

Thanh: Trong trẻo. Tịnh: Trong sạch.

Thanh tịnh, nghĩa đen là trong trẻo, sạch sẽ. còn nghĩa bóng theo Tôn giáo xa lìa mọi phiền não, gian ác và mê muội. Trong trường hợp nầy, Thanh tịnh đồng nghĩa với “Thanh tĩnh 清 靖” là không ai quấy nhiễu, hay xa lánh những hành vi độc ác và những điều phiền não ở đời.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy các vị Chức sắc Thiên phong: Các con phải thanh tịnh, kể từ ngày nay diệt tận phàm tâm, chớ nhơ một điểm thì ngày ấy thề mới đặng.

Thanh tịnh ít người toan định tỉnh,

Công danh ràng rịt cột chôn chơn.

(Đạo Sử).

Thảnh thơi biển rộng ngư mừng nước,

Thanh tịnh rừng sâu thú lập làng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG

清 淨 大 海 眾

Thanh tịnh: Trong sạch, nghĩa rộng xa điều phiền não, mê muội. Đại Hải Chúng: Đông như biển người.

Thanh Tịnh Đại Hải Chúng là một cõi nơi thiêng liêng mà tất cả các chơn hồn người chết về tạm ở đó chờ đợi Toà Tam Giáo Ngọc Hư Cung phán xét tội phước.

Như vậy, cõi nầy là nơi tập trung rất đông đảo chơn hồn vừa lìa khỏi thể xác, tựa như một biển người mênh mông, nên mới được gọi là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng.

Thanh Tịnh Đại Hải Chúng được đặt dưới quyền cai quản và giáo hoá của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát và Thất Nương Diêu Trì Cung.

Nếu nó (Võ văn Đợi) đặng ở Thanh Tịnh Đại Hải Chúng mà tu hành nơi cõi Hư Linh cũng là may phước cho nó, còn quyền Thiêng liêng thưởng phạt là do quyền Ngọc Hư Cung...

(Lời Phê Hộ Pháp).

 

 

THANH THẢN

清 坦

Thanh: Thanh cao, trong sạch. Thản: Rộng rãi, bằng phẳng, vui vẻ.

Thanh thản là ở trạng thái nhẹ nhàng, thoải mái, vì trong lòng không có điều gì áy náy, lo nghĩ.

Như: Mấy ngày nay đầu óc anh ta rất thanh thản.

Bẽ bàng thân phận chưa thanh thản,

Ngán ngẩm công danh quá muộn màng.

(Thơ Hàn Sinh).

Thà nghèo trong sạch tâm thanh thản,

Quả nghiệp không vương, trí nhẹ nhàng.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THANH THAO

Thanh thao, như chữ “Thanh tao 清 騷”, là tao nhã, thanh thoát và trong sáng.

Như: Phong độ thanh thao, giọng nhạc trỗi lên nghe rất thanh thao.

Thanh thao nhạc phụng trên dương liễu,

Chát chúa kèn nai dưới bá tòng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THANH THẾ

聲 勢

Thanh (thinh): Danh tiếng. Thế: Thế lực.

Thanh thế là thanh danh và thế lực, tức kẻ có nhiều tiếng tăm và có quyền lực được nhiều người biết đến.

Như: Nó cư xử rất khôn khéo với mọi người, nhằm gây thanh thế.

Thanh thế con người toan cải ác,

Tùng theo nhơn cách đặng phong Thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bao nhiêu thanh thế bốn ngàn năm,

Lịch sử từng ghi tiếng chẳng lầm!

(Thơ Chánh Đức).

 

 

THANH THIÊN

青 天

Thanh: Màu xanh. Thiên: Tầng Trời.

Thanh Thiên là một tầng Trời có ánh sáng màu xanh. Tầng Trời này thuộc tầng Trời thứ ba trong Cửu Trùng Thiên, do Tam Nương Diêu Trì Cung cai quản, và có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn lên tầng Trời này.

Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng Đảo,

Động Thiên Thai bảy Lão đón đường,

(Kinh Tận Độ).

Biển mê bát nhã dò lần,

Thanh Thiên mở lối Chơn thần quy nguyên.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THANH THOÁT

Thanh: Trong sạch. Thoát: Tự nhiên, nhẹ nhàng, không gò bó, gượng ép.

Thanh thoát là thanh thản, trong sạch, nhẹ nhàng, không có gì vướng mắc.

Thanh thoát là (dáng điệu, đường nét) mềm mại, gây cảm giác nhẹ nhàng, dễ ưa.

Thánh thoát (lời văn) lưu loát, nhẹ nhàng, không gò bó, không khúc mắc.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðời càng tỏ ra đê hèn, hạ tiện, chúng ta càng tỏ ra chơn chánh, siêu phàm, thiên hạ cúi mình bò lết trong chỗ nhơ bẩn vì chút ít lợi quyền, chúng ta phải vươn mình lên cao để đón hứng mùi hương thanh thoát, làm cho trí óc trở nên phi thường và tâm hồn thơ thới.

Phim đời phiền luỵ chi thêm bận,

Thanh thoát chày kình nện cửa không.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THANH TRỪNG

清 懲

Thanh: Trong sạch. Trừng: Phạt, răn.

Thanh trừng là gạt bỏ ra khỏi hẳn hàng ngủ.

Thanh trừng còn có nghĩa là răn phạt, làm cho không còn những phần tử xấu xa nữa.

Như: các phe phái trong Đảng thanh trừng lẫn nhau.

Thanh trừng nội bộ bày,

Mưu phản ngoại lai khiến rối nồi.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THANH TRƯỢC

Hay “Thanh trọc”.

Thanh: Trong sạch. Trược (trọc): Dơ, bẩn.

Thanh trược, như chữ “Thanh trọc 清 濁”, là trong sạch và nhơ bợn, ý chỉ sự nhẹ nhàng hay nặng nề.

Trong quyển Thiên Đạo, Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Vạn vật sở dỉ khác nhau ở hình thể cùng ở chỗ thanh trược, tinh thô, song kỳ thiệt vốn đồng một thể, vì một gốc mà ra.

Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tuỳ Chơn thần thanh trược.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THANH U

清 幽

Thanh: Trong sạch. U: Vắng vẻ yêu lặng.

Thanh u là thanh tịnh và u nhã.

Như: Những kẻ không ham danh lợi thường tìm chốn thanh u để lành đời.

An nhàn tâm trí thanh u,

Chán đời giả dối hèn ngu bạo tàn!

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THANH VẮNG

Thanh: Rất trong, không lẫn một chút gì làm cho đục, mờ, gây cảm giác dễ chịu. Vắng: Vắng vẻ, yên lặng.

Thanh vắng là thanh tĩnh và vắng vẻ.

Bài Diễn Văn của Đức Quyền Giáo Tông đọc trong ngày vía Phật Thích Ca có câu: Ôi! Biết bao phen, đêm khuya thanh vắng, Tệ Huynh nằm gác tay lên trán thầm hỏi lấy mình: Một mảnh thân phàm nầy, cô thân bạc nhược nầy, yếu ớt hèn mọn nầy, có đủ tài đức chi mà Ðại Từ Phụ lại tin giao một cái giang san sự nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu đặng cho gánh vác.

Đêm thanh vắng lên dây trỗi nhịp,

Khảy năm âm cho hiệp cùng nhau.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Đêm thanh vắng chớ toan mưu dối,

Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THANH VÂN

青 雲

Thanh: Xanh, màu xanh. Vân: Mây.

Thanh vân là mây xanh, dùng để chỉ người có địa vị cao (tận mây xanh). Sau đó người ta dùng thanh vân để chỉ việc đi thi, lập công danh.

Chí thanh vân chỉ người mang chí lập công danh.

Cổ thi có câu: Nhất đán công đạo khai, thanh vân tại bình địa 一 旦 功 道 開, 青 雲 在 平 地, nghĩa là Một mai đường công danh mở, đường mây ở tại đất bằng.

Gặp phải nước nhà cơn loạn lạc,

Làm trai tua vẹn chí thanh vân.

(Thơ Thượng Sanh).

Đau khổ ném xong cái gánh trần,

Nhẹ nhàng mới toại chí thanh vân.

(Cao Quỳnh Diêu Giáng).

 

 

THANH VƯƠNG ĐẠI HỘI

青 王 大 會

Thanh Vương Đại Hội là một Đại Hội trong ba thời kỳ khai Hội Long Hoa để phổ độ chúng sanh. Đó là Thanh Vương Đại Hội, Hồng Vương Đại Hội và Bạch Vương Đại Hội.

Thanh Vương Đại Hội được mở ra trong thời kỳ phổ độ lần thứ nhứt, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật làm Chưởng Giáo, chủ khảo trong thời kỳ này.

Sở dĩ gọi “Thanh Vương Đại Hội” là vì Hội Long Hoa kỳ thứ nhứt, ví như mùa xuân, chủ về mộc, thuộc màu xanh, nên gọi là Thanh Vương.

Nam Mô Sơ Hội Long Hoa Thanh Vương Đại Hội Nhiên Đăng Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn.

(Kệ U Minh).

 

 

THANH XUÂN

青 春

Thanh: Xanh. Xuân: Mùa xuân.

Thanh xuân là màu xanh của cây cỏ trong mùa xuân, chỉ tuổi thanh niên (tuổi trẻ).

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Các em nên nhớ, các em là một phần Thiên mạng đi rước các nguyên nhân đang vội đến cùng Đức Chí Tôn, vậy phải ráng lập công buổi nầy. Đời thanh xuân chẳng là bao, chần chờ sẻ uổng cơ hội đó.

Con buồm thẳng cánh Đài vân,

Nước non hứng đặng một lần thanh xuân.

(Xuân Hương Giáng Bút).

Thể cách đoan trang tiết rạng ngần,

Muôn đời giữ trọn vóc thanh xuân.

(Quỳnh Hoa Tiên Nữ).

 

 

THANH XUÂN BẤT TÁI

青 春 不 再

Thanh xuân: Mùa xuân xanh tươi, chỉ tuổi trẻ. Bất tái: Không lập lại, không trở lại.

Thanh xuân bất tái tức là tuổi trẻ qua rồi, không bao giờ trở lại lần nữa.

Chữ hằng dạy: Thanh xuân bất tái,

Vợ người rồi danh gái hết kêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÁNH

1.- Thánh là danh hiệu người đời tặng cho bậc có vốn hiểu biết rộng, có phẩm chất đạo đức cao, vượt hẳn người cùng thời.

Như: Khổng Tử là bậc Thánh, đạo Thánh.

Nam Hải trổ nhiều tay Thánh đức,

Giao Châu sanh lắm mặt Anh hùng.

(Đạo Sử).

Thánh xưa dạy từ câu nói hiếu,

Đạo thờ thân chằm khíu nên kinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Theo triết lý đạo Cao Đài, bậc Thánh là bậc đạt được quả vị thứ hai trong hàng |Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Nói về cách lạy bậc Thần, Thánh của đạo Cao Đài, Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Lạy Thần, lạy Thánh ba lạy là tại sao? Là lạy Ðấng vào hàng thứ ba của Trời và cũng chỉ rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Ấy là Ðạo.

Chừng nào đất dậy Trời thay xác,

Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dầu mình có giỏi hơn Tiên Thánh,

Cũng nhớ cha có tánh thật thà.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thánh còn là tiếng để tôn xưng vua hoặc những bậc Thiêng liêng. Như: Thánh ân, Thánh cốt, Thánh chỉ, Thánh thể, Thánh thượng.

Thánh giáo Thầy có câu: Thánh tâm dầu phải chịu khổn trần đi nữa thì chất nó cũng vẫn còn. Các con khác hơn kẻ phàm là duy tại bấy nhiêu đó mà thôi.

Rốn để bước đến gần điện Thánh,

Nhìn tượng thờ lại ngảnh thân mình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÁNH ÂN

聖 恩

Thánh: Tiếng tôn xưng vị vua, hay các Đấng Thiêng liêng. Ân: Ơn.

Thánh ân là ơn của vua ban xuống.

Trong tôn giáo, Thánh ân là từ dùng để chỉ Ơn của Trời, hay ơ của Đức Chí Tôn ban xuống cho chúng sanh.

Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi,

Mượn Thánh ân xây đổi cơ Đời.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THÁNH BẤT KHẢ TRI

聖 不 可 知

Thánh: Thánh đức, thiêng liêng mầu nhiệm. Bất khả: Chẳng có thể. Tri: Biết.

Thánh bất khả tri là không thể biết được hết sự Thiêng Liêng mầu nhiệm.

Theo bài kinh Tiên Giáo, Đức Thái Thượng Đạo Quân do Tiên Thiên khí sinh ra, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy rằng: Thái Thượng, Nguơn Thỉ thị Ngã...太 上, 元 始 是 我... tức là Thái Thượng, Nguơn Thỉ là Ta, thì ta có thể nói rằng Thái Thượng Lão Quân có Pháp thân là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, hay nói cách khác, Ngài là Hoá thân của Đức Chí Tôn trong Nhị Kỳ Phổ Độ. Vì Thế, đức Thánh của Ngài rất cao siêu, huyền diệu mà không ai có thể hiểu thấu hết được.

Thánh bất khả tri,

Công bất khả nghị.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THÁNH CỐC

聖 穀

Thánh: Thiêng liêng, mầu nhiệm, tốt đẹp hoàn toàn. Cốc: hạt lúa.

Thánh cốc là hạt giống đức tin, hay hạt giống đạo đức được đem gieo truyền trong thiên hạ. Thánh cốc được ví như hạt lúa giống.

Trong Kinh Phật có chép câu chuyện “Phật gieo mạ” như sau: Ðức Phật ôm bình bát khoan thai đi vào xóm để khất thực, lúc Ngài đi ngang qua nhà của ông Bà La Môn là Ba Ra Va Da (Bharavadja), Ngài bèn dừng chân lại trong lúc lão Bà La Môn cùng một số người chuẩn bị gieo mạ.

Lão Bà La Môn thấy Phật ôm bình bát bèn nói: Nầy Sa Môn kia, tại sao còn khỏe mạnh không chịu làm lụng như bao nhiêu người khác. Ta phải chịu cực khổ cày cấy mới có cơm ăn.

Ðức Phật bèn từ tốn trả lời rằng: Ta đây cũng cầy cấy gieo mạ, ta cũng có lúa ăn như ngươi vậy.

Ba Ra Va Da cất tiếng cười ngạo nghễ hỏi tiếp: Vậy chớ trâu, bò, cầy, bừa và lúa giống của Sa môn ở đâu?

Ðức Phật bình thản giảng giải: Hột giống của ta gieo là Ðức tin, Trí tuệ là cái ách và cây cày, những việc lành là mưa thuận gió hoà thấm nhuần cho lúa càng ngày càng tốt tươi, sự tinh tấn là con bò. Ta cày cấy đặng trừ tuyệt cỏ xấu đang đâm chồi nẩy lộc trong tâm của chúng sanh.

Nghe xong, Ba Ra Va Da vội lấy dĩa bằng vàng, đựng cơm đề hồ (cơm nấu bằng sữa) đến thành kính sớt vào bát của Ðức Phật và nói rằng: Kính bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ nhận lấy lễ vật mọn này để con được gieo duyên lành cho kiếp vị lai.

Từ câu truyện trên, trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, hay các kinh sách Cao Đài thường dùng từ “Thánh Cốc 聖 穀” để ví như hạt lúa giống.

Thánh cốc là hạt lúa giống thiêng liêng, ý chỉ hạt đức tin, hay hạt giống đạo đức được đem gieo truyền trong thiên hạ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Lý Giáo Tông có nói: Lão đến mà gieo hột Thánh cốc nơi lòng kẻ tà tâm, mong cho đơm bông kết quả, đặng liệu thế hồi tâm, chớ chẳng phải đến rước người hiền ngõ.

Đem gieo Thánh cốc nơi trần thế,

Toàn thể chúng sanh hưởng huệ ân.

(Thơ Thân Dân).

Gieo truyền Thánh cốc mau đơm trái,

Vun quén tâm điền sớm trổ hoa.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THÁNH CỐT

聖 骨

Thánh: Tiếng tôn xưng. Cốt: Xương, chỉ hài cốt.

Thánh cốt, đồng nghĩa với chữ “Thánh hài 聖 骸”, là hài cốt của Đấng rất tôn kính.

Trong tôn giáo Cao Đài, Thánh cốt Đức Hộ Pháp ngày xưa được nhập Bửu Tháp tạm sau Thánh Thất Kim Biên, Nam Vang. Nay Hội Thánh đem Thánh cốt Ngài liệm vào Liên Đài và rước về Việt Nam để nhập Bửu Tháp tại Toà Thánh.

Hồi loan Thánh cốt còn nguyên vẹn,

Tái kiến Liên Đài sắc dẫu phai.

(Thơ Thượng Hoà Thanh).

 

 

THÁNH CHẤT

聖 質

Thánh: Thiêng liêng, tốt đẹp hoàn toàn. Chất: Tính cách, phẩm chất.

Thánh chất là phẩm chất hoàn toàn tốt đẹp. Người chưa trau luyện trở nên Thánh chất thì còn phàm chất.

Thánh chất nầy chính là cái tánh bổn thiện, cái lương tri lương năng của con người, Phật giáo gọi là Phật tánh. Cái Thánh chất nầy không bao giờ mất đi, chỉ có điều là hiển lộ ra hay bị che khuất bởi vật dục mà thôi.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Chính con của Thầy cũng bị các con giết mất. Các con chỉ biết tôn sùng Người bằng Tinh thần chớ không bằng Thánh chất.

Dặm dài bước lạ nẻo chưa quen,

Thánh chất dầu trau gẫm chẳng hèn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dưới gối nam kha hương Phật thắp,

Ven mây thánh chất đuốc Trời chong.

(Bát Nương Giáng Bút).

Thánh chất ví không trên đỡ vững,

Bên mình đeo đuổi mấy hồn oan.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THÁNH CHỈ

聖 旨

Thánh: Tiếng tôn xưng vua chúa, hay chỉ Đấng Chí Tôn. Chỉ: Mệnh lệnh.

1.- Thánh chỉ là mệnh lệnh của nhà vua.

Như: Tuân Thánh chỉ ra trấn nhậm ngoài biên cương.

Khi xong việc về chầu Thánh chỉ,

Thấy ngai vàng kế vị Tỳ Văn.

(Lược Thuật Toà Thánh).

2.- Trong Đạo Cao Đài, chữ Thánh Chỉ dùng để nói về mệnh lệnh Đức Chí Tôn.

Bài Ai điếu Đức Cao Thượng Phẩm, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt có câu: Nghe qua dường như sấm nổ, người dầu gan sắt dạ đồng, nghe tin cũng bắt động lòng thương xót, huống chi tôi cùng Ðức Cao Thượng Phẩm trong mấy năm dư cùng nhau keo sơn gắn chặt, thọ Thánh chỉ của Ðức Chí Tôn phổ thông Ðại Ðạo Tam Kỳ.

Khi hôm qua, nhờ có Thánh chỉ Chí Tôn nên mới rộng đường xuất Thánh.

(Thánh Giáo Nguyệt Tâm).

Phút đâu Ngọc sắc ban truyền,

Phụng thừa Thánh chỉ đàn tiền giáng lai.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THÁNH CHÚA

聖 主

1.- Thánh: Tiếng tôn xưng vua chúa. Chúa: Vua.

Thánh chúa là tiếng tôn xưng các vị vua chúa.

Như: Chiếu chỉ của Thánh chúa ban ra khắp nơi.

Thánh chúa hiền thần phò tổ nghiệp,

Khải ca định phận tại thu phân.

(Lý Giáo Tông Giáng).

2.- Thánh: Bậc Thánh. Chúa: Đấng cầm quyền bên Công giáo.

Thánh Chúa bên Công giáo có nghĩa là Chúa của đạo Thánh, tức chỉ Chúa Jesus Christ của Do Thái Giáo.

Chuộc tội nhơn sanh phải chịu đày,

Xem như Thánh Chúa với Ta nay.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THÁNH DANH

聖 名

Thánh: Chỉ sự tốt đẹp hoàn toàn. Danh: Tên.

Thánh danh là tên Thánh của một người Đạo.

Trong Đạo Cao Đài, chỉ có Cửu Trùng Đài mới có Thánh danh theo Tịch đạo của một vị chức sắc. Kỳ dư lấy phẩm đạo và tên họ làm Thánh danh.

Thánh danh nam phái Cửu Trùng Đài, thường đặt tên ở giữa phái đạo và tịch đạo. Ví dụ: Tên Trí, thuộc phái Thượng, tịch đạo Thanh, thì Thánh danh là Thượng Trí Thanh.

Thánh danh nữ phái lấy tên của vị chức sắc đặt sau Tịch đạo Hương. Ví dụ: Tên Thố, Tịch đạo Hương thì Thánh danh là Hương Thố.

Đạo truyền vạn đại Thánh danh còn,

Khảo đảo chi sờn dạ sắt son.

(Thơ Thông Quang).

Công đức phi thường nêu Đạo sử,

Thánh danh muôn thuở vẫn lưu truyền.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

THÁNH ĐẢN

聖 誕

Thánh: Bậc Thánh, tiếng để tôn xưng. Đản: Sinh. Như: Đản nhựt là ngày sinh, Thánh đản.

Trong các bản Sớ Văn bằng chữ Quốc ngữ đều viết là “Thánh đán”. Thật ra, viết cho đúng phải là “Thánh đản”.

Thánh đản là ngày sinh của các bậc Thánh (tiếng tôn xưng). Còn được gọi là Đản sinh.

Kim vì Vọng nhựt lương thần, chánh thị Đức Thái Thượng Lão Quân Thánh Đán (đản).

(Sớ Văn).

 

 

THÁNH ĐẠO

聖 道

1.- Thánh: Tiếng tôn xưng. Đạo: Tôn giáo.

Thánh Đạo là một tôn giáo thiêng liêng, chỉ mối Đạo của Đức Chí Tôn, hoặc Đạo Phật.

Thầy lại nói, buổi lập Thánh đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu nhọc đến công Thầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2,- Thánh: Bậc Thánh. Đạo: Tôn giáo.

Thánh Đạo còn có nghĩa là Đạo Thánh, tức một tôn giáo dạy người tu hành đắc quả vị vào bậc Thánh. Ví dụ: Nho giáo hay Thiên Chúa Giáo được coi là Thánh Đạo.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có câu: Thánh đạo của Ðức Chúa Cứu Thế (vì sự hiểu lầm) làm tăng gia dục vọng của kẻ mạnh đối người yếu và giúp giáo cho bọn trên hiếp dưới.

Lấy mắt thiêng liêng xem Thánh Ðạo,

Ðừng ngờ ngoài ngõ đón yêu tinh.

(Đạo Sử).

 

 

THÁNH ĐỊA

聖 地

Thánh: Thiêng liêng, mầu nhiệm. Địa: Đất.

Thánh địa là vùng đất Thánh, là nơi có Đền thờ trung ương để thờ Đức Thượng Đế và cũng là nơi đặt các cơ quan điều hành của Hội Thánh Cao Đài.

Thánh giáo ngày 20 tháng giêng năm Đinh Mão, 1927, Đức Chí Tôn có dạy: Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh Ðịa.

Như vậy Thánh ý của Đức Chí Tôn muốn đặt làng Long Thành tỉnh Tây Ninh là vùng Thánh Địa.

Chúng ta thử tìm hiểu về miếng đất mà Hội Thánh mua để xây dựng Toà Thánh và hiện nay trở thành vùng Thánh Địa.

Nhắc lại sau khi Đức Chí Tôn chọn lựa các vị tiền khai nền Đại Đạo xong, các vị ấy họp lại thành Hội Thánh đứng ra tổ chức lễ Khai Đạo tại Từ Lâm Tự (chùa Gò Kén) ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần (Dl. 19/11/1926). Trụ trì Từ Lâm Tự là Hoà Thượng Như Nhãn (Giác Hải) lúc đầu hiến chùa để làm lễ Khai Đạo, sau đổi ý đòi chùa lại, và hẹn Hội Thánh trong vòng ba tháng phải dời đi.

Đức Lý Giáo Tông giáng cơ vào ngày 19 tháng 1 năm Đinh Mão (1927) tại chùa Gò Kén quyết định trả chùa lại cho Hoà Thượng Như Nhãn và dạy Hội Thánh phải tìm mua một miếng đất tại Tây Ninh để xây dựng ngôi thờ Đức Chí Tôm và các cơ quan trong Đạo.

Sang ngày 20 tháng 1 năm Đinh Mão, Đức Chí Tôn giáng cơ tại Từ Lâm Tự khẳng định việc mua đất cất Toà Thánh như sau: Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh Ðịa.

Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương, vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh, dạy dỗ dân về Ðạo, Thầy ban trọn quyền thưởng phạt đặng răn làng ấy cho đến ngày biết ăn năn cải quá.

Vậy thì làng Long Thành, các con khá an lòng.

Còn Toà Thánh thì Thầy muốn cho có nhơn lực hiệp cùng Thiên ý, ấy là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước.

Từ Thầy đến lập Ðạo cho các con đến giờ, Thầy chưa hề một mình chuyên quyền bao giờ. Các con lựa chọn nơi nào mà Hội Thánh vừa lòng thì đẹp lòng Thầy.

Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Toà Thánh. Chi Chi cũng tại Tây Ninh đây mà thôi.

Theo quyển Đạo Sử, Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có nhắc lại việc đòi chùa cho Hoà Thượng Giác Hải như sau: Kể từ Rằm tháng 10 Bính Dần (1926) tới Rằm tháng Giêng Ðinh Mão (1927) là đúng kỳ hứa trả chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén) là ba tháng, nhưng tới tháng hai năm Ðinh Mão, đã quá hạn kỳ một tháng mà Hội Thánh chưa trả chùa lại được, vì chưa kiếm được đất để mua, còn ông Huề Thượng Giác Hải thì cứ đòi chùa lại hoài.

Vì sự đòi chùa ấy nên Ðức Lý Giáo Tông giáng dạy quý ông Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng đi kiếm đất mua đặng dời chùa.

Hội Thánh tìm mua không được đất, Ðức Lý mới dạy: “Mai này chư Hiền Hữu lên đường trên gọi là đường dây thép (là đường từ Mít Một chạy tới cửa Hoà Viện bây giờ) nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ, coi Hiền Hữu có thấy đặng chăng cho biết. Lão đã nói rằng: Mỗi sự chi chi đều bày trước mắt nhơn sanh hết”.

Qua hôm sau, ngày 22 tháng 1 năm Đinh Mão, Ngài Thái Thơ Thanh cho mượn một chiếc xe, Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh cho mượn một chiếc nữa. Hai chiếc xe chở các vị chức sắc Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài gồm quý Ngài Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh chạy theo lời chỉ dạy của Đức Lý thì tìm mua được một miếng đất rừng của ông Kiểm lâm người Pháp tên là Aspar. Nguyên Miếng đất nầy nằm cạnh khu đất rừng của ông Cao Văn Điện, bạn học của Đức Cao Thượng Phẩm, chính nhờ ông Điện làm mai mới mua được miếng đất ấy.

Khi mua được đất rồi, tối lại quý vị chức sắc lập Đàn cầu hỏi Đức Lý xem Hội Thánh mua đất như vậy có đúng theo Thánh ý của Đức Ngài không. Đức Lý giáng dạy như sau: “Lão khen Thái Thơ Thanh, phải đó đa tưởng chư Hiền Hữu không thấy nữa. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh Địa. Sâu hơn ba trăm thước như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa sáu nguồn làm như sáu con Rồng đoanh nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục Long Phò Ấn. Ngay miếng đất đó đặng ba đầu; một đầu ra Giếng Mạch Ao Hồ; hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia. Người Lang Sa chỉ đòi có hai mươi lăm ngàn đồng”.

Tóm lại, vùng Thánh Địa là nơi xây cất Toà Thánh Cao Đài Tây Ninh do Hội Thánh đi tìm mua đất, nhưng chúng ta thấy việc định lập khu Thánh Địa nầy hoàn toàn do Đức Chí Tôn và Đức Lý giáng cơ chỉ dạy.

Ngoài ra, việc lập thành khu Thánh Địa ngày nay cũng phải nhờ công sức của bao nhiêu người chịu hy sinh vì Thầy, vì Đạo khai phá đám rừng đầy thú dữ là đầy lam sơn chướng khí. Chính Đức Thương Sanh trong một bài thuyết đạo có nhắc lại như sau: Hồi tưởng lại cách đây 41 năm, vùng nội ô và ngoại ô Thánh Địa toàn là những khu rừng rậm chứa đầy thú dữ. Biết bao điều nguy hiểm trong sự phá rừng và sự khai thác: Nào lam sơn chướng khí, nào nước độc muỗi mòng, nào thú dữ chực hờ...lại thêm thiếu người công quả. Nếu chức sắc lúc ban sơ không có chí hy sinh và sụt sè vì những trở ngại, nếu Ðức Thượng Phẩm không có chí cương quyết điều khiển công quả, phần nhiều là người Tần Nhơn thì ngày nay đâu có vùng Nội ô Thánh Ðịa, đâu có một đô thị tôn giáo trang hoàng và xinh đẹp nhứt trong nước Việt Nam.

Và trong bài Thuyết đạo khác Đức Ngài cũng có dạy toàn Đạo phải làm sao cho xứng danh với người của Thánh Địa. Ngài nói:

Vùng Thánh Ðịa nầy dù là Nội Ô hay Ngoại Ô cũng đều sản xuất nơi lòng thương yêu vô biên của Ðức Chí Tôn và sự hy sinh tuyệt đối của các Ðấng tiền bối trong Ðạo. Thánh Ðịa phải xứng với danh từ của nó.

Người ở trong vùng Thánh Ðịa dù là Chức Sắc hay Tín hữu cũng đồng con cái của Ðức Chí Tôn, nên không thể thiếu lòng thương yêu được, mỗi cá nhân không nên chìu theo thị dục mà gây sự tranh chấp hơn thua với nhau, gây nên kiện tụng liên miên, tạo ra cảnh rối loạn như ở bến chợ đời. Người của Thánh Ðịa phải hiền từ, mực thước, thành thật, công bằng thì hai chữ Thánh Ðịa mới khỏi bị mỉa mai, chê biếm.

Dời qua Thánh Địa Long Thành,

Ra tiền mua đất Tây Ninh cụm rừng.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

Nhẫng mong Thánh Địa ngày tương hội,

Hoa lá vườn thơ lại thắm màu.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THÁNH ĐIỆN

聖 殿

Thánh: Tiếng dùng để tôn xưng. Điện: Cung điện, chỉ nơi thờ phượng.

Thánh Điện là nơi thờ Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Thánh Ngôn Thầy có câu: Ðường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng toan vào, mà thấy bạc rơi cũng chẳng bỏ, lợi mún chẳng từ, mượn danh Ðạo mà tạo danh mình, vô Thánh điện mà hơi tà còn phưởng phất.

Lôi Âm Cổ vang rền nơi Thánh điện,

Giục người về kịp buổi triều Thiên.

(Hiền Nhơn Lê Văn Trung).

 

 

THÁNH ĐỨC

聖 德

Thánh: Người hiểu thấu mọi việc, học thức và đạo đức cao siêu. Đức: Người làm điều lành, thi ân bố đức cho kẻ khác.

Thánh đức là cái đức của bậc Thánh, tức là những bậc hiền nhân có tâm hồn hy sinh để phụng sự cho nhơn loại và dẫn dắt nhơn loại vào con đường đạo đức.

Đường Thánh đức là đường để đạt được bậc Thánh, tức con đường đạo đức.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Nhơn luân giữ trọn, ấy là mối đạo nhân, lo Thánh đức trau lòng là phương thoát tục”. Trong Chú giải Pháp Chánh Truyền cũng có viết: “Dầu phải bị đoạ trần đi nữa cũng giữ vẹn Thánh đức mà tu hành đặng đạt đến địa vị trọn lành”.

Luật Nhơn quả để răn Thánh đức,

Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu.

(Kinh Tận Độ).

Trên đường Thánh đức lần dò,

Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hoá công.

(Kinh Thế Đạo).

Hiền ngõ rủi sanh đời bạo ngược,

Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÁNH GIÁO

聖 教

Thánh: Tiếng tôn xưng, dùng để chỉ Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng. Giáo: Lời dạy.

1.- Thánh giáo là lời dạy của các Đấng Thiêng liêng.

Như: Thánh giáo Phật Mẫu, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Thỉnh thoảng còn nghe lời Thánh giáo,

Thường năm kỷ niệm vẫn lưu truyền.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Châu ngọc làu làu lời Thánh giáo,

Vàng son rỡ rỡ nét Thiên Tài.

(Thơ Chơn Tâm).

2.- Thánh giáo là lời dạy của Đức Chí Tôn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thầy nói: Các con xa Thánh giáo của Thầy đã lâu, tưởng lòng hằng ước mơ hoài vọng, mà Thầy lâu đến để lời tâm huyết chỉ giáo cho các con, Thầy cũng buồn lòng mà thấy bầy con lao nhao lố nhố lặn hụp chìm đắm giữa cõi hư sanh nầy.

Thánh giáo Chí Tôn dạy thuận hoà,

Thành tâm cầu nguyện gió giông qua.

(Thơ Thái Đến Thanh).

3.- Thánh giáo còn có nghĩa là Đạo Thánh, tức tôn giáo dạy cho các tín đồ tu hành đắc đạo thành bậc Thánh.

Như vậy, đạo Nho, hay đạo Thiên Chúa đều gọi là Thánh giáo.

Thành kỉnh tụng Thánh giáo Tâm Kinh.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

4.- Thánh giáo dùng để chỉ nền Đạo của Đức Chí Tôn. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Ðạo phát trễ một ngày thì nhơn sanh tội lỗi cả muôn ngàn. Vì vậy mà Thầy muốn cho mỗi đứa đều để lòng lo liệu chấn hưng nền Thánh giáo.

Phá cho Thánh giáo nát tan,

Dẫn người lương thiện vào đàng Bàng môn.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

 

 

THÁNH GIÁO TÂM KINH

聖 教 心 經

Thánh giáo Tâm Kinh là một bài kinh xưng tụng công đức của Khổng Thánh Tiên Sư, Giáo chủ Nho giáo.

Vì vậy, bài kinh nầy còn được gọi là “Khổng Thánh chí tâm quy mạng lễ 孔 聖 志 心 皈 命 禮” nghĩa là hết lòng kính lạy quy y Đức Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư tức là Khổng Tử, người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông bên Tàu. Thân phụ Ngài là Thúc Lương Ngột làm quan võ, mẹ Ngài là Bà Nhan Thị. Ngài sinh vào năm Canh Tuất và mất tháng 4, ngày Kỷ Sửu thọ được 73 tuổi. (Xem: Khổng Tử).

Bài Thánh giáo Tâm Kinh có nội dung như sau:

- Quế Hương nội điện, Văn Thỉ thượng cung.

Đức Khổng Phu Tử ở nơi điện Quế Hương, trên cung Văn Thỉ, một cõi Thiêng liêng.

- Cửu thập ngũ hồi, chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố.

Ngài vô là vì sao Văn Xương ở Thượng giới đã chín mươi lăm lần đầu thai xuống cõi trần mà lần nào Ngài cũng gieo trái lành nơi vườn thi thơ để lưu truyền giống tốt cho muôn đời sau hưởng dùng.

- Bá thiên vạn hoá, bồi quế thọ, ư âm chất chi điền.

Ngài đã hoá thân hàng trăm ngàn lần mà lần nào Ngài cũng vun bồi gốc quế, gieo trồng âm chất nơi ruộng tâm điền để cháu con đời đời được hưởng phúc đức.

- Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh,

Chẳng hạn như sáng chế ra văn tự là việc vĩ đại, đánh dấu một giai đoạn quan trọng của loài người, vì từ đó con người được mở mang, hết còn ngu tối dốt nát, chẳng khác nào trời mưa mà sấm nổ vang lên làm cho con người được thức tỉnh, đương ngu hoá ra khôn và từ đó biết luân thường đạo lý.

Như vậy việc làm của Ngài quả nhiên linh hơn chim phụng ở núi Kỳ Sơn. Mặc dù chim phụng gáy ở non Kỳ để báo hiệu chúa Thánh ra đời, nhưng không thể so sánh với việc phát minh ra chữ viết để khai hoá nhân tâm được.

- Chí như ý từ, tường ư ngao trụ.

Đến như cái ý nhơn từ, những tư tưởng lành, tốt đẹp của Đức Khổng Thánh đem ban cho thiên hạ để giáo hoá thế nhân cho họ biết bổn phận làm con, làm tôi, làm vua cứ một lòng ngay thẳng vững vàng như cây cột ngao chống trời.

- Khai nhơn tâm tất bổn, ư đốc thân chi hiếu.

Ngài hằng dạy người đời: Khai hoá nhơn tâm là cái gốc của con người, dốc một lòng hiếu kính với cha mẹ để gia đình an vui hạnh phúc.

- Thọ quốc mạch tất tiên, ư trí chúa chi trung.

Còn đối với quốc gia, muốn cội nước được vững bền phải biết bổn phận làm dân trong nước, nghĩa là phải biết trung với vua và nước.

- Ứng mộng bảo sanh, Thùy từ mẫn khổ,

Còn phận làm vua thì phải có lòng nhân từ, thương yêu dân chúng, có như thế thì sẽ được các Đấng Thiêng liêng thường ứng vào mộng để chỉ dạy cách bảo sự sống cho nhơn sanh, cũng như Đức Khổng Tử chiêm bao thấy Chu Công khuyên Ngài dạy đạo lý cứu khổ nhơn sanh vậy.

- Đại Nhơn, Đại Hiếu, Đại Thánh, Đại Từ

Ôi! Lòng nhân hậu và lòng hiếu thảo của Đức Khổng Thánh rất to lớn, Thánh đức và lòng thương yêu của Ngài thật là bao la, không cùng tận.

- Thần văn, Thánh võ, Hiếu Đức Trung Nhơn.

Đức văn của Ngài như Thần, đức võ của Ngài như Thánh. Ngài gồm đủ bốn đức: Hiếu thảo, đức hạnh, trung tín, và nhơn từ.

- Vương Tân sách phụ, Nho Tông khai hoá,

Đức Khổng Tử là một vị thượng khách của vua (Vương tân), thường bày kế sách trị nước, an dân.

Ngài lại có công truyền bá Đạo Nho để mở mang giáo hoá quần chúng.

- Văn Tuyên Tư Lộc, hoằng nhơn Đế Quân. Trừng chơn chánh quang, Bửu Quang từ tế Thiên Tôn.

Ngài chính là Đức Văn Tuyên, một Đấng trông coi về phước lộc và vị Đế Quân có đức nhơn rộng lớn, chơn thật, ngay thẳng thường đem báu sáng ban lộc cho chúng sanh. Ngài thật là một vị Thiên Tôn

 

Thành kỉnh tụng Thánh giáo Tâm Kinh.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

 

 

THÁNH HIỀN

聖 賢

Thánh: Người hiểu thấu mọi việc, học thức đạo đức cao siêu. Hiền: Người có đức hạnh và tài năng.

Thánh hiền là bậc Thánh và bậc Hiền, tức người có đức hạnh cao siêu, và tài năng uyên bác.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hễ tôn sùng, tức nhiên phải nhìn Ðấng Tạo Ðoan đã ban cho chúng ta mạng sống, cho ta nhứt điểm linh quang, mới biết phân biệt hiền với ác, chánh với tà, để làm biểu hiệu cho con người thức giấc mê, tìm hiểu chơn lý của sự sống như thế nào, đặng trở lộn lại sống theo tinh thần của Thánh Hiền hay sống theo tánh hung bạo tàn ác của con vật.

Thánh hiền kinh sách dạy bày,

Lòng người ám muội lỗi gây ra hoài.

(Kinh Sám Hối).

Trường đời đem thử gan anh tuấn,

Cửa Đạo mới ra bậc Thánh Hiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Coi gương trước Thánh Hiền ghi lại,

Kết bạn nhau đạo ngãi làm sao.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÁNH HÌNH

聖 形

Thánh: Thiêng liêng. Hình: Hình thể.

Thánh hình là hình thể Thiêng Liêng. Đây có thể hiểu là hình thể của một bậc nguyên nhân.

Như ta đã biết, Chơn linh là một Tiểu Linh Quang được chiết ra từ Đức Chí Tôn, Phật Mẫu mới đem phối hợp với Chơn thần do Ngài tạo ra nơi Kim Bàn để làm thành một Thánh hình, hay một hình thể Thiêng Liêng. Đó là bậc nguyên nhân vậy.

Sau đó, Nguyên nhân mới đầu kiếp xuống phàm trần, kết hợp với nhục thể do cha mẹ nơi thế gian này tạo ra để thành một con người phàm trần.

Sanh quang dưỡng dục quần nhi,

Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Xin gìn giữ Thánh hình thanh bạch,

Xin xá ân rửa sạch tiền khiên.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THÁNH HUẤN

聖 訓

Thánh: Tiếng tôn xưng, hoặc chỉ về vua. Riêng trong Cao Đài chỉ Hội Thánh. Huấn: Dạy bảo.

Thánh huấn là lời chỉ dạy của nhà vua, hoặc các bậc Thánh nhân, các Đấng Thiêng liêng.

Trong tôn giáo Cao Đài, Thánh huấn là lời dạy của Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng, hoặc của Hội Thánh Cao Đài, do ba vị Chánh Phối Sư ký tên ban hành cho toàn Đạo.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Con cái của Ngài nếu đủ khôn ngoan chịu khó ôn lại Thánh giáo của Ngài từ trước xem lại từ trương, từ lời Thánh huấn thì hiểu ngay rằng không hề sai suyển một mảy may nào cả.

Người luyện Ðạo đừng sai Thánh huấn,

Mà để làm triệu chứng đơn kinh.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Chơn truyền Thánh huấn không ai giữ,

Văn hoá thực thi chẳng mấy người.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THÁNH HUẤN GIÁC MÊ

聖 訓 覺 迷

Thánh huấn: Lời dạy của Đức Chí Tôn hoặc các Đấng Thiêng Liêng. Giác mê: Thức tỉnh cơn mê.

Thánh Huấn Giác Mê là một tác phẩm bằng thể thơ thất ngôn bát cú của Đức Lý Đại Tiên giáng cơ năm Bính Dần, 1926, nhằm mục đích khuyên dạy chúng sanh biết tỉnh ngộ, không còn mê lầm để lần theo đường chánh giác.

Thánh Huấn Giác Mê đã dạy rành,

Kim ngôn khải ngộ cả nhân sanh.

(Lý Đại Tiên Giáng).

 

 

THÁNH Ý

聖 意

Thánh: Tiếng tôn xưng, dùng để chỉ Vua hay Đức Chí Tôn. Ý: Điều suy nghĩ.

Thánh ý là ý kiến của nhà vua hay của Đức Chí Tôn. Chữ “Thánh” mà Ðức Chí Tôn dùng để chỉ về mình là biểu lộ sự khiêm nhường của Ngài.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy vì đức háo sanh nên thâu thập nhiều đứa lương tâm chưa chánh đáng, là Thánh ý để cho chúng nó quy chánh cải tà, nhưng thói phàm tục lung lăng chẳng dứt.

Các con đã hiểu Thánh ý Thầy, phải cần kiệm, mỗi sự chi vì phương tiện mà thôi.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÁNH KINH

聖 經

Thánh: Bậc Thánh, hoặc tiếng tôn xưng. Kinh: Sách chép lời Thánh hiền hay chư Tiên Phật.

Nếu chữ Thánh là bậc Thánh, thì Thánh kinh như chữ “Kinh Thánh”, là kinh của đạo Thánh, tức Kinh của Thiên Chúa Giáo, hay kinh của đạo Tin Lành, ý chỉ Kinh Cựu Ước và kinh Tân Ước.

Nếu chữ Thánh là tiếng tôn xưng thì Thánh Kinh dùng để chỉ các bài kinh do các Đấng Thiêng liêng giáng cơ ban cho.

Trong đạo Cao Đài, Thánh Kinh dùng để chỉ Kinh “Thiên Đạo và Thế Đạo”, còn được gọi là Tân Kinh.

Làm người rõ thấu lý sâu,

Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THÁNH LỊNH

Hay “Thánh lệnh”.

Thánh: Bực Thánh, tiếng tôn xưng vua, hay Hội Thánh trong đạo Cao Đài. Lịnh (lệnh): Mệnh lệnh.

Thánh lịnh, như chữ “Thánh lệnh 聖 令”, là mệnh lệnh của vua hay của Hội Thánh ban xuống để thi hành.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Tiêu Sơn Đạo Sĩ có dạy: Tân Luật lập còn thiếu sót nhiều, bởi Chức sắc Hiệp Thiên Ðài chẳng để mắt đến, quyền hành thưởng phạt lộn xộn, nên phải chịu dưới quyền Toà Tam Giáo Cửu Trùng Ðài. Sau sẽ có Thánh Lịnh dạy lại, còn chưa phân minh nhiều chỗ.

Bao Chức sắc phục tùng Thánh lịnh,

Bổ địa phương thức tỉnh nhơn sanh.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Nguyện tuân Thánh lịnh dìu đời khổ,

Mừng thấy phàm gian hưởng phước lành.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THÁNH LUẬT

聖 律

Thánh: Tiếng tôn xưng. Luật: Luật pháp.

Thánh luật là tiếng tôn xưng luật pháp của nền Đạo Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức đạo Cao Đài.

Các đạo hữu phải để lòng thành khẩn, hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh luật.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÁNH MIẾU

聖 廟

Thánh: Bậc có đạo đức cao siêu và hiểu thấu mọi việc. Miếu: Ngôi nhà dùng để thờ tự.

Thánh miếu là miếu thờ Đức Khổng Tử và các vị á thánh, như Mạnh Tử...

Thánh miếu còn dùng để chỉ các bậc thuộc Nho học.

Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,

Chốn quyền môn nữ lại vẫn không.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÁNH NGÔN

聖 言

Thánh: Tiếng tôn xưng, dùng để chỉ Đức Chí Tôn hay các Đấng Thiêng Liêng. Ngôn: Lời nói. Hiệp: Hợp lại. Tuyển: Chọn lựa.

1.- Thánh Ngôn là những lời răn dạy, hoặc những lời giáo huấn của Đức Chí Tôn hay các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho chúng sanh thời Tam Kỳ Phổ Độ.

Thánh giáo Chí Tôn có đoạn dạy: Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy: Dầu cho sắt đá cỏ cây, mà nghe đến Thánh Ngôn nơi Thầy do con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người. Con nhớ và an lòng.

Đạo đức thi văn là của báu,

Thánh Ngôn Từ Phụ một nguồn trong.

(Thơ Huệ Phong).

2.- Thánh Ngôn Hiệp Tuyển 聖 言 合 選 là do Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh lựa chọn trong những bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng hiệp lại in thành hai quyển, gọi là “Thánh Ngôn Hiệp Tuyển” quyển nhứt và nhì.

Tiếng kệ lời kinh hằng tụng niệm,

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển mãi rèn trau.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THÁNH NHÂN

聖 人

Thánh: Bậc Thánh, bậc có tài trí và đạo đức phi thường. Nhân: Người.

Thánh nhân, còn đọc là “Thánh nhơn”, là người lý tưởng đạt đến chỗ tận thiện tận mỹ trong đạo làm người, hoặc người hoàn thiện nhứt một học thuyết hay triết thuyết trong lý thuyết hay thực hành.

Đối với các Nho gia, Đức Khổng Tử được coi như là một bậc Thánh Nhân vì Ngài chu du thiên hạ, truyền đạo hoá dân, trăm bề khổ sở.

Lễ văn đủ định phân khách trí,

Hạnh đức toàn xưng vị Thánh nhân.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

THÁNH NHO

聖 儒

Thánh: Bậc Thánh, bậc đạo đức và tài trí phi thường. Nho: Đạo Nho, Nho giáo.

Thánh Nho là các vị Thánh trong Nho giáo, tức được các nhà Nho xưng tụng là bậc Thánh.

Bởi vậy chư Hiền, chư Thánh Nho nói rằng: “Khi nhơn tức khi tâm”.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÁNH NHƠN

Thánh: Bậc Thánh, bậc có tài trí và đạo đức phi thường. Nhơn (nhân): Người.

1.- Thánh nhơn, như chữ “Thánh nhân 聖 人”, theo Nho giáo là người đạt đến chỗ tận thiện tận mỹ trong đạo làm người, và luôn mang lý tưởng giúp người giúp đời cho tốt đẹp.

Khi luận về Quan Thánh, Đức Thượng Sanh có nói: Chỉ vì khi còn tại thế Ðức ngài gồm cả bốn Ðức: Trung, Can, Nghĩa, Khí. Một lời giao kết dù cho nát thân cũng không dời đổi. Trung thì bền lòng như sắt đá. Cang dũng thì coi sự chết như mảnh lông hồng, trọng nghĩa như Thái sơn, khí tiết thì chói loà Nhựt Nguyệt. Ngài là một nhơn vật phi thường một vị Thánh nhơn tại thế vậy.

Trời cao, Đất thấp, muôn vật ở giữa có Thiên hình vạn trạng khác nhau. Thánh Nhơn theo cái thứ bậc đó mà chế ra Lễ.

(Giáo Lý).

2.- Thánh nhơn theo Lão giáo, Đức Thượng Sanh cho là người sống trong cảnh tịch mịch, cách biệt với người đời, đóng cửa, rấp ngõ không giao thiệp với ai, để rèn luyện tâm tánh, trụ vững tinh thần như thế mới gần gũi được với thiên nhiên, quan năng trực giác mới được sáng suốt, tuy không ra khỏi ngõ cũng hiểu được thiên hạ, không ngó qua cửa sổ cũng biết được thiên đạo. Người ấy Lão Tử gọi là Thánh nhơn.

Thánh nhơn vô công, vô kỷ, vô danh: Thánh nhơn không cầu công ơn, không tư kỷ, không ham danh.

(Giáo Lý).

3.- Thánh Nhơn trong đạo Cao Đài là một phẩm chức sắc cao cấp trong Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng thuộc Cơ Quan Phước Thiện, đứng dưới phẩm Tiên Tử và trên phẩm Hiền Nhơn. Thánh Nhơn đối phẩm Phối Sư bên Cửu Trùng Đài.

Đạo phục của Thánh Nhơn: Áo tràng trắng, mang dây sắc lịnh màu vàng, bỏ mối qua hông mặt (Đạo), trên có gắn khuê bài ghi chữ Thánh Nhơn, đầu đội khăn đóng màu vàng 9 lớp chữ nhứt, chơn đi giầy bố trắng.

Kỷ luật Thập nhị đẳng cấp Thiêng liêng của Chức Sắc Phước Thiện định y như dưới đây: 1.Minh Đức, 2.Tân Dân,... 10.Thánh Nhơn, 11.Tiên Tử, 12.Phật Tử.

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

THÁNH PHÀM

聖 凡

Thánh: Bậc Thánh, bậc tài trí phi thường. Phàm: Người phàm, người tầm thường ở cõi trần.

Thánh phàm là chỉ bậc Thánh và người phàm tục.

Theo Phật, “Phàm Thánh bất nhị 凡 聖 不 二”, tức là phàm phu và bậc Thánh không hai.

Thật vậy, như ta biết tất cả chúng sanh đều có Thiên tánh, nên đều có khả năng thành Tiên, Phật trong tương lai. Nhưng có điểm khác nhau, Thánh là bậc đã xa lìa được ô nhiễm và tà dục, có lòng lo giúp cho chúng sanh, nên được hạnh phúc an lạc. Còn kẻ phàm thì tâm bị điên đảo, vọng động, lìa bỏ cái Thánh tâm vốn có sẵn nơi mình, nên vẫn tiếp tục sự khổ đau và phiền não.

Thế thì tâm là nguồn gốc sanh điều lành việc dữ, cái máy tạo thành hoạ phước, Thánh phàm.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÁNH QUÂN

聖 君

Thánh: Người có tài năng, đức hạnh. Quân: Vua.

Thánh quân là vua Thánh, tức một đấng minh quân có tài đức, yêu thương dân chúng.

Thánh quân là tiếng dùng để ca tụng ông vua có tài đức. (Xem: Thánh Đế).

Lân ra ắt có Thánh quân ra,

Nhiều gốm vòng Nam hiệp một nhà.

(Đạo Sử).

Giang san tô điểm tay hào kiệt,

Đất nước trị bình đức Thánh quân.

(Thơ Hiến Đạo).

 

 

THÁNH TÂM

聖 心

Thánh: Thiêng liêng. Tâm: Cái tâm của con người.

Thánh tâm là tâm chí thánh, cái tâm rất Thiêng liêng, tức là cái tâm thiện lương, chơn chánh.

Tâm của kẻ phàm phu cũng do Trời phú cho, nhưng vì con người phàm phu thường xu hướng theo vật chất, nên tâm bị lôi cuốn theo, khiến cho tâm bị động.

Khi tâm động thì phát xuất ra ý, ý mới hiệp với thức của thân ngũ uẩn mà có khuynh hướng dục vọng, đó là đầu mối của vô minh.

Người có Thánh tâm là người biết giữ cho tâm được thanh tịnh, chiêu minh, tức là giữ được bản thể của nó là tánh, do Trời phú cho, trở về với nguồn cội là Đại Linh quang Thượng Đế. Vì thế tâm sẽ trở nên thần minh, làm chủ nhục thân, hành động theo Đạo tự nhiên của Trời đất.

Do vậy, những bậc Thánh tâm là những người có đức háo sanh như Thượng Đế, đầy lòng thương yêu, nên mong muốn sửa đổi cho tất cả chúng sanh những tâm phàm tánh tục trở lại với Thiên tánh.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thánh tâm dầu phải chịu khổn trần đi nữa thì chất nó cũng vẫn còn. Các con khác hơn kẻ phàm là duy tại bấy nhiêu đó mà thôi.

Trường phổ tế khó khăn lắm nỗi,

Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm.

(Kinh Thế Đạo).

Lần lựa cho đò xa bến Thánh,

Thánh tâm mấy kẻ vẹn trau thân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Diệt mê tín mở đường chơn thật,

Lấy Thánh tâm đặng cất Cao Đài.

(Xuân Hương Giáng Bút).

 

 

THÁNH TOÀ TRẤN TỊNH

Thánh toà (toạ): Hay Thánh Toạ, tức ngôi Toà Thánh. Trấn tịnh: Gìn giữ yên tịnh.

Thánh toà trấn tịnh, như chữ “Thánh toạ trấn tịnh 聖 座 鎮 淨”, là ngôi Toà Thánh được giữ gìn yên tịnh.

Trong Đạo Cao Đài, bài Kệ Chuông U Minh, lời nguyện thứ 16 có câu: Thánh Toà trấn tịnh, đạo pháp hưng thịnh 聖 座 鎮 淨, 道 法 興 盛, nghĩa là Toà Thánh được giữ gìn yên tịnh, đạo pháp được hưng thịnh lâu dài.

Thánh Toà trấn tịnh, đạo pháp hưng thịnh.

(Kệ U Minh).

 

 

THÁNH TOÀ LỢP TRANH

Thánh Toà: Chỉ ngôi Toà Thánh, là Tổ Đình của Đạo Cao Đài. Lợp tranh: Mái Toà Thánh lợp bằng tranh.

Thánh Toà lợp tranh là mái Toà Thánh ngày xưa khi mới dời về làng Long Thành còn tạm lợp bằng tranh.

Nguyên trước kia, Hoà Thượng Như Nhãn cho Hội Thánh Cao Đài mượn ngôi chùa Gò Kén để làm lễ khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Sau vì xảy ra cuộc biến, Như Nhãn đòi ngôi chùa lại. Hội Thánh vâng theo lời Đức Lý, tìm mua một miếng đất tại làng Long Thành, trả chùa lại cho Hoà Thượng Như Nhãn, rồi thỉnh cốt Ðức Phật Thích Ca cỡi ngựa dời về đất mới mua, cất tạm ngôi chùa bằng cây ván, lợp tranh mà thiên hạ ngoài đời thời buổi ấy gọi là Chùa Mới.

Thánh Toà xưa khởi lợp tranh xanh,

Kiến thiết tròn đêm chóng lập thành.

(Thơ Bảo Văn Pháp Quân).

 

 

THÁNH TÔNG ĐỒ

聖 宗 徒

Thánh: Bậc Thánh. Tông đồ: Một trong mười hai người môn đồ của Đức Chúa Jésus.

Thánh Tông đồ tức một trong mười hai vị Thánh, là môn đồ của Đức Chúa Jésus Christ.

Mười hai vị Thánh Tông đồ của Ðức Chúa Jésus Christ là:

 

1) Thánh Pierre.

 

2) Thánh Anrê.

 

3) Thánh Yacôbê.

 

4) Thánh Yoan.

 

5) Thánh Philip.

 

6) Thánh Barthôlômêô.

 

7) Thánh Thôma.

 

8) Thánh Mathêô.

 

9) Thánh Yacôbê.

 

10) Thánh Thađê.

 

11) Thánh Simôn.

 

12) Thánh Yuđa Iscariôt.

Yuđa sau phản Chúa nên bị chết thảm. Mười một Tông đồ còn lại cử Ông Matthya vào thay Yuđa cho đủ số mười hai vị Thánh như buổi đầu.

Nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh Tông đồ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÁNH TỬ ĐẠO

聖 死 道

Thánh: Bậc Thánh. Tử Đạo: Người chết vì Đạo.

Theo quan niệm của Tôn Giáo Cao Đài, những người chết vì bảo vệ Đạo pháp hay vì trung thành với Đạo đều được phong vào hàng Thánh, gọi là Thánh Tử Đạo và được biên tên đem thờ nơi Bát Quái Đài.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo xin cả toàn thể đứng yên lặng trong năm phút đồng hồ để tưởng niệm đến các Thánh Tử Đạo, vì vận mạng của nước nhà, vì chánh thể của nền chơn giáo đã hy sinh đặng làm sứ mạng Thiêng Liêng của mình bằng xương máu.

Thánh Tử Đạo,cũng thờ đây,

Hy Sinh vì Đạo thương Thầy mến dân.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THÁNH TƯỢNG

聖 像

Thánh: Tiếng tôn xưng. Tượng: Hình người hay hình các Đấng Thiêng liêng vẽ hoặc nắn đúc để thờ phụng.

Thánh Tượng là tượng thờ bằng hình hay cốt tượng của các Đấng Thiêng liêng.

Trong Đạo Cao Đài tại các Thánh Thất ở địa phương, nơi chánh điện vẽ hình Thiên Nhãn mà thờ, gọi là “Thánh Tượng Thiên Nhãn”, còn tại tư gia của các tín đồ thì thờ “Thánh Tượng Ngũ Chi”.

Thánh giáo Thầy có câu: Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng Con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh.

Ðã có Thánh Tượng Thầy thì là cốt Ngọc Hoàng con để lại chẳng nghĩa chi hết.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÁNH THAI

聖 胎

Thánh: Thiêng liêng, mầu nhiệm. Thai: Thể sống đang hình thành và lớn lên trong bụng mẹ.

Thánh thai, theo đạo Cao Đài là cái chơn thần huyền diệu của người đắc đạo.

Trong phép luyện đạo, người luyện tam bửu Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt thì tạo được Thánh thai, tức “chơn thần huyền diệu”, đắc đạo tại thế.

Cái chơn thần nầy theo các Đạo gia gọi Kim đơn, Thánh thai hay Xá lợi tử.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Dầu cho vị Phật, Tiên nào cũng phải chịu đầu thai vào thế giới vật chất luyện cho đắc thành Thánh thai Phật tử mới về ở thế giới hư linh, chớ đừng nói trong hàng Phật, Tiên đắc Ðạo mà không tu luyện theo pháp này thì làm sao thành chánh quả!

Luyện cho đắc Thánh thai Phật tử,

Lập chí cao quân tử tu hành.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THÁNH THÂN

聖 身

Thánh: Bậc Thánh, các Đấng thiêng liêng. Thân: Thân thể, hình thể.

Thánh thân là thân thể của các bậc Thánh.

Ở đây, chữ “Thánh thân”, đồng nghĩa với chữ “Thánh thể 聖 體”, là hình thể của Đức Chí Tôn tại thế, tức chỉ Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,

Tùng theo Chơn pháp độ lần chúng sanh.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THÁNH THẦN TIÊN PHẬT CHI CHỦ

聖 神 仙 佛 之 主

Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ là nói Đức Chí Tôn làm chủ Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn đã dạy: “Khai Thiên địa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy. Thầy nói một chơn thần mà biến Càn Khôn Thế Giới và cả nhơn loại”. Nên Ngài là cha của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và chư chúng sanh.

Lại nữa, Ngài là vị Thiên Đế, làm chúa tể chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Như vậy, Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế là chủ chư Thánh, Thần, Tiên, Phật.

Nãi Nhựt Nguyệt Tinh Thần chi quân,

Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THÁNH THẤT

聖 室

Thánh: Chỉ tất cả những gì thuộc về Đức Chí Tôn. Thất: Nhà, ngôi thờ.

Thánh Thất là một danh từ đặc biệt của Đạo Cao Đài, dùng để chỉ ngôi nhà thờ Đức Chí Tôn và chư Thần Thánh Tiên Phật.

Hiện nay, người ta thường phân biệt ngôi thờ Đức Chí Tôn ở Trung Ương gọi là Đền Thánh hay Toà Thánh, còn Thánh Thất là ngôi thờ Đức Chí Tôn ở các địa phương.

Nhưng Ngài ở cửa Hiệp Thiên,

Thánh Thất, Tịnh Thất trọn quyền xét soi.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THÁNH THẤT CẦU KHO

Thánh Thất: Ngôi thờ Đức Chí Tôn của đạo Cao Đài. Cầu Kho: Tên một vùng ở Sài Gòn, nay là một phường thuốc quận nhứt.

Thánh Thất Cầu Kho, nguyên trước đây là ngôi trường Tiểu Học Cầu Kho, hiện nay là trường Tiểu học Trần Hưng Ðạo, do Ông Ðoàn Văn Bản làm Ðốc học (Hiệu trưởng).

Nhà của ông Đoàn Văn Bản ở số 42 Général Leman, nay là đường Cao Bá Nhạ, nằm bên cạnh trường, khá rộng, được Ðạo dùng làm Thánh Thất thờ Ðức Chí Tôn, gọi là Thánh Thất Cầu Kho để lập đàn cầu cơ, thâu nhận môn đệ. Phò loan tại đây là hai Ngài: Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Ðức.

Vì vậy mà Lý Thái Bạch định cho làm đại lễ nơi Thánh Thất Cầu Kho cho các môn đệ đó có thế hầu đàn đủ mặt.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÁNH THỂ

聖 體

1.- Thánh: Tiếng tôn xưng các vị Đại Thiên phong. Thể: Hình thể, xác thân.

Thánh thể chỉ xác thể của các vị chức sắc Đại Thiên phong của đạo Cao Đài.

Thánh thể gửi an nơi phước địa,

Chơn linh nhẹ lướt cụm tường vân.

(Thơ Võ Thành Lượng).

2.- Thánh thể, như chữ “Thánh thân”, là hình thể Đức Chí Tôn tại thế, tức Hội Thánh.

Đạo Cao Đài do cơ bút lập thành, thay mặt Đức Chí Tôn tại thế gồm ba đài: Bát Quái Đài tượng linh hồn của Đạo, Hiệp Thiên Đài là chơn thần của Đạo và Cửu Trùng Đài là thể xác của Đạo.

Các chức sắc Cửu Trùng Đài từ phẩm Giáo Hữu trở lên họp lại gọi Hội Thánh, ấy là Thánh thể Đức Chí Tôn tại thế.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đức Chí Tôn đến tạo Đạo để giải khổ tâm hồn cả con cái của Ngài, Ðức Chí Tôn lại tạo ra hình ảnh Thánh Thể của Ngài, mượn tay các em và các bạn làm hình thể của Ngài, giải khổ cho đời về phần xác.

Các con vốn trong vòng Thánh thể,

Phép tu vi là kế tu hành.

(Kinh Thế Đạo).

Hình hài Thánh thể chừ nên tướng,

Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Thánh thể cũng như Thánh hình là hình thể thiêng liêng. (Xem: Thánh hình).

Đức Chí Tôn tạo ra con người lấy theo hình ảnh thiêng liêng tốt đẹp của Đức Chí Tôn.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có nói về Thánh thể như sau: “Ôi Thầy sanh các con, Thầy yêu các con; Thầy cho các con đến thế nầy với một Thánh thể Thiêng liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống; không mặc mà lành. Các con không chịu, lại nghe lời cám dỗ, luyến ái hồng trần, ăn cho bị đày; dâm cho phải bị đọa, rồi các con phải chịu dưới nạn áo cơm.

Nhập Thánh thể dò đường cựu vị,

Noi Chơn truyền khử quỷ trừ ma.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THÁNH THÓT

Thánh thót, còn có thể viết “Thánh thoát”, chỉ tiếng nước nhỏ xuống từng giọt.

Thơ Bà Huyện Thanh Quan có câu: Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa, Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.

Thánh thót (Thánh thoát) còn dùng để chỉ âm thanh có giọng cao, trong, lúc to lúc nhỏ, ngân vang một cách êm ái. Như: Chim hót thánh thót.

Giọt rơi thánh thót: lời bay bướm,

Đèn lụn tờ mờ, gió vuốt ve.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÁNH TRỊ

聖 治

Thánh: Bậc Thánh, còn là tiếng tôn xưng Trời Phật các Đấng thiêng liêng. Trị: Trừng trị, trừng phạt.

Thánh trị là sự trừng trị của Hội Thánh.

Thánh trị còn dùng để chỉ sự trừng trị của Trời Phật hay các Đấng thiêng liêng.

Bởi Đạo quyền gọi là Thánh trị chớ không phải phàm trị.

(Thánh Giáo Quyền Giáo Tông).

 

 

THÁNH TRIẾT

聖 哲

Thánh: Người có tài năng và đầy đủ đức hạnh. Triết: Bậc hiền triết.

Thánh triết là tiếng dùng để tôn xưng những bậc hiền triết như Đức Khổng Tử vào hàng Thánh.

Như: Xưa các bậc Thánh triết xa lìa danh lợi, có lối sống u nhàn, cao thượng.

Nết Khổng nảy sanh bao Thánh triết,

Nhà nho sản xuất bực hiền lương.

(Tôn Sơn Chơn Nhơn).

Noi gương Thánh triết đàn em tiến,

Nối chí hiền nhân rạng đức tài.

(Thơ Hương Cường).

 

 

THÁNH TRUYỀN

Thánh: Bậc Thánh, còn là tiếng tôn xưng Trời Phật các Đấng thiêng liêng. Truyền: Trao lại.

Thánh truyền là Thánh giáo chơn truyền, tức những lời dạy bảo của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng liêng truyền lại.

Thế thì sau nầy có ngày phải khuất hết dấu Thánh truyền, thì cách giao tiếp của chư đạo hữu phải ra sao nữa?

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÁNH TRƯỚC HIỀN XƯA

Thánh hiền: Bậc Thánh và bậc Hiền, tức là chỉ chung các bậc tài giỏi, có đạo đức hơn người.

Thánh trước hiền xưa là chỉ chung các bậc Thánh hiền thời xưa. Ví như Đức Khổng Tử cùng 72 đồ đệ người đời sau gọi là Thánh hiền.

Thánh trước hiền xưa thường chỉ giáo,

Dạy người khử trược đặng lưu thanh.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THÁNH VỆ

聖 衛

Thánh: Bực Thánh, tiếng tôn xưng vào hàng Thánh. Vệ: Giữ gìn, che chở, bảo vệ.

Thánh vệ, còn gọi là Cơ Thánh Vệ, là cơ quan lập ra để gìn giữ Toà Thánh, che chở cho các chức sắc của Hội Thánh, tức là những người giữ trật tự, an ninh trong nội ô và ngoại ô Toà thánh.

Cơ Thánh Vệ được đặt dưới quyền Thánh Vệ Trưởng. Nhân viên trong Cơ Thánh Vệ được gọi là Thánh Vệ viên.

Cơ Thánh Vệ và Cơ Bảo Thể được đặt dưới quyền Thống quản của Hộ Đàn Pháp Quân.

Hộ Đàn kiêm luôn Thánh Vệ và Bảo Thể vì hai cơ quan nầy chịu dưới quyền thống quản của Hộ Đàn.

(Thánh Giáo Hộ Pháp).

 

 

THÁNH VỊ

聖 位

Thánh: Bực Thánh, là một trong bốn bậc: Thần, Thánh, Tiên, Phật. Vị: Ngôi.

Thánh vị là phẩm vị vào hàng Thánh.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Đặng Thần vị rồi, lại xem gương của các Thánh mà tu luyện Thần hồn mình cho đặng Thánh đức, tức nhiên cũng đoạt đặng Thánh vị vậy.

Ước hiệp Quan Trường nên Thánh vị,

Vì xa Nghĩa Đế chịu lìa ngôi.

(Thất Nương Giáng Bút).

Nắm pháp thiêng liêng dìu Thánh vị,

Cầm cân công lý giữ ngôi Trời.

(Bài Thài Khai Pháp).

 

 

THÁNH VỨC

Hay “Thánh vực”.

Thánh: Bậc Thánh, tiếng dùng để tôn xưng. Vức (Vực): Vùng đất, cõi.

Thánh vức, như chữ “Thánh vực 聖 域”, là cõi Thánh hay vùng đất Thánh. Ví dụ như: Toà Thánh Tây Ninh là một Thánh vực.

Việc chi chi tại nơi Thánh vức,

Chớ tưởng lầm tổn đức bình sanh.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Thiên Quân diêu động linh phan,

Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THÀNH

1.- Thành là bức tường cao xây bao bọc để phòng thủ một đô thị.

Như: Thành trì, thành thị, thành cao hào sâu.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Lão tưởng chẳng cần phải nói chi một nước nhỏ nhoi đã đặng danh Thánh Ðịa là nước Nam nầy, mà Lão xin không đặng tội cho thành Sài gòn, Chợ Lớn, Gia Ðịnh, Huế, Hải Phòng, Hà Nội thay!

Thành Uổng tử cheo leo gớm ghiếc,

Cầm hồn oan rên xiết khóc than.

(Kinh Sám Hối).

Lý diệp chờ xuân nhánh trổ bông,

Thị thành chen lấn lại rừng tòng.

(Đạo Sử).

Anh em bạn tác vầy đông,

thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thành là chân thực. Như: Thành tâm. Thành thực, lòng thành, ý thành.

Huấn từ Đức Thượng Sanh đọc trong buổi Lễ Cứu Trợ Việt Kiều Hồi Hương tại trại tạm cư ấp Ninh Lợi, ngày 15/5/Canh Tuất có câu: Hôm nay Hội Thánh đến đây để thăm viếng quý vị trong tình huynh đệ đồng bào, có ý đem lại cho quý vị một niềm an ủi chân thành, sau để hiến cho quý vị vài món quà cần thiết tuy có tánh cách tượng trưng, nhưng sự tương trợ có quý, chẳng phải ở nơi cho nhiều, mà ở nơi lòng thành ưu ái và cách thức tương trợ.

Kẻ ở phương trời người góc biển,

Lòng thành nhắn gởi chữ khương ninh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trung thành một dạ thờ Cao Sắc,

Sống có Ta, thác cũng có Ta.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tâm thành thì ắt đặng đời thành,

Danh chẳng cầu mà lại có danh.

(Đạo Sử).

3.- Thành là nên. Như: Thành công, thành danh, thành Phật, thành vợ thành chồng.

Thánh giáo Thầy có câu: Chẳng phải Thầy còn buộc theo Cựu luật, song luật ấy rất nên quý báu, không giữ chẳng hề thành Tiên Phật đặng.

Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,

Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðời rạng lưu tồn gương nhựt nguyệt,

Ðạo thành vạn đại chiếu sơn hà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÀNH BẠI

成 敗

Thành: Được, có kết quả. Bại: Thua.

Thành bại là được thua, hay nên hư, tức là những hoàn cảnh tốt xấu.

Lý Giáo Tông có lời dạy: Đức Chí Tôn cũng hằng dạy chư Đạo hữu Hiệp Thiên Đài về khoảng ấy, nhưng vì Hiệp Thiên Đài chưa đủ kẻ đứng chung lo và giúp sức, thế nên phải chịu cô quả mà coi sự thành bại của việc Đạo.

Thành bại lẽ thường lo cũng uổng,

Ðể công dạy kẻ biết nguồn lành.

(Đạo Sử).

Dậm chân chắt lưỡi, câu thành bại,

Bít mắt bưng tai, chuyện oán thù.

(Thơ Thuần Đức).

Tao phùng vận hội gắng tìm phương,

Thành bại xưa nay ấy lẽ thường.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

THÀNH CÔNG

成 功

Thành: Nên việc. Công: Sự khó nhọc, hiệu quả của một việc gì.

Thành công là nên việc, tức hoạt động có hiệu quả, sự nghiệp thành tựu.

Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Phải cương quyết nắm pháp luật chặt chẽ mới đáng là tướng soái của Đức Chí Tôn. Nếu hết sức mình, tận tâm dắt dìu họ mà không thành công thì đó là số kiếp của họ.

Hai chữ thành công cầu chúc bạn,

Thanh danh vẹn giữ nực mùi hương.

(Thơ Thượng Sanh).

Xuất thế để tìm phương giác thế,

Bảng son chờ đợi cuộc thành công.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÀNH DẠ

Thành: Thành thật, chơn thật. Dạ: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm.

Thành dạ, đồng nghĩa với chữ “Thành tâm 誠 心”, là lòng thành thật.

Thành dạ trau gương sanh chúng độ,

Thuyền kề gió lướt thoát mê tân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngu vì đạo đức ấy ngu hiền,

Thành dạ thì toan đến cảnh Tiên.

 

 

THÀNH DANH

成 名

Thành: Nên việc, trở nên. Danh: Tên, tiếng tăm.

Thành danh là nên danh, tức chỉ người đã được hiển đạt, có tiếng tăm.

Trong bài Bia Kỷ niệm Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Cao Quân người Nam Kỳ, xuất thân tại tỉnh Tây Ninh, nối dòng trâm anh, vốn nhà thi lễ, phẩm hạnh mực thước, tánh chất siêng năng, học hỏi thông minh, thành danh khi tuổi trẻ.

Thành danh đạt nghiệp ngời tên tuổi,

Nối lửa truyền hương phỉ mẹ cha.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

THÀNH ĐẠO

成 道

Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. Đạo: Tôn giáo.

1.- Thành đạo, như chữ “Đắc đạo 得 道”, là đạt đến chỗ cao sâu của đạo, tức tới mức cuối cùng của con đường tu tập là quả vị nơi cõi thiêng liêng.

Nói về Bất ẩm tửu, Thánh giáo Thầy có dạy: Nơi trung tim của nó (chơn thần) là óc; nơi cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, gọi tiếng chữ là vi hộ, nơi ấy Hộ Pháp hằng đứng mà gìn giữ chơn linh các con, khi luyện thành đạo, đặng hiệp một với Khí, rồi mới đưa thấu đến chơn thần hiệp một mà siêu phàm nhập Thánh.

Thiếp xin hỏi chư hiền hữu: Các bậc tu hành muốn đặng thành đạo thì phải thế nào?

(Thánh Giáo Quan Âm).

2.- Thành đạo, như chữ “Đạo thành”, là chỉ một nền tôn giáo đã được xây dựng hoàn thành.

Thánh giáo Lý giáo Tông dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Lão đã nói, mà Thầy cũng đã nói trước rằng: Khi thành đạo, nghĩa là khi Tân Luật phát hành thì trong hàng môn đệ, may lắm còn lại nửa phần trong đám Thiên phong, nhiều kẻ e còn bị trục xuất thay!

Chúng tôi nhứt tâm nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí Tôn...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÀNH ĐẠT

成 達

Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. Đạt: Thông suốt, gặp vận tốt.

Thành đạt là đạt kết quả tốt đẹp, đạt mục đích viề sự nghiệp làm nên.

Như: Con cái trong gia đình đều thành đạt cả, nhờ tay nghề giỏi mà anh ấy thành đạt.

Quyết tâm gắng chí gan bền,

Đến ngày thành đạt chẳng quên ơn nhà.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THÀNH ĐÔ

城 都

Thành: Thành thị, nơi có phố xá đông đúc, nhiều dân cư. Đô: Chỗ vua đóng Kinh đô.

Thành đô, do chữ “Đô thành 都 城”, chỉ những thành phố chính trong nước.

Như: Các chợ trong thành đô người đông đúc.

Một chiều gió lạnh tự quan san,

Về nẻo thành đô, ý ngỡ ngàng.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

THÀNH ĐỘC SỚ VĂN

誠 讀 疏 文

Thành: Thành thật, chơn thật. Độc: Đọc, phát thành lời những điều đã được viết. Sớ văn: Bài văn viết để tâu lên Đức Chí Tôn.

Thành độc sớ văn là thành kỉnh đọc bài Sớ văn tâu lên Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, các Đấng Thiêng liêng.

Thành độc Sớ văn.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

 

 

THÀNH Ý

誠 意

Thành: Chân thật. Ý: Điều suy nghĩ trong bụng.

Thành ý là những ý nghĩ thành thật, chân thật.

Theo sách Đại học, Thành ý là một trong tám điều: Cách vật, Trí tri, Thành ý, Chính tâm, Tu thân, Tề gia, Trị quốc, và Bình thiên hạ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Xưa các bậc Thánh nhân đã dạy từ vua cho đến dân ai cũng lấy sự sửa mình làm gốc. Muốn cho thành người đức hạnh hoàn toàn phải giữ cái ý cho thành, cái tâm cho chánh, Tâm đặng chánh, ý đặng thành là nhờ lấy trí khôn ngoan xét đoán cùng tột của mọi loài suốt tới chỗ uyên thâm của sự vật. Cách vật trí tri rồi mới định tỉnh mà thành ý, chánh tâm, vì vật có gốc ngọn, sự có đuôi đầu.

Nho giáo trọng ở phần cách trí,

Với cái nhìn thành ý chánh tâm.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

THÀNH KIÊN LUỸ CỐ

城 堅 壘 固

Thành luỹ: Thành và luỹ được đắp cao để chống giặc. Kiên cố: Bền vững.

Thành kiên luỹ cố là nói thành luỹ kiên cố, tức nơi đóng quân bền vững, chắc chắn, giặc khó công phá nổi.

Nguy hiểm tạo thành trang tuấn kiệt,

Thành kiên lũy cố định biên cương.

(Tôn Sơn Chơn Nhơn).

 

 

THÀNH KIẾN

Thành: Trở nên, kết quả, nên việc. Kiến: Ý kiến.

Thành kiến là ý kiến cố chấp đã thành cố định, không thay đổi được.

Như: Không nên có thành kiến với người phạm khuyết điểm.

Quên tất cả cao thấp, quên tất cả cái hơn kém, quên cho đến cái thực tại của mình, quên tất cả những thành kiến, mê lầm.

(Giáo Lý).

 

 

THÀNH KỈNH

Hay “Thành kính”.

Thành: Thành thật, chân thật. Kỉnh (kính): Kính trọng, có thái độ coi trọng người trên.

Thành kỉnh, như chữ “Thành kính 誠 敬”, là chỉ lòng chân thật kính trọng người trên.

Lòng thành kỉnh khẩn cầu vọng bái,

Biết các con phận gái chưa an.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Ngậm ngùi tưởng niệm ân tiền bối,

Thành kỉnh đàn em lễ hiện chầu.

(Thơ Ngọc Nhượn Thanh).

 

 

THÀNH KHẨN

誠 懇

Thành: Thành thật, chân thật. Khẩn: Khấn, cầu xin.

Thành khẩn là hết sức thành thật mà cầu xin.

Như: Thái độ anh ấy rất thành khẩn trước mọi người.

Bà Bát Nương thong dong chỉ dẫn,

Đức Hộ Pháp thành khẩn ghi lời.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THÀNH LẬP

成 立

Thành: Nên. Lập: Làm, dựng, gây dựng.

Thành lập là chính thức lập nên, hay bắt đầu xây dựng thành. Như: Thành lập công ty doanh nghiệp.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng, tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn.

Quý cụ duyên may ngộ Đạo Thầy,

Bắc Tông thành lập hiện nơi đây.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THÀNH LUỸ

城 壘

Thành: Bức tường bao quanh, thành thị. Lũy: Đất đấp cao quanh tường thành.

Thành lũy là bức tường thành và những mô đất đắp cao để chống giặc.

Như: Thành lũy được xây dựng kiên cố.

Đất vò nên lọn xây thành luỹ,

Nước dập tuôn bờ lở giậu dâu.

(Lục Nương Giáng Bút).

Mà kinh vì thấy cửa nhà tan,

Thành lũy trở ra đống bụi tàn.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THÀNH NGỮ

成 語

Thành: Nhất định, không thay đổi. Ngữ: Lời nói.

Thành ngữ là những câu nói cố định, được quen dùng và lưu hành trong xã hội.

Như: Những câu thành ngữ rất khó giải thích.

Ba chìm bảy nổi, câu thành ngữ,

Chín được mười thua, chuyện tối thường.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÀNH PHỤC

成 服

Thành: Nên việc, kết quả. Phục: Chỉ quần áo tang.

Thành phục, một nghi thức trong tang lễ, là lễ thọ phục, tức để tang gia hiếu quyến mặc quần áo chịu tang.

Trước khi Thành phục, phải hành lễ Đức Chí Tôn, thượng Sớ Tân Cố, kế tẩn liệm thi hài người chết, rồi đến lễ Thành phục.

Như: Đến 4 giờ chiều nay mới thành phục phát tang.

Thành phục: Nếu để nơi tư gia thì hành lễ Đức Chí tôn, Cáo Từ Tổ phát tang.

(Quan Hôn Tang Lễ).

 

 

THÀNH QUẢ

成 果

Thành: Nên, được kết quả. Quả: Trái, kết quả.

Thành quả là kết quả quý giá đạt được của một quá trình lao động, hay đấu tranh. Như: Thành quả lao động.

Huấn từ của thượng Sanh đọc trong buổi lễ Khánh thành Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý ngày 16 tháng 1 năm Kỷ Dậu, (Dl. 4/3/1969) có đoạn: Mặt khác, tôi nhận thấy nhiệm vụ phát thanh giáo lý là một nhiệm vụ rất quan trọng mà riêng Ban Giám Ðốc Cơ Quan Phát Thanh không thể thực hành cho đến mức tận thiện, tận mỹ. Phải cần có sự cộng tác của Chức Sắc Cửu Trùng Ðài và Phước Thiện mới chắc có thành quả tốt đẹp hơn, Giáo lý là căn bản của một Tôn Giáo, nền tảng của một mối Chánh truyền, phải cùng nhau chung tâm hiệp trí chúng ta mới tránh được điều sơ suất và công việc truyền bá Ðạo trong đại chúng mới được thuận lợi.

Người Chức sắc phải chịu côi thế khi thi hành nhiệm vụ và như vậy không trông gì thu thập được thành quả tốt đẹp.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÀNH SẦU

Thành: Bức tường thành. Sầu: Buồn phiền rầu rĩ.

Thành sầu, do chữ “Sầu thành 愁 城”, là nỗi sầu muộn lớn lao bị vây bọc như những bức tường thành.

Xem: Sầu thành.

Biển hoạn dập dồn thương bấy trẻ,

Thành sầu chất chứa cám cho gia.

(Đạo Sử).

Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,

Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÀNH SONG

成 雙

Thành: Nên việc, kết quả, trở nên. Song: Hai, đôi.

Thành song là thành một cặp, một đôi vợ chồng.

Như: Ông tơ Bà nguyệt đã phối hợp thành song cho đôi trẻ nên duyên vợ chồng.

Tác hiệp sẵn nhờ xây bĩ thới,

Thành song trước định gặp thư hùng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÀNH SỰ DO THIÊN

成 事 在 天

Thành sự: Việc hoàn thành, việc nên. Do thiên: Bởi nơi trời, do nơi trời.

Thành sự do thiên nên việc ở nơi Trời.

Câu này là lời than của Gia Cát Khổng Minh, lúc dụ Tư Mã Ý vào Hồ Lô cốc để dùng lửa đốt hang. Khi lửa vừa phựt cháy thì có cơn mưa đổ xuống dập tắt đám lửa.

Ông mới than rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên 謀 事 在 人, 成 事 在 天, nghĩa là mưu kế thì ở người, nên việc là ở trời.

Ở đời “Mưu sự tại nhân”,

Nhưng mà thành sự lại cần do Thiên.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THÀNH TÂM

誠 心

Thành: Thành thật, chơn thật. Tâm: Cái tâm, cái lòng của con người.

Thành tâm là lòng thành thật hay thật tâm.

Tâm của con người có tâm thật còn gọi là chân tâm hay Phật tánh và tâm giả là tâm chúng ta đem ứng xử hằng ngày trong cuộc sống.

Sống trên thế gian, trong vô số kiếp chúng ta không dùng chơn tâm ra để sống ở đời, mà chỉ dùng tâm giả. Vì vậy, chúng ta mới bị luân hồi trong sinh tử.

Sách Trung Dung rất coi trọng “Thành tâm” hơn các đức tính khác, và cho rằng: “Duy Thiên địa chí thành vi năng tận kỳ tính; năng tận kỳ tính tắc năng tận nhân chi tính; năng tận nhân chi tính tắc năng tận vật chi tính; năng tận vật chi tínhtắc khả dĩ tán Thiên địa chi hoá dục, khả dĩ tán Thiên địa chi hoá dục tắc khả dĩ dữ Thiên địa tham hỹ 唯 天 地, 至 誠 為 能 盡 其 性; 能 盡 其 性, 則 能 盡 人 之 性; 能 盡 人 之 性, 則 能 盡 物 之 性; 能 盡 物 之 性, 則 可 以 贊 天 地 之 化 育; 可 以 贊 天 地 之 化 育, 則 可 以 與 天 地 參 矣” nghĩa là “chí thành” có thể giúp vào việc hoá dục của Trời đất nên có thể sánh cùng Trời đất: Người có thành tâm mới có thể phát huy đến cùng cực cái bản tính của mình; mà hễ phát huy đến cùng cực cái bản tính của mình thì có thể phát huy đến cùng cực cái bản tính của người; có thể khiến người phát huy đến cùng cực cái bản tính của người thì có thể khiến vật thực hành đến cùng cực bản tính của vật, có thể khiến vật thực hành đến cùng cực bản tính của vật, thì có thể giúp vào việc hoá dục của Trời đất; có thể giúp vào việc hoá dục của Trời đất thì có thể sánh cùng Trời đất.

Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương,

Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THÀNH TÍCH

成 績

Thành: Xong, nên việc. Tích: Công lao.

Thành tích là kết quả được đánh giá tốt do nỗ lực mà đạt được. Đông nghĩa với chữ Kết quả. Như: Anh đã lập được thành tích xuất sắc.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trong mấy ngày tết, ngoài ra phận sự đối với gia đình, thờ cúng tổ tiên, chúng ta nên dùng dịp nghỉ ngơi để ôn lại những việc đã làm, cùng những thành tích đã thâu thập trong một năm qua trên đường hành Đạo.

...sách xưa truyện cũ ta thấy còn lưu lại nhiều thành tích rất quý hoá.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÀNH TÍN

誠 信

Thành: Lòng thành thật. Tín: Hay tín tâm, tức là lòng tin tưởng, đức tin.

Thành tín là lòng thành thật và tin tưởng.

Bất cứ một Tôn giáo nào cũng lấy lòng tin tưởng làm gốc. Lòng tin rất cần thiết cho người theo Đạo và giữ Đạo. Có được lòng tin con người mới vững vàng tu học, không có lòng tin sớm muộn gì cũng ngã.

Song lòng tin phải có trí phán xét, chỉ nên hướng về nẻo chánh, điều lành. Chớ không nên bạ đâu tin đó, tin một cách cực đoan, không phân biệt chánh tà thì rất hại cho đức tin ta lắm vậy.

Có lòng tin vào Trời, Phật và các Đấng Thiêng Liêng, tin tưởng có linh hồn bất tiêu bất diệt thì chúng ta mới sùng bái, học theo đức háo sinh của các Đấng, không dám tạo ác nghiệp mà phải gieo nghiệp lành để được thoát ra luân hồi sinh tử.

Vọng Thượng Đế chứng lòng thành tín,

Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn nguyền.

(Giới Tâm Kinh).

Thành tín nhứt tâm cũng đáng khen,

Không sang tột bực cũng không hèn.

(Đạo Sử).

Thành tín khen lòng trung nghĩa đủ,

Thánh tâm âu cũng lúc nên dường.

(Đạo Sử).

 

 

THÀNH TỰU

成 就

Thành: Nên. Tựu: Đi đến kết quả.

Thành tựu là việc có kết quả, tức việc làm đưa đến thành công. Như: Phải mười năm làm việc mới thành tựu.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Các con ví biết Ðạo là quý thì phải ân cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu, các con mới thấy rõ Thiên cơ, thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng, vì mỗi việc khó khăn trắc trở là lúc sơ khai.

Đảm đương gánh nặng ơn Sư phụ,

Thành tựu công nhờ gốc Phạm Môn.

(Thơ Huệ Phong).

Mở cửa chờ trông năm mới đến,

Đến xem thành tựu được bao nhiêu.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

THÀNH THANG

成 湯

Thành Thang là vị vua sáng nghiệp nhà Thương, họ Tử tên Lý, lại có tên là Thiên Ất.

Vua Kiệt nhà Hạ vô đạo, thiên hạ loạn lạc, Thành Thang đem binh đi đánh, bắt đày vua Kiệt ở Nam Sào, phế nhà Hạ dựng quốc hiệu nhà Thương, tại vị được ba mươi năm. Thành Thang nổi tiếng là một vị vua nhân đức nhất trong lịch sử cổ đại Trung Quốc.

Thành Thang là vị vua nhân đức thấy người giăng lưới bắt chim, ông thương cho loài chim nên nguyện cho thoát khỏi lưới bẫy.

Xem: Lưới Thang.

Thành Thang muôn mặt lưới trường,

Biết khôn cầm thú kiếm đường cao sâu.

(Ngụ Đời).

Ái vật Thành Thang quên dở ná,

Yêu dân Hạ Võ mặc hài gai.

(Bát Nương Giáng Bút).

Thành Thang gắm ghé giăng tay lưới,

Lữ Vọng sẵn sàng móc lưỡi câu.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THÀNH THẬT

Hay “Thành thực”.

Thành: Thực, thực thà. Thật (thực): Thiệt, đúng với cái đã có, với việc đã xảy ra.

Thành thật, như chữ “Thành thực 誠 實”, là chân thành, không gian trá, không giả mạo, tức là thành tâm, ngay thật. Như: Tin vào lòng thành thật của chị ấy.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển bằng pháp văn được Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Con đến đây với tấm lòng thành thật để làm việc phải cho giống dân biết phục thiện hiện đang giao phó cho con.

Thành thật thôi thì mình xử lấy,

Ðèo bồng chi rộn trí không sâu.

(Đạo Sử).

Thờ Thầy nếu đặng lòng thành thật,

Thầy giúp tuổi già đặng thảnh thơi.

(Đạo Sử).

 

 

THÀNH THỊ

城 市

Thành: Chỗ địa phương có nhiều người ở. Thị: Chợ, nơi nhiều người họp để mua bán.

Thành thị là chỗ địa phương ở trong thành.

Thành thị còn có nghĩa chỗ đô hội, tức là nơi có dân cư đông đúc, nhiều ngựa xe.

Như: Cuộc sống ở thành thị đầy đủ hơn nông thôn.

Dâu bể trải qua đã mấy lần,

Hỡi người thành thị với thôn lân.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THÀNH THỊ THÔN QUÊ

Thành thị 城 市: Một vùng dân chung quanh có xây thành bao bọc và có chợ búa. Thôn quê: Xóm làng ở nơi ruộng đồng.

Thành thị là chỉ nơi chợ búa, có dân cư đông đúc, còn thôn quê là xóm làng nơi đồng ruộng.

Như: Từ thành thị tới thôn quê, mọi người đều phải đi bầu cử Quốc hội.

Đã nhiều cơn tân khổ, chẳng quản đến tình nhà, dìu sanh linh từ thành thị chí thôn quê,

Dư mấy lúc gian truân, lần lừa theo mạch Đạo, dẫn bậu bạn vạch ngọn nguồn về cội cũ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

THÀNH TRÌ

城 池

Thành: Bức tường xây cao lên để che chở một đồn trại. Trì: Ao đào xung quanh.

Ngày xưa chung quanh thành, người ta đều có đào ao để quân địch không có thể tấn công hay xâm chiếm dễ dàng được, nên gọi là thành trì.

Như: Thành trì được bảo vệ kiên cố.

Ấy phương bảo thủ thành trì,

Đường khai đã sẵn gắng đi cho cùng.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

THÀNH UỔNG TỬ

Thành Uổng Tử, hay Uổng Tử thành 枉 死 城, một cái thành nơi Âm phủ, dùng để giam giữ các vong hồn của người khi còn ở dương thế liều mình tự tử.

Ngọc Lịch Minh Kinh có viết: “Thế tục nói sái rằng, ai bị thác oan thì hồn bị cầm nơi thành Uổng Tử. Đời nghe lưu truyền lâu, cũng tin là thiệt! Sao không xét cho đủ lý, người đã thác oan còn cầm ngục là nghĩa gì? Cho đi thong thả chớ không cấm cố, song nán đợi kẻ giết mình xuống Âm phủ, hành tội trước mặt hồn oan cho hết tức, rồi mới cho đi đầu thai.

Còn thành này để giam những kẻ vô cớ giận lẫy mà tự giết mình, trầm mình, thắt họng, uống thuốc độc... giam đỡ đợi hành tội, chưa đặng đầu thai”.

Thành Uổng Tử cheo leo gớm ghiếc,

Cầm hồn oan rên xiết khóc than.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THÀNH VÀNG

Thành: Bức tường xây cao lên để che chở một đồn trại. Vàng: Dịch từ chữ “Kim 金”, chỉ kim loại.

Thành vàng, bởi chữ “Kim thành 金 城”, tức là thành xây dựng bằng đồng hay kim loại.

Thành vàng được dùng để chỉ thành luỹ kiên cố, chắc chắn, hay phòng thủ vững chắc.

Đạp đất thành vàng làm của báu,

Thổi tro cất luỹ sửa nhà an.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THẢNH THOÁT

Thảnh thoát, như chữ “Thảnh thót”, hay “Thánh thót”, có âm thanh cao, trong, ngân vang một cách êm ái.

Như: Giọng ca thảnh thoát, tiếng đàn bầu vang lên thảnh thoát.

Xem: Thánh thót.

Thảnh thoát rừng thung tiếng gió ngàn,

Muôn hồng ngàn tía báo Xuân sang.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

THẢNH THƠI

Thảnh thơi là ở trạng thái nhàn nhã, không lo nghĩ, không bận rộn. Như: Đầu óc thảnh thơi.

Trong Đạo Sử, Vĩnh Sơn Đạo Sĩ có câu: Bần Ðạo vui chung cùng Chư vị trong nền đạo đức. Nếu Chư vị biết rõ đường ngay nẻo chánh, thì khá mau day trở kịp thì. Chư vị hằng ngày ao ước ra khỏi lối trầm luân được vào cõi thảnh thơi, song hỏi lại Chư vị có xứng đáng công trình chưa mà đem lòng ham mộ.

Chàng dầu đặng thảnh thơi cảnh trí,

Hộ dâu con giữ kỹ nhơn luân.

(Kinh Thế Đạo).

Gai góc lần đường công trước gắng,

Thảnh thơi có lúc buổi sau dành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hậu nhựt công khanh để nối đời,

Thảnh thơi non hứng gió thanh chơi.

(Đạo Sử).

 

 

THẠNH

Hay “Thịnh”.

Thạnh, như chữ “Thịnh 盛”, là phát đạt, hưng vượng, tức ở trạng thái đang càng ngày càng phát triển giàu mạnh, tốt đẹp thêm lên, trái với “suy”.

Như: Dân giàu nước thạnh, âm thạnh dương suy.

Dương thạnh thì hay đời mạt kiếp,

Nêu thân ở giữa cuộc tang thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẠNH HÀNH

Hay “Thịnh hành”.

Thạnh (thịnh): Thịnh vượng, trái với suy, đầy đủ. Hành: Làm, đi, trải qua.

Thạnh hành, như chữ “Thịnh hành 盛 行”, là thông dụng, phổ biến.

Như: Đạo Phật thời nhà Lý rất thịnh hành.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thầy có dạy: Thầy để lời cho các môn đệ ở đây biết rằng: Nguồn Đạo nơi đây còn chưa phổ thông thạnh hành như mấy chỗ khác là vì phần nhiều môn đệ chưa để hết tấc thành vào nền Đạo và độ rỗi sanh linh.

Chớ tưởng lầm rằng dầu hạnh chất của các con dường bao, Ðạo cũng thạnh hành mà dìu dắt các con đến tận chốn được.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẠNH NỘ

Hay “Thịnh nộ”.

Thạnh (thịnh): Lớn, rất, tức ở trạng thái ngày càng phát triển lớn mạnh. Nộ: Giận dữ.

Thạnh nộ, như chữ “Thịnh nộ 盛 怒”, là nổi giận một cách dữ dội. Như: Nó làm cho cha mẹ thạnh nộ.

Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dạy: Mẹ cũng để lời khuyên những con cái của Mẹ nên thắt chặt tình đoàn kết thương yêu nâng đỡ nhau, tha thứ cho nhau, để làm vui lòng Chí Tôn và cho Lý Bạch giảm cơn thạnh nộ, thì Người mới châm chước mà lập vị cho các con.

Thầy đã lập Ðạo nơi cõi Nam nầy là cốt để ban thưởng một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẠNH SUY

盛 衰

Hay “Thịnh suy”.

Thạnh (thịnh): Đầy đủ. Suy: Yếu tàn.

Thạnh suy. Như chữ “Thịnh suy 盛 衰”, dùng để nói cảnh đời lúc thạnh vượng đầy đủ, khi suy yếu, lụn tàn.

Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Hiền hữu chỉ biết hành động của người mà chưa biết đến Thiên thơ của Ðức Chí Tôn. Có biết thạnh suy mà chưa chịu biết để công linh đào tạo thời thế, đặng dìu dắt chúng sanh cho kịp buổi.

Tôi không nhiễm bợn trần lao,

Thạnh suy vinh nhục nghèo giàu khỏi lo.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THẠNH TÌNH

Hay “Thịnh tình”.

Thạnh (thịnh): Nhiều, tốt. Tình: Sự yêu mến, gắn bó giữa người với người.

Thạnh tình, như chữ “Thịnh tình 盛 情”, là chỉ có sự nhiệt tình trong đối xử hay trong sự tiếp đón.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhưng tin tưởng nơi lòng yêu thương của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ và nơi tấm thạnh tình chia vui sớt nhọc của các bạn đồng thuyền, người đau khổ cũng tự an ủi được vì ở trong cảnh ngộ đó cũng chưa phải là quá thất vọng chán nãn đưa đến chỗ bán đồ nhi phế bỏ dở hành trình.

Qua hồi đen tối lại hoàn minh,

Năm vận chia vui cảm thạnh tình.

(Thơ Thuần Đức).

Đạm bạc chung vui tỏ thạnh tình,

Ông bà thượng lộ đặng an ninh.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THẠNH THẾ

Thạnh (thịnh): Dồi dào. Thế: Đời, cõi đời.

Thạnh thế, như chữ “Thịnh thế 盛 世”, là đời hưng thịnh, hay thời đại hưng thạnh.

Nam Mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

(Kệ U Minh).

 

 

THẠNH TRỊ

Hay “Thịnh trị”.

Thạnh (thịnh): Dồi dào. Trị: Công việc nhà nước sửa sang, dân chúng sống trong cảnh yên ổn.

Thạnh trị, như chữ “Thịnh trị 盛 治”, là chỉ đất nước giàu mạnh, dân chúng yên ổn.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trong nước trên thương dưới, dưới kính trên, vắng trộm cướp, khỏi luật hình, vì quốc dân đặng bảo bọc giúp đỡ cho có nghề sanh nhai. Ðường không lượm của rơi, nhà không đóng cửa, ấy là đời thạnh trị của Nghiêu Thuấn vậy.

Thái bình trăm họ nhìn chơn Chúa,

Thạnh trị ba châu trổ trí Thần.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Thạnh trị Bá vương toan ngảnh mặt,

Khuynh nguy dân chúng thảy oằn vai.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

THAO

Thao là binh pháp, tức mưu kế dùng binh.

Thao, do chữ “Lục thao 六 韜”, là tên cuốn binh thư của Lữ Vọng viết, gồm văn thao, võ thao, long thao, hổ thao, báo thao, khuyển thao.

Như: Tam lược lục thao, sáu thao ba lược.

Dạy gắng học sáu thao ba lược,

Hầu có ngày rộng bước phong vân.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THAO LƯỢC

韜 略

Thao: Binh pháp, tức mưu kế dùng binh. Lược: Phương pháp.

Thao lược, như chữ “Lược thao”, tức “Tam lược lục thao”, là tên hai bộ binh pháp thời xưa, chỉ chung về phép dùng binh, hoặc người giỏi mưu kế.

Lục thao là tên cuốn sách của Lữ Vọng gồm: Văn thao, võ thao, long thao, hổ thao, báo thao, khuyển thao.

Tam lược là quyển sách tương truyền của Hoàng Thạch Công soạn.

Thao lược từ xưa đã mấy nhà,

Ðời qua tên tuổi cũng đều qua.

(Đạo Sử).

Hồng ân đã sẵn làm thao lược,

Ích quốc an dân dụng chữ hoà.

(Thơ Hộ Pháp).

Nhắp cần thao lược dò sâu cạn,

Nương sợi kinh luân sửa mối giềng.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

THAO TÁC

操 作

Thao: Cầm nắm, diễn. Tác: Làm.

Thao tác là thực hiện những động tác nhứt định để làm một việc gì đó trong sản xuất.

Như: Thao tác của anh ấy rất nhanh và chính xác, Làm việc lâu nên thao tác rất nhịp nhàng.

Bàn ngưng chuyển người ra giải khát,

Lúc tái cầu thao tác khoan thai.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THAO THỨC

Thức: Ở trạng thái không ngủ, chưa ngủ được.

Thao thức là trạng thái không ngủ được vì có điều phải suy nghĩ, không yên.

Như: Thao thức suốt năm canh không ngủ được.

Nhưng Ngài thao thức đêm thâu,

Biếng ăn mất ngủ tâm nhầu nát tâm.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

Thao thức canh trường khó ngủ yên,

Cô đơn đè nặng giấc sầu miên.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

THÁO

Tháo là làm cho thoát khỏi tình trạng bị ngăn giữ.

Như: Tháo nước kinh vào ruộng, tháo cống cho nước chảy qua mương, tháo dây giày.

Đốt nhà, tháo cống, phá mương,

Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.

(Kinh Sám Hối).

Quốc Trung hổ mặt khom mài mực,

Lực Sĩ cam tâm cúi tháo hài.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

THẢO

1.- Thảo là có lòng tốt, hay làm ơn, chia sẻ, nhường nhịn cho người khác.

Như: Lòng thảo, thảo lảo (rộng rãi hay làm ơn), tuy nghèo nhưng ở với mọi người rất thảo.

Thảo chi sang lượm với danh mua,

Chẳng hiểu chánh tâm cứ nói đùa.

(Đạo Sử).

2.- Thảo là có lòng biết ơn cha mẹ. Như: Hiếu thảo, thảo ngay, cha hiền con thảo.

Trong Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn dạy: Hội Thánh đã từng nhắc cho bổn đạo ghi nhớ mấy lời nghiêm huấn này và mặc dầu ở trong hoàn cảnh bất túc, Hội Thánh chỉ nhờ nơi lòng trung hậu và sự hảo tâm của bổn đạo gần xa ra tay vùa giúp đỡ nâng. Cho hay một miếng khi đói bằng một gói khi no, nhà nghiêng nghèo thì lòng con thảo thêm sáng tỏ.

Làm con phải trau dồi hiếu đạo,

Trước là lo trả thảo mẹ cha.

(Kinh Sám Hối).

Trên lo thảo, giữa hoà, dưới thuận,

Ngoài nên danh, trong vững mối giềng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Lời tục ví dâu hiền là gái,

Lại gọi rằng rể thảo ấy là trai.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thảo là cỏ cây. Như: Thảo dã, thảo mộc, thảo hài, thảo lư, thảo quả.

Thánh giáo Thầy có câu: Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn năm, muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.

Muốn đi cho tận trường sanh địa,

Phải đổi giày sen lấy thảo hài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẢO CĂN MỘC BỔN

Hay “Thảo căn một bản”.

Thảo căn: Rễ của loài cỏ. Mộc bổn (bản): Gốc của loài cây.

Thảo căn mộc bổn, như chữ “Thảo căn mộc bản 草 根 木 本”, là gốc rễ của loài cây cỏ, ý muốn chỉ về nguồn gốc.

Thảo căn mộc bổn thạnh tương cầu,

Ngự hám công khanh nhứt thế ưu.

(Đạo Sử).

 

 

THẢO ĐƯỜNG

草 堂

Thảo: Cỏ, chỉ chung các loại cỏ. Đường: Nhà.

Thảo Đường là ngôi nhà lợp bằng tranh.

Năm 1928, Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng cơ tại làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho dạy phải lập Đền thờ Phật Mẫu và cất một ngôi Thảo Đường trong vuông đất đó.

Sau đó, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho đôi liễn tại Thảo Đường như sau:

Thảo thượng sương phi tiện thị thiên ba chi thắng cảnh.

草 上 霜 飛 便 是 天 波 之 勝 景

Đường tiền nguyệt chiếu thậm quang địa thới thị đăng tiên.

堂 前 月 照 甚 光 地 泰 是 登 仙

Nghĩa là:

Trên cỏ sương bay tựa là sóng trời, ấy cảnh đẹp,

Trước nhà trăng chiếu rất sáng đất thới, nơi lên Tiên.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bởi muốn giữ cho trọn vẹn đường tu trong lúc loạn động mà không căn bản, cơ Thảo Ðường lập không xong, nên khiến cho Trứ về đây đặng tiếp tục lập cho thành.

Thảo Đường phước địa ngộ tùng hoa,

Lục ức dư niên vũ trụ hoà.

Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,

Thế dăng Bồng đảo định âu ca.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THẢO HÀI

草 鞋

Thảo: Cỏ, chỉ chung các loại cỏ. Hài: Giày.

Thảo hài là giày cỏ hay dép cỏ, tức là lấy cỏ kết thành đôi giày, hay dép. Thảo hài là giày, dép giản tiện, dành cho người tu, nên dùng để chỉ người tu hành.

Trong Đạo Sử, Thầy dạy Đức Quyền Giáo Tông: Trung, nội Rằm tháng tới đây, con phải nhóm Ðại Hội đòi luôn phái Ngọc đến đặng thọ Thiên tước nghe. Còn thiếu thảo hài, sắm cho đủ nghe.

Muốn đi cho tận trường sanh địa,

Phải đổi giày sen lấy thảo hài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẢO LUẬN

討 論

Thảo: Tìm xét. Luận: Bàn, lời bàn.

Thảo luận là bàn bạc, trao đổi ý kiến về một vấn đề, có phân tích lý lẽ. Như: Thảo luận kế hoạch.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trong một vài buổi Hội, cũng có khi nóng lòng ưu tư cho Ðại Nghiệp chung mà có sự gay cấn sôi nổi trong sự thảo luận, nhưng chừng được lời giải thích rành mạch của Ban Chủ Toạ, bầu không khí, trở lại êm dịu không còn điều chi thắc mắc nữa.

Trường thiên thảo luận một bài,

Ðể làm kỷ niệm nhơn ngày ân phong.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THẢO MỘC

草 木

Thảo: Cỏ, chỉ chung các loại cỏ. Mộc: Các loài cây.

Thảo mộc là danh từ gọi chung các loài cây cỏ. Theo sự tiến hoá của “Bát hồn” trong triết lý của đạo Cao Đài, thảo mộc là loài được tiến hoá từ vật chất lên một bậc, tức là vật chất, thảo mộc, thú cầm, nhân loại, Thần, Thánh, Tiên và Phật.

Thánh giáo có dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi, từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.

Thượng cầm hạ thú lao xao,

Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.

(Kinh Sám Hối).

Thiên Ðịa Càn Khôn kiêm vạn loại,

Nhơn quần thảo mộc cập chư hoa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẢO NGAY

Thảo: Có lòng biết ơn, kính trọng cha mẹ. Ngay: Ngay thẳng, thật thà không gian dối.

Thảo ngay là có lòng hiếu thảo và ngay thẳng.

Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Vậy đủ biết nuôi cha mẹ quý tại lòng thành kính. Chẳng nên bắt chước câu: “Giàu thì đặng thảo ngay, nghèo thì mất trung hiếu”. Lời nói ấy chẳng qua là nói để chữa lỗi mà thôi.

Nguyện cùng Thất Tổ xin thương,

Cho bền gan tấc noi đường thảo ngay.

(Kinh Thế Đạo).

Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,

Liều mình tự vận không màng thảo ngay.

(Kinh Sám Hối).

Thảo ngay con vẹn giữ cho bền,

Phải phận là phần đáng bậc trên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẢO XÁ

草 舍

Thảo: Cỏ, chỉ chung các loại cỏ. Xá: Nhà.

Thảo xá, cũng như “Thảo lư 草 盧”, là nhà lợp bằng tranh hay lợp bằng cỏ lát.

Thảo xá còn dùng với ý khiêm nhường.

Thảo xá nôn nao chờ khách quý,

Hàn lư vò võ ngóng thư tiên.

(Thơ Hoàng Hồ).

 

 

THẢO XÁ HIỀN CUNG

草 舍 賢 宮

Thảo xá: Chỉ ngôi nhà tranh. Hiền cung: Nơi dành cho người hiền ở.

Thảo xá hiền cung là ngôi nhà của Đức Cao Thượng Phẩm cất trên phần đất nhà, ở Thị Xã Tây Ninh dùng để an dưỡng.

Sau khi Đức Cao Thượng Phẩm bị nhóm Tư Mắt hành hung, ép buộc phải ra đi khỏi Toà Thánh. Ngài bèn lui về phần đất nhà ở gần Thị Xã, cất một thảo xá, lợp bằng tranh để lui về an dưỡng. Trước cảnh đau lòng, Ngày 12 tháng 6 năm Mậu Thìn, Bà Thất Nương giáng cơ an ủi Đức Cao Thượng Phẩm và ban cho ngôi nhà đó là “Thảo xá Hiền cung”.

Ngoài ra, Bà còn ban cho đôi liễn như sau: Thảo xá tuỳ nhân, ngu muội bần cùng nghinh nhập thất, Hiền cung trạch khách thông minh phú quý cấm lai môn 草 舍 隨 人, 愚 昧 貧 窮 迎 入 室, 賢 宮 擇 客, 聰 明 富 貴 禁 來 門, nghĩa là thảo xá tuỳ theo người, kẻ ngu muội và nghèo khổ thì tiếp vào nhà, Hiền cung lựa khách, người thông minh và phú quý thì cấm đến cửa.

Nói về Thảo Xá Hiền Cung, Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Đức Cao Thượng Phẩm về Thảo Xá Hiền Cung, chỉ còn Đức Quyền Giáo Tông, tình trạng nguy ngập không thể tưởng tượng, chúng tuyệt lương, chúng bắt buộc bất cứ ai trong Đền Thánh buổi nọ đi ra hành Đạo đều bị chúng bắt và đem giam cầm.

Thảo Xá Hiền Cung các Đấng đề,

Thương Cao Thượng Phẩm lúc lui về.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THÁP

Tháp là công trình xây dựng có nhiều từng, đầu nhọn, hình chóp, thường dùng để chuông chùa, hay nơi an vị hài cốt các cao tăng.

Trong tôn giáo Cao Đài, tháp là công trình xây dựng theo hình bát giác, nóc nhọn, có nhiều tầng, dùng để đặt liên đài chức sắc Đại Thiên phong Cửu Trùng Đài, từ hàng Tiên vị đỗ lên, hoặc Hiệp Thiên Đài từ Thập Nhị Thời Quân trở lên.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thái Thơ Thanh có câu: Con phải xây cái tháp của Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải day về hướng đông, giống như ngó vào điện mà hầu Thầy vậy, song ba từng phải lợp ngói như nóc chùa của các Ðường nhơn vậy, nghe!

Linh Tiêu nhứt tháp thị Cao Đài,

Đại hội quần Tiên thử ngọc giai.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Ngọn tháp chín rồng hư sát rạt,

Ngoài bờ muôn quái dậy lao xao.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THÁP ĐẦU SƯ

頭 師 塔

Tháp: Hình bát giác, nóc nhọn, xây nhiều từng, dùng để đặt liên đài của chức sắc đại Thiên phong hàng Tiên vị. Đầu Sư: Một phẩm chức sắc Cửu Trùng Đài.

Tháp Đầu Sư là một cái tháp dành để đặt liên đài cho phẩm Đầu Sư Cửu Trùng Đài Nam nữ.

Phía Đông lang sau Toà Thánh có xây ba cái tháp Đầu Sư Nam phái Cửu Trùng Đài, thuộc Thái, Thượng, Ngọc và phía Tây lang có xây một cái tháp Đầu Sư nữ phái. Bốn cái tháp nầy đặc biệt dành riêng cho bốn vị Đầu Sư nam nữ đã được cơ bút Chí Tôn ân phong trong buổi khai Đạo mà thôi.

Hai tháp Đầu Sư thấy rõ ràng,

Nêu gương ái chủng đẹp Nam bang.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THÁP GIÁO TÔNG

Tháp: Công trình hình bát giác, nóc nhọn, xây nhiều từng, dùng để đặt liên đài của chức sắc Đại Thiên phong hàng Tiên vị đổ lên. Giáo Tông: Một phẩm chức sắc cao cấp nhứt, làm chưởng quản Cửu Trùng Đài.

Vị Giáo Tông đầu tiên của đạo Cao Đài là Đức Lý Thái Bạch, sau đó Ngài chia làm hai quyền: Quyền vô vi thiêng liêng do Ngài nắm giữ, còn quyền hữu hình tại thế thì Ngài ban cho vị Đầu Sư Thượng Trung Nhựt nắm. Cho nên Ngài Lê Văn Trung được gọi là Quyền Giáo Tông.

Như vậy tháp Giáo Tông là ngôi tháp dành để đặt liên đài cho phẩm Giáo Tông hữu hình tại thế là Ngài Lê Văn Trung.

Ngôi tháp của Quyền Giáo Tông hữu hình được xây phía giữa sân sau Đền Thánh.

Hãy đưa mắt ra sau Bát Quái,

Tháp Giáo Tông kìa tại giữa sân.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THÁP HỘ PHÁP

塔 護 法

Tháp Hộ Pháp là cái tháp dành để an vị Liên đài của Đức Hộ Pháp.

Từ phía trước Toà Thánh Tây Ninh nhìn ra, bên kia Đại lộ Cao Thượng Phẩm có xây ba ngôi tháp cao, đó là bửu tháp của ba vị chức sắc Tiền bối của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư, Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang.

Tháp Đức Hộ Pháp được xây nóc bầu tròn, nằm ở giữa hai tháp Thượng Phẩm và Thượng Sanh.

Đức Hộ Pháp đăng Tiên vào lúc 13 giờ 30 ngày 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi (Dl. 17-5-1959), Thánh hài được liệm vào Liên đài, nhập bửu tháp tạm, xây tại phía sau Thánh Thất Kim Biên, Nam Vang. Mãi đến 47 năm sau, vào ngày 10 tháng 10 năm Bính Tuất (Dl. 30-11-2006), Hội Thánh mới rước Liên Đài Đức Ngài về Việt Nam và 5 ngày sau làm lễ nhập Liên Đài vào bửu tháp Hộ Pháp tại trước Toà Thánh Tây Ninh.

Tháp Hộ Pháp kìa nhìn ngay lộ,

Chờ Liên đài mấy độ tinh sương.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THÁP TÙNG

插 從

Tháp: Cắm vào. Tùng: Theo.

Tháp tùng nghĩa là đi chung vào một đoàn, để làm theo tập thể.

Tháp tùng còn có nghĩa là cùng đi để giúp việc cho một nhân vật lãnh đạo nào đó.

Như: Tháp tùng phái đoàn Đạo đi phát quà.

Nay con chưa đủ thông đường Ðạo,

Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tháp tùng Hộ Pháp mười người,

Đại huynh Khai Pháp xe hơi cùng ngồi.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THAU

Thau là hợp kim đồng pha với kẽm, màu vàng nhợt, thường dùng làm mâm, chậu rửa mặt. Thau và vàng thường được dùng để so sánh vật hèn và quý.

Thau còn dùng để chỉ cái chậu, như thau rửa mặt.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Hiền hữu đã lãnh trách nhiệm nặng nề giáo hoá thì khá dạy sanh chúng biết lẽ Chánh Tà mà toan độ rỗi, còn mưu chước của Quỷ quái tinh ma là mưu của Lão để phân biệt chơn giả, vàng thau, cho phẩm giá trọng khinh.

Ðặng vàng mà bỏ kiếm đồng thau,

Sự nghiệp vì đây cũng để vào.

(Đạo Sử).

Chí lâm gánh vác nổi giang san,

Buồn nỗi thép thau chẳng hoá vàng.

(Đạo Sử).

 

 

THẮC MẮC

Thắc mắc là có điều cảm thấy chưa thông, cần được hỏi thêm và giải đáp. Như: Nêu thắc mắc để thảo luận.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn dạy: Chín mươi hai ức nguyên nhân, giờ phút này có một điều thắc mắc hơn hết, chúng ta thấy trong Vạn linh, con người tối linh hơn vạn vật, mà ta ngó thấy có thứ người không phải người, họ đã mang xác thịt làm như người mình, họ tàn ác dối trá gian ngược, làm cho các Đấng Thiêng Liêng hay là người đạt Đạo ở thế gian này cũng vậy để dấu hỏi, đến phẩm người mà vậy, hỏi họ có đáng làm người không?

Nhưng chừng được lời giải thích rành mạch của Ban Chủ Toạ, bầu không khí, trở lại êm dịu không còn điều chi thắc mắc nữa.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THẮC THẺO

Thắc thẻo là bồi hồi, khắc khoải, có tâm trạng buồn nhớ, trông đợi, bứt rứt không yên.

Như: Mấy ngày nay anh ấy có tâm trạng thắc thẻo trong lòng như thế.

Trong ca dao Việt Nam có câu: “Gió mùa đông trăng lồng lạnh lẽo, Năm canh chầy thắc thẻo ruột gan”.

Xa xuôi chiều ngóng mấy vầng mây,

Thắc thẻo dường như nhạn lạc bầy.

(Thơ Huệ Giác).

Vẫn thiếp trông chàng lòng thắc thẻo,

Mộng trung hoạ gặp nhủ đôi điều.

(Thơ Hương Hiếu).

 

 

THĂM

1.- Thăm là dò xem cho biết rõ tình hình. Như: Thăm nhà, thăm bệnh, thăm ruộng, đi hỏi thăm bà con.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo không thể đi cùng mỗi nhà của toàn cả Chức Sắc Thiên Phong và mấy em Nam Nữ đặng viếng thăm trong ba ngày xuân nhựt.

Cha chả hèn lâu chẳng viếng thăm,

E chư huynh trưởng trách em thầm.

(Lục Nương Giáng Bút).

Chầy ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,

Mà tấm lòng kia vẫn luống gần.

(Thất Nương Giáng Bút).

2.- Thăm là xem xét để biết qua tình hình.

Như: Thăm dò, thăm chừng, thăm đồng, thăm lớp học của một giáo viên dạy giỏi.

Phải nhớ thử khí trời nóng lạnh,

Muốn nuôi con khoẻ mạnh khá thăm chừng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THĂM LOM

Thăm: Viếng thăm, hỏi han cho biết tình hình. Lom: Như chữ “Nom”, để ý nhìn ngó đến.

Thăm lom, như chữ “Thăm nom”, có nghĩa là thăm và trông nom, săn sóc.

Như: Tôi đi công việc, nhờ anh thăm lom nhà ít bữa.

Đừng để dơ cứt đái thúi òm,

Quần áo trẻ thăm lom coi giặt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THĂM THẲM

Thẳm: Sâu, như vực thẳm, rất xa như xa thẳm.

1.- Thăm thẳm là xa lắm, hay sâu lắm, không dò tới nơi. Như: Đây tới đó mà đi bộ thì còn xa thăm thẳm.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Ôi! Thầy cực nhọc bao phen, mà nay con đường ngó lại còn dài thăm thẳm. Thầy chỉ mong mỗi con tỉnh hồn thức trí, ngó lại bước đường sái trước kia mà lập tâm làm việc chánh đáng, theo lần Thầy, thì sự may mắn ấy không còn chi cho Thầy vui hơn nữa.

Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,

Bận lòng con lại vấn nô y.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thăm thẳm còn dùng để chỉ ơn đức to lớn như núi non, sâu dầy như biển cả.

Như: Công ơn dưỡng dục của cha mẹ cao thăm thẳm.

Ơn cúc dục vô cùng thăm thẳm,

Nghĩa cù lao thắm đậm mặn mà.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THĂM VÁN BÁN THUYỀN

Thăm: Dò xem cho biết rõ. Ván: Tấm gỗ. Bán: Đổi vật lấy tiền. Thuyền: Phương tiện để chở trên mặt nước.

Thăm ván bán thuyền là mới đi thăm hỏi ván định mua về để đóng thuyền, mà đã lo bán thuyền cũ rồi.

Thành ngữ này có ý chê những người quá vội vàng, chưa có cái mới mà đã coi rẻ cái cũ.

Còn theo thăm ván bán thuyền,

Trông chi giữ mảnh hương nguyền cùng nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THĂM VIẾNG

Thăm: Viếng thăm, hỏi han cho biết tình hình. Viếng: Đi đến thăm hỏi.

Thăm viếng là đến viếng và hỏi thăm sức khoẻ. Như: Thăm viếng bàn bè cũ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hôm nay Hội Thánh đến đây để thăm viếng quý vị trong tình huynh đệ đồng bào, có ý đem lại cho quý vị một niềm an ủi chân thành, sau để hiến cho quý vị vài món quà cần thiết tuy có tánh cách tượng trưng, nhưng sự tương trợ có quý, chẳng phải ở nơi cho nhiều, mà ở nơi lòng thành ưu ái và cách thức tương trợ.

Mai chiều chúng ta đến thăm viếng Ðức Mẹ như Từ thân chúng ta vậy, mộ khang là: đến thăm mai chiều gọi là vấn an Ðức Mẹ đó vậy.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẮM

Thắm là có màu đậm và tươi, hoặc màu đỏ sẫm. Như: Chỉ thắm, má hồng môi thắm.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Thâm nghiêm kín cổng cao tường, Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.

Nấu kinh sử ra mùi son phấn,

Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẮM NGHĨA NẶNG TÌNH

Thắm nghĩa: Tình nghĩa đậm đà, thắm thiết. Nặng tình: Mối tình sâu nặng.

Thắm nghĩa nặng tình là tình nghĩa thương yêu nhau một cách sâu nặng và thắm thiết.

Mảng trong thắm nghĩa nặng tình,

Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẮM ĐẬM

Thắm: Có màu đậm và tươi, hoặc màu đỏ sẫm. Đậm: Có tình cảm nồng nàn, sâu sắc.

Thắm đậm là thằm thiết đậm đà, ý chỉ có tình cảm thắm thiết đậm đà.

Như: Thắm đậm tình quê hương.

Ơn cúc dục vô cùng thăm thẳm,

Nghĩa cù lao thắm đậm mặn mà.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THẮM THIẾT

Thắm: Có tình cảm rất đậm đà. Thiết: Rất gần gũi, rất thân thiết.

Thắm thiết là nói tình cảm rất sâu sắc, đậm đà. Như: Mối tình đôi trẻ rất thắm thiết.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Giờ phút này Bần Đạo đứng tại Toà giảng đây tưởng tượng nhớ đến tâm tình ấy thắm thiết biết bao nhiêu, nồng nàn mà nói, không có một điều gì sơ sót, chỉ đủ mọi hành tàng, rành rẽ chi tiết hết.

Nhớ xe Châu thầy Mạnh Tử vẫn não nùng,

Xem níếp tử, ông Sâm càng thắm thiết.

(Văn Tế Đốc Học).

 

 

THẲM

Thẳm là nói về độ sâu hay khoảng xa lắm, đến mức hút tầm mắt, nhìn không thấy đâu là cùng, là tận.

Như: Sâu thẳm, xa thẳm, non thẳm, núi cao vực thẳm, đường xa dặm thẳm.

Thánh giáo Thầy có câu: Sanh nhằm đời có một Ðạo chánh chẳng phải dễ, mà bước lên con đường chông gai, lần vào non thẳm kiếm ngọc lại càng khó. Khó dễ nơi lòng, chớ đem thói ám muội mờ hồ vào đường đạo đức, sau ăn năn rất muộn.

Chẳng khác chồi non xô đại mộc,

Như sa vực thẳm khó toan trèo.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Sẩy chơn lọt tuốt hang sâu thẳm,

Níu chéo vượt qua kẻo lạc Thầy.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THĂNG

1.- Thăng là lên, được đưa lên một chức vụ, cấp bậc cao hơn. Như: Được thăng chức, thăng vượt cấp.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Các con có đủ bằng chứng để tự biết mình do sự thăng phẩm vị thiêng liêng.

Cầm cân thăng thưởng răn người thế,

Người thế sao cho hạnh chói ngần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thăng là bay lên, nói các chơn linh vượt lên cõi giới cao và nhẹ nhàng, như cõi Thiên, cõi Cực Lạc.

Thánh giáo Thầy có câu: Còn chư môn đệ đã lập Minh Thệ rồi, ngày sau tuỳ âm chất mỗi đứa mà thăng hay là tội lỗi mà giáng, song buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa là mười hai người.

Dữ đoạ hiền thăng ấy luật Trời,

Lánh đường tà vạy hưởng an vui.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trái oan chưa dứt thuở nào thôi,

Muốn đặng phi thăng, ráng trả rồi.

(Lý Giáo Tông Giáng).

3.- Thăng là thoát ra, chỉ Thần của Đức Chí Tôn hay các Đấng thiêng liêng xuất ra khỏi đồng tử phò cơ.

Thất lễ là đại tội trước mắt các Ðấng Chơn linh ấy. Thầy phải thăng cho các con khỏi bị hành phạt.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THĂNG BẰNG

Thăng: Lên cao. Bằng: Ngang nhau.

Thăng bằng là ngang đều nhau, không lệch về bên nào, ý chỉ thế của một vị trí tự giữ được không bị ngã. Như: Loạng choạng mất thế thăng bằng.

Thăng bằng còn dùng để chỉ trạng thái tâm lý tự giữ được không có sự nghiêng ngã.

Mục đích của chính trị là làm cho quốc gia hưng vượng, công lý thăng bằng, nhân dân no ấm...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THĂNG CẤP

升 級

Thăng: Đưa lên một chức vụ, hoặc cấp bực cao hơn. Cấp: Thứ bực, phẩm cấp.

Thăng cấp là đưa lên nắm giữ chức vụ, hoặc bậc quan cao hơn. Như: Tổ chức tiệc mừng được thăng cấp.

Thánh giáo Hộ Pháp dạy về sự thăng cấp của Cơ Quan Phước Thiện có câu: Cơ quan nầy để cho hạng dám quên mình lo cho chúng sanh lập vị thiêng liêng, do Thập nhị đẳng cấp nơi bộ Đạo Luật đã ban hành, nhưng tiếc vì thời gian gần đây Chức sắc Cơ quan nầy thăng cấp bất chấp luật lệ, thành thử chúng lập vị rất lẹ.

Phải hiệp đồng cùng cả Chức sắc Ðại Thiên phong mà khử loạn, bằng chẳng vậy, thì Lão nhứt định không cho một ai thăng cấp một người.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THĂNG CHỨC

升 職

Thăng: Đưa lên một chức vụ, hoặc cấp bực cao hơn. Chức: Chước tước, cấp bậc chức sắc.

Thăng chức, đồng nghĩa với chữ “Thăng cấp 升 級”, là đưa lên chức tước cao hơn. Như: Người có công nghiệp to dễ được thăng chức.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn dạy: Bính, Thầy thưởng công con, cho lên chức Phối Sư. Thầy cám cảnh lòng yêu mến của con, Thầy cám ơn lòng đạo đức của con. Sanh linh còn nhờ công con mà thoát qua khổ hải. Bản, Thầy thăng chức Giáo Sư.

Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ toàn Đạo phải chịu dưới quyền công nhận của Vạn Linh mới đặng thăng chức hay là Vạn Linh buộc tội mà bị sa thải.

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

THĂNG HÀ

升 遐

Thăng: Bay lên trời, tiến lên cao. Hà: Xa xôi, lâu dài.

Thăng hà là tiếng tôn xưng một vị vua chết.

Trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo có bài kinh dùng cho thần dân tế lễ cho nhà vua, có tựa đề là “Kinh Tụng Khi Vua Thăng hà”.

Vua ấy trọng hậu người lắm, chừng Vua Norodom thăng hà Bà Trần Thị Hương cũng vẫn còn sống...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THĂNG LONG

升 龍

Thăng: Vượt lên, bay lên. Long: Rồng.

Thăng Long là thành Hà Nội bây giờ, được xây dựng vào đời nhà Lý.

Khi Lý Thái Tổ lên ngôi, thấy đất Hoa Lư chật hẹp không có thể mở mang ra làm chỗ đô hội được, bèn định dời đô về La Thành. Tháng 7 năm Thuận Thiên nguyên niên 1010, thì khởi sự dời đô. Lúc ra đến La Thành, Thái Tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại La thành là Thăng Long thành, tức thành Hà Nội bây giờ. Cải Hoa Lư làm Trường An phủ, và Cổ Pháp làm Thiên Đức phủ.

Thăng Long bao thuở nâng hùng khí,

Gia Ðịnh tự nhiên chấp ấn quyền.

(Đạo Sử).

 

 

THĂNG PHẨM VỊ

升 品 位

Thăng: Đưa lên một chức vụ, hoặc cấp bực cao hơn. Phẩm vị: Phẩm hàm và ngôi vị.

Thăng phẩm vị, như chư “Thăng cấp”, là đưa lên chức vị và ngôi phẩm cao hơn.

Các con có đủ bằng chứng để tự biết mình do sự thăng phẩm vị thiêng liêng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THĂNG QUAN TIẾN CHỨC

升 官 進 職

Thăng quan: Quan được thăng phẩm hàm. Tiến chức: Chức tước nâng lên.

Thăng quan tiến chức là thăng tiến về quan chức, tức được cho lên chức quan.

Như: Làm việc tại triều đình dễ thăng quan tiến chức.

Thì y như vậy, từ đó về sau, cậu con trai thăng quan tiến chức, kế được chí cha làm đến đầu triều.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THĂNG THIÊN

升 天

Thăng: Bay lên. Thiên: Trời.

Thăng thiên là đi lên Trời.

Thăng Thiên còn dùng để nói chơn hồn của người tu đắc đạo sẽ được siêu thăng lên cõi Thiên.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta đã ngó thấy biết bao nhiêu vị Đại Tiên còn lẫn lộn dưới hồng trần, biết bao nhiêu vị Phật còn mang thân phàm xác tục của họ trước khi đoạt đặng huyền bí vô biên trong chốn tịnh luyện của họ, rồi bây giờ họ dùng khiếu thông minh ấy họ tìm nào nguyên tử lực, nào phép thăng thiên, rốt cuộc họ qua đời mà họ không đoạt được cơ siêu thoát của Chí Tôn đem đến cho họ, tội nghiệp thay!

Đẹp xinh cảnh vật đòi ngàn,

Hào quang chiếu diệu khai đàng thăng Thiên.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THĂNG THƯỞNG

升 賞

Thăng: Lên, tiến lên. Thưởng: Ban tiền bạc, chức tước cho người có công.

Thăng thưởng là thăng chức và thưởng công.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Ðiều thăng thưởng chẳng mất phần, ngày giờ nhặt thúc, nếu diên trì thì bước đường sau khó theo dấu.

Cầm cân thăng thưởng răn người thế,

Người thế sao cho hạnh chói ngần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THĂNG TRẦM

升 沉

Thăng: Bay lên cao. Trầm: Chìm xuống.

Thăng trầm là chìm nổi, ý nói cuộc đời khi lên khi xuống, lúc xấu lúc tốt.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðạo trải qua bao nhiêu nỗi thăng trầm, lướt qua bao phen bão bùng, giông tố gây nên bởi lòng tham hiểm của thế tình, nhưng chánh khí trung can của con cái Ðức Chí Tôn không bao giờ sờn mẻ.

Mặc cho thế cuộc thăng trầm,

Ta vui con vợ ta tầm mồi ngon.

(Thơ Hộ Pháp).

Xem thư ái ngại tiếng tôn Ngài,

Trong cảnh thăng trầm tự bấy nay.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THẮNG

1.- Thắng là đóng đồ yên, cương cho ngựa, hay là buộc ngựa vào xe.

Như: Thắng yên ngựa cho sẵn sàng, đem ngựa thắng vào xe chờ lịnh lên đường.

...khiến kẻ tuỳ tùng dắt đến một con ngựa sắc đỏ như than lửa, vóc cao sức lực mạnh mẽ, rồi sai thắng đủ yên lạc mà ban cho Ðức Ngài...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

2.- Thắng là hơn, giành được phần trong cuộc đọ sức giữa hai bên đối địch, trái với bại, thua.

Như: Thắng lợi, thắng thế, thắng trận, thắng đối thủ, chuyển bại thành thắng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Tà đã thắng Chánh thì con làm thế nào đương cự cho kham. Con là đứa Thầy đã tin cậy hồi mới ban sơ, tuy bước đường cũng lắm lúc sai lầm, nhưng nhờ các Ðấng Thiêng liêng thương mà chỉ dẫn, nên bước vừa trờ tới, kịp lúc trở ra.

Ðức cao thì mới đáng nên người,

Ðức thắng tài kia đã mấy mươi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nào tranh đấu thắng rồi lại thất,

Của phù du chứa chất gọi giàu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẮNG CẢNH

勝 境

Thắng: Hơn, được. Cảnh: Vùng, bờ cõi, phong cảnh.

Thắng cảnh, như chữ “Thắng địa 勝 地”, là nơi có đất đai, phong cảnh đẹp nổi tiếng.

Thành ngữ thường có câu: “Danh lam thắng cảnh”.

Cao sơn thắng cảnh khách tầm hiền,

Thượng tứ ngày nay hữu huệ duyên.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

Thoát khỏi mê đồ vui thắng cảnh,

Đạo mầu chấn chỉnh hội Long Hoa.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THẮNG KHỔ

勝 苦

Thắng: Hơn. Khổ: Đau khổ, khổ sở.

Thắng khổ là vượt qua khỏi cảnh khổ.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong gia đình có hỗn loạn, có thống khổ thì tới xã hội nhơn quần cũng vậy, cớ sao xã hội có như thế? Phương pháp ấy cốt để cho toàn cả nhơn quần xã hội thấy đặng khó khăn thống khổ tức phải thọ khổ rồi mới thắng khổ.

Thắng khổ người tu vẫn để lòng,

Ta thua Thủ Đức phải đành dông.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THẮNG LỢI

勝 利

Thắng: Lấy sức mà khuất người, hơn. Lợi: Có ích, trái với hại.

Thắng lợi là được phần lợi, hay giành được phần thắng hoặc đạt được kết quả tốt đẹp.

Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo muốn cho nòi giống Việt Nam thấy lực lượng tinh thần nhơn nghĩa, đạo đức, đã thâu đoạt thắng lợi một cách vinh diệu.

Ðiều đáng vui mừng là Hội Thánh đã thu thập một thắng lợi vẻ vang cho nền Ðạo.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THẰNG

1.- Thằng là từ dùng để chỉ từng cá nhân người đàn ông, con trai thuộc hàng dưới hoặc ngang hàng với ý thân mật hoặc với ý không tôn trọng.

Như:Thằng bé, thằng bạn thân, thằng lưu manh.

Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,

Thấy thằng áp út quá buồn lòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðứa cầm dùi đục, thằng nghiên mực,

Cậu bận áo nâu, chú khố hồng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Thằng là sợi dây, hoặc chỉ sự trói, không dùng một mình. Như: Chuẩn thằng, thằng phược (trói buộc).

Thằng phược 繩 縛 là ràng buộc, tức là tự mình trói buộc lấy mình, ý nói bỏ mất tự do.

Thành ngữ Việt Hán có câu: “Thê thằng tử phược 妻 繩 子 縛” có nghĩa là vợ trói con buộc.

Ai lại còn mang đeo thằng phược vào mình mà để cho loạn tâm mệt trí về nơi đó, chẳng uổng kiếp sanh lắm ru?

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẲNG

1.- Thẳng là không cong, không chệch về một bên, không gẫy gập. Như: Đường thẳng, cứ thẳng một đường mà đi, thanh sắt cong uốn lại cho thẳng.

Thánh giáo Thầy có câu: Thìn lòng để bước vào nẻo thẳng đường ngay mà kiếm cho thấu đáo mối huyền vi Tạo hoá đã sắp bày độ dẫn, nhuần gội ơn huệ cho sanh linh đương buổi Hạ nguơn nầy.

Thổi thẳng cánh buồm thì Lão thủ,

Nâng an lòng bản cậy Thần, Tiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngày chầy dặm thẳng gắng đưa qua,

Chịu khổ trau tâm chí mới già.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thẳng là không chùng, không dùn lại. Như: Dây căng thẳng, lên dây đàn thẳng.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Trong khi ta đang ngẩn ngơ trước một sắc đẹp mỹ nhơn hoặc ta đương dùn thẳng trước một món lợi lớn của người đem hiến cho ta đặng giục ta làm chuyện phi pháp, thì một tiếng nói văng vẳng bên tai ta, nghe dịu dàng, chơn chánh và siêu kỳ.

Đạo vợ chồng như thể sợi dây,

Kéo thẳng quá có ngày phải đứt.

(Phương Tu Đại Đạo).

Muốn ngón hay đừng thẳng dây đờn,

Ngọt với vợ còn hơn quờn thịnh nộ.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thẳng là ngay, không kiêng nể, che giấu, dám nói lên sự thật, hoặc nói đúng những điều mình nghĩ. Như: Người rất thẳng, lời nói thẳng.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Nầy là mấy lời đinh ninh sau rốt, khá lưu tâm. Ai vạy tà nấy có phần riêng, cứ giữ nẻo thẳng đường ngay bước đến thang thiêng liêng, chờ ngày hội hiệp cùng Thầy. Ấy là điều quý báu đó.

Bề trong ngay thẳng tỏ bề ngoài,

Miệng chánh thì đời vốn trái tai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trời soi dạ thẳng trăm oan thoát,

Có lúc vinh huê bỏ nhọc nhằn.

(Đạo Sử).

 

 

THẲNG BĂNG

Thẳng: Theo một hướng nhứt định, không cong, không gẫy gập chút nào.

Thẳng băng là thẳng một đường, một mạch, không bị cong vẹo hay bị cản trở.

Thẳng băng còn có nghĩa là thẳng thắn, ngay thật, nghĩ sao nói vậy.

Như: Công việc tiến hành một cách thẳng băng, tính tình nó thẳng băng.

Công bình thưởng phạt không tư vị,

Chánh trị thiêng liêng luật thẳng băng.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THẲNG DÙN

Thẳng: Không chùng, không dùn lại. Dùn: Chùng, không căng, không thẳng.

Thẳng dùn, như chữ “dùn thẳng”, là lúc căng thẳng, lúc chùng lại ý chỉ sự phân vân, không dứt khoát.

Ngày thâu bóng xế oanh thưa nhặt,

Mắt nhắm đường xa khách thẳng dùn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẲNG RẲNG

Thẳng: Theo một hướng nhứt định, không cong, không gẫy gập chút nào.

Thẳng rẳng là thẳng một đường đi một cách dễ dàng.

Thẳng rẳng còn dùng để chỉ thẳng thắn, thẳng thừng, không một chút vị nể, e ngại gì.

Nước có trị loạn, đời có hưng vong, thì Ðạo tất phải có dùn thẳng quanh co, rồi mới đến thẳng rẳng đường ngay mà lập nên thể thống.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẮP

Thắp là châm lửa làm cho cháy lên.

Như: Thắp đèn cho sáng, thắp mấy nén hương trước mộ phần, thắp sáng niềm tin.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tôi dặn mấy Ngài nghe các cái chuông chung quanh Đền Thờ reo một lượt và ở ngoài nghe tiếng ngựa chạy rần rần đó là Ngài đến, là Đức Chí Tôn đến, vô đó rồi ông Dalai Lama ổng dắt vô trong một cái phòng thắp đèn lờ mờ vậy thôi.

Dỗ con chỉ bóng giải sầu,

Rằng khuya đèn thắp cha hầu về thăm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Hương thắp, trà châm xin đạm bạc,

Thuỷ chung vẹn giữ một lòng thôi.

(Thơ Thượng Phẩm).

 

 

THẮP NHANG

Thắp: Châm lửa làm cho cháy lên. Nhang: Một loại cúng phẩm, dùng để đốt khi cúng bái.

Thắp nhang là đốt hương, tức dùng lửa để đốt những nén nhang để cúng Trời Phật.

Như: Thắp nhang lên để cúng Đức Chí Tôn.

Cho thanh tâm mạng mới vững vàng,

Ðến ngó Phật Trời khỏi thắp nhang.

(Đạo Sử).

 

 

THẮT

Thắt là rút các đầu mối dây đã thắt cho chặt hoặc cho vòng buộc hẹp lại.

Như: Thắt miệng túi, thắt chặt vòng dây, ruột đau như thắt, thắt chặt tình hữu nghị.

Hương huê đã nực bóng thiều qua,

Tưởng chút nghĩa xưa thắt ruột rà.

(Đạo Sử).

Tuyến đẹp vẻ thêu bông nổi mặt,

Đoạt kinh luân nặng thắt túi thơ.

(Tam Nương Giáng Bút).

 

 

THẮT CHẶT

Thắt: Buộc chặt, ràng chặt. Chặt: Vững chắc, không lung lay được.

Thắt chặt nghĩa là siết chặt lại, tức ràng buộc lại cho chắc. Như: Lấy dây thắt chặt bao đựng gạo.

Thắt chặt còn chỉ tình nghĩa anh em bạn bè hoà hợp, thân thiết nhau hơn. Như: Thắt chặt tình thân ái.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Tôi ước mong sự đoàn kết và tình tương thân, tương ái được thắt chặt mãi giữa chức sắc Phước Thiện để cùng nhau chung tâm hiệp sức thực hành chủ nghĩa từ thiện, cứu khổ nâng nguy...

Cùng nhau thắt chặt tình thân thiện,

Đưa chiếc thuyền sen lánh bến trần.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THẮT DẠ

Thắt: Buộc chặt, thu nhỏ, thu hẹp. Dạ: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý, tình cảm con người.

Thắt dạ, như chữ “Thắt lòng”, là đau đớn trong lòng. Thắt dạ còn có nghĩa là ép lòng, tức nén lòng mà chịu.

Như: Mặc dầu mang nỗi đau trong lòng, nhưng phải thắt dạ chịu đựng.

Ai đời thắt dạ mà lường,

Bưởi bòng bụng gái vẫn thường giống nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Thắt dạ thuyền xưa không đậu bến,

Đau lòng hạc cũ chẳng về tùng.

(Đạo Sử).

 

 

THẮT NGẶT

Thắt: Buộc chặt, tức rút các đầu mối dây đã thắt cho chặt hoặc cho vòng hẹp lại. Ngặt: Túng ngặt, rất khó khăn, đến mức như không có lối thoát.

Thắt ngặt là bắt buộc gắt gao, ngặt nghèo.

Như: Hoàn cảnh gia đình đang hồi thắt ngặt.

Cho vay lúa miễn đừng tính mắc,

Đừng thấy người thắt ngặt bắt đong nhiều.

(Phương Tu Đại Đạo).

Tưởng bà mẹ có lòng khổ khắc,

Chưa hành con thắt ngặt dường này.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂY

Thây là xác người. Như: Thây đi thịt chạy, chết không toàn thây, phơi thây trên bãi chiến trường.

Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão Sư có câu: Ðạo chẳng phải là một hội chôn thây, cũng chẳng phải mối hàng để nhóng giá, mà chư đạo hữu hiện thời đã thấy Ðạo có ích về hai sự ấy mà thôi.

Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,

Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.

(Kinh Sám Hối).

Buồn thấy giống Hồng thây chúng xẻ,

Thảm xem giòng Lạc thịt người bầm.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

THÂY ĐI THỊT CHẠY

Thây đi: Thi thể của người đi. Thịt chạy: Khối thịt con người chạy.

Thây đi thịt chạy ý nói con người có thân xác mà không có trí khôn thì cũng như thi thể và khối thịt của con người biết đi biết chạy mà thôi.

Theo quan niệm xưa, con người do cha mẹ đào tạo ra hình hài thể xác, song đã có tấm thân mà không trau dồi, học hỏi để được khai hoá về tinh thần thì con người chỉ như một khối thịt tùng theo vật dục mà hành động, không có tri giác, không hiểu lễ giáo, như người xưa đã gọi “Thây đi thịt chạy”, tức là một khối thịt, không trọn bổn phận là một con người sống trong gia đình và xã hội.

Đừng chịu phận thây đi thịt chạy,

Uổng hột cơm tấm vải của đời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂY PHÀM

Thây: Thi hài hay xác người chết. Phàm: Tầm thường, phàm tục.

Thây phàm, như chữ “Phàm thi 凡 尸”, tức là thân xác của người phàm tục.

Như: Thây phàm mắt thịt.

Giữa vạn vật con người một giống,

Phải uống ăn nuôi sống thây phàm.

(Kinh Thế Đạo).

Chừ mới rõ nguồn cơn kiếp sống,

Tấc thây phàm rất mỏng số căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂY THI

Thây: Thân xác con người. Thi: Thi hài, tức xác người đã chết.

1.- Thây thi là cái thể xác con người, ý chỉ xác phàm bằng xương thịt.

Như: Bệnh hơn nửa năm nay, thây thi teo nhách.

Dở hồn phách, yếu thây thi,

Dậy ngồi chẳng nổi, bước đi không rồi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thây thi còn dùng để chỉ cái xác người đã chết.

Như: Thu dọn thây thi nơi chiến trường, thây thi con người chết lâu phải rã.

Ruộng vườn xơ xác quạnh hiu,

Đường đi vắng vẻ dập dìu thây thi.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

 

 

THẤY

1.- Thấy là nhận biết được bằng mắt nhìn. Như: Tìm chẳng thấy, điều mắt thấy tai nghe.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy lấy làm đau đớn hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhơn loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.

Ngăn ngừa cái thói lả lơi tình,

Ðừng động tâm mình thấy sắc xinh.

(Đạo Sử).

Nghe trẻ khóc như chì dần dạ,

Thấy con đau như đá đập đầu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thấy là cảm xúc bằng ngũ quan mà nhận biết ở trong thần trí. Như: Ngửi thấy mùi thơm, nghe thấy tin đồn, sờ thấy lạnh ngắt.

Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung có câu: Em xin nhắc nhở điều nầy: Ngày hội Ngọc Hư đặng lo phương tiếp pháp của Tây Phương Cực Lạc qua, Em đã đặng nghe thấy những lời của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát than thở rằng: Ngài là Phật nên khó gần gũi các hồn Nữ phái mà khuyến giáo cơ giải thoát mê đồ. Bởi cớ, nơi Âm quang, Nữ hồn còn bị luyện tội nhiều hơn Nam phái bội phần.

Nương chơn chưa biết chơn nào vững,

Níu thử cân đai thấy nặng trì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẤY LÂN

Thấy: Nhận biết được bằng mắt nhìn. Lân: Kỳ lân, một loài vật trong tứ linh: Long, lân, quy, phụng.

Tương truyền lân xuất hiện thì có Thánh nhân ra đời, đất nước thanh bình, nhân dân lạc nghiệp.

Thấy lân tức thấy kỳ lân xuất hiện, ý chỉ đất nước sắp hoà bình, thịnh trị.

Xem mai trông gặp trổ hai lần,

Như Ðức Khổng xưa muốn thấy lân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đào nguyên lại trổ trái hai lần,

Ai ngỡ Việt Thương đã thấy lân.

(Bát Nương Giáng Bút).

Dựng gầy xã tắc bấy nhiêu lần,

Mong mõi vùng Nam đặng thấy lân.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THẦY

1.- Thầy là người dạy học, người đáng làm gương cho mình theo. Như: Tình thầy trò, không thầy đố mầy làm nên, thầy Tử Lộ, thầy Mạnh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Xưa kia, một ông Quan học thành tài dự chiếm khoa trường và được vinh quy bái tổ, thì bổn phận trước nhất là khăn áo chỉnh tề mang lễ vật đến viếng ông Thầy dạy cũ để tỏ sự kính mến biết ơn, vì nhờ thầy mở trí lúc ban sơ mà ngày nay mình mới được đai vàng thẻ bạc.

Ơn cha sanh hoá ra thân,

Ơn thầy huấn giáo cũng gần như nhau.

(Kinh Thế Đạo).

2.- Thầy là tiếng dùng để chỉ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế trong tôn giáo Cao Đài.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy khuyên các con nhớ hoài rằng: Thầy của các con là Ông Thầy Trời, nên biết một Ổng mà thôi, thì đủ, nghe à!

Ðinh ninh Thầy dặn trẻ đôi lời,

Mình biết Ðạo mình giữ đó thôi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Xác thịt Thầy vì không giáng thế,

Nên nhờ con giúp Ðạo nâng bồng.

(Đạo Sử).

Nền Ðạo của Thầy nền Ðạo cả,

Con con đừng sợ thị hoà phi.

(Đạo Sử).

3.- Thầy còn dùng để gọi những người chuyên làm nghề tự do và cần phải có sách vở.

Như: Thầy cúng, thầy tụng, thầy bói, thầy phù thuỷ.

Quến rủ đôi ba thầy tụng, rập rềnh tiếng quyển rập tiếng tiêu,

Trù trì năm bảy ông sư, thù tạc chén thung đưa chén cúc.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

THẦY GIÁO

Thầy: Tiếng gọi người dạy học, trong quan hệ với học sinh. Giáo: Dạy, dạy học.

Thầy giáo là chỉ người đàn ông làm nghề dạy học, hoặc nói chung dùng để chỉ người làm nghề dạy học.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Có việc ta thấy trước mắt là tội, nhưng trong đó có phước. Ví dụ: Thấy ai đau khổ bần hàn nhắm mắt đi ngang qua thì không sao, nếu để tâm ái truất thương sanh, bồng ẵm họ đi đến bước cao xa rộng rãi, sung sướng hạnh phúc hơn, thì có ơn mà tức cũng có oán. Như trong trường thầy giáo dạy học trò, bỏ lơ thì làm biếng, nghiêm phạt thì nó oán ghét ấy là lẽ thường.

Mượn lời khen đứa nhỏ gần nơi,

Rằng đọc sách in hơi thầy giáo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẦY PHÁP

Thầy: Từ dùng để gọi tôn người làm một số nghề đòi hỏi có học thức, hoặc chuyên môn. Pháp: Pháp thuật.

Thầy pháp, đồng nghĩa với “Phù thuỷ”, là người có pháp thuật trừ được yêu tinh ma quỷ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Cho nên ban sơ, buổi Chí Tôn mới giao cho Bần Ðạo tại Từ Lâm Tự, cái khó là trí óc vẫn lo ra, vì không quen, không phải mình làm thầy phù, thầy pháp gì ổng giao cho học mãi làm không trúng. Vì cớ nên mới có quỷ lộng tại Từ Lâm Tự buổi nọ, các ấn khác của Hộ Pháp có linh hay không mà quỷ lộng? Ấy là Thiên Cơ khiến vậy.

Nghề thầy pháp là nghề tiểu mọn,

Chồng lấy Hồng đừng đón đánh ghen.

(Phương Tu Đại Đạo).

Vợ thầy pháp quỷ ma thường lộng,

Đẻ ra hình như giống ếch bà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂM

1.- Thâm là sâu. Như: Sơn cao, thuỷ thâm, nghĩa nặng tình thâm, thâm giao, thâm hiểm.

Thánh giáo Thầy có câu: Nền Ðạo cao thâm là mấy, chí phàm không thấu lý sâu, nếu các con chẳng ra khỏi vòng trần tục thì các con chẳng là luống công theo Thầy kể đã đầy năm.

Ðạo cao thâm, Ðạo cao thâm,

Cao bất cao, thâm bất thâm.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tình thâm một gánh còn dương thế,

Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Thâm là lạm vào, làm khuyết, quá lắm.

Như: Thâm lạm tiền nhà nước, thâm tiền công quỷ của cơ quan, ăn thâm vào vốn.

Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,

Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THÂM ÂN

深 恩

Thâm: Sâu, kín đáo. Ân: Ơn.

Thâm ân là ơn sâu nặng. Như: Mang nặng thâm ân.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Ấy vậy ta mới biết rằng ta sống đây phải nương vào xã hội, có những vật không phải mình làm được đã có kẻ khác làm, mình làm công lấy tiền mua sắm, sự sống có liên quan mật thiết lạ lùng với chung quanh mình, với những bạn đồng chung sống, nên cả quốc dân yêu mến nhau, rồi quyết định rằng: Bao nhiêu người làm việc kia nuôi mình, người ta canh gác giữ trộm cho mình yên ổn, người ta đốn cây tạo nhà cho mình ở, cả thâm ân đó giục ta yêu ái, kính mến coi cả thảy toàn quốc dân là phần tử thân mến của mình.

Phẩm gái chưa ai toàn chữ hiếu,

Nên mình phải vẹn nợ thâm ân.

(Đạo Sử).

Hễ thấy của mẹ cha trước mắt,

Xem của như người, nhắc nghĩa thâm ân.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂM CẢM

深 感

Thâm: Sâu, kín đáo. Cảm: Cảm động trong lòng.

Thâm cảm là cảm động sâu xa trong lòng.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðiều mà Hội Thánh quá thâm cảm là mỗi khi có tiếng kêu gọi của Hội Thánh để thật hành một công tác nào thì toàn thể Chức sắc, nhơn viên và công quả đều sẵn sàng hưởng ứng mãnh liệt, đem hết thiện chí và khả năng để phục vụ cho đến khi công việc hoàn thành mỹ mãn.

Xa xăm bằng hữu càng thâm cảm,

Gần gũi nhơn sanh gắng miệt mài.

(Thơ Thượng Cảnh Thanh).

 

 

THÂM GIAO

深 交

Thâm: Sâu. Giao: Hai bên đi lại hoà hợp với nhau.

Thâm giao ý chỉ hai bên có quan hệ tình cảm thân thiết, gắn bó từ lâu đời với nhau. Như: Bạn thâm giao.

Trong Đạo Sử, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Đạo hiếu bắt buộc kẻ làm con phải kính trọng những người mà cha mẹ đã thâm giao. Thử nghĩ: Người bàng quan còn phải xử trí như thế, huống chi ông bà là ruột thịt của cha mẹ mà chúng ta không tôn kính sao?

Ngoài ra tình thâm giao họ lại còn tình cốt nhục, có một tinh thần tạo ra một đại nghiệp trong Cao Ðài.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÂM HIỂM

深 險

Thâm: Sâu độc và kín đáo. Hiểm: Nghĩa bóng chỉ lòng người sâu độc, khó lường.

Thâm hiểm sâu sắc hiểm độc, ý nói hung ác một cách sâu độc, lòng dạ khó lường.

Như: Tối độc phụ nhân tâm ý nói lòng người đàn bà thâm hiểm khó lường.

Muốn an tâm tỉnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, thì mới khỏi bực tức với những trò đã vì mạng lịnh thiêng liêng phô diễn ở nơi thâm hiểm nặng nề nầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÂM Ý

深 意

Thâm: Sâu, kín đáo. Ý: Sự phát hiện ra của tâm.

Thâm ý là ý kín đáo, không nói ra.

Như: Đọc hết bức thư, không hiểu hết thâm ý của người viết.

Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng, trong sách Giáo Lý có viết: Thâm ý của Ngài (Lão Tử) là cần cho mình giữ được thanh tịnh là phương pháp tối cần để giồi mài cái linh lực Trời phú cho mình được mẫn huệ.

Nếu toàn thể đồng bào hiểu cái thâm ý của nó sẽ ứa lụy cùng Bần Đạo mà chớ.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÂM NIÊN

深 年

Thâm: Sâu, lâu. Niên: Năm.

Thâm niên là chỉ khoảng thời gian làm việc liên tục lâu dài trong cơ quan với cùng một ngành hoạt động. Như: Anh ấy là người thâm niên nhứt trong cơ quan nầy.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Chức sắc mỗi cấp bực đủ 5 năm thâm niên hay hơn nữa, chỉ đem vào sổ cầu thăng với tỷ lệ 4 phần 5 mà thôi.

Ông Bảo Thế là một vị Thời Quân Hiệp Thiên Ðài đã hành sự thâm niên nơi Toà Thánh,...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÂM NHIỄM

深 染

Thâm: Sâu. Nhiễm: Bị thói xấu hay chất độc hại bên ngoài xâm nhập vào.

Thâm nhiễm là tập nhiễm quá sâu, khó có thể thay đổi đặng. Như: Tánh hỗn láo của nó bị thâm nhiễm lúc trẻ.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Nhơn loại đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh đức trong một lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng.

Do lóng nghe dường như một giấc mơ màng,

Bèn xuống suối rửa hai tai, chẳng muốn cho danh lợi tràn thâm nhiễm.

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

THÂM NHẬP

深 入

Thâm: Sâu, trái với cạn. Nhập: Đi vào.

Thâm nhập là đi vào, hoặc ăn sâu vào bên trong.

Về Bất tửu nhục, Thầy có dạy: Hình chất con người vẫn là thú, phải ăn uống mới nuôi sự sống. Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào ngũ tạng lục phủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng, mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng.

Vậy: Gian tham đã thâm nhập vào lòng thì lòng hết đạo đức.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÂM SƠN CÙNG CỐC

深 山 窮 谷

Thâm sơn: Núi sâu. Cùng cốc: Hang cùng.

Thâm sơn cùng cốc là núi sâu hang cùng, ý chỉ chỗ xa xôi hoang vắng, không người lui tới.

Như: Nhiều loại hoa dại nở chỗ thâm sơn cùng cốc mà hương vẫn rất thơm.

Ngài cùng với người đây tớ trung tín tên là Xa Nặc, vượt khỏi Hoàng thành, đi tầm Chơn Lý trong chốn thâm sơn cùng cốc.

(Giáo Lý).

 

 

THÂM TẠ

深 謝

Thâm: Sâu. Tạ: Cám ơn, cảm tạ.

Thâm tạ là cảm tạ rất sâu xa.

Như: Mỗi người chúng ta phải thâm tạ cái ơn đức của ông thầy dạy dỗ cho ta nên người.

Thâm tạ tôn huynh lòng hạ cố,

Lời vàng khuyến miễn đến ngô nhi.

(Thơ Thuần Đức).

Lời quê thâm tạ lão văn nhân,

Chút gọi trong muôn đáp một phần.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÂM TÂM

深 心

Thâm: Sâu, sâu kín. Tâm: Trong lòng.

Thâm tâm là nơi tâm tư sâu kín trong lòng, không thể hiện hay bộc lộ ra ngoài. Như: Thâm tâm cha mẹ là muốn con nên người đạo đức.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cao quý thay lời dạy của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ đã thấy rõ tới trong thâm tâm của các môn đệ mới có những lời đinh sắt chỉ vẽ đường lối cho chúng ta tiến bước để nương mình lên bậc chí Thánh và nắm trọn vào tay cơ giải thoát.

Bấy lâu gà đã lạc lầm,

Nay đà thức tỉnh thâm tâm nhẹ nhàng.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THÂM TÌNH

深 情

Thâm: Sâu, nồng nàn. Tình: Sự yêu mến gắn bó giữa hai người với nhau.

Thâm tình là tình cảm sâu nặng nồng nàn. Như: Cha con là chỗ thâm tình.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Từ đời lập quốc đến giờ, trong phong hoá nhà Nam không thấy lúc nào sơ thất sự phụng tự, nếu đoán chắc là nhờ âm chất của tổ tiên ta biết phụng thờ Ðức Chí Tôn, cái thâm tình ấy còn lưu truyền lại mà ngày hôm nay Ngài mới đến đặng đền bồi ân nghĩa ấy lại có lẽ.

Lựa chọn những gì riêng kiếp trái,

Đớn đau chỉ nặng mối thâm tình.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Lấy khổ cực làm bài thuốc mến,

Dụng đau thương rù quến thâm tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Ơn mẹ cha dầu biết thâm tình,

Tội cha mẹ nài xin thành kiếp phước.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂM THUÝ

深 邃

Thâm: Sâu, sâu kín. Thuý: Sâu xa, tinh thâm.

Thâm thuý là rất sâu sắc về tư tưởng. Như: Phê bình một cách thâm thuý, ý kiến thâm thuý.

Học vấn tinh thâm gọi là thâm thuý.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nay thuyết về vấn đề ấy, Bần Ðạo chỉ nói Ðấng Chí Linh hằng hữu ấy là Ðức Chí Tôn, là Cha cả chơn linh vạn vật mà nhứt là chúng ta đây đã biết với một cách thâm thúy khối linh ấy thế nào hơn hết, biết bao nhiêu Ðấng, biết bao nhiêu người từ xưa đến nay thường tự xét, tự hỏi, vì cớ nào ta có một cái linh tâm cao trọng hơn cả vạn vật?

Nhiệm mầu cảnh trí tay tô điểm,

Thâm thuý thi văn cách phổ trình.

(Thơ Thượng Sanh).

Xa xôi còn giữ tình thâm thuý,

Lần lữa chưa quên nghĩa đậm đà.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÂM TRẦM

深 沈

Thâm: Sâu, kín đáo, sâu sắc. Trầm: Sâu, ngầm, không lộ ra ngoài.

Thâm trầm là sâu sắc kín đáo, không dễ dàng để bộc lộ ra bên ngoài những tình cảm, ý nghĩ của mình.

Như: Bản tính thâm trầm, nghĩ ngợi thâm trầm.

Trong sách Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Kinh Dịch là sách bói toán, định việc kiết hung, nhưng bên trong lại còn ẩn một học lý rất thâm trầm, giải thích lẽ âm dương biến hoá và tạo dựng Vũ trụ và sanh hoá muôn loài.

Thần Tiên ban nó ra bắt từ khoảng tịch mịch không trung; nếu được thanh tịnh thì sẽ tiếp được những bài văn cao siêu lưu loát, ý nghĩa thâm trầm, ẩn vi, mầu nhiệm.

(Thiên Đạo).

 

 

THÂM TRỌNG

深 重

Thâm: Sâu, nồng nàn. Trọng: Nặng.

Thâm trọng là sâu nặng. Như: Công ơn cha mẹ sanh thành và dưỡng dục rất thâm trọng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cái ơn thâm trọng đó là nhờ nơi đức háo sanh của Ðức Phật Mẫu chúng ta mới có hình hài tại thế và nhờ nơi Người ban cho khí Sanh Quang, chúng ta mới có kiếp sống nơi cõi trần nầy để lập thân hành Ðạo hầu diệt tiêu quả nghiệp tiền khiên trở về Thiêng Liêng vị.

Cơ Trời mầu nhiệm đối với Ðời, mà máy Thiên cơ đối với Ðạo, lại càng huyền vi thâm trọng hơn nữa,...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÂM U

深 幽

Thâm: Sâu kín. U: Tối tăm.

Thâm u chỉ nơi sâu kín, tối tăm, chỗ hiểm hóc. Thâm u còn dùng để chỉ Đạo lý u ẩn, huyền bí.

Thí dụ như: Cảnh rừng núi thâm u không thích hợp, vào nơi thâm u cùng cốc.

Có đèn dầu đầy mà thiếu hơi lửa nhen lên, thì cũng phải mờ mịt thâm u, trông chi soi sáng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÂM UYÊN

深 淵

Thâm: Sâu. Uyên: Cái vực, sâu rộng.

1.- Thâm uyên nghĩa đen là cái vực sâu. Như: Cao sơn thâm uyên (núi cao vực sâu).

Thế đại Càn khôn cộng nhứt Thiên,

Nhơn như sa mạc tại thâm uyên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thâm uyên, như chữ “Uyên thâm 淵 深” là nói học thức chất chứa được nhiều, ý chỉ rất sâu về lãnh vực chuyên môn nào đó.

Xem: Uyên thâm.

Dầu triết lý thâm uyên đạo đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÂM VIỄN

深 遠

Thâm: Sâu, kín đáo. sâu sắc. Viễn: Xa.

Thâm viễn là sâu xa. Như: Lý kinh Pháp Bảo Đàn của Lục Tổ rất thâm viễn.

Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Xét như vậy, triết lý hiện đại được coi như một sinh hoạt tinh thần thoát thai từ cái nền văn minh khoa học duy lý đã chấp nhận con người trong yếu tính chủ thể và tự do của nó, nghĩa là vượt lên trên cái thể xác phàm trần của nó, con người còn là một cái gì linh diệu thâm viễn.

Còn Đạo học thâm viễn hơn, cầu giải thoát kiếp luân hồi.

(Giáo Lý).

 

 

THẤM

Thấm là cảm giác hoặc ý thức một cách đầy đủ sâu sắc, sau quá trình dần dần chịu tác dụng.

Như: Rượu đã thấm say, dần dần thấm mệt, đánh quá đã thấm đòn, mùi đau thương đã thấm chơn linh.

Dòng khổ hải hễ thường chìm đắm,

Mùi đau thương đã thấm Chơn linh.

(Kinh Tận Độ).

Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,

Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẤM NGHĨA NẶNG TÌNH

Thấm nghĩa: Tình nghĩa thấm thía. Nặng tình: Tình cảm gắn bó sâu nặng.

Thấm nghĩa nặng tình là tình nghĩa thương yêu, gắn bó nhau rất sâu nặng.

Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,

Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẤM NHUẦN

Thấm: Nước hay chất lỏng đẫm vào, hút vào. Nhuần: Dầm thấm mà được tươi tốt.

Thấm nhuần là hiểu kỹ và chịu tác dụng, ảnh hưởng sâu sắc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Mở rộng trường thi công quả để tiếp đón nhơn tài, Hội Thánh chỉ mong ước quý vị thấm nhuần đạo đức, lập chí tu thân, trước thì lo tròn bổn phận làm người, sau nữa có thể thi thố tài năng giúp đời trợ Ðạo tuỳ theo địa vị hoàn cảnh của mỗi người.

Không đem tài đức nhắc đồng cân,

Mùi đạo hôm mai được thấm nhuần.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THẤM THÍA

Thấm: Cảm giác hoặc ý thức một cách đầy đủ, sâu sắc, sau một quá trình dần dần chịu tác dụng.

Thấm thía là thấm sâu vào tư tưởng hay tình cảm. Như: Nỗi buồn thấm thía vào lòng.

Thấm thía, còn có nghĩa như chữ “Thấm tháp”, là ăn nhằm, đầy đủ. Như: Thế cũng chưa thấm thía vào đâu.

Mai đeo tuyết ngọc biết bao lần,

Tuyết vẽ mày mai thấm thía xuân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tin nhạn xuân đưa trải giấy trời,

Khuôn hồng thấm thía khắp nơi nơi.

(Lục Nương Giáng Bút).

Từ ngày thọ lãnh chức Thiên phong,

Lòng Đạo trau tria thấm thía lòng.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THẤM THOÁT

Thấm thoát chỉ thời gian qua mau. Như: thấm thoát mà đã bốn mươi năm rồi.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ngày qua thấm thoát, nhặt thúc bóng quang âm, xuân mãn kế xuân về, nước non màu cũng vẫn như xưa mà tâm hạnh nhơn tình biết bao thay đổi.

Ðời qua thấm thoát cõi nhơn gian,

Sớm nở hoa kia, chiều vội tàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thấm thoát đời qua cuộc bể dâu,

Ham vui chỉ chác cuộc mua sầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Băng thanh thề trọn với tình lang,

Thấm thoát rừng phong lá trổ vàng.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THẦM

1.- Thầm là kín đáo, không cho người ngoài biết.

Như: Nói thầm. mừng thầm, yêu thầm, cười thầm, tiếc thầm.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ngồi nghĩ thầm cái đức tin gì mà lạ lùng như thế? Giờ phút này Bần Đạo mới hiểu hai vị Đại Tiên ấy, nếu không như thế ấy thì chưa hề Đức Chí Tôn đã giao phó một sứ mạng nặng nề khó khăn, để đảm nhiệm trách vụ tạo dựng gánh vác nền chơn giáo của Ngài nơi mặt thế này.

Đừng cố oán thầm lo gây hoạ,

Đem lòng thù hăm doạ rấp đường.

(Kinh Sám Hối).

Cao chức vợ nhiều ăn lớn đũa,

Thầm lo lự tứ với ưu tam.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đừng thầm trách già hay mực thước,

Ấy chước già nhiều lượt đã đo đời.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thầm là ở trong bóng tối, không đốt đèn, đốt lửa.

Như: Một mình ngồi thầm trong bóng tối, đi thầm quanh bờ ruộng, đi khuya về thầm.

Lại sợ ai ăn trộm ở thầm,

Coi phải phận trao trâm đừng ái ngại.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẦM LẶNG

Thầm: Kín đáo, không biểu lộ ra ngoài cho người biết. Lặng: Im tĩnh, không động.

Thầm lặng là âm thầm lặng lẽ, ít ai biết đến. Như: Người mẹ hy sinh một cách thầm lặng.

Nói về Đức Không Tử, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong quyển Thiên Đạo có viết: Ngài rất ham học, hay suy gẫm việc xưa nay, để tìm chơn lý, Ngài nói:“Mặc nhi thức chi, học nhi bất yếm hối nhơn bất quyện” Nghĩa là thầm lặng nghĩ ngợi để biết, học không chán, dạy người không mỏi. Ta chỉ có ba điều ấy thôi.

Trước bàn Linh vị mơ thầm lặng,

Đốt nén diên hương khấn thở dài.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

THẦM VÁI

Thầm: Kín đáo, không biểu lộ ra ngoài cho người biết. Vái: Chấp hai tay đưa lên trán cầu nguyện.

Thầm vái là cầu nguyện thầm, tức van vái thầm trong miệng, không phát âm to ra.

Như: Gặp vận xấu, làm bất cứ chuyện gì cũng đều thầm vái trong lòng.

Người kia thầm vái cái gì không biết, Đức Chí Tôn lại nói: Thôi phong con chức Giáo Hữu đó.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẨM MỸ

審 美

Thẩm: Xem xét. Mỹ: Đẹp đẽ.

Thẩm mỹ là xem xét để nhận định thế nào là đẹp, thế nào là xấu.

Như: Anh ấy có khiếu thẩm mỹ, Mắt thẩm mỹ.

Chéo áo phất phơ đường thẩm mỹ,

Hồ sen lóng lánh khoé thu ba.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THẨM PHÁN

審 判

Thẩm: Xem xét kỹ càng. Phán: Thẩm phán là xét xử.

Thẩm phán còn có nghĩa là người của Toà án có nhiệm vụ điều tra, hoà giải, truy tố hay xét xử các vụ án.

Như: Trong phiên toà anh ấy ngồi ghế thẩm phán.

Còn hơn Thẩm phán trước Toà,

Tìm sâu vạch lá trẻ già không yên.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THẨM QUYỀN

審 權

Thẩm: Biết rõ tình hình, xét kỹ càng, xử đoán. Quyền: Thế lực định đoạt được mọi sự, sai khiến được mọi người.

Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật. Như: Làm đơn đến cơ quan có thẩm quyền xét định.

Huấn từ Đức Thượng Sanh có câu: Vì đó Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đề cử ông Bảo Thế đảm nhiệm quyền Đầu Sư với thẩm quyền rộng hơn chức Cố vấn để cho công việc Cửu Trùng Đài được tiến triển tới chỗ hoàn hảo.

Pháp Chánh trông Người cân đúng lý,

Công Bình đợi Đấng thẩm quyền xây.

(Thơ Thượng Trí Thanh).

 

 

THẬM

Thậm là rất, lắm. Như: Thậm cấp, thậm thâm, thậm trọng, thậm đa, thái thậm.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Kiêu hãnh thái thậm, vào muốn có người trình, ra muốn có kẻ cúi, khoát nạt, đè ép, biết mình mà chẳng màng biết đến người, hay ỷ sức mà chẳng dòm xem thời thế chẳng thâu phục nhân tâm, chẳng biết dùng khiêm từ mà đãi khách, là những nét của các bậc Vương Bá xưa dùng mà phải tan tành vũ trụ đó.

Thành tâm khả tụng kệ Di Ðà,

Bất vấn trì môn ngữ thậm đa.

(Đạo Sử).

Hễ thọ ơn người thì phải trả cho rồi,

Ơn định vợ nghĩ thôi nên thậm trọng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẬM CHÍ

甚 至

Thậm: Rất, lắm, quá chừng. Chí: Đến.

Thậm chí là cho đến, từ biểu thị mức bao gồm cả những trường hợp không bình thường nêu ra để nhấn mạnh làm nổi bật điều nào đó.

Như: Làm việc bất chấp sức khỏe, thậm chí tới bữa ăn cũng quên phức.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Cũng có kẻ không thế rời cái nhà mình, thậm chí đến không rời cái bà vợ của mình ra được, rồi ngày về Cung Hiệp Thiên Hành hoá khóc lóc thảm thiết, bào chữa lấy mình, nói: Tôi muốn tu lắm song tình đời còn dính dấp hỏi các Ðấng Trọn Lành nơi Cung ấy có cảm xúc chăng?

Thậm chí ở trong vòng thân tộc cùng chung huyết thống, người đời cũng không tránh khỏi lâm vào cảnh cốt nhục tương tàn chỉ vì phân tranh quyền lợi.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THẬM THÂM

甚 深

Thậm: Rất, lắm, quá chừng. Thâm: Sâu.

Thậm thâm là rất sâu xa.

Như: Nghĩa lý của kinh nếu nghiền ngẫm kỹ thì thấy rất vi diệu thậm thâm.

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

THẬM TRỌNG

甚 重

Thậm: Rất, lắm, quá chừng. Trọng: Nặng, quan trọng.

Thậm trọng là rất nặng, hay rất quan trọng.

Như: Anh ấy nhắc cho nhớ những công việc thậm trọng cần phải làm.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Cơ Trời mầu nhiệm đối với Ðời, mà máy Thiên cơ đối với Ðạo, lại càng huyền vi thậm trọng hơn nữa, có lẽ tâm phàm dầu cao kiến đến đâu cũng chưa đạt thấu được.

Hễ thọ ơn người thì phải trả cho rồi,

Ơn định vợ nghĩ thôi nên thậm trọng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂN

1.- Thân là chỉ mình, vóc. Như: Thân người, thân cây, thân danh, thân phận.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ấy vậy, Ðạo là vật rất hữu ích, như giáp hữu ích cho thân các con. Nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lỗ, còn bỏ Ðạo thì các con ở dưới phép tà thần.

Chàng dầu cung Ngọc an ngôi,

Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.

(Kinh Thế Đạo).

Hạnh phùng bình thuỷ thân an tại,

Nhược ngộ phong ba phận đảo huyền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thân là gần, thiết, yêu mến. Như: Bạn thân, thân yêu, thân thiết, tương thân.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tiếng nói thân yêu ấy là chi? Ðó là tiếng nói thiêng liêng, tiếng nói của lương tâm vậy.

Thân nhau từ buổi lọt lòng,

Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau.

(Kinh Thế Đạo).

3.- Thân là tiếng dùng để chỉ cha mẹ.

Như: Phụ thân, mẫu thân, song thân, hai thân còn tại tiền, đôi thân đã già yếu.

Xem thân tuổi hạc càng cao,

E ra tử biệt Thiên Tào định phân.

(Kinh Thế Đạo).

Khi tuyết trở đêm lo đắp đậy,

Thương đôi thân vì đấy mới ra mình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂN ÁI

親 愛

Thân: Gần, bà con họ hàng. Ái: Yêu thương.

Thân ái là yêu mến mật thiết, tức biểu thị tình cảm thắm thiết. Như: Lời chào thân ái.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Xưa đã lắm phen nhơn sanh phải khổ tâm hy sinh vì nền Ðạo, nhưng mà tàn lối ngưỡng trông rồi thì phân vân dời đổi, tang biến thương dồn, rốt cuộc lại mối thân ái của sanh linh chưa vầy hiệp đặng.

Đừng gìn thân ái nghĩa nhân,

Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.

(Kinh Tận Độ).

Rèn tâm khá nắm dây thân ái,

Giữ dạ đừng quên mối cảm hoài.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Cột thân ái cậy lòng đạo đức,

Gầy từ tâm gắng sức ôn nhu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂN BẰNG

親 朋

Thân: Bà con họ hàng. Bằng: Bè bạn.

Thân bằng là tiếng dùng để gọi chung về bà con họ hàng và bè bạn.

Ví dụ như: Thân bằng quyến thuộc.

Nhớ xưa đối với thân bằng,

Khiêm cung hoà nhẫn lòng hằng ở ăn.

(Thơ Thượng Cảnh Thanh).

Xét cảnh thân bằng dâu bể biến,

Chạnh tình hiếu tử muối dưa dâng.

(Thơ Hữu Nghị).

 

 

THÂN BẰNG CỐ HỮU TẾ LỄ

Thân bằng cố hữu tế lễ là những người bà con ngoài thân tộc ruột thịt, tức lân gia, bè bạn tế lễ cho nhau.

Theo quan niệm về đạo lý, người người xưa cho rằng: Nhứt gia hữu sự, bá gia ưu 一 家 有 事, 百 家 憂 nghĩa là một nhà có việc tang thì trăm nhà lo giúp. hoặc lấy câu “thố tử hồ bi 兔 死 狐 悲” để tỏ lòng đau xót cho nhau.

Trong thiên Khúc Lễ, sách Lễ Ký có nói rằng: Lân hữu tang, thung bất xướng, lý hữu tẩn bất hạng ca 鄰 有 喪, 舂 不 唱; 里 有 殯, 不 巷 歌 nghĩa là trong làng có tang sự thì người giã gạo chẳng đặng hò, có tẫn liệm thì ngoài đường không ca hát. Đây là phép cư xử của người biết đạo lý, nhằm bày tỏ chia buồn cùng tang gia hiếu quyến của thân bằng cố hữu trong cơn hữu sự.

Đức Khổng Tử là người rất nhân hậu, hễ thấy ai đau đớn, buồn rầu, khổ sở thì Ngài động lòng thương xót. Chương Thuật Nhi có kể lại rằng: Tử thực ư hữu tang giả chi trắc, vị thường bão dã. Tử ư thị nhật, khốc tắc bất ca. 子 食 於 有 喪 者 之 側, 未 嘗 飽 也. 子 於 是 日, 哭 則 不 歌 nghĩa là Phu Tử ngồi ăn bên cạnh người có tang thì ăn không no. Ngày nào có đi phúng điếu về thì suốt cả ngày không đàn hát.

Châu Trình ngày xưa lấy gương Đức Khổng Phu Tử điếu tang người đời mà dạy rằng: Phàm điếu ư hữu tang giả chi trắc, bất ẩm tửu thực nhục, bất khả cử đàm đại tiếu 凡 弔 於 有 喪 者 之 惻, 不 飲 酒 食 肉, 不 可 舉 談 大 笑 tức là khi đến điếu nhà có tang, chẳng nên uống rượu ăn thịt, chẳng đặng phép đàm luận lớn hoặc cười cợt to tiếng, mà phải tỏ vẻ thương xót như thế mới là lẽ phải vậy.

Việc tang sự là cái cảnh buồn đau, bối rối của người ta, mà sự trợ táng là một nghĩa vụ của mọi người chúng ta. Đã là nghĩa vụ, thì khi người gặp cảnh tang biến, mình có thể giúp được việc gì thì nên giúp, còn nghĩ gì đến sự ăn uống được, trong lúc tang quyến gặp cảnh đau đớn, còn vui đâu mà thù tiếp. Vậy mà bày cổ bàn thịnh soạn để tiệc tùng, say sỉn thì than ôi! đâu còn là ý nghĩa của sự điếu tang để trợ táng nữa!

Tang lễ ngày xưa có tục đua nhau làm đám to tát, linh đình, nhà giàu tổ chức cỗ bàn thịnh soạn để đãi nhiều người tới phúng điếu. Quan niệm làm đám tốn tiền nhiều chừng nào, có nhiều khách ăn uống chừng nào thì được tiếng khen chừng nấy. Câu tục ngữ “Nhất nhân tử, vạn nhân túy 一 人 死 萬 人 醉” tức một người chết, muôn người say là có ý mỉa mai cái hủ tục nhơn gian khi có người chết mà tổ chức ăn uống linh đình. Vì tục tranh nhau làm đám ma lớn mà có người mang công mắc nợ, cố đất cầm vườn để trả nợ miệng thế gian và lấy thể diện với người đời, thực là một việc làm phi lý hết sức.

Riêng tang lễ trong Đạo Cao Đài, về thể pháp, là thể hiện tấm ân tình với người quá cố bằng cách đến chia buồn và tương trợ. Có hai cách tương trợ:

- Một là trợ táng bằng cách đến điếu tang.

- Hai là tỏ lòng trọng kính với người quá vãng nên sắm lễ vật để cúng tế. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh đình Mỹ Lộc giáng cơ dạy rằng: “Tế tự là tại sao? Phàm có lòng tin mới cúng. Cúng là lấy lễ đó, gọi là kỉnh trọng, chớ Thần Thánh nào ăn của ai. Bởi thế nên ai dùng vật thực mà cúng, tốt hơn nên dùng trái cây”. Như vậy, khi sắm lễ vật để cúng tế, chúng ta là người có Đạo thì nên sắm hoa quả, rượu hay trà bánh, thiết nghĩ phẩm vật như bột ngọt, đường cát, dầu ăn... không phải lễ phẩm để cúng tế.

Về bí pháp, thì người tín đồ đến để hộ niệm cho người quá cố. Vì thế, người đến hộ niệm không nên nhậu nhẹt, say sưa mà buộc phải hết sức tinh tấn để thành tâm cầu rỗi cho vong linh. Sự thành tâm đó mới có năng lực cảm ứng với các Đấng Thiêng Liêng mà hộ trì cho Chơn linh được dễ dàng siêu thoát.

Đám tang ở các tỉnh đạo địa phương thường trong tang quyến có người không theo Đạo mà theo phong tục ngoài đời, có người lại theo Tôn giáo khác, nên việc thực hiện theo nghi lễ Đạo Cao Đài khó được thuần nhứt. Ví như nghi phụ tế, tại Châu Thành Thánh Địa, tất cả người đến tế lễ đều chờ đợi vào giờ phụ tế. Trong khi tại các địa phương, người có mâm tế thường cúng tế riêng, thậm chí có nhiều đội tế là thông gia của tang quyến còn giành nhau để được tế trước. Và khi họ cúng tế đều có khởi đánh trống chầu, một nghi thức mà Đạo Cao Đài không có, bởi trống chầu đối với Đạo là Ngọc Hoàng Sấm hay Lôi Âm Cổ. Lại nữa, có đám, sui gia không có Đạo, mang đến một con heo quay con để cúng tế, trong khi nội quy của Tôn giáo buộc tang gia phải thực hành đám toàn chay.

Cũng có đám, người con là một hương chức của làng, mà người cha hoặc người mẹ có Đạo chết, ban hội hương của Đình mang cặp lọng đến đặt hai bên Bàn vong người mất, điều này phạm nặng vào nghi thức của Đạo. Vì thế, Các vị Chức sắc Cai Quản Họ Đạo và các Ban nghi lễ ở địa phương đó thường phải hết sức khéo léo lắm mới không mếch lòng với bà con tang quyến hay ban hội hương trong làng xóm.

Phải hành lễ Đức Chí Tôn, Cáo Từ tổ, Tế điện, đọc Ai chúc (vợ tế chồng, con tế cha...), nếu có thân bằng cố hữu tế lễ, thì làm nghi châm chước.

(Quan Hôn Tang Lễ).

 

 

THÂN BÈO

Thân: Phần chính mang hoa lá của cơ thể thực vật. Bèo: Loài thực vật sống trôi nổi trên mặt nước ở sông hồ.

Thân bèo là thân cây bèo, thường đem ví với tấm thân của người giang hồ lãng bạc, hoặc nói đến thân phận của người đàn bà con gái linh đinh như cánh bèo trên mặt nước, không biết về đâu.

Giữ gìn tay lái tay chèo,

Giông to gió giật thân bèo sóng xao.

(Lục Nương Giáng Bút).

Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,

Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Mưa nắng bao nhiêu cuộc dãi dầu,

Thân bèo chẳng khứng dựa vào đâu.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÂN CẬN

親 近

Thân: Thương yêu, gần gũi. Cận: Gần.

Thân cận là thân thiết gần gũi. Như: Bạn bè thân cận.

Nói về phẩm Giáo Sư, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về luật lệ làm hại nhơn sanh, hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy. Chúng nó phải thân cận với mỗi môn đệ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ, nghe à! Chư môn đệ tuân mạng.

Năng thân cận những trang hiền ngõ,

Trọng tôn ty tỏ rõ phẩm người lành.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂN CÔI

Hay “Thân côi quạnh”.

Thân: Bản thân, chỉ về mình. Côi: Mồ côi, một mình.

Thân côi, như chữ “Thân côi quạnh”, như chữ “Cô thân 孤 身”, tức là tấm thân lẻ loi, côi cúc một mình, ý chỉ mồ côi không cha, không mẹ, không người thân thuộc.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Các con cũng như Thầy, Thầy hồi nhớ lại khi mới mở Đạo, một thân côi quạnh bị cường quyền áp bức. Đạo lúc đó còn đương trong buổi phôi thai như trứng mỏng kia. Đời lại bị lệ thuộc. Dân nghèo đồng bào khổ não, cảnh tượng chết trước mắt, chết lần, chết mòn, làm cho tinh thần của Bần Đạo thống khổ biết bao nhiêu.

Xem: Cô thân.

Ơn cúc dục cù lao mang nặng,

Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa.

(Kinh Thế Đạo).

Chàng dầu hưởng Thiên Tào quyền phép,

Đỡ đường trần chật hẹp thân côi.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THÂN CUỘI

Thân: Chỉ cơ thể con người. Cuội: Theo truyền thuyết, là một người đàn ông ngồi dưới gốc cây đa, trên cung trăng.

Thân Cuội là thân của anh Cuội, chỉ mặt trăng.

Tương truyền trên Cung trăng có chị Hằng Nga đẹp đẽ và có anh cuội già ngồi dưới gốc cây đa.

Canh khuya, phòng vắng trơ thân Cuội,

Cổng kín, tường cao, ánh chị Hằng.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÂN DANH

身 名

Thân: Thân mình, sự nghiệp. Danh: Tiếng tăm.

Thân danh là thân thế và danh giá của con người. Như: Thân danh là ông quan mà không giữ thể thống.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Còn những chiến sĩ đương xông pha nơi chiến địa buổi hôm nay cũng thế, ta chỉ biết danh tánh của họ một phần ít còn quên lại là phần nhiều, bởi cớ họ phải bị thân danh mai một.

Lánh nơi tranh đấu giựt giành,

Nghiệt oan khỏi vướng thân danh vẹn phần.

(Lục Nương Giáng Bút).

Mấy kẻ xét mình tâm tự cải,

Thân danh bể khổ mặc buông trôi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đóng chặt cửa giữ nguyên trinh tiết,

Trọng thân danh bền nét đào yêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂN GOÁ

Thân: Tấm thân, chỉ cái riêng tư của mình. Goá: Có chồng chết hay vợ chết.

Thân goá có nghĩa là tấm thân chịu goá bụa, chỉ người đàn bà có chồng đã chết, còn gọi là quả phụ.

Một thân goá tang y lại mặc,

Chống gậy lê nhúc nhắc đưa linh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂN GIỐNG CÀN KHÔN

Thân: Thân mình. Giống: Hình như, in như. Càn khôn: Trời đất, vũ trụ.

Thân giống Càn khôn là thân thể con người là một tiểu Càn khôn.

Con người là một Vũ trụ nhỏ, nên thân người cũng gồm đủ Thái cực, Âm dương, Tam bửu, Ngũ hành và các lẽ mầu nhiệm của Trời Đất, vì vậy mà sách Lễ Ký nói rằng: Nhơn giả kỳ vi Thiên địa chi đức, Âm dương chi giao, Quỷ thần chi hội, Ngũ hành chi tú khí dã 人 者 其 為 天 地 之 德, 陰 陽 之 交, 鬼 神 之 會, 五 行 之 秀 氣 也, nghĩa là người ta là đức Trời Đất, chỗ giao cảm khí Âm dương, chỗ hội tụ Quỷ thần, và những tú khí Ngũ hành.

Trời đất (Càn khôn) do Âm Dương sinh hoá thì con người cũng do Âm Dương phối hợp mà thành.

Hễ Trời có tam bửu là Nhựt Nguyệt Tinh, đất có tam bửu là Thuỷ Hoả Phong, thì con người cũng có tam bửu là Tinh Khí Thần.

Hễ Trời có Ngũ hành là Kim Mộc Thuỷ hoả Thổ, Đất có Ngũ phương là Đông Tây Nam Bắc Trung ương,thì người cũng có Ngũ tạng là Tâm Can Tỳ Phế Thận. Nếu không có ngũ hành và ngũ phương thì không có Càn khôn Thế giới, còn nếu không có ngũ tạng thì cũng không có nhơn loại.

Tóm lại, con người cũng giống như trời đất, cho nên mới được gọi là một Tiểu Thiên Địa.

Đại Từ Phụ từ bi tạo hoá,

Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THÂN HẦU PHẬN THIẾP

Thân hầu: Đem thân làm người hầu. Phận thiếp: Chịu phận làm kẻ thiếp.

Thân hầu phận thiếp ý nói người đàn bà con gái chịu làm thân phận hầu thiếp, tức làm vợ bé, vợ mọn.

Dạy cho chán thân hầu phận thiếp,

Kiếp chia chồng là kiếp vô duyên.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂN HÌNH

身 形

Thân: Thân thể, thân mình. Hình: Dung mạo, cái bày ra bên ngoài.

Thân hình là thân thể con người về mặt hình dáng. Như: Thân hình ốm nhom, tiều tuỵ.

Thánh giáo Thầy có dạy: Ðạo đức cần trau nơi Tâm là chỗ chẳng ai thấy được. Rèn trau cho thuần tâm mỹ tánh, rồi mới lần đến bề ngoài, trọn hết cả ngoài trong, thì chừng ấy thân hình tâm trí chắc khư, nào ai chuyển lay cho được.

Tỷ như một đám bù nhìn,

Cân đai một vẻ thân hình một nơi.

(Ngụ Đời).

Phàm trí gái thì là hẹp độ,

Ghen điên cuồng ra khổ thân hình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂN HOÀ LÀM MỘT

Thân: Thân mình, thân thể. Hoà làm một: Hoà hợp với nhau như là có một.

Thân hoà làm một là nói vợ chồng thương yêu nhau, hoà hợp nhau dù là hai người nhưng coi như là một.

Bộ Dịch Trình truyện viết: Sự tương cảm của muôn vật ở thế gian, không gì bằng nam nữ. Nam nữ tuy là hai cá thể nhưng khi kết hợp nhau, vì tình yêu vì bổn phận trở nên một thân vậy. Sách Ấu Học nói: Nam Nữ hữu tương cảm chi nghĩa; phu phụ vi nhất thể chi thân 男 女 有 相 感 之 義, 夫 婦 為 一 體 之 親, nghĩa là nam nữ có cái nghĩa cảm kích nhau, vợ chồng là tình thân một cá thể.

Niềm ân ái thân hoà làm một,

Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương.

(Kinh Thế Đạo).

Bạn trăm tuổi thân hoà làm một,

Dầu sang hèn xấu tốt cũng duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂN HỒ TÂM HỚN

身 胡 心 漢

Thân Hồ: Tấm thân thì đang ở Hồ, tức phương bắc Trung Quốc. Tâm Hớn: Lòng thì ở Hớn bang.

Thân Hồ tâm Hớn nói tích Vương Tường, tức Chiêu Quân bị cống Hồ, một nước thuộc rợ phương bắc. Như vậy, thân nàng ở Hồ, mà tâm nàng lại hướng về nhà Hớn ở Trung Nguyên, ý chỉ nhớ quê hương, tổ quốc.

Xem: Chiêu Quân.

Thiếp nay cũng giống như nàng,

Thân Hồ tâm Hớn đôi đàng khó nguyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂN HỮU

親 友

Thân: Gần gũi thân yêu, bà con họ hàng. Hữu: Bạn.

Thân hữu là bạn thân. Như: Tình thân hữu.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðời sống của người hành Ðạo là một đời học tập không ngừng. Không phải vì mãn khoá học mà các em sanh viên chấm dứt hẳn sự học, người ta chẳng những học nơi nhà trường mà còn phải học nơi kinh sách của Thánh Hiền, học theo gương sáng của đấng Vĩ nhân, học với bậc cao thấp của thế thái nhân tình, học theo đức tính ôn nhu của người thân hữu.

Bần Đạo xin nghiêng mình chào các nước lân bang đã có tình thân hữu cho các vị lãnh sự Sứ thần đến dự cuộc lễ này...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÂN MẬT

親 密

Thân: Thương yêu, gần gũi. Mật: Gần, khít.

Thân mật là thân cận và mật thiết. Như: Bầu không khí thân mật, bữa cơm thân mật.

Thánh giáo Lục Nương Diêu Trì Cung có câu: Hèn lâu, Em ao ước sao đặng hội hiệp cùng mấy chị cho thân mật tâm tình, nhưng không phương chi đặng.

Khi tối sớm lạnh nồng có kẻ,

Thân mật con đặng dễ giữ con.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂN MÒN GỐI MỎI

Thân mòn: Thân xác già nua, mòn mỏi. Gối mỏi: Đi đứng đầu gối mỏi mệt.

Thân mòn gối mỏi ý nói thân thể già nua yếu ớt đi đứng khó khăn mỏi mệt.

Xem: Thân mòn gối run.

Hay đã sợ thân mòn gối mỏi,

Mến ngày xuân mà tuổi không chờ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂN MÒN GỐI RUN

Hay “Thân mòn gối mỏi”.

Thân mòn: Thân xác già nua, mòn mỏi. Gối run: Đầu gối yếu ớt, run rẩy.

Thân mòn gối run, là một thành ngữ, ý nói người già cả suy mòn sức lực, đi đứng run rẩy.

Mẹ lo trong lúc còn non,

Vợ con lo lúc thân mòn gối run.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂN NGHIỆP

身 業

Thân: Thân thể. Nghiệp: Từ Phật giáo, chỉ con đường đi từ nhân tới quả.

Theo Phật giáo, có ba loại nghiệp, gọi là Tam nghiệp, do thân thể, lời nói, ý nghĩ sinh ra.

Thân nghiệp là nghiệp do bởi thân thể con người hành động có tác ý mà sinh ra.

Thân nghiệp, Ý nghiệp, Khẩu nghiệp gọi là tam nghiệp, làm cho con người luân hồi từ kiếp này đến kiếp khác.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÂN PHÀM

身 凡

Thân: Thân thể. Phàm: Phàm tục.

Thân phàm là thân thể phàm tục, tức là thân xác do cha mẹ nơi phàm trần sinh ra.

Như: Tấm thân phàm nầy nhiều bệnh tật.

Thánh giáo Chí Tôn dạy: Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn thần tinh khiết.

Cao lương mỹ vị hại thân phàm,

Hỏi thử thế đời mấy món tham?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chi sờn máu thịt mảnh thân phàm,

Danh lợi mồi câu nhử tánh tham.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Cõi Thọ anh nương theo huệ bóng,

Thân phàm em trẻ chịu chia bầy.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THÂN PHẬN

身 分

Thân: Thân mình. Phận: Số phận.

Thân phận tức là chỉ cái bản thân và cái số phận của mỗi con người. Như: Thân phận tôi đòi.

Thánh Ngôn có câu: Phận chưa xong phận, thân chẳng nên thân, thân phận lo tính chưa rồi, còn mong mỏi chi dụng mình vào đường đạo đức để cho có ích chung nữa đặng!

Dậy đục lóng trong trách lũ chài,

Ðã an thân phận phá vì ai.

(Đạo Sử).

Liễu bồ thân phận mỏng như tơ,

Giữ giá sạch trong tiết đáng thờ.

(Bát Nương Giáng Bút).

Mấy mươi năm giữ tròn thân phận,

Tòng cúc vườn xưa thích chí Đào.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÂN PHỤ

親 父

Thân: Mình, hay chỉ cha hay mẹ. Phụ: Cha.

Thân phụ là cha ruột của mình. Như: Thân phụ chị là một người tài đức.

Nói về tiểu sử Đức Khổng Tử, Thuyết Đạo Thượng Sanh có viết: Thân phụ Ngài là Thúc Lương Ngột, làm quan võ, lấy người vợ trước sanh được chín người con gái, người vợ lẽ sanh được một trai là Mạnh Bì bị tật què chơn.

Thân phụ quá thân thương đã mất,

Chẳng màng chi gẫm thật lạ kỳ.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THÂN QUYẾN

親 眷

Thân: Người có quan hệ họ hàng, ruột thịt nhau. Quyến: Thân thuộc.

Thân quyến, như chữ “Thân bằng quyến thuộc 親 朋 眷 屬”, là chỉ bà con anh em, họ hàng với nhau, nói chung.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Tại quả kiếp chưa thường đủ, nhơn sanh phải chết phải trả món nợ còn đang đòi, trả bằng máu, bằng con số sanh mạng. Vì cớ mới có sự chướng ngại lạ lùng vừa nói. Mà nợ ấy đòi bằng sanh mạng, bằng máu tức là đòi cốt nhục của mấy bà đó chớ, không con cũng cháu hoặc bà con thân quyến.

Ngoài ra, người ta chúc lành cho thân quyến, bạn bè và đi đến Chùa, Miếu, Ðền thờ để cầu phúc cho gia tộc...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÂN SANH

1.-  Thân : Mình, hay chỉ cha mẹ. Sanh (sinh ): Sanh ra.

Thân sanh, như chữ “Thân sinh 親 生”, là người sinh ra mình, ý chỉ cha mẹ ruột.

Như: Hai đấng thân sanh nay đã quá thất tuần.

Xem: Thân sinh.

Tròn năm luống phận cần cù,

Không nuôi thê tử, không bù thân sanh.

(Ngụ Đời).

2.- Thân : Cái thân, thân mình. Sanh (sinh ): Sống, sự sống.

Thân sanh là thân sống, ý chỉ cái thân mà mình đang sống, đang tồn tại.

Có nhiều khi không có của họ đem cả thân sanh họ đặng đền trả nữa.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÂN SINH

親 生

Thân: Mình, của mình. Sinh: Sanh ra.

Thân sinh là người sanh ra mình, ý chỉ cha mẹ ruột.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Có phải cha và mẹ chúng ta tức nhiên thân sinh ta khi sanh ta ra chỉ cầu có một điều là chúng ta phải biết thương yêu mà thôi.

Cúi lạy thân sinh thứ lỗi con,

Âm dương tuy cách, hiếu tâm còn.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

THÂN SƠ

親 疏

Thân: Gần gũi. Sơ: Không thân thiết.

Thân sơ là gần và xa, chỉ về quan hệ thân thiết hay xa lạ của người ta đối với nhau.

Nói về mục đích của Lễ, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết trong quyển Thiên Đạo: Định cái lẽ phải, cái tình thân sơ và trật tự cho phân minh, thí dụ như định ngôi thứ và cách ăn mặc cho có trật tự trong xã hội.

Ngoài ra Lễ còn có hiệu lực định lẽ phải trái, tình thân sơ và trật tự trên dưới cho phân minh.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÂN TẰM

Thân: Mảnh thân. Tằm: Một loại ấu trùng của bướm, ăn lá dâu nhả ra tơ.

Thân tằm là mảnh thân của con tằm, ý muốn nói vì nợ ơn dâu nên thân tằm phải nhả tơ cho đến chết.

Lý Thường Ẩn, nhà thơ đời Đường có câu: Xuân tàm đáo tử ty phương tận 春 蠶 到 死 絲 方 盡, nghĩa là thân tằm đến chết cũng còn kéo tơ.

Chúng ta phục vụ cho Đạo, ví như thân tằm đã chịu ơn dâu thì phải tận tuỵ với mối tơ...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÂN TÂM

身 心

Thân: Thân hình, Tâm: Cái tâm, lòng dạ.

Thân tâm là thân thể và tâm tư, ý chỉ cái thể xác và cái tinh thần.

Thành ngữ có câu “Thân tâm thường lạc 身 心 常 樂” là lời chúc thể xác và tinh thần luôn vui khoẻ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Các nhân quả ấy xen lộn hoặc nhập lại thành cái thân tâm và cảnh giới của con người để sắp đặt cuộc thành bại, hư nên, hoạ phước của mỗi cá nhân một cách công bình mực thước.

Độ đời khổ hạnh bền công cán,

Dìu Đạo thân tâm gắng chuốt mài.

(Thơ Thượng Sanh).

Mở mang trí huệ trừ tam độc,

Giải thoát thân tâm dứt não phiền.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THÂN TÍN

親 信

Thân: Thương yêu, gần gũi. Tín: Đức tin của người biết trọng lời hứa và biết tin nhau.

Thân tín là chỉ người thân cận, gần gũi và đáng tin cậy của mình.

Như: Anh là người bạn thân tín của tôi.

Người trên không sẳn lòng nâng đỡ kẻ dưới cho được thành công vì kẻ đó không phải thuộc hạ thân tín của mình...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÂN TỘC

親 族

Thân: Gần gũi, bà con họ hàng. Tộc: Giòng họ.

Thân tộc dùng để chỉ những người bà con thân thuộc gần trong dòng họ. Như: Bà con thân tộc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Nơi trường đời người ta tranh giành nhau từ miếng ăn từ manh áo. Hơn nhau một lời nói là có sanh ra ấu ó tưng bừng, có khi đi đến kết cuộc thảm khốc. Thậm chí ở trong vòng thân tộc cùng chung huyết thống, người đời cũng không tránh khỏi lâm vào cảnh cốt nhục tương tàn chỉ vì phân tranh quyền lợi.

Lại còn có tánh tình hiểm độc,

Xúi phân chia thân tộc ruột rà.

(Kinh Sám Hối).

Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,

Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂN THỂ

身 體

Thân: Mình, cơ thể con người về mặt xác thể. Thể: Mình của con người.

Thân thể là hình thể của thân mình, nói một cách khác là cơ thể con người. Như: Rèn luyện thân thể.

Dạy về giới tửu, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Vậy thì óc là nguồn cội của Khí, mà óc cũng bị huyết vận động vô chừng làm cho đến đỗi loạn tán đi, thì chơn thần thế nào đặng an tịnh điều khiển, thân thể phải ra ngây dại, trở lại chất thú hình, mất phẩm nhơn loại rồi, còn mong chi đặng phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Lo danh vọng hao mòn thân thể,

Ham làm giàu của để bằng non.

(Kinh Sám Hối).

Chữ rằng huyết mạch đồng môn,

Riêng chưng thân thể, tâm hồn cũng con.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Ghen sợ chồng thân thể hao mòn,

Ghen sợ bịnh không tròn đạo cả.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂN THÍCH

親 戚

Thân: Tiếng chỉ cha mẹ. Thích: Họ ngoại.

Thân thích là họ hàng nội ngoại, tức chỉ người có quan hệ bà con gần.

Như: Bà con thân thích.

Phải biết thân thích cùng cả nhơn vật tức là tìm nguyên do của Vạn Linh cùng Chí Linh.

(Phương Luyện Kỷ).

 

 

THÂN THIỆN

親 善

Thân: Thương yêu, gần gũi. Thiện: Thiện cảm, tức cảm tình tốt.

Thân thiện là thân với người thiện.

Thân thiện còn có nghĩa thân ái và có thiện cảm.

Như: Quan hệ thân thiện giữa hai người.

Trong Đạo Luật Năm Mậu Dần có câu: Thiên Phong Chức Sắc phải vào Hạnh Đường học thêm đạo lý, luật Đạo, luật Đời đặng dễ bề thân thiện cùng Đời mà độ Đời cho biết Đạo. Phải giữ phẩm giá của mình cho đặng thanh cao đạo đức.

Cùng nhau thắt chặt tình thân thiện,

Đưa chiếc thuyền sen lánh bến trần.

(Thơ Thượng Sanh).

Trúc mai tươi thắm màu thân thiện,

Cầm sắt hoà chung nhịp xướng tuỳ.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÂN THIẾT

親 切

Thân: Thương yêu, gần gũi. Thiết: Thân mật, gần.

Thân thiết là thân cận và mật thiết, tức là gần gũi thương yêu nhau.

Như: Bạn bè thân thiết, Giao lưu qua lại càng ngày càng thân thiết.

Khi đầu ấp cùng khi tay gối,

Thân thiết nhau sớm tối quen hơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Trong bàn đầy đủ người thân thiết,

Ngoài phố thưa dần tiếng nhạc lơi.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THÂN TRĂM TUỔI

Thân: Hình thể, thân xác. Trăm tuổi: Người sống được một trăm năm.

Thân trăm tuổi, bởi câu “Bách tuế vi kỳ 百 歲 為 期”, nghĩa là kỳ hạn của thân người là trăm năm.

Trong Kinh Lễ có câu: Nhân thọ dĩ bách tuế vi kỳ 人 壽 以 百 歲 為 期, nghĩa là đời sống của con người lấy trăm tuổi làm kỳ hạn.

Thân trăm tuổi dùng để chỉ đời người.

Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,

Dạy lẫn nhau cho đặng chữ hoà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lo thế nhớ hồi lo phận trước,

Thân trăm tuổi chẳng trọn như nhiên.

(Đạo Sử).

 

 

THẦN

1.- Thần là bậc Thần, hoặc vị Thần. Như: Thờ Thần, tế Thần, nghinh rước Thần.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy đã có sai chư Thần mách bảo với con đã lâu, trí thiêng liêng đem đàng dắt bước con đặng độ dẫn sanh linh cho kịp thì giờ trong buổi chung cuộc của con.

Có cơ có thế có tinh thần,

Từ đấy Thần Tiên dễ đặng gần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Một nét vạy tà Thần Thánh chép,

Rèn lòng trong sạch thoát mê tân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cõi thế tìm nơi đạo đức vào,

Lòng thành Thần Thánh chứng công lao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thần là phần vô hình sáng láng ở trong con người. Như: Thần hồn, sợ thất thần, tâm thần mê loạn.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trên đường đời con người vì bị văn minh vật chất lôi cuốn làm cho điên đảo thần hồn, mịt mờ trí nảo nên không mấy ai còn giữ được đức chí thành.

Vè thử Thầy cho con đặng phép,

Làm sao cho khuất bóng Thần ngươi.

(Đạo Sử).

Hễ thân mình thiểu khí loạn thần,

Thọ khí bẩm nhâm thần con dại dột.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thần là linh diệu, thiêng liêng, mầu nhiệm.

Như: Thần chú, thần thông, thuốc uống vào công hiệu như thần.

Lần theo bước rạng non Thần đến,

Chớ luyến phồn hoa lụy đến nơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thần thông trói chặt Ma vương quái,

Dìu bước vạn linh đến cảnh nhàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

4.- Thần là người bề tôi, trong quan hệ với vua. Như: Tôi thần, đình thần, trung thần.

Trong Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Còn trong công cuộc định quốc, Bần Đạo nói có hai vị trung thần mà Hoàng Triều đã đặt họ là “Trung quân” tức là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.

Dân thì biết phận làm dân,

Chúa cho đáng chúa, đình thần đáng quan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Lại e lỗi đạo nhơn luân,

Dở dang gia pháp, vương thần loạn ngôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

5.- Thần là buổi sớm, không dùng một mình.

Như: Thần hôn, có nghĩa là sớm tối, nói bổn phận của người con phải sớm thăm tối viếng.

Xem: Thần hôn.

Cái đạo thần hôn còn được dịp,

Mâm cơm bát nước sớm trưa mời.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

THẦN AN

神 安

Thần: Chơn linh, một trong Tam bửu của con người: Tinh, Khí, Thần. An: Yên ổn.

Tam bửu của con người gồm: Tinh là thể xác, Khí là Chơn thần, Thần là Linh hồn.

Thần an là nói linh hồn được yên ổn.

Nguyện cho khí tịnh thần an,

Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THẦN BÍ

神 秘

Thần: Linh diệu, thiêng liêng, mầu nhiệm. Bí: Giấu kín, không để cho ai biết.

Thần bí là mầu nhiệm và huyền bí, thuộc về thần linh, không thể hiểu theo trí phàm được.

Như: Câu chuyện nghe đầy sự thần bí.

Tịnh Tâm Đài lặng im thần bí,

Hiệp Thiên Đài linh khí tâm thông.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THẦN BIẾN

神 變

Thần: Thiêng liêng, mầu nhiệm, huyền diệu. Biến: Thay đổi, biến hoá.

Thần biến là sự biến hoá rất thiêng liêng mầu nhiệm, tức biến hoá như thần.

Nhị ngoạt thập ngũ, phân tánh giáng sanh.

Nhứt thân ức vạn, diệu huyền thần biến.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THẦN BÚT

神 筆

Thần: Thiêng liêng, mầu nhiệm. Bút: Cây viết.

Thần bút là cây bút thần kỳ, hay cây bút huyền diệu, thiêng liêng.

Đối với đạo Cao Đài, Thần bút là chỉ cây bút của các Đấng thiêng liêng sử dụng để giáng đàn dạy Đạo cho chúng sanh.

Nương Thần bút cứu an lê thứ,

Nắm từ bi gìn giữ trong ngoài.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

THẦN CƠ

神 乩

Thần: Thiêng liêng, mầu nhiệm. (kê): dụng cụ dùng để thông công với các Đấng vô hình.

Thần cơ là cây cơ Thần, cơ Thiêng liêng, ở đây chỉ cây cơ của Đức Cao Thượng Phẩm.

Trong Đạo Cao Đài, các vị chức sắc Hiệp Thiên Đài như Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân là những vị Đồng tử do Đức Chí Tôn chọn lựa và phong phẩm.

Theo Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm, là cây cơ phong Thánh, cơ lập Thánh, hay cơ Truyền giáo, khi Ngài đã mất thì đã đem theo, nên giờ nầy nếu cần cơ phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Ðạo nâng loan có Ngài trợ lực, chớ cây cơ phong Thánh hiển nhiên giờ phút nầy không còn tồn tại nữa.

Ngọn bút Thần cơ, Trời nỡ đoạn,

Nắm xương Thánh chất lấp chôn vùi.

(Thơ Hộ Pháp).

Tiếng cầm ấp lỗ đương êm ái,

Ngọn bút Thần cơ đã đoạn phân.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THẦN CƯ TẠI NHÃN

神 居 在 眼

Thần: Một trong Tam bửu của con người: Tinh, Khí, Thần. Cư tại Nhãn: Ở trong con mắt.

Thần cư tại Nhãn là cái Thần của con người hiện ra nơi con mắt. Nhìn vào đôi mắt, ta đoán biết Thần của người đó mạnh hay yếu.

Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo. Con hiểu “Thần cư tại Nhãn”.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẦN CHÚ

神 咒

Thần: Thiêng liêng, huyền diệu, mầu nhiệm. Chú: Câu mật niệm có tác dụng huyền diệu.

Thần chú, hay “Chân ngôn 真 言”, còn gọi là “Mật chú 密 咒”, “Linh ngữ 靈 語” do Phạn ngữ là Mantra, hay Dharani (Thường thì Dharani dài hơn Mantra), có nghĩa là tổng trì, tức là sự nắm giữ các pháp.

Chân ngôn hay Thần chú là những lời bí mật của chư Phật không nói rõ ra bằng lời. Những câu Thần chú là một chuổi âm vận chứa đựng năng lực huyền bí, nên khi trì tụng có thể diệt trừ khổ ách, tiêu tai giải nạn, hộ trì tâm linh một cách kỳ diệu, không thể nào nghĩ bàn được.

Thần chú là những âm thanh do chư Phật, Bồ Tát nói ra trong tâm giác ngộ, nên khi trì tụng, chúng ta cũng có thể tương ưng với tâm ấy của các Đấng.

Thần chú là những âm thanh bí mật được phát sinh trong lúc ngồi Thiền, những mật ngữ này có hiệu lực rất linh nghiệm.

Thần chú tuy là một chuổi âm thanh nhưng trong đó hàm chứa những rung động tâm linh, nhằm phô diễn cái thực tánh nằm ngoài các đối đãi nhị nguyên. nên khi trì niệm một cách thành tâm sẽ có một uy lực khơi dậy những sức mạnh tiềm ẩn trong nội tâm.

Thần chú đóng vai trò đặc biệt và quan trọng trong Kim Cương thừa của Phật giáo Tây Tạng, là một phương tiện để hộ trì, bảo vệ tâm hầu tiến đến giải thoát.

Theo Phật giáo Việt Nam, các Đạo sư thấy không cần thiết phải giải thích ý nghĩa của những câu Thần chú hay mật chú, vì nghĩ rằng Thần chú không phải là cái để tìm hiểu, mà là để trụ tâm trì tụng, hầu có sự cảm ứng với chư Phật và Bồ Tát.

Tóm lại, Vãng sanh Thần chú là một bài chú gồm những mật ngữ để cầu nguyện A Di Đà Phật cứu độ cho Chơn linh người chết được vãng sanh về Cõi Cực Lạc.

Bày âm phù thần chú cho người lầm tưởng mình có huyền diệu, đó là bước đầu vào nẻo dị đoan mê tín.

(Thiên Đạo).

 

 

THẦN CHUNG

1.- Thần : Thiêng liêng, huyền diệu, mầu nhiệm. Chung : Chuông.

Thần chung là tiếng chuông thiêng liêng huyền diệu.

Ở đây, Thần chung dùng để chỉ chuông u minh, vì tiếng chuông có thể vang xa hướng đến cõi phong đô mà cảnh tỉnh các tội hồn.

Thần chung thinh hướng phóng phong đô,

Địa Tạng khai môn phóng xá cô.

(Kệ Chuông).

2.- Thần : Buổi sáng. Chung : Chuông.

Thần chung là tiếng chuông buổi sáng.

Trong các chùa thường có treo câu đối: Mộ cổ thần chung cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách 暮 鼓 晨 鐘 警 醒 愛 河 名 利 客, nghĩa là trống chiều chuông sớm thức tỉnh khách trần danh lợi chốn sông yêu.

Mộ cổ giác mê danh lợi khách,

Thần chung cảnh tỉnh mộng mê nhân.

(Thiên Vân).

 

 

THẦN DÂN

臣 民

Thần: Người bề tôi, trong quan hệ với nhà vua. Dân: Nhân dân, dân chúng.

Thần dân là tiếng gọi những người dân trong một nước theo chế độ quân chủ.

Trong Phương Châm Hành Đạo, Đức Quyền Giáo Tông có viết: Vì người tu niệm, đối với bực quan viên chức sắc, vẫn có hai phương diện: một là phương diện người giữ đạo đối với hàng trưởng thượng; hai là phương diện bực thần dân đối với hàng quan lại.

Nợ nước hai vai nặng gánh gồng,

Thần dân phận sự phải lo xong.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hễ biết mình trọng trách thần dân,

Thì phải biết ân cần bề giáo dục.

(Phương Tu Đại Đạo).

Nô nức thần dân vui nếp sống,

Mừng xuân dường ấy đáng nên mừng.

(Thơ Hiến Đạo).

 

 

THẦN ĐỒNG

神 童

Thần: Tài trí phi thường. Đồng: Đứa bé.

Thần đồng là một đứa bé đặc biệt thông minh, tài trí vượt hơn tuổi đời. Thần đồng rất hiếm có trong đời.

Như: Con chị ấy là một thần đồng về âm nhạc.

Nói về Jésus Christ, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có viết: Trong năm 12 tuổi là năm kéo cột đó, Jésus vô Ðền Thờ, buổi nọ chơn linh Ðức Christna giáng hạ, các vị Giáo Chủ trong Ðạo toàn là những bác sĩ nghe tiếng đồn danh thần đồng của Chúa Jésus nên khi vô Ðền Thờ, họ xúm nhau lại vấn Ðạo.

Còn những bực thượng trí và thần đồng vẫn ở vào trường hợp nầy.

(Thiên Đạo).

 

 

THẦN ĐỒNG VẤN KHỔNG TỬ

神 童 問 孔 子

Thần Đồng vấn Khổng Tử là sự tích thần đồng Hạng Thác hỏi Đức Khổng Tử nhiều điều mà Ngài không trả lời được, phải chịu phục Hạng Thác làm thầy.

Truyện kể rằng Đức Khổng Phu Tử đi qua nước Trần gặp Hạng Thác là một thần đồng đang cặm cụi lấy cát đắp một cái thành nhỏ, thấy Ngài ngồi xe đi qua mà không tránh. Khổng Phu Tử bèn hỏi: Cậu không tránh cho xe tôi đi sai? Cậu bé thản nhiên đáp: Xưa nay xe tránh thành, chớ có bao giờ thành tránh xe.

Đức Khổng Tử nghe cậu bé trả lời hay quá, bèn xuống xe cùng cậu bé đàm luận. Hạng Thác đặt nhiều điều hỏi Khổng Tử, khiến ông chịu thua, phải nhận “Hậu sanh khả uý 後 生 可 畏”, nghĩa là kẻ sinh sau đáng sợ thật.

Nơi hành lang Báo Ân Từ, Đức Hộ Pháp có cho vẽ một khuôn hình lấy tích “Thần đồng vấn Khổng Tử”.

Xem: Hạng Thác.

Thần đồng vấn thuật dùng biện sĩ,

Khổng Tử than khả uý hậu sanh.

(Báo Ân Từ).

 

 

THẦN GIAO

神 交

Thần: Thần Thánh. Giao: Giao thiệp.

Thần giao là tinh thần và tình cảm giữa hai người ở xa nhau mà có thể thông cảm, nhận hiểu được nhau.

Thần giao cũng có thể hiểu là nhờ Thần Thánh hay nhờ mối thiêng liêng xui khiến gặp gỡ, rồi kết làm anh em với nhau.

Thần giao cách cảm là sự giáo tiếp với nhau giữa hai hay nhiều người cách xa nhau bằng tư tưởng.

Do tích Nguyễn Tịch, Kê Khang và Sơn Đào là ba người hiền trong Trúc Lâm đời nhà Tấn. Ba người đều nổi danh là bậc hiền tài, đều nghe tiếng nhau mà chưa gặp mặt. Một hôm, thình lình gặp mặt, hỏi ra mới biết, kết làm bạn “Thần giao”.

Hết mong gặp bạn thi hào,

Gặp chăng cậy mối Thần giao nối tình.

(Thơ Hoàn Nguyên).

Âm Dương đôi nẻo đồng chung ý,

Duyên bút thần giao chẳng lẽ phiền.

(Thơ Thuần Khiết).

 

 

THẦN HAO

神 耗

Thần: Tinh thần. Hao: Mòn, kém, vơi, tức bị giảm dần từng ít một.

Thần hao là tinh thần hao tổn, ý nói người lo lắng hay làm việc về trí óc quá sức khiến tinh thần bị giảm sút.

Như: Thần hao khí tổn.

Phương chi ràng buộc hình hài, thần hao trí mệt cả ngày, rốt lại còn chi tráng kiện mà xa lo rộng nghĩ?

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẦN HOÀNG

神 隍

Thần: Vị Thần. Hoàng: Cái rãnh đào chung quanh thành, tức hào lũy.

Thần Hoàng 神 隍, như chữ “Thành Hoàng 城 隍”, là vị Thần cai quản một khu vực hay một làng.

Thần Hoàng nói tắt của Thần Hoàng Bổn Cảnh.

Xem: Thần Hoàng Bổn Cảnh.

Rằng ngôi địa chủ lo sanh hoạt,

Ấy phẩm Thần Hoàng định loạn an.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THẦN HOÀNG BỔN CẢNH

神 隍 本 境

Thần: Bậc Thần, vị Thần. Hoàng: Cái rãnh đào chung quanh thành, tức hào lũy. Bổn (bản): Thuộc về mình. Cảnh: Cõi, địa phương.

Thần Hoàng Bổn Cảnh là vị Thần cai quản về phần thiêng liêng làng của mình đang ở.

Theo phong tục Việt Nam thời xưa, mỗi làng trong nước, vua đều có phong sắc cho vị Thần cai quản ở các địa phương, gọi là “Thành Hoàng Bổn Cảnh 城 隍 本 境”.

Thầy từ bi toàn thâu chư chúng sanh, đặng Thầy cho phép Thần Hoàng Bổn Cảnh giáng cơ mà dạy dân trong phần trách nhiệm của nó.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẦN HÔN

晨 昏

Thần: Buổi sáng. Hôn: Buổi tối.

Thần hôn là buổi sáng và buổi tối, nói đạo làm con thờ cha mẹ phải sớm thăm tối viếng.

Do trong Lễ Ký có chép: Phàm vi nhân tử chi lễ, đông ôn nhi hạ sảnh, hôn định nhi thần tỉnh 凡 為 人 子 之 禮, 冬 溫 而 夏 凊, 昏 定 而 晨 省, nghĩa là phàm bổn phận của người làm con, mùa đông lo cho cha mẹ ấm, mùa hè lo cho cha mẹ mát, buổi tối lo cho cha mẹ yên tĩnh nằm, buổi sớm hỏi han cha mẹ ngủ dậy có khoẻ mạnh không?

Thần hôn chẳng dám trễ giờ,

Nhơn khi có việc tình cờ đi xa.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Triêu mộ quây quần bên gối Mẹ,

Thần hôn hội họp dưới chân Thầy.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THẦN LINH

神 靈

Thần: Một đấng thiêng liêng làm chủ một vật như sông, núi, sấm, gió... Thần còn là những người có công trạng với nhơn dân, sau khi chết được vua phong làm thần. Linh: Linh hiển, thiêng liêng.

Thần linh chỉ chung các vị thần nơi cõi thiêng liêng.

Như: Cầu xin các Đấng Thần linh phù hộ che chở cho mọi người.

Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,

Giữ Chơn hồn xa lánh xác trần.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THẦN LINH HỌC

神 靈 學

Thần: Thiêng liêng. Linh: Huyền diệu, mầu nhiệm. Học: Khoa học về một lĩnh vực nào đó.

Thần Linh Học là một khoa học nghiên cứu về cách thông công giữa con người hữu hình với các Ðấng vô hình, để chứng minh rằng có sự hiện hữu của linh hồn, của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và của Thượng Ðế.

Con người khi chết đi, không phải là hết, chỉ hoại về thể xác, nhưng vẫn còn có linh hồn. Linh hồn xuất ra khỏi thể xác để chuyển qua sống trong thế giới vô hình. Chính vì vậy mới có quan niệm vô hình điều khiển thế giới hữu hình và môn Thần Linh Học xuất hiện.

Thần Linh Học Thế giới khởi đầu xuất hiện ở tại New York nước Mỹ năm 1847, gây được nhiều sự chú ý.

Năm 1852, một Hội Nghị Thần Linh Học đầu tiên được tổ chức tại Cleveland.

Năm 1854, số người theo Thần Linh Học ở Mỹ đến 3 triệu người, trong đó có hơn 1000 đồng tử.

Từ năm 1852 đã có một phái đoàn Thần Linh Học từ Mỹ sang truyền bá nơi nước Anh, gây được một phong trào Thần Linh Học mạnh mẽ ở nước Anh.

Năm 1853, một nhóm Thần Linh Học khác sang nước Pháp và Ðức, cũng gây được phong trào Thần Linh Học đáng kể ở 2 nước nầy. Hai Ông Chevreul và Faraday ở Hàn Lâm Viện Pháp cầm đầu một nhóm đả phá dữ dội Thần Linh Học, nhưng không kết quả. Bà Giradin, một đồng tử Thần Linh Học Pháp giúp Văn hào Victor Hugo thông công được các Ðấng Vô hình trong lúc Victor Hugo đang tỵ nạn chánh trị tại đảo Jersey thuộc Anh. Những bài Thánh giáo được Victor Hugo tập hợp thành quyển sách nhan đề: Les tables tournantes de Jersey chez Victor Hugo.

Giáo sư Charles Richets tại Ðại học Sorbonne Paris, sau nhiều năm nghiên cứu Thần Linh Học, cho xuất bản quyển sách: Traité de Métaphysique.

Năm 1853, Allan Kardec lập thành học thuyết Thần Linh Học với 2 tác phẩm: Le livre des Esprits, và Le livre des médiums. Nhờ đó, Thần Linh Học được truyền bá khắp thế giới.

Chỉ sau nhiều cuộc khảo cứu và sưu tầm về Thần Linh Học mà Thầy đem truyền nền Ðạo lý mới mẻ nầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẦN LỰC

神 力

Thần: Tinh thần, Thần Thánh. Lực: Sức.

Thần lực là sức mạnh về tinh thần.

Thần lực còn có thể hiểu là sức mạnh kỳ diệu, sức mạnh như Thần, nghĩa rộng chỉ sức lực phi thường.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Ái là yêu, ố là ghét. Hễ thuận tình trìu mến, khoái sự ái ân thì mê thì thích mà yêu. Còn nghịch chỗ muốn ham, trái lòng thèm muốn, lại đố, lại ganh mà ghét. Bị vậy tinh huyết, thần lực mới chóng giảm suy.

Đức tin chở núi như chơi.

Mới hay thần lực muôn người khó đương.

(Thơ Thuần Đức).

Lướt dòng cậy có nhiều thần lực,

Quá hải nương nhờ bóng tự do.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

THẦN MINH

神 明

Thần: Vị Thần. Minh: Sáng suốt.

1.- Thần minh, như chữ Thần Thánh, chỉ vị Thần chơn chánh, sáng suốt.

Đông Nhạc Thánh Đế có dạy: Thiên địa vô tư, Thần minh ám sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, bất vị thất lễ nhi giáng hoạ 天 地 無 私 神 明 暗 察, 不 為 祭 享 而 降 福, 不 為 失 禮 而 降 禍, nghĩa là Trời đất không tư vị, Thần minh thường soi xét. Không phải vì tế lễ mà ban cho phúc, không phải vì thất lễ mà giáng cho tai hoạ.

Sao bằng ở phải buổi đầu,

Thần minh chánh trực có đâu tư vì.

(Kinh Sám Hối).

Chờ xem Thiên luật không tư kỷ,

Mới rõ Thần minh chẳng vị tình.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Thần minh còn dùng để chỉ về tinh thần sáng suốt của con người.

Như: Tâm là thần minh của con người.

Nó là một vật thần minh,

Ðừng cho lục dục, thất tình lấp chôn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THẦN NÔNG

神 農

Thần: Bậc Thần, Thiêng liêng, tiếng tôn xưng. Nông: Thuộc về làm ruộng.

Theo sách Thượng Thư Đại Truyện thì Thần Nông là một vị vua thứ ba trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân 燧 人, Phục Hy 伏 羲, và Thần Nông 神 農.

Thần Nông họ Khương, hiệu là Viêm Đế 炎 帝, là vị vua thời Thượng cổ, trị vì sau vua Phục Hy. Ngài có công dạy dân đẽo gỗ chế ra cày bừa để làm ruộng, hợp chợ búa để dân trao đổi hoá vật, nếm các thứ cây cỏ để làm vị thuốc cho dân trị bệnh.

Đến thời vua Thần Nông con người mới biết định cư, sống hợp quần theo nông nghiệp. Ngài có công lớn trong việc tìm các loại ngũ cốc, khoai củ để làm lương thực cho dân chúng thời bấy giờ, và mãi mãi sau này. Vua truyền được 8 đời, cộng 500 năm.

Xem: Viêm Đế.

Công Thần Nông hoá dân buổi trước,

Dạy khôn ngoan học chước canh điền.

(Kinh Thế Đạo).

Chí Ðồng đắc kiến diện Thần Nông,

Bác ái tương tâm khấn bạch hồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẦN NỮ

神 女

Thần: Vị Thần. Nữ: Phái nữ.

Thần nữ là vị nữ Thần nơi núi Vu Sơn, có nhiệm vụ sớm làm mây, tối làm mưa mà vua Sở Tương Vương nhân đi chơi ở đầm Vân Mộng, đã gặp trong giấc chiêm bao.

Trong lời tựa bài phú “Cao Đường” của Tống Ngọc có tả vị Thần nữ được chép như sau: Thần Nữ là một người thượng cổ không có người đàn bà như thế, đời nay cũng chưa từng thấy. Phong tư như ngọc côi, thái độ như ngọc vĩ, không thể tán dương xuể được. Người ấy lúc mới lại, sáng như mặt trời mới mọc soi vào nóc nhà. Người ấy lúc khẽ bước vào, trong như vừng minh nguyệt thư thư ánh sáng. Trong chốc lát sắc đẹp nẩy nở ra tứ phía. Xinh tươi như hoa, đầm ấm như ngọc. Đủ cả năm sắc khó tả ra được. Nhìn kỹ thấy mắt choáng ra. Người ấy ăn mặc đẹp quá, lụa là gấm vóc cực văn hoa. Quần áo đẹp quá, vẻ lại mầu nhiệm làm chói lọi cả mọi nơi. Nhắc cái áo thêu, khoác cái áo trên. Áo dày không ngắn, áo mỏng không dài. Bước đi thong thả... chói lọi cả trên điện đài. Hốt nhiên khác sắc mặt, đẹp như rồng cuốn theo đám mây lượn trên không... Đầu xoa mướt mướt nước hoa lan, mặt sức mùi thơm hoa đỗ nhược. Tính ôn hoà vừa mức, đáng đến lượt hầu bên vua.

Xem: Vu Sơn.

Sớm trông mây, tối trông mưa,

Phưởng phất non Vu hồn Thần Nữ.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

Chẳng mơ Thần nữ chốn Vu san,

Tri kỷ, tri âm nghĩa dịu dàng.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THẦN NHƯỜNG QUỶ SỢ

Thần nhường: Thần Thánh còn kính nhường. Quỷ sợ: Ma quỷ còn khiếp sợ.

Thần nhường quỷ sợ ý nói oai lực hiển hách khiến quỷ Thần phải khiếp sợ và nhường thua.

Như: Oai lực của Đức Quan Thánh Đế Quân khiến Thần nhường quỷ sợ.

Oai bốn hướng Thần nhường quỷ sợ,

Đức ba giềng tế trợ thương sanh.

(Xưng Tụng Công Đức).

 

 

THẦN PHẨM

神 品

Thần: Vị Thần, bậc Thần. Phẩm: Ngôi thứ, phẩm vị.

Thần phẩm là phẩm vị Thần.

Theo giáo lý Cao Đài, Thần phẩm được chia làm ba bậc: Địa Thần, Nhơn Thần và Thiên Thần.

Đạo hữu giữ tròn luật Đạo, trai giới đủ mười ngày được đối phẩm Địa Thần.

Chức việc Bàn Trị sự đối phẩm Nhơn Thần.

Lễ Sanh đối phẩm Thiên Thần.

Cung Thiềm gắng bước cho mau,

Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THẦN PHÙ

神 浮

Thần Phù là một địa danh ở Việt Nam, đó là ngọn núi và cửa biển ở xã Thiết Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Từ núi Tam Điệp, tức đèo Ba Dội, kéo dài ba bốn muơi dặm, bên trong có một con sông nhỏ chia những ngọn núi cao làm hai dãy: Một dãy về phía nam là núi Thần Phù, một dãy về phía bắc từ làng Mỹ Quan đến làng Trị Nội. Trên có hai động là động Từ Thức và động Bạch Ất. Đi ngang qua Thần Phù là ra đến cửa biển, thật là một nơi nước biếc non xanh trông rất đẹp đẽ.

Nguyễn Trung Ngạn đời Trần có làm câu thơ: Nhất thuỷ bạch tòng thiên thượng lạc, Quần sơn thanh đáo hải môn không 一 水 白 從 天 上 落, 群 山 青 到 海 門 空, nghĩa là một dòng nước trắng từ trên trời rớt xuống, các ngọn núi xanh đi đến biển mới thôi.

Ca dao Việt Nam lại có câu: Linh đinh qua cửa Thần Phù, Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

Trải hang Nghê qua cửa Thần Phù,

Dựa bãi Hạc tới chùa Non Nước.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

THẦN SẮC

神 色

Thần: Phần vô hình thiêng liêng sáng láng ở trong con người. Sắc: Những biểu hiện trên mặt con người phản ảnh tình trạng sức khoẻ hay trạng thái tâm lý, tình cảm.

Thần sắc là thần và sắc, biểu hiện trạng thái sức khoẻ hoặc tinh thần của con người.

Như: Mặt anh ta tái mét, nhìn không còn thần sắc.

Biết đời bào ảnh gìn thần sắc,

Biết kiếp vô thường giữ khí tinh.

(Cao Tiếp Đạo).

 

 

THẦN SẦU QUỶ KHỐC

神 愁 鬼 哭

Thần sầu: Thần thấy phải sầu thảm. Quỷ khốc: Quỷ gặp cũng khóc lóc.

Thần sầu quỷ khốc ý chỉ cảnh tượng đau thương, hoặc việc làm khác thường, khiến Thần thấy cũng phải buồn rầu, quỷ xem cũng phải khóc lóc.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Loài người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu thần sầu quỷ khóc, chiến tranh không ngớt, là do nơi lòng tham lam tiến triển văn minh, cơ khí tối tân như là bom nguyên tử để giết người.

Nạn tương sát Thần sầu quỷ khóc,

Nạn thuỷ tai động đất lan tràn.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

 

 

THẦN SIÊU THÁNH QUÁT

神 超 聖 适

Thần Thánh: Ví bút pháp như thần thánh, nói văn chương tuyệt bút. Siêu Quát: Tức Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát, là hai nhà văn thơ đời nhà Nguyễn.

Người đương thời nhà Nguyễn ca tụng hai ông Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát là “Thần Siêu Thánh Quát”, hoặc vua Tự Đức tặng cho hai câu thi: Văn như Siêu Quát vô tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường 文 如 超 适 無 前 漢, 詩 到 從 綏 失 盛 唐, nghĩa là văn như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bát Quát không có ở đời Tiền Hán, thơ đến Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương thì mất thời thịnh Đường.

Thần Siêu Thánh Quát hồi sinh đặng,

Cũng phải tần ngần trước vận sê.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THẦN TIÊN CHẲNG XA

Thần Tiên: Hai bậc phẩm nơi cõi thiêng liêng. Chẳng xa: Ý nói rất gần với người thế.

Thần Tiên là những Đấng Thiêng liêng sống trên cõi Thiên, nhưng chẳng xa mấy đối với tâm người tín ngưỡng.

Thật vậy, Phật Giáo có câu: Phật tại Tây Phương tâm bất viễn 佛 在 西 方 心 不 遠, nghĩa là Phật ở cõi Tây Phương nhưng lòng của con người không xa mấy, ý nói Phật ở phương Tây nhưng lòng của chúng sanh không xa Phật, chỉ cần lòng thành thì Phật cảm ứng.

Thần Tiên vốn chẳng xa chi,

Có lòng chiêm ngưỡng nhứt thì giáng linh.

(Kinh Cầu Cơ).

 

 

THẦN TỈNH

晨 省

Thần: Buổi sáng. Tỉnh: Viếng thăm.

Thần tỉnh là viếng thăm cha mẹ vào buổi sáng xem có bình yên mạnh khoẻ không.

Trong Kinh Lễ có dạy: Bổn phận làm con sáng viếng cha mẹ coi có mạnh khoẻ không, tối thăm cha mẹ xem có vui vẻ không. Do đó mới có câu “Thần tỉnh mộ khang 晨 省 暮 康” có nghĩa là sớm thăm tối viếng.

Xem: Thần tỉnh mộ khang.

Viếng thăm hôm sớm song thân,

Trọn câu thần tỉnh ân cần cung Tiên.

(Kinh Thế Đạo).

Những tưởng mộ khang tua vẹn trả,

Nào dè thần tỉnh chẳng còn mong.

(Thơ Ngọc Nhượn Thanh).

Đạo thần tỉnh lòng vui nhứt tịch,

Hiếu hạnh là mục đích Báo Ân.

(Báo Ân Từ).

 

 

THẦN TỈNH MỘ KHANG

晨 省 暮 康

Thần tỉnh: Viếng cha mẹ vào buổi sáng. Mộ khang: Thăm song thân vào buổi tối.

Thần tỉnh mộ khang là viếng cha mẹ vào buổi sáng xem có ngủ ngon không và thăm song thân vào buổi tối xem có mạnh khoẻ không.

Do trong Lễ Ký có chép: Phàm vi nhân tử chi lễ, đông ôn nhi hạ sảnh, hôn định nhi thần tỉnh 凡 為 人 子 之 禮, 冬 溫 而 夏 凊, 昏 定 而 晨 省, nghĩa là phàm bổn phận của người làm con, mùa đông lo cho cha mẹ ấm, mùa hè lo cho cha mẹ mát, buổi tối lo cho cha mẹ yên tĩnh nằm, buổi sớm hỏi han cha mẹ ngủ dậy có khoẻ mạnh không?

Thần tỉnh mộ khang phần báo bổ,

Kỵ cơm kỷ niệm sự đo lường.

(Thơ Thành Toại).

 

 

THẦN TÚ

神 秀

Thần Tú là vị Đại sư cùng thời với Lục Tổ Huệ Năng, học trò của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.

Thần Tú, vốn họ Lý, người Uất Thị; tỉnh Hà Nam. Thuở thiếu niên, Sư học Nho, làu thông kinh sử, sau mới theo Đạo Phật, thọ cụ túc giới tại chùa Thiên Cung, Lạc Dương. Từ đó, Sư chuyên nghiên cứu kinh Luận Tam thừa. Đến 50 tuổi, Sư tìm đến thọ giáo với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, một Tổ Sư của thiền tông đang khai sáng pháp thiền ở Song Phong Sơn, huyện Hoàng Mai, Ký Châu. Sáu năm cần khổ, ngày đêm Sư chuyên tâm bửa củi, gánh nước làm các việc cực nhọc để cầu pháp, được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn rất quý trọng, suy cử làm đệ tử thượng thủ.

Khi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chọn người nối pháp, dặn dò chúng mỗi người làm một bài kệ, trình kiến giải thiền học sâu cạn của mình. Cả chúng đều nhường Thần Tú, vì cho rằng trí thức cả chúng đều do ông dạy. Thần Tú không thể chối từ, ông làm bài kệ rằng:

 

身 是 菩 提 樹

 

Thân thị bồ đề thọ

 

心 如 明 鏡 臺

 

Tâm như minh kính đài

 

時 時 勤 拂 拭

 

Thời thời cần phất thức

 

勿 使 惹 塵 埃

 

Vật sử nhạ trần ai

Nghĩa là:

Thân là cây Bồ đề

Tâm là đài gương sáng

Giờ giờ siêng lau chùi

Chớ để dính bụi trần

Bài kệ của Sư Thần Tú có ý nghĩa hay được Ngũ Tổ khen rằng: “Y theo bài kệ này tu hành, nhất định có lợi ích lớn”, mà không nói Thần Tú đã đắc pháp yếu thiền.

Sau đó có cư sĩ Huệ Năng ở phòng giả gạo làm một bài kệ, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn cho rằng đây hẳn là người lãnh hội thấu triệt được thiền. Cuối cùng đem y bát trao cho Huệ Năng, bảo Huệ Năng về phương Nam đợi cơ hội xiển dương thiền pháp.

Khi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát cho Lục Tổ Huệ Năng để phát triển Phật giáo ở miền Nam với pháp môn Đốn ngộ, thì Đại sư Thần Tú đem Phật giáo truyền bá lên phương Bắc để phổ biến pháp môn Tiệm ngộ.

Xem: Lục Tổ.

Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp luật buộc mối đạo Thiền.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẦN TƯỚNG

神 將

Thần: Chỉ bậc Thần. Tướng: Quan võ cầm đầu một Đạo quân.

Thần tướng chỉ các vị Thần làm Tướng trấn nhậm ở một địa phương.

Thần tướng còn dùng để chỉ Tướng Trời, tức tướng tá nơi cõi Trời.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tuy với mắt thường thấy cơ quan binh bị như thế nầy, chớ trong đó có đủ thiên binh, thần tướng vì mục đích bảo tồn thiên hạ mà biến ra vậy.

Thiên cung: Tinh Tú, Thánh, Tiên,

Địa kỳ: Thần Tướng đàn tiền giáng lâm.

(Xưng Tụng Công Đức).

Tứ hướng trung ương hầu Ngũ nhạc,

Thiên binh thần tướng đến ngàn trùng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THẦN THÁNH

神 聖

Thần: Vị Thần. Thánh: Bậc Thánh.

Theo nghĩa thông thường, Thần Thánh là những bậc có tài năng, có công nghiệp với đời, có đức hạnh, sau khi mất trở nên linh thiêng, hay được vạn linh sùng kính.

Theo triết lý đạo Cao Đài, Thần Thánh là hai quả vị thấp trong bốn bậc dành cho người tu hành sau khi đắc quả, đó là Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Xin Thần, Thánh ruổi dong cỡi hạc,

Xuống phàm trần vội gác xe tiên.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Lời sai khiến lòng đừng sanh nạnh,

Lịnh mẹ cha Thần Thánh cũng không bì.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẦN THOẠI

神 話

Thần: Vị Thần, thiêng liêng huyền diệu. Thoại: Nói chuyện, câu chuyện.

Thần thoại là những câu chuyện về Thần Tiên phản ảnh những khát vọng của cong người thời xưa nhằm khắc phục thiên nhiên, hoặc nhằm xây dựng con người trở nên Thánh thiện.

Những truyện Thần thoại Việt Nam nói về nguồn gốc dân tộc được kể trong dân gian như: Con rồng cháu Tiên, Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Phù Đổng Thiên Vương.

Ngài nói Đức Phật Thích Ca là người cũng như ta, có xác thân như ta, sống chết như ta, chớ không phải là người ở trong thần thoại.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẦN THÔNG

神 通

Thần: Thiêng liêng, mầu nhiệm, không lường được. Thông: Suốt.

Thần thông là nói người sáng suốt có khả năng thông đạt hết mọi sự.

Người tu hành đắc quả vị Tiên, Phật thì tự nhiên đạt được thần thông. Còn kẻ luyện được thần thông nhưng không qua sự tu hành, không tạo công đức thì không có quả vị.

Theo Phật giáo, những người tu đắc Thần thông là đạt được những quyền năng siêu nhiên trong sáu lãnh vực, gọi “Lục thông” hay sáu thắng trí. Đó là: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Thần túc thông, Túc mạng thông, Lậu tận thông.

Thần thông trói chặt Ma vương quái,

Dìu bước vạn linh đến cảnh nhàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Buồn vì chưa đạt phép thần thông,

Dụng thế phân thân hiệp đại đồng.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THẦN THÔNG BIẾN HOÁ

神 通 變 化

Thần thông: Có khả năng hiểu thấu mọi sự. Biến hoá: Có hoá không, không hoá có.

Thần thông biến hoá tức là do tu luyện đạt được thần thông, có pháp thuật biến hoá rất huyền diệu.

Như: Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đạt được Thần thông biến hoá, nên Ngài ứng hiện nhiều hoá thân để cứu độ chúng sanh.

Cung Tận Thức thần thông biến hoá,

Phổ Đà Sơn giải quả Từ Hàng.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THẦN THÔNG NHƠN

Hay “Thần thông nhân”.

Thần thông: Sáng suốt có thể thông đạt mọi sự. Nhơn (nhân): Người.

Thần thông nhơn, như chữ “Thần thông nhân 神 通 人”, là hạng người sáng suốt, có thể thông đạt được tất cả, là sắc dân nối tiếp nhơn loại hiệp nay, sau khi con người trên quả địa cầu nầy vì hung bạo mà trải qua một cuộc tận thế, chỉ còn sống sót lại một ít người tài ba đạo đức, gọi là Thần thông nhơn để lập đời Thượng nguơn Thánh đức của Tứ chuyển.

Theo Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp, Ngài cho biết: Qua sắc dân da trắng, tinh thần vi chủ tới sắc dân Thần Thông Nhơn, qua khỏi dân Thần Thông nhơn, thì có sắc dân Chí Linh, lúc đó người là Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế.

Ðạo khai thiên địa tuần huờn,

Bước Tứ chuyển Thần thông nhơn lập đời.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

THẦN THỨC

神 識

Thần: Tinh thần, thiêng liêng huyền diệu. Thức: Nhận biết, sự hiểu biết qua trí não.

Thần thức là chỉ cái phần vô hình của con người rất mầu nhiệm, linh hoạt.

Theo những nhà luyện đạo, khi nhập thiền có thể đưa Thần thức lên các cảnh giới. Thần thức cũng gọi là thức, tâm thức, hồn, thần hồn.

Theo Phật giáo Tiểu thừa, mỗi con người có một thần thức, và chính cái Thần thức nầy, do nghiệp lực thúc đẩy luân chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác, trong vòng sinh tử luân hồi.

Như vậy, Thần thức theo Phật, là cái phần vô hình có sự hiểu biết, khôn ngoan, sáng suốt để điều khiển thể xác. Chính cái Thần thức nầy Nho giáo gọi là Tâm, Thần minh, còn ở đạo Thiên Chúa gọi là Hồn (Âme).

Nhơn hồn, cũng gọi Giác hồn, Thần thức, A lại Da thức, Thượng trí thức, Tâm thức, Nghiệp thức.

(Thiên Đạo).

 

 

THẦN TRÍ

神 智

Thần: Thần thánh, tinh thần. Trí: Trí não, lý trí.

Thần trí là tinh thần và trí não. Thần trí còn có thể hiểu lý trí như thần.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trước khi giảng, muốn nói rõ hơn Bần Ðạo mời tất cả đi theo Bần Ðạo dùng phép hồi quang phản chiếu đem thần trí ra ngoài thể xác đặng quan sát lại mình và hành tàng của thế nhân ra sao, mới quyết định điều hay lẽ dở của nó.

Giáo lý Chân như đồng bản tính,

Chủ trung thần trí hiệp chung màu.

(Gia Tô Giáo Chủ).

Lũ quỷ đến nhìn thần trí loạn,

Loài ma xem thấy tánh tâm say.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THẦN OAI

Hay “Thần uy”.

Thần: Thần thánh. Oai (uy): Vẻ tôn nghiêm làm cho người ta phải kính sợ.

Thần oai, như chữ “Thần uy 神 威”, là oai linh như bậc Thần Thánh.

Thần oai chẳng nể, mang tai hại,

Thánh giáo không kiêng gánh hoạ sâu.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THẦN VỊ

神 位

Thần: Bậc Thần, hàng Thần. Vị: Ngôi vị.

Thần vị là ngôi vị hàng Thần, tức là phẩm chót của Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp có nói: Dầu Thần vị, Thánh vị, hay Tiên vị, Phật vị cũng phải đoạt được cấp bằng Trọn lành mới vào Cung Hiệp Thiên Hành Hoá.

Tức nhiên cũng đoạt đặng đức tánh của chư Thần mà làm Thần vị của mình.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẦN XỈ

唇 齒

Thần: Cái môi. Xỉ: Răng.

Thần xỉ là môi và răng.

Môi và răng là hai bộ phận cần phải phối hợp nhau, nếu không thì “Môi hở răng lạnh”, ý chỉ phải nương tựa vào nhau để được tồn tại.

Vì vậy, người xưa quan niệm hai nước lân bang giao tiếp nhau thế như môi và răng, đừng để môi hở răng lạnh.

Muốn trăm năm nghĩa kết duyên hài,

Phải hai bạn giao hoà thần xỉ.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THẪN THỜ

Thẫn thờ là ở trạng thái như đờ ra, mất hết vẻ linh hoạt, nhanh nhẹn.

Như: Anh ta ngồi thẫn thờ như người mất hồn, đôi mắt thẫn thờ nhìn theo bóng người đi.

Đau đớn bấy thẫn thờ đau đớn,

Xót xa nhiều rờn rợn xót xa.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THẬN

Thận là dè dặt, không để cho sơ suất. Như: Cẩn thận, thận trọng, thận độc.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy dạy: Thầy lại nhắc cho con nhớ rằng, trong Thập Nhị Thời Quân đó đều có sắp đặt. Nếu không phải mấy đứa phò loan của Thầy đã định thì cơ bút do nơi khác mà ra đều là không phải lời của Thầy nói. Con phải đề phòng, cẩn thận, nghe à!

Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,

Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẬN CHUNG

慎 終

Thận: Cẩn thận, kỹ lưỡng. Chung: Hết, chỉ chết.

Thận chung là cẩn thận với người chết, hay thận trọng trong tang lễ, ý nói làm đám tang hết lòng kính cẩn, chân thành.

Thận chung truy viễn hầu tông tổ,

Thanh khí ứng cầu thỉnh bạn thân.

(Thơ Quốc Tuấn).

 

 

THẬN ĐỘC

慎 獨

Thận: Thận trọng, tức là kỹ lưỡng không nên xem thường. Độc: Một mình.

Thận độc là cần nên dè dặt, cẩn thận khi ở một mình.

Sách Đại Học có câu: Cố quân tử tất thận kỳ độc dã 故 君 子 必 慎 其 獨 也, cho nên người quân tử phải thận trọng khi ở một mình vậy.

Thận độc ý muốn nói không nên nghĩ bậy, làm bậy, tuy ở một mình nhưng có người hay biết, hoặc trời soi xét.

Ngồi xét nét đến câu “thận độc”,

Làm suy tư tới chữ “hại nhân”.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THẬN TRỌNG

慎 重

Thận: Cẩn thận, không nên sơ suất. Trọng: Không khinh suất.

Thận trọng là cẩn thận, không cẩu thả, tức có đắng đo, suy nghĩ cẩn thận trong hành động, để tránh sai sót.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Các con ví biết Ðạo là quý thì phải ân cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu, các con mới thấy rõ Thiên cơ, thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng, vì mỗi việc khó khăn trắc trở là lúc sơ khai.

Đã khó trở day từng cử động,

Còn thêm thận trọng mọi hành vi.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THẤP

1.- Thấp là kém về bề cao, trái với cao. Như: Nhà thấp, núi thấp, chuồn chuồn bay thấp.

Như: Nhà sợ gió bão nên cất thấp, cột điện hơi thấp.

Ðường đi trên núi dưới đèo,

Lặng tìm cao thấp phải trèo chông gai.

(Bài Trời Còn).

2.- Thấp còn có nghĩa ở dưới mức trung bình về số lượng, chất lượng, trình độ, giá cả.

Như: Thi đậu thấp, thấp nước cờ, mưu trí thấp, nhân phẩm thấp.

Dạy về nữ phái, Thánh giáo Thầy có câu: Chư ái nữ, Thầy vì Tam Kỳ Phổ Ðộ, chẳng phân cao thấp, sang hèn. Thầy chỉ khuyên một điều là đạo hạnh các con phải giữ hằng ngày cho nhằm phương pháp Nhơn đạo, tức là Tứ Ðức đó vậy.

Tinh thần cao thấp nhờ thi,

Dục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đừng phiền cách trị gia cao thấp,

Nhớ thơ ngây cha tập đến trường.

(Phương Tu Đại Đạo).

Phải nhớ hồi còn bú tới thôi nôi,

Đừng chê rằng thấp trí chẳng tuân lời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẤP CHỦM

Thấp: Có chiều cao dưới mức bình thường hoặc nhỏ hơn so với vật khác, có khoảng cách gần đối với mặt đất.

Thấp chủm, như chữ “Thấp chủn” hay “Thấp xủn”, là rất thấp, chiều cao ở mức tối thiểu, không đạt yêu cầu.

Như: Đóng tủ gì thấp chủm, cao có một thước.

Mắt thịt thấy Trời coi thấp chủm,

Hỏi ai cho thấu Ðạo khôn tầm.

(Đạo Sử).

 

 

THẤP HÈN

Thấp: Kém bề cao, thiếu trí, thiếu tài, địa vị thấp. Hèn: Đê tiện, khiếp nhược, thấp kém, nhỏ mọn.

Thấp hèn là thấp kém, hèn hạ, đáng khinh. Như: Những ham muốn thấp hèn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Các con thường để mắt dòm lên, thấy kẻ cao sang thì các con cho rằng các con vô phước, còn nhìn xuống thấy đồng chủng thấp hèn thì các con lại đem lòng khi bạc. Ấy là một điều vô đạo.

Cao thanh miệng thế mặc chê khen,

Thượng trí màng chi tiếng thấp hèn.

(Đạo Sử).

 

 

THẤP KÉM

Thấp: Kém bề cao, thiếu trí, thiếu tài, địa vị thấp. Kém: Không bằng, có ít, trái với hơn.

Thấp kém là kém hẳn so với mức bình thường. Như: Địa vị thấp kém, trình độ thấp kém.

Trong buổi tiệc ủy lạo chức sắc chức việc đầu năm Đinh Mùi, 1967, Thượng Sanh có nói: Sứ mạng thất bại vì kém tinh thần phục vụ, vì coi mình trọng hơn nhơn sanh, hoặc vụ lợi hơn vụ nghĩa thì chẳng những người có sứ mạng phải gánh chịu trách nhiệm nặng nề về mặt thiêng liêng mà nền Ðạo lại bị tổn thương, cái giá trị của Ðạo lại thấp kém.

Tinh thần lấn vật chất thì Ðạo và người cao siêu, vật chất lấn tinh thần thì Ðạo và người thấp kém.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THẤP THOÁNG

Thoáng: Diễn ra và qua đi rất nhanh trong khoảng thời gian rất ngắn.

Thấp thoáng là thoáng hiện ra rồi lại mất, khi có khi không, lúc rõ lúc mờ.

Như: Thấp thoáng bóng người trước sân.

Bóng xanh thấp thoáng non đoài,

Chưa nhìn mãn nhãn đến ngay bên mình.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

Thấp thoáng vầng ô chìm khuất dạng,

Thập thò gương thỏ ghé dòm song.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

THẤP THỎI

Thấp: Ở dưới mức trung bình về số lượng, chất lượng, trình độ, giá cả...

Thấp thỏi là thấp hèn, thấp kém, chưa đạt được yêu cầu mong muốn. Như: Tài trí và đức hạnh thấp thỏi mà mong muốn địa vị cao trọng.

Thánh giáo Thầy có câu: Trong các con có nhiều đứa lầm tưởng, hễ vào Ðạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện đạo.

Ðại bi chẳng quản một phần riêng,

Thấp thỏi phàm tâm chác dạ phiền.

(Đạo Sử).

 

 

THẤP THỎM

Thấp thỏm ở trạng thái không yên lòng khi không biết chắc chắn sự việc có xảy ra không, hoặc xảy ra có đúng lúc không.

Như: Lòng thấp thỏm lo âu, thấp thỏm mong chờ.

Tiền đã có lòng nghe nhẹ nhõm,

Việc chưa thông thấp thỏm mong chờ.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THẬP ÁC

十 惡

Thập: Mười. Ác: Dữ, hung bạo.

Thập ác là mười điều ác, tức mười ác nghiệp do bởi thân, khẩu, ý tạo ra.

Thân nghiệp thì có ba điều ác: 1. Sát sanh (giết hại), 2. Du đạo (trộm cắp), 3. Tà dâm.

Ngữ nghiệp có bốn điều: 4. Vọng ngữ (nói dối), 5. Lưỡng thiệt (nói thêu dệt, nói chia rẽ), 6. Nói tục tĩu, 7. Ác khẩu (nói điều ác độc).

Ý nghiệp có ba: 8. Tham (tham lam), 9. Sân (giận dữ), 10. Si (si mê).

Quản bao thập ác lục hình,

Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THẬP CAN

十 干

Hay “Thập Thiên Can”.

Trong lịch số người xưa thường dựa theo can chi mà lập nên. Can chi là Thiên can và Địa chi.

Thập Can hay Thập Thiên Can 十 天 干 là mười dấu đứng trước địa chi, gồm: Giáp甲, Ất 乙, Bính 丙, Đinh 丁, Mậu 戊, Kỷ 己, Canh 庚, Tân 辛, Nhâm 壬, Quý 癸.

Thập Thiên can và thập nhị Địa chi gọi chung là Can chi. Về xuất xứ hệ Can chi, người ta dựa vào ghi chép trong Sử Ký Tư Mã Thiên đời nhà Hán. Theo Sử Ký, người sáng lập Can chi là Đại Nhiêu, lấy Thiên can là “Thân”, lấy Địa chi là “Cành, Nhánh” để chia thời gian Năm, Tháng, Ngày, Giờ.

Ý nghĩa Can chi do người xưa quan sát sự sinh thành và phát triển của vạn vật mà đặt ra lịch số để chăn nuôi hay trồng trọt thích hợp với thời tiết, mùa màng.

Người xưa ghép 10 Can vào 12 Chi, cứ Can dương (lẻ) ghép với Chi dương (lẻ), Can âm (chẳn) ghép với Chi âm (chẳn) tạo thành một hệ thống 60 cặp cố định, có tên khác nhau, bắt đầu từ Giáp Tý và tận cùng là Quý Hợi. Người ta dùng hệ thống này để gọi Giờ, Ngày, Tháng, Năm, đi hết một vòng là 60 Giờ, 60 Ngày, 60 Tháng, hay 60 Năm. Hết một vòng rồi trở lại Can chi ban đầu.

1.- Thập Can:

Biến Tứ Tượng nói sanh Bát Quái,

Thập Nhị Chi lại với Thập Can.

(Lược Thuật Toà Thánh).

2.- Thập Thiên Can:

Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng,

Tùng Địa Chi hoá trưởng Càn Khôn.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

THẬP ĐIỆN DIÊM CUNG

十 殿 閻 宮

Thập Điện: Mười cung điện. Diêm Cung: Cung điện của vua Diêm Vương, chỉ Âm phủ.

Thập Điện Diêm Cung, nói tắt là “Diêm Cung” là mười cung điện của vua Diêm Vương, tức cõi Âm phủ.

Theo kinh sách, mỗi vị vua Diêm Vương cai quản một điện, từ Nhứt Điện tới Thập Điện.

Xem: Thập Điện Từ Vương.

Thập Điện Diêm Cung ngăn phiếm thỏ,

Tứ Vương Thiên Tướng đỡ dây loan.

(Thơ Cao Liên Tử).

 

 

THẬP ĐIỆN TỪ VƯƠNG

十 殿 慈 王

Thập Điện: Mười cung điện. Từ Vương: Vua nhơn từ.

Thập Điện Từ Vương là mười vị vua có lòng nhơn từ, đang cai quản mười điện ở cõi Âm phủ.

Mười vị vua đó thường được gọi là Thập Điện Diêm Vương 十 殿 閻 王 hay Thập Điện Minh Vương 十 殿 明 王.

Theo kinh sách, mười vị Diêm Vương cai quản mười điện ở Âm phủ được kể như sau:

 

Nhứt Điện 一 殿:

 

Tần Quảng Vương 秦 廣 王.

 

Nhị Điện 二 殿:

 

Sở Giang Vương 楚 江 王.

 

Tam Điện 三 殿:

 

Tống Đế Vương 宋 帝 王.

 

Tứ Điện 四 殿:

 

Ngũ Quan Vương 五 關 王.

 

Ngũ Điện 五 殿:

 

Diêm La Vương 閻 羅 王.

 

Lục Điện 六 殿:

 

Biện Thành Vương 卞 城 王.

 

Thất Điện 七 殿:

 

Thái Sơn Vương 泰 山 王.

 

Bát Điện 八 殿:

 

Bình Đẳng Vương 平 等 王.

 

Cửu Điện 九 殿:

 

Đô Thị Vương 都 示 王.

 

Thập Điện 十 殿:

 

Chuyển Luân Vương 轉 輪 王.

Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn Đại Ân Xá, đóng Địa ngục, mở Từng Thiên, nên Thập Điện Diêm Vương hay Thập Điện Minh Vương được chúng sanh gọi là Thập Điện Từ Vương Chưởng quản cõi Âm Quang.

Chốn Dạ đài Thập Điện Từ Vương,

Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THẬP HÌNH

十 刑

Thập: Mười. Hình: Hình phạt.

Thập hình là mười hình phạt do Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Lý Đại Tiên Trưởng đặt ra để phạt những vị chức sắc và tín đồ vi phạm luật và pháp của Đạo.

Thập hình của đức Lý Giáo Tông phân làm hai phần: Phần phạm pháp gồm năm hình, phần phạm luật gồm mười hình.

* PHẠM PHÁP:

Đệ nhứt hình:

1. Không tuân Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định.

2. Phản loạn chơn truyền.

3. Chia phe phân phái và lập tả đạo Bàng môn

Phạm đệ nhứt hình phạt trục xuất.

Đệ nhị hình:

Chức chức sắc Thiên phong không tùng mạng lịnh Hội Thánh:

1. Thuyên bổ không đi.

2. Không trọn phế đời hành Đạo.

3. Bỏ phế phận sự.

Phạm Đệ nhị hình thì giáng cấp tới tín đồ hay buộc hành Đạo ngoại quốc, trừ Ai Lao và Tần Quốc.

Đệ tam hình:

1. Làm nhơ danh Đạo.

2. Mượn danh Đạo tạo danh đời.

3. Lợi dụng danh Đạo làm điều bất chánh.

Phạm đệ tam hình thì phạt giáng cấp từ đương quyền xuống tới 2 hay 1 cấp.

Đệ tứ hình:

1. Lấn quyền, giành quyền.

2. Phạm thượng.

3. Tự chuyên sửa cải chơn truyền.

Phạm đệ tứ hình phạt ngưng quyền từ 3 tới 5 năm.

Đệ ngũ hình:

1. Mê hoặc chúng sanh.

2. Cám dỗ.

Phạm đệ ngũ hình phạt ngưng quyền từ 1 tới 3 năm và phạt vào tịnh thất.

* PHẠM LUẬT:

Đệ nhứt hình:

1. Không tuân tân luật và các luật lệ Hội Thánh.

2. Công kích Hội Thánh.

3. Nghịch mạng.

Phạm đệ nhứt hình thì phạt trục xuất.

Đệ nhị hình:

1. Tư thông.

2. Dấy loạn chúng sanh.

Phạm đệ nhị hình thì phạt giáng cấp tới tín đồ hay buộc hành Đạo ngoại quốc, trừ Ai Lao, Tần Quốc.

Đệ tam hình:

1. Tham lạm tài chánh.

2. Giả mạo văn từ.

Phạm đệ tam hình thì phạt giáng cấp từ phẩm đương quyền xuống tới 2 hay 1 cấp.

Đệ tứ hình:

1. Khi lịnh Hội Thánh.

2. Lập quyền riêng.

Phạm đệ tứ hình ngưng quyền từ 3 đến 5 năm.

Đệ ngũ hình: Phạm ngũ giới cấm.

Phạm đệ ngũ hình ngưng quyền từ 1 đến 5 năm.

Đệ lục hình: Cường ngạnh.

Phạm đệ lục hình phạt vào tịnh thất từ 1 tháng tới 1 năm mà còn phải hành chánh như thường.

Đệ thất hình: Phạm tứ đại điều quy.

Phạm đệ thất hình thì thuyên bổ khỏi nơi mình đang hành Đạo.

Đệ bát hình:

1. Bê trễ phận sự.

2. Biếng nhác.

Phạm đệ bát hình thì buộc về Toà Thánh để gần Giáo Tông và Hộ Pháp cầu học Đạo.

Đệ cửu hình:

1. Ganh ghét 2. Hung bạo

3. Đố kỵ 4. Xu phụ.

Phạm đệ cửu hình thì phải ăn năn sám hối, thọ tội cùng chúng sanh.

Đệ thập hình: Phạm vào thế luật.

1. Phạm đệ thập hình buộc phải hầu kẻ đức hạnh của Hội Thánh định để cầu học Đạo.

2. Những người bị luật ngoài đời trừng trị, tuỳ tội nặng nhẹ, Toà Đạo sẽ chiếu Thập hình của Đức Lý Giáo Tông mà trừng trị thêm.

3. Những vị chức sắc bị giáng cấp hay ngưng quyền phải có luật ân xá của Quyền Vạn Linh hay Quyền Chí Tôn mới đặng. Ngoài ra Toà Đạo thấy đương sự ăn năn, lập được công nghiệp phi thường, toàn công chúng hoan nghinh thì đặng phép làm việc với một vị chức sắc Thiên phong nào do đương sự chọn hầu phục quyền đoái công chuộc tội.

 

Giáng cơ Ngài lập Thập Hình,

Thơ khuyên thiện tín đinh ninh thực hành.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

THẬP LOẠI

十 類

Hay “Thập Loại Chúng Sinh”.

Thập: Mười. Loại: Loài, hạng. Chúng sinh: Hán dịch là Tát đỏa, nghĩa là hữu tình, có sinh mạng có sinh tử.

Thập loại hay “Thập loại chúng sinh 十 類 眾 生” là chỉ chung tất cả những hạng người có cách chết khác nhau mà linh hồn không được siêu thăng thoát hoá, không được cúng tế, không chỗ nương tựa.

Trong tác phẩm “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh”, dùng để tế các cô hồn trong rằm tháng bảy, cụ Nguyễn Du có đoạn viết:

Trong trường dạ tối tăm trời đất,

Cô hồn thường phảng U Minh.

Thương thay thập loại chúng sinh,

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.

Theo Cao Đài, trên tấm Phan trong lễ Tế điện và Cầu siêu hội hằng năm tại Khách Đình vào ba nguơn lớn, có thỉnh “Thập loại cô hồn” đến đàn nội chứng lễ, như sau:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

...............................................................

...............................................................

Cẩn thỉnh:

Đẳng đẳng chư vong linh nam nữ quá vãng, sanh bất phùng thời, chư chiến sĩ trận vong, hoặc sĩ nông công thương vô can tử nạn, cập Thập loại cô hồn yểu tử.

Cấp cấp đáo lai Khách Đình đàn nội.

Thọ hưởng hồng ân, đồng đăng bỉ ngạn.

Tóm lại, Thập loại hay Thập loại chúng sinh tức là mười loại cô hồn chưa siêu thoát.

Cửu U Thập loại chi trung tất ly khổ hải.

(Kệ U Minh).

 

 

THẬP NIÊN ĐĂNG HỎA

十 年 燈 火

Thập niên: Mười năm. Đăng hoả: Đèn và lửa, cũng như đèn sách, ví với chuyện học tập.

Thập niên đăng hoả là mười năm đốt đèn để dùi mài, ôn tập kinh sử chờ ngày dự thi.

Thập niên đăng hoả đồng nghĩa với câu “Mười năm đèn sách”.

Sanh ra nơi trần thế, người hữu học có công thập niên đăng hoả thì ai cũng muốn chen vào trường ốc.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẬP NHỊ BẢO QUÂN

十 二 保 君

Thập nhị: Mười hai. Bảo quân: Chỉ người có sứ mạng gìn giữ, bảo vệ.

Thập Nhị Bảo Quân trực thuộc Hiệp Thiên Đài là mười hai vị Viện Sĩ trong Hàn Lâm Viện của đạo Cao Đài.

Hàn Lâm Viện là một tổ chức mà thành viên là những Viện sĩ gồm các nhà khoa học hoặc những văn nghệ sĩ nổi tiếng ở một số nước.

Riêng trong Đạo Cao Đài, Hàn Lâm Viện do Đức Chí Tôn lập thành, dưới quyền chưởng quản của Giáo Tông và Hộ Pháp, có nhiệm vụ bảo tồn và phát huy về văn hoá Cao Đài mà Chí Tôn tạo ra cho toàn nhơn loại.

Hàn Lâm Viện Cao Đài là một cơ quan đặc biệt nằm ngoài Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài, gồm mười hai Viện sĩ gọi là Thập Nhị Bảo Quân, mỗi vị chuyên môn một ngành, được kể theo Lời Phê Đức Hộ Pháp như sau:

 

1.- Bảo Huyền Linh Quân.

 

2.- Bảo Thiên Văn Quân.

 

3.- Bảo Địa Lý Quân.

 

4.- Bảo Học Quân.

 

5.- Bảo Cô Quân.

 

6.- Bảo Sanh Quân.

 

7.- Bảo Phong Hoá Quân.

 

8.- Bảo Văn Pháp Quân.

 

9.- Bảo Y Quân.

 

10.- Bảo Nông Quân.

 

11.- Bảo Công Quân.

 

12.- Bảo Thương Quân.

Nhưng theo Ngài Khai Pháp, trong quyển Chánh Trị Đạo, thì vị Bảo Phong Hoá Quân được thế là Bảo Sĩ Quân.

Khi hỏi về Thập Nhị Bảo Quân, Đức Hộ Pháp có lời phê giảng giải như sau: Toàn thể Bảo Quân là Hàm Lâm Viện, mỗi vị có sở thức, sở năng, ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như Bảo Huyền Linh Quân, nghĩa là Thần Linh hồn, khác với Bảo Học Quân thuộc về khoa học, hay thực tế học.

Các phẩm vị của mười hai Viện sĩ, tức Thập nhị Bảo Quân do Đức Chí Tôn hay quyền Thiêng liêng giáng cơ phong thưởng, giống như Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, chứ không phải do cầu phong, cầu thăng hay công cử như bên chức sắc Cửu Trùng Đài hoặc chức sắc Hiệp Thiên Đài tiểu cấp và Cơ Quan Phước Thiện.

Mười hai Viện sĩ Hàn Lâm Viện (Thập nhị Bảo Quân) đối phẩm với Phối Sư bên Cửu Trùng Đài.

Khi chầu lễ Đức Chí Tôn tại Toà Thánh, chư vị Bảo Quân (Viện sĩ) đứng tại chỗ Hiệp Thiên Đài, dưới các bực của chư vị Thời Quân và đứng phân ra hai bên tả hữu, tức Chi Đạo và Chi Thế. Còn nếu có một vị Bảo Quân chầu lễ thì vị ấy đứng bên Chi Thế, tức bên phía Đức Thượng Sanh.

Trong mười hai vị Viện sĩ, tức Thập Nhị Bảo Quân, Đức Chí Tôn và quyền Thiêng liêng đã ân phong được năm vị:

1.- Bảo Văn Pháp Quân phong năm 1930 cho Ngài Cao Quỳnh Diêu.

Trong Chú Giải Pháp Chánh Truyền có đoạn: Ngoại Pháp Chánh Truyền, dưới quyền Hộ Pháp thì còn có Bảo Văn Pháp Quân, trước Thầy phong đỡ làm Tiếp Lễ Nhạc Quân, nay đã vào chánh vị đặng chỉnh đốn lễ nhạc lại hoàn toàn cho tới ngày thành Đạo.

2.- Bảo Sanh Quân phong năm 1930 cho Bác Sĩ Lê Văn Hoạch.

3.- Bảo Cô Quân phong năm 1972 cho Luật Sư Dương Văn Giáo.

4.- Bảo Học Quân phong năm 1972 cho Luật Sư Nguyễn Văn Lộc.

5.- Bảo Y Quân phong năm 1972 cho Bác Sĩ Trương Kế An.

6.- Bảo Nông Quân phong năm 1972 cho Ông Đặng Văn Dắn.

Do hai vị Bảo Văn Pháp Quân và Bảo Sanh Quân được ân phong vào năm 1930, nên Đạo phục của hai vị đó được Chú Giải Pháp Chánh Truyền quy định như sau:

ĐẠO PHỤC của BẢO VĂN PHÁP QUÂN

Bộ Đại Phục của Văn Pháp toàn bằng hàng trắng, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo như các chức sắc nơi Hiệp Thiên Đài, song hai bên ngay chính giữa có kết một bông sen năm cánh, trên mỗi bông sen thì thêu Thiên nhãn Thầy, ngay đường giữa trước mão cũng kết một bông sen nhưng khỏi thêu Thiên nhãn. Cả thảy ba bông sen trên mão. Lưng đai Bạch Tuyết Thần Quang bằng hàng trắng, bề dài ba thước 3 tấc 3 phân, bề ngang 3 tấc 3 phân 3 ly, buộc mối chừa ra trước thế nào đủ thắt một bông sen năm cánh.

Chơn đi giày Vô ưu cũng bằng hàng trắng, trước mũi mỗi chiếc cũng có một bông sen nhỏ hơn một thí.

ĐẠO PHỤC của BẢO SANH QUÂN

Bộ Đại Phục của Bảo Sanh Quân toàn bằng hàng trắng, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo giống như các chức sắc Hiệp Thiên Đài, ngay giữa mão, từ bìa lên bốn phân thêu một Thiên nhãn, hai bên mão thêu hai Thiên nhãn nữa, cả thảy là ba. Vòng theo vành mão cột một sợi dây Tiên Thằng (bề ngang 8 phân, bề dài hai thước) buộc thế nào chừa Thiên nhãn ngay giữa mão ra, cho hai mối thòng xuống hai bên vai. Lưng đai Song Quang Thần Thần Thông, nghĩa là một đường lụa trắng, kết hai bên hai vòng vô vi.

Chơn đi giày Vô ưu cũng bằng hàng trắng.

Còn bốn vị Bảo Quân được ân phong vào năm 1972, trong một đàn cơ tại Cung Đạo Toà Thánh đêm 15 tháng 11 năm Tân Hợi, Ngài Hiến Đạo hỏi: Cầu xin Đức Ngài chỉ giáo về sự đối phẩm và Tiểu phục của chư vị Bảo Quân.

Đức Hộ Pháp trả lời: Đối phẩm Phối Sư. Tiểu phục cũng sửa lại còn một Thiên Nhãn như Hộ Đàn.

Thập Nhị Bảo Quân đành vắng mặt,

Tấc thành xin điếu mấy vần thi.

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

THẬP NHỊ CHI

十 二 支

Hay “Thập nhị Địa chi”.

Thập nhị: Mười hai. Chi: Địa chi.

Thập nhị chi còn gọi là “Thập nhị Địa chi”, phối hợp với Thiên can dùng để tính năm tháng ngày giờ.

Thập nhị chi gồm có: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Biến Tứ Tượng nói sanh Bát Quái,

Thập Nhị Chi lại với Thập Can.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THẬP NHỊ ĐẲNG CẤP

十 二 等 級

Hay “Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng”.

Thập nhị: Mười hai. Đẳng cấp: Thứ bậc.

Thập Nhị Đẳng Cấp hay “Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng”, là mười hai phẩm chức sắc của Cơ Quan Phước Thiện thuộc chi Đạo Hiệp Thiên Đài, được quy định bởi Đạo Nghị Định số 48/ĐNĐ do Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông lập ngày 19 tháng 10 năm Mậu Dần (Dl. 10-12-1938) tại Toà Thánh Tây Ninh.

Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng gồm:

 

1.- Minh Đức

 

2.- Tân Dân

 

3.- Thính Thiện

 

4.- Hành Thiện

 

5.- Giáo Thiện

 

6.- Chí Thiện

 

7.- Đạo Nhơn

 

8.- Chơn Nhơn

 

9.- Hiền Nhơn

 

10.- Thánh Nhơn

 

11.- Tiên Tử

 

12.- Phật Tử

Hội Thánh sẽ tuyển chọn trong hàng Chức sắc Thiên phong đủ hạnh đức, đủ công nghiệp đặng chiết ra lo khai hoá, giáo hoá cả Cơ Quan Phước Thiện đặng cứu thế độ đời.

Những người ngoại giáo hay chư vị đạo nhơn các nền tôn giáo khác, muốn nhập vào cửa đạo, thì Hội Thánh sẽ do nơi công nghiệp Phước Thiện của họ mà định vị, tùy theo công nghiệp lớn nhỏ đặng định phẩm từ bực Minh Đức tới Chơn Nhơn mà thôi.

Còn bậc Hiền Nhơn đổ lên thì giúp Hội Thánh giữ gìn Chớn pháp, nên các phẩm vị nầy phải có cơ bút giáng phong mới đặng.

Xem: Hội Thánh Phước Thiện.

1.- Thập Nhị Đẳng Cấp:

Đạo Luật lập năm Mậu Dần,

Thập Nhị Đẳng Cấp góp phần lập Công.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

2.- Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng:

Chức sắc Phước Thiện chú trọng nhập vào Thập nhị Đẳng cấp thiêng liêng.

(Nghị Định Phước Thiện).

 

 

THẬP NHỊ KHAI THIÊN

十 二 開 天

Thập nhị: Mười hai. Khai Thiên: Mở ra từng Trời.

Thập nhị Khai Thiên là chỉ các Đấng mở ra mười hai từng Trời.

Theo các bài kinh Cửu, Tiểu, Đại tường và Di Lạc Chơn Kinh thì mười hai từng Trời gồm có dưới là Cửu Trùng Thiên rồi cộng thêm ba từng nữa là:

Hư Vô Thiên từng Trời thứ mười.

Hội Nguơn Thiên là từng Trời thứ mười một.

Hỗn Nguơn Thiên là từng Trời thứ mười hai.

Các Đấng mở ra mười hai từng Trời gọi là Thập nhị Khai Thiên, còn các Đấng mở ra Chín từng Trời thì gọi là Cửu Thiên Khai Hoá.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn viết: Khởi đầu Bần Đạo đi viếng các Dinh Thự nơi Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, Bần Đạo chỉ đến viếng chớ không thuyết Đạo, đến đây là Văn Phòng Hội Thánh Phước Thiện, Bần Đạo cho toàn Chức Sắc đương quyền Hành Chánh Đạo được rõ mục đích của Hội Thánh Phước Thiện do đâu mà sản xuất, bởi trong Pháp Chánh Truyền Chí Tôn lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Hội Thánh Cửu Trùng Đài mà trước khi Chí Tôn đến giao truyền mối Đạo là Thiên Điều đã định mở cửa Thập Nhị Khai Thiên đặng đem cờ cứu khổ để tại mặt thế nầy mà cứu vớt toàn cả Cửu nhị ức nguyên nhân con cái của Ngài.

Thập nhị Khai Thiên là Thầy, chúa cả Càn khôn Thế giới, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẬP NHỊ THỜI QUÂN

十 二 時 君

Thập nhị: Mười hai. Thời: Thời gian. Quân: Tiếng tôn xưng người có phẩm vị cao trọng.

Thập Nhị Thời Quân là mười hai vị chức sắc Đại Thiên phong của Hiệp Thiên Đài, dưới quyền chưởng quản của Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng Sanh.

Theo Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp, Thập Nhị Thời Quân đối với Thập Nhị Thời Thần.

Thập Nhị Thời Thần là mười hai Đấng Thiêng Liêng do Đức Thượng Đế hoá thân để cai quản những giai đoạn thời gian trong quá trình tạo hoá ra Càn khôn Vũ trụ và Vạn vật.

Xem: Thập Nhị Thời Thần.

Trong Diễn văn ngày 14 tháng 2 năm Mậu Thìn 1928, Đức Hộ Pháp có cho biết “Các chơn linh dầu nguyên nhân hay hoá nhân, hễ chịu hữu sanh thì đều nơi tay Thập Nhị Thời Quân mà siêu đoạ, cũng như Thần, Thánh, Tiên, Phật nhờ Thập Nhị Thời Thần mà thăng giáng.

Thập Nhị Thời Quân tức là Thập Nhị Thời Thần tại thế đó vậy”.

Do Thập Nhị Thời Quân là Thập nhị Thời Thần tại thế, cho nên Đức Chí Tôn mới dùng huyền diệu thiêng liêng chọn lựa mười hai vị Thời Quân có tuổi đúng theo mười hai con giáp trong Thập Nhị Địa chi như sau:

Khai Pháp Trần Duy Nghĩa sanh năm Mậu , 1888

Khai Đạo Phạm Tấn Đãi, sanh năm Tân Sửu, 1900.

Hiến Pháp Trương Hữu Đức, năm Canh Dần, 1890.

Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh, sanh năm Quý Mão, 1903.

Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, năm Nhâm Thìn, 1892.

Tiếp Pháp Trương Văn Tràng, sanh năm Quý Tỵ, 1893.

Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh, sanh năm Giáp Ngọ, 1894

Bảo Thế Lê Thiện Phước, sanh năm Ất Mùi, 1895.

Hiến Đạo Phạm Văn Tươi, sanh năm Bính Thân, 1897.

Tiếp Đạo Cao Đức Trọng, sanh năm Đinh Dậu, 1897

Bảo Đạo Ca Minh Chương, năm Canh Tuất, 1850.

Khai Thế Thái Văn Thâu, sanh năm Kỷ Hợi, 1899.

Đây không phải là một sự ngẫu nhiên, chính Đức Hộ Pháp đã xác nhận là Đức Chí Tôn chọn lựa Thập Nhị Thời Quân có năm sinh đúng theo mười hai con giáp của Thập Nhị Địa Chi trong bài tưởng niệm và tuyên dương công nghiệp đọc trước Liên Đài của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, vào ngày 28 tháng giêng năm Giáp Ngọ (Dl. 2/3/1954) như sau: “Đức Khai Pháp Chơn Quân cả toàn Thánh Thể và con cái Đức Chí Tôn đều hiểu là ai? Trong mười hai vị Chơn Quân của 12 con giáp là cơ huyền bí tạo Càn Khôn Vũ Trụ thế nào có lẻ cả tinh thần của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiểu thấu...”

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, ngày 12 tháng 1 năm Ðinh Mão (Dl. 13/2/1927), Thánh giáo Đức Chí Tôn đã lựa chọn Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài và chia làm ba chi như sau:

Hộ Pháp chưởng quản chi Pháp, dưới quyền có bốn vị là:

Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu.

Hiến Pháp Trương Hữu Đức.

Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.

Tiếp Pháp Trương Văn Tràng.

Bốn vị Thời Quân chi Pháp có nhiệm vụ lo bảo hộ Luật đời và Luật Ðạo, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết.

Thượng Phẩm chưởng quản chi Ðạo, dưới quyền có bốn vị là:

Bảo Đạo Ca Minh Chương.

Hiến Đạo Phạm Văn Tươi.

Khai Đạo Phạm Tấn Đãi.

Tiếp Đạo Cao Đức Trọng.

Bốn vị Thời Quân chi Đạo có nhiệm vụ về phần Ðạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất, đều xem sóc chư môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm Luật đến khổ khắc cho đặng.

Thượng Sanh chưởng quản chi Thế, dưới quyền có bốn vị là:

Bảo Thế Lê Thiện Phước.

Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh.

Khai Thế Thái Văn Thâu.

Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh.

Thập Nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài, ngoài việc nắm giữ về quyền tư pháp của Đạo Cao Đài, các vị Chức sắc ấy còn được Đức Chí Tôn dùng làm Đồng tử để Ngài và các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ dạy Đạo.

Như vậy, những lời Thánh huấn của Đức Chí Tôn không phải do các vị Thời Quân phò loan thì không phải lời dạy của Ngài vậy. Điều nầy, chính Đức Chí Tôn đã xác nhận trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: “Trung, Thầy lại nhắc cho con nhớ rằng, trong Thập Nhị Thời Quân đó đều có sắp đặt. Nếu không phải mấy đứa phò loan của Thầy đã định thì cơ bút do nơi khác mà ra đều là không phải lời của Thầy nói.

Con phải đề phòng, cẩn thận, nghe à!”.

Thầy lại nhắc cho con nhớ rằng, trong Thập nhị Thời Quân đó đều có sắp đặt.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẬP NHỊ THỜI THẦN

十 二 時 辰

Thập nhị: Mười hai. Thời: Thời gian. Thần: Chỉ về ngày giờ.

Thập nhị Thời thần là mười hai khoảng thời gian trong một năm, một tháng, một ngày, một giờ. Mỗi khoảng thời gian đó, người xưa đặt cho một tên là Tý, Sửu, Dần, Mẹo. Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, mười hai dấu thời gian đó được gọi là Thập nhị Địa chi. Như vậy Thập nhị Thời thần cũng là Thập nhị Địa chi.

Theo triết lý đạo Cao Đài, khi chưa có trời đất, còn là một khoảng không bao la, vô tận trong đó toàn là khí Hồng mông (hay khí Hỗn độn, khí Tiên thiên) còn gọi là Hư vô chi khí thì lúc ấy chưa có thời gian. Đến chừng khí Hư vô sinh Thái Cực là ngôi của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, rồi Thái Cực mới sinh ra Lưỡng nghi Âm dương và hình thành nên Trời đất. Từ ấy bắt đầu mới có thời gian và giai đoạn từ khi có khí Thái Cực trở về sau gọi là thời Hữu thỉ, tức là đã có nguồn gốc rồi.

Đức Thượng Đế chia khoảng thời gian tạo hoá ra Càn khôn Vũ trụ và vạn vật ra làm mười hai giai đoạn, hoá thân ra mười hai Đấng Thiêng liêng cho mỗi vị cai quản một khoảng thời gian trong Thập nhị Địa chi, gọi là Thập nhị Thời thần.

Theo Nho giáo, thời kỳ đầu tiên là Tý, Đức Thượng Đế tạo ra các tầng Trời, nên được gọi là Thiên khai ư Tý.

Thời kỳ thứ hai là Sửu, Đức Thượng Đế hình thành các Địa cầu, nên được gọi là Địa tịch ư Sửu.

Thời kỳ thứ ba là Dần, Đức Thượng Đế hoá sanh ra con người nên gọi là Nhơn sanh ư Dần.

Những thời kỳ sau được tiếp nối để Đức Thượng Đế tạo hoá hoàn thành Càn khôn Vũ trụ và vạn vật.

Thập nhị Khai Thiên là Thầy. Chúa cả Càn khôn Thế giới, nắm trọn Thập nhị Thời thần vào tay, Số 12 là số riêng của Thầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẬP PHƯƠNG

十 方

Thập: Mười. Phương: Phương, hướng.

Thập phương là mười phương, mười hướng, tức chỉ khắp chốn, mọi nơi.

Của thập phương là của do nhiều người ở khắp mọi nơi đóng góp dùng vào việc chung như giúp nhà chùa để xây cất, đúc tượng hay in ấn kinh sách.

Thêm những sãi giả nương cửa Phật,

Của thập phương châu cấp thê nhi.

(Kinh Sám Hối).

Thập phương cộng hưởng cơ bình trị,

Tam Giáo hoà khai hội Niết Bàn.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT

十 方 諸 佛

1.- Thập phương: Mười phương, tức Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc và phương trên, phương dưới. Chỉ toàn thể vũ trụ. Chư Phật: Theo Phật giáo Đại thừa thì không phải chỉ có một Phật là Thích Ca Mâu ni, mà khắp mười phương đều có các vị Phật, nhiều vô số kể. (Thập phương chư Phật).

Thập phương chư Phật là tất cả các vị Phật ở mười phương, tức ở khắp mọi nơi trong Càn khôn Vũ trụ.

Phước đức Thiên ban vạn vật chúng sanh ly khổ kiếp.

Thiện duyên địa trữ thập phương chư Phật hiệp nguyên nhân.

(Đôi Liễn Phước Thiện).

2.- Ngoài ra Thập phương chư Phật còn có thể hiểu là chư Phật ở từng Trời thứ mười, tức cõi Niết Bàn.

Theo thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp, bên trên Cửu Trùng Thiên là chín từng Trời, có cảnh Niết Bàn là nơi Phật ngự ở từng Trời thứ mười, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật chưởng quản.

Người ta thường gọi “Chín phương Trời” là chín từng Trời, tức Cửu Thiên Khai Hoá, cộng với Niết Bàn là mười, nên gọi mười phương chư Phật (Thập phương chư Phật).

Trong bài Kệ Chuông U Minh, lời nguyện thứ 30 có câu: Nam mô Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ 南 無 十 方 諸 佛, 萬 種 諸 仙, 蓮 臺 之 下.

Nam mô Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.

(Sớ Văn).

 

 

THẬP TAM MA

十 三 魔

Thập tam: Mười ba. Ma: Biểu hiện cho tất cả những gì ngăn cản thiện căn, cản trở chánh pháp.

Thập tam ma là mười ba con ma, dùng để chỉ mười ba thứ tình quấy phá người tu hành.

Thập tam ma gồm: Thất tình và lục dục, tức là bảy thứ tinh hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục và sáu dục vọng là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Trừ lục tặc, thập tam ma,

Giục lòng người biết khử tà tầm chơn.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THẬP TỰ GIÁ

十 字 架

Hay “Thập Tự”.

Thập: Mười. Tự: Chữ. Giá: Đồ dùng để treo hay gác vật gì lên.

Thập Tự hay Thập Tự Giá, còn gọi là Thánh Giá là biểu tượng thờ kính của Thiên Chúa Giáo và đạo Tin Lành.

Nguyên khi Đức Chúa Jésus mắc tội bị đóng đinh trên cây hình chữ thập để chuộc tội cho loài người, nên sau các giáo đồ Thiên Chúa Giáo dùng cây “Thập Tự Giá” có hình Chúa biểu hiệu thờ kính nơi các Thánh Đường, Nhà Giảng.

Trong Lễ kỷ niệm Đức Gia Tô Giáo Chủ, Đức Hộ Pháp có nói: Tánh mạng của Ngài (Chúa Jésus), thi hài của Ngài chịu chết trên cây Thập Tự Giá, cốt yếu làm con tế vật ấy để dâng cho Đức Chí Tôn đó vậy.

1.- Thập Tự Giá:

Do tay Ngài ký tờ hoà ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự giá.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Thập Tự:

Trên cây Thập Tự suốt mồ hôi,

Ðổ máu vì thương tội lỗi đời.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THẬP THIÊN CAN

十 天 干

Thập: Mười. Thiên can: Dấu hiệu hợp với Địa chi để tính năm, tháng, ngày, giờ.

Ngày xưa, trong lịch số người ta thường dựa theo can chi mà lập nên. Can chi là Thiên can và Địa chi.

Thiên can, còn gọi là Thập Thiên can gồm có mười dấu là Giáp 甲, Ất 乙, Bính 丙, Đinh 丁, Mậu 戊, Kỷ 己, Canh 庚, Tân 辛, Nhâm 壬, Quý 癸.

Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,

Tùng Địa Chi hoá trưởng Càn Khôn.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

THẬP THÒ

Thập thò là từ gợi tả dáng vẻ nhô ra, hiện ra rồi lại lui vào, khuất đi ngay, nhiều lần như vậy, có ý e sợ, rụt rè.

Như: Đứng thập thò ngoài cổng không dám vào nhà, thằng bé có ý thập thò e lệ.

Thấp thoáng vầng ô chìm khuất dạng,

Thập thò gương thỏ ghé dòm song.

(Thơ Hoàng Nguyên).

Ngôn luận tư tưởng tự do,

Sống vô tín ngưỡng thập thò biển mê.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

THẬP TRAI

十 齋

Thập: Mười. Trai: Ăn chay, tức ăn các loài thảo mộc như rau cải, hoa quả, ngũ cốc.

Thập trai là ăn trai mười ngày trong một tháng âm lịch. Thập trai gồm các ngày: Mồng 1, 8, ngày 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và ngày 30. Nếu tháng thiếu thay vì ba ngày cuối trong tháng là 28, 29, 30, ta ăn ngày 27, 28, và 29.

Theo Phật giáo, ăn chay mười ngày được gọi là “Chuẩn Đề Thập Trai 準 提 十 齋”.

Chức vị trên đây, nếu giữ trường trai hoặc thập trai thì được làm phép xác, hành lễ tế điện...

(Quan Hôn Tang Lễ).

 

 

THẤT

1.- Thất , một số đếm, là bảy. Như: Thất tuần, thất bảo, thất tinh, thất tịch.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Quý anh tầm một phương pháp, dùng tạm thời một ngọn đèn có đủ yếng sáng, vì chúng ta không có những đèn có đủ yếng sáng, nên cùng chẳng đã phải tạm đó thôi. Ðèn bảy ngọn, cũng có lẽ đặt tên là Thất Tinh.

Dây oan xe chặt buộc mình,

Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

(Kinh Tận Độ).

2.- Thất là mất. Như: Thất bại, thất học, thất lạc, thất hiếu, thất nghiệp, lúa thất.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi chớ vội buồn, vì sự mừng vui và buồn tủi thường pha lẫn kế cận nhau.

Ðắc thất đều do tại máy Trời,

Làm sao qua đặng chốn non khơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,

Kiếp phù sinh đặng thất nơi thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Thất là nhà ở, phòng. Nghĩa bóng dùng để chỉ người vợ.

Như: Gia thất, chánh thất, thứ thất.

Tại Thảo Xá Hiền Cung, Bà Thất Nương giáng cơ ban cho đôi liễn như sau: Thảo xá tuỳ nhân, ngu muội bần cùng nghinh nhập thất, Hiền cung trạch khách thông minh phú quý cấm lai môn 草 舍 隨 人, 愚 昧 貧 窮 迎 入 室, 賢 宮 擇 客, 聰 明 富 貴 禁 來 門, nghĩa là thảo xá tuỳ theo người, kẻ ngu muội và nghèo khổ thì tiếp vào nhà, Hiền cung lựa khách, người thông minh và phú quý thì cấm đến cửa.

Ðiều đình gia thất vẹn nhơn luân,

Cái nẻo Thiền môn giống đám rừng.

(Đạo Sử).

4.- Thất còn dùng để chỉ nơi thời phượng Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng trong tôn giáo Cao Đài, gọi đầy đủ là Thánh Thất hay Tịnh Thất.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Dặn đến Thánh Thất mới, phải cầu Chí Tôn trấn Thần lại nữa. Thánh Thất tạm phải cất ngay miếng đất trống, còn Hiệp Thiên Ðài tạm phải cất trước Thánh Thất tạm.

Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,

Bằng địa sóng xao khiến rập rình.

(Thơ Thượng Phẩm).

Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh,

Hiu quạnh hôm nay ngó rập rình.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THẤT BẠI

失 敗

Thất: Mất, sai lầm. Bại: Hư hỏng, thua, mất.

Thất bại là hỏng việc, không đạt được kết quả, mục đích như dự định.

Thất bại còn có nghĩa là thua mất, tức không giành được phần thắng, phải chịu thua.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Lại nữa, kẻ đi buôn kia cũng buôn như ai, với phương pháp như họ, sao họ lại được nhiều lời, lập lầu các nguy nga, vợ con đầy đủ sang trọng vinh hoa, còn mình dấn thân làm con buôn lỗ lã thất bại tiêu tan, tức mình quá sức tức nhiên phải thống khổ tâm hồn.

Ðạo nên hay hư và có giá trị cao hay thấp là do nơi sứ mạng của chức sắc được hoàn thành hay thất bại.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THẤT BÁT

Thất: Bảy. Bát: Tám.

Thất bát, nói tắt của câu thành ngữ “Thất linh bát lạc 七 零 八 落”, nghĩa đen là bảy rơi tám rụng, ý chỉ mùa màng vì bị thiên tai hay bị sâu rầy phá hại nên thua thiệt, không toàn vẹn, thu hoạch sản lượng kém sút.

Như: Sâu rầy phá hại nên mùa màng thất bát.

Thảng như rủi năm nào thất bát, dân đói khó, thì lập tức mở kho ấy phát cho dân gọi là chẩn bần.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẤT BỬU

七 寶

Thất: Bảy. Bửu (bảo): Quý báu.

Thất bửu hay “Thất bảo”, là bảy món quý báu: Bạc, vàng, Lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu và san hô. Như: Giường thất bửu (thất bảo).

Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du có viết: Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn, Đặt giường thất bảo, vây màn bát Tiên.

Xem: Ao Thất bửu.

Ao Thất bửu gội mình sạch tục,

Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THẤT CÔNG

失 功

Thất: Mất. Công: Công sức, công lao.

Thất công là mất công sức để làm việc mà không đạt được kết quả như ý muốn. Như: Thất công tìm kiếm bao nhiêu ngày qua.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn dạy: Các sự thống khổ, Bần Ðạo luận từ nãy đến giờ, thiên hạ tìm thuốc cứu khổ, chạy mãi không tìm đặng cho nên không một người nào sống ở đời được thoả mãn. Kẻ hèn, người sang, kẻ trí, người ngu, thất công tìm phương an ủi.

Từ đây có đàn như mấy kỳ rồi đây, Thầy cho phép chẳng vụ tất đến, vì đã thất công mà chẳng bổ ích chi.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẤT CHÁNH

失 正

Thất: Mất, thua. Chánh: Ngay thật, ý chỉ chánh pháp.

Thất chánh là mất cái chánh pháp của tôn giáo, tức cái chánh pháp đã bị sai lạc đi không còn giống như thuở ban đầu nữa.

Phật Tông thất chánh là Phật giáo đã trải qua một thời kỳ quá lâu dài, chánh pháp bị cải sửa, nên lần lần chơn truyền đã thất.

Ta vì luật lịnh Thiên mạng đã ra cho nên cam để vậy, làm cho Phật tông thất chánh có trên ba ngàn năm nay.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẤT CHÍ

失 志

Thất: Mất, thua. Chí: Ý chí.

Thất chí là mất hết ý chí, không được thoả chí, đâm ra chán nãn hết muốn làm việc, trái với đắc chí.

Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Lý Giáo Tông có đoạn dạy: Thầy đã cho Hiền Hữu chấp cơ một đôi khi quả có huyền diệu, nhưng mà có nhiều khi tà bổn thân Hiền Hữu nó lại choán lấy Thiên ý mà dịch trật. Vì vậy mà Hiền Hữu nhiều phen thất chí, nhứt là khi thai bào con Hiền Hữu hiểu à....

Mohamed lập ra Ðạo Hồi Hồi bị xô đuổi, bị bắt nhốt khám trốn chui, trốn nhủi, mà không buổi nào thất chí.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẤT CHƠN TRUYỀN

失 真 傳

Thất: Mất, thua. Chơn truyền: Chỉ giáo lý chơn thật được truyền lại.

Thất chơn truyền là nói giáo lý của một tôn giáo bị mất chơn truyền, tức sai lạc với chánh pháp, không giống như thuở ban đầu.

Các giáo chủ khi mở đạo đều truyền lại một chánh pháp để hướng dẫn người tu tập, đó là giáo pháp chân chính để giác ngộ giải thoát.

Nhưng trải qua nhiều thời kỳ, cái chánh pháp nầy bị người đời sửa đổi, làm cho sai lạc hoàn toàn với chơn truyền, gọi là “Thất chơn truyền”.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Thiên hạ ai cũng phải nhìn nhận, ai cũng biết rõ rằng các Tôn giáo ngày nay, đã lầm lạc, đã thất chơn truyền, tinh thần nhơn chủng đương tìm kiếm một mãnh lực tinh thần nào chan chứa tâm đức có thể làm cho mình thoả mãn, ngày giờ nầy họ đương tiềm tàng, họ vẫn còn thiếu, vẫn còn khao khát, họ đói kém tinh thần, họ còn đói kém tín ngưỡng.

Chớ có lửng lơ mà thối chí,

Rồi sau đừng nói thất Chơn truyền.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

 

 

THẤT ĐẠO

失 道

Thất: Mất, thua. Đạo: Đạo đức.

Thất đạo là mất cái đạo đức.

Đạo đức là cái nền tảng tốt đẹp của con người sống trong xã hội cùng đem cư xử với nhau. Nếu xã hội thiếu đạo đức thì sẽ sinh ra cướp bóc, loạn lạc, cấu xé lẫn nhau.

Người trị dân cũng vậy, cũng phải đem đạo đức ra thi hành thì quốc dân mới phục. Còn nếu chánh quyền thất đạo thì nhà nước khó bền vững.

Vua Tần Thuỷ Hoàng là một ông vua hung bạo, dùng chính sách hà khắc với dân, khiến cho nhân dân thời bấy giờ lầm than, khổ sở.

Ông cũng là một vị vua thất đạo, không chấp nhận đường lối của đạo Nho, nên dùng hình pháp tàn ác đối với các Nho sĩ thời bấy giờ là đốt sách chôn học trò, mà nhà viết sử gọi là “Phần thư khanh Nho”. Thử hỏi nhà Tần có được bền vững chăng?

Các vì Vua trị gia bất nghiêm, biểu không bại hoại sao được, mà đệ nhứt gia đình thất đạo có liên quan mật thiết đến cả toàn bá tánh thất đạo.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẤT ĐẠO TÂM

失 道 心

Thất: Mất, thua. Đạo tâm: Tâm vì đạo, hoặc chỉ cái tâm đạo đức.

Thất đạo tâm là mất cái tâm đạo, tức không còn cái tâm vì mối đạo của mình.

Thất đạo tâm còn có nghĩa là mất cái tâm đạo đức.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có day: Vậy các con đứa nào đã được thưởng phong cũng chẳng nên vội mừng mà quên phận sự, còn mấy đứa chưa đặng phong thưởng cũng không nên vội buồn mà thất đạo tâm.

Quyền chi đó, tiền duyên đành mất,

Lợi gì đâu mà thất đạo tâm.

(Ngọc Hoàng Thượng Đến).

 

 

THẤT ĐẦU XÀ

七 頭 蛇

Thất: Bảy. Đầu xà: Đầu rắn.

Thất đầu xà là rắn có bảy đầu.

Theo Cao Đài, ngai của ba vị chức sắc Đại Thiên phong của Hiệp Thiên Đài là Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh có đắp hình “Thất đầu xà”, tức rắn bảy đầu tượng trưng cho thất tình là Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục của con người. Đuôi rắn quấn vào ngai của Thượng Sanh, mình rắn quấn ngai Thượng Phẩm, phần còn lại quấn ngai Hộ Pháp. Còn bảy đầu rắn có ba đầu mang chữ Hỷ, Ái, Lạc là ba tình mừng, thương, vui cất lên nằm sau lưng Hộ Pháp, hai đầu mang chữ Ố, Dục là hai tình ghét, muốn nằm ngang, đầu gục xuống để hai tay Hộ Pháp đặt lên như đè nó xuống, còn hai đầu mang chữ Ai, Nộ là tình buồn, giận gục xuống thấp nhứt để hai chân của Hộ Pháp đạp lên hầu chế ngự nó.

Theo Đức Hộ Pháp, khi Ngài ngự trên “Thất đầu xà” là đè nén các thứ vật dục ở thế gian của con người, hai tay và hai chân Ngài đè lên bốn tình Ai, Nộ, Ố, Dục là những thứ tình tạo nên đau khổ, còn ba tình Hỷ, Ái, Lạc phải nuôi dưỡng nó.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Mấy em rán nhớ đừng bắt chước làm quyền theo quan lại, mấy em phải yểm tình dục quyền tước lại, cũng như Qua yểm trên Thất Đầu Xà, chỉ mình tập tánh thương yêu mà thôi, đừng hờn giận ai, cứ bình tĩnh chịu những sự khó của ai đã làm mà mấy em phải gánh.

Xem xuống Thất đầu xà trương vảy,

Quấn vòng quanh ba cái cẩm đôn.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THẤT ĐỨC

失 德

Thất: Mất. Đức: Tánh tốt, thường làm điều lành như thi ân bố đức.

Thất đức là nói người làm những điều hung dữ, độc ác làm mất đi những cái đức của mình đi. Như: Ăn ở thất đức, việc làm của nó thất đức.

Thánh Ngôn Thầy có câu: Ngày vui vẻ của sanh linh đã mòn, hoạ Thiên điều đã cận, Càn khôn Thế giới còn đeo đuổi, dụng thất đức vô nhân mà gieo thảm chất sầu trong nhân loại.

Một câu thất đức thiên niên đọa,

Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hễ muốn lợi danh mang thất đức,

Thờ chung danh lợi hết gần Trời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẤT GIA

室 家

Thất: Nhà ở. Gia: Chỗ ở của một người, một nhà.

Thất gia, như chữ “Gia thất”, có nghĩa là cửa nhà, chữ dùng để nói về vợ chồng, định bề lứa đôi.

Như: Sum vầy thất gia.

Kinh thi có câu: Đào chi yêu yêu, Chước chước kỳ hoa. Chi tử vu quy, Nghi kỳ thất gia 桃 之 夭 夭, 灼 灼 其 華. 之 子 于 歸, 宜 其 室 家, nghĩa là đào tơ mơn mởn xinh tươi, Hoa hồng đơm đặc dưới trời xuân trong. Hôm nay nàng đã theo chồng, Nên bề gia thất ấm nồng thuận vui (Ta Quang Phát dịch).

Gầy dựng cho con có thất gia,

Để lo nối nắm kỷ cương nhà.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THẤT GIÁO

失 教

Thất: Mất. Giáo: Dạy dỗ.

Thất giáo là mất dạy, tức chỉ những người, những đứa trẻ không được dạy dỗ tử tế.

Như: Những đứa trẻ thất giáo trong xã hội là một gánh nặng cho nhà nước sau nầy.

Than ôi! Thói mạt bấy giờ,

Để con thất giáo làm nhơ danh truyền.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THẤT HIẾU

失 孝

Thất: Mất, thưa, sai lầm. Hiếu: Thảo, tức lòng kính yêu và biết ơn cha mẹ.

Thất hiếu là không giữ đạo hiếu. Như: Lâu nay thất hiếu với cha mẹ, nghĩ lại rất tủi thẹn với con cái.

Trong Tân Luật, điều thứ mười của Thế Luật có dạy: Trừ ra có ngoại tình hay là thất hiếu với công cô, vợ chồng người Đạo, không được để bỏ nhau.

Mang câu thất hiếu đã đành,

Bao nhiêu công quả biển gành rã tan.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

THẤT HỌC

失 學

Thất: Mất. Học: Học hành.

Thất học là không được đi học, tức do hoàn cảnh không có điều kiện để đi học. Như: Vì nghèo mà thất học.

Thuyết Đạo của Đức Thượng Sanh có câu: Xưa dưới triều đại của những đấng minh quân thì dân được giáo hoá trong tinh thần Nho giáo, nên phần nhiều là người có đức hạnh và nhơn phẩm cao quý, trừ ra một phần ít là hạng người thất học, mới có những tánh xấu, tham lam hèn hạ mà thôi.

Ta cũng cho chư tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẤT KINH

失 驚

Thất: Mất. Kinh: Hoảng sợ.

Thất kinh là hoảng sợ đến nỗi mất hồn mất vía.

Như: Cho một trận đòn thì nó thất kinh chứ gì, anh ta gặp tai nạn dữ làm thất kinh hồn vía.

Ôm lòng khí khái tôn mình giỏi,

Hoạ đến đòi lần chẳng thất kinh.

(Đạo Sử).

 

 

THẤT KỲ TRUYỀN

失 其 傳

Thất: Mất. Kỳ truyền: Cái Chơn truyền ấy.

Thất kỳ truyền là nói tôn giáo đã mất đi cái chơn truyền từ trước.Như: Phật giáo đến nay hơn hai ngàn năm nên chánh pháp đã thất kỳ truyền.

Thánh giáo Đức Chí Tôn đã dạy: Ta đã đến với huyền diệu nầy thì từ đây, Ta cũng cho chư tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền. Chư tăng từ đây chẳng đặng nói Phật giả vô ngôn nữa.

Hầu dìu dắt nhơn sanh cho khỏi sai đường lạc lối, tránh điều đổ vỡ tai hại vô phương cứu vãn tức là sự thất kỳ truyền nơi ngày mai hậu.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THẤT KHIÊM CUNG

失 謙 恭

Thất: Mất. Khiêm: Nhún nhường. Cung: Cung kính,

Thất khiêm cung là mất sự khiêm nhường và cung kính đối với người trên.

Như: Người tu hành phải giữ lễ giáo, đừng thất khiêm cung với bậc trưởng thượng.

Đối người trên, dười đừng lờn dể; trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.

(Tân Luật).

 

 

THẤT LỄ

失 禮

Thất: Mất. Lễ: Những phép tắc phải theo trong quan hệ xã hội.

Thất lễ là không giữ lễ phép, hay không có lễ độ. Như: Thất lễ với chức sắc bền trên.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trái lại nếu Lễ không nghiêm, Nhạc không hoà thì đàn cúng có cái trạng thái hỗn loạn khiến cho người đến Lễ bái có một tâm trạng xao xuyến, tinh thần bất định. Ðó là một sự thất lễ đối với các Ðấng Thiêng liêng và như vậy Ðức Chí Tôn không khi nào giáng Ðàn, tà quái có thể thừa dịp xung nhập gây nên điều rắc rối.

Thất lễ là đại tội trước mắt các Ðấng Chơn linh ấy. Thầy phải thăng cho các con khỏi bị hành phạt.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẤT MÙA

Thất: Mất. Mùa: Chỉ thời kỳ thu hoạch.

Thất mùa là mất mùa, tức mùa màng bị thất thu, kết quả thu hoạch sản phẩm không đạt. Như: Năm nay nắng hạn nên thất mùa đậu phọng.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Bần Đạo còn nhớ cái năm 9 tuổi, không biết thất mùa ra sao, mà cả thảy thiên hạ đều đói, Bần Đạo nghe được một cái tình trạng rất khổ não lương tâm là có một gia đình con nhiều lắm không đủ nuôi con, bị lúa cao gạo kém, buổi nọ con nó đã nhịn đói đôi ba bữa, mà thứ con nít nhịn đói thử như thế đó không la làng la xóm sao được, la rầy um xùm nên cha mẹ chịu không nỗi, bây giờ kiếm cơm cho con ăn mà không ra, rồi gạt nó cũng chụm lửa lên ở trong bếp lấy trấu bỏ trong nồi cơm vậy, bắt lên rồi mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh giữ nồi cơm rồi lén ra sau hè thắt cổ tự vận.

Chớ hiểm độc dạ lang lần lựa

Nhơn thất mùa bế dựa gắt gao.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THẤT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

七 娘 瑤 池 宮

Thất Nương, hay Thất Nương Diêu Trì Cung là vị Tiên Nương đứng hàng thứ bảy trong Cửu Vị Tiên Nương. Nơi Chánh Điện thờ tại Báo Ân Từ, Thất Nương mặc áo màu vàng, ngồi bên trái Đức Phật Mẫu, tay cầm Bông Sen.

Thất Nương có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn lên tầng Trời Hạo Nhiên Thiên, là tầng Trời thứ bảy của Cửu Trùng Thiên, rồi nhờ tu hành đắc quả, nên được đưa vào cung Chưởng Pháp bái kiến Chuẩn Đề Bồ Tát. Phật Dà Lam dẫn Chơn hồn về Tây Phương Cực Lạc, tức cõi Niết Bàn có trống Lôi Âm thúc giục đưa tiễn đi.

Theo bài Thuyết Đạo của Ngài Tiếp đạo Cao Đức Trọng tại Đền Thánh, ngày 15 tháng 12 năm Đinh Hợi (Dl. 1947) có đoạn như sau: “...Đã hai kiếp sanh khổ vì tình vì hiếu, nên sau khi Thất Nương được đặc ân của Ngọc Hư Cung xá tội, liền tình nguyện đến cõi Âm quang độ rỗi các chơn hồn thất thệ đặng trả nghĩa cho Thầy.

Trước khi đi trong một kỳ đàn, Thất Nương có đến từ giã và để lời than với Đức Hộ Pháp và một vài chức sắc Hiệp Thiên Đài. Bài thi Đường luật ấy của Bà có hai câu đầu như sau:

Hai kiếp đeo đai lắm nợ trần,

Cái thân vì khổ bận cho thân”.

Như vậy, chúng ta biết Bà Thất Nương có hai kiếp giáng trần chịu nhiều khổ não vì tình và hiếu trong kiếp sanh ở Trung Hoa và Việt Nam.

Tại Trung Hoa, Bà đầu kiếp trong một gia đình quan lại giàu sang, quyền quý, song Bà là một cô gái rất hiền hoà và giản dị. Khi trưởng thành, Bà trở nên một tiểu thư xinh đẹp, đài các, khiến nhiều thư sinh gắm ghé đến. Trong số ấy có một chàng trai thuộc gia đình bình dân lại rất yêu thương Bà, nhưng vì môn đăng hộ đối, chàng không dám thố lộ tâm tình cùng Bà, chỉ thương thầm nhớ trộm mà ôm chặt mối tình tuyệt vọng, vì lẽ đó gây thành mối oan gia sau nầy.

Chẳng may số trời đã định, Bà bị một cơn bạo bịnh mặc dầu được gia đình lo thuốc thang chạy chữa nhưng không khỏi, Bà thoát trần trong lúc tuổi vừa mới cập kê. Lúc đó chàng trai cũng vì yêu thầm nhớ trộm, mang bịnh tương tư dần dần thân hình tiều tụy rồi cũng qua đời.

Hồn cả hai người vì mối oan tình phải đầu kiếp trở lại để trả nghiệp.

Trong kiếp giáng trần lần thứ hai ở Việt Nam, Bà Thất Nương có tên là Vương Thị Lễ, sanh ngày 8 tháng 1 năm Canh Tý (1900) tại Chợ Lớn, là con gái Ông Vương Quang Trân làm Đốc Phủ, và Bà Đỗ Thị Sang, con gái của quan Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương.

Lớn lên Bà Vương Thị Lễ theo học tại trường Sainte Enfance tốt nghiệp Brevet Élémenntaire (Trung học). Bà rất được gia đình yêu thương chiều chuộng. Lúc bấy giớ có nhiều danh gia vọng tộc muốn đi hỏi cưới, nhưng Bà nhứt định chưa chịu có chồng. Rồi một hôm chẳng may Bà lâm bịnh ngặt nghèo, chạy đủ thầy, đủ thuốc mà không thuyên giảm.

Vào thời ấy, có một bác sĩ trẻ, tốt nghiệp bên Pháp về hành nghề ở Việt Nam, gia đình nghe tin mới cho người đến rước về trị bịnh cho Bà.

Mẹ của Bà, Bà Vương Quan Trân, thấy vị Bác sĩ khôi ngô tuấn tú, bèn có ý nghĩ là khi nào con gái bà được vị bác sĩ nầy trị hết bịnh thì sau Bà sẽ gã con gái cho.

Nhưng than ôi! Số phần Bà Vương Thị Lễ vì oan nghiệp mà phải gánh chịu khổ não, nên vào ngày 25 tháng 10 năm Mậu Ngọ (Dl. 28/11/1918) Bà trút hơi thở cuối cùng tại tư gia khi vừa mới được 19 tuổi.

Cho nên vào đêm 30 tháng 7 năm 1925, trong lúc ba vị Thiên Sứ là Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư và Cao Hoài Sang đang họp nhau tại nhà ông Sang để xây bàn thỉnh Tiên, thì chơn linh của Bà Vương Thị Lễ, mượn tên Đoàn Ngọc Quế giáng bàn than cho số kiếp của Bà bằng một bài thi như sau:

Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?

Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.

Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,

Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.

Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,

Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.

Dồn dập tương tư oằn một gánh,

Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?

Sau đó, ông Phạm Công Tắc, ông Cao Quỳnh Cư và ông Cao Hoài Sang đều có hoạ lại bài thi đó của Bà.

Kể từ đó Bà Vương Thị Lễ thường giáng cơ xướng hoạ với ba ông. Sau một thời gian, vào một tối thứ bảy, Bà giáng bàn kết nghĩa anh em với ba vị: Bà tự cho mình là Tứ muội, gọi ông Cao Quỳnh Cư là trưởng ca, ông Phạm Công Tắc là nhị ca, ông Cao Hoài Sang là tam ca. Đồng thời Bà còn giới thiệu các vị Nữ Tiên khác như Nhứt Nương, Lục Nương, Bát Nương về giáng hoạ thi văn với ba ông.

Sau nầy, Bà Vương Thị Lễ mới cho ba vị Thiên sứ biết chính Bà là Thất Nương Diêu Trì Cung có nhiệm vụ dùng văn chương thi phú để dìu dắt ba Ngài theo đường Đạo đức, rồi dẫn đến khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Cho nên trong bài thài hiến lễ Thất Nương trong Hội Yến Diêu Trì Cung khởi đầu bằng tên “Lễ” của Bà:

Lễ bái thường hành tâm đạo khởi,

Nhơn từ tái thế tử vô ưu.

Ngày xuân gọi thế hảo cừu,

Trăm duyên phước tục khó bù buồn tiên.

Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng trong thời hạ nguơn mạt pháp, cõi thế gian bị chìm trong cảnh tăm tối của thiên tai, của bệnh tật, của chiến tranh, của khổ não, Thất Nương Diêu Trì Cung là vị Tiên Nương đắc lịnh của Đức Phật Mẫu khơi lên ngọn đuốc Đại Đạo cho cháy bùng để ánh sáng ngọn đuốc xoá tan màn tăm tối, hầu dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi cảnh mịt mờ, đi theo nẻo chánh đường chơn mà trở về với ngôi xưa vị cũ.

Như vậy công đầu khai mở nền đạo Cao Đài là công lớn của Bà Thất Nương, chính trong “Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu” đã suy tôn Bà bằng hai câu kinh như sau: “Thất Nương khêu đuốc Đạo đầu, Nhờ người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi”.

Cầm Hoa Sen Thất Nương nguyện rỗi,

Cõi Hạo Nhiên mở lối vĩnh tồn.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THẤT NƯƠNG KHÊU ĐUỐC ĐẠO ĐẦU

Thất Nương 七 娘: Vị Tiên Nương đứng hàng thứ bảy trong Cửu Vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung. Khêu đuốc: Khơi lên ngọn đuốc. Ngọn đuốc được ví như nguồn Đạo. Ánh sáng ngọn đuốc xem như ánh sáng Đại Đạo soi sáng tâm linh của chúng sanh còn đang mê mờ, tăm tối. Đạo đầu: Đầu tiên của nền Đại Đạo.

Thất Nương khêu đuốc Đạo đầu có nghĩa Bà Thất Nương là Đấng Tiên Nương có công khơi sáng lên ngọn đuốc đầu tiên để khai mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Ngọn đuốc được ví như nguồn Đại Đạo. Ánh sáng ngọn đuốc xem như ánh sáng của nền Đại Đạo dùng để soi sáng tâm linh của chúng sanh còn đang mê mờ, tăm tối trong thời kỳ hạ nguơn mạt pháp nầy.

Trong thời hạ nguơn mạt pháp, cõi thế gian bị chìm trong cảnh tăm tối của thiên tai, của bệnh tật, của khổ não, Thất Nương Diêu Trì Cung đắc lịnh của Đức Phật Mẫu khơi lên ngọn đuốc Đại Đạo cho cháy bùng để ánh sáng xóa tan màn tăm tối, hầu dẫn dắt chúng sanh thoát cảnh mịt mờ, đi theo nẻo chánh đường chơn mà trở về với ngôi xưa vị cũ.

Theo lịch sử xây bàn, Thất Nương là vị Tiên Nương, có một kiếp giáng trần tại Việt Nam là cô Vương Thị Lễ.

Vương Thị Lễ là con gái ông Vương Quang Trân và Bà Đỗ Thị Sang, cháu gọi ông Vương Quang Kỳ bằng chú và là cháu ngoại của ông Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương.

Cô Vương Thị Lễ sinh ngày 08 tháng 01 năm Canh Tý, 1900 tại Chợ Lớn, mất năm 1918 sau cơn bệnh nặng, lúc ấy cô mới mười tám tuổi. Cô học tại trường Sainte Enfance, trình độ Brevet Élémentaire. Cô được chôn trong ngôi mộ ở vườn Bà Lớn cạnh đường Phan Thanh Giản, thuộc Ngã bảy Sai gòn. Năm Mậu Thân 1968, mộ được lấy cốt thiêu để thờ. Hiện nay đất ấy thuộc khu Chung cư Nguyễn Thiện Thuật ở Quận Ba.

Trong đêm xây bàn ngày mùng 10 tháng 06 năm Ất Sửu (30-07-1925) tại nhà Ngài Cao Hoài Sang gần chợ Thái Bình Sài Gòn, Cô Vương Thị Lễ mượn tên Đoàn Ngọc Quế giáng cho ba ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang một bài thi Tự Thuật, ba ông đều có hoạ lại. Rồi sau đó cô có kết làm anh em với ba ông.

Từ đó cô Vương Thị Lễ thường xuyên dùng văn chương, thi phú để dẫn dắt ba ông theo con đường Đạo đức, hầu sau nầy các vị ấy trở thành những vị Tiền khai của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức Đạo Cao Đài ngày nay.

Như vậy, Bà Thất Nương Diêu Trì Cung đắc lệnh của Đức Phật Mẫu giáng huyền cơ thâu phục ba vị phò loan là Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư và Cao Hoài Sang để Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu dìu dẫn ba vị này khai mở nền Đại Đạo.

Thật vậy, trong quyển Đạo Sử của bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Cửu Thiên Huyền Nữ, tức là Đức Phật Mẫu có giáng cơ vào ngày 27/10 năm Ất sửu như sau: “Mùng một này, tam vị đạo hữu Vọng Thiên cầu Đạo”.

Đến ngày mùng 1 tháng 11, Đức Chí Tôn mới dạy ba vị phò loan “phải Vọng Thiên Cầu Đạo. Tắm gội cho tinh khiết, ra quỳ giữa Trời, cầm 9 cây nhang mà vái rằng: Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, vọng bái Cao Đài Thượng Đế, ban ơn đủ phước lành cho ba tôi cải tà quy chánh”.

Như vậy nhờ sự dìu dắt của Thất Nương, lời dạy của Cửu Thiên Huyền Nữ và nhứt là lệnh của Đức Chí Tôn, kể từ ngày ấy, ba vị phò loan trở thành Thiên sứ khai nền Đại Đạo.

Thất Nương khêu đuốc Đạo đầu,

Nhờ Người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi.

(Tán Tụng Công Đức).

 

 

THẤT NGÔI DIỆT VỊ

Thất ngôi: Mất hết ngôi phẩm. Diệt vị 滅 位: Tiêu hết phẩm vị, hay ngôi vị.

Thất ngôi diệt vị là tiêu mất hết ngôi vị, tức ngôi vị trước kia ở nơi cõi Thiêng Liêng đều bị mất hết do những hành vi xấu xa nơi cõi trần.

Người đời chẳng khác con buôn trong buổi chợ, cả sức lực, cả trí não tinh thần đều bị tiêu tán nơi ấy, vì vậy nên mới mất chơn linh, thất ngôi diệt vị.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẤT NGHĨA

失 義

Thất: Mất. Nghĩa: Điều được coi là hợp lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người.

Thất nghĩa là mất điều nghĩa, hay mất đạo nghĩa.

Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn, Phối Sư Thái Đến Thanh có nói: Chữ nghĩa là toàn 全, ngã 我 hiệp thành, chữ toàn là trọn, chữ ngã là ta, hiệp lại thành chữ nghĩa 義, làm người giữ trọn cùng ta thì nên nghĩa, còn chẳng trọn cùng ta là thất nghĩa.

Hễ thất nghĩa rẻ khinh kim cải,

Khó tưới hoa trở lại thanh tươi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Hai vai gánh nặng thân mòn,

Cơn đau thất nghĩa, hầu hờn giảm thương.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẤT NGHIỆP

失 業

Thất: Mất. Nghiệp: Nghề.

Thất nghiệp là mất nghề nghiệp, tức là không có việc làm để sinh sống. Như: Bị thất nghiệp hơn hai năm.

Diễn Văn Đức Quyền Giáo Tông đọc tại Toà Thánh nhân ngày Phật Đản có câu: Ít ai ngó xuống thương đồng loại cực khổ biết bao! Kể không xiết số người thất nghiệp truân chuyên, cơm tẻ ngày hai không có, mảnh tơi che cật chẳng lành.

Đời anh hạc chẳng bằng ai,

Thua thằng thất nghiệp tương lai mịt mù.

(Thơ Hộ Pháp).

Cặm cụi sanh nhai không thất nghiệp,

Cần cù hoạt động chẳng khoe tài.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THẤT PHÁCH

七 魄

Thất: Bảy. Phách: Vía, là chơn thần, hay còn gọi đệ nhị xác thân.

Thất phách là bảy vía, tức bảy thể bao bọc chơn thần để cho chơn thần thích ứng được với bảy cõi giới, từ nhẹ tới nặng, trong đó cõi trần là trọng trược hơn hết, nên lấy xác phàm làm thể thứ bảy để bao bọc chơn thần thích nghi với cõi hạ giới.

Vì vậy, người ta thương nói “Tam hồn thất phách 三 魂 七 魄”, có nghĩa là ba hồn bảy vía.

Trong Đại Thừa Chơn Giáo có dạy: “Linh-hồn của con người từ ở cõi Bồng Lai Tiên Cảnh hoặc Cực Lạc Niết Bàn mà muốn đầu thai xuống cõi hạ giới này là cõi thứ 7 thì đã phải trải qua 6 cõi hư linh ở thượng tằng không khí, mà mỗi khi trầm xuống mỗi cõi hư linh thì linh-hồn phải chịu dưới quyền cấu tạo của Tạo-Hoá chi cơ, nghĩa là phải thọ bẫm thần khí ở cõi hư linh đó mà bao bọc thêm ra ngoài một lớp thể chất nữa, mà hễ càng trầm xuống xa chừng nào thì lại càng nặng nề thêm chừng nấy.

Khi trầm xuống đến cõi dục giới này lại còn phải mang thêm một cái xác thân phàm tục trọng trược đủ điều, nhưng cũng nhờ có cái xác thân phàm, đủ đầy tam bửu ngũ hành mà kẻ giác ngộ con đường lành lo tu hành đặng có tấn hoá trở về nguyên vị cũ”.

Theo Đức Hộ Pháp, chơn thần của con người là do Đức Phật Mẫu dùng bảy nguơn khí tạo thành, nên người theo Phật gọi là thất phách. Trong Thuyết Đạo Hộ Pháp cho biết như sau: Các bạn có biết Phật Mẫu là ai? Ngài dùng bảy nguơn khí tạo chơn thần ta, tức nhiên tạo phách ta. Nhà Phật gọi là thất phách. Kỳ thật khí phách ấy làm chơn thần, tức là nhị xác thân chúng ta, khi chúng ta bỏ xác trần, xác Thiêng Liêng ấy vẫn còn tồn tại.

Ði vòng cổi cho rồi thất phách,

Trả quả mà rửa sạch lòng phàm.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THẤT PHU

匹 夫

Thất: Kẻ bình dân trong xã hội, không chức phận gì. Phu: Người đàn ông.

Thất phu là chỉ người đàn ông tầm thường, không danh phận trong xã hội.

Thất phu còn dùng để chỉ những người chẳng ra gì.

Người xưa thường có câu: Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách 國 家 興 亡, 匹 夫 有 責, nghĩa là nước nhà hưng thịnh hay lúc suy vong, dân thường cũng phải có trách nhiệm.

Trước kia là ai mà dám để chí vị quốc vong xu, còn nay gặp đứa thất phu lại ngại ngùng chiến đấu.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

THẤT QUỐC

失 國

Thất: Mất. Quốc: Nước, quốc gia.

Thất quốc là mất nước, ý nói quốc gia bị mất hết chủ quyền, lãnh thổ.

Như: Gặp cảnh vong gia thất quốc.

Muôn dân thất quốc căm hờn,

Định an nước cũ chi sờn lòng trai.

(Kinh Cúng Chiến Sĩ).

 

 

THẤT SƠN

七 山

Thất: Bảy. Sơn: Núi.

Thất sơn là bảy ngọn núi ở Châu Đốc, thuộc miền Nam Việt Nam, được các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương tôn xưng là Bửu Sơn, gồm bảy ngọn núi thuộc hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên tỉnh An Giang, Việt Nam.

Thất Sơn được biên chép trong Đại Nam Nhất Thống Chí gồm các núi: Tượng, Tô, Cấm, Ốc Nhẫm, Nam Vi (南 為 山), Tà Biệt và Nhân Hoà (人 和 山).

Theo Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, xuất bản tại Sai Gon vào năm 1972; được Vương Hồng Sển dẫn lại trong Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam, thì đó là các núi: Tượng, Tô, Cấm, Sam, Két, Dài, Tà Béc...

Đến năm 1984, Trần Thanh Phương cho xuất bản Những Trang sử về An Giang, đã kể tên bảy Núi là:

Núi Cấm (Thiên Cấm Sơn 天 禁 山).

Núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn 五 湖 山).

Núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn 鳳 凰 山).

Núi Dài (Ngọa Long Sơn 卧 龍 山).

Núi Tượng (象山) hay (Liên Hoa Sơn 蓮 花 山).

Núi Két (Anh Vũ Sơn 鶧 鹉 山).

Núi Nước (Thủy Đài Sơn 水 臺 山).

Châu ngũ khí hoà tan ác nghiệt,

Thất sơn dấy động Thất sơn dời.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THẤT TỊCH

七 夕

Thất: Bảy. Tịch: Chiều tối.

Thất tịch là đêm mồng bảy tháng bảy.

Tương truyền, Ngưu lang, Chức nữ phạm tội, bị trời đày mỗi người ở một bên sông Ngân Hà, chỉ mỗi năm cho gặp nhau một lần vào đêm thất tịch.

Quạ đội đá bắc cầu vào đêm thất tịch cho hai vợ chồng gặp nhau. Khi gặp, hai vợ chồng ôm nhau khóc, nước mắt ràn rụa xuống hạ giới, người ta gọi là mưa ngâu.

Thước kiều trên dải Ngân giang,

Cho đêm thất tịch hai đàng gặp nhau.

(Thơ Thuần Đức).

Đêm thất tịch bên sông lại gặp,

Quạ đội cầu cho cặp vợ chồng.

(Báo Ân Từ).

 

 

THẤT TIẾT

失 節

Thất: Mất. Tiết: Khí tiết.

Thất tiết là không giữ vững được khí tiết.

Ngoài ra, chữ “Thất tiết” còn dùng để chỉ người đàn bà không giữ trọn được trinh tiết với chồng theo quan niệm ngày xưa.

Như: Mặc dù chồng chết đã lâu nhưng nàng vẫn gìn giữ lòng chung thuỷ, chẳng bao giờ để thất tiết.

Hễ phận gái một phen thất tiết,

Còn mong chi trinh liệt giữ cho bền.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẤT TÍN

失 信

Thất: Mất. Tín: Tin, tín nhiệm.

Thất tín là mất lòng tin, mất tín nhiệm, không giữ lời hứa. Như: Thất tín với bạn bè.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Bần Ðạo rất ưu tư khổ não về tinh thần, vì xem thấy trường sát hại nhơn sanh cứ tiếp diễn trong nước nhà của chúng ta mãi. Nếu lấy theo trí độ tinh thần của chúng ta, tưởng sự tàn sát khốc liệt đổ máu, chủng tộc ta lâm nạn nồi da xáo thịt thì do tội tình của quốc dân thất tín, thất phận đối với Ðức Chí Tôn.

Làm như vậy thì thất tín với mình, thất tín với thiên hạ, không còn ai dám tin dùng mình nữa...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THẤT TINH

七 星

Thất: Bảy. Tinh: Ngôi sao.

Thất tinh là bảy ngôi sao, thường chỉ sao Bắc đẩu.

Bắc đẩu, còn gọi Tiểu hùng tinh, là chòm sao sáng nằm ở phương bắc.

Sao Bắc đẩu gồm bảy ngôi sao, gọi là Thất tinh sắp theo hình cái bánh lái. Bốn vì sao hình cái đầu, ba sao hình cái cán hay cái chuôi.

Ðèn bảy ngọn, cũng có lẽ đặt tên là Thất Tinh.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẤT TÌNH

七 情

Thất: Bảy. Tình: Tình cảm của con người.

Thất tình là bảy thứ tình cảm của con người, ai ai cũng có, đó là: Hỷ (mừng), nộ (giận), ái (yêu), ố (ghét), ai (thương), lạc (vui), cụ (sợ).

Theo Phật, bảy thứ tình cảm này thường hay quấy rối thân tâm, giục con người làm những việc quấy.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có dạy: Quý vị không tu thân khắc kỷ thì trên bước đường đời chông gai hiểm trở, quý vị không thể tránh khỏi những cạm bẫy do thất tình lục dục luôn luôn đặt dưới chơn quý vị.

Dây oan xe chặt buộc mình,

Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

(Kinh Tận Độ).

Cam Lồ rưới giọt nhành dương,

Thất tình lục dục như dường tiêu tan.

(Kinh Tận Độ).

Thất tình lục dục là mồi mị,

Bí pháp chơn truyền tảo đảnh vân.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THẤT TỔ

七 祖

Thất: Bảy. Tổ: Nội, ngừi đầu tiên lập ra dòng họ.

Thất tổ là bảy vị Tổ của dòng họ.

Trong sách Lễ Ký có nói rằng: Tổ là đấng có công khai sáng buổi đầu tiên. Tông là đấng kế chí, noi theo chí người xưa lập nền tảng cho người đời sau để truyền kế hương lửa.

Theo bản đồ Thất Tổ Miếu thì Thất tổ gồm:

 

7.- Thất Tổ:

 

Thuỷ Tổ 始 祖

 

Tỷ khảo

 

6.- Lục Tổ:

 

Viễn Tổ 遠 祖

 

Tỷ khảo

 

5.- Ngũ Tổ:

 

Tiên Tổ 先 祖

 

Tỷ khảo

 

4.- Tứ Tổ:

 

Cao Tổ 高 祖

 

Tỷ khảo

 

3.- Tam Tổ:

 

Tằng Tổ 曾 祖

 

Tỷ khảo

 

2.- Nhị Tổ:

 

Hiển Tổ 顯 祖

 

Tỷ khảo

 

1.- Nhứt Tổ:

 

Hiển Tỷ khảo 顯 妣 考

 

(Cha mẹ).

 

Nguyện cùng Thất Tổ xin thương,

Cho bền gan tấc noi đường thảo ngay.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THẤT TUẦN

七 旬

Thất: Bảy. Tuần: Mười ngày mới gọi là một tuần, hoặc trong lễ chúc thọ thì mười năm gọi một tuần.

Thất tuần là bảy tuần, tức bảy mươi năm, chỉ tuổi thọ là bảy mươi tuổi.

Mắt mờ thêm nỗi lảng tai,

Thất tuần đã quá từ ngày ấu xuân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẤT THÁNH

七 聖

Thất: Bảy. Thánh: Bậc Thánh.

Thất Thánh là bảy ông Thánh đời Phong Thần, đó là Lý Thiên Vương (Lý Tịnh), Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử và Vi Hộ.

Thất Thánh được Hội Thánh khắc hình nơi bao lam màu đỏ bên phía tả của Đền Thánh.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông cho biết lý do tạo hình như sau: Bởi vì bảy ông Thánh đứng trong đời mạt Trụ, hưng Châu. Trong lúc lập bảng Phong Thần, bảy ông này đầy đủ công nghiệp, tâm đức, vượt khỏi bảng Phong Thần vào trường Phong Thánh. Cả nhơn sanh ngày nay gắng làm sao cho đầy đủ công nghiệp, tâm đức để vượt khỏi trường Phong Thánh bước vào địa vị tối cao để chẳng uổng kiếp sanh của chúng ta trong thời kỳ Chí Tôn hoằng khai Đại Đạo, mới không hổ mặt với các bậc tiền bối.

Ấy là Thất Thánh cộng đồng,

Đủ đầy tài đức khỏi trong phong thần.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THẤT THẬP CỔ LAI HY

七 十 古 來 稀

Thất thập: Bảy mươi. Cổ lai: Từ xưa tới nay. Hy: Ít.

Thất thập cổ lai hy là bảy mươi tuổi xưa nay ít có, ý nói đời người sống đến bảy mươi rất hiếm hoi.

Thất thập cổ lai hy còn dùng để chỉ người 70 tuổi. Do thơ Đỗ Phủ có câu: Nhơn sinh thất thập cổ lai hy 人 生 七 十 古 來 希, nghĩa là đời người sống 70 tuổi, xưa nay ít.

Xem: Cổ hy.

Nhơn sanh thất thập cổ lai hy,

Văn Pháp về Tiên quá nhiệm kỳ.

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

THẤT THẬP NHỊ ĐỊA

七 十 二 地

Thất thập nhị: Bảy mươi hai. Địa: Địa cầu.

Thất thập nhị Địa là bảy mươi hai Địa cầu.

Theo Thánh giáo, con người chúng ta đang ở trên Địa cầu 68, trên chúng ta nữa là Địa cầu 67, 66... rồi đến Địa cầu thứ nhứt, tức là được sắp xếp theo thứ tự từ trọng trược đến khinh thanh. Như thế, dưới Địa cầu 68 là bốn Địa cầu u tối nặng nề, ấy là u minh giới.

Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Các con hiểu rằng, trong Tam thiên Thế giới còn có Quỷ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là Thất thập nhị Ðịa nầy, sao không có cho đặng?

Hạ ốc Thất thập nhị địa,

Tứ Đại Bộ Châu.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THẤT THẬP NHỊ HIỀN

七 十 二 賢

Thất thập nhị: Bảy mươi hai. Hiền: Bậc Thánh hiền.

Thất thập nhị Hiền là bảy mươi hai vị Hiền Thánh.

Ngày xưa, Đức Khổng Tử sau khi chu lưu Lục quốc để truyền bá Đạo Nho, Ngài trở về dạy học, có đến ba ngàn người học trò, sử gọi là tam thiên đồ đệ, trong đó có bảy mươi hai người tài giỏi hơn hết, đời sau gọi thất thập nhị hiền.

Khi mở Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền và Thiên phong Chức sắc để lập thành Hội Thánh, tượng cho Thánh thể của Ngài nơi mặt thế, trong đó có bảy mươi hai vị Giáo Sư, mỗi phái gồm hai mươi bốn người, mà Ngài gọi là “Thất thập nhị Hiền”.

Thầy Khổng Tử trước có Tam thiên đồ đệ, truyền lại còn Thất thập nhị Hiền.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẤT THẾ

失 勢

Thất: Mất. Thế: Cách, cuộc bày ra.

Thất thế là không có được hoặc bị mất đi vị trí, chỗ tựa thuận lợi, làm cho không có sức chống đỡ. Như: Ngồi thất thế bị té, sa cơ thất thế.

Bài giáng cơ của Phối Thánh Phạm Văn Màng có câu: Ôi! Ngày nào những kẻ cô thế mà thấy bóng Đạo binh vực che chở; ngày nào những kẻ đói cơm khát nước, rách rưới lõa lồ mà tay Đạo dưỡng nuôi mặc ấm; ngày nào những kẻ thảm lệ tuôn sa, tâm thần khổ não mà thấy ơn Đạo lau thảm rửa sầu, trọn tình an ủi; ngày nào những kẻ thất thế yếu hèn mà quyền Đạo làm cho vinh huê cao trọng thì ngày ấy mới ra thiệt Đạo.

Thất thế náu nương chớ tưởng lâu,

Nương cùng quý vị chỉ đường cầu.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

THẤT THỂ ĐẠO

失 體 道

Thất: Mất. Thể: Thể diện. Đạo: Tôn giáo.

Thất thể đạo là mất thể diện một tôn giáo.

Người nhập môn theo Đạo hoặc những người chức sắc lập thệ để đi hành đạo thì phải giữ gìn hạnh đức, không làm những việc bê bối, xấu xa làm “Thất thể Đạo”, tức làm mất danh thể của đạo, khiến người ta chê bai, khinh rẻ tôn giáo.

Song chẳng đặng làm thất thể đạo, nghica là mỗi điều sửa cải phải do Hội Thánh phê chuẩn.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THẤT THỆ

失 誓

Thất: Mất. Thệ: Thề nguyền.

Thất thệ là mất lời thề, tức là không giữ đúng lời thề lúc mới nhập môn vào Ðạo.

Cho nên việc lập Minh Thệ lúc nhập môn cầu Đạo của chư Tín đồ Cao Đài rất quan trọng, nếu giữ đúng lời thề thì được hưởng ân huệ của Ðức Chí Tôn cứu giúp, nếu thất thệ thì bị đoạ vào cõi Âm quang.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Vậy, ai là người thất thệ với Chí Tôn thì phải sớm thức tỉnh tâm hồn, ăn năn sám hối, cầu xin Ðại Từ Phụ cùng các Ðấng Thiêng Liêng, từ bi ân xá tội lỗi tiền khiên, hoạ may đặng chung hưởng ân huệ của Ðức Chí Tôn ban cho sau nầy.

Sự thất thệ là một trọng tội vô phương cứu chửa, “hoạch tội ư thiên vô khả đảo dã”.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THẤT THỐ

失 措

Thất: Mất. Thố: Để một vật.

Thất thố là để lạc mất một vật gì.

Nghĩa bóng có sự sơ suất, sai phạm, thiếu giữ gìn ý tứ trong hành vi hoặc trong nói năng.

Như: Ăn nói thất thố, có điều gì thất thố, xin lượng thứ và miễn chấp cho.

Nghe giọng tỳ khêu mấy đoạn buồn,

Chạnh cơn thất thố với ly hương.

(Đạo Sử).

 

 

THẤT THỦ

失 守

Thất: Mất. Thủ: Giữ.

1.- Thất thủ là mất, không gìn giữ được.

Thất thủ chỉ cơ đồ bị mất, đất nước bị giặc chiếm, hoặc khí tiết không vững vàng.

Như: Kinh thành thất thủ.

Kinh Châu thất thủ nơi Thiên định,

Khiến Hớn vận suy mới đổi thay.

(Đạo Sử).

2.- Thất thủ còn có thể hiểu là không có sự nghiệp, tức người thiếu thốn, nghèo đói về tiền bạc, vật chất.

Như: Làm ăn không được đành chịu thất thủ tại nhà.

Cùng lân lý, hay thương người thất thủ, hằng ra tay tế độ bạc tiền,

Với mẹ cha, thường để tấc lòng thành, gắng hết sức đáp đền ơn nhũ bộ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

THẤT THƯỜNG

失 常

Thất: Mất. Thường: Bình thường, lệ thường.

Thất thường là mất bình thường, tức ở tình trạng hay thay đổi, khi thế nầy khi thế khác.

Như: Ăn uống thất thường, mưa gió thất thường.

Trong lễ kỷ niệm ngày quy Thiên của Đức Hộ Pháp, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Suốt 5 năm công khó, ăn ngủ thất thường, đem hết trí não điều khiển công cuộc xây dựng. Ðền Thánh vừa mới tạo xong mặt ngoài thì chánh phủ Pháp ra lệnh cho nhân công phải ngưng hết mọi công việc xây cất.

Quách Cự hiếu, nghèo đành chôn trẻ,

Nhịn cháo ăn thân mẹ thất thường.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THẤT TRUYỀN

失 傳

Thất: mất. Truyền: Trao lại, đưa đi xa.

Thất truyền là bị mất đi, không được truyền lại cho các đời sau nầy.

Thất truyền, cũng như chữ “Thất kỳ truyền”, hoặc “Thất chơn truyền”, ý nói chánh pháp của tôn giáo được truyền lại bị sai lạc đi, không còn giống như thuở ban đầu.

Lâu đời Tam Giáo thất truyền,

Ngày nay Đại Đạo dựng giềng quy mô.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THẤT ỨC

七 億

Thất: Bảy, số đếm đứng trước tám và sau sáu. Ức: Mười vạn (mười muôn), tức một trăm ngàn.

Thất ức là bảy trăm ngàn năm.

Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn, đạo Cao Đài khai mở vào thời kỳ thứ ba này kéo dài đến thất ức niên (700.000 bảy trăm ngàn năm).

Xem: Thất ức niên.

Mấy triệu sanh đồ đồng khẩn bái,

Công danh thất ức sử vàng biên.

(Thơ Mai Ngọc Nhiễu).

 

 

THẤT ỨC NIÊN

七 億 年

Thất ức: Bảy trăm ngàn. Niên: Năm.

Thất ức niên, còn gọi là “thất bá thiên niên 七 百 千 年” là bảy trăm ngàn năm (700.000).

Đạo Cao Đài được khai sáng vào tiền bán thế kỷ 20, tại miền Nam nước Việt, tổng hợp tinh hoa của các tôn giáo đã thâm nhập từ lâu vào dân tộc ta, có tôn chỉ là Quy nguyên Tam giáo và Hiệp nhứt Ngũ chi.

Khi mở Đạo vào thời kỳ thứ ba này, Đức Chí Tôn không chiết chơn linh hạ phàm như hai thời kỳ trước: Nhứt kỳ và Nhị kỳ phổ độ. Kỳ này, Ngài cùng Đức Phật Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương, và các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật giáng cơ ban cho giáo pháp để dìu dắt chúng sanh, hướng dẫn mở nền tôn giáo mới, trong đó Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế và Đức Diêu Trì Kim Mẫu là hai Đấng cha mẹ linh hồn chung của nhơn loại, được gọi là Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu của vạn linh.

Theo lời Thánh giáo Đức Chí Tôn, Giáo pháp các Đấng trong nhất và nhị kỳ phổ độ bị cải sửa, xa lần Chánh giáo, nên thất kỳ truyền. Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, chính mình Đức Chí Tôn đem nền Chơn giáo truyền lại cho toàn cả chúng sanh bằng huyền diệu cơ bút, có thể truyền đến thất ức niên (tức bảy trăm ngàn năm), nên được gọi là mối Chơn truyền.

Căn cứ vào kinh sách chúng ta thử xét Đức Chí Tôn nói Đạo Cao Đài khai mở lần nầy sẽ truyền bá đến “thất ức niên” trong những tài liệu nào?

Trong bài thi của Đức Chí Tôn ban về Tịch đạo chức sắc Cửu Trùng Đài nam phái có xác định nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ kéo dài được Thất ức niên, tức bảy trăm ngàn năm. Hai câu thi như sau:

 

Thanh đạo tam khai thất ức niên,

 

清 道 三 開 七 億 年

 

Thọ như địa quyển, thạnh hoà thiên.

 

夀 如 地 圏 盛 和 天

 

Vô hư quy phục nhơn sanh khí,

 

無 虛 歸 服 人 生 氣

 

Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.

 

造 萬 古 壇 照 佛 緣

Nghĩa là:

- Nền Đại Đạo trong sạch của Đức Chí Tôn mở lần thứ ba kéo dài được bảy trăm ngàn năm.

- Lâu dài như trái đất, thạnh vượng bền vững cùng Trời.

- Ðức Chí Tôn đem trở về các linh hồn của nhơn sanh,

- Tạo ra từ những đàn cúng tế xưa để soi sáng người có duyên với Phật.

Và trong ngày lễ khai nền Đại Đạo ngày 15 tháng 10 năm bính Dần (1926) tại chùa Gò Kén có đề hai câu liễn như sau:

Di Lạc thất bá thiên niên quảng khai Đại Đạo.

彌 勒 七 百 千 年 廣 開 大 道

Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn.

釋 迦 二 十 五 世 終 立 禪 門

Nghĩa là:

- Đức Phật Di Lạc rộng mở nền Đại Đạo trong bảy trăm ngàn năm.

- Đức Phật Thích Ca lập Phật giáo trong hai mươi lăm thế kỷ thì chấm dứt.

Đôi liễn tại Báo Ân Từ cũng có nhắc lại nền Chánh Đạo sẽ được truyền thừa đến thất ức niên như sau:

報 答 至 功 前 輩 開 基 天 道 留 傳 千 萬 代

Báo đáp chí công tiền bối khai cơ thiên đạo lưu truyền thiên vạn đại.

恩 祠 大 德 後 人 承 繼 尊 崇 正 教 七 億 年

Ân từ đại đức hậu nhân thừa kế tôn sùng chánh giáo Thất ức niên.

Giải nghĩa:

- Đền đáp công nghiệp lớn lao của các bậc tiền bối đã mở ra nền tảng đạo Cao Đài để truyền lại muôn đời sề sau.

- Đển thờ những vị có ân đức lớn, người sau thừa kế, tôn sùng nền Đạo chơn chánh đến bảy trăm ngàn năm.

Ngoài ra, trong bài Thuyết đạo tại Đền Thánh ngày rằm tháng 7 năm Kỷ sửu (1949), Đức Hộ Pháp có nói rằng: Đạo Cao Đài ngày nay do Đức Chí Tôn đến, Ngài nói ta đến ở cùng các ngươi, ta sống cùng các ngươi, ta đem chơn pháp đến cho các ngươi đặng giải thoát, ta sẽ tận độ chúng sanh cứu vớt chúng sanh một lần nữa, ta quyết định ở với con cái ta đời đời chẳng cùng đến THẤT ỨC NIÊN. Ngài ở với con cái của Ngài nên Ngài mới đến mà thôi, các lương sanh tức là các chơn hồn, hữu căn hữu kiếp đã tiền căn ở nơi Ngài mà ra, nơi thân hình thiêng liêng vô tận của Ngài mà đến gồm lại làm Thánh Thể của Ngài tức là Hội Thánh ngày nay vậy.

Trong dịp Hội Thánh đãi tiệc chư Chức sắc và Nhân viên công quả tại Hạnh Ðường ngày 18 tháng Giêng Tân Hợi (Dl. 13/2/1971), Đức Thượng Sanh có nói: Trong bữa tiệc ủy lạo nầy, sự hiện diện đông đủ của toàn thể Chức sắc các cấp bậc và nhơn viên Công quả chứng tỏ mối dây thân ái đã thắt chặt tình huynh đệ thiêng liêng giữa con cái Ðức Chí Tôn. Hôm nay đoàn tụ trong bầu êm ấm vui tươi dưới mái gia đình của nền Ðại Ðạo, sự đoàn kết chặc chẽ nầy tiêu biểu một sức mạnh phi thường có thể dời non lấp bể, nếu những quả tim của tất cả các bạn Ðạo đều cùng đập một nhịp yêu đương và cương quyết làm tròn nhiệm vụ. Chúng ta phải cố gắng giữ gìn cho cái sức mạnh tinh thần đó còn nguyên vẹn mãi mãi, để làm nền tảng kiên cố cho cơ quan phổ độ tồn tại đến THẤT ỨC NIÊN và tạo nên nhiều phương tiện trên đường lối xây đựng cơ nghiệp Ðạo.

Và Ngài cũng có dạy: Ðức Chí Tôn lập nên Thánh thể của Người cốt để giữ gìn cái kỷ luật ấy được trường tồn mãi. Nó là khuôn vàng thước ngọc để cho chúng ta tùng theo cho khỏi sai bước lạc đường, nền Ðại Ðạo mới lưu truyền đến Thất ức niên trên võ trụ, xin chư đạo hữu lưu ý.

Theo Ngài muốn bảo vệ nền Đại Đạo đến thất ức niên thì người chức sắc và chư tín đồ phải gìn giữ luật pháp của đạo cho tròn.

Chánh giáo bảo tồn thất ức niên,

Nhờ nơi luật pháp hiệp chơn truyền.

(Huệ Giác).

Bảo tồn sự nghiệp danh Từ Phụ,

Chơn pháp Cao Đài thất ức niên.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THẤT VỊ

失 位

Thất: Mất. Vị: Chỗ ngồi, ngôi vị.

Thất vị là mất ngôi vị.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Hại nỗi, Tà Thần là kẻ nghịch của Thầy, tức cũng là kẻ nghịch của các con, nương quyền của Thái Bạch đã rộng cho thử thất các con, làm đến nỗi những đứa ít duyên phần phải mất ngôi thất vị.

Ôi! Cái giả tâm nó hại cho thất vị nhiều người tai mắt của Đạo.

(Thánh Giáo Bát Nương).

 

 

THẤT VỌNG

失 望

Thất: mất. Vọng: Hy vọng.

Thất vọng là mất hy vọng. Như: Cha mẹ thất vọng về đứa con hư đốn.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhưng tin tưởng nơi lòng yêu thương của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ và nơi tấm thạnh tình chia vui sớt nhọc của các bạn đồng thuyền, người đau khổ cũng tự an ủi được vì ở trong cảnh ngộ đó cũng chưa phải là quá thất vọng chán nãn đưa đến chỗ bán đồ nhi phế bỏ dở hành trình.

Thảm thay! Cái thất vọng của Thầy nên ghê gớm!

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

Khi anh được tưng tiu quý trọng,

Thì phòng khi thất vọng khổ nguy.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THẬT

Hay “Thực”.

Thật, như chữ “Thực 實”, là không dối, đúng với sự có hẳn. Như: Chuyện có thật, làm thật, thật bụng.

Thánh giáo của Lý Bạch dạy rằng: Ðạo chẳng phải một món hàng mà nay đem cầu người nầy, mai đem nài kẻ kia cho họ biết mà nhìn nhận, thật nên nhục thể Ðạo quá!

Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,

Mà trong lòng chẳng thật kính thành.

(Kinh Sám Hối).

Trình ra hai mặt thật hoà ngoan,

Khá nhớ lê quan với phép làng.

(Đạo Sử).

 

 

THẬT HÀNH

Hay “Thực hành”.

Thật (thực): Có thực. Hành: Làm.

Thật hành, như chữ “Thực hành 實 行”, là làm để áp dụng lý thuyết vào thực tế.

Như: Thật hành và lý thuyết cần phải đi đôi.

Xem: Thực hành.

Chuyển xây thiên hạ đại đồng,

Thật hành bác ái thoát vòng oan khiên.

(Long Hoa Hội).

 

 

THẬT LÒNG

Thật (thực): Có thật, có thể nhận biết bằng giác quan. Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm.

Thật lòng, như chữ “Thực Tâm 實 心”, là không giả dối. Như: Thật lòng giúp đỡ, thật lòng hối cải.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Nếu các con thật lòng vì Ðạo thì đâu có chậm trễ như vầy.

Nếu đặng thật lòng lo cứu chúng,

Thầy đành giao đứt một Tiên chu.

(Đạo Sử).

 

 

THẬT TÌNH

Hay “Thực tình”.

Thật (thực): Thật, sự việc có thực như vậy. Tình: Nói chung là tình cảm.

Thật tình, như chữ “Thực tình 實 情”, là thành thật, đúng với thực tế của tình cảm, ý nghĩ, không giả dối.

Như: Thật tình muốn giúp đỡ bạn.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Trong hai tháng Bần Ðạo nói thật tình thấy Hội Thánh tấn bộ khá nhiều rồi. Hội Thánh năm nay đã đem ra mặt luật lưu lại cho hậu tấn một khuôn khổ chuẩn đích từ thử chưa xuất hiện.

Hỏi ta có sống thật tình,

Hay là giấc mộng Diêm Đình đưa nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đừng thèm dụng cao ngôn xảo ngữ,

Với vợ nhà cứ giữ thật tình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẬT THÀ

Hay “Thực thà”.

Thật (thực): Thực, không dối, đúng với sự có hẳn.

Thật thà là tính người tự bộc lộ một cách tự nhiên, không giả tạo, không dối trá.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu:. Bằng cớ hiện hữu là ta đã thờ Thần trong các làng ngày nay đó vậy. Ngoài nữa tâm lý tín ngưỡng của nòi giống Việt Nam nhiệt liệt và thật thà đối với bất kỳ Ðạo Giáo nào.

Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,

Câu văn từ luận biện thật thà.

(Kinh Sám Hối).

Phận làm tớ thật thà trung tín,

Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.

(Kinh Sám Hối).

Dầu mình có giỏi hơn Tiên Thánh,

Cũng nhớ cha có tánh thật thà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÂU

1.- Thâu là suốt cả, từ đầu đến cuối, chỉ khoảng thời gian, thường là đêm.

Như: Thâu canh, trằn trọc thâu đêm, làm việc từ thâu đêm suốt sáng.

Ðiều đình để bước nguyệt canh thâu,

Nét bóng phù du đã đủ màu.

(Đạo Sử).

Trường đình giục thảm canh thâu,

Gối còn nửa nguyệt đỡ đầu phòng thu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thâu, còn đọc “Thu 收”, là góp, gom, lượm.

Như: Thâu tiền thuế, thâu lúa mướn, thâu học trò, thâu quyền hành.

Thánh giáo Thầy dạy Bà Đái Thị Huệ có câu: Thầy giao Nữ phái cho con rộng quyền dạy dỗ, làm chủ, chờ Thầy thâu đến mà giao cho con. Trách nhậm con, Thầy chia bớt với.

Nguồn Tiên tầm Ðạo dễ gì đâu?

Quyền phép Càn khôn một túi thâu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh,

Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Thâu còn đọc là “Thu 收”, là làm cho nhỏ lại, gọn lại hoặc mòn lần.

Như: Diện tích ruộng đất thâu hẹp dần, năm chương trình thâu lại còn ba, tháng thâu năm lụn.

Ngày thâu bóng xế oanh thưa nhặt,

Mắt nhắm đường xa khách thẳng dùn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Non chiều ác xế bóng Trời thâu,

Nẻo chánh may nương buổi đáo đầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Những thảng mảng tháng thâu năm lụn,

Sớm công phu, tối tụng Vãng sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÂU CÁC ĐẠO HỮU HÌNH

Thâu: Còn đọc “Thu”, gom lại, thống nhất. Các Đạo hữu hình: Các tôn giáo có hình tướng ở thế gian.

Thâu các Đạo hữu hình là thâu các Tôn giáo hiện có ở nơi thế gian làm một mối, tức làm thành một nền Đại Đạo, có một tín ngưỡng duy nhất dưới quyền giáo hoá của Đức Di Lạc Vương Phật.

Thâu các Đạo hữu hình làm một,

Trường thi Tiên, Phật dượt kiếp khiên.

(Kinh Tận Độ).

Thâu các Đạo hữu hình thống nhứt,

Giữ huyền Cơ nắm Luật Đạo, Đời.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THÂU ĐA

收 多

Thâu: Nhận vào, gom góp vào. Đa: Nhiều.

Thâu đa là thâu vào cho thật là nhiều, ý muốn nói lòng ham muốn quá to, bao nhiêu cũng không vừa.

Như: Làm ruộng rải phân ít mà muốn thâu đa.

Thầy phân chánh lý cho con hiểu,

Kẻ vụ thâu đa chẳng thoát phàm.

(Đạo Sử).

 

 

THÂU ĐA NẠP THIỂU

收 多 纳 少

Thâu đa: Nhận hay gom góp vào nhiều. Nạp thiểu: Nộp vào kho hay đưa lên quan trên thì ít.

Thâu đa nạp thiểu là gom góp của dân thì nhiều mà nộp vào công quỷ thì ít.

Thâu đa nạp thiểu dùng để chỉ hành động tham nhũng của các quan khi thâu của dân thì nhiều, nạp cho nhà nước thì ít.

Người thanh bần như vậy thì vui sướng hơn kẻ giàu mà sâu mọt, lường công tham của, thâu đa nạp thiểu.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÂU ĐÊM

Thâu: Suốt cả, từ đầu đến cuối, chỉ khoảng thời gian, thường là đêm. Đêm: Khoảng thời gian từ tối cho đến sáng.

Thâu đêm là suốt cả đêm. Như: Anh ấy phải làm thâu đêm suốt sáng mới xong.

Sầu dài ngày vắng dễ chi vui,

Toan tính thâu đêm ruột rối nùi.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THÂU ĐOẠT

Hay “Thu đoạt”.

Thâu (thu): Nhận lấy. Đoạt: Cướp, chiếm.

Thâu đoạt, như chữ “Thu đoạt 收 奪”, là chiếm lấy về.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo muốn cho nòi giống Việt Nam thấy lực lượng tinh thần nhơn nghĩa, đạo đức, đã thâu đoạt thắng lợi một cách vinh diệu.

Dùng hết mưu chước quỷ quyệt thâu đoạt cho đặng lợi lộc quyền thế cho nhiều.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÂU HOẠCH

Hay “Thu hoạch”.

Thâu (thu): Lấy vào, tom góp. Hoạch: Gặt hái.

Thâu hoạch, như chữ “Thu hoạch 收 穫”, là nhà nông gặt hái mùa màng.

Thâu hoạch còn có nghĩa là nhận lấy kết quả.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Nối chí của Ngài là Đức Duy Tân, con ruột của Ngài, thật đúng như lời tục Việt Nam ta nói, cha nào con nấy, thật đáng làm chúa của nòi giống Việt Nam lắm, vì cớ cho nên dầu cho đương nhiên giờ phút này, nếu Pháp không trả độc lập thì dân tộc Việt Nam cũng đồng tâm tranh đoạt cho được độc lập của nước nhà, họ tranh đấu bằng mọi phương pháp để thâu hoạch cho đặng nền độc lập ấy.

Chung cuộc, khoa học thâu hoạch kết quả vật chất, bồi bổ cho đời sống thực tế.

(Giáo Lý).

 

 

THÂU HỒI

Hay “Thu hồi”.

Thâu (thu): Lấy vào, tom góp. Hồi: Trở về.

Thâu hồi, như chữ “Thu hồi 收 回”, lấy trở lại cái đã phát ra hay mất đi.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp. có câu: Tưởng khi trên chín năm quật cường thâu hồi độc lập cho Tổ quốc giang sơn, các Ngài đã có sẵn trong tay một sử liệu, có thể một ngày kia ngòi bút quý báu của các Ngài lưu lại cho hậu tấn một kiểu vở một khuôn mẫu y theo tinh thần cố hữu của Tổ phụ để lại.

Thánh giáo phát khai thiên thế mỹ,

Thâu hồi nhập nhứt Ðạo Kỳ Tam.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Luyến ái hậu tình khuynh thủ đảo,

Thâu hồi chủng tử thoát hồng trần.

(Đạo Sử).

 

 

THÂU NHẬP

Thâu (thu): Nhận vào từ nhiều nguồn đóng góp, tập trung vào một chỗ từ nhiều nơi. Nhập: Vào, vô.

Thâu nhập, như chữ “Thu nhập 收 入”, là thâu vào, nhận vào. Như: Thâu nhập đệ tử.

Thu nhập còn dùng để chỉ nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thầy có đoạn: Các con, Thầy thâu nhập môn đệ, cho Thánh bút kỳ nầy là chót, định ngưng cơ phổ độ, từ đây do theo Tân Luật mà hành đạo và thâu nhập chúng sanh, nhưng nếu có chuyện bí yếu chỉ về nền Đạo và về đường trách nhậm của các con, thì Thầy sẽ lấy từ bi mà khuyến dạy.

Chư nhu cầu đạo đều đặng thâu nhập.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÂU PHỤC

Hay “Thu phục”.

Thâu (thu): Lấy vào, nhận về mình. Phục: Chịu phục theo người hơn mình.

Thâu phục, như chữ “Thu phục 收 服” là làm cho người kính phục mà theo về với mình.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Nay Thầy phải tự tìm lấy một phương pháp huyền diệu hơn để thâu phục các con. Các con sẽ không còn chối cãi được trước Toà Phán Xét Chung rằng Thầy không cứu vớt nhơn loại bằng những phương pháp công hiệu.

Nhơn tình ví chẳng mưu thâu phục,

Thế giới mong chi phép độ lường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÂU THẬP

Hay “Thu thập”.

Thâu (Thu): Lấy vào. Thập: Nhặt, lượm.

Thâu thập, như chữ “Thu thập 收 拾”, là thâu vào, hoặc thu nhặt, tức là lượm lặt lại cho gọn gàng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy vì thương nhơn loại, muốn cứu hết nên thường thâu thập nhiều đứa vô tâm, cũng muốn cho chúng nó ăn năn chừa lỗi, ngõ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao mong rỗi đặng.

Tiền tài thâu thập đa tân khổ,

Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ không.

(Quan Âm Giáng Bút).

 

 

THẤU

Thấu là suốt qua, đạt đến mức tường tận.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có đoạn dạy: Nếu bỏ Tâm kia ra ngoài mà rèn hình thể thì chẳng khác chi quỳ đọc kinh, đèn đốt đỏ hừng, mà thiếu bức Thiên Nhãn trên điện vậy. Hồn ma bóng quế cũng lên ngồi, mà ngạ quỷ vô thường cũng xẩn bẩn, đó là phương đem đường cho Quỷ vương, chẳng một ai tránh được, nghe!

Nên hiểu kỹ lời, bằng chẳng thấu thì tu có ích chi!

Xưa con không thấu cội nhành,

Vì đường Đạo bế biệt cành hoa rơi.

(Tán Tụng Công Đức).

Lo lường cho rõ thấu Thiên cơ,

Biết đặng thì tua tính kịp giờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẤU ĐÁO

透 到

Thấu: Suốt qua, thông suốt. Đáo: Đến.

Thấu đáo là đến nơi đến chốn, tức hiểu suốt.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ðức Chí Tôn phải sở cậy tay phàm lập Ðạo là vì Ðạo lập ra là để độ người phàm, chớ không phải để độ các ông Thánh, Ông Tiên, và nhứt là có sự hợp nhứt giữa Trời và Người, gọi là Thiên, Nhơn hợp nhứt thì mới thấu đáo Càn khôn, trường tồn đến thất ức niên.

Mầu nhiệm dễ chi tìm thấu đáo,

Ðáo đầu mới rõ Ðạo là cao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nghe thấy đủ điều toan trí tính,

Mới là thấu đáo việc đời cùng.

(Đạo Sử).

Thấu đáo đường đời hầu vẹn bước,

Tột cùng lẽ Đạo đặng trau mình.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

THẤU HIỂU

透 曉

Thấu: Suốt qua, thông suốt. Hiểu: Rõ, biết, biết rõ

Thấu hiểu là hiểu một cách sâu sắc, tường tận. Như: Thấu hiểu nỗi lòng của người mẹ

Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong Giáo Lý có viết: Trí đã phát khởi, thấu hiểu Chơn lý Thiện ác và biết giới hạn của tình dục rồi. Lúc bấy giờ, chúng ta ung dung thông cảm với Thiên lý mà sống với một thái độ thuận hoà, bình tỉnh theo Đạo tự nhiên.

Bần Ðạo xin giảng thuyết duy tâm và duy vật. Nếu không thấu hiểu hai thuyết ấy, thì không hiểu thuyết đại đồng.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THẤU TRIỆT

透 徹

Thấu: Suốt qua, thông suốt. Triệt: Suốt cả.

Thấu triệt là biết rõ ràng, biết tường tận vấn đề. Như: Hiểu thấu triệt hết mọi vấn đề.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Người tu hành cần nhứt là phép tham thiền đặng tầm cái lý Ðạo cao siêu của Tạo Công đặt bày trên mấy cõi hư linh ngõ cho thấu triệt đến cả cội nguồn nguyên thỉ.

Ngày giờ nào nhơn loại biết chỗ chơn thật của triết lý ấy thấu triệt đặng phụng sự nhơn loại...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THE

1.- The là hàng dệt bằng tơ nhỏ sợi, mặt thưa mỏng, không bóng, thường dùng để may áo dài hoặc màn.

Như: Áo the, trướng gấm màn the.

Mua hàng họ quan sát kỹ lưỡng đếm từ sợi, coi mình gì, hàng hay the hay lãnh, xem xét một cách dè dặt rồi mới mua...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- The là có vị hơi cay cay, tê tê lưỡi như vị ở vỏ cam, vỏ quít, hay vỏ bưởi.

Như: Cam non còn the, vỏ quít the, vỏ bưởi bỏ lớp the dùng làm nem chay rất ngon.

Mùi đời chát ngắt chua lè,

Mùi Tiên nếm đặng, không the, ngọt bùi.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THÈM

1.- Thèm là khao khát, ước muốn, tức có cảm giác muốn được hưởng những cái gì đó trong sinh hoạt, do nhu cầu thôi thúc đòi hỏi của cơ thể.

Như: Thèm ngọt, thèm chua, hút cho đã thèm, thèm ngủ, thèm đi du lịch một thời gian.

Ca dao có câu: Đói thì thèm thịt thèm xôi, Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường.

Mình dầu đặng ăn sang quý miếng,

Tưởng mẹ cha chịu tiếng chết thèm.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.-Thèm còn dùng trong câu phủ định với nghĩa là muốn, cần do có nhu cầu.

Như: Không thèm nói nữa, đừng thèm giận nó, chẳng thèm ngó tới.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ý muốn tỏ, dầu nước suối là của thiên nhiên, cũng không muốn nhơ bợn, không thèm lợi dụng.

Đừng thèm dụng cao ngôn xảo ngữ,

Với vợ nhà cứ giữ thật tình.

(Phương Tu Đại Đạo).

Thôi, nói sơ sơ như thế cũng xong,

Kẻo họ xé sách không thèm đọc.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÈM KHÁT

Thèm: Khao khát, mong muốn. Khát: Ở tình trạng quá thiếu nên đòi hỏi cấp thiết.

Thèm khát là vì thiếu thốn nên cảm thấy muốn có đến mức bức thiết.

Nhược bằng hưởng quả hột quăng,

Ngày sau thèm khát xin ăn của người.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THÈM MUỐN

Thèm: Khao khát, mong muốn. Muốn: Cảm thấy có sự đòi hỏi về tâm lý, tình cảm hay sinh lý làm một việc gì hay có cái gì.

Thèm muốn là muốn được thoả mãn nhu cầu nào đó của bản thân. Như: Anh ấy ước ao thèm muốn có một căn nhà khang trang, đẹp đẽ.

Không phải là họ ghét sự phú quý, mà chỉ vì họ trọng đạo quá nên phú quý không đủ mãnh lực làm cho họ phải thèm muốn.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THEN

Then là thanh gỗ hay thanh sắt dùng để cài ngang phía trong cánh cửa.

Như: Cửa đóng then cài, cài then cửa cổng cho chặt.

Vạn trượng then gài ngăn Bắc đẩu,

Muôn trùng nhíp khảm hiệp Nam tào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THEN CHỐT

Then: Thanh gỗ cài ngang cánh cửa để người ngoài không mở được. Chốt: Thanh cài qua lỗ để giữ chặt một vật.

Then chốt là cái quan trọng nhất, có tác dụng quyết định đối với toàn bộ.

Như: Nền móng là then chốt của ngôi nhà, vị trí cửa hàng là then chốt của việc mua bán.

Nhờ tin tưởng Cao Ðài có một,

Ẩn mình trong then chốt của Thầy.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THẸN

Thẹn là mắc cỡ, tức cảm thấy bối rối, mất tự nhiên khi tiếp xúc với đám đông hay người khác phái.

Thẹn là hổ ngươi, xấu hổ, tức tự cảm thấy mình có điều gì đó không nên, không phải hoặc không xứng đáng.

Thánh giáo Thầy có câu: Biết Ðạo, biết ta biết người, biết thế biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt, rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối.

Danh vọng ru hồn quên thổ võ,

Thẹn nòi bộc lại mộ đai cân.

(Đạo Sử).

Sá chi những mặt tôi đòi,

Mua vinh chẳng thẹn tiếng đời thị phi.

(Xuân Hương Giáng Bút).

 

 

THẸN BÓNG

Thẹn: Mắc cỡ, xấu hổ. Bóng: Hình bóng.

Thẹn bóng là thẹn với hình bóng.

Thẹn bóng, do câu trong Tống sử có chép: Độc hành bất quý ảnh, độc tẩm bất quý khâm 獨 行 不 愧 影, 獨 寢 不 愧 衾, nghĩa là đi một mình không thẹn với bóng, ngủ một mình không thẹn với chăn, ý muốn nói dầu khi một mình cũng không làm bậy, nghĩ xằng, chẳng làm việc gì xấu xa đê tiện.

Con khá nhớ hồng nhan phận mỏng,

Đừng làm cho thẹn bóng trăng xuân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẸN THUỒNG

Thẹn: Mắc cở, xấu hổ.

Thẹn thuồng, như chữ “Thẹn thùng”, là bẻn lẻn, xấu hổ, e thẹn. Như: Cô bé thẹn thuồng nép sau cánh cửa.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Con vật mà ta thấy bị giết được là vì nó vô cô không phương bảo vệ, ngày nay giết nó mà ăn thịt, biết đâu sau nầy các bạn lạc hậu ấy tiến hoá đến phẩm người trở lên, rồi chúng ta sẽ gặp nó bên mình, khi ấy nó ngó ta mà cười và hỏi: “Xưa kia Ðức Phật có ăn tôi một lần”. Nghĩ tưởng chẳng gì sỉ hổ thẹn thuồng bằng. Thế nên ta phải ăn chay.

Vậy Thầy lại thấy một bọn môn đồ, khi đến nói đạo với kẻ nào thì thẹn thuồng ái ngại.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THEO

1.- Theo là nối đàng sau, tức đi liền ở phía sau, không rời ra. Như: Theo sau, theo chơn, theo hầu.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy khuyên các con theo sau Thầy mà đến phẩm vị mình thì hay hơn tuông bờ lướt bụi, đi quanh kiếm quất, nghe à.

Nay con chưa đủ thông đường Ðạo,

Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Theo là noi, nương, đeo đuổi, hay tin theo. Như: Theo đạo Cao Đài, theo Phật, theo một chủ nghĩa.

Thánh giáo Thầy có câu: Chẳng phải Thầy còn buộc theo Cựu luật, song luật ấy rất nên quý báu, không giữ chẳng hề thành Tiên Phật đặng.

Theo Ðạo Cao Ðài ơn cứu độ,

Muôn năm hưởng phước trở về sau.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nước dương rưới sạch trần ai cũ,

Bờ giác nương theo nguyệt rọi làu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nếu muốn an vui theo lẽ đạo,

Từ từ đừng vọng vị cao lương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Theo có nghĩa là vâng chịu, không trái lại. Như: Theo ý Trời, theo lời thầy, theo ý cha, theo thời thế.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Chí Tôn có câu: Tu là chi? Tu là trau giồi đức tính cho nên hiền, thuận theo ý Trời định trước.

Vưng theo sở lượng của Thiên Công,

Cửa tuyết chen chơn lánh khỏi vòng.

(Đạo Sử).

 

 

THEO DÕI

Theo: Đi liền ở phía sau, không rời ra. Dõi: Tiếp nối theo sau người trước.

1.- Theo dõi, như chữ “theo chơn dõi bước”, tức là theo dõi từng bước chơn của người đi phía trước.

Như: Những tín đồ Đạo Cao Đài phải theo dõi từng bước chân dẫn dắt của Hội Thánh để đi trọn con đường.

Xem: Theo chơn dõi bước.

Tại cớ gì mà chư vị Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái là đàn anh của mấy em và mấy con chịu cực nhọc khổ não theo Đạo trọn một đời hy sinh cả kiếp sống của mình để chơn theo dõi bước Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Theo dõi còn có nghĩa là chú ý theo sát từng hoạt động, từng diễn biến để biết rõ hoặc có sự ứng phó, xử lý kịp thời. Như: Theo dõi tin tức trên báo chí.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nên để ý là người hành Ðạo cần phải có chí nhẫn nại, phải cố gắng theo dõi mục đích mà mình đã đạt lấy không lúc nào chểnh mảng.

Ai dám xả thân hành chánh Ðạo?

Ðạo mầu theo dõi hết trần ai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thiệt thiệt hư hư con chớ ngại,

Gắng công theo dõi biết khôn hư.

(Đạo Sử).

 

 

THEO CHƠN DÕI BƯỚC

Theo chơn: Đi liền phía sau chơn. Dõi bước: Noi theo từng bước.

Theo chơn dõi bước là theo dõi từng bước chơn của người đi phía trước.

Đưa phép sanh tồn khuyên trẻ ngó,

Theo chơn dõi bước níu sau Thầy.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÈO LẺO

Lẻo: Nhanh miệng, liến thoáng, tỏ ra không thật, không sâu sắc.

Thèo lẻo là mách lẻo, hớt lẻo, tức là mách cho người này biết chuyện của người khác một cách không cần thiết, không hay, từ dùng có hàm ý chê bai.

Như: Chị ấy tánh hay thèo lẻo và tò mò chuyện của người khác lắm.

Mình thèo lẻo không ưa ai thèo lẻo,

Sợ kẻ hay sửa méo nghề hay.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÉP

Thép là một loại hợp kim bền, cứng, dẻo của sắt với lượng nhỏ carbon.

Thép dùng để chỉ sự bền, cứng.

Như: Cứng như thép, con dao thép, con người thép, thành đồng đất thép.

Lòng tựa thép giũa mòn sắt cứng,

Ý như Trời chịu đựng phong ba.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THÊ

Thê là vợ cả. Như: Hôn thê, thê tử, thê thiếp.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Muốn định hôn cho con thì trước hết cha mẹ đã lựa chọn tâm lý của vị hôn thê coi có hoà hiệp với tâm tình của con mình không, chứ chẳng phải xem xét tánh đức mà thôi, mà cha mẹ là người lịch lãm thế tình, nên thâm hiểu cả tâm tình của đôi lứa, dầu cho đôi lứa chưa biết nhau trước mà cũng có thể chung khổ cùng nhau, đồng tâm đồng chí thương yêu nhau đặng.

Còn không lưu lại lời hiền,

Mưu chi gỡ nổi thảm phiền đạo thê.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÊ LƯƠNG

悽 涼

Thê: Buồn rầu. Lương: Lạnh lẽo.

Thê lương là chỉ cái khung cảnh gợi lên cảm giác buồn rầu lạnh lẽo. Như: Nơi chiến địa là cảnh thê lương tang tóc.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ôi! Dưới bức thê lương nầy ai là tri kỷ, tri âm cùng Bần Ðạo, ngoài ra chư Hiền Hữu, Hiền Muội thì Bần Ðạo đã kiếm đặng ai. Tưởng khi các bạn cũng có lẽ tội nghiệp cho con hạc bịnh nầy, mà để tai lóng tiếng.

Bao nhiêu lệ thảm rơi dòng nước,

Mấy lúc thê lương đổ góc trời.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THÊ LƯƠNG THẢM ĐẠM

悽 涼 慘 淡

Thê lương: Buồn thảm lạnh lẽo. Thảm đạm: Đau xót khổ sở.

Thê lương thảm đạm có tác dụng gợi lên cảm giác buồn thảm khổ đau, lạnh lẽo.

Như: Sau cuộc chiến, bao giờ cũng bày ra những cảnh thê lương thảm đạm.

Nên ngày nay đã gây ra biết bao tấn tuồng thê lương thảm đạm...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÊ NOA

妻 孥

Thê: Vợ. Noa: Con.

Thê noa, đồng nghĩa với chữ “Thê nhi 妻 兒”, tức là người vợ và con cái.

Con thuyền tình ái cầu Ô bắc,

Mối nợ thê noa bóng nguyệt lồng.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THÊ NHI

妻 兒

Thê: Vợ. Nhi: Con nhỏ.

Thê nhi là vợ con.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cơ hội ngàn năm một thuở, ví như Ðấng Chí Tôn không khai mối Ðạo Trời, cái đà sống của mỗi người chúng ta trong thời loạn là cần cù mưa nắng vì manh áo bát cơm, nay di cư chỗ nầy, mai đổi dời chỗ khác, phải chịu cảnh lầu Tần quán Sở, cay đắng trăm bề, trong lúc loạn ly thì vàng thau chung chạ, ngọc đá bất phân, ngoài ra còn bận bịu gánh thê nhi, não nề tình ấm lạnh, rồi đến khi Thiên số nan đào, thân cát bụi không còn để lại một dấu vết chicho người đời nhắc nhỡ.

Thêm những sãi giả nương cửa Phật,

Của thập phương châu cấp thê nhi.

(Kinh Sám Hối).

Miệng ăn quá sức tay làm,

Thê nhi thiếu kém thân phàm chẳng no.

(Ngụ Đời).

Con chớ ỷ mình là nam tử,

Chiếm chủ gia hẹp xử thê nhi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÊ TỬ

妻 子

Thê: Vợ. Tử: Con.

Thê tử là vợ và con.

Thành ngữ Việt Hán có câu: “Thê thằng tử phược 妻 繩 子 縛”, nghĩa là vợ trói con buộc.

Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, văn tế Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Hỡi ôi! Chuông reo cảnh hạc, bóng khuất non Tây, khách giục rừng tòng, người về quê cũ, thương vì đoàn thê tử, mẹ Nam con Bắc, vợ dựa cửa trông chồng, xem càng chạnh nỗi, dầu lòng thương ôm chịu chớ biết sao!

Tròn năm luống phận cần cù,

Không nuôi thê tử không bù thân sanh.

(Ngụ Đời).

Nhìn trước Linh sàng hương phảng phất,

Buồn nay thê tử lệ tuông trào.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THÊ THẢM

悽 慘

Thê: Buồn, bi thương. Thảm: Đau đớn xót xa.

Thê thảm là rất thảm thương, như cái chết rất thê thảm, tình cảnh thật là thê thảm.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Trẻ con sơ sanh bắt chước cha mẹ nhiều hơn hết, gia đình nào mà không tôn trọng nhau, gây gổ bất hoà khi rẻ nhau là gương xấu cho con đó, ở đây chúng ta chịu khổ thì thái bình thầy trò còn chung sống cùng nhau hợp quần với nhau, sự khổ nào cũng chia xẻ ra thành bớt đi, còn ngoài đời họ sống hiu quạnh cô độc họ còn khổ nhiều nữa, xem như giống vật đừng nói chi hơn cái bọn kiến nhọt kết bè lại, con vật khác vô đó còn phải chạy thay, huống hồ chi phải giống người, nếu biết kết bè lại mà sống, anh ngã em đỡ, em té anh nâng, thân cô độc giữa đời kia nó còn thê thảm lắm lắm.

Con đã nhiều phen khóc lóc, Thầy thê thảm muôn phần, song thấy Thiên cơ đã định, ngày hội hiệp con mới hiểu đặng mà đem dạ thương Thầy.

(Đạo Sử).

 

 

THÊ THẰNG TỬ PHƯỢC

妻 繩 子 縛

Thê thằng: Vợ trói. Tử phược: Con buộc.

Thê thằng tử phược, cùng như thành ngữ “Thê triền tử phược 妻 纒 子 縛”, là vợ trói con buộc.

Thê thằng tử phược ý nói người đã có vợ con rồi, vì bổn phận nên bị ràng buộc, không được tự do.

Thê thằng tử phược tiếng đời rằng,

Chồng bậu cũng vì chịu khó khăn.

(Đạo Sử).

 

 

THÊ THIẾP

妻 妾

Thê: Vợ chánh thức, vợ lớn. Thiếp: Vợ lẽ (Người hầu) trong các gia đình giàu sang thời xưa.

Thê thiếp là tiếng gọi chung người vợ.

Thê thiếp còn dùng để chỉ người vợ lớn và vợ nhỏ trong gia đình.

Thê cùng thiếp sớm chiều hầu hạ,

Phán một lời kẻ dạ người thưa.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THÊ VINH TỬ ẤM

妻 榮 子 蔭

Thê vinh: Vợ được vẻ vang. Tử ấm: Con được tập ấm của cha, tức là cha làm quan con được hưởng tập ấm.

Thê vinh tử ấm ý nói chồng lập được danh phận thì vợ, con được rạng rỡ và được hưởng tập ấm.

Chỉn cầu con gắng chí cho bền,

Lập danh phận cho thê vinh tử ấm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẾ

1.- Thế là ấy, vậy, rứa. Như: Thế ấy, thế thì, thế mà, thế nầy, như thế.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Chư hiền hữu đã đặng phép tự biến tự liệu mà hành đạo, thế thì hiệp vầy chung lo, thảo thuận cùng nhau, còn chi hơn nữa đặng?

Ðòi lúc phân vân đời vẫn thế,

Màng chi miệng độc để chê khen.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nương dựa con tua vầy hiệp bạn,

Ðường đời cũng thế chẳng bao xa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thế là đời. Như: Thế gian, thế kỷ, thế giới.

Thánh giáo Thầy có câu: Chí Thánh dầu bị đoạ trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh. Nếu chẳng vậy, ai còn dám ưng thuận hạ thế cứu đời?

Cứu thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ,

Ðộ đời cố tạo phước nhơn gian.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðường trào hạ thế hưởng Tam quan,

Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.

(Lý Giáo Tông).

3.- Thế là thay cho, gán vào. Như: Thay thế, vay tiền thế ruộng, thế vợ đợ con.

Thánh giáo Chí Tôn có câu: Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng đảo.

Dầu bãi biển, năm non cũng lội,

Lựa cực thân gia nội thế quyền.

(Phương Tu Đại Đạo).

Già răng rụng cắn cơm không bể,

Dâu kiếm phương nhai thế đút mồi.

(Phương Tu Đại Đạo).

4.- Thế cách, cuộc bày ra. Như: Thế cờ, thế trận, thế nước, thế lực, tình thế.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Buồn là vì có biến chuyển xảy ra trong lúc đầu năm làm cho con cái của Ðạo phải chịu thống khổ, nhân tâm ly tán tình thế đảo điên.

Lựa dèo lựa thế độ nhơn sanh,

Khó dễ Thầy cho hiểu ngọn ngành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thông biết thế thời mới gọi thông,

Thông minh học Ðạo vẹn trau lòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nơi lòng Thầy ngự, động Thầy hay,

Ngặt nỗi là xưa chẳng thế bày.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẾ CUỘC

Thế: Đời. Cuộc: Bởi chữ “Cục 局”, là cái hình, cái thế bày ra.

Thế cuộc, như chữ “Thế cục 世 局”, là cuộc đời, tức là cuộc sống ở trên cõi đời này, nói cuộc sống có ý nghĩa.

Thánh giáo Thầy có dạy: Sanh đứng vào vòng thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng đặng chờ lúc kết quả, hồn quy Thiên ngoại, lánh khỏi xác phàm, trở về nơi khởi hành mà phục các điều đã thi hành giữa sân khấu là chốn trần ai khốn đốn nầy.

Thế cuộc như trò khoe mắt tục,

Tội tình khó rửa với khôn lanh.

(Đạo Sử).

Ngắm thế cuộc chẳng bằng một giấc,

Kiếp phù sinh đặng thất là bao.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Chí cao sâu đáy biển lòng Trời,

Trí thức để đổi đời xây thế cuộc.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẾ CHIẾN

世 戰

Thế: Thế giới, chỉ toàn bộ các nước trên Địa cầu. Chiến: Hai bên đánh nhau.

Thế chiến là chiến tranh xảy ra giữa nhiều nước trên thế giới.Như: Đệ nhị thế chiến.

Trước nay có xảy ra hai kỳ chiến tranh thế giới, đó là Thế chiến thứ nhứt và Thế chiến thứ hai.

Bốn phương dấy động binh đao,

Thứ ba thế chiến không sao tránh rồi.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

Hoà bình cương lĩnh kêu chung sống,

Thế chiến hạt nhân chịu nạn đành.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THẾ ĐẠO

Thế: Đời, cuộc đời, chỉ cõi trần. Đạo: Đường lối phép tắc phải theo.

Thế đạo là đạo xử thế, tức những khuôn phép của con người sống ở đời cư xử với nhau cho hợp đạo lý.

Thế đạo đồng nghĩa với Nhơn đạo là đạo làm người.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo dám chắc một điều chúng ta dở quá, chúng ta thất phận đối với Thế đạo chúng ta mà chớ, có sang cả, vinh hiển, cao trọng một mớ anh em, còn phần nhiều nghèo hèn, khó khăn khổ não, chúng ta không thể chối được.

Bình sanh tâm địa náo trung can,

Nhược thể nan tri thế đạo tàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẾ GIÁI

Thế: Đời, cuộc đời, chỉ cõi trần. Giái (giới): Đất đai trong một khu vực.

Thế giái, như chữ “Thế giới 世 界”, là chỉ chung toàn thể loài người đang sinh sống trên trái đất.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ta thấy rõ ràng Chí Tôn muốn cho cả nhơn loại chung hiệp cùng nhau làm một đại gia đình toàn cầu thế giái sau nầy vậy.

Xem: Thế giới.

Thưởng phạt cầm quyền toàn thế giái,

Tử sanh nắm mối khắp trần gian.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

THẾ GIAN

世 間

Thế: Đời, cuộc đời, chỉ cõi trần. Gian: Khoảng giữa.

Thế gian là cõi đời, nơi người đang sống ở.

Thế gian còn dùng để chỉ người đời. Như: Miệng lưỡi thế gian, che mắt thế gian.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thái Thơ Thanh có câu: Thầy đã khiến con đi Ðế Thiên Ðế Thích đặng xem cho tạn mặt hữu hình. Nội thế gian nầy ngày nay, ai cũng nhìn nhận cho là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng? Lòng đạo đức con, Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến. Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà gìn giữ sự giả dối.

Cửa Trời vì có ngày kia mở,

Là đức thế gian ít dám bì.

(Đạo Sử).

Tôi nguyền dẫn dắt cho nhau,

Dìu anh ra khỏi bốn rào thế gian.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THẾ GIỚI

世 界

Thế: Đời, cuộc đời, chỉ cõi trần. Giới (giái): Đất đai trong một khu vực.

Thế giới, nghĩa thông thường là hoàn cầu, tức tất cả các nước trên quả địa cầu.

Ngoài ra, theo kinh Phật, trong Vũ trụ không biết bao nhiêu là Thế giới, hiệp một ngàn Thế giới thành ra một Tiểu thiên Thế giới; hiệp một ngàn Tiểu thiên Thế giới, thành một Trung thiên Thế giới; hiệp một ngàn Trung thiên Thế giới, gọi là một Đại thiên Thế giới. Một Đại thiên Thế giới, thông thường còn được gọi là Tam thiên Đại thiên Thế giới.

Mỗi một Đại thiên Thế giới, có mười muôn vạn Thế giới. Đây là cõi mà Đức Phật hiện ra để hoá độ chúng sanh. Trong Vũ trụ có vô lượng vô số Đại thiên Thế giới, gọi là Thập phương vi trần Thế giới hay Thập phương hằng sa Thế giới (Mười phương Thế giới nhiều như vi trần hay mười phương Thế giới nhiều như cát sông Hằng).

Thế giới mà chúng ta đang sống thuộc về Thế giới Ta Bà hay Sa Bà Thế giới 娑 婆 世 界, là một thế giới thuộc sự hoá độ của Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật.

Danh từ Phật dùng như hằng hà, vô biên, vô lượng để chỉ số không thể ước lượng được. Do vậy, ta thấy Càn khôn Thế giới là một cõi rộng lớn không thể nghĩ bàn được.

Quy Thế giới ư nhứt khí chi trung,

Ốc trần huờn ư song thủ chi nội.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THẾ GIÁI BA NGÀN

Hay “Thế giới ba ngàn”.

Thế giái ba ngàn, bởi chữ “Tam thiên Thế giới 三 千 世 界”, là ba ngàn thế giới.

Thế giái ba ngàn nầy ở bên trên Thất thập nhị địa, nên rất nhẹ nhàng.

Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn, Tam Thiên Thế giới chính là ba ngàn tinh tú, hợp với Thất thập nhị địa thành 3072 ngôi sao mà Đức Chí Tôn bảo vẻ lên quả Càn Khôn thờ nơi Toà Thánh.

Xem: Tam thiên Thế giới.

Thế giái ba ngàn qua có lớp,

Địa hoàn bảy lẻ đến từ tuần.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THẾ GIỚI NHƯ NHÀ

Thế giới: Nghĩa thông thường là hoàn cầu, tức tất cả các nước trên quả địa cầu. Như nhà: Như ở một nhà.

Thế giới như nhà là coi thế giới như nhà của mình, tức xem nhân loại như là anh em một nhà, dù khác quốc gia dân tộc, hay ngôn ngữ màu da, vì tất cả nhân loại đều là con cái của Đấng Thượng Đế.

Đây cũng là quan niệm trong thuyết Đại Đồng của Nho giáo, hoặc triết lý Cao Đài.

Xem: Đại đồng.

Biết coi thế giới như nhà,

Sống nên Chí Thánh, thác là Thần Tiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẾ HỆ

世 系

Thế: Đời, cuộc đời, chỉ cõi trần. Hệ: Ràng buộc.

Trong một đời người có những mối dây liên lạc, ràng buộc với nhau gọi là “Thế hệ”.

Thế hệ còn dùng để chỉ lớp người cùng một lứa tuổi với nhau. Như: Quan tâm và bồi dưỡng đến thế hệ trẻ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Dòng đời xuôi ngược cứ thay đổi theo thế hệ trào lưu, chỉ có chơn lý là bất di bất dịch.

Đầu đội thời gian hai thế hệ,

Mắt nhìn hưng phế mấy tang thương.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THẾ KỶ

世 紀

Thế: Đời, cuộc đời, chỉ cõi trần. Kỷ: Mười hai năm, hoặc một trăm năm.

Thế kỷ là khoảng thời gian một trăm năm.

Trong phép ghi chép năm tháng, người xưa, cứ lấy một trăm năm gọi là một thế kỷ.

Quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thầy có dạy: Các con thoát đặng khỏi nơi u ám là bởi đạo đức. Các con sẽ đặng trọng kỉnh cũng bởi đạo đức. Thầy bồi đắp một sự ghét bỏ các con gần trên một trăm thế kỷ.

Gặp buổi kỳ ba Đạo cứu Đời,

Hạ nguơn thế kỷ thứ hai mươi.

(Thơ Hương Ánh).

 

 

THẾ LUẬT

世 律

Thế: Đời, cuộc đời, chỉ cõi trần. Luật: Luật pháp.

Thế luật là luật đời, tức những quy định về luật pháp thuộc phần nhơn đạo của người tín đồ.

Trong Tân Luật, phần Thế luật có hai mươi bốn điều căn bản quy định cho những tín đồ phải theo để lo tròn về phân nhơn đạo.

Người được nhập môn hành đạo phải tuân y Thế luật như sau nầy.

(Tân Luật).

 

 

THẾ LỰC

勢 力

Thế: Quyền lực, lấy sức mạnh để ảnh hưởng. Lực: Sức, sức lực.

Thế lực là uy quyền, quyền lực, tức sức mạnh dựa vào tiền bạc, hoặc địa vị xã hội mà có. Như: Ỷ thế lực của tiền bạc mà hà hiếp người nghèo.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nhơn loại dùng thế lực mà cắn xé nhau, giành giựt nhau, quên lửng cõi trần nầy, nhơn sanh lãnh mỗi đứa một vai tuồng đặc biệt mà trả cho xong căn xưa quả cũ.

thế lực thì nên nghiệp cả,

Không quyền hành dối trá nghèo hèn.

(Bát Nương Giáng Bút).

Khuyên chung cùng hiệp sức anh em,

Mạnh thế lực đua tranh cùng chúng bạn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THẾ LỰC PHÀM PHU

勢 力 凡 夫

Thế lực: Sức mạnh dựa vào tiền bạc, hoặc địa vị xã hội mà có. Phàm phu: Người tầm thường trong xã hội.

Thế lực phàm phu là uy quyền và sức mạnh của kẻ tầm thường trong thế gian.

Như: Người chức sắc vẫn còn kẻ mượn thế lực phàm phu mà hà hiếp tín đồ.

Thế thì kẻ hung bạo luống mượn thế lực phàm phu để khuấy rối, làm cho bước đường êm thấm phải hoá ra gay trở.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẾ PHIỆT

世 閥

Thế: Đời. Phiệt: Viết công trạng vào giấy hay tấm ván, rồi đem treo ngoài cửa, bên trái gọi là phiệt, bên phải gọi là duyệt.

Thế phiệt là nói những nhà có con cháu từ đời này qua đời kia làm quan to, chức tước lớn, có công trạng với nước nhà, hoặc con cháu được vua ban hàm phẩm. Đồng nghĩa với thế gia. Như: Con nhà thế phiệt.

Điếu văn Đức Thượng Sanh đọc trước Liên đài Ngài Cao Quỳnh Diêu có câu: Hưởng thọ 73 tuổi, Ngài Bảo Văn Pháp Quân sanh trưởng tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thưởng thuộc tỉnh Tây Ninh, trong một gia đình thế phiệt Nho phong.

Xem: Phiệt duyệt.

Bút pháp làu soi dòng thế phiệt,

Văn tài rạng rỡ bậc Nho phong.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THẾ SỰ

世 事

Thế: Đời, cuộc đời, chỉ cõi trần. Sự: Việc.

Thế sự là những việc thường ở đời. Như: Bàn việc thế sự, thế sự lắm chuyện buồn cười.

Thánh giáo Thầy dạy: Ðạo của Thầy gieo có mấy lâu, mà tình hình thế sự thể nào? Bao nhiêu cũng đủ cho các con vui lòng mà bước tới.

Chuyển luân thế sự đưa kinh Thánh,

Trừ diệt tà gian múa bút Thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thế sự những ham sang với trọng,

Quên lo hồn phách chẳng nơi về.

(Đạo Sử).

Rượu sớm, mượn mùi khuây thế sự,

Thi chiều, lựa vận ngóng tao nhân.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THẾ TÌNH

世 情

Thế: Đời, cuộc đời, chỉ cõi trần. Tình: Những tình cảm từ cõi lòng mà phát ra như vui, buồn, hờn, giận...

Thế tình là tình đời, tức tình cảm của mình đối với việc đời, tức cách cư xử ở đời.

Trong Thánh Ngôn có câu: Các con hiền mà dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà các con hành phạt, cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần ngôi Tiên, Phật đó.

Cao Ðài đứng chủ cả sanh linh,

Bến khổ bầu Tiên rưới thế tình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mơn lòng cho thuận tấm chơn linh,

Quyết đoán đừng theo thói thế tình.

(Đạo Sử).

Cũng do có chút diện làu,

Mới sanh tâm độc hại nhau thế tình.

(Cửu Nương Giáng Bút).

 

 

THẾ TÔN

世 尊

Thế: Đời, cuộc đời, chỉ cõi trần. Tôn: Tôn kính.

Thế Tôn là chỉ Đấng mà được toàn nhơn loại tôn kính nhứt.

Theo Phật giáo, Đức Thích Ca Mẫu Ni là vị Phật Thế Tôn, vì Ngài đầy đủ các đức tính để được vạn linh tôn sùng và kính ngưỡng.

Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

(Sớ Văn).

 

 

THẾ TỤC

世 俗

Thế: Đời. Tục: Thói.

Thế tục là thói thường ở đời. Ngoài ra thế tục còn dùng để chỉ cõi đời.

Như: Ăn ở theo thế tục, tình cảm người tu phải vượt ra ngoài thế tục.

Thánh Ngôn Hiệp tuyển có câu: Ngày nầy năm trước, các con vẫn còn mơ màng trong giấc mộng trần, đường co duỗi vẫn đã lấp kín chút bợn trần, mà màn thế tục cũng chưa trông khoả vén.

Dặm khổ qua rồi ngôi vị sẵn,

Hay chi thế tục chước cầu vinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ra vòng thế tục ít người toan,

Vì chẳng ưa mua một chữ nhàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Càng ngó trái lại miền thế tục,

Lụy nhỏ dầm đòi khúc lòng đau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẾ THÁI NHÂN TÌNH

世 態 人 情

Thế thái: Tình trạng trong thế gian. Nhân tình: Tình người.

Thế thái nhân tình tức là trạng thái về tình người.

Trạng thái tình cảm của con người thường đổi thay theo tình đời ấm lạnh, nên gọi là Thế thái nhân tình. Triệu Biện có câu: Thế thái nhân tình lãnh như thuỷ 世 態 人 情 冷 如 水, nghĩa là nhân tình thế thái lạnh như nước.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ðời sống của người hành Ðạo là một đời học tập không ngừng. Không phải vì mãn khoá học mà các em sanh viên chấm dứt hẳn sự học, người ta chẳng những học nơi nhà trường mà còn phải học nơi kinh sách của Thánh Hiền, học theo gương sáng của đấng Vĩ nhân, học với bậc cao thấp của thế thái nhân tình, học theo đức tính ôn nhu của người thân hữu.

Lần lựa cúc xủ sương tan, mai gầy sen nở, ngày tháng qua chẳng là bao mà thế thái nhơn tình biết bao thay đổi!

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẾ THIÊN HÀNH HOÁ

替 天 行 化

Thế: Thay thế. Thiên: Trời. Hành: Làm. Hoá: Giáo hoá cho nên người hiền lương đạo đức.

Thế Thiên hành hoá là thay Trời để giáo hoá cho con người trở nên hiền lương đạo đức.

Trong Sớ Văn có câu: Phát hạ hồng ân Càn Nguơn Đại Đức bố hoá Chư Đệ tử Thánh thể tinh anh, tăng long đắc thọ, phụng thừa mạng lịnh, thế Thiên hành hoá, tế độ Nhơn sanh...發 下 洪 恩 乾 元 大 德, 布 化 諸 弟 子 聖 體 精 英, 曾 隆 得 壽, 奉 承 命 令, 替 天 行 化, 濟 度 人 生, nghĩa là ban phát ơn to, và hưởng đức lớn của ngôi Trời, bố hoá cho chúng con thánh thể được tốt đẹp, tăng thêm điều tốt lành và sống lâu. Chúng con xin vâng theo mạng lịnh, thay Trời để giáo hoá dân, cứu giúp chúng sanh.

Thấy khổ nhơn sanh lệ nhỏ hàng,

Thế Thiên hành hoá há cầu an.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THẾ THỜI

勢 時

Thế: Có sức mạnh để ảnh hưởng đến. Thời: Giai đoạn thuận lợi cho một hành động.

Thế thời, hay chữ “Thời thế 時 勢”, ý chỉ có thế lực, có vận mệnh, tức được thế, được thời, để làm nên sự nghiệp to lớn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Nền Ðạo vừa khỏi lối chông gai, lại phải còn gặp nỗi u hiểm, ráng cẩn thận và biết dìu bước theo thế thời thì công trình khỏi phải trôi theo dòng bích.

Xem: Thời thế.

Thông biết thế thời mới gọi thông,

Thông minh học Ðạo vẹn trau lòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THẾ THƯỢNG

世 上

Thế: Đời, chỉ cõi thế gian. Thượng: Trên.

Thế thượng là trên đời.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Văn Tế Đức Cao Thượng Phẩm có câu:

“Nhớ Cao Thượng Phẩm xưa, tư chất ôn lương, tánh tình hoà huỡn, nhà phiệt duyệt lưu truyền nơi thế thượng, tỉnh Tây Ninh lớn nhỏ thảy đều thương.

Trí thông minh còn roi dấu thơ hương, miền Bến Nghé trẻ già nào chẳng rõ”.

Thế thượng dục tri Thiên sứ đáo,

Tam Kỳ Phổ Ðộ lập kỳ công.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðâu bằng cảnh tịnh cõi Bồng Lai,

Thế thượng không ai biết giá nài.

(Đạo Sử).

Thế thượng không người trăm tuổi sống,

Tiếng đời hằng ngợi kể nên lành.

(Đạo Sử).

 

 

THẾ THƯỢNG VÔ NAN SỰ

世 上 無 難 事

Thế thượng: Trên cuộc đời nầy. Vô nan sự: Không có việc gì là khó.

Thế thượng vô nan sự tức là trên đời nầy không có việc gì là khó, ý muốn nói chỉ tại lòng chẳng bền.

Nguyễn Bá Học, một nhà văn miền Nam có câu: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.

Vì đó Nho học có câu: “Thế thượng vô nan sự, nhơn tâm tự bất kiên”...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THẾ TRẦN

世 塵

Thế: Đời, cuộc đời. Trần: Cõi trần.

Thế trần, như chữ “Trần thế 塵 世”, dùng để chỉ cõi thế gian, cõi đời.

Như: Hành động đó làm bao nhiêu công quả nơi thế trần nầy đều tiêu tán hết.

Thân trau khổ hạnh thân đừng nệ,

Nệ khó mong chi thoát thế trần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thế trần mộng mị có ra chi,

Giành giựt rồi qua hỏi được gì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lồng gương dạng ẩn tầng khuê các,

Dấu bóng hương che mắt thế trần.

(Quỳnh Hoa Tiên Nữ).

 

 

THẾ TRỌNG

勢 重

Thế: Có sức mạnh về quyền lực, vị trí để ảnh hưởng đến hoạt động nào đó. Trọng: Nặng.

Thế trọng là chỉ người có thế lực mạnh mẽ.

Con một nhà, đãi đồng một bực, đứa thua sút yếu thế, lại đỡ nâng dìu dắt nhiều hơn đứa thế trọng sức nhiều.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THẾ VỊ

世 味

Thế: Đời, cuộc đời. Vị: Mùi vị.

Thế vị là mùi đời, tức những mùi vị như nồng, nhạt, cay, đắng, ngọt, bùi... trên đời mà ta được hưởng.

Như: Người càng cao tuổi càng từng trải thế vị.

Hương men ngất ngưỡng: Quên rồi nhớ,

Thế vị gật gù: Đắng lại cay.

(Thơ Hoàn Nguyên).

Bỗng trớ trêu chi mùi thế vị,

Đương hồi bùi ngọt đổi chua cay.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

THỀ

Thề là nói chắc, hứa chắc một cách trịnh trọng, tức dùng lời nói nghiêm trọng mà đoan kết một việc gì.

Như: Thề không nói dối, lời thề danh dự, thề yêu nhau trọn đời, uống máu ăn thề.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn vọng Ngũ Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị Ðầu Sư quỳ mà thề.

Lời hẹn xưa còn vầng nguyệt rạng,

Hương thề nay thả giữa dòng trôi.

(Thất Nương Giáng Bút).

Thường cho xem vẻ đẹp non sông,

Đặng con trẻ thề lòng thương tưởng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỀ NON

Thề: Dùng lời nói nghiêm trọng mà đoan kết việc gì. Non: Núi non.

Thề non là chỉ núi mà thề về tình duyên, ý thề dù cho non có mòn, tình duyên không bao giờ thay đổi, tức là giữ một lòng thuỷ chung, son sắt.

Xem: Thề non hẹn biển.

Nào khi ước giữ niềm son sắt,

Nào thề non nắm chặt dải đồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THỀ NON HẸN BIỂN

Thề non: Thề cùng núi. Hẹn biển: Nguyền với biển.

Thề non hẹn biển, do câu thanh ngữ “Minh sơn thệ hải 盟 山 誓 海”, là chỉ núi, chỉ biển mà thề nguyền với nhau về tình duyên, nguyện chung thuỷ cùng nhau.

Xem: Thệ hải minh sơn.

Thề non nghĩ thẹn duyên bao lúc,

Hẹn biển chạnh đau nghĩa mấy hồi.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THỀ NGUYỀN

Thề: Dùng lời nghiêm trọng để cam kết việc gì. Nguyền: Nguyện, tức là tự nhủ, tự cam kết sẽ làm đúng như vậy.

Thề nguyền, như chữ “Thệ nguyện 誓 願”, là thề để nói lên lời ước nguyện với nhau. Như: Thề nguyền chung thuỷ cùng nhau.

Dưới bóng trăng ai đã thề nguyền,

Rằng đặng phép thay duyên đổi nợ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỂ

1.- Thể là cách, cuộc, sức. Như: Không thể đi được, có thể làm được, có thể nhìn thấy, nhân thể, làm một thể.

Thánh giáo Thầy có câu: Chớ nên xao tâm động trí, ngơ ngẩn theo thường tình, thì não cân được tự minh, mới có thể ngăn cản tà mị độn nhập vào mà khuấy rối.

Kìa ong kiến tha mồi dành để,

Cơn khốn cùng có thể nuôi thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đặng chồng dường thể đặng mồ,

Chôn thây cửa lạ, cậy nhờ ở ai?

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thể là thân mình, vóc dáng. Như: Thân thể, hình thể, tốt thể đẹp hình.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Than ôi! Có hình thể xương thịt mà chơn hồn phưởng phất nơi xa, thì cái thân vô dụng ấy trơ trơ như khối đá dựa đường, như khúc cây bên trũng.

Cầu khẩn Đấng Chơn linh nhập thể,

Đủ thông minh học lễ học văn.

(Kinh Thế Đạo).

Gái thì chớ quen nghề nhề nhệ,

Lo đua tranh tốt thể đẹp hình.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thể là xét, hiểu thấu.

Như: Con cái phải thể tình thương yêu của cha mẹ, thể thiên hành hoá.

Xem: Thể thiên hành hoá.

Ấy là thể lòng từ bi của Ðức Chí Tôn, bằng chẳng thì Lão đã hạ cơ trục xuất cả thảy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

4.- Thể là nhân cách, danh dự. Như: Quốc thể, danh thể, thể diện, làm nhẹ thể.

Đức Lý Giáo Tông có câu dạy: Lão chưa hề thấy ai để trọn tấc lòng mà làm nên danh thể cho Ðạo, mà kẻ phá Ðạo hư rất nhiều.

Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,

Mở đường quốc thể định phong vân.

(Bát Nương Giáng Bút).

Nhục con, con chịu chớ nài,

Nhục cho quốc thể ra tài hy sinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

5.- Thể là hình thức, cách thức sáng tác văn, thơ. Như: Thể văn, thể thơ, thể điệu âm nhạc, biến thể.

Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhờ đó, các thính giả tri âm ở bốn phương có dịp thưởng thức một thể điệu âm nhạc thuần tuý của Ban văn nghệ Toà Thánh Tây Ninh.

Nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh Tông đồ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỂ CÁCH

體 格

Thể: Tính chất, cách thức. Cách: Lối, phương pháp.

1.- Thể cách là cách thức, tức hình thức diễn ra của một hành động. Như: Làm văn đúng thể cách.

Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có dạy: Bần Đạo cũng nói sơ về thể cách biến đổi thi hài như thế, ấy chẳng qua nghiệp đời người gây tạo, phải như thế mới trả rồi căn nghiệt oan gia thì Thánh thể mới cao thăng chớ không có gì là lạ.

Nhạc còn chưa đủ thể cách, đờn để rước chư Tiên, Thánh, không phải vậy là đủ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2.- Thể cách còn dùng để chỉ tư cách của một con người.

Như: Người tu hành phải giữ một thể cách nghiêm trang và hiền từ.

Thể cách đoan trang tiết rạng ngần,

Muôn đời giữ trọn vóc thanh xuân.

(Quỳnh Hoa Tiên Nữ).

 

 

THỂ CHẤT

體 質

Thể: Thân thể, mình người. Chất: Vật thể, tính chất.

Thể chất là thân thể, tính chất.

Thể chất còn dùng để chỉ cơ thể của con người, xét về mặt sức khoẻ. Như: Đẹp cả tinh thần và thể chất.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ôi! Buổi Chí Tôn đến một cách đột ngột tình cờ, đến trong thế kỷ 20 nầy mà nhơn loại đang sống thảm khổ từ thể chất đến tinh thần.

Hồng trần luống buộc ràng thể chất,

Phải trau tâm đặng cất Cao Đài.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

THỂ DIỆN

體 面

Thể: Thân thể, thân mình. Diện: Mặt.

Thể diện là những cái làm cho người ta coi trọng mình khi tiếp xúc, tức chỉ cái vẻ vang, danh dự bề ngoài của con người.

Như: Người chức sắc phải làm gương giữ thể diện cho Hội Thánh.

Nếu Thầy giúp tức là hại thể diện các con, chớ không giờ phút nào Thầy xa các con.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỂ HÀI

體 骸

Thể: Mình vóc, thân thể. Hài: Xương khô, gọi chung cả hình thể con người.

Thể hài là chỉ thân thể hoặc thi hài của con người, ý nói thân xác người sống hoặc thi hài người chết.

Như: Thể hài nó tựa bộ xương khô, Thể hài đã được liệm vào ào quan.

Đạo sử nghìn thu danh phẩm tạc,

Thể hài một nắm tuyết sương phong.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THỂ HOÀ

彩 和

Thể Hoà tức Lam Thể Hoà, là Xích Cước Đại Tiên trên thượng giới đầu thai xuống cõi trần, còn nhớ tánh cũ, thường mặc áo rộng màu xanh, buộc dây lưng đen thật lớn, một chân mang giày, một chân đi đất.

Thường ngày, ông Lam Thể Hoà cầm cặp sanh dài ba thước vừa đi vừa nhịp vừa ca để xin tiền bố thí. Những bài ca do ông tự đặt ra đều có ý khuyên đời bỏ dữ theo lành. Sau Lam Thể Hoà gặp Lý Thiết Quãy, hai người đàm đạo trên lầu ở quận Hào Lương. Kế nghe tiếng nhạc vang Trời đôi chim hạc từ trên không đáp xuống rước hai vị Tiên về nơi Tiên cảnh.

Lam Thể Hoà thường hay cỡi con trĩ.

Hớn Chung Ly, Thể Hoà, Tương Tử,

Tào Quốc Cựu, với Lữ Đồng Tân.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THỂ LỆ

體 例

Thể: Tính chất, cách thức. Lệ: Lề lối quy định.

Thể lệ là những điều quy định chung về cách thức làm một việc nào đó. Như: Thể lệ công cử chức việc.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ngài Lê Văn Trung có câu như sau: Thầy cấm chẳng đặng làm chi khác hơn là làm cho hoà thuận đầm ấm hai bên, hồn và xác Đạo, bình phục nhơn tâm, hành chánh theo một thể lệ, chỗ Thánh Thất nào cũng vậy.

Cách dạy và các việc sắp đặt trong trường sẽ có lập thể lệ riêng.

(Tân Luật).

 

 

THỂ PHÁCH

體 魄

Thể: Hình thể. Phách: Phần vô hình của con người, chỉ tinh thần.

Thể phách là thể cách và khí phách. Thể phách còn chỉ thân thể con người.

Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Trời đất có âm dương, vạn vật có thể phách, nhơn loại có xác hồn.

Dục tấn triều kiến Chí Tôn,

Phần trên thể phách linh hồn cùng đi.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

THỂ PHÁP

體 法

Thể: Tính chất, hình thức. Pháp: Phép mầu nhiệm, pháp luật. Chữ pháp còn có một nghĩa rộng hơn để chỉ bất kỳ một việc gì dù hữu vi hay vô vi, chơn thật hay hư vọng trong vũ trụ.

Thể pháp chỉ những sự mầu nhiệm, linh thiêng biểu lộ bằng hình thức bên ngoài, khiến ai cũng có thể ngó thấy đặng. Thể pháp chính là cái hình trạng của Hội Thánh hay nói cách khác, hình trạng của Đức Chí Tôn tại thế.

Trong Thế Ðạo phải phân tách ra làm hai pháp lý: Một là Thể pháp Thế Ðạo, hai là Bí pháp Thế Ðạo.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

THỂ THIÊN HÀNH CHÁNH

體 天 行 正

Thể: Tự đặt mình vào đó. Thiên: Trời. Hành: Làm. Chánh: Ngay, thẳng.

Thể Thiên hành chánh là tự đặt mình để thay trời mà thi hành chánh đạo, tức thay thế Trời truyền bá nền đạo chơn chánh phổ độ chúng sanh.

Những bực tu hành mà tưởng lầm phải tùng cựu luật hay là cổ pháp thì trái hẳn với Thiên điều của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thể Thiên hành chánh.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THỂ THIÊN HÀNH ĐẠO

體 天 行 道

Thể: Tự đặt mình vào đó. Thiên: Trời. Hành: Làm. Đạo: Tôn giáo.

Thể Thiên hành đạo là tự đặt mình để thay Trời mà thi hành nền chánh đạo của Đức Chí Tôn để cứu giúp chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.

Như chúng ta biết, Hội Thánh anh và Hội Thánh em đều là Thánh thể Đức Chí Tôn tại thế, là thể xác của Đạo, có nhiệm vụ thay quyền Đức Chí Tôn về phần xác để điều hành mối đạo tại địa phương mình.

Vì vậy, chư Chức sắc hay Chức việc, trước khi lãnh nhiệm vụ buộc phải lập thệ để giữ dạ vô tư hành đạo. Trong Chú Giải Pháp Chánh Truyền có dạy vị Chánh Trị Sự, phải lập thệ tại Thánh Thất sở tại như sau:

Giữ dạ vô tư mà hành đạo, dầu cha mẹ, anh em, vợ con, cũng chẳng phép tư vị,gìn dạ chơn thành, thể Thiên hành đạo.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THỂ THIÊN HÀNH HOÁ

體 天 行 化

Thể: Đặt mình vào đó. Thiên: Trời. Hành: Làm. Hoá: Dạy dỗ cho thay đổi từ xấu sang tốt.

Thể Thiên hành hoá là đặt mình để thay Trời mà giáo hoá cho con người từ xấu trở nên tốt, từ ác quay về lành.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Quý vị đã thọ lãnh sứ mạng thể Thiên hành hoá thì mỗi việc làm của Quý vị đều có Thánh Thần chứng kiến sự tận trung với Ðạo sẽ đem đến cho quý vị một phần thưởng Thiêng Liêng xứng đáng.

Người nắm trọn quyền thể Thiên hành hoá, ấy là phận sự tối cao tối trọng của Đức Giáo Tông đó.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THỂ THỐNG

體 統

Thể: Hình thể, thân thể. Thống: Nối tiếp nhau, hệ thống, hợp cả lại.

Thể thống là thể thức và thống hệ, tức những việc có trật tự nhứt định, có quan hệ liên lạc với nhau.

Thể thống, nghĩa bóng là danh dự, thể diện.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có nói: Nền Ðạo chinh nghiêng, ấy cũng nơi Thiên định. Nước có trị loạn, đời có hưng vong, thì Ðạo tất phải có dùn thẳng quanh co, rồi mới đến thẳng rẳng đường ngay mà lập nên thể thống.

Thầy đã gầy phương thế cho các con đủ quyền hành lập Ðạo, chờ các con nên thể thống.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

Mình dầu sang ăn trước ngồi trên,

Nhờ vợ khéo mới bền thể thống.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỆ

Thệ là thề, dùng lời nói nghiêm trọng mà đoan kết một việc gì.

Như: Đoan thệ, minh thệ, thệ hải minh sơn.

Thành ngữ Việt Hán có câu: “Thệ hải minh sơn 誓 海 盟 山” là thề non hẹn biển.

Xem: Thệ hải minh sơn.

Liền nhành xưa đã thệ cùng nhau,

Sao nỡ để gương kép hại đào.

(Đạo Sử).

Khêu cành lỡ hẹn lời chung thuỷ,

Giữ dạ cho tròn nghĩa thệ minh.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THỆ HẢI SƠN MINH

誓 海 山 盟

Thệ hải: Thề trước biển cả. Sơn minh: Nguyền cùng núi non.

Thệ hải sơn minh là thề non hẹn biển, tức là thề có núi và biển chứng giám, ý nói lời thề nguyền trước sau như một, lòng dạ quyết không thay đổi.

Ngày xưa, mỗi khi trai gái thề nguyền về nhân duyên, thường bày bàn hương án giữa trời, chỉ sông núi mà thề hẹn với nhau.

Vì chàng thiếp kết bố kinh,

Giữ câu thệ hải sơn minh với nàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THỆ NHỨT TÂM

Hay “Thệ nhất tâm”.

Thệ: Thề, hẹn. Nhứt (nhất) tâm: Một lòng, chỉ sự trung thành, không đổi dạ.

Thệ nhứt tâm, như chữ “Thệ nhất tâm 誓 一 心”, là thề một lòng, ý nói một lòng trung thành, không bao giờ thay lòng đổi dạ.

Hiệp sức đã cùng thệ nhứt tâm,

Đạo mầu vun quén há sai lầm.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THÊM

Thêm là gia lên, tăng lên, làm cho nhiều hơn lên, trái với bớt. Như: Thêm tiền, thêm buồn, thêm sức lực.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Còn bực chơn tu, tỉ như một hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, rồi sanh trái mà biến biến sanh sanh càng tăng số. Vì vậy mà các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hoá Chơn thần, Chơn thần lại biến hằng muôn thêm số tăng lên hoài. Ấy là Ðạo.

Bửu toà thơ thới trổ thêm hoa,

Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thế sự ép oan thêm buộc nghiệt,

Ðời kia với Ðạo chẳng so đồng.

(Đạo Sử).

Thấy nhau thêm tủi đường ly biệt,

Đá nát xương tan nghĩa vẫn còn.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

THỀM

Thềm là phần nền đắp cao ở chung quanh nhà, dưới mái hiên.

Như: Bước lên thềm để vào nhà trong, chung quanh thềm nhà cẩn gạch men.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy: Tư vuông 27 thước mỗi góc của Ðài Bát Quái, nghĩa là hình nhà tròn có 8 nóc, cao từ đất lên thềm 9 thước Lang sa, làm 8 nóc rộng bao nhiêu tuỳ, trên Ðiện Bát Quái bề cao 9 thước, hình nóc tròn mô lên, chỉ có 8 nóc cho phân minh, trên đầu Ðài phải để cây đèn xanh.

Trước thềm có lão ưa nương gậy,

Bên cạnh thêm người đứng vuốt râu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THỀM QUẾ

Thềm: Phần nền đắp cao ở chung quanh nhà. Quế: Cây quế.

Tương truyền, trên cung trăng có trồng cây quế, nên mặt trăng còn được gọi là “Thềm quế”, “Cung quế”, “Điện quế” hay “Bóng quế”.

Bên thềm quế lần ra ngự uyển,

Vút thu phong lưu luyến tầng cao.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

THÊNH THANG

Thênh: Rộng rãi, ung dung.

Thênh thang là rộng rãi, gây cảm giác không có gì làm cho các hoạt động bị vướng mắc.

Thênh thang còn dùng để chỉ trở bộ rộng rãi.

Như: Đường mở rộng thênh thang xe đi qua lại thật dễ dàng, thoải mái, gian nhà rộng thênh thang.

Trau rạng lòng son sanh chúng độ,

Thênh thang nương bóng ngọn đèn Trời.

(Thơ Huệ Giác).

Hoá chủng thênh thang so tợ biển,

Thi ân vòi vọi ví bằng non.

(Thơ Thượng Cảnh Thanh).

 

 

THÊNH THÊNH

Thinh thinh, như chữ “Thênh thênh”, là từ chỉ sự mênh mông, rộng lớn.

Thinh thinh con dùng để chỉ sự nhẹ nhàng đến mức gây cảm giác ung dung, thanh thản.

Như: Bầu trời thinh thinh, lòng nhẹ thinh thinh.

Cõi trần trung giái thinh thinh,

Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.

(Xưng Tụng Công Đức).

Cửa Cực Lạc thinh thinh rộng mở,

Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.

(Kinh Tận Độ).

Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,

Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THẾ PHÁT

Thí: Như chữ “Thế”, là cắt. Phát: Tóc.

Thí phát, như chữ “Thế phát 剃 髮”, là cắt tóc, hay cạo đầu để đi tu.

Như: Muốn vào chùa tu hành theo Phật thì phải thí phát quy y.

Tu không biểu mặc đồ dà,

Cạo râu thí phát bỏ nhà lìa con.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THẾT ĐÃI

Thết: Bày tiệc khoản đãi, do chữ “thiết 設” đọc trại ra. Đãi: Cho ăn uống, tiền bạc hay đồ dùng để tỏ tình cảm.

Thết đãi là cho ăn uống một cách đặc biệt, để tỏ sự quý trọng, thân thiết. Như: Làm tiệc thết đãi.

Nói về Đức Quan Thánh Đế Quân, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Kể từ ngày ấy, Tào Tháo thết đãi Ðức Ngài rất trọng hậu, ba ngày thì đãi tiệc nhỏ, năm ngày thì đãi tiệc lớn lại ban cho gấm nhiễu vàng bạc vô số kể. Ngoài ra còn lựa những mỹ nữ tuyệt sắc đưa đến để hầu hạ Ðức Ngài.

Lái thì lác, lời xưa chẳng sái,

Đem văn chương thết đãi không ưa.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÊU

Thêu là dùng kim và chỉ màu tạo nên các hình trên mặt hàng, tơ, lụa vải.

Như: Áo thêu rồng của vua, Thêu cặp chim trên gối cưới, bức thêu cành nho và con sóc.

Giang san in vẻ đẹp như thêu,

Ngảnh lại trung ương thấy chẳng đều.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THÊU DỆT

Thêu: Lấy chỉ màu thêu vào hàng tơ, lụa theo các hình vẽ. Dệt: Kết những sợi vào nhau thành vải, chiếu...

Thêu dệt là thêu và dệt. Nghĩa bóng: dùng để chỉ bày đặt vẽ vời thêm.

Như: Ăn không ngồi rồi đi nói chuyện người ta. Đã vậy mà còn thêu dệt câu chuyện cho hấp dẫn, nghĩa là thêm mắm dặm muối, không nghĩ rằng chuyện đó có thể làm hại người khác.

Trong Ngũ giới cấm, điều thứ năm, giải về Vọng ngữ như sau: là cấm xảo trá, láo xược, gạt gẫm người, khoe mình bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng thô tục, chửi rủa người, huỷ báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa.

Thêu dệt hay lo nói chuyện người,

Nhiều phen hại kẻ tưởng là chơi.

(Đạo Sử).

Đều thêu dệt lắm lời hồ mị,

Rằng nên hư khi thị ở nơi người.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THI

1.- Thi là đua, so cái hay, cái giỏi để định hơn thua, hổng đỗ, tức là tham gia những cuộc đọ về tài năng, sức lực. Như: Thi tài, thi sức, thi gan, trường thi công quả.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Vì vậy mà Thầy hằng nói cùng các con rằng: Một trường thi công quả, các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi.

Các con chớ buồn vì Thiên cơ phải vậy. Thi nhiều đậu ít là lẽ hằng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2.- Thi là thơ. Như: Đường thi, thi văn.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðược, nhưng Thánh Ngôn và văn thi đều phải trích lục cho kỹ càng, phải có Hội Thánh phê nhận rồi sẽ in thì khỏi điều sơ sót quan hệ.

Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,

Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bảy Lão nhắc tình già giẹo cẳng,

Ba Bà hỏi việc mụ ham thi.

(Thiên Thai Kiến Diện).

3.- Thi là thây chết chưa chôn. Như: Thi hài, thi thể, thi phàm.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu dạy: Lão chẳng phải sợ, vì chưa có quyền hành hữu vi nào mà phạm đến Lão đặng, chỉ sợ giùm cho chư hiền hữu, chư hiền muội mang nặng thi phàm, mà chịu cường quyền đè nén.

Giải thi lánh chốn đoạ đày,

Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.

(Kinh Tận Độ).

4.- Thi là làm ra việc thực, như thi hành, thi ân, thực thi, thi thố, thi lễ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hội Thánh rất may mắn được có một hậu thuẫn tận tâm, trung thành như vậy mới có thể thực thi sứ mạng Thể Thiên Hành hoá, đem đạo cứu đời, dìu dắt nhơn sanh nâng cao giá trị nền Chánh giáo.

Chơn truyền Thánh huấn không ai giữ,

Văn hoá thực thi chẳng mấy người.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THI ÂN

施 恩

Thi: Làm, bày đặt ra, thi hành. Ân: Ơn.

Thi ân là làm ơn cho kẻ dưới. Như: Thi ân bố đức.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thành Hoàng Bổn Cảnh có câu với quan viên chức sắc như sau: Còn phần viên chức sắc cúng tế, bảo lên quỳ trước đại điện cho ta tỏ lòng thi ân cho chúng nó.

Nam Mô Địa Tạng thi ân,

Đưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.

(Kinh Tận Độ).

Thi ân, tế chúng thiên tai tận,

Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hoá chủng thênh thang so tợ biển,

Thi ân vòi vọi ví bằng non.

(Thơ Thượng Cảnh Thanh).

 

 

THI ÂN BỐ ĐỨC

施 恩 布 德

Thi ân: Làm ơn cho mọi người, bất kể thân sơ. Bố đức: Ban bố phước đức cho rộng khắp.

Thi ân bố đức là đem ân đức ra thực thi rộng khắp cho chúng sanh.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu muốn thi ân bố đức, thì phải cần làm cho đáng giá Thánh Thể của Ngài, là công các con cái khổ não của Ngài đem vào chia cơm, chia muối, chia khổ não của họ, thì mới là xứng đáng Thánh Thể, mới xứng đáng là cơ quan cứu khổ của Ngài.

Tu kiều, bồi lộ, phóng sanh,

Thi ân bố đức, để dành kiếp sau.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THI ÂN TẾ CHÚNG

施 恩 濟 衆

Thi ân: Làm ơn cho mọi người, bất kể thân sơ. Tế chúng: Cứu giúp mọi người.

Thi ân tế chúng là đem ân đức ra cứu giúp cho chúng sanh một cách rộng khắp.

Nói về việc cư xử, xã giao của Chức sắc, Đức Thượng Sanh có dạy: Không háo thắng, không khoe mình, lúc nào cũng lễ độ, khiêm tốn, hoà hưởn, nhún nhường, sẵn lòng thi ân tế chúng, thế nào cho mọi người đều mến yêu, kính nể...

Thi ân, tế chúng thiên tai tận,

Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THI CỬ

Thi: Dự những hình thức kiểm tra về kiến thức, kỹ năng. Cử: Lựa chọn ra để làm việc.

Thi cử là nói chung về các cuộc thi, như thi ra trường, thi vào trường hay thi để nhận bằng cấp, học vị.

Lạc Hồng nhớ thuở đường thi cử,

Nhớ nét thêu xưa để đến chừ.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

THI ĐÀN

詩 壇

Thi: Thơ. Đàn: Nơi nhiều người tụ họp.

Thi đàn là nơi nhiều thi, văn sĩ tụ họp để làm thơ văn hay ngâm vịnh.

Thi đàn còn dùng để chỉ nơi dành riêng đăng những bài thi ca trên báo chí.

Thi đàn mặc sức tuôn bầu ngọc,

Động phủ đừng nên ghẹo bí bòi.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

THI ĐIẾU

詩 弔

Thi: Thơ. Điếu: Thăm viếng người chết.

Thi điếu là bài thơ tỏ lòng thương tiếc đối với người đã chết. Bài thi nầy có thể đọc trước lễ tang.

Như: Ngâm bài thi điếu trước bàn linh.

Mấy lời thi điếu như khêu gợi,

Nỗi nhớ niềm thương quá láng lai.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

THI ĐUA

Thi: Đua, so cái hay, cái giỏi để định hơn thua. Đua: Tranh nhau.

Thi đua là cùng nhau đem hết tài năng, sức lực ra làm nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất trong chiến đấu hay sản xuất.

Trong Lễ Bế Mạc Khoá Huấn Luyện Lễ Sanh tại Hạnh Ðường năm Bính Ngọ (1966), Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Giờ đây các em hãy dọn mình đặng chờ ngày đảm đương phận sự, thi đua công quả hầu lập vị vẻ vang trong cửa Ðại Ðạo.

Tiều lão muôn đời danh bất hủ,

Cầu chi quyền thế chạy thi đua.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THI GIA

詩 家

Thi: Thơ. Gia: Nhà.

Thi gia, cũng như chữ “Thi nhân 詩 人”, là nhà thơ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta thử để cái trí não bình tĩnh một lúc cũng như các thi gia, các văn sĩ kia để rảnh rang cái trí của mình giây phút dòm cả vạn vật đồng sinh với ta, rồi chúng ta tìm tòi hiểu cái khuôn Luật Thiên Nhiên kia đã định phận cho họ thế nào?

Quỷ đói giục lòng tham Đạo chích,

Ma nghèo lờn mặt bám thi gia.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

THI HÀI

屍 骸

Thi: Thây người chết. Hài: Hình thể con người.

Thi hài là thi thể hình hài của người chết. Như: Tẩn liệm thi hài người chết.

Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông có câu: Tâm Thánh là ngôi vị của Ðấng thiêng liêng, không lo trau dồi thì cũng còn tự nhiên vì vẻ đẹp, còn vẻ đẹp thiên nhiên đã mang nặng thi hài nơi khổ cảnh nầy mà không mất thì đoạt vị đã đặng rồi, lại cần ai nâng đỡ.

Thi hài như gỗ biết gì,

Linh hồn là chủ thông tri việc đời.

(Kinh Sám Hối).

Thần Tiên xem thấy châu mày,

Đói cơm ai giúp, thi hài ai chôn.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Nhắc hiếu vội nhìn hình khí phách,

Quên ân liền nhắm bóng thi hài.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THI HÀNH

施 行

Thi: Làm ra, đem dùng. Hành: Làm.

Thi hành là đem việc đã quyết định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả. Như: Công việc bắt đầu thi hành.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Từ đây, mỗi lần nhóm Bàn Chủ Sự đặng liệu tính việc chi thì con phải có mặt và y theo lời Thầy dạy, phải có ba Chức sắc Hiệp Thiên Ðài có trách nhậm xứng đáng, thì những việc bàn tính mới tiện thi hành.

Ba ấn phải có trên mỗi luật mới đặng thi hành.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THI HÀO

詩 豪

Thi: Thơ văn. Hào: Kẻ tài trí hơn người.

Thi hào là nhà thơ lớn, tức bậc tài giỏi trong làng thơ.

Thánh giáo Bát Nương Điêu Trì Cung có câu: Thôi, em có mấy lời chúc tụng đại tỷ (Bà Hương Hiếu) để làm kỷ niệm với các bậc thi hào, lại cũng là kỷ niệm lễ lục tuần của đại tỷ.

Hết mong gặp bạn thi hào,

Gặp chăng cậy mối Thần giao nối tình.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

THI HỮU

詩 友

Thi: Thơ. Hữu: Bè bạn.

Thi hữu là bạn bè trong cùng văn đàn, hoặc trong giới làm thơ, ngâm vịnh.

Như: Họp mặt các thi hữu trong nhóm để bàn việc xuất bản tập thơ.

Tiễn hành thi hữu hoà đôi vận,

Nặng nghĩa tri âm cảm tưởng hoài.

(Thơ Phước Huệ).

 

 

THI LÁ

Thi: Thơ, làm thơ. Lá: Lá cây.

Thi lá là đề thi trên chiếc lá.

Do điển tích: Đời Đường có cung nữ là Hàn Thuý Tần, đề thi vào một chiếc lá, rồi thả theo dòng nước trong cung cho trôi ra.

Vu Hựu nhân lúc đi chơi nhặt được, hoạ lại bài thơ viết vào chiếc lá khác, rồi thả cho trôi trở vào, cung nữ họ Hàn cũng nhặt được.

Về sau vua Hy Tông thả hơn ba ngàn cung nữ, trong đó có nàng cung nữ họ Hàn, khi về nhà nàng tình cờ kết duyên với Vu Hựu. Trong đêm thành hôn hai người trao lá cho nhau xem mới biết nhơn duyên do chiếc lá kia làm mối. Người cung nữ họ Hàn có câu thơ như sau: Phương tri hồng diệp thị lương môi 方 知 紅 葉 是 良 媒, nghĩa là mới biết lá thắm là người mối tốt.

Xem: Hồng diệp.

Đừng đề thi lá thơ chim,

Cầu hôn để phụng đến tìm cung loan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THI NHÂN

詩 人

Thi: Thơ, một hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ có nhịp điệu và giàu hình ảnh để thể hiện nội dung một cách hàm súc. Nhân: Người.

Thi nhân, đồng nghĩa với “Thi sĩ 詩 士”, là nhà thơ, người làm thơ.

Như: Thi nhân mặc khách.

Chánh Đức Tiên Sanh đã lánh trần,

Vườn thơ ngùi nhớ bóng thi nhân.

(Thơ Huệ Ngàn).

Hiển hách phò trì nền đạo giáo,

Anh linh ám trợ bạn thi nhân.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THI NHÂN TẾ CHÚNG

施 仁 濟 眾

Thi nhân: Làm việc nhân giúp cho mọi người. Tế chúng: Cứu giúp dân chúng.

Thi nhân tế chúng là làm việc nhơn nghĩa giúp cho mọi người và cứu giúp dân chúng.

Bố đức độ đời ơn Phật thưởng,

Thi nhân tế chúng phước Trời ban.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THI PHÀM

尸 凡

Thi: thi hài, thi thể, thây của người chết chưa chôn. Phàm: Phàm tục.

Thi phàm là thi thể của người phàm tục, tức nói người có hình thể sống ở thế gian.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Lý Giáo Tông có dạy: Lão chẳng phải sợ, vì chưa có quyền hành hữu vi nào mà phạm đến Lão đặng, chỉ sợ giùm cho chư hiền hữu, chư hiền muội mang nặng thi phàm, mà chịu cường quyền đè nén.

Hễ là Mẹ quyền hành dạy trẻ,

Con đừng lo mạng thế thi phàm.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Mảnh thi phàm đã dễ chi từ,

Trong cuộc thế thân như bèo bọt.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THI PHÁP

1.- Thi: Thơ. Pháp: Luật lệ, phép tắc.

Thi pháp 詩 法 là phép làm thơ, tức những phương pháp, hay quy tắc để làm thơ.

Như: Xử dụng thi pháp rất tuyệt vời.

Đẩm lệ mờ xem thi pháp cũ,

Đau lòng chạnh nhớ huấn ngôn càng.

(Thơ Huệ Ngàn).

2.- Thi: Làm, thi hành. Pháp: Pháp thuật huyền diệu.

Thi pháp 施 法 là làm các phép thuật huyền diệu.

... năng du Tà Bà Thế giái thi pháp hộ trì Vạn Linh Sanh Chúng.

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

THI PHÚ

詩 賦

Thi: Thơ. Phú: Mô tả, hay một thể văn.

Thi phú, còn đọc là thơ phú, có nghĩa thơ ca và từ phú, hai thể loại trong văn chương.

Thi phú còn dùng để tiêu biểu cho các loại văn vần.

Trong quyển Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có câu: Chấp cơ mà mê Chơn thần xuất trọn (Chơn thần vốn còn dính với phách bởi sợi từ khí) khỏi phách, tiếp được rõ ràng tư tưởng của Thần Tiên, nên diễn ra nhiều thi phú văn chương tuyệt diệu, hoặc nhiều bài đạo lý cao thâm, nhưng mãn đàn, Chơn thần phải mệt mỏi.

Đại Tiên ở chốn Thiên cung,

Lòng lành thi phú thung dung độ người.

(Xưng Tụng Công Đức).

Văn chương nếm thử mùi ngào ngọt,

Thi phú trầm ngâm ý mặn nồng.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THI RƯỢU ĐỜN CỜ

Thi rượu: Làm thơ và uống rượu. Đờn cờ: Khảy đàn và đánh cờ.

Thi rượu đờn cờ, do câu “Cầm kỳ thi tửu 琴 棋 詩 酒”, là bốn thú tiêu khiển của người nho phong, tao nhã.

Thi, rượu, đờn, cờ, không kết bạn,

Quanh năm khuây lãng thế phui pha.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

THI THỐ

施 措

Thi: Làm ra. Thố: Làm cho mọi người thấy.

Thi thố tức là làm cho mọi người trông thấy việc làm của mình. Như: Thi thố tài năng với đời.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Lão chẳng nói rõ, hiền hữu cũng thấy hiển nhiên rằng từ thử, thảng Lão có muốn nên cho Ðạo đi nữa thì cũng không thi thố chi đặng với một Hội Thánh hữu hư vô thiệt, như vậy có phải?

Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền,

Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.

(Bài Thài Thượng Sanh).

 

 

THI THƠ

Thi: Thơ ca. Thơ (thư): Sách, truyện.

Thi thơ, như chữ “Thi thư 詩 書”, là thơ và truyện, chỉ về thơ ca và kinh sách.

Như: Người xưa trau giồi thi thơ là mong phổ truyền đạo lý của Thánh hiền.

Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,

Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THI THƠ CHI PHỐ

Thi thơ (thi thư): Thơ ca và sách truyện. Chi phố: Vườn trồng cây hoa kiểng.

Thi thơ chi phố, như câu “Thi thư chi phố 詩 書 之 圃”, là vườn văn chương thơ phú.

Trong bài Kinh Nho Giáo có câu: Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố 種 善 果 於 詩 書 之 圃 có nghĩa là Đức Khổng Thánh trồng cây có trái lành trên mảnh vườn văn thơ, hay kinh điển để lưu truyền giống tốt cho muôn đời sau được hưởng dùng.

Cửu thập ngũ hồi

Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố,

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THI THƯ

詩 書

Thi: Kinh Thi. Thư: Kinh Thư.

Thi thư là Kinh Thi và Kinh Thư, hai bộ sách kinh điển của Nho giáo, dùng để chỉ nền học xưa.

Kinh Thi, một bộ sách gồm những câu ca dao rất cổ của Trung Quốc. Kinh Thi do Khổng Tử san định, gồm 305 thiên, phân làm bốn thể loại: Quốc phong, Đại Nhã, Tiểu Nhã, Tụng. Xem: Thi kinh.

Và Kinh Thư là bộ sách do Không Tử san định, gồm 100 thiên, chép lại các phép tắc, lời răn dạy, mệnh lệnh của các vua từ Nghiêu Thuấn đến Đông Châu.

Nội dung Kinh Thư gồm: Điển: Ghi chép chế độ kiến thiết về đời Đường và đời Ngu. Mô: Ghi chép lời các quan đời Ngu điều trần mọi việc. Huấn: Lời vua tôi khuyên nhau điều hay lẽ phải. Cáo: Lời răn bảo người dưới sắp sửa nhận chức ra làm quan. Thệ: Lời thề, cũng như bài hịch trước khi dụng binh. Mệnh: Sắc mệnh của người trên ban bố khắp thiên hạ.

Thi Thư Lễ Nhạc đều tinh hết,

Sách Thánh lời Hiền lại hiểu thông.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THI XÃ

詩 社

Thi: Thơ hay lối văn vần. Xã: Đoàn thể nhiều người họp lại thành.

Thi xã, cũng như “Thi đoàn”, là một đoàn thể gồm nhiều thi sĩ họp lại mà làm thơ với nhau.

Thi xã bùi ngùi duyên nợ chữ,

Nỉ non đêm quạnh nhạn kêu đàn.

(Thơ Thuần Đức).

Cửa Thánh Đàn văn đành hết đợi,

Trường đời Thi xã chẳng còn trông.

(Thơ Thượng Tý Thanh).

 

 

THÍ

1.- Thí là một chút, một ít. Như: Công việc làm thêm một thí nữa là xong.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Các đường nẻo mà các con sẽ đi đến, Thầy đã liệu biện. Có mau lắm cũng chẳng tới trước, mà chậm lắm cũng không trễ bước đường. Hành tàng do nơi Thầy mà thôi. Sự trắc trở chẳng qua là làm cho các con chịu nhọc thêm một thí mà thôi.

Thầy đã nói các con phải chịu nhọc hơn một thí mà lướt mấy sự ấy có lạ chi. Các con nên hiểu.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2.- Thí là bố thí, tặng, giúp đỡ tiền, bạc, vật chất cho người thiếu kém, nghèo đói.

Thí bạc hay “Thí tiền” là bố thí tiền bạc, tức là đem bạc tiền hay vật chất để cứu giúp cho người nghèo khó, tàn tật, khổ sở.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong xã hội kim tiền nầy, có người bỏ ra hàng mấy chục muôn đồng một đêm để thoả thích trong sòng đổ bác, có kẻ phú túc kinh dinh dám phí cả trăm ngàn trong cuộc vui chơi trụy lạc, nhưng thí ra một số tiền cỏn con để giúp kẻ khổ đau thì chưa dễ gì họ chịu làm.

Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,

Thấy trên đường miểng bát, miểng chai.

(Kinh Sám Hối).

Thí tiền, thí bạc, chẩn bần,

Người đau thí thuốc, Thánh, Thần phước ban.

(Kinh Sám Hối).

3.- Thí là thi cử. Như: Hương thí, dự thí, khảo thí.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Rồi đây các em sẽ dự thí lãnh bằng tốt nghiệp Hạnh Ðường và sẽ lần lượt được giao phó phận sự Ðầu Tộc Ðạo nơi các địa phương.

Khảo thí lọc lừa chường hắc bạch,

Chung lòng hiệp sức thoát cơn nguy.

(Thanh Sơn Đạo Sĩ).

4.- Thí còn đọc là “Thế 剃”, là cắt, hay hớt tóc.

Như: Thí phát quy y (còn đọc là thế phát quy y) là cạo đầu theo về với Phật.

Tu không biểu mặc đồ dà,

Cạo râu thí phát bỏ nhà lìa con.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

5.- Thí là ví. Như: Thí dụ, thí như.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Giả thí như Thánh giáo Gia Tô cũng có ba ngôi (la trinité): Le Père, Le Fils et Le Saint Esprit (Ðức Chúa Cha, Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần). Ðức Chúa Cha là Phật, Ðức Chúa Con là Pháp, Ðức Chúa Thánh Thần là Tăng.

Học cho suốt lý đủ đầy,

Thí như Hạng Thác làm thầy Trọng Ni.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THÍ MẠNG

Hay “Thí mệnh”.

Thí: Chịu mất, tức hy sinh để cứu gỡ một việc gì đó. Mạng (mệnh): Mạng sống.

Thí mạng, như chữ “Thí mệnh 施 命”, là liều mạng, liều chết để làm một công việc gì đó có lợi ích lớn cho gia đình, quốc gia hay xã hội.

Như: Thí mạng để cứu gia đình, người thí mạng cho tổ quốc đáng gọi là anh hùng liệt sĩ.

Trong cơn ly loạn nầy, con cái Chí Tôn muốn bảo toàn sanh mạng thì phải thí mạng một phen đổi chết ra sống...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÍ NGHIỆM

試 驗

Thí: Thi, thử. Nghiệm: Ngẫm, suy xét, chứng thực.

Thí nghiệm là thử nghiệm cho rõ, tức làm thử để rút kinh nghiệm.

Như: Cho anh ta về làm việc là muốn thí nghiệm tài năng của anh ấy.

Trong Đàn cơ tại Giáo Tông Đường ngày 12 thàng 11 năm Ất Tỵ (Dl. 4-12-1965), Thánh giáo Hộ Pháp có dạy: Vậy nay Bần Đạo xin nhắc lại, không phải Bần Đạo không biết trước việc sẽ xảy ra, nhưng vì cũng muốn thí nghiệm coi các bạn làm ra thế nào, nên Bần Đạo khuyên Thượng Sanh nên mềm dẽo để việc làm sẽ trả lời và nhơn việc làm sẽ thấy chỗ nào nên bổ khuyết.

Cái giả mà Ngài làm được, chính Bần Đạo có thí nghiệm.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÍ PHÁP

施 法

Thí: Bố thí, giúp đỡ, trao tặng. Pháp: Giáo pháp, những lời dạy, giới luật của các Đấng thiêng liêng.

Thí pháp là bố thí bằng chánh pháp, tức đem giáo pháp của Đức Chí Tôn hay chư Phật ra chỉ dạy cho người tu tập. Chỉ rõ con đường sống dẫn đến hạnh phúc an lạc, hướng về giác ngộ giải thoát.

Những công việc thí pháp như thuyết pháp, giảng dạy giáo lý và các hình thức truyền bá chánh pháp như viết, dịch, ấn tống kinh sách để độ cho người khác học hỏi, tu sửa thân tâm.

Chúng ta nên tuỳ phương tiện của mình mà thí tài, hay thí pháp.

(Giáo Lý).

 

 

THÍ PHÁT

Thí (thế): Cắt, không dùng một mình. Phát: Tóc.

Thí phát, như chữ “Thế phát 剃 髮”, là cắt tóc, cạo đầu cho người đi tu.

Như: Thí phát quy y, thí phát đi tu.

Tu không biểu mặc đồ dà,

Cạo râu thí phát bỏ nhà lìa con.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THÍ TÀI

施 財

Thí: Bố thí, giúp đỡ, trao tặng. Tài: Tiền bạc, của cải.

Thí tài là đem tiền bạc, của cải đến bố thí cho người nghèo hay người tàn tật.

Thí tài là một trong ba phép bố thí: Tài thí, pháp thí và vô úy thí. Thí tài là thí tiền bạc của cải, không những chỉ riêng có lợi cho người nhận mà lẫn cả người cho nữa.

Như vậy hành bố thí vừa cứu giúp cho người mà vừa độ cho chính mình: Làm cho tâm được an vui, làm mất đi tính tham lam, ích kỷ, phá chấp sâu nặng của con người mình và làm phát triển lòng từ bi hỷ xả của Phật.

Chúng ta nên tuỳ phương tiện của mình mà thí tài, hay thí pháp.

(Giáo Lý).

 

 

THÍ TIỀN THÍ BẠC

Thí tiền thí bạc là bố thí bằng cách đem tiền bạc ra giúp đỡ người nghèo đói, thiếu thốn, đau yếu.

Bố thí tiền bạc còn gọi là tài thí, một trong ba cách hiến tặng: Tài thí 財 施, pháp thí 法施 và vô úy thí 無 畏 施. Thí tiền thí bạc không những chỉ riêng có lợi cho người nhận mà lẫn cả người cho nữa. Như vậy hành bố thí vừa cứu giúp cho người mà vừa độ cho chính mình: Làm cho tâm được an vui, làm mất đi tính tham lam, ích kỷ, phá chấp sâu nặng của con người mình và làm phát triển lòng từ bi hỷ xả của Phật.

Thí tiền, thí bạc, chẩn bần,

Người đau thí thuốc, Thánh, Thần phước ban.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THÍ THÂN

施 身

Thí: Chịu mất, tức hy sinh để cứu gỡ một việc gì đó. Thân: Thân mình.

Thí thân là đem thân mình giúp cho việc gì đó, hoặc cho kẻ khác.

Như: Thí thân với bọn giặc, không để chúng đốt nhà cướp của.

Như thảo mộc phải thí thân đặng nuôi dưỡng cho các loài vật mà thôi,...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÌ

Hay “Thời”.

Thì, như chữ “Thời 時”, có nghĩa thế là, tiếng trợ từ chỉ về trong thì giờ, hay trong cái địa vị nào đó để nối phần nói trên với phần nói dưới.

Như: Đói thì ăn, khát thì uống, mệt thời nằm.

Hễ ghét người thì Trời ghét lại,

Ghét người Trời ghét lẽ nào hơn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lo lường cho rõ thấu Thiên cơ,

Biết đặng thì tua tính kịp giờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÌ GIỜ

Hay “Thời giờ”.

Thì giờ, như chữ “Thời giờ”, là chỉ khoảng thời gian, về mặt sử dụng có ích cho con người.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy đã có sai chư Thần mách bảo với con đã lâu, trí thiêng liêng đem đàng dắt bước con đặng độ dẫn sanh linh cho kịp thì giờ trong buổi chung cuộc của con.

Xem: Thời giờ.

Thì giờ thật quý báu, mấy cháu chớ bỏ ngày tháng trôi qua, vui chơi trong thói hoang đàng, phế công đèn sách thì sau nầy mấy cháu ăn năn rất muộn.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THỈ

Thỉ là cây tên, dùng để bắn cung nỏ.

Như: Thoả mình hồ thỉ rỡ mình cân đai, tang bồng hồ thỉ nam nhi chí.

Xem: Hồ thỉ.

Hồ thỉ vẫy vùng đáng phận trai,

Trời chiều nay đã rạng cân đai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THỈ CHUNG

Thỉ (thuỷ): Trước, đầu, mới bắt đầu. Chung: Cuối, lúc cuối.

Thỉ chung, như chữ “Thuỷ chung 始 終”, là việc có trước có sau, tức chỉ cách đối xử trước sau như một, không có gì thay đổi.

Như: Vợ chồng phải ăn ở thỉ chung

Yêu mến một lòng đây rõ biết,

Thỉ chung đâu để hổ cùng lời.

(Đạo Sử).

 

 

THỊ

1.- Thị 巿 là nơi đô hội có người ở đông đúc và buôn bán thịnh vượng. Như: Đô thị, thành thị.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nếu chức sắc lúc ban sơ không có chí hy sinh và sụt sè vì những trở ngại, nếu Ðức Thượng Phẩm không có chí cương quyết điều khiển công quả, phần nhiều là người Tần Nhơn thì ngày nay đâu có vùng Nội ô Thánh Ðịa, đâu có một đô thị tôn giáo trang hoàng và xinh đẹp nhứt trong nước Việt Nam.

Hễ có tiền thì mới có quyền,

Nghèo dầu ở thị thiềng thân cô độc.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thị là phải, đối với phi là trái. Như Chuyện thị phi gác bỏ ngoài tai.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Có chí thành con người mới có phẩm hạnh sáng tỏ, mới biết cân phân tà chánh, thị phi trong khi tiếp xúc với nhân quần xã hội, mới dám quyết định nên hư trong các công việc của mình và nhờ đó mà đi đến mức thành công mỹ mãn.

Gẫm sự đời thị thị phi phi,

Hễ nhiều cậy e khi ra nhiều nhục.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thị là, ấy là. Như: Đích thị, chính thị, tức thị.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Tuy nói rằng vị tha là hướng về tha nhơn, là vì người khác chớ theo lẽ Ðạo thì vì người khác chính là vì mình đó. Nói cho rõ hơn là ta lo cho người khác tức thị lo cho ta vậy.

Muốn suy nghĩ ra cho cạn lý,

Hễ sanh chồng tức thị sanh mình.

(Phương Tu Đại Đạo).

4.- Thị là Thấy, coi, trông, không dùng một mình.

Như: Viễn thị, cận thị, thị thực, thị sinh mạng nhẹ tựa lông hồng.

Khi thuyết về “Lương Tâm”, Đức Thượng Sanh có câu: Họ xem sắc đẹp như cây khô, thị tiền tài như dép rách, đời trong sạch thanh bai từng làm cho kẻ thù nghịch phải khép nép cúi đầu.

Thị đời là vũng hôi tanh,

Nên chi lánh trược tầm thanh ẩn nhàn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

5.- Thị là cho mọi người đều biết, không dùng một mình. Như: Yết thị, hiểu thị, thị uy, thị nhục.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hại thay! Ngài phải chịu một trường hợp khó khăn đã chịu một điều oan khúc tình cờ không thế gì tự bào chữa lấy mình cho đặng, đàng sau Anh cả chúng ta buổi nọ, cả Chức Sắc Thiên Phong nam, nữ cả tín đồ đều phân phân bất nhứt, đàng sau Anh cả chúng ta buổi nọ không có cái hậu thuẫn chi hết, cả thảy đều bo bo chết anh, anh chịu, chết em, em chịu, không biết binh vực lẫn nhau, không có một hậu thuẫn biểu sao cường quyền không áp chế bắt cầm tù đặng thị nhục.

Hớn Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục,

Hạng Trọng Sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

6.- Thị là ham muốn, không dùng một mình.

Như: Những thị dục tầm thường trong con người, thị hiếu của khách hàng.

Vả lại, tham dục hay thị dục đều có trong mỗi người dù Thánh hay Phàm, dù mê hay ngộ...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THỊ CHI CHỨNG QUẢ

是 之 證 果

Thị chi: Ấy là, phải. Chứng quả: Nhận thực có kết quả, tức được thấy kết quả tu hành đã đắc đạo.

Thị chi chứng quả ý nói ấy là chứng được quả vị của sự tu hành.

Đắc lộ Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn.

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

THỊ DỤC

嗜 欲

Thị: Ham thích, tham. Dục: Ham muốn.

Thị dục là ham muốn.

Thị dục, đồng nghĩa với chữ “Thị hiếu 嗜 好”, là chỉ thói quen ham mê một thứ gì. Như: Thường vì lòng thị dục mà làm những điều bất nghĩa.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có dạy: Người ở trong vùng Thánh Ðịa dù là Chức Sắc hay Tín hữu cũng đồng con cái của Ðức Chí Tôn, nên không thể thiếu lòng thương yêu được, mỗi cá nhân không nên chiều theo thị dục mà gây sự tranh chấp hơn thua với nhau, gây nên kiện tụng liên miên, tạo ra cảnh rối loạn như ở bến chợ đời.

Thước ngọc đo lường lòng thị dục,

Khuôn vàng kềm thúc dạ nhân sinh.

(LS. Ngọc Cuổng Thanh).

 

 

THỊ KHI

視 欺

Thị: Xem. Khi: Coi rẻ, lừa dối.

Thị khi, như chữ “Khi thị 欺 視”; là xem thường, khinh thường, coi rẻ.

Như: Người giàu sang có tính thị khi kẻ nghèo hèn.

Xem: Khi thị.

Kỳ khôi bớt tánh thị khi người,

Người ấy là Trời đó hỡi ngươi.

(Đạo Sử).

Bảy mươi chưa biết trọn mình lành,

Ðừng thị khi đời ỷ miệng lanh.

(Đạo Sử).

 

 

THỊ KHÔNG THỊ SẮC

是 空 是 色

Thị không: Là không. Mọi sự vật đều không có thực thể tự tánh sinh khởi mà đều do các nhân duyên giả hợp lại tạo thành. Không, chẳng có hình tướng, thuộc vô vi như Linh hồn không thấy sắc tướng mà bất tiêu bất diệt.

Thị sắc: Là hình sắc, hình thể, vật chất. Sắc có mặt khi hội đủ những nhân duyên nào đó, và tuỳ những nhân duyên ấy mà trụ một thời gian, rồi tiêu diệt mất. Sắc vốn vô thường, tương đối. Ví dụ: Sắc thân là cái thân vật chất có sinh diệt, do bốn chất là đất, nước, gió, lửa tạo thành. Sắc thì có hình tướng, thuộc hữu hình.

Đối với “sắc, không”, Bát Nhã Tâm Kinh cho rằng: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Sắc bất dị không, không bất dị sắc 色 即 是 空, 空 即 是 色, 色 不 異 空, 空 不 異 色”, nghĩa là sắc là không, không là sắc, sắc không khác không, không không khác sắc.

Thị không thị sắc,

Vô vi nhi dịch sử quần linh.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THỊ NỮ

侍 女

Thị: Hầu hạ. Nữ: con gái.

Thị nữ là người con gái hầu hạ trong cung vua, hoặc trong những gia đình quý tộc thời xưa.

Như: Trong hoàng cung rất nhiều thị nữ lo săn sóc Hoàng Hậu.

Buông ly Hán Đế gục đầu,

Đôi ba thị nữ đứng hầu bâng khuâng...

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

THỊ NHẬN

視 認

Thị: Thấy. Nhận: Biết rõ.

Thị nhận là nhận rằng mình biết rõ.

Như: Tất cả hồ sơ đều phải có thị nhận của phong công chứng.

Luật lệ nào không có ba ấn Chưởng Pháp thị nhận và Hiệp Thiên Đài phê chuẩn thì cả chư tín đồ của Thầy không tuân mạng.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THỊ NHỤC

示 辱

Thị: Bảo cho người ta biết, bày ra xem. Nhục: Nhơ nhuốc xấu hổ,

Thị nhục chỉ làm cho người ta chịu ô nhục mà thôi.

Do tích đời nhà Hớn, Ông Lưu Khoan làm quan, hễ dân có tội thì đánh bằng roi lát cho biết nhục vậy thôi, chứ không cố tình dùng hình phạt đánh cho đau.

Hớn Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục,

Hạng Trọng Sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỊ PHI

是 非

Thị: Đúng, phải. Phi: Trái, quấy.

Thị phi là những điều phải trái, hơn thiệt. Như: Làm cho rõ thị phi.

Ông Châu Tử có câu: Thủ khẩu như bình, phòng ý như thành. Thị phi chỉ vị đa khai khẩu, phiền não giai nhân cượng xuất đầu 守 口 如 瓶, 防 意 如 城. 是 非 只 為 多 開 口, 煩 惱 皆 因 強 出 頭, nghĩa là giữ miệng như bình, đề phòng ý nghĩ như giữ thành trì. Phải trái chỉ vì do miệng nói nhiều, phiền não đều do gượng ra đầu.

Chớ buông tiếng thị phi khinh dể,

Rán làm lành phước để cháu con.

(Kinh Sám Hối).

Dời đổi thói đời lắm thị phi,

Trăm năm chung đỉnh có ra gì!

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trong chín năm lo toan gầy Đạo,

Chịu hàm oan khảo đảo thị phi.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THỊ THÀNH

市 城

Thị: Chợ, chỗ người ta họp nhau để mua bán. Thành: Nơi địa phương có người nhiều.

Thị thành, như chữ “Thành thị 城 市”, là chỉ nơi địa phương ở trong thành.

Hiện nay “Thị thành” dùng để chỉ nơi đô hội, tức là chỗ có đông đúc người và nhà cửa. Như: Chốn thị thành.

Xem: Thành thị.

Lý diệp chờ xuân nhánh trổ bông,

Thị thành chen lấn lại rừng tòng.

(Đạo Sử).

 

 

THỊ THIỀNG

Hay “Thị thành”.

Thị: Nơi đô hội có người ở đông đúc và buôn bán thịnh vượng. Thiềng: Do chữ Thành 城, đọc trại, có nghĩa bức tường xây bao bọc để phòng thủ đô thị.

Thị thiềng, như chữ “Thị thành 市 城”, chỉ nơi địa phương ở trong thành.

Xem: Thị thành.

Bao thuở đầu non chim vắng dạng,

Thị thiềng càng thấy bắt buồn tanh.

(Đạo Sử).

Uy linh tạc chói toàn công đức,

Huệ ái đầy chan khắp thị thiềng.

(Thơ Thái Phong).

 

 

THÍCH

1.- Thích là vừa, hợp, ưa thích. Như: Thích cuộc sống yên bình và nhàn nhã.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ðược như thế thì ngưới cầm quyền đối với dân cũng như cha đối với con. Phải tu thân tích đức, lo cho dân được an cư lạc nghiệp, dạy cho được sáng suốt khôn ngoan y như cha lo cho con. Phải thích cái thích của dân, phải ghét cái ghét của dân mới đáng làm cha mẹ dân.

Chẳng thích buộc ràng nơi gác tía,

Chỉnh ham thong thả chốn rừng tre.

(Thơ Huệ Giác).

Vui thích chi mà thân trói buộc,

Để cho nòi giống chịu nguy vong.

(Thơ Thuần Đức).

Vinh quang là bởi chí trung thành,

Không thích lợi quyền chẳng mến danh.

(Thơ Thái Đến Thanh).

2.- Thích là họ của Đức Thích Ca Mâu Ni.

Chữ “Thích” thường được người ta dùng để chỉ đạo Phật, hay Đức Phật Thích Ca. Bên đạo Phật, chữ “Thích” thường được đặt trước pháp danh của các tu sĩ Phật giáo như: Thích Thiện Hoa, Thích Trí Thông...

Trong đạo Cao Đài, Thái Chưởng Pháp là vị chức sắc cao cấp của Cửu Trùng Đài thuộc phái Phật, nên khi mặc Đại phục có mang giầy vô ưu màu vàng, trước mũi giầy có thêu chữ “Thích”.

Chơn đi giầy vô ưu cũng màu vàng, một sắc với áo, trước mũi có chữ “Thích”.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THÍCH CA

釋 迦

Hay “Thích Già”.

Chữ Hán : Đọc hai âm: Ca và Già.

Thích Ca hay Thích Già dùng để chỉ Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, dịch âm tiếng Çakya Mouni của Phạn ngữ, là Đấng Giáo chủ Phật giáo.

Thích Ca Mâu Ni là một vị thái tử ở nước Ca ty la (Kapilavastu) Trung Ấn Độ, phụ hoàng tên là Tịnh Phạn, mẫu hoàng tên là Ma Da. Ngài tên là Tất Đạt Đa (Siddhartha). Còn chữ Thích Ca (Sakya) là tên một chủng tộc, dịch là Năng nhơn. Mâu Ni là tiếng khen ngợi dịch là Tịch Mặc.

Lúc nhỏ Ngài có trí sáng suốt và có tài năng phi thường. Lớn lên Ngài thấy chúng sanh khổ não, thế gian vô thường, nên Ngài quyết chí tu hành, tìm đường giải thoát cho chính bản thân mình (tự độ), và cho hầu hết chúng sanh (tha độ) lên bờ giác ngộ.

Ngài thành Đạo dưới gốc cây bồ đề và trải 45 năm truyền pháp độ sanh, Ngài nhập Niết bàn lúc 80 tuổi.

1.- Thích Ca:

Bớt mọi lẽ người đương mê tín,

Nhập Phật gia cậy lịnh Thích Ca.

(Lục Nương Giáng Bút).

2.- Thích Già:

Liên đài may nở thêm hoa,

Lão Đam cũng biết, Thích Già cũng quen.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THÍCH CHÍ

適 志

Thích: Vừa, hợp. Chí: Lòng quyết định làm việc gì.

Thích chí là tỏ ra rất bằng lòng, vui vẻ, vì hợp với ý chí mình đã định. Như: Nó thích chí cười toe toét.

Diễn văn của Đức quyền Giáo Tông đọc tại Toà Thánh trong ngày vía Phật Thích Ca có câu: Tệ Huynh duy có một sở vọng là ngày nào Ðạo đắc thành, đời đặng thái bình thì thối bước lui chơn liền đặng thích chí du sơn ngoạn thuỷ; cái vui cùng tận của Tệ Huynh ở tại nơi đó mà thôi, chớ chẳng phải tại mến đời ngồi chịu khổ.

Từ nay ra khỏi chốn nhơn gian,

Thuỷ tú sơn tinh thích chí nhàn.

(Đạo Sử).

Mấy mươi năm giữ tròn thân phận,

Tòng cúc vườn xưa thích chí Đào.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÍCH ĐẠO

釋 道

Thích: Chỉ dòng họ Thích, bởi Đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, làm Giáo chủ Phật giáo, nên đạo Phật còn gọi là Thích giáo. Đạo: Tức Đạo giáo, do Đức Thái Thượng Lão Quân làm giáo chủ.

Thích Đạo ở đây dùng để chỉ hai mối đạo là đạo Phật và đạo Tiên.

Thích, Đạo ví như hành bộ khách,

Nền Nho ví tợ chiếc đò qua.

(Khổng Phu Tử Giáng).

 

 

THÍCH GIÁO

釋 教

Thích: Chỉ dòng họ Thích. Giáo: Đạo, Tôn giáo.

Thích giáo là tôn giáo của Đức Thích Ca Mâu Ni lập ra, tức là Đạo Phật.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Theo Thích giáo, con đường đi đến thành chánh quả là: Minh Tâm Kiến Tánh. Nghĩa là phải trau giồi bản tâm cho sáng suốt đặng kiến tánh.

Xưa lập Tiên gia xưng Lão Tử,

Buổi truyền Thích Giáo tá Như Lai.

(Thơ Cao Liên Tử).

 

 

THÍCH LƯNG CON

Thích: Dùng mũi nhọn mà châm vào da. Lưng: Phần sau cơ thể người. Con: Do mình sanh ra.

Thích lưng con có nghĩa là xâm chữ vào lưng con, ý chỉ bà mẹ Nhạc Phi.

Do tích Nhạc Phi, tự là Bàng Cử, người đất Thang Âm, tỉnh Hồ Nam, cha là Nhạc Hoà, mẹ là Diêu Thị tức bà An Nhơn. Khi sinh Nhạc Phi được ba ngày, làng Vĩnh Hoà, huyện Thang Âm bị ngập lụt, bà An Nhơn bồng Nhạc Phi ngồi trong lu được an toàn, nước lũ cuốn trôi chiếc lu đi, còn Nhạc Hoà thì bị nước cuốn trôi mất tích.

Mẹ con Nhạc Phi bị nước cuốn trôi đến làng Kỳ Lân ở Hà Bắc được viên ngoại Vương Minh cứu giúp đem về nhà đùm bọc, rồi mời Châu Đồng trước đây đã từng chỉ huy quân cấm vệ ở kinh thành, đến truyền dạy văn chương và võ nghệ cho Nhạc Phi.

Lớn lên, mẹ Nhạc Phi sợ con mình ngày sau không giữ được lòng trung, nên bày lễ tế cáo trời đất và tổ phụ rồi thích vào lưng của Nhạc Phi bốn chữ “Tận Trung Báo Quốc 盡 忠 報 國”.

Nước Kim ở phương Bắc nổi lên hùng mạnh, sai Thái Tử Ngột Truật đem binh xâm lấn Trung Nguyên. Nhạc Phi đem quân đi đánh tan đạo binh của Ngột Truật, được vua phong Phó Nguyên Soái.

Trong triều có Tần Cối vì ganh công với Nhạc Phi, nên đề nghị muốn xin hoà với Kim, giả chiếu chỉ vua triệu Nhạc Phi về. Nhân trong lúc đang thắng trận, Nhạc Phi không chịu hoà với giặc. Tần Cối gièm với vua là Nhạc Phi có ý muốn làm phản, nên nhà vua bắt bỏ ngục và giết Nhạc Phi.

Để nêu gương người trung liệt, bên trong hành lang Báo Ân Từ có vẽ một khuôn hình lấy tích mẹ Nhạc Phi thích vào lưng con bốn chữ “Tận Trung Báo Quốc”.

Mẹ Nhạc Phi gương loà Khổng giáo,

Thích lưng con hoài bảo tận trung.

Cao Tông đứa nịnh ưa dùng,

Sàm thần mãi quốc, anh hùng thác oan.

(Báo Ân Từ).

 

 

THÍCH TIÊN NHO

釋 仙 儒

Thích: Chỉ Phật Giáo, một Tôn giáo do Đức Thích Ca Mâu Ni làm Giáo tổ. Tiên: Chỉ Tiên Giáo hay Đạo giáo. Nho: Chỉ Nho Giáo.

Thích Tiên Nho chỉ tam giáo là Phật Giáo, Tiên Giáo và Thánh giáo.

Một kiếp phù sinh không mấy lát,

Thật hành cho vẹn Thích Tiên Nho.

(Thơ Đỗ Quang Hiển).

Tiền định công đồng quy nhứt bổn,

Chấn hưng tam giáo Thích Tiên Nho.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THÍCH THÚ

適 趣

Thích: Vừa, hợp, có cảm giác bằng lòng, dễ chịu, mỗi khi tiếp xúc với cái gì hoặc làm việc gì. Thú: Hứng, vui.

Thích thú là vui thích, thú vị, tức có cảm giác bằng lòng, cảm thấy một đòi hỏi nào đó được thoả mãn.

Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Trang Tử khi nằm mộng làm bướm. Lúc bấy giờ Ông cũng thích thú làm bướm. Ông nói: “Không biết Trang Chu mộng bướm, hay bướm mộng Trang Chu”.

Cày mây Y Phó nêu gương trí,

Lánh tục Hứa Sào thích thú ghê.

(Thơ Hộ Pháp).

Lão tiều thích thú chốn rừng xanh,

Rìu búa tri âm lực sĩ thành.

(Thơ Cao Hương Cường).

 

 

THÍCH TRUNG

適 中

Thích: Hợp với. Trung: Ở giữa.

Thích trung là hợp với những gì vừa phải, không quá thiên về bên nào, tức trung dung.

Như: Làm việc gì cũng phải thích trung, không thái quá không bất cập.

Nước bèo vẫn biết tan rồi họp,

Đạo lý xin gìn chỗ thích trung.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÍCH ỨNG

適 應

Thích: Hợp với. Ứng: Đáp lại.

Thích ứng là đáp lại đúng yêu cầu, lựa đúng dịp mà ứng phó.Như: Lối là việc thích ứng với hoàn cảnh.

Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Trong việc tu hành xưa nay phần cốt yếu là đức tin và công quả. Nhưng trong thời gian ma tâm trác tánh, tu công bối đức nếu gặp đặng những sách vở, kinh sám thích ứng để tu học, để mở rộng kiến văn thì người tu sẽ tự mình rút ngắn con đường của mình đi vậy.

Có một điều làm cho Thầy vui hứng là cơ quan dân vụ của các con nó phù hạp thích ứng với Thầy hơn hết, các con cố gắng với đường lối dân vụ.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THIÊM THIẾP

Thiếp: Ngủ, mê, không tỉnh, ở tình trạng toàn thân hầu như bất động vì không còn sức lực, tri giác.

Thiêm thiếp là từ láy của chữ “thiếp” nghĩa là vừa nhắm mắt, ngủ chưa có mê.

Như: Mắt ông ấy vừa thiêm thiếp, kiệt sức quá nên nằm thiêm thiếp đi một hồi.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trước nửa giờ lâm chung, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cùng tất cả Thanh Niên Việt Nam hãy cương quyết phục cường cứu quốc, rồi Ngài nằm thiêm thiếp.

Ngủ nằm thiêm thiếp vài hôm,

Bây giờ chợt tỉnh miệng mồm khô queo.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THIỀM

1.- Thiềm hay “Thiềm thừ 蟾 蜍” là con cóc. Do ngày xưa cho rằng trong cung trăng có con thiềm thừ, nên “Thiềm cung” dùng để chỉ cung trăng.

Như: Cung thiềm (cung trăng), thiềm cung chiết quế.

Xem: Thiềm cung.

Tìm Công Viễn là tay diệu pháp,

Đưa đường phàm cho ráp cung thiềm.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thiềm là mái nhà che ra, gọi là thềm nhà. Thiềm đầu có nghĩa là đầu thềm, tức chỉ trên đầu mái hiên trước nhà.

Trong Minh Tâm Bửu Giám có câu: Bất tín đản khán thiềm đầu thuỷ, điểm điểm trích trích bất sai di 不 信 但 看 檐 頭 水, 點 點 滴 滴 不 差 移, nghĩa là chẳng tin hãy nhìn lên mái thềm nhà, từng giọt, từng hạt rơi xuống không sai dời.

Nhựt tại thiềm đầu, nguyệt tại song,

Hà thời liễu đạo đắc Tiên phong.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THIỀM CUNG

蟾 宮

Thiềm: Con thiềm thừ, chỉ mặt trăng. Cung: Cung điện, chỉ cung trăng.

Tương truyền Hằng Nga sau khi trộm thuốc tiên của chồng là Hậu Nghệ, uống vào thành tiên lên ở cung trăng và hoá thành con thiềm thừ.

Lại có sách cho rằng trên cung trăng có con cóc, dưới họng có chữ son, sống cả ngàn năm. Còn Hằng Nga thành Tiên và ngụ tại Quảng Hàn Cung.

Vì vậy, mặt trăng được gọi là “Thiềm cung” hay “Cung thiềm”.

Xem: Cung thiềm.

Nam đảnh vít xa gươm xích quỷ,

Thiềm cung mở rộng cửa hà ngân.

(Bát Nương Giáng Bút).

Thiềm cung rạng tỏ bốn phương trời,

Vẻ mặt Hằng Nga giọi khắp nơi.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THIÊN

1.- Thiên là Trời, chỉ Thượng Đế. Như: Thiên bất dung gian, ngã Thiên thị thính, thể Thiên hành hoá.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong khi chào đón Xuân mới, người Ðạo Cao Ðài hy vọng và cầu nguyện Ðức Chí Tôn mở lượng từ bi xoay trở thế cuộc, ban ân huệ cho dân tộc Việt Thường chóng thoát nạn chiến tranh, sớm vui hưởng đời thanh bình vĩnh cửu, người có sứ mạng Thể Thiên hành hoá mới có cơ thuận tiện tận tâm lo dìu dắt nhơn sanh trên đường giải thoát.

Thấy khổ nhơn sanh lệ nhỏ hàng,

Thế Thiên hành hoá há cầu an.

(Thơ Vạn Năng).

2.- Thiên là tự nhiên, trời sinh ra. Như: Thiên cơ, thiên điều, thiên luật, Thiên cảnh, cõi Thiên.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có đoạn: Cười. Ði bao nhiêu đều mất bấy nhiêu. Các con chớ buồn vì Thiên cơ phải vậy. Thi nhiều đậu ít là lẽ hằng.

Ðàng Ðạo càng đi càng vững bước,

Cõi Thiên sau ắt hội cùng nhau.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,

Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Thiên là ngàn. Như: Thiên cổ, thiên tải, nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại.

Thánh giáo Thầy có dạy: Con chỉ có tu mà đắc đạo. Phải ngó đến hằng ức thiên vạn kẻ nhơn sanh chưa đặng khỏi luân hồi, để lòng từ bi độ rỗi, kẻo tội nghiệp.

Dìu dắt sanh linh lo tế độ,

Thiên niên danh tạc chốn Vân Ðài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Một câu thất đức thiên niên đọa,

Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

4.- Thiên là một phần trong quyển sách, có nhiều chương, nhiều đoạn.

Như: Sách Luận Ngữ có ba mươi thiên, thiên sử oai hùng, một thiên tình sử.

Hai chữ tương tư giữ dạ kính ghi dòng nước bích,

Một thiên trường hận rèn lòng thề tạc đảnh non xanh.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

THIÊN ÂN

天 恩

Thiên: Trời. Ân: Ơn.

Thiên ân là ơn của nhà vua.

Ngoài ra, Thiên ân còn dùng để chỉ ơn của Trời, tức là ơn của Đấng Tạo hoá đã sinh thành và dưỡng dục nên con người.

Trong đạo Cao Đài, chữ “Thiên Ân” còn dùng để chỉ Đức Chí Tôn.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Tiếp Đạo Cao Đức Trọng Giáng cơ có câu: Bần Đạo được nhờ Phật Mẫu và Cửu vị Nữ Phật giao cho phận sự thiêng liêng phổ độ khắp miền Á châu, nhưng dầu sao Bần Đạo cũng hiệp với mấy Đấng thiêng liêng tiền bối của Đạo trông nom và trợ giúp mấy bạn Hiệp Thiên làm tròn nhiệm vụ. Bần Đạo xin em Thượng Sanh khuyên giải bà thân mẫu của chúng ta. Anh đã hưởng trọn Thiên ân của Đức Chí Tôn. Đó là một điều vui chớ chẳng phải việc buồn.

1.- Thiên ân: Chỉ Ơn Chí Tôn.

Nay đà gặp lúc Thiên ân rưới,

Gắng bước đường tu hưởng phước đời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,

Ngày sau toại hưởng trọn Thiên ân.

(Đạo Sử).

2.- Thiên ân: Chỉ Đức Chí Tôn.

Thiên ân huệ chiếu giáng thiền minh,

Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh.

(Bài Dâng Rượu).

 

 

THIÊN BÀN

Thiên: Trời. Bàn: Cái bàn thờ.

Thiên Bàn là một từ đặc biệt của đạo Cao Đài, dùng để chỉ bàn thờ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế tại tư gia của mỗi tín đồ.

Mỗi tín hữu khi đã nhập môn quy tùng chánh pháp Cao Đài, phải lấy việc hồi hướng phụng thờ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu làm trọng, do đó luật Đạo buộc phải lập vị thờ Thầy tại tư gia, để chơn linh có nơi quy hướng. Muốn lập vị Thiên Bàn, Hội Thánh hướng dẫn phải chọn nơi nào cho tinh khiết, tốt hơn hết là giữa nhà, treo màn cho khuất chỗ thờ phượng.

Trên Thiên Bàn có bày đủ 12 món vật như sau:

-. 1 Thánh Tượng Thiên Nhãn.

-. 2 Đèn Thái cực, sử dụng đèn dầu.

-. 3 Đĩa trái cây.

-. 4 Bông.

-. 5 Nước trà (để bên hữu ấy là Âm).

-. 6, 7, 8 Ba ly rượu.

-. 9 Nước trắng (để bên tả ấy là Dương).

-. 10 và 12 Hai cây đèn.

-. 11 Lư hương.

Cúng Đức Chí Tôn tại Thiên Bàn hằng ngày vào bốn thời: Tý (12 giờ khuya), Ngọ (12 giờ trưa), Mẹo (6 giờ sáng), Dậu (6 giờ chiều).

Cách sắp đặt Thiên Bàn thờ phượng,

Mượn hữu hình sắc tướng truyền đăng,

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Nhìn trên Thánh Nhãn hình Tam Trấn,

Ngó trước Thiên Bàn bóng Lưỡng Nghi.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THIÊN BINH

天 兵

Thiên: Trời, cõi Trời. Binh: Binh lính.

Thiên binh ý nói binh lính của Trời, tức binh lính ở cõi Thiên đình.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tuy với mắt thường thấy cơ quan binh bị như thế nầy, chớ trong đó có đủ thiên binh, thần tướng vì mục đích bảo tồn thiên hạ mà biến ra vậy.

Tứ hướng trung ương hầu Ngũ nhạc,

Thiên binh thần tướng đến ngàn trùng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THIÊN CÁC

天 閣

Thiên: Trời, cõi Trời. Các: Nhà lầu, nhà có gác.

Thiên các là toà nhà lầu nơi cõi Thiên.

Ở đây, từ “Thiên các” đươc dùng để chỉ toà Bạch Ngọc Kinh nơi cõi thiêng liêng, là chỗ ngự triều của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Một Toà Thiên các ngọc làu làu,

Liền bắc cầu qua nhấp nhoá sao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN CAN

天 干

Thiên: Trời. Can: Cái dấu.

Thiên can là mười dấu hiệu hợp với mười hai Địa chi để tính năm, tháng, ngày, giờ.

Ngày xưa, trong lịch số người ta thường dựa theo can chi mà lập nên. Can chi là Thiên can và Địa chi.

Thiên can, còn gọi là “Thập Thiên can 十 天 干”, gồm có mười dấu là Giáp 甲, Ất 乙, Bính 丙, Đinh 丁, Mậu 戊, Kỷ 己, Canh 庚, Tân 辛, Nhâm 壬, Quý 癸.

Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,

Tùng Địa Chi hoá trưởng Càn Khôn.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

THIÊN CẢNH

天 境

Thiên: Trời. Cảnh: Cõi giới.

Thiên cảnh là cõi Trời. Theo Cao Đài tức là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Hộ Pháp Phạm Công Tắc thuyết về Đức Jésus Christ có câu: Đức Chúa Jésus de Nazareth (gọi là Christ) bởi lòng nhân cứu thế lập nên Thánh Giáo Gia Tô, Ngài mượn bác ái nhân sanh, đặng thay mặt Chí Tôn khai hoá, xem phổ tế chúng sanh rằng trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ nghèo, dỗ kẻ dữ, dạy người ngu, ngó chân thật mạng sanh hành thiện Đạo, diệt dị đoan, trừ mê tín, dụng chân lý để răn đời, nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời, lấy trí tuệ vẽ tươi Thiên Cảnh.

Hồn Trời hoá trở về Thiên cảnh,

Xác Đất sanh đến lịnh phục hồi.

(Kinh Tận Độ).

Nam Mô Địa Tạng thi ân,

Đưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.

(Kinh Tận Độ).

Dầu đoạt vị ở an Thiên cảnh,

Dầu tái sanh mở cảnh siêu phàm.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THIÊN CỔ

千 古

Thiên: Ngàn. Cổ: Xưa.

1.-Thiên cổ dùng để chỉ một thời đại rất xa xưa. Như: Lưu danh thiên cổ.

Nóc chiền thiên cổ di hồn tục,

Cửa Thánh kỳ ba độ nghiệp vua.

(Tiêu Diêu Đạo Sĩ).

2.-Thiên cổ còn dùng để nói sự chết, người chết.

Như: Xe thiên cổ (xe tang), hoá ra người thiên cổ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Một số bạn đồng hành của chúng ta trong cửa Đạo, mới xuân trước còn gặp nhau với nét tươi cười, nay chưa hết tiết đông đã vội hoá ra người thiên cổ.

Đọc chữ Lục nga thương bạn ngọc,

Nhìn xe thiên cổ cuộn dòng châu.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THIÊN CÔNG

天 公

Thiên: Trời. Công: Ông.

Thiên Công là Ông Trời, chỉ Đấng Tạo Hoá. Như: Nhờ Thiên công định duyên phận.

Trong tôn giáo Cao Đài, Thiên Công dùng để chỉ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Hạnh phúc hữu duyên thiên tải hưởng,

Tâm thành xúc động đến Thiên công.

(Thượng Phẩm Giáng).

Nam nữ lớn khôn kết vợ chồng,

Ấy là luật định của Thiên Công.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THIÊN CƠ

天 機

Thiên: Trời. Cơ: Máy móc.

Trời như là một guồng máy to lớn, sắp đặt đủ mọi việc, nhưng lại là guồng máy bí mật, khiến con người không biết được những việc gì sẽ xảy ra, nên thường gọi là “Thiên cơ” (Máy Trời).

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Nghĩ vì Thiên cơ đã định vậy, thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm lòng từ thiện ăn năn sám hối, lo việc tu hành, đồng với nhau cả quốc dân mà quỳ lụy khẩn cầu coi Trời đoái tưởng đến chăng.

Hộ giá Chí Tôn trước đến giờ,

Pháp luân thường chuyển máy Thiên cơ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thiên cơ đã lộ lúc khai Trời,

Kêu khách phàm trần đã hụt hơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lo lường cho rõ thấu Thiên cơ,

Biết đặng thì tua tính kịp giờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN CUNG

天 宮

Thiên: Trời. Cung: Cung điện.

Thiên cung là cung điện trên trời, chỉ cõi trời, hay cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Khi giảng về Phật Mẫu Chơn Kinh, Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Do nơi Thiên Cung mà ra vạn loại, tức nhiên vạn vật tùng quyền pháp Thiên Cung mà sanh.

Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi,

Thiên cung lỡ lối chơi vơi cõi trần.

(Kinh Tận Độ).

Thiên cung xuất Vạn linh tùng pháp,

Hiệp Âm Dương hữu hạp biến sanh.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Đại Tiên ở chốn Thiên cung,

Lòng lành thi phú thung dung độ người.

(Xưng Tụng Công Đức).

 

 

THIÊN CHIẾU

天 詔

Thiên: Trời, chỉ Thượng Đế, hoặc chỉ vua. Chiếu: Tờ của vua hay của Trời ban bố ra.

Thiên chiếu là chiếu chỉ của vua ban xuống.

Thiên chiếu còn dùng để chỉ chiếu của Trời, hay mệnh lệnh của Thượng Đế ban xuống.

Hàng hàng binh ngóng tờ Thiên Chiếu,

Ngũ ngũ quân hầu tướng một đao.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THIÊN CHỨC

天 職

Thiên: Trời. Chức: Công việc mỗi người phải làm.

Thiên chức là phần việc tự nhiên, thiêng liêng của con người. Như: Thiên chức làm mẹ của người đàn bà.

Không làm mà nên, không đòi hỏi mà được, như thế mới gọi là thiên chức.

Ngày nay, chữ thiên chức có nghĩa là làm hết bổn phận, hết trách nhiệm của mình.

Đức bạc dám đâu rưới phước lành,

Vì mang thiên chức phận đàn anh.

(Thơ Thượng Sanh).

Xót vì thiên chức chưa tròn vẹn,

Mây nước buồn trông cảnh mộ hoài.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THIÊN ĐÀNG

Hay “Thiên Đường”.

Thiên: Trời, cõi trời. Đàng (đường): Cái nhà, cõi.

Thiên đàng, như chữ “Thiên đường 天 堂”, là cõi Trời, tức cõi mà tôn giáo Cao Đài gọi là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Như: Thiên đàng Địa ngục.

Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Thầy vì thương nhơn loại, muốn cứu hết nên thường thâu thập nhiều đứa vô tâm, cũng muốn cho chúng nó ăn năn chừa lỗi, ngõ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao mong rỗi đặng. Ðến buổi chung quy mới thấy Thiên đàng, Ðịa ngục thì đã muộn rồi.

Xem: Thiên đường.

Thiên Đàng giữ cửa góc Trời Tây,

Truyền Ðạo cho dân biết mặt Thầy.

(Đạo Sử).

 

 

THIÊN ĐẠO

天 道

Thiên: Trời. Đạo: Tôn giáo.

Thiên Đạo có nhiều nghĩa:

1.- Thiên Đạo là đạo lý tự nhiên của Trời đất.

Ngày đêm đưa rước chực chầu,

Công bình Thiên đạo phép mầu chí linh.

(Kinh Sám Hối).

Câu thiện ác đáo đầu hữu báo,

Phải biết rằng Thiên đạo chí công.

(Thơ Bảo Pháp).

2.- Thiên Đạo là nói chung các mối đạo giải thoát, tức là Đạo đưa linh hồn con người thoát khỏi luân hồi sinh tử để về Tiên cảnh hay vào Cực Lạc thế giới.

Thiên Đạo trong trường hợp này, gọi là Tiên Đạo, trái với Nhơn Đạo, nhưng lấy Nhơn Đạo làm căn bản, bởi vì tròn được Nhơn Đạo thì mới đạt được Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo. Vì vậy, Nho giáo có câu: Dục tu Tiên Đạo, tiên tu Nhơn Đạo. Nhơn Đạo bất tu, Tiên Đạo viễn hỹ 欲 修 仙 道, 先 修 人 道. 人 道 不 修, 仙 道 遠 矣, nghĩa là muốn tu đạo Tiên, trước tu nhơn đạo, nhơn đạo không tu, đạo Tiên xa lắm vậy.

Rằng ở đời thì nhơn đạo trọn,

Trọn rồi Thiên Đạo mới hoàn toàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Thiên Đạo còn có nghĩa là Đạo Trời, tức là con đường để người tu hành theo đó được thoát khỏi luân hồi hầu hiệp nhập vào Thượng Đế.

Ở đây Thiên Đạo dùng để chỉ Đạo Cao Đài.

Như ta biết, đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng huyền cơ lập ra và chính Ngài làm Giáo chủ. Nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi là “Thiên đạo”, tức Đạo Trời.

Xây bàn chấp bút khai Thiên Đạo,

Phong Thánh phò loan độ thế trần.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THIÊN ĐỊA

天 地

Thiên: Trời. Địa: Đất.

Thiên Địa là trời đất. Như: Khẩn cầu Thiên địa.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ngài dâng sớ cho nhà vua, nói một câu nói dường nầy quá lẽ: “Dĩ nghệ tề thiên địa, Chỉ nhượng tử sanh tạo hoá quyền”. Ngài nói rằng: Cái quyền hành vi chủ, duy vật chẳng nhượng quyền tạo hoá, chỉ có chết sống mới nhượng cho quyền tạo hoá mà thôi.

Ðâu đâu Thiên Ðịa cũng đồng khai,

Rảo bước xuống xe đến Dịch đài.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THIÊN ĐỊA GIAO THỚI

Hay “Thiên địa giao thái”.

Thiên địa: Trời đất.

Thới nhất hay “Thái nhất 泰 一”, là cái nguyên khí khi Trời đất chưa chia.

Còn Giao thới là nguyên khí khi Trời đất đã phân định rồi, tức là lúc Trời đất giao tiếp nhau.

Thiên địa giao thới, như câu “Thiên địa giáo thái 天 地 交 泰”, là nguyên khí của Trời Đất đã giao tiếp nhau.

Trong Giảng Đạo Yếu Ngôn, Nguyễn Văn Kinh có câu: Bởi một phần Âm, một phần Dương hiệp lại cũng là Đạo. Đạo là cơ quan (cái máy) chủ tể của sự sanh sanh hoá hoá, nên nhứt nhứt cả thảy hễ có sanh hoá đặng gọi là Đạo; nếu làm cho nó không sanh hoá đặng là thất Đạo. Vậy nên Đạo gọi là:“Thiên Địa giao thới pháp luân thường chuyển”.

Thiên Địa giao thới, khai hoá chi nguyên, vạn vật giai đắc phát sanh.

(Sớ Văn).

 

 

THIÊN ĐỊA GIAO THỪA

天 地 交 承

Thiên địa: Trời đất. Giao thừa: Giao tiếp với nhau, chỉ khoảng năm cũ, năm mới tiếp giao nhau.

Thiên địa giao thừa là Trời đất giao tiếp, tức chỉ năm cũ qua đi, năm mới vừa tiếp đến.

Kim vì Tân Xuân Nguyên Đán phong khí ôn hoà, Thiên địa giao thừa, lý đoan du thỉ, vạn vật giai đắc hữu sanh.

(Sớ Văn).

 

 

THIÊN ĐỊA HỮU ÂM DƯƠNG

天 地 有 陰 陽

Thiên địa: Trời đất. Hữu: Có. Âm Dương: Hai chất khí do Thái Cực biến hoá sinh ra, gọi là Lưỡng nghi.

Thiên địa hữu Âm Dương là Trời đất có hai chất khí: Khí Âm và khí Dương.

Thái Cực sinh ra hai khí Dương, Âm. Khí Dương khinh thanh nhẹ nhàng bay bổng lên làm Trời; khí Âm trọng trược nặng nề ngưng giáng xuống thành đất. Khí Dương thì động nên bao quát vũ trụ, còn khí Âm thì tĩnh nên ngưng một chỗ.

Hai thứ khí ấy quanh lộn, đun đẩy nhau rồi hỗn hiệp cùng nhau. Vi hai thứ khí ấy đều có Âm Dương lẫn lộn: Khí Âm có lẫn lộn một phần chơn Dương, và khí Dương có lẫn một phần chơn Âm. Nên nói: Trung Âm hữu Dương, trung Dương hữu Âm.

Thiên là Dương, địa là Âm, như vậy Thiên địa đều có Âm Dương

Thầy dạy: Thiên địa hữu Âm Dương. Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THIÊN ĐỊA TẤT GIAI TRI

天 地 必 皆 知

Thiên địa: Trời đất. Tất giai tri: Đều biết rõ.

Thiên địa tất giai tri là Trời đất đều biết rõ hết, ý muốn nói Trời người tương cảm, những gì con người nghĩ đến, trời đều rõ biết.

Do câu trong sách Minh Tâm Bửu Giám: “Thiên thính tịch vô âm, thương thương hà xứ tầm, phi cao diệc phi viễn, đô chỉ tại nhân tâm; nhân tâm sanh nhất niệm, thiên địa tất giai tri, thiện ác nhược vô báo, Càn khôn tất hữu tư 天 聽 寂 無 音, 蒼 蒼 何 處 尋, 非 高 亦 非 遠, 都 只 在 人 心. 人 心 生 一 念, 天 地 悉 皆 知. 善 惡 若 無 報, 乾 坤 必 有 私” nghĩa là Trời tuy thấy lặng tanh, không nghe được tiếng gì hết, sắc thì xanh xanh, không tìm thấy xứ nào cho ra? Trời chẳng cao mà cũng chẳng xa, đều chỉ nơi lòng người. Lòng người nghĩ một điều gì thì Trời đều thấy rõ hết, nên việc lành việc dữ nếu không có quả báo, thì Trời đất có tư vị hay sao.

Nền Ðạo là một điều cảm ứng rất mầu nhiệm vô cùng, có câu: “Nhơn tâm sanh nhứt niệm, Thiên địa tất giai tri”.

(Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp).

 

 

THIÊN ĐỊA VÔ TƯ

天 地 無 私

Thiên địa: Trời đất. Vô tư: Không riêng, tức là không tư vị riêng cho ai.

Thiên Ðịa vô tư tức là Trời Ðất không có lòng riêng, không tư vị ai hết, giữ mực công bằng.

Sách Minh Tâm Bửu Giám có viết câu: “Thiên Ðịa vô tư, Thần minh hữu sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, bất vị thất lễ nhi giáng hoạ 天 地 無 私, 神 明 有 察, 不 為 祭 享 而 降 福, 不 為 失 禮 而 降 禍.” nghĩa là: Trời Ðất không riêng, Thần minh thường xét, không vì hưởng cúng tế mà ban phước, không vì sự thất lễ mà giáng cho tai hoạ.

Phải hiểu rõ rằng: Thiên Ðịa vô tư, đừng ỷ là có Ðại Từ Phụ mà lờn oai, nghe các con!

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN ĐIỀU

天 條

Thiên: Trời, Thiên đình. Điều: Điều khoản.

Thiên điều là những điều khoản luật pháp do các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật họp đại hội lập ra, gọi là luật Trời. Như: Tránh được luật thế gian nhưng Thiên điều khó tránh đặng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ai giữ trọn bực phẩm thì đặng Toà Nghiệt Cảnh tương công chiết tội, để vào địa vị cao hơn chốn Ðịa cầu 68 nầy; ai chẳng vẹn trách nhậm nhơn sanh phải bị đoạ vào nơi U Minh Ðịa, để trả cho xong tội tình căn quả cho đến lúc trở về nẻo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi cũ, bằng chẳng biết sửa mình thì luật Thiên điều chồng chập, khổ A Tỳ phải vướng muôn muôn đời đời mà đền tội ác.

Mấy con biết luật hình thế gian còn chưa tư vị thay, huống là Thiên điều thì tránh sao cho lọt?

Dầu chăng phải mực Thiên điều,

Cũng quyền tự chủ dắt dìu thiên lương.

(Kinh Tận Độ).

Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,

Giữa Tây phương nắm giữ Thiên điều.

(Kinh Thế Đạo).

Danh lợi là tuồng đày đoạ phận,

Thương thân phải hiểu máy Thiên điều.

(Đạo Sử).

 

 

THIÊN ĐIỀU TẠI THẾ

天 條 在 世

Thiên điều: Luật pháp do các Đấng Thiêng Liêng lập ra. Tại thế: Ở cõi thế gian.

Theo bài diễn văn của Đức Hộ Pháp đọc tại Toà Thánh ngày 12/2/Mậu Thìn (1928), nói về lập luật như sau: “Hội Thánh hiệp nhau lập luật đạo thì cũng như chư Thần Thánh Tiên Phật hội lập Thiên điều. Vậy thì Hội Thánh và chư Thần Thánh Tiên Phật cũng đồng một thể”.

Như vậy, ta có thể nói Hội Thánh lập luật pháp Đạo là Thiên điều tại thế.

Thiên điều tại thế nên tôn trọng,

Vẹn phận ngàn thu hưởng phúc duyên.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

THIÊN ĐÌNH

天 廷

Thiên: Trời. Đình: Nơi vua và bầy tôi gặp nhau.

Thiên đình là triều đình trên Thiên cung, tức là nơi Đức Chí Tôn thường ngự, chỉ cõi Thiên.

Thiên đình đồng nghĩa với “Thiên triều 天 朝”.

Đức Chí Tôn dạy trong Thánh Ngôn như sau: Ngày vui vẻ của sanh linh đã mòn, hoạ Thiên điều đã cận, Càn khôn Thế giới còn đeo đuổi, dụng thất đức vô nhân mà gieo thảm chất sầu trong nhân loại. Hoạ Âu tai Á sẽ lần lần thay phiên nhau, dụng luật Thiên đình mà diệt phạt người vô đạo. Càn khôn cũng vì đó mà phải điên đảo.

Ba lo trị thế thái bình.

Cộng chung Pháp luật Thiên đình chí công.

(Kinh Thế Đạo).

Đã thấy đủ Thiên đình huyền pháp,

Cổi giác thân lên đạp Ngân Kiều.

(Kinh Tận Độ).

Biết số biết căn tua biết phận,

Đường xưa để bước lại Thiên đình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN ĐỊNH

天 定

Thiên: Trời. Định: Sắp đặt.

Thiên định là Trời đã định sẵn, tức là Trời sắp đặt như thế, không thay đổi được.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Chí Tôn có nói: Nền Ðạo chinh nghiêng, ấy cũng nơi Thiên định. Nước có trị loạn, đời có hưng vong, thì Ðạo tất phải có dùn thẳng quanh co, rồi mới đến thẳng rẳng đường ngay mà lập nên thể thống.

Kinh Châu thất thủ nơi Thiên định,

Khiến Hớn vận suy mới đổi thay.

(Đạo Sử).

Thiên định lẽ kia ai cũng chịu,

Hỏi người hổ mặt giữa vườn dâu.

(Đạo Sử).

 

 

THIÊN ĐỒ

天 徒

Thiên: Trời. Đồ: Học trò.

Thiên đồ là người học trò của Trời.

Khi khai sáng nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ cho phép những người nhập môn vào Đạo làm môn đệ (học trò) và gọi Ngài bằng Thầy.

Do vậy, những người Tín đồ của Đạo Cao Đài cũng có thể gọi là Thiên đồ.

Cho tròn quả phúc bậc thiên đồ,

Cửa ngục trần gian rán sức xô.

(Cao Tiếp Đạo).

 

 

THIÊN ĐƯỜNG

天 堂

Thiên: Trời. Đường: Nhà, cõi.

Thiên đường là cõi Trời.

Các tôn giáo đều đưa ra một thế giới vĩnh hằng và an lạc, như Phật giáo là Cực lạc, Thiên Chúa giáo là Thiên Đường.

Thiên Đường là nơi trở về của những người tốt, thiện lành để hưởng mọi sự yên vui, còn Địa Ngục là chỗ đoạ của những kẻ ác đức, bất lương để chịu đủ mọi cực hình.

Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có câu: Nước Thiên đường thì ít kẻ, cửa Ðịa ngục vẫn nhiều người, chưa từng thấy hạng nhơn sanh nào mà tự trọng thân hình, chẳng hữu ích chi cho cả cơ Tạo, mà đoạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Quyết chí Thiên đường men bước tới,

Phải nhiều máu thịt mới đồng bào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đức tin bày rõ Thiên đường,

Phân rành Địa ngục đôi đường cách xa.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THIÊN HẠ

天 下

Thiên: Trời. Hạ: Dưới.

Thiên hạ là dưới trời, dùng để chỉ dân chúng.

Kinh Lễ có câu: Quân thiên hạ viết thiên tử 君 天 下 曰 天 子, nghĩa là làm vua cả thiên hạ, gọi là thiên tử.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình. Cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Ðất.

Cửu Trùng không kế an thiên hạ,

Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hai gánh chia đồng khi nhẹ bớt,

Coi theo thiên hạ học nên trò.

(Đạo Sử).

Hễ mình khinh thiên hạ mới xem khinh,

Còn mình trọng ai mong làm mất trọng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THIÊN HẠ ĐẠI ĐỒNG

天 下 大 同

Thiên hạ: Dưới trời, chỉ nhơn loại. Đại đồng: Thế giới chung một nhà, không phân biệt quốc gia, hay chủng tộc.

Thiên hạ đại đồng có nghĩa là hết thảy đều như nhau.

Ở đây chỉ một xã hội lý tưởng của Nho giáo, trong đó nhơn loại đều là anh em, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giai cấp. Mọi người đều sống bình đẳng, bác ái, chung nhau làm, chung nhau ăn, cuộc sống thanh bình, thánh đức.

Xem: Đại đồng.

Muốn cho thiên hạ đại đồng,

Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.

(Kinh Thế Đạo).

Chuyển xây thiên hạ đại đồng,

Thật hành bác ái thoát vòng oan khiên.

(Long Hoa Hội).

 

 

THIÊN HẬU

天 后

Thiên: Trời. Hậu: Vua, Hoàng Hậu.

Thiên Hậu là một Thánh hiệu của Đức Phật Mẫu.

Phật Mẫu có rất nhiều danh hiệu khác nhau, tuỳ theo địa phương, dân tộc hay Tôn giáo, được kể như sau: Mẹ sanh, Mẹ Thiêng Liêng, Địa Mẫu, Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Phật Mẫu, Kim Bàn Phật Mẫu, hoặc Diêu Trì Kim Mẫu...

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Từng Trời thứ chín gọi là Cung Tạo Hoá Thiên, có vị cầm quyền năng tạo đoan gọi là Thiên Hậu, nắm cả Kim Bàn tức là nắm đẳng cấp thiêng liêng điều khiển chơn linh gọi là Phật Mẫu Diêu Trì. Bên Á Ðông người ta thường kêu Phật Mẫu là Mẹ sanh thờ bằng cốt tượng, cũng nhờ nơi Cửu Vị Tiên Nương truyền bá còn lưu lại ngày nay, là bọn đồng cốt, nhờ đồng cốt mà cả Á Ðông đều biết Phật Mẫu là Mẹ sanh của nhơn loại.

Tạo Hoá Thiên Huyền vi Thiên Hậu,

Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Thiên Hậu đảm đương quyền Tạo Hoá,

Là ngôi pháp chủ khí sanh quang.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THIÊN HÌNH VẠN TRẠNG

千 形 萬 狀

Thiên hình: Ngàn hình ảnh. Vạn trạng: Muôn hình dung, hay hình dạng.

Thiên hình vạn trạng là ngàn hình muôn trạng, ý chỉ nhiều vẻ khác nhau, thức nầy vẻ khác, cùng ý với câu thành ngữ Việt “Muôn hình ngàn vẻ”.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Bậc đã được kiến tánh, giữ cõi lòng thật thanh tịnh trở lại với bản tánh thiên nhiên tức là lúc Mắt tuy thấy thiên hình vạn trạng, trí tưởng nghìn muôn pháp, nhưng tâm vẫn yên tịnh dường như không gì xao xuyến.

Ở trong một khối chia ra,

Thiên hình vạn trạng tinh ba ẩn tàng.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Nổi ma khảo thiên hình vạn trạng,

Cũng cứ làm mặt dạn mày dày.

Ðạo thơ gắng chí dồi mài,

Công viên quả mãn Bồng Lai đặng vào.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THIÊN HỶ ĐỘNG

天 喜 洞

Thiên: Trời. Hỷ: Mừng. Động: Nguyên nghĩa là hang núi, chỉ nơi tu hành.

Thiên Hỷ 天 喜, hay Thiên Hỷ Động, là một vùng đất thuộc ấp Trường Xuân, xã Trường Hoà, Châu Thành Thánh Địa, cách Toà Thánh Tây Ninh khoảng 7 cây số về hướng đông nam.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn viết: Khoảng đất ngày nay đặng tên “Thiên Hỷ Động” nầy, trước hai mươi năm, đây là rừng rậm, nên đã xin khai khẩn song họ chỉ ăn cây và củi của nó, chớ không đủ sức mở mang cho nổi.

Bần Đạo thấy địa thế của nó rất nên tốt đẹp và đất địa của nó là thứ phì nhiêu, nên nay khai mở cho thành khoảnh, cái đẹp của nó, hôm nay ta vui thấy đây là đáng giá, trót đã mười năm nhọc nhằn.

Tại Thiên Hỷ Động, Đức Hộ Pháp cho xây một ngôi nhà tịnh dành cho nữ phái, gọi là “Trí Huệ Cung”.

Xem: Trí Huệ Cung.

1.- Thiên Hỷ Động:

Trước Đoạn Trần Kiều cây lã ngọn,

Trong Thiên Hỷ Động gió đưa hơi.

(Thơ Huệ Phong).

2.- Thiên Hỷ:

Nhập vào Thiên Hỷ an nơi,

Cõi Thiên, cảnh tục, một vời không xa.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THIÊN HƯƠNG

天 香

Thiên: Trời. Hương: Thơm tho.

Thiên hương là cành hoa thơm của trời. Thiên hương nghĩa bóng chỉ người con gái đẹp.

Do câu trong Tình Sử: Thiên hương nhất chi 天 香 一 枝, tức là một cành hương thơm của trời. Ý chỉ người con gái đẹp đẽ.

Xem: Thiên hương quốc sắc.

Chiếm phẩm thiên hương cúc trổ đều,

Vẻ thu vàng đổ bức tranh thêu.

(Lục Nương Giáng bút).

Thu về năm mãn chẳng lo xuân,

Cái phấn thiên hương vẫn có chừng.

(Đạo Sử).

 

 

THIÊN HƯƠNG QUỐC SẮC

天 香 國 色

Thiên hương: Hương thơm của Trời ban. Quốc sắc: Sắc đẹp nhứt nước.

Thiên hương quốc sắc là người con gái đẹp được tuyển lựa trong một nước, có hương thơm trời ban cho, tức người có hương sắc nhứt trong nước.

Chiến Quốc Sách có ghi: Lệ Cơ là nàng phi của vua Lệ Vương được chọn là người đàn bà quốc sắc trong thời bấy giờ vậy.

Nghĩa bóng: Chỉ người con gái đẹp nhứt.

Thiên hương quốc sắc đúc nên hình,

Người đẹp trong thơ, tuyết trắng tinh.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THIÊN Ý

天 意

Thiên: Trời. Ý: Điều nẩy ra trong đầu óc mỗi khi suy nghĩ, tư tưởng.

Thiên ý là ý trời, tức những cái Trời đã định sẵn.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Các con cũng tự biết rằng, sự hành tàng nào về Ðạo mà vừa lòng trong cả Chức sắc và chư tín đồ, ấy là hiệp Thiên ý, còn điều nào mà phần nhiều môn đệ của Thầy chẳng khứng chịu theo, ấy là bất hiệp Thiên ý đó.

Chi bẳng tuỳ theo Thiên ý định,

Cũng như buồm thuận gió đưa hơi.

(Đạo Sử).

Thiên ý nếu không cho sống thác,

Ðịa hoàng há dứt lập nên đời.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THIÊN KIỀU

天 橋

Thiên: Trời. Kiều: Cây cầu.

Thiên kiều là cây cầu bắc lên cửa Trời.

Theo triết lý Đạo Cao Đài, các chơn linh được tụng chín tuần Cửu, đến tuần Tiểu tường thì chơn linh bước lên cây cầu bắc ngang cửa Trời để vào Thiên Cung.

Ngọc Hư đại hội ngự triều,

Thiều quang nhị bá Thiên kiều để chơn.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THIÊN KIM

千 金

Thiên: Ngàn. Kim: Vàng.

Thiên kim là ngàn vàng, chỉ những thứ gì quý giá.

Thiên kim còn dùng để tôn xưng con gái người khác, ví như thiên kim tiểu thư.

Ơ hỡi! Nầy cô thợ may,

Thiên kim giá ngọc đáng trang đài.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO

天 開 黃 道

Thiên khai: Trời mở ra. Huỳnh đạo: Đạo vàng, chỉ đạo Cao Đài.

Thiên khai Huỳnh đạo là Trời mở Đạo vàng. Đạo vàng tức Huỳnh đạo dùng để chỉ đạo Cao Đài.

Như ta biết, trước khi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được khai mở thì người ta đã truyền tụng câu sấm tiên tri như sau: Mạt hậu tam kỳ, Thiên khai Huỳnh đạo, có nghĩa là vào thời mạt kiếp (thời kỳ thứ ba), Trời mở ra Huỳnh đạo (chỉ đạo Cao Đài).

Và nơi Hiệp Thiên Đài cũng có hai câu Liễn “Hiệp nhập Cao Đài, bá tánh thập phương quy chánh quả, Thiên khai Huỳnh Đạo, ngũ chi tam giáo hội Long Hoa.

Thiên khai Huỳnh đạo trong câu liễn thứ hai cũng chỉ đạo Cao Đài.

Hiệp nhập Cao Đài, bá tánh thập phương quy chánh quả.

Thiên khai Huỳnh Đạo, ngũ chi tam giáo hội Long Hoa.

(Liễn Hiệp Thiên Đài).

 

 

THIÊN LA ĐIA VÕNG

天 羅 地 網

Thiên la: Lưới Trời. Địa võng: Lưới đất.

Thiên la địa võng là nói trên trời dưới đất đều có lưới giăng, ví sự bủa vây khắp mọi phía, những kẻ phạm tội khó mong thoát được.

Nghĩa bóng: Dùng để chỉ sự trừng phạt của Trời.

Thế giới càn khôn tuy lộng lộng,

Thiên la địa võng bủa giăng giăng.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THIÊN LAO

天 牢

Thiên: Do chữ “Thiên tử” chỉ về vua, hay triều đình. Lao: Nhà giam, ngục.

Thiên lao tức là nhà ngục do triều đình xây dựng dành để giam người có tội.

Như: Văn Vương bị giam bảy năm nơi thiên lao.

Nhớ thuở năm xưa Thầy có dạy,

Hai trăm Bồ Tát tại Thiên lao.

(Thơ Hộ Pháp).

Thức tỉnh lánh xa miền Địa ngục,

Giác mê thoát khỏi chốn Thiên lao.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THIÊN LỊCH

Thiên: Lệch, không cân. Lịch: Như chữ lệch, là nghiêng, không ngay, không cân.

Thiên lịch, như chữ “Thiên lệch”, là lệch về một phía, không thấy đủ các mặt, thiếu khách quan.

Như: Tư tưởng anh ấy bị thiên lịch.

Lập công nhiều, đắc quả cao; lập công ít đắc quả thấp, đòn cân thăng thưởng thiêng liêng chẳng khi nào thiên lịch.

(Thiên Đạo).

 

 

THIÊN LÝ

天 理

Thiên: Trời. Lý: Lẽ.

Thiên lý là lẽ trời, tức lẽ đương nhiên của Trời đất, nói một cách khác đi là luật trời.

Thánh giáo của Đức Nam Hải Quan Âm Như Lai dạy: Kịp đến tâm hồn bất hoà thì thất tình lục dục đều phát khởi tranh ngôi với thần lương tâm, nếu kém lực thì con người ấy duy có sanh hoạt trong vòng vật dục, chớ chẳng hề biết Thiên lý là gì?

Thiên lý nếu không cho sống thác,

Ðịa hoàng há dứt lập nên đời.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Tánh cùng Thiên lý thông cơ Ðạo,

Mạng lịnh Thầy truyền diệu pháp môn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THIÊN LÔI

天 雷

Thiên: Trời. Lôi: Sấm sét.

Thiên lôi, đồng nghĩa với chữ “Lôi công 雷 公”, là chỉ Thần sấm sét.

Như: Thiên lôi nổi trận đùng đùng, nó như Thiên lôi chỉ đâu đánh đó.

Thẳm thẳm ngàn trùng kìa ngọc các,

Vơi vơi muôn dặm ấy Thiên lôi.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THIÊN LUẬT

天 律

Thiên: Trời. Luật: Pháp luật.

Thiên luật là luật trên Thiên Đình, tức là luật Trời. Thiên luật đồng nghĩa với Thiên điều.

Thánh giáo Thầy có câu: Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức. Làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi nơi Thiên luật.

Xem: Thiên điều.

Chờ xem Thiên luật không tư kỷ,

Mới rõ Thần minh chẳng vị tình.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THIÊN LỰC

天 力

Thiên: Trời. Lực: Sức.

Thiên lực là sức Trời, trái với “Nhân (nhơn) lực 人 力” là sức của con người.

Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên có dạy: Vì vậy Thầy giao trọn quyền cho chư Đạo hữu lập thành là chủ ý để phần nhơn lực vào đó chút ít, rồi lấy huyền diệu làm ra Thiên lực, ấy là một hạnh công bình đó.

Xem: Nhân lực.

Phàm thân chưa vỗ tay nên sấm,

Thiên lực hoà nhơn khá giữ phòng.

(Đạo Sử).

 

 

THIÊN LƯƠNG

天 良

Thiên: Trời. Lương: Tốt đẹp.

Thiên lương 天 良 là cái phần tốt đẹp và thiện lành mà Trời ban cho con người. Nhờ sự hướng dẫn của Thiên lương, con người hành động mới hợp theo thiên lý. Thiên lương chính là lương tâm của con người vậy.

Con người được quyền tự mình làm chủ lấy mình, theo sự dẫn dắt của Thiên lương, hay nói một cách khác, tùng theo Thiên lương mà tự mình định đoạt lấy số phận của mình.

Như vậy, Thiên lương nơi con người là một vị vua cầm vận mạng của con người, là tiếng nói của lẽ phải, tiếng nói của chơn lý, tức là tiếng nói của Trời. Nếu Thiên lương sáng suốt thì vận mệnh con người tốt đẹp, còn nếu Thiên lương mờ tối, bị thất tình, lục dục cám dỗ đưa vào con đường sa đọa thì vận mệnh con người sẽ khuynh nguy.

Thiên lương được sáng suốt mãi hay là trở nên mờ tối là do nơi con người biết nuôi nấng, nâng cao nó lên hay là đàn áp làm cho nó bị che lấp mất.

Nên để ý rằng trong mọi người chúng ta, người dầu sang hay hèn, Thánh nhân hay Phàm nhân thì Thiên Lương của Thượng Đế ban cho đều có sự sáng suốt ngang nhau không khi nào chênh lệch. Vì lẽ đó, nếu mỗi người ai cũng theo Thiên lý mà tu dưỡng và hành động thì cả thảy đặng được trọn lành.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Lương tâm của các con là một khiếu Thiêng Liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức. Làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi nơi Thiên luật”.

Và trong bài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp cũng có viết: “Lương tâm là Thiên lương trời mới nảy tánh, cái khôn ngoan đặc sắc của loài người đối cùng vạn vật của cơ tấn hoá. Nhờ khôn ngoan ấy mới có tư tưởng biến sanh hầu thay thế cho Trời, tô điểm vẽ vời cho đời thêm tốt đẹp. Thiên lương ấy mới thiệt là ta. Nó đã do nơi khối Chí linh của Trời mà sản xuất, thì nó là con của Trời, tức nhiên nó là Trời. Nếu do nó mà tín ngưỡng thì mình do Trời mà tín ngưỡng. Mình thờ nó tức thờ Trời. Ngoài nó ra, chẳng ai biết Trời; ngoài trời ra không ai biết nó”.

Thiên lương hay Lương tâm vốn tịnh, là tánh Trời phú cho để làm chủ tể của con người. Nhưng khi sống ở thế gian, thân nhiễm vật chất rồi khiến cho Tâm phải động, khi Tâm bị động thì được gọi là ý. Ý có khuynh hướng vật chất, nên sinh dục vọng, là mối loạn cho Tâm, khiến Lương Tâm trở nên mê mờ, không làm chủ thân được.

Vả lại tâm là của hình thể, chỉ ra lịnh khiến chớ không chịu lịnh sai. Bên trong tuy có năng lực thiêng liêng nhưng bên ngoài có thất tình lục dục, nếu tâm không có phương gì làm chuẩn đích thì thường hay bị cám dỗ, ngã theo điều tà vạy, tạo ra việc bất đức vô nhân.

Như vậy, muốn Thiên lương sáng suốt để dẫn dắt con người, Nho Giáo dạy con người phải Thành ý và Chánh tâm.

Thành ý là phải sửa ý trở nên chơn thật, tức là trừ tuyệt sự ham muốn vọng động của ý, lúc đó ý trở về với Tâm thanh tịnh.

Chánh tâm là phép sửa đổi cho Tâm được ngay lành. Muốn vậy, bên ngoài thì phải ngăn giữ ngũ giác quan cho ngay chính, bên trong thì phải trừ tuyệt những mê chấp thâm nhập nội giới của tâm.

Nếu Thiên lương trở về với bản thể tự nhiên thì lúc ấy nó sẽ sáng suốt dẫn dắt nhơn thân theo con đường Thiên lý. Như vậy con người mới tự làm chủ lấy cuộc đời của mình theo sự dìu dẫn tốt đẹp của Thiên lương.

Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch,

Quy thiên lương quyết sách vận trù.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Dầu chăng phải mực Thiên điều,

Cũng quyền tự chủ dắt dìu thiên lương.

(Kinh Tận Độ).

Trách kẻ bất tài mua địa vị,

Căm loài vô hạnh bán thiên lương.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THIÊN MA BÁCH CHIẾT

千 磨 百 折

Thiên ma: Nghìn lần mài dũa. Bách chiết: Trăm lần gãy đứt.

Thiên ma bách chiết là trải qua trăm nghìn gian nan, vất vả, vùi dập như trăm lần mài, nghìn lần gãy.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cái đời sống của ta hiện giờ giàu sang hay nghèo hèn, liền lạc hay tật nguyền, xinh đẹp hay xấu xa, được yêu vì hay bị ngược đãi, an vui hạnh phúc hay lắm chịu thiên ma bách chiết, cũng đều do ta gây nhân ở tiền kiếp.

Khách đừng ngại dù “thiên ma bách chiết”,

Dù nơi đây chật hẹp quá đi thôi.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

THIÊN MẠNG

Hay “Thiên mệnh”.

Thiên: Trời. Mạng (mệnh): Số mạng, mạng lịnh.

1.- Thiên mạng, như chữ “Thiên mệnh 天 命”. là số Trời, tức số phận do Trời định.

Người sinh ra ở đời số mạng đều do Trời định, vì vậy người ta mới gọi là số trời. Sách Luận Ngữ có câu: Ngũ thập tri thiên mệnh 五 十 知 天 命, là năm mươi tuổi mới biết mạng trời.

Thuận tùng Thiên mạng quy chơn giáo,

Hoà hiệp nhơn tâm hưởng phước lành.

(Thơ Thượng Tước Thanh).

2.- Thiên mạng còn là mạng lịnh của ông vua, hay mạng lịnh của Trời.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Các con trước đã vì Thiên mạng phải bỏ các ngôi cao đặng đem mình vào nơi khổ não, Thầy chỉ đường vẽ bước, dạy từ nét, dẫn từ dặm đường mà đem các con về chốn Cực Lạc xưa,

Chủ Âm quang thường tùng Thiên mạng,

Độ chơn thần nhứt vãng nhứt lai.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Mang thiên mạng Chí Tôn phú thác,

Độ quần linh giải thoát trầm luân.

(Văn Tế Tiểu Tường).

Giúp người tâm trí hành Thiên mạng,

Tuyển bậc nhân tài trấn địa phương.

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

THIÊN MÔN

天 門

Thiên: Trời. Môn: Cửa.

Thiên môn là cửa Trời.

Trong Thánh Thi, Đức Tôn có dạy: Thiên môn hữu thỉnh vô nhân đáo, Địa ngục vô ngôn hữu khách hoà 天 門 有 請 無 人 到, 地 獄 無 言 有 客 和, nghĩa là cửa Trời rộng mở để mời thỉnh mà không người đến, Địa ngục không lời nói nhưng có người hoà theo.

Đạp Thái Sơn nhảy qua Đẩu Suất,

Vịn Kim Câu đến chực Thiên Môn.

(Kinh Tận Độ).

Đã thấy nẻo Thiên môn rộng mở,

Hội Long Hoa rỡ rỡ soi đời.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Thiên môn mở rộng nguyên nhân đến,

Đài nội tuyển thăng thánh đức lên.

(Hộ Pháp Giáng Bút).

 

 

THIÊN NIÊN

千 年

Thiên: Ngàn. Niên: Năm.

Thiên niên là ngàn năm. Như: Thiên niên vạn cổ.

Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có dạy: Công nghiệp nhiều ít ấy, tính lời vốn với Toà thiêng liêng, hoặc ghi tên tuổi vào thanh sử thiên niên, chớ chẳng phải để kể công trình với chúa tể ấy.

Dìu dắt sanh linh lo tế độ,

Thiên niên danh tạc chốn Vân Ðài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN NGOẠI

天 外

Thiên: Trời, cõi trời. Ngoại: Ngoài.

Thiên ngoại là bên ngoài bầu trời, tức là đến các bầu trời khác. Theo Thánh giáo, nhơn loại ở địa cầu 68, như vậy, Thiên ngại là ngoài địa cầu 68 nầy.

Thánh giáo Thầy có dạy: Sanh đứng vào vòng thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng đặng chờ lúc kết quả, hồn quy Thiên ngoại, lánh khỏi xác phàm, trở về nơi khởi hành mà phục các điều đã thi hành giữa sân khấu là chốn trần ai khốn đốn nầy.

Bậc chơn tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du thiên ngoại.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN NGUƠN BÁT QUÁI MẠO

天 元 八 卦 帽

Thiên nguơn: Vận hội của Trời. Bát quái: Quẽ Bát quái, gồm tám cung. Mạo: Cái mão.

Thiên nguơn Bát quái mạo là một cái mão hình bát quái, có thêu tám chữ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài chung quanh mão.

Ngoài ra trên chót mão có Minh châu lý (Minh châu lý có nghĩa là hạt ngọc trong sáng).

Pháp Chánh Truyền quy định phẩm Giáo Sư đầu đội Thiên nguơn Bát quái mạo tuỳ theo sắc phái mà mão màu vàng, xanh, hay đỏ.

Đầu đội Thiên Nguơn Mạo Bát Quái, tuỳ theo sắc phái, có thêu chữ Bát Quái chung quanh, trên chót mão có Minh Châu Lý.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THIÊN NHAI HẢI GIÁC

天 涯 海 角

Thiên nhai: Bên trời, chỉ chỗ xa xôi nhất của trời. Hải giác: Góc biển, lục địa ví như từ dưới biển nổi lên, chung quanh có góc, gọi là góc biển.

Thành ngữ nầy được dịch sang Việt ngữ là “Góc bể chơn trời”, dùng để chỉ nơi xa xôi nhứt.

Xem: Gốc bể chơn trời.

Dù cho hải giác thiên nhai,

Nguyện tìm chẳng nệ đường dài hiểm nguy.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THIÊN NHAN

天 顏

Thiên: Trời, hoặc dành chỉ nhà vua. Nhan: Mặt.

1.- Thiên nhan là mặt của nhà vua.

Người xưa thường gọi vua là thiên tử, tức là con trời, nên mặt của nhà vua được gọi là “Thiên nhan”.

Đỗ Phủ có câu: Thiên nhan hữu hỷ cận thần tri 天 顏 有 喜 近 臣 知, nghĩa là mặt vua vui vẻ cận thần hay.

Bốn mặt thành Phiên tày Địa ngục,

Muôn trùng đất Hán vọng Thiên nhan.

(Thơ Hoài Tân).

2.- Trong tôn giáo Cao Đài, chữ Thiên nhan dùng để chỉ trước mặt Đức Chí Tôn.

Kinh kệ ngân nga dâng Thánh Chúa,

Hương trầm phảng phất vọng Thiên nhan.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

THIÊN NHÃN

天 眼

Thiên: Trời. Nhãn: Mắt.

Thiên Nhãn là mắt Trời.

Thờ Thiên Nhãn là thờ Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức thờ Trời.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Nhãn thị chủ tâm, Lưỡng quang chủ tể, Quang thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả Ngã dã 眼 是 主 心, 兩 光 主 宰, 光 是 神, 神 是 天, 天 者 我 也, nghĩa là mắt làm chủ tâm linh của con người, hai ánh sáng trong mắt là phần chủ tể, Ánh sáng ấy là Thần, Thần là Trời. Trời là Ta vậy. Như vậy, thờ Thiên Nhãn là thờ Trời.

Thờ Thiên Nhãn cũng phù hợp với bí pháp luyện Đạo như lời Thánh giáo Chí Tôn dạy: THẦN là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho THẦN hiệp TINH, KHÍ đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.

Các con nhớ nói vì cớ nào thờ Con Mắt Thầy cho chư Ðạo hữu nghe.

Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, từ ngày Ðạo bị bế, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh tản THẦN không cho hiệp cùng TINH, KHÍ.

Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo. Con hiểu “Thần cư tại Nhãn”. Bố trí cho chư Ðạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.

Thầy khuyên con mỗi phen nói Ðạo, hằng nhớ đến danh Thầy.

Hoạ chữ Tâm trên dòng Thiên Nhãn,

Cho Ma vương chẳng dám lăng loàn.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Nhìn Thiên Nhãn Huyền Khung Thượng Đế,

Mặc Đạo y dụng kế độ đời.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

THIÊN NHIÊN

天 然

Thiên: Tự nhiên, trời sanh ra. Nhiên: Vậy.

Thiên nhiên là tự nhiên. Như: Những quy luật của thiên nhiên, cảnh thiên nhiên hùng vĩ.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Tâm Thánh là ngôi vị của Ðấng thiêng liêng, không lo trau giồi thì cũng còn tự nhiên vì vẻ đẹp, còn vẻ đẹp thiên nhiên đã mang nặng thi hài nơi khổ cảnh nầy mà không mất thì đoạt vị đã đặng rồi, lại cần ai nâng đỡ.

Cho nên khi tâm tịnh thường cảm hoài, hằng tìm nơi u huyền mà nghĩ nghị trong trí khôn, ấy là kẻ có sẵn tình ý thiên nhiên Tạo hoá.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN PHẨM

天 品

Thiên: Trời. Phẩm: Phẩm tước, ngôi thứ của quan lại, hay của tôn giáo.

Thiên phẩm là phẩm tước của Trời ban cho.

Còn phẩm tước ở thế gian do con người ban cho, gọi là “Nhơn phẩm 人 品”.

Nhơn phẩm thì khó tồn tại, vì nó sẽ mất theo con người, còn Thiên phẩm mới bền vững mãi mãi.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền có câu: Hễ bước vào cửa Đạo thì là có Thiên phẩm, mà hễ có Thiên phẩm rồi thì Thầy lại đem lên cho tới Thượng phẩm mới trọn câu phổ độ.

Lập Nhơn phẩm làm Thiên phẩm chẳng dễ chi mà không dùng huyền diệu.

(Thánh Giáo Chí Tôn).

 

 

THIÊN PHONG

天 封

Thiên: Trời. Phong: Ban phẩm tước cho.

Thiên phong là trời ban phẩm tước cho.

Theo đạo Cao Đài, chức sắc Thiên phong là những vị chức sắc do Đức Chí Tôn hay Đức Lý Đại Tiên kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ban cho tước phẩm để dựa vào chức phận ấy mà lập công bồi đức, phổ độ nhơn sanh.

Chức sắc bên Cửu Trùng Đài từ phẩm Đầu Sư, đối phẩm với hàng Tiên vị trở lên, hay bên Hiệp Thiên Đài từ phẩm Thời Quân trở lên, đều được gọi là Chức sắc Đại Thiên phong, còn chức sắc ở các phẩm thấp hơn được gọi là chức sắc Thiên Phong.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có nói: “Thầy vì thương căn quả của các con mà lấy đức từ bi đặng Thiên phong cho các con là cố ý để cho các con hành đạo cho hoàn toàn, dễ bề tương công chiết tội tiền khiên, hầu nâng mình vào nơi cựu vị”.

Từ ngày thọ lãnh chức Thiên phong,

Lòng Đạo trau tria thấm thía lòng.

(Thơ Thuần Đức).

Thiên phong kỳ cựu gương còn tạc,

Vĩnh biệt nghìn thu đức rạng ngần.

(Thơ Phạm Mộc Bổn).

 

 

THIÊN PHONG DĨ HẠ

天 封 以 下

Thiên: Trời. Phong: Ban cho phẩm tước. Dĩ: Lấy, cho đến. Hạ: Dưới.

Thiên phong dĩ hạ là nói từ chức sắc Thiên phong trở xuống, ý chỉ tất cả các chức sắc Thiên phong, chức việc và đạo hữu nam nữ.

Thiên phong dĩ hạ các tư kỳ vị.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

 

 

THIÊN PHỤC

天 服

Thiên: Trời. Phục: Y phục, chỉ quần áo.

Thiên phục là bộ Đại phục của Chức sắc Thiên phong trong Đạo Cao Đài.

Thiên phục ý chỉ Trời (Đức Chí Tôn) ban cho chức tước và ban cho phẩm phục.

Trong cuộc lễ Tấn phong Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, bài Tuyên dương công nghiệp của Đức Thượng Sanh có câu: Mỗi đêm Bà phải ra công dạy mấy chục đồng nhi đọc kinh cho đúng theo nhịp nhàng vâng theo lịnh của Đức Chí Tôn, Bà phải lãnh may Thiên phục cho tất cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài cho kịp ngày khai Đạo tại chùa Gò Kén.

Chừng xướng “Chỉnh túc y quan” thì cả thảy phải thay Thiên phục.

(Đạo Sử).

...con coi mặc Thiên phục có xấu gì đâu con?

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN QUÂN

A.- Thiên: Trời. Quân: Tướng quân.

Thiên Quân 天 軍, đồng nghĩa với “Thiên tướng”, là vị tướng Trời, tức là vị Tướng Quân nơi cõi Trời.

Thiên Quân diêu động linh phan,

Cả miền Thánh Vức nhộn nhàng tiếp nghinh.

(Kinh Tận Độ).

Thiên Quân ví chẳng ra tiền đạo,

Tướng soái khó toan chiếm địa đầu.

(Đức Quyền Giáo Tông).

B.- Thiên: Trời. Quân: Tiếng tôn xưng Thiêng liêng hoặc bậc đáng kính.

Thiên Quân 天 君 là bậc phẩm nơi cõi Thiêng liêng, ví dụ như: Ngự Mã Thiên Quân.

Việt Thường hữu phúc xuất Thiên Quân,

Chuyển thế Chí Tôn dĩ định tuần.

(Giáo Tông Giáng Bút).

Thánh thể Thiên Quân hoà bửu tháp,

Linh quang Hộ Pháp nhập Thiên triều.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THIÊN SAI

天 差

Thiên: Trời, chỉ Đức Chí Tôn. Sai: Khiến, sai khiến.

Thiên sai là Trời sai khiến, ý nói mệnh lệnh của Đức Chí Tôn sai khiến làm việc.

Ðường thị: đã thọ mạng Thiên sai, cứ giữ địa vị mình.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN SẮC

天 敕

Thiên: Trời, theo Cao Đài tức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. Sắc: Lệnh bằng văn bản của vua, hoặc Trời.

Thiên sắc là sắc chỉ của Trời, tức lệnh của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế bằng văn bản.

Vâng Thiên sắc độ phàm thoát tục,

Đóng Phong đô, giải ngục đoạ đày.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THIÊN SẦU ĐỊA THẢM

天 愁 地 慘

Thiên sầu: Trời sầu. Địa thảm: Đất thảm.

Thiên sầu địa thảm là Trời sầu đất thảm, ý nói sầu thảm một cách cực độ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Vì vậy mà hễ giết một mạng sống thì đau lòng Ðức Ðại Từ Bi, mà hễ đau lòng Ðức Ðại Từ Bi thì Thiên sầu Ðịa thảm.

Thành Thang buông mặt lưới trương,

Biết khôn cầm thú kiếm đường cao sâu.

Nạn củi quế gạo châu, Thiên sầu Ðịa thảm...

(Ngụ Đời).

 

 

THIÊN SỐ

天 數

Thiên: Trời. Số: Mệnh số, số phận.

Thiên số là số trời. Như: Thiên số nan đào.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Lời của Bần Đạo dặn nói đây là cho chư Đạo hữu gắng tâm mà day trở một lần chót nữa, nếu đặng thành thì đó là một công quả thêm cao, còn chẳng được thì đó là Thiên số vậy.

Thiến số còn là cái số mệnh của mỗi con người được quan niệm như Trời định đoạt.

Rủi Thiên số Nam Tào đã định,

Giải căn sinh xa lánh trần ai.

(Kinh Thế Đạo).

Người thân đau xót cảnh chia ly,

Thiên số Chí Tôn đã định kỳ.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THIÊN SỐ NAN ĐÀO

天 數 難 逃

Thiên số: Số Trời. Nan đào: Khó chạy thoát.

Thiên số nan đào là số Trời khó thể chạy thoát.

Trong Đạo Sử, Bà Đầu Sư Hương Hiếu nói về sự quy Thiên của Đức Thượng Phẩm có câu: Nhưng than ôi! Thiên số nan đào, rồi Ngài lâm bịnh mãi đến ngày mùng 1 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929) thì Ngài quy Tiên, năm ấy Ngài được 42 tuổi.

Rồi đến khi thiên số nan đào, thân cát bụi không còn để lại một dấu vết chi cho người đời nhắc nhở.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THIÊN SỨ

天 使

Thiên: Trời. Sứ: Sứ giả, người vâng lịnh vua hay Trời phái đi công cán.

Thiên sứ là sứ giả của nhà vua.

Trong tôn giáo, thiên sứ dùng để chỉ sứ giả của Trời, tức những bậc Thiêng liêng đắc lịnh Thượng Đế xuống trần Khai Đạo hay giáo hoá chúng sanh.

Phật Giáo cho rằng: Tuổi già, bịnh hoạn và cái chết là sứ giả của Trời (Thiên sứ) nhắc nhở con người ý thức về tính chất khổ đau và vô thường của cuộc đời để chúng ta tinh tấn tu tập giải thoát khỏi sinh tử.

Thế thượng dục tri Thiên sứ đáo,

Tam Kỳ Phổ Ðộ lập kỳ công.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ơn nhờ có con là Long Nữ,

Đến thay thân Thiên sứ Từ Hàng.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THIÊN TÁC NGHIỆT DU KHẢ DI

天 作 孽 猶 可 違

Thiên tác nghiệt: Trời giáng xuống mầm ác. Du khả vi: Còn có thể tránh khỏi.

Thiên tác nghiệt du khả vi có nghĩa là Trời giáng xuống tai hoạ, còn có thể tránh được.

Người xưa thường quan niệm rằng Trời xuống hoạ còn có thể tránh khỏi, chớ con người tự gây hoạ thì không thể sống còn.

Kinh Thơ dạy rằng: Thiên tác nghiệt du khả vi, tự tác nghiệt bất khả hoại.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THIÊN TAI

天 災

Thiên: Trời. Tai: Mối hoạ lớn.

Thiên tai tức là hiện tượng thiên nhiên tác hại lớn đến sản xuất và đời sống, hoặc có thể hiểu là tai hoạ do trời giáng xuống như lụt, bão, động đất, hay dịch bệnh...

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Cũng nơi Thiên tai, ách nước, nhưng rất đau lòng dòm thấy muôn ngàn nhơn loại lặn hụp chới với nơi vực thẳm hang sâu kia, mà con thuyền Bát Nhã cũng còn sóng dập gió dồi, linh đinh trên biển khổ sông mê, khó vớt người bị đắm.

Thi ân, tế chúng thiên tai tận,

Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rồi đây giặc giã khắp tràn,

Khiếm đường đạo đức chịu đàng Thiên tai.

(Thất Nương Giáng Bút).

Kẻ bạo ác lục trầm đáng số,

Người hiền lương nỡ ngộ thiên tai?

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

THIÊN TAI ĐỊA ÁCH

天 災 地 厄

Thiên tai: Tai ương do Trời giáng xuống. Địa ách: Tai ách do đất sinh ra.

Thiên tai địa ách là tai trời ách đất, tức là những tai nạn khốn khổ do Trời đất gây ra như Bão tố, núi lửa, ngập lụt, sóng thần, động đất...

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ấy vậy, đời đã dẫy đầy đau khổ do nơi nguyên lý của kiếp sanh, và do nơi thiên tai địa ách, tại sao người ta còn tự tìm thêm đau khổ trong sự giựt giành tranh đua mưu hại lẫn nhau để đoạt cho được miếng đỉnh chung, mùi phú quý.

Hoạ tràn dẫy khắp Năm Châu,

Thiên tai, Địa ách khó hầu thoát thân.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Tội ác kiếp khiên cơ cộng nghiệp,

Thiên tai địa ách luật trừ oan.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THIÊN TÀI

天 才

Thiên: Trời. Tài: Hơn hẳn kẻ khác.

Thiên tài tức là tài giỏi do trời cho, sinh ra đã sẵn có, vượt hẳn người thường.

Nghĩa bóng: Chỉ những người tài giỏi phi thường.

Như: Anh ấy là bậc thiên tàn, nhà soạn nhạc thiên tài.

Rằng liễu khóc oanh có mấy ai,

Mộ người quốc sắc đấng thiên tài.

(Đạo Sử).

Người thợ hay dầu đủ thiên tài,

Cũng kiếm đặng cơm nhai hai bữa.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THIÊN TẢI

千 載

Thiên: Ngàn. Tải: Năm.

Thiên tải là ngàn năm. Như: Lưu danh thiên tải.

Trong bài Hoàng Hạc Lâu, thơ nhà Thôi Hiệu có việt: Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du 黃 鶴 一 去 不 復 反, 白 雲 千 載 空 悠 悠, nghĩa là chim hạc vàng một đi không trở lại, mây trắng ngàn năm vẫn cứ bay.

Khương Hi bất phục Hớn trào vong,

Thiên tải hưng suy nhử kiến đồng.

(Đạo Sử).

Hạnh phúc hữu duyên thiên tải hưởng,

Tâm thành xúc động đến Thiên công.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

THIÊN TÁNH

Thiên: Trời. Tánh (tính): Cái bản nhiên của con người mà Trời phú cho.

Thiên tánh, như chữ “Thiên tính 天 性”, là cái tánh do Trời ban cho mỗi con người, vốn có sẵn khi vừa mới sinh ra, nên còn gọi là “Bản tánh 本 性”.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Đức Lý Giáo Tông nói Đại Từ Phụ cho ngó thấy đặng nhơn loại hay rằng: Nếu họ không trở lại Thiên tánh của họ, không tự mình lấy bổn nguyên sanh hoá của Tạo Đoan, tức nhiên không lấy căn bản của Đại Từ Phụ mà làm mực thước, làm tinh thần, làm năng lực thì nhân loại ngày kia sẽ tiêu diệt và thay đổi cả xác thịt, hình thể nhân loại nơi mặt địa cầu nầy thành một hình thể khác hẳn bây giờ.

Giết mòn Thiên tánh, không sao thoát,

Mãi mãi luân hồi chịu kiếp khiên.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THIÊN TÀO

天 曹

Thiên: Trời. Tào: Mỗi công sở chia chức vụ ra từng bộ phận gọi là tào, mỗi tào phụ trách một việc khác nhau.

Thiên tào chỉ triều đình ở cõi thiên, tức chỗ làm việc của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật ở cõi trời.

Ba mươi sáu cõi Thiên tào là chỉ ba mươi sau từng trời (Tam thập lục Thiên).

Thiên Tào Thánh ngự an ngôi,

Cầu cho dân chúng khỏi hồi can qua.

(Kinh Thế Đạo).

Xem thân tuổi hạc càng cao,

E ra tử biệt Thiên Tào định phân.

(Kinh Thế Đạo).

Chàng dầu hưởng Thiên Tào quyền phép,

Đỡ đường trần chật hẹp thân côi.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THIÊN TÂM

天 心

Thiên: Trời. Tâm: Cái tâm.

Thiên tâm, như chữ “Thiên ý 天 意”, là lòng Trời.

Thiên tâm còn dùng để chỉ lương tâm của con người.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ấy vậy, nhứt tâm ta đã biết ta đã do nơi Trời, lấy cái căn bản của ta chỉ biết duy Thiên Tâm mà thôi, mà Thiên Tâm ấy nó đã biểu ta tôn sùng mạng sống, tức nhiên tôn sùng cái nguơn linh của người, không đặng chia rẽ, câu: “Khi nhơn tức khi tâm, khi tâm tức khi Thiên”. Hễ khi người tức khi lại mình, mà khi lại nguơn linh của mình, tức nhiên khi Đấng Chí Linh là Đức Chí Tôn đó vậy.

Thùy tri công đức Thiên tâm khiển,

Ðắc địa nhơn do tánh tự phòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vọng niệm phân kỳ sự sự phi,

Cá lý Thiên tâm thường thế nhẫn.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

 

 

THIÊN TIÊN

天 仙

Thiên: Trời. Tiên: Bậc Tiên, hàng Tiên.

Thiên Tiên là một trong ba bậc, thuộc hàng Tiên vị.

Theo triết lý đạo Cao Đài, hàng Tiên được chia thành ba bực theo Tam tài: Thiên Tiên, Nhơn Tiên và Địa Tiên.

Theo sự đối phẩm của chức sắc Cửu Trùng Đài thì Giáo Tông đối phẩm với Thiên Tiên, Chưởng Pháp đối phẩm với Nhơn Tiên, Đầu Sư đối phẩm với Địa Tiên.

Nhiều bậc Thiên Tiên còn đọa, huống lựa là các Chơn thần khác của Thầy đương nắn đúc, thế nào thoát khỏi.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN TÔN

天 尊

Thiên: Trời, tầng trời, cõi trời. Tôn: Kính trọng.

Thiên Tôn, theo nghĩa đen là Đấng được tôn kính nơi cõi Thiên, tức các cõi Thiêng Liêng.

Theo giáo lý Cao Đài, Thiên Tôn là một phẩm thiêng liêng được Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế phong thưởng để điều hành trong Càn khôn Vũ trụ.

Thiên Tôn trái với Thế Tôn.

Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,

Miền Âm cảnh ngục môn khai giải.

(Kinh Tận Độ).

Mạc nại Thiền môn tăng dối thế,

Thoát trần chủ định tại Thiên Tôn.

(Đạo Sử).

 

 

THIÊN TÙNG NHÂN NGUYỆN

天 從 人 願

Thiên tùng: Trời theo. Nhân nguyện: Ý nguyện của con người.

Thiên tùng nhân nguyện là Trời chiều theo lời nguyền của con người.

Những tưởng rằng:

Thiên tùng nhân nguyện, thú yên hà ngâm vịnh gió trăng,

Nào hay đâu:

Vật đổi sao dời, cơ sanh diệt đưa đường dị lộ.

(Thơ Lan Chi).

 

 

THIÊN TƯ

天 資

Thiên: Trời. Tư: Tính có sẵn của người.

Thiên tư là tư chất vốn sẵn có khi sinh ra.

Thiên tư vốn là phẩm chất tự nhiên giúp người ta đạt được kết quả tốt trong một hoạt động nào đó.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trí giác Pháp thân chúng ta có hai điều xu hướng, hễ xu hướng theo thiên tư thì đạt được thiên lương là một khối tài tình đạt kiếp sống vi chủ cùng tận hình thể, việc nầy không gì khác hơn là cái kho đựng quyền năng ta đạt được.

Gấm đẹp thêu hoa vẻ tốt tươi,

Thiên tư vốn sẵn có tay trời.

(Đoàn Thị Điểm Giáng).

Ngón đàn sáo thiên tư uốn nắn,

Lượng phù trầm để lắng cung tơ.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

THIÊN TỨ

天 賜

Thiên: Trời. Tứ: Ban cho.

Thiên tứ là Trời ban cho.

Trong đôi liễn nơi thuyền Bát Nhã có câu: Vạn sự viết vô, nhục thể Thổ sinh hoàn tại Thổ, Thiên niên tự hữu, linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên 萬 事 曰 無, 肉 體 土 生 還 在 土, 千 年 自 有, 靈 魂 天 賜 返 回 天, nghĩa là muôn vật đều không, thân xác Đẩt sanh huờn lại Đất, Ngàn năm tự có, linh hồn Trời ban trở về Trời.

Linh hồn thiên tứ nhi thường hữu,

Nhục thể thổ sanh sự viết vô.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THIÊN TỬ

天 子

Thiên: Trời. Tử: Con.

Thiên tử là con Trời, ý chỉ nhà vua.

Ngày xưa, chữ Thiên tử là tiếng tôn xưng nhà vua, coi cha vua là Trời, mẹ vua là Đất, thay mặt Trời đất để cai trị muôn dân.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Vì vậy từ bậc vua chúa cho đến thứ dân, ai cũng lấy sự sửa mình làm gốc (tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bản).

Từ Thiên Tử, chí thứ dân,

Dù Nam hay Nữ tu thân hưởng nhàn.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THIÊN TƯỚC

天 爵

Thiên: Trời. Tước: Chức tước.

Thiên tước là phẩm tước do Trời ban cho, tức các phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi cõi Thiêng liêng, trái với Nhơn tước.

Thánh giáo Thầy dạy: Một đứa vun quén, mười đứa cản ngăn, lớn nhỏ chẳng phân minh, xem Thiên tước của Thầy ban dường như một chức vô vị ở cõi trần, lấy thế lớn lực to mà ép đè hạnh nhiều đứa.

Hàng phẩm Nhơn tước đạo đức các con nó trùng với hàng phẩm Thiên tước của các con.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN THAI

天 台

Thiên Thai là tên một cái núi rất cao ở phía bắc tỉnh Chiết Giang, thế núi trông rất hùng vĩ, trông giống như một con rắn bò.

Tương truyền đời nhà Hán có Lưu Thần Nguyễn Triệu cùng vào núi Thiên Thai hái thuốc, được kết duyên với hai nàng tiên xinh đẹp, và ở lại nửa năm, hai chàng nhớ quê hương, từ biệt hai nàng tiên ra về. Khi về quê cũ thì anh em họ hàng đã phiêu lưu tất cả, nhà cửa không còn, hỏi không ai nhận ra họ cả, vì họ đã có con cháu bảy đời.

Thiên Thai dùng để chỉ cảnh Tiên.

Thiên Thai nào phải tại trần nầy,

Chẳng phải giữa Trời, chẳng phải mây.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phi thị mặc đời nơi quán tục,

An nhàn rảnh dạ khách Thiên Thai.

(Đạo Sử).

Khi động Thánh, lúc non Tiên,

Sớm thì Hải đảo, tối miền Thiên Thai.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THIÊN THAI BẢY LÃO

Thiên Thai: Núi Thiên Thai, chỉ cõi Tiên. Bảy Lão: Bảy ông già.

Thiên Thai bảy lão là bảy vị Tiên Ông ở miền Bồng Đảo, núi Thiên Thai tu luyện. Đó là Lý Thiết Quài, Hớn Chung Ly, Lữ Đồng Tân, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lâm Thái Hoà và Tào Quốc Cựu.

Thực ra đây là Bát Tiên, nhưng chỉ có bảy Tiên Ông thiếu vị nữ Tiên Hà Tiên Cô.

Có thuyết cho rằng bảy Lão là Trúc Lâm Thất Hiền đời nhà Tấn bên Trung Hoa. Bảy Ông Hiền là Nguyễn Tịch, Kê Khang, Hướng Tú, Lưu Linh, Sơn Đào, Nguyễn Hàm và Vương Nhung. Thuyết này e rằng không đạt ý Kinh. Bởi vì nơi đây là cõi Bồng đảo núi Thiên thai và Thất Hiền chỉ là các vị ẩn sĩ sống theo lối tự nhiên theo triết lý Lão Trang, được xã hội thời bấy giờ xưng tụng là bảy Hiền sĩ, gọi Trúc Lâm Thất Hiền. Lại nữa, không thấy Kinh sách nói Thất hiền tu luyện đạt thành quả vị Tiên.

Theo Kinh, bảy Lão trong Động Thiên Thai phải là bảy vị Tiên đã đắc Đạo đến để đón rước Chơn linh. Như thế, theo thiển ý, đó phải là bảy vị Tiên Ông trong Bát Tiên, là những vị Tiên có sứ mạng trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.

Như ta biết, ba vị Thiên sứ khai nền Đại Đạo chính là Chơn linh cao trọng trong Bát Tiên: Đức Quyền Giáo Tông là Chơn linh của Lý Thiết Quài, Đức Thượng Phẩm là Chơn linh của Hớn Chung Ly, Đức Thượng Sanh là Chơn linh của Lữ Đồng Tân...

Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng Đảo,

Động Thiên Thai bảy Lão đón đường,

(Kinh Tận Độ).

 

 

THIÊN THAI KIẾN DIỆN

天 台 見 面

Thiên Thai: Núi Thiên Thai, chỉ cõi Tiên. Kiến diện: Thấy tận mặt.

Thiên Thai Kiến Diện, đây là tựa đề một tác phẩm thi văn của Ái Dân, Phạm Công Tắc, tức là Đức Hộ Pháp, một vị chức sắc Đại Thiên phong, chưởng quản Hiệp Thiên Đài của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Thiên Thai Kiếm Diện được viết vào năm Đinh Mão, 1927, tại Hộ Pháp Đường bằng thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú, gồm 77 bài, ghi lại những điều do Đức Hộ Pháp xuất chơn thần lên ngắm cảnh Thiên Thai nơi cõi Thiêng liêng mà ghi lại.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn viết: Cả thảy đều thấy bởi Thiên Cơ, nhưng được hạnh phúc cho kẻ nào đã đi đến Thiên Thai kiến diện nhận định trước sự hạn định, chẳng phải giấc chiêm bao mơ mộng, ôn lại cả hành tàng của loài người, trên mặt địa cầu nầy, hạn định chưa dứt, tức còn phải trả đến chừng nào hột giống lành của Chí Tôn mọc lên đã thành cội hoà bình tâm lý, đơm bông sanh trái nơi đất Việt Nam nầy, mà khắp địa cầu toàn nhơn loại được hưởng hạnh phúc, bằng chẳng thì do tội tình nầy mà phải chịu một phen thống khổ hơn nữa.

Mấy hồi được chút rảnh rang,

Thiên Thai Kiến Diện rõ ràng diễn ra.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THIÊN THẦN

天 神

Thiên: Trời. Thần: Bậc Thần, vị Thần.

Thiên Thần là một trong ba bậc, thuộc hàng Thần vị.

Theo triết lý đạo Cao Đài, hàng Thần được chia thành ba bực theo Tam tài:

Địa Thần là bậc Thần thấp nhứt, là các vị Thần cai quản nơi cõi đất đai, như Thần đất (Thổ Thần), Thần núi, Thần sông.

Nhơn Thần là các vị Thần do con người có công với dân với nước được Vua phong làm Thần.

Thiên Thần là các vị Thần nơi cõi thiêng liêng như Thần mưa, Thần sấm sét, Thiên binh Thần tướng...

Con người là Thiên Thần bị hãm tù bởi chơn linh của chúng ta với Thiên Thần đồng chất với Chí Tôn.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THIÊN THI

Thiên: Trời. Thi (thư): Quyển sách.

Thiên thi, như chữ “Thiên thư 天 書”, là quyển sách trời, trong đó ghi chép Thiên điều, tức những điều luật quy định về sự tiến hoá của vạn linh trong Càn khôn vũ trụ.

Di Lạc chơn Kinh có câu: Dẫn độ Chơn Linh đắc Pháp, đắc Phật, đắc duyên, đắc vị, đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề chứng quả nhập Cực Lạc Quốc, hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên thi tận độ Chúng Sanh đắc quy Phật Vị.

Xem: Thiên thư.

Tam kỳ khai hiệp Thiên thi,

Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,

Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN THIỀU

天 韶

Thiên: Trời. Thiều: Tiêu thiều là tên một khúc nhạc trong đời vua Thuấn, một khúc nhạc dạy dân phải có lòng chính đính, cao thượng, không tà dại, dâm loạn.

Thiên thiều là khúc nhạc vang lên từ trên Trời, gọi là Thiên nhạc. Tiếng nhạc này giống như nhạc Thiều, khiến người nghe xong lòng trở nên cao thượng.

Theo Kinh Di Đà, cõi Cực Lạc cũng có Thiên nhạc (Kinh viết: Bỉ Phật Quốc độ thường tác Thiên nhạc 彼 佛 國 度 常 作 天 樂... nghĩa là Cõi nước Phật thường trỗi Thiên nhạc...). Thiên nhạc có hai loại:

Chư Thiên chi nhạc: Tức là các loại âm nhạc do chư Thiên trong tam giới thường diễn tấu lên để cúng dường Đức Phật.

Thiên nhiên nhạc: Nghĩa là loại âm nhạc tự nhiên vang ra thành tiếng. Như Kinh Đại Bổn nói: “Cũng tự nhiên có vạn thứ âm nhạc, không tiếng nhạc nào là không thanh tịnh, trong trẻo, thông suốt, vi diệu, trong sáng, thanh nhã, hết thảy các thứ âm thanh trong thế gian chẳng sánh được nổi”.

Thiên thiều trỗi tiếng nhặt khoan,

Đưa linh thẳng đến Niết Bàn mới thôi.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THIÊN THƠ

Thiên: Trời. Thơ (thư): Quyển sách.

Thiên thơ, như chữ “Thiên thư 天 書”, là quyển sách trời, trong đó ghi chép Thiên điều, tức những điều luật quy định về sự tiến hoá của vạn linh trong Càn khôn vũ trụ.

Thánh giáo Thầy có dạy: Ðại Ðạo Tam Kỳ hoằng khai tại cõi Nam, đã chiếu theo Thiên thơ, Hội Tam giáo, mà vớt chúng sanh thoát vòng ly khổ, thiệt thiệt, hư hư, một mảy chi, cũng chẳng qua là máy Thiên cơ mà thôi.

Xem: Thiên thư.

Ký thành một cuốn gọi Thiên thơ,

Khai Ðạo muôn năm trước định giờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cầm mối Thiên thơ lo cứu chúng,

Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN THỜI

天 時

Thiên: Trời. Thời: Thời vận.

Thiên thời là thời trời, tức thời vận của Trời ban cho.

Như ta đã biết, ba yếu tố căn bản là Thiên thời, Địa lợi và Nhơn hoà rất quan trọng, nó quyết định sự thành công hay thất bại của một việc làm.

Nếu được Thiên thời, Địa lợi mà thiếu Nhơn hoà thì không chắc thành công.

Xem: Thiên thời Địa lợi.

Thiên thời trước liệu yên bề đạo,

Địa lợi nay tô đẹp cảnh nhà.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THIÊN THỜI ĐỊA LỢI

天 時 地 利

Thiên thời: Thời vận của Trời cho. Địa lợi: Lợi thế của đất đai.

Muốn làm bất cứ một công việc gì lớn lao thì chúng ta cần phải thuận lợi về ba yếu tố: Thiên thời, Địa lợi và Nhơn hoà.

Trong ba yếu tố đó, theo Mạnh Tử, Nhơn hoà là yếu tố quan trọng nhứt, Ngài nói: Thiên thời bất như Địa lợi, Địa lợi bất như Nhơn hoà 天 時 不 如 地 利, 地 利 不 如 人 和, nghĩa là thời trời tốt cũng không bằng cái địa thế tốt, địa thế tốt cũng không bằng lòng người hoà hợp.

Thiên thời, địa lợi đôi điều sẵn,

Chỉ thiếu hoà nhân để hiệp quần.

(Thơ Đức Hộ Pháp).

 

 

THIÊN THU

千 秋

Thiên: Ngàn. Thu: Mùa thu, chỉ một năm.

Thiên thu là ngàn thu, tức nói ngàn năm, dùng để chỉ sự vĩnh viễn, mãi mãi.

Thiên thu còn dùng để chỉ sự chết, như “Thiên thu vĩnh biệt 千 秋 永 別”.

Mặc người lên võng xuống dù,

Lợi danh xạo xự thiên thu lỡ làng.

(Tứ Nương giáng bút).

Bửu tháp thiên thu như đảnh hạc,

Tổ Đình vạn cổ tựa khung tranh.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THIÊN THƯ

天 書

Thiên: Trời. Thư: Sách.

Thiên thư là sách Trời, quyển sách ghi chép Thiên điều, tức những việc thuộc về thiên cơ, luật pháp, nguyên lý vận hành của vũ trụ và sự tiến hoá của vạn vật.

Vì vậy, Lý Thường Kiệt, một danh tướng Việt Nam mới có câu: Nam quốc sơn hà Nam Đế cư, tiệt nhiên định phận tại Thiên thư 南 國 山 河 南 帝 居, 截 然 定 分 在 天 書, nghĩa là non sông nước Nam do vua Nam ở, điều dĩ nhiên đã định sẵn nơi Thiên thơ.

Thiên thư biến chuyển khắp hoàn cầu,

Đại Đạo hoằng khai thế giới thâu.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Dầu chưa trọn nghĩa Thiên thư định,

Giác ngộ vui theo cũng kịp thời.

(Bài Thài Khai Pháp).

 

 

THIÊN TRỊ

天 治

Thiên: Trời. Trị: Trừng trị, trừng phạt.

Thiên trị, đồng nghĩa với “Thánh trị 聖 治”, nghĩa là sự trừng phạt theo luật Trời, tức là Thiên điều.

Thiên trị trái với phàm trị.

Xem: Phàm trị.

Hễ có Phàm trị mới khỏi Thiên trị, phải chiếu luật cho toàn cả tín đồ khỏi bị Thiên điều...

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THIÊN TRU ĐỊA LỤC

天 誅 地 戮

Thiên tru: Trời giết phạt. Địa lục: Đất tiêu diệt.

Thiên tru địa lục tức là trời tru đất diệt, chỉ hình phạt mà trời đất đã dành cho người phạm tội.

“Thiên tru địa lục” còn là một lời thề dành cho các tín đồ Cao Đài khi nhập môn, đọc trước Điện tiền để buộc người nhập môn phải thủ tín, tức là một lòng một dạ giữ gìn và thờ phượng nền chánh đạo, chẳng dám làm điều gì sái lời thệ nguyện hầu kềm thúc tâm phàm tánh tục của mình cho đến phút lâm chung.

Xem: Trời tru đất diệt.

Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN VĂN

天 文

Thiên: Trời, trên trời. Văn: Văn vẻ.

Thiên văn là văn thái hiện tượng, tức là hiện tượng xảy ra ở trên bầu trời liên quan sự vận động của các thiên thể. Như: Quan sát thiên văn.

Người xưa cho rằng Mặt trời, Mặt trăng cùng các ngôi sao thuộc về Thiên văn, nên môn học nghiên cứu về Thiên văn gọi là “Thiên văn học 天 文 學”.

Con giở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊN VẬN

天 運

Thiên: Trời. Vận: Vận số.

Thiên vận là vận số của trời đất.

Vận số của Trời đất này chuyển vận theo một vòng tròn, rồi trở lại ban đầu, vì vậy Dịch mới có câu: Thiên địa tuần hoàn châu nhi phục thuỷ 天 地 循 環, 週 而 復 始, nghĩa là Trời đất xoay vần giáp vòng rồi trở lại ban đầu.

Thời duy: Thiên vận ...niên, ...ngoạt, ...nhựt, .....thời.

(Sớ Văn).

 

 

THIÊN VỊ

天 位

Thiên: Trời, cõi Trời. Vị: Ngôi, địa vị.

Thiên vị là ngôi vị nơi cõi Thiên, tức phẩm vị nơi cõi Thiêng Liêng sau khi đắc quả.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy đã dạy: Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị.

Công danh há dựa gần Thiên vị,

Học thiện đua chen bước Hứa Sào.

(Đạo Sử).

Lập công đem đổi nên Thiên vị,

Đèn sách bền theo nhọc chớ màng.

(Quyền Giáo Tông Giáng).

 

 

THIÊN VÕNG

天 網

Thiên: Trời. Võng: Cái lưới.

Thiên võng là cái lưới Trời.

Thiên võng, do câu: Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu 天 網 恢 恢 疏 而 不 漏, nghĩa là lưới trời lồng lộng thưa mà chẳng lọt, ý muốn nói phạm đến điều tội ác thì khó thoát khỏi lưới Trời.

Các em có lẽ hiểu câu: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIỀN

Thiền là tiếng nhà Phật, dịch theo âm chữ Dhyana, có nghĩa vắng lặng, nghĩ ngợi, chỉ nơi tu hành.

Như: Thiền định, thiền gia, thiền môn, thiền tông, cửa thiền, rừng thiền.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Lần lựa cúc xủ sương tan, mai gầy sen nở, ngày tháng qua chẳng là bao mà thế thái nhơn tình biết bao thay đổi! Kìa đai cân nhuộm nước màu thiền, nọ danh lợi xủ lằn trí huệ!

Cội bá chờ khi về Cực Lạc,

Màu thiền ấy buổi nhuộm đai cân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vui nhơn vui Ðạo lại vui thiền,

Vui một bước đường một bước yên.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

THIỀN ĐỊNH

Thiền: Phạn là Thiền na có nghĩa là định tâm, tập trung tâm thức vào một đối tượng không cho tán loạn. Định: Tập trung, thu nhiếp tâm ý vào một nơi, chuyên chú vào một đối tượng, không để tâm bị tán loạn.

Thiền định là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhứt, không cho tâm tán loạn, trong sạch mọi vọng tưởng, để tâm được vắng lặng hầu quán chiếu và suy nghiệm chân lý. Khi tâm an định trí huệ sẽ phát sinh.

Thiền định đưa đến những kết quả tốt như:

- Chuyển đổi tâm từ thất niệm qua chánh niệm, từ tham sân si qua vô tham, vô sân, vô si.

- Cảm thọ được an lạc, hạnh phúc, tình thương, buông xả.

- Loại bỏ được dục, sân, nghi, trạo cử, hôn trầm, chuyển sang các tâm hỷ, lạc, xả.

Thiền định nhằm giải phóng con người ra khỏi khổ đau, phiền não và đạt tới giác ngộ giải thoát.

Một mình ẩn dạng tu thân,

Ngồi thiền định tưởng xuất thần cho quen.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THIỀN LÂM

禪 林

Thiền: Do tiếng Phạn là Thiền na chỉ sự thanh tĩnh. Lâm: Rừng,

Thiền lâm có nghĩa là rừng thiền, chỉ Phật giáo.

Thiền lâm còn dùng để gọi chung về chùa chiền, am tự, nơi tu hành. Thiền lâm đồng nghĩa với Thiền môn.

Xem: Thiền môn.

Khá hiểu nghĩa Thiền lâm cho rõ,

Các thinh âm chẳng có cửa không.

(Lục Nương Giáng Bút).

Gương huệ sáng soi đường thánh chúa,

Từ bi mở rộng cửa Thiền lâm.

(Thơ Đức Hộ Pháp).

Cửa Thiền lâm êm tịnh mây mưa,

Vội rào chặt Tây phương nẻo cũ.

(Văn Tế Tiểu Tường).

 

 

THIỀN MÔN

禪 門

Thiền: Do tiếng Phạn là Thiền na chỉ sự thanh tĩnh. Môn: Cửa.

Thiền môn có nghĩa là cửa thiền, dùng để chỉ nơi chùa chiền, am tự.

Như: Cô hiện nay nương mình chốn Thiền môn.

Ðiều đình gia thất vẹn nhơn luân,

Cái nẻo Thiền môn giống đám rừng.

(Đạo Sử).

Thiền môn hữu số khả trì tâm,

Chơn Ðạo lưu niên hữu chí tầm.

(Đạo Sử).

Giao Ngọc ấn tôi lên chấp chánh,

Văn nghe qua chạy lánh thiền môn.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THIỂN CẬN

淺 近

Thiển: Cạn, nông, hẹp, ít, kém. Cận: Gần.

Thiển cận là nông cạn, chỉ nhìn thấy cái gần, cái trước mắt, không biết nhìn xa trông rộng.

Như: Đầu óc thiển cận.

Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có viết: Phải tuỳ trình độ trí thức người mà nói đạo. Với người quê dốt, nên lựa lời lẽ giản dị và thiển cận mà giãi bày; đem đạo lý cao siêu mà nói, thì không bổ ích vào đâu.

Văn tự chỉ ghi chép được những tư tưởng thô sơ, thiển cận mà thôi.

(Giáo Lý).

 

 

THIỆN

Thiện là lành, không ác, hay, tốt. Như: Người thiện kẻ ác, thiện căn, thiện nghiệp.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển,Thánh giáo Thầy có câu: Mình vì chữ thiện mà dạy người thì giá trị mình đã cao thượng rồi, mà còn thẹn nỗi gì?

Khuyến thiện đã nhiều công cực nhọc,

Toan lo cho vẹn Ðạo đồ thơ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chim khôn biết kiếm đậu cây lành,

Người thiện phải ngừa đức háo sanh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THIỆN ÁC

善 惡

Thiện: Việc lành. Ác: Việc dữ.

Thiện ác là việc lành và việc dữ.

Thiện là những hành động, lời nói, ý nghĩ lành, hợp với đạo lý, đúng với chánh pháp, đem lại lợi ích, hạnh phúc cho mình và cho người khác.

Ác là những gì dữ, xấu, không hợp đạo lý, và có hại cho mình và cho người khác.

Từ Thần Ông có câu: Thiện hữu thiện báo, Ác hữu ác báo. Nhược hoàn bất báo, Thời thần vị đáo 善 有 善 報, 惡 有 惡 報. 若 還 不 報, 時 辰 未 到, nghĩa là lành có lành báo, dữ có dữ báo. Nếu như chưa thấy báo, thì do thời giờ chưa đến mà thôi.

Lợi quyền giành giựt chi cho nhọc,

Thiện ác chung quy cũng đáo đầu.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THIỆN ÁC ĐÁO ĐẦU

善 惡 到 頭

Thiện ác: Lành dữ. Đáo đầu: Đến cuối cùng.

Thiện ác đáo đầu ý nói làm lành hay làm dữ đến cuối cùng rồi cũng có báo ứng.

Trong Minh Tâm Bửu Giám có câu: Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi viễn tẩu dã nan tàng 善 惡 到 頭 終 有 報, 高 飛 遠 走 也 難 藏, có nghĩa là ăn ở lành hay dữ, rốt cuộc đều có báo ứng, bay cao hay chạy xa cũng khó trốn thoát được.

Thiện ác đáo đầu đã biết chưa,

Hiểu rồi cái ác cũng nên chừa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Câu thiện ác đáo đầu hữu báo,

Phải biết rằng Thiên đạo chí công.

(Thơ Bảo Pháp).

Cuộc cờ tạo hoá chờ xây đổi,

Thiện ác đáo đầu cũng có khi.

(Thơ Cao Liên Tử).

 

 

THIỆN CẢM

善 感

Thiện: Tốt, lành. Cảm: Tình cảm.

Thiện cảm là có cảm tình tốt đẹp. Như: Gây được thiện cảm tốt đẹp.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trong cửa Ðạo, người có sứ mạng nơi mình lại càng phải dè đặt, khiêm tốn nhiều hơn nữa, vì với thái độ ôn hoà nhã nhặn, người tu sĩ sẽ gây được nhiều thiện cảm đối với mặt đời và nhờ đó mà hoàn thành nhiệm vụ dễ dàng, đem thắng lợi về cho Ðạo.

Sứ mạng hoá dân gầy thiện cảm,

Xem trong bốn biển cũng như nhà.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

THIỆN CĂN

善 根

Thiện: Lành, tốt, trái với ác. Căn: Gốc rể.

Thiện căn đồng nghĩa với thiện bổn là cội lành hay gốc lành, tức là giữ lòng lành thật bền vững, không gì lay chuyển được.

Cái thiện căn có được là do nhiều kiếp trước làm việc thiện nên tạo được duyên nghiệp lành cho kiếp sau.

Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ,

Nữ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.

(Bài Thài Phật Mẫu).

Vun quén thiện căn vui kiếp sống,

Gieo trồng ác quả uổng con người.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THIỆN CHÍ

善 志

Thiện: Lành, tốt. Chí: Ý chí.

Thiện chí là ý chí tốt muốn làm những điều hay. Như: Nó có thái độ thiếu thiện chí.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trải qua 35 mùa Xuân, mặc dầu Ðạo đã tiến bước ít nhiều nhưng chưa được theo ý trông đợi của Ðức Chí Tôn. Là vì đối với Ðại nghiệp của Ðạo, dầu cho Chức sắc của Hội Thánh có thiện chí xây dựng thế nào mà bao nhiêu người khác không phụ lực tô điểm, không đi đúng nhịp nhàng thì cũng không dễ đoạt mức thành công được.

Từ đây khá chen vai gánh vác nền Đạo vì quá trễ rồi, cứ lấy hết thiện chí giúp nên cho Đạo, Bần Đạo sẽ phò trì các em.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THIỆN DUYÊN

善 緣

Thiện: Lành, tốt đẹp. Duyên: Mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước.

Thiện duyên là duyên lành, tức là có mối dây ràng buộc với việc làm lành, hay nói cách khác là có duyên với việc tu hành.

Người có thiện duyên là người may mắn gặp được thời kỳ Đại ân xá của Đức Chí Tôn và gặp lúc mở ra nền Đại Đạo. Đức Lý Đại Tiên có dạy: “Mở một mối Đạo chẳng phải là thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp mối Đạo cũng chẳng phải dễ”.

Giáng cơ chỉ dẫn điều hư thiệt,

Giải thoát mê đồ khách thiện duyên.

(Thơ Hiến Pháp).

Nhẹ bề gia đạo dồi tâm đạo,

Dứt mối trần duyên kết thiện duyên.

(Thơ Thuần Đức).

Phước đức trời ban để cứu đời,

Thiện duyên chan rải khắp nơi nơi.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

THIỆN LƯƠNG

Thiện: Lành. Lương: Tốt.

Thiện lương, như chữ “Lương thiện 良 善”, là tốt lành, không làm điều gì sái, trái đạo lý.

Thánh giáo Quyền Giáo Tông dạy: Hộ Pháp ngày nay cầm quyền thống nhứt được vững vàng là cũng nhờ người dòm thấu tâm lý chí thiện lương của sanh chúng và tinh thần mạnh mẽ của Chức sắc quy tụ nơi đây, rồi người đem cả đôi hoà chung nhau bằng huyền diệu pháp vô biên của Chí Tôn ban cho nên được kết quả như vậy.

Ngoan ngùy chơn chánh Phật, Thần thương,

Chơn chánh liên hoà với thiện lương.

(Giới Tâm Kinh).

Sửa sang cho vẹn đạo cang thường,

Phải giữ cho toàn tánh thiện lương.

(Đạo Sử).

Quy tâm lý đem nhơn sanh về một bổn,

Lấy thiện lương làm thiên hạ hiệp trăm nhà.

(Văn Tế Tiểu Tường).

 

 

THIỆN MỸ

善 美

Thiện: Tốt lành. Mỹ: Đẹp đẽ.

Thiện mỹ là tốt đẹp, tức những hành động, lời nói, ý nghĩ lành đẹp đẽ.

Long Hoa hội lập nền chân lý,

Sửa cho đời thiện mỹ thuần phong.

(Long Hoa Hội).

 

 

THIỆN NAM CHƠN NỮ

Thiện nam: Người nam lành. Chơn (chân) nữ: Người nữ chơn thật.

Thiện nam chơn nữ, như chữ: “Thiện nam chân nữ 善男 真 女”, là những người nam hiền lành, những người nữ chơn thật.

Thiện nam chơn nữ đồng nghĩa với Thiện nam tín nữ.

Thiện nam gắn giữ điều nhơn nghĩa,

Chơn nữ hằng ghi thuyết cộng hoà.

(Thanh Sơn Đạo Sĩ).

 

 

THIỆN NAM TÍN NỮ

善 男 信 女

Thiện nam: Người nam lành. Tín nữ: Người nữ có đức tin Tôn giáo.

Theo Đạo Phật hay đạo Cao Đài, những người tu xuất gia hay tại gia thì được gọi chung là Thiện nam tín nữ, hay Thiện nam chơn nữ.

Trong Sớ Văn có câu: Chư Thiện nam tín nữ nghiêm thiết Đàn tràng: Hương, Đăng, Hoa, Trà, Quả, thanh chước chi nghi thành tâm hiến lễ.

Tề Thiên Đại Thánh để lời,

Thiện nam, tín nữ nghe lời phải vưng.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

THIỆN NAM TỬ THIỆN NỮ NHÂN

善 男 子 善 女 人

Thiện Nam tử là người Nam làm việc lành, làm việc thiện. Đây chỉ người tín đồ nam của đạo Cao Đài. Thiện Nữ nhơn là người Nữ làm việc lành, làm việc thiện. Đây chỉ nữ tín đồ.

Thiện nam tử, thiện nữ nhân hàm ý chỉ hết thảy kẻ nam, người nữ có lòng tin thâm thiết. Nói cả nam lẫn nữ là có ý cho biết: Ai cũng có thể tu đắc đạo được.

Theo giáo lý bên Phật, muốn được gọi là “Thiện nam tử, thiện nữ nhân”, người tu hành cần phải tu tập đủ ba loại tịnh nghiệp gọi là Tịnh nghiệp tam phước.

1/ Phước trời người: Có bốn điều:

- Hiếu dưỡng cha mẹ.

- Kính trọng bậc sư trưởng.

- Tâm từ bi, không sát hại mọi loài chúng sinh.

- Tu tập mười thiện nghiệp.

2/ Phước Nhị thừa: Có ba điều:

- Quy y tam bảo.

- Nghiêm trì các tịnh giới.

- Không phạm các oai nghi.

3/ Phước Đại thừa: Gồm có bốn điều:

- Phát tâm Bồ Đề

- Tin sâu nhân quả

- Thọ trì kinh Đại thừa.

- Khuyến khích mọi người tu tập giác ngộ.

Nhờ hành trì 11 điều trong ba loại Tịnh nghiệp, từ hiếu dưỡng cha mẹ đến khuyến khích mọi người tu tập giác ngộ, thì kẻ hành giả đã trở thành “Thiện nam tử, thiện nữ nhân” rồi.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu trì thính ngã dục đắc Chơn Truyền...

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

THIỆN NIỆM

善 念

Thiện: Lành, tốt. Niệm: Tưởng nghĩ.

Thiện niệm là nghĩ đến điều lành, tức là tư tưởng luôn nghĩ đến điều lành.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Chí Tôn dạy: Vậy gắng khổ tâm giữ lòng đạo đức mà vẽ bước cho đời sau, lập công quả đặng chờ ngày chung cuộc, phủi nợ trần ai, đem tấm lòng thiện niệm đến Tam Giáo Ðài mà phục hồi cảnh cũ, rừng vắng non nhàn, suối chảy tòng đưa, lánh chốn đoạ đày đã bấy lâu ràng buộc.

Môn sanh thiện niệm hằng ngày,

Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương.

(Tán Tụng Công Đức).

Mùi đạo gắng dồi lòng thiện niệm,

Duyên may tìm lại phẩm ngôi xưa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mừng được sớm quy đường thiện niệm,

Riêng vui mùi đạo dưới vừng hồng.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THIỆN NGUYỆN

善 願

Thiện: Lành. Nguyện: Mong muốn.

Thiện nguyện là những điều mong muốn tốt lành.

Trong Minh Tâm Bửu Giám có câu: Nhân hữu thiện nguyện, Thiên tất tòng chi 人 有 善 願, 天 必 從 之, nghĩa là người có điều nguyện lành thì Trời ắt do theo.

Mượn lời thiện nguyện thay lời chúc,

Nguyện chúng sanh tu sớm gặp kỳ.

(Thơ Thuần Đức).

Đón tết Nhâm Thìn dâng thiện nguyện,

Trăm hoa phô sắc cảnh vui mừng.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THIỆN QUẢ

善 果

Thiện: Lành. Quả: Trái, kết quả.

Thiện quả là quả lành, tức là những việc làm thiện từ trước, nay thu hoạch được kết quả tốt lành.

Trong đạo Cao Đài, trước cổng của Giáo Tông Đường có hai câu liễn như sau: Giáo hoá nhơn sanh nhựt nhựt trung tâm quy thiện quả, Tông khai tăng chúng thì thì trọng đạo hiệp chơn truyền 教 化 人 生 日 日 中 心 歸 善 果, 宗 開 僧 眾 時 時 重 道 真 傳, nghĩa là giáo hoá nhơn sanh cho mỗi ngày mỗi giữ được cái tâm trung dung để về với quả lành, Đạo mở ra cho dân chúng tu hành, luôn luôn tôn trọng đạo đức cùng với chơn truyền.

Trau hạnh giúp người vun thiện quả,

Tu tâm dìu khách thoát mê tân.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THIỆN TÂM

善 心

Thiện: Lành. Tâm: Lòng.

Thiện tâm là tấm lòng lành, tức thường nghĩ đến việc làm lành, như giúp đỡ người nghèo khổ, hoan nạn, thương yêu loài vật...

Thánh giáo Thầy có dạy: Chư nhu cũng tuỳ đó mà sửa bước. Nhơn sanh phải thiện tâm và hết lòng vì đạo đức mới đặng Thần, Thánh chứng minh, mới có thấy ngày kết quả đặng.

Sa môn chánh pháp đổi dời,

Con buôn cửa Phạm gạt người thiện tâm.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

THIỆN TÍN

善 信

Thiện: Lành. Tín: Tín ngưỡng, đức tin tôn giáo.

Thiện tín, do thành ngữ “Thiện nam tín nữ 善 男 信 女” là người nam lành và người nữ có tín ngưỡng, dùng để chỉ những người dốc lòng tín ngưỡng, tức các tín đồ nam nữ của đạo.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Bệnh viện nầy dùng cho chư thiện tín, phần nhiều ở giai cấp vô sản, khi lâm bịnh có nơi chỗ nằm điều trị khỏi tốn kém.

Khuyên thiện tín một lòng tu niệm,

Để thoát cơn nguy hiểm kỳ ba.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

Thiện tín nhơn sanh an khắp chốn,

Ái hoà trí huệ rạng cùng nơi.

(Thơ Thượng Sanh).

Dìu đường thiện tín theo chơn pháp,

Thức khách mê tâm thoát nghiệt trần.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THIÊNG

Thiêng là có phép lạ làm được những điều khiến người ta phải kính sợ. Như: Ngôi miếu thiêng, sống khôn thác thiêng, khí thiêng của sông núi.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu ta thấy được thì thân thể hữu hình nầy đồng thể với vật loại tức là thú vật. Pháp thân tương liên với Càn Khôn Thế Giới đồng thể với Khí, cả Khí chất tạo đoan ra nguyên do loài người, lấy nguyên do đó làm hình ảnh của linh thân chúng ta, còn sự sáng suốt linh thiêng là do nơi lòng Ðức Ðại Từ Phụ.

Ái ngại lòng trông mong đến thử,

Coi nền Ðạo mới thiệt linh thiêng.

(Đạo Sử).

 

 

THIÊNG LIÊNG

Thiêng: Linh thiêng, tức có nhũng phép lạ làm cho người ta phải kính sợ.

Thiêng liêng là linh thiêng, hoặc chỉ người, việc cao quý, đáng coi trọng hơn hết.

Như: Nơi thờ tự rất thiêng liêng, nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ tổ quốc.

Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Các con phải hiểu Thánh ý Thầy mà trau giồi chí lớn. Dầu đi lối nào cũng phải cần cái đèn thiêng liêng chiếu rõ mới đặng vững bước. Làm vua, làm thầy, làm công nghệ, làm đạo sĩ, cũng cần phải có cái chí lớn mới mong thành tựu đặng.

Dưới Ngọc Hư, kể bao nhiêu,

Thiêng Liêng các Đấng lập triều trị dân.

(Kinh Thế Đạo).

Nhắn lời nói với phường đen bạc,

Ðến cửa Thiêng liêng ngó mặt Trời.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

THIÊNG LIÊNG CHI VỊ

Thiêng liêng: Linh ứng, linh hiển, chỉ cõi vô hình của các đấng Thần Thánh Tiên Phật. Chi vị: Ngôi vi.

Thiêng liêng chi vị là ngôi vị ở cõi thiêng liêng.

Như: Người tu hành chơn chánh, khi thoát xác hồn sẽ ngự thiêng liêng chi vị.

Ðạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại thiêng liêng chi vị thì ai đem các chơn hồn vào cửa Thiên giùm cho các con.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG

1.- Thiêng Liêng Hằng Sống là danh từ đặc biệt của đạo Cao Đài dùng để chỉ chung các cõi giới vô hình của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Rắp nhập cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống,

Chốn quê xưa giải mộng trần gian.

(Kinh Tận Độ).

2.- Thiêng Liêng Hằng Sống còn là một đề tài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp với tựa đề “Dục tấn trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống”. Theo Ngài. Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống là con đường dành cho các chơn hồn khi thoát xác rồi, trở về với Đức Chí Tôn để được định vị.

Ngoài ra, trong đó Ðức Ngài còn diễn đạt cho toàn thể Chức sắc, Chức việc và Ðồng đạo rõ sự huyền bí mầu nhiệm nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng sống.

Hộ Pháp giảng Thiêng Liêng Hằng Sống,

Toàn môn sinh ngưỡng vọng ân sư.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

THIẾP

1.- Thiếp là vợ lẽ trong các gia đình giàu sang thời xưa. Như: Thê thiếp, hầu thiếp, trai năm thê bảy thiếp.

Theo Tân Luật, Điều thứ chín phần Thế Luật có quy định: Cấm người trong Đạo, từ ngày ban hành luật nầy về sau, không được cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối.

Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,

Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.

(Kinh Sám Hối).

Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại,

Gái lộn chồng đã hoại tánh danh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thiếp là tiếng người phụ nữ ngày trước tự xưng một cách khiêm nhường khi nói với chồng hoặc với người khác. Như: Chàng đi, thiếp cũng một lòng đi theo.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Thiếp lấy làm hân hạnh được trông thấy lòng thành kỉnh của chư đạo muội. Từ đây khá chung hiệp nhau mà lo dìu dắt đàng sau bước tới. Nhiều đạo muội chẳng để trọn lòng về nền Ðạo. Phải rán công thêm nữa đặng làm cho đáng nét yêu dấu của Ðấng Chí Tôn cho nở mày khách quần thoa cõi Việt.

Lo lắng chung cùng lo lập nghiệp,

Lo chàng dù lọng thiếp đai cân.

(Đạo Sử).

Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,

Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Thiếp có hai nghĩa:

- Thiếp là mảnh giấy có viết chữ để mời khách hay để báo tin. Như: Thiếp mời, thiếp hồng.

Thiếp gởi bốn phương mời dạ hội,

Đêm mời tám hướng thắp hoa đăng.

(Thơ Hoàng Nguyên).

- Thiếp còn là một tập giấy có chữ của người danh bút để lại về sau. Như: Thiếp Lan Đình.

Xem: Lan Đình.

Chào mai nguyên đán tươi hồn nước,

Mở thiếp Lan đình đẹp ý dân.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

THIẾP THÊ

妾 妻

Thiếp: Vợ lẽ (người hầu) trong các gia đình giàu sang thời xưa. Thê: Vợ chánh thức, vợ lớn.

Thiếp thê, cũng như chữ “Thê thiếp 妻 妾”, là người vợ lớn và vợ nhỏ trong gia đình.

Xem: Thê thiếp.

Dầu có tiền mướn thiếp mua thê,

Cũng công tử be he mũi trắng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THIỆP

Thiệp là dự vào, dính dáng vào. Như: Can thiệp.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy: Cười... Quyền Chí Tôn trong tay hiền hữu thì cứ tự dụng đặng định vị cho Thánh thể của Người, Lão chẳng nên can thiệp vào đó.

Cần gì phải can thiệp vào đó mà làm chi?

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THIỆP HỒNG

Thiệp: Do chữ “Thiếp 帖” đọc trại ra, có nghĩa là mảnh giấy có viết chữ để báo tin hay mời khách. Hồng: Màu đỏ.

Thiệp hồng, như chữ “Hồng thiếp 紅 帖”, là tấm thiệp màu hồng, chỉ thiệp mời đám cưới.

Thiệp mời, thiệp cưới thường được in màu hồng để thể hiện hỹ sự tức việc vui, vì vậy thiệp mời đám cưới được gọi là “Thiệp hồng”.

Xem: Thiếp.

Tháng năm thứ nữ hội thừa long,

Kính thỉnh tri âm lá thiệp hồng.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THIẾT

1.- Thiết là gần gũi, thân mật, gắn bó.

Như: Người bạn thiết, hai người thân thiết với nhau.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: triết lý về hình thể của con người, thọ tinh cha huyết mẹ sản xuất ra, thì có sự cảm giác thiêng liêng đối cùng nhau rất mật thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà, khi cha mẹ có bịnh hoạn hay xảy ra điều gì tai biến, thì thân thể của người con sẽ có điềm máy động; giựt thịt, máy mắt, hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các điều khác..v.v... đó là về phần tinh khí hình thức của con người,

Giao thân cứ gần kề kẻ thiết,

Ép nhớ thương làm điếc làm đui.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thiết là ham, cầu, nghĩa là có nhu cầu, ham thích, mong muốn.

Như: Buồn rầu chẳng thiết gì đến cơm nước, không thiết đến uy quyền, địa vị, thiết yếu, cần thiết.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Phật giáo cho rằng điều kiện cần thiết của sự giải thoát là Tự lực nghĩa là phải có sự nổ lực cố gắng của chính con người muốn giải thoát, bằng không thì dụng phương pháp nào cũng chỉ là vô ích.

Cứ giữ phẩm vị các con, nhưng Thầy có một điều yếu thiết là cầu các con lập nhiều công quả nơi trường Thầy sáng tạo cho khỏi phế huỷ nửa chừng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

3.- Thiết là cắt, khắc. Như: Thảm thiết, tha thiết.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Chư đạo hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như kẻ không hồn, thấy càng thảm thiết!

Dồn dập mối sầu thân thảm thiết,

Thầy khuyên hành đạo sẽ vui lòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đâu chữ tiết gọi là đồng,

Lời than tiếng thiết để lòng trăm năm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

4.- Thiết là dựng, đặt. Như: Thiết đàn thượng Tượng, kiến thiết Điện Thờ Phật Mẫu, thiết tiệc đãi khách.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngày nay Chánh Phủ Pháp, Chánh Phủ Nam Kỳ và cả chúng ta thiết Lễ Cầu Siêu cho nhơn loại, dưới thế gian nầy loài người phân chia nòi giống, họ hàng, tông tổ, chia vật hình, chia sắc da chơn linh của chúng ta không phân biệt tộc phái nam nữ nòi giống gì cả, thoát khỏi hình thể nầy rồi ta vào Thánh Thể thường tại của Chí Tôn.

Hôm nay là ngày lễ đặt viên gạch đầu tiên kiến thiết Chánh môn Toà Thánh Tây Ninh.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THIẾT ĐÃI

設 待

Thiết: Thường đọc “Thết”, là đặt, lập. Đãi: Cho tiền, đồ đạc hoặc cho ăn uống để tỏ tình cảm tốt.

Thiết đãi, thường đọc “Thết đãi”, là khoản đãi, tức mời khách ăn uống tỏ lòng quý trọng.

Như: Làm tiệc thiết đãi phái đoàn đến thăm.

Cúc, Trước, Mai, Lan hầu thiết đãi,

Tiêu thiều nhạc trỗi khách nâng ly.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THIẾT ĐÀN

設 壇

Thiết: Sắp bày ra, tổ chức. Đàn: Chọn nơi tinh khiết để cúng Chí Tôn cùng các Đấng Thiêng Liêng.

Thiết đàn là bày lễ để cúng Đức Chí Tôn, Phật Mẫu cùng các Đấng Thiêng Liêng hoặc để cầu cơ học hỏi hay tiếp nhận Thánh giáo.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có lời dạy: Vậy nội ngày mai, con phải lên thiết đàn tại Chợ Lớn, nhà Trung, cho cả môn đệ Thầy lập Minh Thệ đủ mặt hết nghe!

Thiết đàn đưa Thánh lễ Triều Thiên,

Tâm khấn Hư Cung sự nhãn tiền.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THIẾT GIÁP

鐵 甲

Thiết: Sắt. Giáp: Áo mặc ngoài, hay bọc ngoài.

Thiết giáp là bộ áo mặc bên ngoài làm bằng sắt, để che không cho các thứ vũ khí xâm phạm thân thể.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, chữ “Thiết giáp” được Ðức Chí Tôn dùng để ví với đạo đức của mỗi môn đệ, là vật vô hình để bảo vệ trước đám hổ lang, hay bọn Tà tinh quỷ mị.

Ngài dạy: Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình. Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.

Thích miếng đỉnh chung chê thiết giáp,

Mượn trường công quả trọng đai cân.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THIẾT YẾU

切 要

Thiết: Cần thiết. Yếu: Chính, cốt.

Thiết yếu là thiết thực và trọng yếu, tức là cần yếu. Như: Hàng tiêu dùng thiết yếu.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có nói: Vì lẽ cho nên đêm nay Bần Đạo mới giảng ba đề thiết yếu ấy mà cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều hiểu, chẳng phải ngoài Đời kia mà thôi, tới trong cửa Thiêng Liêng của Đạo, các em Nam, Nữ đều ngó thấy tinh thần của toàn thể nhơn loại đã bị khảo đảo một cách quá lẽ, từ cổ chí kim tới giờ chưa có cái khủng hoảng tinh thần của nhơn loại trên mặt địa cầu.

Thầy hằng dùng tâm chí của các con mà bố mọi điều thiết yếu trong việc đạo đức.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIẾT LẬP

設 立

Thiết: Bày ra, đặt ra, sắp đặt cho thành. Lập: Tạo ra, xây dựng nên.

Thiết lập là lập ra, dựng nên.

Như: Chiếc cầu vừa mới được thiết lập, thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

Một đàn cơ riêng biệt ít khi được thiết lập cho ai, mặc dầu lời thỉnh nguyện có quan hệ cách mấy đi nữa cũng không đặng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIẾT LỄ

設 禮

Thiết: Sắp bày ra, đặt ra, tổ chức, sắp đặt cho thành. Lễ: Lễ cúng tế.

Thiết lễ là sắp đặt, tổ chức một lễ cúng tế hay cầu nguyện. Như: Thiết lễ cầu hồn khi hấp hối.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngày nay Chánh Phủ Pháp, Chánh Phủ Nam kỳ và cả chúng ta thiết lễ Cầu Siêu cho nhơn loại.

Môn đồ thiết lễ tại Vương Đường,

Hội Yến Bàn Đào tựu khắp phương.

(Thơ Phùng Xuân).

 

 

THIẾT NGHĨ

竊 擬

Thiết: Trộm, riêng. Nghĩ: Có ở trong tâm trí, nhớ đến, tưởng đến.

Thiết nghĩ là theo ý riêng, trộm nghĩ như thế, hàm ý khiêm nhường.

Như: Việc nầy thiết nghĩ không nên để lộ ra ngoài, tôi thiết nghĩ không nên tin lắm.

Thầy nghĩ lại việc hôm nọ tại Thánh Thất biến ra một trường Tà quái mà Thầy bắt đau lòng đó các con. Các con thiết nghĩ lẽ nào?

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIẾT QUẢ

Thiết Quả, còn đọc “Thiết Quày”, họ là Lý, tên Huyền, hiệu là Ngưng Dương, là người học rộng biết nhiều, tánh tình trong sạch, không ham công danh phú quý, thích tầm Tiên học đạo. Ông tìm đến Lão Tử xin học Đạo, được Lão Tử thu nhận và Truyền Đạo cho.

Ngày kia, Lão Tử truyền Lý Ngưng Dương xuất hồn cùng Ngài đi dạo cõi Tiên, Ngưng Dương bèn dặn đứa học trò gìn giữ xác ông, nếu quá bảy ngày mà hồn ông chưa về thì hãy thiêu xác. Mới sáu ngày, mẹ của người học trò bị bịnh nặng gần chết, người nhà đến báo tin, khiến anh ta đau đớn không biết tính làm sao. Người nhà bèn nói: Dầu sao hồn của ông thầy đã xuất ra sáu ngày thì ngũ tạng lục phủ đều hư hoại hết, muốn sống lại cũng không được, chi bằng về nhà gặp mặt mẹ trước khi chết cho trọn bề hiếu đạo. Người học trò khóc lóc, cực chẳng đã mới chịu thiêu xác thầy.

Lý Ngưng Dương xuất hồn lên chầu Đức Lão Tử và ở lại gặp các bậc Tiên Thánh, đến ngày thứ bảy mới xin về thì không còn xác để nhập. Hồn Ngưng Dương mới bay phưởng phất dưới núi, bỗng gặp cái xác của một người ăn mày vừa mới chết bên đường, bèn nhập vào xác ấy. Từ đó ông thành một người què chân, tay cầm gậy sắt và quải bầu linh nên người đời gọi là Lý Thiết Quày, sau đọc là Thiết Quả.

Lý Ngưng Dương sau tu thành Tiên, đứng đầu trong Bát Tiên, thường cỡi con thú là voi.

1.- Thiết Quả:

Chơn linh Thiết Quả hạ trần gian,

Truyền Đạo nam du cứu khổ nàn.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Ấy là Bửu Vật giúp Đời,

Của ông Thiết Quả trong thời Đông Du.

(Lược Thuật Toà Thánh).

2.- Thiết Quảy:

Tiên Cô đứng bậc chí nhơn,

Thiết Quảy, Quả Lão, trọn phần Đông Du.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THIẾT TƯỞNG

竊 想

Thiết: Trộm, riêng. Tưởng: Nghĩ.

Thiết tưởng, như chữ “Thiết nghĩ”, là trộm nghĩ, thiết nghĩ, là một từ khiêm nhường để khẳng định về ý kiến của mình sắp nêu ra.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Tôn Sơn Chơn Nhơn có dạy: Bần Đạo thiết tưởng, Ngoại giáo phạm đến Chơn Đạo là vì Hiệp Thiên Đài trống cửa cho kẻ nghịch vào, nên mới loạn lạc dường ấy.

Xem: Thiết nghĩ.

Với tinh thần ấy, thêm vào thiện chí của chúng tôi, nếu có sơ sót, thiết tưởng sự sơ sót ấy không đến nỗi nào.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THIẾT THA

切 磋

Thiết: Cắt, khắc vào, gần. Tha: Mài giũa xương hoặc sừng, nghiên cứu kỹ càng.

Thiết tha là cắt mài xương và sừng. Nghĩa bóng dùng để chỉ tình bạn bè đậm đà, sốt sắng với nhau.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cho hay nước loạn mới biết tôi ngay, nhà nghèo mới rõ con thảo. Mỗi vị Chức sắc có công trong giai đoạn này nhất là những vị Khâm Châu, Ðầu Tộc, Ðầu Phận và Phó Ðầu Phận v.v... đã chứng tỏ lòng thiết tha thương Ðạo và trung thành với Hội Thánh.

Chờ về vắng bặt tiết thu qua,

Tiếng nhạn kêu sầu tiếng thiết tha.

(Đạo Sử).

Nước non vùng vẫy đem thân gởi,

Vàng đá làu làu tấm thiết tha.

(Đạo Sử).

Đừng ỷ mình trứng mỏng mẹ cha,

Bị đòn bọng thiết tha méc láo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THIẾT THẠCH

鐵 石

Thiết: Sắt. Thạch: Đá.

Thiết thạch tức sắt đá, là hai loại vật chất cứng rắn và bền bỉ, dùng để ví với tấm lòng kiên định, không điều gì có thể lay chuyển được.

Sách Tam Quốc Chí có ví “Tâm như thiết thạch” 心 如 鐵 石, nghĩa là lòng như sắt đá.

Vậy mấy em tạm vài lời thiết thạch,

Chúc hương hồn nhẹ tách Cửu Tiêu.

(Thơ Hộ Pháp).

Sóng hoạn hải dầm gan thiết thạch,

Mốc gia cang buộc trói tang bồng.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THIẾT THỰC

切 實

Thiết: Gần, nhất thiết. Thực: Đúng với cái đã có, hay với việc đã xảy ra.

Thiết thực là thiết với sự thực, tức là thực tại. Nghĩa bóng: coi trọng, chú ý với cuộc sống.

Như: Ý nghĩa thiết thực, bàn những việc thiết thực.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Cõi Hư linh các bậc cao trọng, Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết thực nhất một điều là làm thế nào giúp ích cho chúng sinh.

Đất chở trời che đời thiết thực,

Non Bồng nước Nhược cảnh phiêu linh.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THIỆT

1.- Thiệt là hại, kém phần lợi, tức là bị mất đi một phần về tay người khác, cái mình cho là có quyền được hưởng. Như: Thiệt hại, thiệt thòi, chịu thiệt.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Dùng hết mưu chước quỷ quyệt thâu đoạt cho đặng lợi lộc quyền thế cho nhiều, vì vậy mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh tranh đấu đấu, giựt giựt giành giành, gây nên mối loạn, nhơn loại nghịch lẫn nhau, giúp cho phép Tà quyền, mạnh hơn, yếu thiệt, mất phép công bình thiêng liêng Tạo hoá.

Tây Ninh tu luyện động Linh Sơn,

Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hơn thiệt mặt đời mình chịu ép,

Chỗ dư chỗ thiếu trả không đồng.

(Đạo Sử).

2.- Thiệt, như chữ “Thực 實”, là thật, đúng với cái đã có, với việc đã xảy ra.

Thánh giáo Thầy có câu: Các con đủ hiểu rằng, phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối. Nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt.

Công quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,

Nợ trần bước tục phải đua chen.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hơn người chẳng phải dụng mưu hay,

Ðức phục nhơn tâm mới thiệt tài.

(Đạo Sử).

 

 

THIỆT BỎ GIẢ VAY

Thiệt bỏ: Những cái thiệt thì bỏ đi. Giả vạy: Những điều giả dối thì lại vay mượn.

Theo Phật con người vì vô minh không phân biệt được thiệt giả, cho nên cái thiệt thì đem bỏ đi, còn cái giả thì đi vay mượn về, để cho phải mắc nợ. Chính vì mắc nợ nên con người phải luân hồi vay trả cho nhau, hết kiếp này sang kiếp khác.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn phân biệt cho ta thấy sự giàu sang, và phẩm tước như sau: Việc chi do người đều phàm cả. Nó không bền, thường thường bị hư hỏng và tiêu tan ngay sau khi người đã được nó tặng bị cướp mất sự sống. Các con hãy tìm tước phẩm nơi cõi thiêng liêng, tước phẩm ấy mới là vĩnh viễn... Các con nên tìm sự giàu đức tính của Trời. Chỉ có cách đó mới gọi là vĩnh cửu. Của quý ấy không ai ăn cướp đặng cả.

Như vậy, những thứ vật chất, phẩm tước, danh vọng ở thế gian, đều là giả tạm là cái giả, còn của cải, tước phẩm nơi cõi thiêng liêng mới là vĩnh viễn trường tồn tức là cái thiệt.

Thiệt thì bỏ, giả vay nên nợ,

Mãn căn sanh chưa mở dây oan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THIỆT CHIẾN

舌 戰

Thiệt: Cái lưỡi. Chiến: Đánh nhau.

Thiệt chiến là đánh nhau bằng lưỡi, ý nói cuộc tranh luận bằng miệng lưỡi rất sôi nổi.

Như: Phiên họp không phải là nơi thiệt chiến, mà là chỗ chúng ta thảo luận đúng đắn.

Ngày nay chúng ta đình bộ nơi Cung Hiệp Thiên Hành hoá đặng quan sát cuộc thiệt chiến,...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THIỆT DẠ

Hay “Thực dạ”.

Thiệt (thực): Có thật, thành thật. Dạ: Lòng dạ.

Thiệt dạ, hay “Thực dạ”, đồng nghĩa với chữ “Thực lòng” là lòng thành thực.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Con có thiệt dạ thương Thầy thì con nên cho Thầy xin con những điều nầy nghe: Bớt tánh nóng, đừng lẫy đương, con nên phương tuỳ nhơn trí luật lịnh.

Thấy mặt Ta cho vào đứng đó,

Chừng mô thiệt dạ sẽ trao lời.

(Đạo Sử).

Thiệt dạ Ta khuyên về ít bữa,

Vái van thưa tội với Ông Trời.

(Đạo Sử).

 

 

THIỆT GIẢ

Hay “Thực giả”.

Thiệt (thực): Thật, đúng với cái đã có, với việc đã xảy ra. Giả: Không thực.

Thiệt giả, như chữ “Thực giả 實 假”, là chỉ sự đúng sai, chánh tà

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Phải sáng suốt đặng phân thiệt giả, mới bền giữ cơ nghiệp thiêng liêng, chớ đời sống phàm gian là một khổ hải đa nghe!

Lời lẽ đố con phân thiệt giả,

Khôn khôn, dại dại cũng đồng phồn.

(Đạo Sử).

 

 

THIỆT HẠI

Thiệt: Bị mất đi, mất lợi. Hại: Hao tổn.

Thiệt hại là bị hao tổn hư hao về người và của. Như: Mùa màng bị thiệt hại nặng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Quái dị thay! Đạo Đời vẫn tương khắc điều thiệt hại ấy do họ muốn lập quyền, giành quyền giáo hoá nhơn sanh họ cũng ngăn đạo giáo, họ giành quyền giáo hoá trong tay để họ dạy thiên hạ dữ, hỏi đem ra mặt công lý của toà lương tâm Đạo kiện Đời thử coi? Tại sao họ giành quyền dạy người ta dữ!

Mượn tay hay của đám người dưng,

Làm thiệt hại vài lần đủ tởn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THIỆT HÀNH

Hay “Thực hành”.

Thiệt (thực): Có thật. Hành: Làm.

Thiệt hành, như chữ “Thực hành 實 行”, là làm để áp dụng lý thuyết vào thực tế. Như: Học lý thuyết thì phải thiệt hành.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã nói, chơn linh ấy đem nạp vào Toà Phán Xét từ lời nói của các con, dầu những lời ấy không thiệt hành mặc dầu, chớ tội tình cũng đồng một thể.

Xem: Thực hành.

Trách nhiệm thiệt hành cho vẹn phận,

Hồng ân chung hưởng buổi âu ca.

(Thanh Sơn Đạo Sĩ).

 

 

THIỆT HƠN

Thiệt: Hại, mất lợi. Hơn: Có những điều lợi, điều tốt.

Thiệt hơn ý chỉ phải cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng những điều có lợi hay phải chịu thiệt thòi. Như: Phải tính toán thiệt hơn.

Dạy về phận gái, sách Giáo Lý của Tiếp Trương Văn Tràng có câu: Thảng như có điều chẳng vừa ý thì nên ôn tồn, nhỏ nhẹ, bày tỏ chỗ thiệt hơn, chẳng khá cãi cọ mà sanh ngỗ nghịch.

Mấy ai biết được thiệt hơn,

Gìn tâm chí Thánh sẽ hơn diệu huyền.

(Bát Nương Giáng Bút).

Vinh thì chuộng, nhục thì từ,

Cân cao tính thấp đặng trừ thiệt hơn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Hễ bụng muốn muốn cho lấy đặng,

Lời thiệt hơn căn dặn nói không nghe.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THIỆT HƯ

Hay “Thực hư”.

Thiệt (thực): Có thực. Hư: Trống không.

Thiệt hư, như chữ “Thực hư 實 虛”, là thật và không thật, đúng và sai. Như: Nghe nói như thế chưa biết thiệt hư như thế nào?

Thánh giáo Thầy dạy: Tài mọn, đức hèn, mượn chước khoe mình, việc kỉnh thành Thánh giáo, hư thiệt, thiệt hư, đâu qua máy hành tàng của Tạo hoá.

Tấn thối dè chừng mưu kế hiểm,

Thiệt hư gìn nhẹm chước phương hay.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Điểm tô bổn thiện chơn như,

Cân phân hai lẽ thiệt hư rõ ràng.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THIỆT TƯỚNG

Hay “Thực tướng”.

Thiệt (thực): Thật. Tướng: Hình dạng bề ngoài.

Thiệt tướng, như chữ “Thực tướng 實 相”, là hình dạng thật của một vật. Còn gọi là bản thể, thực thể, hay chơn tướng.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Lão để lời cám ơn Hộ Pháp đã chịu lắm phen nhọc nhằn khổ não làm cho Ðạo ngày nay đặng ra thiệt tướng. Lão chỉn thẹn có một điều là Lão chưa giúp hay vào đó. Lão đa tạ, đa tạ!

Ngày nào quyền lực của Chí Tôn đặng hiệp một cùng Vạn linh thì Ðạo mới ra thiệt tướng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THIỆT THÀ

Thiệt (thực): Ngay thẳng, có thế nào bộc lộ thế ấy, không dối trá, không giả tạo.

Thiệt thà, như chữ “Thực thà”, chỉ tánh người được bộc lộ ra ngoài một cách tự nhiên, không ngụy tạo, không giả dối. Như: Nó thiệt thà lắm, nghĩ sao nói vậy.

Thiệt thà còn chỉ người có tính ngay thẳng, không tham của người khác. Như: Tánh tình thiệt thà.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngài cho một bài thi dám chắc không ai thấu đáo nổi, người coi cái gốc thì không thấy ngọn, người coi cái ngọn không thấy gốc, tứ văn thiệt thà hay ho cho tới các đảng phái quốc sự ngày nay cũng là lợi dụng.

Biết con là phận đàn bà,

Biết lời ăn nói thiệt thà hiền lương.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THIỆT THÒI

Thiệt: Hại, mất lợi.

Thiệt thòi là phải chịu điều thiệt hại do hoàn cảnh. Như: Ở đồng quê chịu nhiều thiệt thòi.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo đức Cao Thượng Phẩm có câu: Các Ðấng thiêng liêng đã thường nói: Lợi danh thường tình là nhỏ, danh giá Ðạo là trọng. Ðãi người một bực, bất kể tên gì, chịu thiệt thòi mà làm phận sự.

Thiệt thòi cam phận thuyền quyên,

Chứa chan giọt lệ cửu tuyền cuộn trôi.

(Kinh Thế Đạo).

Thiệt thòi bấy phận không con nối,

Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.

(Đạo Sử).

Đừng chê chồng phận thiệt thòi,

Đáng danh quân tử phải người lang quân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THIÊU

Thiêu là đốt cháy. Như: Nhà cửa bị thiêu rụi.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Mỗi Chức sắc nên vui với nhiệm vụ thiêng liêng, khép mình vào khuôn viên đạo đức, để ngoài tai những lời quyến rũ bất lương, những giọng huyễn kèn xảo mị, coi lợi danh là miếng mồi xô đẩy con người vào vực thẳm thì may ra mới tránh khỏi vòng lửa đỏ đang thiêu đốt biết bao nhiêu tâm hồn sa đoạ nơi cạm bẫy.

Chuộc tội mua oan đưa kiếp đọa,

Thành thân khá nhớ lợi danh thiêu.

(Đạo Sử).

Lục Nương chị ngựa bêu cứu nước,

Quân nghịch thù mua được thiêu thân.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

THIÊU HUỶ

燒 毀

Thiêu: Đốt cháy bằng ngọn lửa. Huỷ: Bỏ đi, phá đi, làm cho hư nát.

Thiêu huỷ là đốt cháy, làm cho không còn tồn tại. Như: Thiêu huỷ hết hồ sơ, cánh đồng bị thiêu hủy.

Sau khi Ðức Khổng Tử mất, kế nhà Tần có việc đốt sách thì những Kinh ấy bị thiêu hủy hoặc thất lạc ít nhiều.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THIÊU TÀN

燒 殘

Thiêu: Đốt cháy bằng ngọn lửa. Tàn: Cái đã cháy rồi, chỉ còn lại tro than.

Thiêu tàn là đốt cháy hết không còn gì cả, chỉ còn lại mớ tro than. Như: Nhà cửa, đồ đạc bị thiêu tàn.

Cửa lầu Bát Quái chun ngang,

Hoả Tinh Tam Muội thiêu tàn oan gia.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THIÊU THÂN

燒 身

Thiêu: Đốt cháy bằng ngọn lửa. Thân: Thân mình.

1.- Thiêu thân là thiêu đốt thân mình.

Như: Hoà Thượng Thích Quảng Đức phản đối chính sách đàn áp tôn giáo nên tự châm lửa để thiêu thân.

Lục Nương chị ngựa bêu cứu nước,

Quân nghịch thù mua được thiêu thân.

(Lục Nương Giáng Bút).

2.- Thiêu thân còn dùng để chỉ một loại côn trùng nhỏ thấy ánh sáng ngọn đèn thì bay vào để chịu thiêu đốt cả thân mình.

Như: Lao vào chỗ chết như đám thiêu thân.

Than ôi! Vì ham ánh sáng của ngọn lửa hồng, mà những con thiêu thân phải đem mình chịu chết.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THIẾU

1.- Thiếu là do chữ “Thiểu 少” là ít đọc trại ra, có nghĩa là hụt, không đủ, tức chỉ có mức độ dưới mức cần thiết, dưới mức yêu cầu.

Như: Thiếu đạo đức, thiếu tiền bạc.

Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Nếu các con phủi trần thế mà lo cho Ðạo thì sao Toà Thánh còn thiếu tay giúp Ðạo, để cho đến đỗi càng ngày càng tiều tuỵ mà ra một cảnh điêu tàn.

Tài ít đức nhiều còn hữu dụng,

Tài suông thiếu đức hoạ nay mai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dưỡng sinh đã vẹn nợ đôi bên,

thiếu thì con cũng trả liền.

(Đạo Sử).

2.- Thiếu là nhỏ, nói về người còn ít tuổi. Như: Thiếu niên, thiếu nữ, thiếu phụ, thiếu thời.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ta nhìn mấy cái mồ hoang mả lạnh, nếu tìm mà hỏi cho rõ tông tích thì toàn là những kẻ thiếu niên nằm nơi đó.

Vườn xuân đào lý buổi liên chi,

Tác hợp cho con lúc thiếu thì.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THIẾU HỤT

Thiếu: Có chỉ đạt số lượng hay mức độ dưới mức cần thiết, dưới mức yêu cầu. Hụt: Thiếu, ngắn.

Thiếu hụt là không đủ, bị thiếu mất đi một phần. Như: Làm không đủ ăn, trước sau đều thiếu hụt.

Trong Ngôn Sưu Tập, Đức Quyền Giáo Tông Giáng Cơ có câu: Tuy dâng hiến hay sự hiến giúp Lương Viện bị kém sút, nhưng hễ đã quy nhứt rồi thì sự kém sút ấy cũng bớt vì cả hai cơ quan đồng lo mà còn sợ chi thiếu hụt.

Ví dụ cờ bạc gây ra cái quả thiếu hụt, nợ nần, vì thiếu hụt phải lường gạt hay trộm cắp; trộm cắp gây ra cái quả lao tù.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THIẾU NIÊN

少 年

Thiếu: Nhỏ, nói về người còn ít tuổi. Niên: Tuổi. năm, mùa gặt của nhà nông.

Thiếu niên là trẻ em thuộc lứa tuổi từ mười tuổi đến mười bốn tuổi.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Ta nhìn mấy cái mồ hoang mả lạnh, nếu tìm mà hỏi cho rõ tông tích thì toàn là những kẻ thiếu niên nằm nơi đó.

Mạc đãi lão lai phương học Ðạo,

Cô phần tận thị thiếu niên nhơn.

(Thích Ca Mâu Ni).

 

 

THIẾU SÓT

Thiếu: Có dưới mức cần thiết, dưới mức yêu cầu. Sót: Không được đầy đủ, còn thiếu một số, một phần nào đó do sơ ý hoặc quên.

Thiếu sót là không đầy đủ, còn sai sót, khuyết điểm. Như: Bài viết còn nhiều thiếu sót.

Tiêu Sơn Đạo Sĩ trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Tân Luật lập còn thiếu sót nhiều, bởi Chức sắc Hiệp Thiên Ðài chẳng để mắt đến, quyền hành thưởng phạt lộn xộn, nên phải chịu dưới quyền Toà Tam Giáo Cửu Trùng Ðài. Sau sẽ có Thánh Lịnh dạy lại, còn chưa phân minh nhiều chỗ.

Mình ngươi đặng thoả trăm người thiếu,

Thiếu sót lòng tu chẳng độ đời.

(Đạo Sử).

Sự sướng cực đừng cho thiếu sót,

Miễn mọi điều đừng lọt tay mình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THIẾU THỐN

Thiếu: Không đủ, thiếu hụt.

Thiếu thốn là không đủ tiền bạc, phương tiện hay thực phẩm cho cuộc sống, chỉ hoàn cảnh túng thiếu.

Như: Gia đình thiếu thốn về tiền bạc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chúng tôi không khỏi ngậm ngùi khi mà Hội Thánh thấy chưa có thể lấp bằng những chỗ thiếu thốn của bao nhiêu đạo hữu hiến thân cho Ðạo, mặc dầu chúng tôi đã cố gắng cải thiện phần nào tình trạng ấy.

Thiếu thốn chi con còn bức sách,

Thương nhau đồng loại cội và nhành.

(Đạo Sử).

Nhịn ăn mặc ngừa cơn thiếu thốn,

Làm lụng nhiều nuôi dưỡng sắp con.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THIỀU

Thiều, hay “Tiêu thiều”, là tên một khúc nhạc trong đời vua Thuấn, một khúc nhạc dạy dân phải có lòng chính đính, cao thượng, không tà dại dâm loạn.

Như: Nhạc Thiều, tiêu Thiều, Thiên Thiều.

Thiên thiều trỗi tiếng nhặt khoan,

Đưa linh thẳng đến Niết Bàn mới thôi.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THIỀU QUANG

韶 光

Thiều: Xinh đẹp. Quang: Ánh sáng.

Thiều quang là ánh sáng đẹp, chỉ mùa xuân, bởi vì mùa xuân có ánh sáng rất đẹp đẽ.

Nghĩa bóng: Ngày mùa xuân.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thấm thoát ngày tháng thoi đưa, bóng thiều quang nhặt thúc, sen tàn cúc rũ, đông mãn xuân về, bước sanh ly đã lắm nhuộm màu sầu, mà con đường dục vọng chẳng còn biết đâu là nơi cùng tận.

Thiều quang nhặt thúc khuất màu xuân,

Trở bước quanh co rán liệu chừng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

U hiển không từ nhơn nghĩa cũ,

Gặp nhau xin phó bóng thiều quang.

(Đạo Sử).

 

 

THIỀU QUANG NHỊ BÁ

韶 光 二 百

Thiều quang: Ánh sáng mùa xuân, ý chỉ thời gian trôi qua. Nhị bá: Hai trăm.

Thiều quang nhị bá là chỉ thời gian hai trăm ngày (200 ngày) đã qua đi.

Trong tôn giáo Cao Đài, nghi lễ tụng cho người chết, sau tuần chung Cửu hay mãn Cửu một ngày, đếm tới hai trăm ngày nữa, là tuần Tiểu tường.

Ngọc Hư đại hội ngự triều,

Thiều quang nhị bá Thiên Kiều để chơn.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THIỂU

Thiểu là ít, có số lượng nhỏ hoặc ở mức thấp. Như: Thiểu số phục tùng đa số, tích thiểu thành đa.

Đức Chơn Cực Lão sư có câu: Chư đạo hữu phải lọc lừa lại, tìm người có tâm chí kết liên thân ái, chung hiệp nhau, bỏ sự lãng phí, dụng đồng tài nơi giọt mồ hôi, được tích thiểu thành đa, gầy dựng một cái nhà chung, để ngày phong võ nương dựa được thung dung, ngồi ngắm thế sự và chấn hưng mối Ðạo quý hoá.

Vì chưng tựu thiểu thành đa,

Hoạ tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THIỂU ĐỨC

少 德

Thiểu: Ít, trái với đa là nhiều. Đức: Đạo đức.

Thiểu đức nghĩa là ít đức (thiếu đức), tức chỉ người kém về đạo đức.

Như: Vua thiểu đức thì dân chúng sẽ khốn cùng.

Chỉ đãi thời lai quang minh tụ,

Tả ban thiểu đức, hữu ban mang.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THIỂU KHÍ

少 氣

Thiểu: Ít. Khí: Hơi, cái vô hình không thấy mà cảm ứng nhau được.

Thiểu khí là trong thân thể con người ít khí, một chất vô hình, nhưng cần thiết sự sống.

Như ta biết, nếu khí huyết sung mãn, điều hoà trong cơ thể thì tinh thần và thể chất con người cường tráng, mạnh khoẻ, nếu một trong hai, hoặc khí suy huyết kém thì con người sẽ bệnh hoạn.

Trong phép luyện Tam bửu, người ta luyện tinh hoá khí, rồi luyện khí hoá thần, nếu con người ít nguơn khí thì khó luyện Thần được và có thể bị loạn thần.

Hễ thân mình thiểu khí loạn thần,

Thọ khí bẩm nhâm thần con dại dột.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THIỂU SỐ

少 數

Thiểu: Ít. Số: Lượng nhiều hay ít.

Thiểu số là số ít, phần nhỏ trong một tập thể. Như: Thiểu số phải phục tùng đa số.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trái lại, một phần Chức sắc dù là thiểu số, vì cơ thử thách quá nặng nề, nên không đủ nghị lực để cượng nỗi với sự quyến rũ của những kẻ biết lợi dụng thời cơ nên phải sa ngã vào chỗ lạc lầm, có lẽ phải gánh trọn cái hậu quả thất thệ đối với quyền Thiêng liêng, tuân theo Thánh đức Ðức Chí Tôn, Hội Thánh quyết giữ vững lập trường Tôn giáo thuần tuý, không ra khỏi phạm vi đạo đức, vượt mình lên cao hơn những nghị luận của thế gian, nên khỏi vướng vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm trên trường chánh trị.

Những lúc đó môn đệ của Đức Chí Tôn tức nhiên các bạn của chúng ta có một thiểu số, trong thiểu số ấy tánh tình họ hèn tiện, biểu sao thiên hạ không khi rẻ.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÌN

Thìn là giữ gìn tính nết cho được tốt, được hay. Như: Thìn dạ, thìn lòng, thìn tính, thằng bé nầy thìn nết lắm.

Thánh giáo Thầy có câu: Vậy Thầy khuyên các con cứ thìn lòng thìn nết cho có trật tự trong Ðạo, thì tức nhiên muôn điều khó nhọc cũng tan như giá.

Ðạo đức thìn soi gương trí huệ,

Nguồn đào đoạt vị mới hầu nên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bền dạ tua thìn trau đạo Thánh,

Ra công khá gắng đắp nền nhân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÌN DẠ

Thìn: Gìn, giữ cho được ý tứ và đúng mực, tránh sơ suất. Dạ: Lòng dạ.

Thìn dạ, như chữ “Thìn lòng”, là giữ gìn lòng dạ, tức giữ lòng cho đúng đắn, bền chặt.

Xem: Thìn lòng.

Thìn dạ bước dìu sanh chúng độ,

Nương thuyền mới trọn thoát qua sông.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hiếu nhạc thân thìn dạ chớ quên,

Đền sinh dục thay phiền cho vợ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÌN LÒNG

Thìn: Gìn, giữ cho được ý tứ và đúng mực, tránh sơ suất. Lòng: Lòng dạ.

Thìn lòng là giữ lòng cho đúng đắn.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ðạo Trời khai ba lượt, nguồn Thánh độ muôn người. Thìn lòng để bước vào nẻo thẳng đường ngay mà kiếm cho thấu đáo mối huyền vi Tạo hoá đã sắp bày độ dẫn, nhuần gội ơn huệ cho sanh linh đương buổi Hạ nguơn nầy.

Gặp được nẻo ngay, đời có mấy?

Thìn lòng khối ngọc tạo nên gương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thìn lòng ẩn nhẫn đợi đôi năm,

Con khá từ đây biết kiệm cần.

(Đạo Sử).

 

 

THINH

Thinh, như chữ “Thanh 聲” là tiếng. Như: Âm thinh, thinh thế, thinh danh, thinh giá.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cứu được những linh hồn như vậy là một công nghiệp phi thường, khả dĩ nâng cao thinh danh của Ðạo đúng theo câu “Nhơn năng hoằng Ðạo” của Ðức Khổng Phu Tử.

Xem: Thanh.

Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,

Phụng lầu gác quyển đợi hoà thinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THINH ÂM

Hay “Thanh âm”.

Thinh (thanh): Tiếng, âm thanh. Âm: Cái phát ra mà tai có thể nghe được.

Thinh âm, như chữ “Thanh âm 聲 音”, là tiếng do một vật gì phát ra.

Nói về Công truyền, sách Giáo Lý của ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Về phương diện nầy chúng ta nên dùng tất cả thinh âm, sắc tướng để thức tỉnh lòng người khuynh hướng về Đạo đức.

Xem: Thanh âm.

Khá hiểu nghĩa Thiền lâm cho rõ,

Các thinh âm chẳng có cửa không.

(Lục Nương Giáng Bút).

Sắc tướng thinh âm tua giảm bớt,

Thêm đường công quả chúng làm theo.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THINH DANH

Hay “Thanh danh”.

Thinh (thanh): Tiếng tăm. Danh: Tên họ.

Thinh danh, như chữ “Thanh danh 聲 名”, là nói người có tiếng tăm, hay nổi tên tuổi. Như: Ai cũng mong giữ trọn thanh danh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chủ nghĩa Phước Thiện càng thêm bành trướng thì cái thinh danh của Ðạo càng được cao siêu và càng thêm chói rạng.

Thinh danh mãn thế đức tồn linh,

Thanh trực nhứt triêu quán thế tình.

(Đạo Sử).

Thuyết đàn đã trổi thinh danh,

Thổi loa giục thức chúng sanh giấc nồng.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

THINH GIÁ

Thanh (thinh): Tiếng tăm. Giá: Phẩm giá.

Thinh giá, như chữ “Thanh giá 聲 價”, là tiếng tăm và phẩm giá của con người.

Như: Những hành vi của Quan Võ tạo nên thinh giá của Ngài trong thời Tam Quốc.

Giữ gìn thinh giá mấy mươi năm,

Một đoạn đường qua cát bụi lầm.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THINH KHÔNG

Thinh (thanh): Âm thanh, tiếng. Không: Bầu trời.

1.- Thinh không là bỗng dưng, thình lình, không có lý do nào cả.

Như: Đang ngồi nói chuyện thinh không lại bỏ đi, hai đứa không có giận hờn thinh không lại đánh nhau.

Họ còn giữ theo nề nếp chơn truyền của Đức Chí Tôn mà thinh không Kim Quang Sứ giáng cơ cho một bài thi...

(Con Đường Thiêng Liêng).

2.- Thinh không, như chữ “Thanh không 聲 空”, còn có nghĩa là không trung, nơi hoàn toàn vắng lặng.

Như: Tiếng vạc ăn đêm vọng giữa thinh không.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Có nhiều huyền diệu ta không thể tưởng tượng được như đám chăn chiên đóng trại ngoài trời, bổng nghe giữa thinh không có nhiều Thiên Thần kêu nói có Chúa Cứu Thế giáng sanh, nên Vua của dân Maures và các người chăn chiên ấy vô đảnh lễ Chúa đầu tiên hơn hết.

Chiếu diệu thinh không một tấc thành,

Làm cho cám động tấm lòng anh.

(Đạo Sử).

Ðua tài bay liệng giữa thinh không,

Nam hướng xôn xao lướt mấy rồng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THINH SẮC

Hay “Thanh sắc”.

Thinh (thanh): Tiếng, âm thanh. Sắc: Chỉ cái hình tướng của vật trong thế gian.

Thinh sắc, như chữ “Thanh sắc 聲 色”, là giọng nói cùng với sắc đẹp, dùng để chỉ giọng hát và dung nhan của phụ nữ.

Thinh sắc còn có nghĩa là thanh âm và sắc tướng, ý chỉ chung những hình thức hữu hình trong tôn giáo, như chuộng âm nhạc, chuông mõ, nghi lễ, cúng tế....

Chơn thành đạo đức vô thinh sắc,

Giả tướng bàng môn trọng hữu hình.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THINH THẾ

Thinh (thanh): Danh tiếng. Thế: Thế lực.

Thinh thế, như chữ “Thanh thế 聲 勢”, là thanh danh và thế lực, tức kẻ có nhiều tiếng tăm và có quyền lực được nhiều người biết đến.

Như: Ở vùng nầy, thinh thế của anh ta rất lớn.

Xem: Thanh thế.

Thinh thế mượn con tua trả lại,

Thủ chơn danh noi Ðạo tìm đàng.

(Đạo Sử).

 

 

THINH THINH

Thinh thinh, như chữ “Thênh thênh”, là nhẹ nhàng thanh thản, ở trạng thái tinh thần thoải mái, không có điều gì phải áy náy, lo nghĩ.

Thinh thinh còn có nghĩa là rộng lớn đến mức gây cảm giác dễ chịu.

Như: Trời cao đất rộng thinh thinh, lòng cảm thấy nhẹ thinh thinh.

Cửa Cực Lạc thinh thinh rộng mở,

Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.

(Kinh Tận Độ).

Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,

Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Túi gió trăng thinh thinh rộng mở,

Vui hạc cầm hay dở thú riêng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÍNH

Thính là nghe. Như: Dự thính, thám thính, thính giác, khán thính giả.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đến chuyện vãn cùng Ngài, Đức Chí Tôn nói cái chi, chỉ có hai người biết với nhau mà thôi, Bần Đạo và Thượng Phẩm chỉ là hai người dự thính không biết gì hết mà chỉ nói với nhau rồi họ hiểu với nhau mà thôi.

Tịnh niệm phép Nhiên Đăng tưởng tín,

Hư Vô Thiên đến thính Phật điều.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THÍNH ĐẮC NGÃ NGÔN

聽 得 我 言

Thính đắc: Nghe được. Ngã ngôn: Lời nói của Ta.

Thính đắc ngã ngôn là nghe được lời nói của ta.

Trong Di Lạc Chơn kinh, Đức Di Lạc Vương Phật có nói rằng: Thính đắc ngã ngôn, phát tam thiện niệm, tất đắc A nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề tất đắc giải thoát, nghĩa là nghe được lời Ta nói mà phát khởi tâm tưởng lành, sẽ đạt Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ắt được giải thoát.

Thính đắc ngã ngôn, phát tâm thiện niệm, tất đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề tất đắc giải thoát.

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

THÍNH GIẢ

聽 者

Thính: Nghe. Giả: Chỉ người nào hoặc sự vật gì.

Thính giả là người nghe, tức những người nghe biểu diễn ca nhạc hoặc nghe diễn thuyết.

Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhờ đó, các thính giả tri âm ở bốn phương có dịp thưởng thức một thể điệu âm nhạc thuần tuý của Ban văn nghệ Toà Thánh Tây Ninh.

Nguyện cho khí tịnh thần an,

Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THÍNH THIỆN

聽 善

Thính: Nghe. Thiện: Lành, việc lành.

Thính thiện là nghe điều lành, để học làm lành.

Thính Thiện còn là một phẩm trong Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng thuộc Cơ Quan Phước Thiện của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Thính Thiện đứng trên phẩm Tân Dân, dưới phẩm Hành Thiện, đối với phẩm Phó Trị Sự và Thông Sự của Bàn Trị Sự Hương Đạo.

Đại Phục của Thính Thiện là một áo tràng trắng, mang dây sắc lịnh màu đỏ, trên đó có gắn một khuê bài có đề chữ Thính Thiện, đầu đội khăn đóng đen chữ nhơn gồm bảy lớp.

Thính Thiện, Hành Thiện và Giáo Thiện thì lãnh sắc lịnh phái Ngọc, có Lịnh bài của mỗi phẩm vị ấy gắn giữa dây Sắc lịnh ngay ngực.

(Nghị Định Phước Thiện).

 

 

THÌNH LÌNH

Thình lình chỉ tình trạng xảy đến hết sức bất ngờ, không thể lường trước được. Như: Trời đang nắng ráo thình lình đổ mưa.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Có lẽ chư đạo hữu vẫn ngạc nhiên vì Bần Đạo đến thình lình, mà chư đạo hữu không để tâm trước đó chăng?

Gò đâu phút nổi thình lình,

Nào dè chàng cũng đến giành một nơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Vận rủi đành mang cơn bất trắc,

Năm xui phải gặp nạn thình lình.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THỈNH

Thỉnh là xin, mời, hỏi. Như: Thỉnh thầy đến dạy học, thỉnh an Thánh tượng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Lý giáo Tông có dạy: Toà Thánh là cội nguồn, ngày nào được sừng sựng đứng vững nêu trên miền Tây Vức nầy, ấy là ngày họ cầu thỉnh các đạo hữu đó.

Hoạ phước vô môn, chỉ tại người,

Thỉnh mời rồi đổ bởi nơi Trời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THỈNH AN

請 安

Thỉnh: Xin, cầu, mời, hỏi thăm. An: Yên ổn.

Thỉnh an là hỏi thăm sức khoẻ của người bề trên.

Thỉnh an còn có nghĩa là thỉnh mời và và an vào ngôi vị. Như: Thỉnh an Thánh Tượng, tức là mời các Đấng Thiêng liêng ngự vào ngôi vị.

Kim vì kiết nhựt lương thần, thành lập Thiên Bàn thỉnh an Thánh Tượng chi lễ.

(Sớ Thượng Tượng).

 

 

THỈNH GIÁO

請 教

Thỉnh: Xin, cầu, mời, hỏi thăm. Giáo: Dạy.

Thỉnh giáo là cầu xin bề trên dạy bảo mà mình chưa được hiểu rõ.

Thánh giáo Đức Hộ Pháp trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Việc của chúng ta phải làm hôm nay là thỉnh giáo về việc Tấn phong vị Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài. Các bạn cần hỏi chi?

Nếu có điều khó khăn không giải quyết được phải thỉnh giáo bề trên, không nên phán định sơ suất.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THỈNH NGUYỆN

請 願

Thỉnh: Xin người trên, mời. Nguyện: Những điều mong mỏi trong lòng.

Thỉnh nguyện ý chỉ người dưới bày tỏ những nguyện vọng của mình với người trên để xin người trên làm cho thoả nguyện.

Như: Làm đơn thỉnh nguyện với Hội thánh để được đi hành đạo tại địa phương.

Một đàn cơ riêng biệt ít khi được thiết lập cho ai, mặc dầu lời thỉnh nguyện có quan hệ cách mấy đi nữa cũng không đặng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỈNH NHẬP

請 入

Thỉnh: Xin, cầu, mời, hỏi thăm. Nhập: Vào.

Thỉnh nhập là mời vào

Như: Thỉnh nhập tư gia, thỉnh nhập hội đoàn, thỉnh nhập yến tiệc.

Nhơn phẩm bất phân Tiên Phật vị,

Ðào trang thỉnh nhập cửu quyền nhiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THỈNH THOẢNG

Thỉnh thoảng là một đôi khi, không luôn luôn. Như: Hai người thỉnh thoảng vẫn gặp nhau.

Thánh giáo Đức Quan Thánh Đế Quân trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn dạy: Thời thế đã đổi dời, hoạ Thiên điều hầu kế cận. Từ Nam chí Bắc, khắp Ðông qua Tây, thỉnh thoảng trường náo nhiệt khởi động, diệt tàn kẻ vô đạo.

Gióng bực âm dương hơi thỉnh thoảng,

Dìu đàn lễ nhạc tiếng thung dung.

(Thơ Cao Liên Tử).

Ngày thỉnh thoảng lòng hằng ao ước,

Hiếu đạo tròn trổi bước hành tu.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

Thỉnh thoảng còn nghe lời Thánh giáo,

Thường năm kỷ niệm vẫn lưu truyền.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THỊNH

Hay “Thạnh”.

Thịnh hay “thạnh”, là phát đạt, hưng vượng, tức ở trạng thái đang ngày một phát triển tốt đẹp, trái với “suy”.

Như: Dân giàu nước thịnh, âm thịnh dương suy, quốc gia mỗi năm mỗi cường thịnh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nước Tề là lân bang của nước Lỗ, sợ nước Lỗ được cường thịnh nên dùng tám mươi mỹ nữ dâng cho vua nước Lỗ để làm kế phản gián.

Cảnh thịnh không vinh mà chẳng nhục,

Đường đời ngại núi lại e sông.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THỊNH NỘ

盛 怒

Thịnh (thạnh): Lớn, rất, tức ở trạng thái ngày càng phát triển lớn mạnh. Nộ: Giận dữ.

Thịnh nộ, hay “Thạnh nộ”, là nổi giận lên một cách dữ dội. Như: Nổi cơn thịnh nộ.

Muốn ngón hay đừng thẳng dây đờn,

Ngọt với vợ còn hơn quờn thịnh nộ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỊNH SOẠN

盛 饌

Thịnh: Nhiều, to lớn. Soạn: Cỗ bàn, ăn uống.

Thịnh soạn là bữa tiệc to, ý nói bữa ăn có nhiều món ngon và được chuẩn bị chu đáo, lịch sự. Như: Làm một bữa tiệc thịnh soạn để mời khách.

Sách Luận Ngữ có câu: Hữu thịnh soạn tất biến sắc nhi tác 有 盛 饌 必 變 色 而 作, nghĩa là có thết cỗ to ắt biến sắc mặt mà đứng dậy, tỏ ý cảm kích.

Vì vậy bữa tiệc dầu được thịnh soạn, dầu phải đơn giản, điều ấy không cần thiết.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THỊNH VƯỢNG

盛 旺

Thịnh (thạnh): Dồi dào. Vượng: Trở nên phát đạt.

Thịnh vượng, hay Thạnh vượng, là dồi dào phát đạt, ý chỉ giàu có tiền bạc, sự nghiệp phát triển.

Như: Kinh tế gia đình đang thịnh vượng.

Âm chất chứa đầy cơ thịnh vượng,

Nghĩa nhơn gồm đủ kế lâu dài.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THỊT

Thịt là phần mềm bọc xương, có máu, ở trong cơ thể người và loài vật. Như: Da thịt, thịt người, thịt nạc, thịt gà.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Than ôi! Có hình thể xương thịt mà chơn hồn phưởng phất nơi xa, thì cái thân vô dụng ấy trơ trơ như khối đá dựa đường, như khúc cây bên trũng.

Quyết chí Thiên đường men bước tới,

Phải nhiều máu thịt mới đồng bào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tri cơ mầu nhiệm Ðạo không ngươi,

Ham rượu cho ngon miếng thịt tươi.

(Đạo Sử).

Lắm đứa ngu thịt rượu no say,

Chẳng nghĩ mẹ tiền may bạc vá.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỊT NÁT XƯƠNG TAN

Thịt nát: Khối thịt dù đã tan nát. Xương tan: Mảnh xương có tiêu tan.

Thịt nát xương tan là nói thân hình xương thịt dầu có tan nát đi nữa, ý chỉ sự hy sinh liều cả thân mạng.

Như: Người chức sắc phải có chí hy sinh, dù thịt nát xương tan cũng chẳng nại.

Vì Đạo Thầy hiến trọn thân tâm,

thịt nát xương tan chẳng ngại.

(Điếu Văn Đầu Sư).

 

 

THỊT XÁO NỒI DA

Thịt xáo: Thịt nấu với các thứ rau. Nồi da: Nồi nấu là bằng da thú.

Thịt xáo nồi da, như chữ “Nồi da xáo thịt”, do thành ngữ Hán “Bì oa chử nhục 皮 鍋 煮 肉”, là lấy nồi bằng da để xáo thịt với rau cải.

Do câu chuyện người thợ săn khi bắt được thú rừng làm thịt, người thợ săn thường lấy da làm nồi để nấu thịt, ý chỉ người trong một nhà, một nước tàn sát nhau, hoặc anh em ruột thịt mà nỡ hãm hại lẫn nhau.

Đồng nghĩa câu thành ngữ: Củi đậu nấu đậu.

Lẫn bẩn mài răng ngăn tới lưỡi,

Cần cù lóc thịt xáo nồi da.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THỊT XƯƠNG

Thịt: Phần mềm có thớ, có máu, bọc quanh xương trong cơ thể người và động vật. Xương: Bộ phận cứng làm nòng cốt cho cơ thể người và động vật.

1.- Thịt xương là thịt và xương, hai bộ phận của cơ thể con người.

Ao nước nóng sôi thì sục sục,

Dầm cho người rã rục thịt xương.

(Kinh Sám Hối).

Vong xu trọn cả một Càn Khôn,

Hết kiếp thịt xương tới kiếp hồn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thịt xương còn dùng để chỉ đoàn kết, không thể tách rời hai bộ phận đó được.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Bần Đạo để lời cám ơn toàn bạn Hiệp Thiên, toàn cả Chức sắc Cửu Trùng và toàn đạo nam nữ đã hết lòng lo lắng cho Bần Đạo khi Bần Đạo về với Đại Từ Phụ. Đó là nghĩa thịt xương.

Niềm chồng vợ vui buồn chung cộng,

Chữ ái ân thác sống gởi thịt xương.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THIU THIU

Thiu, thường dùng ở dạng láy, là ở trạng thái mơ màng sắp ngủ.

Như: Vừa thiu ngủ chợt tỉnh giấc, đưa võng hơn mười phút bé mới thiu thiu ngủ.

Đổ ngọc chị Hằng cười ngả ngớn,

Trông hoa dì gió ngủ thiu thiu.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

THỎ BẠC

Thỏ: Thú thuộc loại gặm nhắm, tai to và dài, đuôi ngắn lông mượt. Bạc: Màu bạc, trắng.

Thỏ bạc, do chữ “Bạch thố 白 兔”, là con thỏ màu trắng, chỉ mặt trăng.

Tục truyền trên mặt trăng có con thỏ bạc (bạch thố) giã thuốc, nên “Thỏ bạc”, “Bạch thố”, “Ngọc thố” được dùng để chỉ mặt trăng.

Duyên mới vừa thỏ bạc ngang thềm,

Kể đã đặng năm năm ân ái.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

Ác vàng dấu bóng sau sơn đảnh,

Thỏ bạc đưa gương mặt thuỷ triều.

(Thơ Nguyễn Hượt Hải).

 

 

THỎ CHẾT CHỒN RẦU

Thỏ chết: Con thỏ bị chết. Chồn rầu: Con chồn, cáo, cùng loài với thỏ, buồn rầu.

Thỏ chết chồn rầu, do câu thành ngữ “Thố tử hồ bi 兔 死 狐 悲”, ý muốn nói loài vật còn biết thương đồng loại.

Xem: Thố tử hồ bi.

Thỏ chết, chồn rầu, nhưng người đối với người thì sự đạm bạc nói không cùng.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THỎ LẶN ÁC TÀ

Thỏ, ý chỉ mặt trăng, do chữ “Ngọc thố 玉 兔” tức là thỏ ngọc. Thỏ lặn là nói mặt trăng lặn. Do tích thỏ nhân đức hy sinh cứu đói đồng loại nên được Đức Phật cho lên sống nơi cung trăng.

Ác do chữ “Kim ô 金 烏”, tức là “Ác vàng” hay “Bóng ác”. Ác tà là mặt trời xế bóng, tức con quạ (ác) sắp lặn, chỉ trời xế chiều.

Thỏ lặn ác tà là mặt trăng lặn, mặt trời tà, ý nói đêm ngày đi qua nhanh.

Xem: Thỏ ngọc, kim ô.

Cái xuân kia chẳng đợi người mà bước đời gay trở, lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều quang nhặt thúc, con đường hy vọng chẳng biết đâu là tột cùng mà bước đời xem đà mòn mỏi...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỎ NGỌC

Thỏ: Mộ loài thú gặm nhắm, tai to và dài, đuôi ngắn, lông mượt, Ngọc: Loại đá quý.

Thỏ ngọc, do chữ “Ngọc thố 玉 兔”, chỉ mặt trăng.

Theo kinh Phật, có một con thỏ nhân đức, hy sinh thân mình để làm món ăn cho các con thỏ đói. Phật thương tình mới lượm xương con thỏ nhơn đức, làm cho nó sống lại rồi đem lên cung trăng.

Vì thế, ngọc thố hay thỏ ngọc là tiếng dùng để chỉ mặt trăng.

Xem: Ngọc thỏ.

Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,

Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.

(Đạo Sử).

 

 

THỎ THẺ

Thỏ thẻ là một từ dùng để gợi tả tiếng nói dịu dàng, nhỏ nhẹ, thong thả và dễ thương.

Thí dụ: Thỏ thẻ như trẻ lên ba, giọng oanh vàng thỏ thẻ bên tai.

Truyện Kiều, Nguyễn Du có viết: Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng, Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.

Đối với trẻ cho tròn phận Mẹ,

Mượn vần thơ thỏ thẻ đêm khuya.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Nhớ Mẹ già cung xanh đợi trẻ,

Tả tâm thơ thỏ thẻ bên con.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Hạnh nhỏ nhẹ nói năng thỏ thẻ,

Trái mắt người e lệ chớ nên làm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỌ

1.- Thọ, như chữ “Thụ 受” là vâng chịu, chịu lấy. Như: Thọ ân, thọ giáo, thọ lịnh, thọ sắc, thọ mệnh.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Các con đều có Chức sắc chẳng lớn thì nhỏ, đều thọ Thiên phong nơi Thầy. Cứ giữ phẩm vị các con, nhưng Thầy có một điều yếu thiết là cầu các con lập nhiều công quả nơi trường Thầy sáng tạo cho khỏi phế huỷ nửa chừng.

Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,

Cho đến Ðường Triều mới biến thân.

(Đạo Sử).

Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,

Ðộ anh nhi Nam, Bắc, Ðông, Tây.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,

Giúp cho người chớ vội khoe ra.

(Kinh Sám Hối).

2.- Thọ là sống lâu. Như: Tuổi thọ, thọ đường (quan tài), làm lễ thượng thọ, cõi thọ.

Kinh Lễ có câu: “Nhân thọ dĩ bách niên vi kỳ 人 壽 以 百 年 為 期” nghĩa là đời sống của con người lấy trăm tuổi làm kỳ hạn.

Nói về tiểu sử Đức Khổng Tử, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Thầy Tử Cống, học trò Ngài vừa đến nghe bài hát như thế vội hỏi thăm. Ngài nói khi đêm có nằm chiêm bao nên biết có lẽ sắp chết. Kế đó Ngài ngọa bịnh được bảy ngày thì mất, hưởng thọ 73 tuổi.

Bên màn đòi lúc trêu hồn phách,

Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thì đặng thân hiền trăm tuổi thọ,

Thọ như ông Thọ sướng li bì.

(Đạo Sử).

 

 

THỌ ÂN

Hay “Thụ ân”.

Thọ (thụ): nhận lãnh, vâng chịu. Ân: Ơn.

Thọ ân, như chữ “Thụ ân 受 恩”, là nhận lãnh những ơn huệ của người đã cứu giúp hay ban tặng cho tiền của. Như: Thọ ân người làm ra lúa thóc.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Mình đã xuất hiện trong khuôn luật của tạo đoan, tức nhiên mình thọ ân tạo hoá của Chí Tôn ban cho mình một tánh linh, cốt yếu để cho mình đảm nhiệm phần bảo vệ cơ quan tạo đoan của Ngài, tức nhiên dễ dàng bảo thủ luật tạo đoan chớ không phải dễ tiêu diệt luật tạo đoan.

Từ thuở chung vai gánh Đạo quyền,

Đầu Sư phái Ngọc thọ ân Thiên.

(Thài Ngọc Nhượn Thanh).

 

 

THỌ ĐẮC KỲ TRUYỀN

Hay “Thụ đắc kỳ truyền”.

Thọ (thụ): Nhận lãnh, vâng chịu. Đắc: được. Kỳ truyền: Trao lại cái chơn truyền, tức giáo lý chơn thật được truyền lại.

Thọ đắc kỳ truyền, như câu “Thụ đắc kỳ truyền 受 得 其 傳”, là nhận lãnh được cái chơn truyền ấy.

Nguyên từ buổi bế đạo, tuy Chánh pháp ra cũ mặc dầu, chớ kỳ trung thọ đắc kỳ truyền.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỌ GIÁO

Hay “Thụ giáo”.

Thọ (thụ): Tiếp nhận. Giáo: Dạy dỗ, dạy học.

Thọ giáo, như chữ “Thụ giáo 受 教”, là chịu sự dạy bảo, hay nhận người làm thầy để theo học tập.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Nhiều đứa đi truyền đạo mà trong lòng kính sợ kẻ thọ giáo. Thầy hỏi: Phải nghịch chơn lý chăng?

Lựa những mặt tài tình thọ giáo,

Học cho thông mối đạo quân thần.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THỌ GIỚI

Hay “Thụ giới”.

Thọ (thụ): Tiếp nhận và nguyện gìn giữ. Giới: Giới luật tu hành.

Thọ giới, như chữ “Thụ giới 受 戒”, là nhận lãnh giới luật tu hành.

Để trở thành Phật tử tại gia thì trước nhứt phải quy y tam bảo và thọ năm giới, còn Sa di thì phải thọ mười giới, Tỳ kheo thọ 250 giới, gọi là thọ cụ túc giới.

Vào chùa thọ giới quy y,

Xin Thầy chứng nhận tu trì bảo thân.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THỌ HÌNH THẬP TỰ

Hay “Thụ hình thập tự”.

Thọ (thụ) hình: Chịu hình phạt. Thập tự: Thập tự giá, tức Thánh giá của Đạo Gia Tô.

Thọ hình thập tự, như câu “Thụ hình thập tự 受 刑 十 字”, ý chỉ Đức Gia Tô Giáo Chủ, tức Jésus Christ, người Do Thái chịu hình phạt đóng đinh trên Thập tự giá, để chuộc tội cho loài người bên xứ Châu Âu, sau trở thành vị Chúa Cứu Thế cho nhơn loại.

Xem: Gia Tô.

Thọ hình Thập tự trồng cây ái,

Chuộc tội quần linh hưởng trái lành.

(Thơ Ngọc Nhượn Thanh).

 

 

THỌ KHẢO

Hay “Thụ khảo”.

Thọ (thụ): Nhận lãnh, vâng chịu. Khảo: Dùng hình cụ tran người có tội, khảo dượt.

Thọ khảo, như chữ “Thụ khảo 受 拷”, là vâng chịu sự khảo duợt. Như: Người tu phải thọ khảo mơi xứng vị.

Một vật muốn trơn muốn bén, phải tốn nhiều công mài dũa; một sự việc gặt hái được kết quả, phải lắm công nhiều sức; một con người muốn nên tài năng hiền đức, phải nhiều công phu học tập, phải rèn tâm luyện tánh, phải chịu nhiều thử thách gian lao, phải chịu lắm cơn khảo duợt, mới phân được vị thứ, mới rõ được tài năng. Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Sự thử thách như luồng giông tố. Ai đã trải qua mà cái Tâm chẳng đổi, Ý chẳng dời, thì mới mong đạt đường Đạo được.

Như vậy, đời người trăm tuổi phải thọ khảo dài lâu để có cơ hội rèn tâm luyện tánh, tập lòng nhẫn nại, giữ nghĩa thuỷ chung và nhất là gặt hái nhiều bài học hay trên đường tiến hoá về đạo đức. Sự khảo còn là một dịp để người tu trả xong nợ oan trái tiền khiên, một cơ hội nhồi hết căn quả trong một kiếp sinh phải trả hầu được rãnh rỗi, nhẹ nhàng vĩnh viễn an vui nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Trăm năm thọ khảo vĩnh trường,

Thuận căn thuận mạng đôi đường cao thăng.

(Kinh Tận Độ).

Tuyển thăng hồi hướng cầu Di Lạc,

Thọ khảo định thần niệm Chí Tôn.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THỌ KHỔ

Hay “Thụ khổ”.

Thọ (thụ): Nhận lấy, chịu đựng lấy. Khổ: đau đớn, vất vả.

Thọ khổ, như chữ “Thụ khổ 受 苦”, là nhận chịu sự đau khổ.

Trong Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp có nói: Phương pháp ấy cốt để cho toàn cả nhơn quần xã hội thấy đặng khó khăn thống khổ tức phải thọ khổ rồi mới thắng khổ.

Phật Tiên đoạt phẩm trọn lành,

Trước cam thọ khổ, sau thành ngôi cao.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

Thọ khổ vui tạo phúc duyên,

Ðỡ nâng kẻ khó thay quyền Chí Linh.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

THỌ LÃNH

Hay “Thụ lãnh”.

Thọ (thụ): Nhận lấy, chịu đựng lấy. Lãnh: Nhận.

Thọ lãnh, như chữ “Thụ lãnh 受 領”, là nhận lấy, nhận lãnh. Như: Thọ lãnh Thánh lịnh của Hội Thánh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Dù nội Trung ương hay là ở các Ðịa phương một Chức Sắc thọ lãnh nhiệm vụ do Hội Thánh giao phó, đó là một dịp thuận tiện để cho mình đem công lập vị.

Từ ngày thọ lãnh chức Thiên phong,

Lòng Đạo trau tria thấm thía lòng.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THỌ LỊNH

Hay “Thụ lệnh”.

Thọ (thụ): Nhận lãnh, vâng chịu. Lịnh (lệnh): Mệnh lệnh, mạng linh.

Thọ lịnh, như chữ “Thụ lệnh 受 令”, đồng nghĩa với Thọ mạng, là nhận lãnh mệnh lệnh của cấp trên để thi hành. Như: Thọ lịnh caaso trên để thi hành.

Xem: Thọ mạng.

Phận sự con rất lớn, tại Ngọc Ðàn con sẽ thọ lịnh.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỌ MẠNG

Hay “Thụ mệnh”.

Thọ (thụ): Nhận lãnh. Mạng (mệnh): Mệnh lệnh.

Thọ mạng, như chữ “Thụ mệnh 受 命” là nhận mệnh lệnh của vua hay chịu mệnh lệnh của Trời (Đức Chí Tôn).

Thọ mạng (thụ mệnh) còn có nghĩa là vâng lời dạy bảo của cấp trên.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Lê Văn Trung có câu: Đã thọ mạng nơi Thầy, con đi đâu Thầy theo đó. Lời đạo đức trong miệng con nói ra, ấy là lời Thầy bố hoá tâm trí con đặng đi truyền đạo, tuỳ cơ mà dạy kẻ, một mình con đâu đủ sức phục người.

Thọ mạng Ngọc Hư xoay vũ trụ,

Cầm quyền thế giới dựng Cao Đài.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THỌ ƠN

Hay “Thụ ân”.

Thọ (thụ): nhận lãnh, vâng chịu. Ơn: Điều làm cho người nào đó, mang lợi ích.

Thọ ơn, như chữ “Thụ ân 受 恩”, là nhận lãnh những ơn huệ của người đã cứu giúp hay ban tặng cho tiền của. Như: Thọ ơn người đã cứu mạng.

Xem: Thọ ân.

Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,

Giúp cho người chớ vội khoe ra.

(Kinh Sám Hối).

Hễ thọ ơn người thì phải trả cho rồi,

Ơn định vợ nghĩ thôi nên thậm trọng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỌ PHÁP

Hay “Thụ pháp”.

Thọ (thụ): Nhận lấy. Pháp: Đạo pháp, giáo pháp, những lời dạy của chư Phật và Bồ Tát...

Thọ pháp, như chữ “Thụ pháp 受 法”, là tiếp nhận những giáo pháp, những lời dạy của chư Phật và Bồ Tát, cùng những giới luật tu hành trong tôn giáo.

Từ khi thọ pháp đạo Cao Đài,

Sau trước gìn lòng chẳng đổi thay.

(Thái Đến Thanh).

 

 

THỌ PHONG

Hay “Thụ phong”.

Thọ (thụ): Nhận lấy. Phong: Vua hay các Đấng thiêng liêng ban phẩm tước.

Thọ phong, như chữ “Thụ phong 受 封”, là nhận lãnh chức tước do Đức Chí Tôn ban cho.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có dạy: Ngài thọ phong Tiếp Lễ Nhạc Quân năm Ðinh Mão (1927). Qua năm Kỷ Tỵ (1929) lối tháng mười, mặc dầu hưởng lương bổng trọng hậu, Ngài phế đời về Toà Thánh hiến thân lo Ðạo, giúp Hội Thánh sắp đặt nội bộ và nhất là góp công trong việc nâng loan cho Ðức Chí Tôn và các Ðấng dạy truyền giáo lý.

Kiệt, Hiền Hữu đặng thọ phong Giáo Hữu. Chỉnh Ðàn cho nghiêm đặng Thầy giáng.

(Đạo Sử).

 

 

THỌ PHỤC

Hay “Thụ phục”.

Thọ (thụ): Chịu, nhận. Phục: Tang phục.

Thọ phục, như chữ “Thụ phục 受 服”, là nhận chịu tang phục, hay nói cách khác là để chế cho người chết.

Thọ phục mẫu từ chưa mãn cửu,

Cư tang thân phụ tiếp lên đầu.

(Thơ Phước Huệ).

 

 

THỌ QUỐC MẠCH TẤT TIÊN Ư TRÍ CHÚA CHI TRUNG

壽 國 脈 必 先 於 致 主 之 忠

Thọ quốc mạch: Làm cho mạch sống của đất nước được bền lâu vững chắc. Tất tiên: Trước nhứt. Ư trí chúa chi trung: Phải trung với vua với nước.

Thọ quốc mạch tất tiên, ư trí chúa chi trung là làm cho mạch sống của đất nước được bền lâu, vững chắc, trước nhứt làm người dân phải biết trung với vua và nước.

Theo tư tưởng Nho giáo, trong một nước tất phải có một quyền tối cao để giữ kỷ cương cho cả đoàn thể.

Cái quyền ấy, gọi là Quân quyền, quyền nầy phải được thống nhất giao cho một người gọi là Đế hay Vương, mà ta gọi là vua.

Trong một nước thì dân phải trung với quân. Trung quân không phải là trung với vị đế hoặc vương, mà phải hiểu nghĩa rộng ra là trung với cái quân quyền trong nước, miễn sao cái quân quyền ấy hợp với lòng dân là được.

Như vậy, đối với quốc gia, muốn cho cội nước được vững bền phải biết bổn phận làm dân, làm tôi trong nước, nghĩa là phải trung thành với tổ quốc, liều mình cùng quốc gia, không kể chi đến khổ nhọc, hiểm nguy.

Thọ quốc mạch tất tiên,

ư trí chúa chi trung.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THỌ SANH

Hay “Thụ sinh”.

Thọ (thụ): Nhận lãnh. Sanh (sinh): Sự sống, sinh ra.

Thọ sanh, như chữ “Thụ sinh 受 生”, là nhận lãnh sự sống, tức là chịu nhận đầu kiếp làm một con người sống nơi cõi trần.

Thánh giáo Thầy dạy Đức Quyền Giáo Tông, có câu: Con định ý gần trúng, nghĩa là dầu cho bậc Chí Thánh đi nữa cũng thọ sanh nơi Thầy. Muốn đến trường Thánh Ðạo phải theo sau Thầy. Cái xác trần tiêu diệt hôi thúi, chớ tánh Thánh chẳng hề tiêu diệt hôi thúi.

Nắm chặt quyền phân phát cơm áo thì chưa ai đã chịu thọ sanh nơi thế nầy lánh khỏi.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỌ SẮC

Thọ (thụ): Nhận lãnh. Sắc (sắc lịnh): Sắc chỉ, tức là mệnh lệnh của Đức Chí Tôn.

Thọ sắc, như chữ “Thụ sắc 受 敕”, là thọ sắc lịnh, tức nhận lãnh mệnh lệnh của Đức Chí Tôn.

Thánh giáo của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có câu: Bần Đạo đã thọ sắc lịnh Ngọc Hư lo chuyển pháp thì không phương tha thứ điều phạm bao giờ.

Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,

Độ anh nhi nam, bắc, đông, tây.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,

Cho đến Ðường Triều mới biến thân.

(Đao Sử).

Thọ sắc tam quy câu cứu khổ,

Trì tâm ngũ giới tiếng nam mô.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THỌ TANG

Hay “Thụ tang”.

Thọ (thụ): Nhận lãnh, vâng chịu. Tang: Làm lễ cho người chết.

Thọ tang, như chữ “Thụ tang 受 喪”, là để tang cho người đã quá cố. Như: Thọ tang cha mẹ.

Xin cùng Hội Thánh thọ tang Ðức Ngài, đủ nói lên tấm lòng mến tiếc xót thương Ðức Ngài như thế nào rồi.

(Đầu Sư Hương Hiếu).

 

 

THỌ TỶ NAM SAN

Hay “Thọ tỷ Nam Sơn”.

Thọ tỷ: Sống thọ như. Nam san (sơn): Núi Nam.

Thọ tỷ Nam san, như câu “Thọ tỷ Nam sơn 壽 仳 南 山”, là sống lâu như núi Nam.

Kinh Thi có câu: Như nam sơn chi thọ, bất khiên bất băng 如 南 山 之 壽, 不 騫 不 崩, nghĩa là thọ như núi nam, không mòn không lở.

Cầu cho thọ tỷ Nam san,

Miên trường bá tuế hân hoan tinh thần.

(Bài Chúc Đạo Tuế).

 

 

THỌ TỘI

Hay “Thụ tội”.

Thọ (thụ): Nhận lãnh, vâng chịu. Tội: Tội lỗi.

Thọ tội, như chữ “Thụ tội 受 罪”, là nhận tội, chịu tội. Như: Làm mất trật tự đàn cúng phải thọ tội cùng Chí Tôn.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta đâu có dè các vị Giáo Chủ đang giáo hoá chúng ta, đã thọ tội cùng Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng, đó là huyền vi bí mật của Chí Tôn nên ngày nay mới có ảnh hưởng.

Phải ăn năn sám hối, thọ tội cùng chúng sanh.

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

THỌ TƯỚC

Hay “Thụ tước”.

Thọ (thụ): Nhận lãnh, vâng chịu. Tước: Phẩm tước, chức tước.

Thọ tước, như chữ “Thụ tước 受 爵”, là nhận lãnh chức tước do Đức Chí Tôn hay Đức Lý phong cho.

Chớ xem lại trong hàng môn đệ đã thọ tước cũng chưa đặng thấy mấy đứa cho xứng đáng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỌ TRÌ

Hay “Thụ trì”.

Thọ (thụ): Nhận lãnh. Trì: Gìn giữ.

Thọ trì, như chữ “Thụ trì 受 持”, là nhận lãnh và nguyện gìn giữ.

Khi đã tín ngưỡng thì những lời Thánh giáo của Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng ban cho đều tin tưởng, vui thích nhận lãnh và nguyện gìn giữ chắc chắn đó gọi là “Thọ trì”.

Trong Di Lạc Chơn Kinh có câu: Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh ma chướng 若 有 人 受 持 恐 驚 魔 障, nghĩa là nếu có người nhận và gìn giữ Phật pháp mà kinh sợ những chướng ngại của Ma vương.

Âm Dương đôi nẻo như nhau,

Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì.

(Kinh Thế Đạo).

Ngã kim thính văn đắc thọ trì,

Nguyện giải Tân kinh chơn thiệt nghĩa.

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

THỌ TRUYỀN BỬU PHÁP

Hay “Thụ truyền bửu pháp”.

Thọ (thụ) truyền: Được thừa nhận, được giữ lấy những cái người trên cho mình rồi truyền trao lại. Bửu Pháp: Những pháp quý báu.

Thọ truyền bửu pháp, như câu “Thụ truyền bửu pháp 受 傳 寶 法”, là được trao cho phép tu quý báu có tính cách tối mật và linh ứng để mau đắc quả.

Trong hàng Hạ thừa, ai giữ trai kỳ 10 ngày trở lên được thọ truyền Bửu pháp, vào Tịnh Thất có người chỉ luyện Đạo.

(Tân Luật).

 

 

THOA

1.- Thoa là xoa nhẹ ở ngoài da hay trên đầu, hoặc bôi và xoa cho đều.

Như: Thoa thuốc trên đầu, thoa dầu ở bụng, thoa nhẹ bằng bàn tay.

Ngài lãnh đặng hoàn thuốc linh đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Thoa là trâm cài đầu của đàn bà. Như: Quần thoa, bố quần kinh thoa.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Thoa này bắt được hư không, Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?

Giữ cốt cách muôn năm chẳng thẹn,

Kiếp quần thoa vun quén cội nhân.

(Huỳnh Hoa Tiên Nữ).

 

 

THOẢ

1.- Thoả là yên ổn. Như: Ổn thoả.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Lê Bá Trang trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Từ đây nên điều đình ổn thoả với Chức sắc Hiệp Thiên Đài thì chẳng sái bước nghe.

Cứ an phận thủ thường, tuỳ hoàn cảnh của mình mà lo liệu ổn thoả việc gia đình.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

2.- Thoả là được như lòng mong muốn. Như: Thoả lòng, thoả chí, thoả tình, thoả nguyện.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Sự công bình thiêng liêng đâu có cho ta hưởng như vậy được. Cái vui chưa được thoả, cái buồn, cái khổ đã kề bên, không có cái gì chân thực vĩnh viễn.

Mình ngươi đặng thoả trăm người thiếu,

Thiếu sót lòng tu chẳng độ đời.

(Đạo Sử).

Nguyện vọng như Anh đã thoả rồi,

Cố tâm kế chí có thằng tôi.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THOẢ CHÍ

妥 志

Thoả: Ở trạng thái hoàn toàn hài lòng khi được đúng như mong muốn. Chí: Ý quyết làm một việc gì.

Thoả chí là thích chí, tức được hoàn toàn như ý mong muốn, ước ao.

Như: Thoả chí bình sanh, thoả chí tang bồng.

Hỏi ai thoả chí ai ơi?

Tra phòng hiệp cẩn, bao hồi khóc riêng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THOẢ LÒNG

Thoả: Ở trạng thái hoàn toàn hài lòng khi được đúng như đã mong muốn, ước ao. Lòng: Lòng dạ.

Thoả lòng, như chữ “Thoả chí 妥 志”, là được như lòng mong muốn.

Như: Gặp nhau đây đã thoả lòng mong ước.

Bằng bảy công hầu chưa sánh kịp,

Phong làm Giáo Hữu thoả lòng chăng?

(Đạo Sử).

Trai nào khi trước muốn thoả lòng,

Thì sau ắt đừng mong gìn trọn nghĩa.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THOẢ MÃN

妥 滿

Thoả: An ổn, chắc chắn. Mãn: Đầy.

Thoả mãn là vừa đầy đủ lòng mình đã trông đợi, tức vừa lòng. Như: Chưa thoả mãn dục vọng.

Trong Thánh Ngôn, Đức Chí Tôn có dạy: Hỡi nầy dân tộc có diễm phước, Thầy sẽ làm thoả mãn tánh hiếu kỳ của con. Là loài người, các con có biết tự đâu các con đến chăng?

Trau mình tới bộ hình tướng dạng,

Khá biết rằng em thoả mãn học gương.

(Phương Tu Đại Đạo).

Công quả tương rau lòng thoả mãn,

Thảnh thơi cửa Đạo bạn nhân hiền.

(Thơ Ngọc Nhượn Thanh).

 

 

THOẢ NGUYỀN

Hay “Thoả nguyện”.

Thoả: An ổn, chắc chắn, được như ý muốn. Nguyền (nguyện): Cầu xin, ước nuốn.

Thoả nguyền, như chữ “Thoả nguyện 妥 願”, là được như lòng mong muốn của mình.

Như: Kết quả nầy đã được thoả nguyền.

Xem: Thoả nguyện.

Lời tục ví trai tài gái sắc,

Gái thoả nguyền trai đẹp mắt ấy thường tình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THOẢ NGUYỆN

妥 願

Thoả: An ổn, chắc chắn, được như ý muốn. Nguyện (nguyền): Ao ước, mong nuốn.

Thoả nguyện hay “Thoả nguyền” là điều mình mong muốn, ao ước đã được đáp ứng đầy đủ, tức vừa lòng về những ước nguyện.

Thánh giáo Thầy bằng Pháp Văn được Hội Thánh dịch có dạy: Một đàn cơ riêng biệt ít khi được thiết lập cho ai, mặc dầu lời thỉnh nguyện có quan hệ cách mấy đi nữa cũng không đặng. Nhưng đối với con, Thầy được hiểu lòng nhân đức, tánh từ thiện của con, nên Thầy cho con được thoả nguyện.

Tòng bá giữ bền gan sắt đá,

Có ngày thoả nguyện định phong cương.

(Thơ Tiếp Đạo).

U hiển Tiên phàm tuy thoả nguyện,

Nhưng làm sao tránh nỗi buồn riêng.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THOẢ TÌNH

妥 情

Thoả: Được như lòng mong muốn. Tình: Tính tự nhiên do sự cảm xúc ở ngoài mà phát lộ ra.

Thoả tình là hoàn toàn thoả mãn với cái tình cảm trong lòng mình.

Như: Gặp lại người xưa ngồi tâm sự cho thoả tình mong đợi.

Cũng đừng quen theo phép dỗ dành,

Ép buộc vợ thoả tình hoa nguyệt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THOẢ THÍCH

妥 適

Thoả: An ổn, chắc chắn, được như ý muốn. Thích: Vừa, ưa muốn.

Thoả thích là vừa lòng thích ý, tức vừa lòng theo ý thích không bị hạn chế.

Như: Trò chuyện với nhau cho thoả thích.

Một mai thoả thích đồi cao thấp,

Muôn trượng thơ ơ núi chập chồng.

(Thơ Thuần Đức).

Dưa muối no thân lòng thoả thích,

Vải bô ấm cật dạ hân hoan.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

THOẢ THUẬN

妥 順

Thoả: An ổn, chắc chắn, được như ý muốn. Thuận: Bằng lòng, đồng tình.

Thoả thuận là đồng ý với nhau về điều nào đó có quan hệ đến các bên, sau khi đã bàn bạc. Như: Bán hàng theo giá thoả thuận.

Lời Thuyết Minh của Đức Thượng Sanh có câu: Theo quý vị đã biết, ngày nay tôi và chư vị thời quân Hiệp Thiên Ðài về Toà Thánh đãm đương trách nhiệm cầm giềng mối Ðạo, một là vì có sự thoả thuận của các cơ quan trong Hội Thánh, hai là vì thấy tình thế của Ðạo đã đến lúc cực kỳ nghiêm trọng nên chẳng đành toả quan thành bại.

Thoả thuận cùng không cơn rắc rối,

Vững bền theo Đạo mới vuông tròn.

(Đông Phương Sóc Giáng).

 

 

THOÁI BỘ

Hay “Thối bộ”.

Thoái (thối): Thụt, lùi lại. Bộ: Bước.

Thoái bộ, như chữ “Thối bộ 退 步” là thụt lùi, lùi bước lại, không tiến tới nữa.

Thoái bộ còn có nghĩa là thụt lại, không tiến lên được nữa, trở thành ngày một kém đi, trái với tiến bộ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn dạy: Ði ngược lại với trào lưu thoái bộ đó, chúng ta không nên coi thường môn Âm Nhạc và phải cố tâm gìn giữ cái chơn giá trị của nó.

Xem: Thối bộ.

Cái quyền năng của Ðạo giáo Gia Tô mạnh mẽ dường nào mà ngày nay phải thoái bộ trước năng lực của toàn cầu...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THOÁI VỊ

Hay “Thối vị”.

Thoái (thối): Lui, lùi lại. Vị: Chỗ ngồi, ngôi vị.

Thoái vị, như chữ “Thối vị 退 位”, là lui khỏi ngôi vị. Chỉ nhà vua gặp cơn nước nhà loạn lạc, không mang lại an trị cho nhân dân, thường tuyên bố “thoái vị”.

Như: Vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại đứng lên tuyên bố thoái vị.

Chúng ta thấy trước khi lên cầm quyền vì một sơn hà xã tắc, một nhà đương quyền tại vị, hay đã thoái vị cũng vậy...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THOẠI KHÍ

Hay “Thụy khí”.

Thoại (thụy): Điềm tốt, lành. Khí: Chất khí.

Thoại khí, như chữ “Thụy khí 瑞 氣”, là chất khí tốt lành. Theo triết lý đạo Cao Đài, thoại khí là Hỗn Nguơn khí hay khí Sanh Quang là một loại khí nuôi sống toàn thể vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.

Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,

Tạo Hoá Thiên sanh biến vô cùng.

(Kinh Tận Độ).

Một toà Thánh vức Lương sanh hội,

Chín phẩm Thần Tiên thoại khí nhuần.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THOẠI VŨ

Hay “Thụy vũ”.

Thoại: Điềm tốt, lành. Võ: Mưa.

Thoại võ, như chữ “Thụy vũ 瑞 雨”, là cơn mưa ứng với điềm lành, như mồng một tết có mưa, là mưa ứng với điềm lành được mùa.

Thoại võ dùng để chỉ ơn mưa móc của vua ban xuống cho các cung nhân.

Tiếng cầm xen tiếng sắt, phao tuông đêm hạ giấc hoà phong,

Mùi xạ bén mùi hương, đầm ấm ngày xuân hơi thoại võ.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

THOÀN

Hay “Thuyền”.

Thoàn, như chữ “Thuyền 船”, đọc trại ra, có nghĩa là loại phương tiện dùng để chuyên chở ở mặt nước.

Như: Ngư thoàn, một hội một thoàn như nhau.

Xem: Thuyền.

Nước trí non nhân hứng Ðạo thoàn,

Một bầu nhựt nguyệt nỗi mênh mang.

(Đạo Sử).

Bóng hồng lố cánh thoàn thơ thới,

Thiện niệm chờ cạn gởi nỗi đau.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

THOÀN MÂY

Thoàn: Do chữ “Thuyền 船” đọc trại ra, có nghĩa là loại phương tiện dùng để chuyên chở ở mặt nước. Mây: Đám mây trên bầu trời.

Thoàn mây tức thuyền mây, là đám mây trên bầu trời làm chiếc thuyền để chở các chơn linh về cõi thiêng liêng.

Thoàn mây thuận gió cánh buồm trương,

Sanh tử chia phôi cảnh đoạn trường.

(Thài Hàng Thần Vị).

 

 

THOÁNG

Thoáng là vụt qua, diễn ra và qua đi rất nhanh trong khoảng thời gian rất ngắn. Như: Thoáng bên tai, ý nghĩ thoáng qua.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Vầng trăng đương soi sáng vũ trụ, bỗng nhiên một thoáng mây đen thoáng qua, tuy là làm cho lu mờ cảnh vật, nhưng đó chỉ là trong chốc lát.

Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn,

Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.

(Kinh Tận Độ).

Bỗng đâu thoáng bóng diễm kiều,

Thoạt trông, Hán Đế ra chiều ngẩn ngơ.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

THOÁNG QUA

Thoáng: Vụt qua. Qua: Đã xong, đã hết.

Thoáng qua là lướt qua một cách nhẹ nhàng trong thời gian rất ngắn, chỉ đủ cảm nhận được.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Một trận giông thoáng qua làm cho mặt nước trường giang phải xao động, nhưng tàn cơn gió lốc mặt sông vẫn trở về với sự phẳng lặng, yên tịnh của nó như bình thường. Cái lý trí của người tu sĩ cũng như thế.

Khi thì khóc, lúc thì cười,

Bao nhiêu tình nghĩa một đời thoáng qua.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THOẢNG

Thoảng là lướt qua cách nhẹ nhàng, trong thời gian rất ngắn, chỉ đủ để cảm nhận được.

Như: Cơn gió vừa thoảng qua, đi ngang qua chùa mùi nhang trầm thoảng qua mũi.

Đôi mắt nhắm bên hông gió thoảng,

Ưỡn mình lên mũi thoáng hương đưa.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THOÁT

1.- Thoát là lìa khỏi, rời khỏi, ra ngoài. Như: Trốn thoát khỏi tù giam, thoát nợ tiền khiên, thoát nạn hiểm nghèo.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Thầy có câu: Các bậc Thần, Thánh, nếu chẳng biết mối đạo là phương châm tìm nguồn trong rửa bợn tục, thì biển trần khổ nầy cũng khó mong thoát đặng.

Thìn dạ bước dìu sanh chúng độ,

Nương thuyền mới trọn thoát qua sông.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thành dạ trau gương sanh chúng độ,

Thuyền kề gió lướt thoát mê tân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thoát là cổi, lột bỏ. Như: Thoát xác, thoát phận tôi đòi.

Dạy về Bất tà dâm, Thánh giáo Thầy có câu: Khi các con thoát xác, thì nó đến tại Nghiệt Cảnh Ðài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội đặng. Phải giữ gìn Giới Cấm ấy cho lắm!

Dạy trẻ bỏ tánh tình biếng nhác,

Cần lập thân mới thoát phận tôi đòi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THOÁT ÁCH TIÊU TAI

脫 厄 消 災

Thoát ách: Cổi bỏ được tai ách. Tiêu Tai: Tiêu trừ được nạn tai.

Thoát ách tiêu tai là lìa khỏi các nạn ách, chấm dứt những hoạ tai.

Dĩ đức Từ bi chuyển hoạ vi phước, thoát ách tiêu tai, thế giới an ninh, cộng hoà nhơn loại

(Sớ Văn).

 

 

THOÁT ĐỌA LUÂN HỒI

脫 墮 輪 迴

Thoát đọa: Giải thoát khỏi bị đoạ xuống chỗ thấp kém. Luân hồi: Sự chuyển kiếp trong vòng sanh tử.

Thoát đoạ luân hồi là giải thoát khỏi cảnh đày đoạ trong vòng luân hồi nơi cõi trần.

Muốn thoát đoạ luân hồi thì phải tu cho đắc quả thành Tiên Phật.

Phổ tế chúng sanh giải thoát lục dục thất tình thoát đoạ luân hồi tất đắc giải thoát.

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

THOÁT KHỔ

脫 苦

Thoát: Lìa khỏi, rời khỏi, ra ngoài. Khổ: Khó khăn về vật chất hay đau đớn về tinh thần.

Thoát khổ làm cho hết khổ não, tức là chấm dứt được những khó khăn, thiếu thốn về vật chất, hay những giày vò, đau đớn về tinh thần.

Như: Cố gắng vươn lên mới thoát khổ đặng.

Đừng gìn thân ái nghĩa nhân,

Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.

(Kinh Tận Độ).

Gay chèo thoát khổ đầy linh cảm,

Rạch nước trừ oan đủ diệu huyền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THOÁT LY

脫 離

Thoát: Vượt ra, không còn ở nơi cũ nữa. Ly: Lìa ra khỏi nơi mình không muốn ở.

Thoát ly là rời khỏi, ra khỏi (chỗ mà mình không ưa thích). Như thoát ly khổ nạn, thoát ly gia đình.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ấy vậy, chúng ta tìm Đạo là gì? Là chúng ta thoát ly cho đặng cái thú tánh, để bảo tồn cái thiên mạng của mình. Dầu cá nhân của chúng ta, dầu toàn thể nhơn loại cũng vậy, duy chịu có khuôn luật ấy mà thôi.

Nay tôi đã thoát ly sự thế,

Khắp năm châu bốn bể là nhà.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THOÁT LƯỚI

Thoát: Vượt ra, không còn ở nơi cũ nữa. Lưới: Vật đan bằng chỉ sợi giăng cá bắt chim.

Thoát lưới là thoát khỏi nơi bị lưới giăng, ý chỉ các loài chim cá vượt ra khỏi lưới bẫy giăng mắc...

Thoát lưới còn dùng để chỉ được tự do bay lội.

Thoát lưới, vẫy vùng an phận cá,

Sổ lồng, thong thả rảnh chân chim.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THOÁT MÊ

脫 迷

Thoát: Cởi bỏ, ra khỏi. Mê: Không thấu đáo chân lý, không hiểu sự thật.

Thoát mê là ra khỏi cơn mê.

Phật cho rằng chúng sanh vì mê lầm mà mãi chìm trong luân hồi sanh tử, phải chịu khổ đau. Nên Đức Phật ra đời với mục đích chỉ cho chúng sanh thoát mê.

Bởi mê thì Phật làm chúng sanh, ngộ là chúng sanh làm Phật.

Mượn nước nhành dương lau tục trái,

Thoát mê rảo bước thử đi lần.

(Cao Tiếp Đạo).

 

 

THOÁT MÊ TÂN

脫 迷 津

Thoát: Cởi bỏ, ra khỏi. Mê tân: Bến mê, chỉ cảnh giới của chúng sanh còn sống vô minh mê lầm.

Thoát mê tân là ra khỏi bến mê, tức cởi bỏ được sự mê lầm ở cõi trần để được giác ngộ.

Theo Phật phải có trí huệ dùng thuyền Bát nhã mới vượt qua biển luân hồi sanh tử đưa đến bờ giác ngộ.

Thành dạ trau gương sanh chúng độ,

Thuyền kề gió lướt thoát mê tân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THOÁT NẠN

Thoát: Ra khỏi nơi bị vây hãm, nơi đe doạ sự an toàn, hoặc khỏi tình trạng bị ràng buộc, kìm hãm. Nạn: Hoạ hại lớn.

Thoát nạn là xa rời khỏi tai nạn.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trong khi chào đón Xuân mới, người Ðạo Cao Ðài hy vọng và cầu nguyện Ðức Chí Tôn mở lượng từ bi xoay trở thế cuộc, ban ân huệ cho dân tộc Việt Thường chóng thoát nạn chiến tranh, sớm vui hưởng đời thanh bình vĩnh cửu, người có sứ mạng Thể Thiên hành hoá mới có cơ thuận tiện tận tâm lo dìu dắt nhơn sanh trên đường giải thoát.

Để mà thoát nạn chiến tranh,

Hết hai còn một người lành trời thương.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

 

 

THOÁT PHÀM

脫 凡

Thoát: Ra khỏi nơi bị vây hãm, hoặc khỏi tình trạng bị ràng buộc, kìm hãm. Phàm: Tầm thường, phàm tục.

Thoát phàm là ra khỏi chốn tầm thường, thấp kém của con người nơi cõi phàm tục.

Như: Cứu cánh của người tu hành là mong muốn thoát phàm.

Thầy phân chánh lý cho con hiểu,

Kẻ vụ thâu đa chẳng thoát phàm.

(Đạo Sử).

 

 

THOÁT TAI

脫 災

Thoát: Ra khỏi nơi bị vây hãm, hoặc khỏi tình trạng bị ràng buộc, kìm hãm. Tai: Tai nạn nguy hiểm.

Thoát tai là thoát khỏi tai nạn nguy hiểm. Như: Nhờ tạo phước đức mà có thể lánh hoạ thoát tai.

Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ,

Thoát tai bá tánh ngưỡng Ân sinh.

(Bài Dâng Rượu).

 

 

THOÁT TỘI

脫 罪

Thoát: Cởi bỏ, ra khỏi. Tội: Hành vi phạm pháp luật, hay răn cấm của đạo đức tôn giáo.

Thoát tội là cởi bỏ được những tội lỗi.

Như: Phận làm con nếu biết thương cha mẹ thì có thể thoát tội bất hiếu.

Trong thế còn người mong thoát tội,

Kỳ trung chưa lọt kẻ ra ngoài.

(Đạo Sử).

 

 

THOÁT TỤC

脫 俗

Thoát: Cởi bỏ, ra khỏi. Tục: Tầm thường, thấp kém, chỉ cõi thế gian, khác với cõi Tiên, cõi Phật.

Thoát tục là thoát vòng trần tục, tức là thoát khỏi nơi luân hồi khổ não của cõi thế gian này.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ngày Thầy khai Ðạo, Thầy cũng có lời để lại cho các con hiểu rằng, lũ ma hồn quỷ xác nó cứ theo phá khuấy các con là nó muốn phá Ðạo đó, lại cũng vì các con không thoát tục đó chớ.

Dìu đường thoát tục nắm phan,

Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn.

(Kinh Tận Độ).

Đạo hư vô, Sư hư vô,

Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.

(Kinh Thế Đạo).

Thoát tục ví ai tìm cửa Thánh,

Biển mê lướt sóng đến ven trời.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THOÁT TỤC SIÊU PHÀM

脫 俗 超 凡

Thoát tục: thoát vòng trần tục. Siêu phàm: Vượt lên khỏi cõi phàm.

Thoát tục siêu phàm ý chỉ chơn linh người tu hành thoát khỏi vòng trần tục và vượt lên khỏi cõi phàm mà về cõi thiêng liêng.

Chớ cái thoát tục siêu phàm đâu mong vọng tưởng, chỉ nhờ lòng từ bi của Thầy định sao chịu vậy.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THOÁT THÂN

脫 身

Thoát: Cởi bỏ, ra khỏi nơi bị vây hãm, nơi đe doạ của sự an toàn, hoặc ra khỏi tình trạng bị ràng buộc, kìm hãm. Thân: Mình, thân thể mình.

Thoát thân, đồng nghĩa với chữ “Thoát mệnh 脫 命”, là thoát khỏi tình trạng nguy hại đến tính mạng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Nếu chẳng nên nền Đạo thì cửa đoạ khó thoát thân, các con cũng nên đoái đến quyền Chí Tôn của Thầy hữu dụng mà nâng đỡ nó, đặng Thầy có phương binh vực che chở các con.

Nay anh phú quý vinh hoa,

Lợi danh trói buộc khó mà thoát thân.

(Thơ Hộ Pháp).

Thoát thân cho khỏi đoạ tam đồ,

Cánh cửa nhà Tiên mặc sức xô.

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

THOÁT TRẦN

脫 塵

Thoát: Cởi bỏ, ra khỏi nơi bị vây hãm, nơi đe doạ của sự an toàn, hoặc ra khỏi tình trạng bị ràng buộc, kìm hãm. Trần: Cõi trần, cõi thế gian.

Thoát trần là chỉ sự chết, tức nói linh hồn thoát ra khỏi cõi trần.

Như: Người tu hành khi thoát trần một cách êm ái nhẹ nhàng.

Phú hữu thiên gia bất thoát trần,

Vinh thê ấm tử độ cô thân.

(Đạo Sử).

Thoát trần roi dấu tiếng anh phong,

Sớm tối riêng vui cảnh bá tòng.

(Bài Thài Thiên Thần).

 

 

THOÁT TRẦN ĐĂNG TIÊN

脫 塵 登 仙

Thoát trần: chết, tức nói linh hồn thoát ra khỏi cõi trần. Đăng Tiên: Lên cõi Tiên.

Thoát trần đăng Tiên là linh hồn thoát ra khỏi cõi trần đi lên cõi Tiên, tức đắc quả thành Tiên.

Cung Trí Giác, trụ tinh thần,

Huờn hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THOÁT XÁC

脫 殻

Thoát: Cởi bỏ, ra khỏi nơi bị vây hãm, nơi đe doạ của sự an toàn, hoặc ra khỏi tình trạng bị ràng buộc, kìm hãm. Xác: Thể xác.

Thoát xác là chỉ sự chết, ý nói khi chết linh hồn đi ra khỏi thể xác để trở về với cõi thiêng liêng.

Khi dạy về tà dâm, Thánh giáo Thầy có đoạn: Khi các con thoát xác, thì nó đến tại Nghiệt Cảnh Ðài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội đặng. Phải giữ gìn Giới Cấm ấy cho lắm!

Thoát xác xưa tầng tu vạn kiếp,

Ðộ hồn nay gội khắp năm châu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THOẠT

Thoạt là mới đầu, vừa mới làm gì đó.

Thoạt còn là từ biểu thị sự nối tiếp nhanh chóng của những hoạt động trái ngược nhau, điều nầy vừa xảy ra đã tiếp ngay đến điều kia, vừa mới thế nầy, đã ngay thế khác rồi. Như: Thoạt còn thoạt mất, thoạt đến thoạt đi.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Trong buổi thống khổ nghèo nàn, tài nguyên của con cái Đức Chí Tôn gởi về để tạo dựng cái nhà hương quả chung của họ. Thoạt nghĩ chúng ta gầy dựng được đây là vì giỏi tiện tặn lắm mới còn, bằng không nuôi ăn cũng chưa đủ.

Hương còn bát ngát chốn Nam giao,

Thoạt thấy phong ba vụt thổi ào.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Mây lành thoạt nổi lên sấm sét,

Lửa binh đao đốt khét thanh bình.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

THOẠT CÒN THOẠT MẤT

Thoạt: Bắt đầu, mới vừa. Còn mất: Lúc còn lúc mất.

Thoạt còn thoạt mất là vừa mới còn đó thì đã mất rồi, ý chỉ không lâu dài, không bền vững.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ðời người qua thấm thoát, thoạt còn thoạt mất như vầng mây nổi, như giọt sương tan. Những cảnh ruột đứt châu rơi hằng diễn ra để đày đoạ vày bừa con người giữa chốn sông mê biển khổ.

Đời có chi mà phải ước mong,

Thoạt còn thoạt mất dưới vầng hồng.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÓC

Thóc là hạt lúa còn nguyên vỏ trấu.

Như: Gạo thóc, thóc để làm giống, máy xay thóc, mua thóc cho vịt ăn.

Nguyện nhớ ơn nông canh nhằn nhọc,

Nguyện ơn người lúa thóc giã xay.

(Kinh Thế Đạo).

Hột thóc chưa ai khoe biến sẵn,

Của kia xin nhớ phép Trời dành.

(Đạo Sử).

 

 

THỌC

Thọc là đâm, chọc, thò vào, đưa mạnh vào sâu bên trong một vật khác.

Như: Thọc tay vào túi quần kiếm tiền, thọc gậy xuống nước xem sâu cạn, thọc lủng đít cái hũ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy dạy Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có câu: Ðổ đường đen vào một cái hũ, thọc lủng đít, rồi định chừng cho vừa hai phần hũ đường, còn một phần hũ thì đổ bùn non cho tới miệng, đem phơi nắng chừng một tuần thì đường trở nên trắng, gạt lớp bùn đi thì con đặng một thứ đường trắng phau phau rất ngon, rất đẹp đó con.

Sống thấy chết, miệng cười mắt khóc,

Nịnh lừa trung, lưỡi thọc tay đâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THỌC THÒ

Thọc: Đâm, chọc, thò vào, đưa mạnh vào sâu bên trong một vật khác. Thò: Lòi ra, đưa ra, đút vào.

Thọc thò là từ gợi tả dáng vẻ người hay xen vào công việc của kẻ khác.

Như: Bất cứ chuyện gì nó cũng đều thọc thò vào.

Sáo sứa việc chi cũng thọc thò,

Chưa hay đặng nhỏ mới gầy to.

(Đạo Sử).

 

 

THOI

1.- Thoi là bộ phận trong máy dệt dùng để đưa sợi chỉ chạy ngang qua những sợi dọc trong khi dệt.

Thoi thường được ví với thời gian trôi qua mau. Như: Ngày tháng qua mau như thoi đưa.

Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sau mươi.

Thưa nhặt thoi đưa trời xế bóng,

Xét mình một khắc một mau chân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trăm năm lẻ như thoi nhặt thúc,

Ngảnh lại đời mà nhục thầm đời.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thoi còn là từ dùng để chỉ một thỏi nhỏ.

Như: Thoi vàng bạc nén, thoi mực Tàu nầy được mua ở Chợ Lớn, thoi sắt nặng ngàn cân.

Công thành Thiên vị thêm cao trọng,

Hơn được vàng cân nặng mấy thoi.

(Thơ Thượng Sanh).

Bốn biển như nhà quân tử chí,

Công thành danh toại đáng vàng thoi.

(Thơ Hiến Pháp).

3.- Thoi là đánh bằng cách thúc mạnh nắm đấm hoặc cùi tay vào người.

Như: Thoi cho mấy quả vào ngực, vừa đánh vừa thoi.

Làm song ngăn đón lũ gian hùng,

Mạnh yếu đánh thoi cũng gọi hùng.

(Đạo Sử).

Tà quái sau lưng đeo mắt vẻ,

Ðánh thoi bổn Ðạo cũng làm thinh.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THOI ĐƯA

Thoi: Một bộ phận trong máy dệt dùng để đưa sợi chỉ chạy ngang qua những sợi dọc. Đưa: Qua lại.

Thoi đưa ý nói tháng ngày (thời gian) qua mau lẹ như con thoi của máy dệt đưa qua lại.

Thuyết Đạo của Đức Thượng Sanh có câu: Năm Đinh Dậu hầu mãn, xuân Mậu Tuất sắp đến, ngày tháng như thoi đưa, không mấy hôm nữa chúng ta sẽ bước qua mùa xuân tươi đẹp đẽ...

Thưa nhặt thoi đưa cái bóng thiều,

Anh hùng xuất thế biết bao nhiêu.

(Thơ Hộ Pháp).

Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,

Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.

(Đạo Sử).

Ngày tháng thoi đưa xuân bất tái,

Cái xuân há dễ giữa dòng trôi.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THÓI

Thói là lề lối đã quen từ lâu. Như: Thói đời, thói nhà, thói xấu, quen thói.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Từ đây Thầy đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Đạo. Vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng theo Thánh ý của Thầy, là bậc Chí Tôn đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh chúng.

Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,

Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.

(Kinh Sám Hối).

Chuyên quyền từ đấy bỏ tuồng xưa,

Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.

(Đạo Sử).

Nỗi phận vô duyên phận chẳng đành,

Trách ai mộ thói yến cùng anh.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THÓI BỘC DÂU

Thói: Lối, cách sống không tốt, được lập lại lâu ngày đã thành quen. Bộc: Sông Bộc. Dâu: Cây dâu tằm ăn.

Thói bộc dâu, do chữ “Tang gian Bộc thượng 桑 間 濮 上”, là trên bộc trong dâu.

Thói bộc dâu ý nói thói dâm loàn của trai gái nước Trịnh thời Xuân Thu bên bờ sông Bộc, hay nơi ruộng dâu.

Xem: Thói nước Trịnh.

Tình si hai chị đổi bao sầu,

Trở trách anh chừa thói bọc dâu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THÓI BƯỚM ONG

Thói: Lối, cách sống không tốt, được lập lại lâu ngày đã thành quen. Bướm ong: Con bướm và con ong, chỉ sự hoa nguyệt.

Thói bướm ong là chỉ thói trăng hoa, vì loài bướm ong thích hút mật nhuỵ của bông hoa.

Bướm ong gặp hoa liền đáp vào để hút mật, ví như trai gái thấy nhau thì hò hẹn đùa bỡn.

Xem: Bướm ong.

Sao không sửa tánh lo tu niệm,

Mãi cứ học đòi thói bướm ong.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THÓI ĐỜI

Thói: Lề lối đã quen từ lâu ngày. Đời: Cuộc đời, chỉ thế gian.

Thói đời là cách ăn ở, cư xử không được tốt đẹp thường thấy ở nhiều người.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Ðạo một ngày một nên, bước đường của các con một ngày một thêm trở gay khó nhọc, nhưng nếu các con chẳng dụng quyền hơn dụng đức, biết thương sanh chúng hơn thân mình, vì Ðạo hơn vì danh vọng theo thói đời, thì các con thế nào cũng được vững con đường mà đi cho cùng bước Ðạo.

Dời đổi thói đời lắm thị phi,

Trăm năm chung đỉnh có ra gì!

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÓI YẾN ANH

Thói: Lối, cách sống không tốt, được lập lại lâu ngày đã thành quen. Yến anh: Chim én, chim anh, là hai loại chim thường ví với việc chơi bời, trăng hoa.

Thói yến anh, cũng như chữ “Thói bướm ong”, dùng để chỉ thói trăng hoa.

Nỗi phận vô duyên phận chẳng đành,

Trách ai mộ thói yến cùng anh.

(Đạo Sử).

 

 

THÓI MẠT

Thói: Lối, cách sống không tốt, được lập lại lâu ngày đã thành quen. Mạt: Ý nói thời mạt pháp.

Thói mạt là thói hung tàn bạo ngược, thói hư tật xấu của thời mạt pháp.

Theo Phật, giáo pháp của Đức Phật Thích Ca đã trải qua ba thời kỳ: Chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp.

Mạt pháp là thời kỳ cuối cùng của Phật giáo, trong đó giáo pháp bị sửa đổi sai lạc, thất chân truyền, khiến cho người tu bị lầm lạc, vì vậy, luân thường đạo lý trong xã hội băng hoại.

Lòng người thói mạt quá hung tàn,

Chẳng kể nhơn tình giữa thế gian.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THÓI TỆ

Thói: Lối, cách sống không tốt, được lập lại lâu ngày đã thành quen. Tệ: Hư, xấu.

Thói tệ, bởi chữ “Tệ tục 敝 俗”, có nghĩa là phong tục xấu, tức là những lề thói trong xã hội xấu xa hư hỏng.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức thanh Sơn Đạo Sĩ có câu: Thuyền gần bến để độ khách trần lúc tai nguy, còn cơ thoát khổ gần ngày để cho khách trần một bài kinh nghiệm. Đạo mầu huyền bí cao sâu là phương cứu khổ. Còn nhứt là thói tệ của đời, là mong chiếm cái hư vị để hãm mình vào nơi tội lỗi.

Ôi! thói tệ, hỡi ôi thói tệ,

Mình là người há nỡ dể khi người.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÓI TỤC

Thói: Lề lối đã quen từ lâu ngày. Tục: Lề thói đã lâu đời, tầm thường.

Thói tục là lề thói và tục lệ, tức những lề lối hay đã quen từ lâu đời.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dạy: Phật, Thánh Thần chẳng đòi, không biểu lễ cúng chi cả. Các con vì lòng tín ngưỡng, chẳng biết chi, tạm dùng lễ để cung kính, rốt lại để khoe mình và để chiều theo thói tục.

Rộng đức tánh quyền hành ắt rộng,

Ðừng quen thói tục mượn oai hùm.

(Đạo Sử).

Giành phần mình đặng chẳng thương người,

Thói tục thường tình khéo dể ngươi.

(Đạo Sử).

 

 

THÓI THƯỜNG

Thói: Lề lối đã quen từ lâu ngày. Thường: Bình thường, không có gì khác lạ.

Thói thương là lề lối thường đã được mọi người nhìn nhận, tức điều thường thấy, thường có ở nhiều người, không có gì phải ngạc nhiên, hoặc chê trách.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy: Nền Ðạo lập nên là nhờ có lòng đạo đức và tánh khiêm cung của mỗi môn đệ của Ðức Từ Bi. Nếu đạp vào nẻo Ðạo mà còn bôn chôn tranh lướt theo thói thường tình thì dầu có bao nhiêu đạo hữu, bao nhiêu công quả đi nữa, mối Ðạo chẳng qua là một trường ngôn luận của thế gian đó thôi, chớ công quả đạo đức mong chi thấy sự kết quả xứng đáng đặng.

Theo thói thường ở đời thì giàu sang vinh hiển, cửa rộng nhà cao, ai cũng ham, nhưng nếu chẳng noi theo Ðạo mà được thì người quân tử không màng.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THON VON

1.- Thon von chỉ cheo leo, gian nguy, hiểm trở.

Như: Núi đá chất chồng thon von, bơ vơ đất khách thon von thế nầy.

Ðội mão khỉ ngồi non hớn hở,

Lìa rừng cọp ngóng biển thon von.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

2.- Thon von còn dùng để chỉ sự suy vi, lẻ loi, hay héo hắt, quạnh quẽ.

Như: Thân hình mẹ gầy yếu thon von.

Âm Dương cách bóng sớm trưa,

Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.

(Kinh Thế Đạo).

Ác lặn hiên Đoài già nhắc nhỏm,

Nguyệt trầm non Thái trẻ thon von.

(Thất Nương Giáng Bút).

Dầu cháo rau cũng nhịn miệng nuôi con,

Đẻ một trẻ lại thon von thêm phận mẹ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỎN MỎN

Thỏn mỏn là qua dần, chỉ thời gian trôi qua.

Thỏn mỏn còn có nghĩa là mòn dần để chỉ hiện tượng hao hụt, sa sút dần sức lực.

Thánh giáo Đức Ngũ Nương Diêu Trì trong Thánh Ngôn Sưu Tập có đoạn: Nhưng do nơi tạo tội lỗi mãi chuộc tội, thỏn mỏn ngày lụn tháng qua, cả chư Phật, Thánh, Tiên, cũng hết phương lo cứu chữa.

Rồi kịp đến văn minh dồn dập, thì nơi trần thế lại tạo thêm nhiều tội lỗi nữa, có xởi được là bao mà hòng yên ngôi xưa vị cũ.

Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,

Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Một ngày thỏn mỏn một ngày qua,

Tiên Phật nơi mình phải ở xa?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THONG DONG

Hay “Thung dung”.

Thong dong, như chữ “Thung dung 從 容”, là dùng để chỉ sự thong thả, nhàn hạ, không có gì vội vàng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Thầy mong rằng, mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình ấy thì lấy làm may mắn cho nền Ðạo, rồi các con sẽ đặng thong dong mà treo gương cho kẻ khác.

Xem: Thung dung.

Thong dong cõi thọ nương hồn,

Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

(Kinh Thế Đạo).

Thương thân chồng chẳng đặng thong dong,

Nuôi con vợ đủ dùng tay chẳng nghỉ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THONG DUNG

Thong dung (dong), do chữ “Thung dung 從 容”, đọc trại ra, có nghĩa là dáng điệu nhàn nhã, thư thái, không vội vàng, không phải lo nghĩ vất vả.

Như: Từng bước đi thong dung.

Xem: Thung dung.

Biết bớt cơn chung chiếu chung mùng,

Cứ giữ tánh thong dung chê nữ sắc.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THONG THẢ

Thong thả là không bận bịu, ít việc làm. Thong thả còn có nghĩa là không vội vàng. Như: Thong thả đi từng bước, khi nào thong thả tôi đến nhà anh chơi.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo còn nhớ, khi Bần Đạo bị lưu đày đi trên chiếc tàu Combattant đi đến Đảo Ile de la Réunion cả thảy trên tàu người ta đều được thong thả đi lại, còn Bần Đạo bữa đó bị nhốt dưới tàu.

Người lương thiện ra vào thong thả,

Kẻ tội nhiều đày đoạ rất minh.

(Kinh Sám Hối).

Cái bả vinh huê đời rối rắm,

Nguồn đào thong thả đã là đâu?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Khổ thế đeo đai chờ dứt nợ,

Cánh hồng thong thả dạo non cao.

(Thơ Thanh Thuỷ).

 

 

THÕNG

Thõng là để buông thẳng xuống một cách tự nhiên, không tựa vào đâu.

Như: Ngồi bỏ thõng chân xuống, tóc buông thõng sau lưng, những quả bưởi thõng xuống.

Vô tư thõng bước chân thừa,

Phẳng phiu tuyết trắng càng ưa càng nhìn.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THÔ

Thô là to, cục kịch, trái với thanh, tức có hình dáng bề ngoài không đẹp, không gọn, nhìn không thích mắt. Như: Dáng người thô, bàn tay thô, vải thô.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Bần Đạo dám chắc; thử chúng ta để dấu hỏi nếu như có một người mỹ nhân như thế và một người thô nhơn như thế. Ta để câu hỏi có một vị tình lang đang chọn lựa như vậy. Bần Đạo dám chắc sự chọn lựa ấy không cần nói cả thảy các con cái Đức Chí Tôn đã để trong cái trí và trong mình rồi. “Hữu nhan sắc hữu ác đức” lời cổ nhơn đã để lại quả không sai đó vậy.

Giữa cơn náo loạn trỗi cầm,

Lấy hơi hoà nhã dẹp lần bỉ thô.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Chẳng hiểu mùi ngon vật lạ,

Mãn đời ăn chạ mặc thô.

(Phương Tu Đại Đạo).

Nghèo dầu lễ cưới nhau sơ sịa,

Miếng trầu thô chung rượu lạt cũng nên tình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÔ BỈ

粗 鄙

Thô: To, cục kịch, trái với thanh. Bỉ: Quê mùa hủ lậu.

Thô bỉ là thô lỗ và bỉ ổi, chỉ loại người quê mùa, cục kịch đáng khinh khi.

Như: Luận điệu thô bỉ, tính tình thô bỉ.

Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Thành thật với người là tránh xa vọng ngữ, xảo trá, tham lam dua mị, là những tánh xấu xa, thô bỉ thường làm cho đức tánh con người phải tối tăm mà che lấp lẽ công minh.

Nếu không trọn vẹn, nó lưu lại kiểu vở thô bỉ nhơ nhớp, thì không thế gì làm thầy thiên hạ đặng.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÔ KỆCH

Thô: To, cục mịch, có hình dáng không gọn gàng, thiếu tế nhị, không thanh nhã. Kệch (kịch): Thô, nhìn không thích mắt.

Thô kệch là không thanh, không nhã, có hình dáng không được gọn gàng, lời nói vụng về, cử chỉ thô lậu, nhìn không thích mắt.

Như: Dáng người thô kệch, ăn nói thô kệch.

Công làm vật dụng đừng thô kệch,

Ngôn thốt lời ra chớ cộc cằn.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THÔ KỊCH

Hay “Thô kệch”.

Thô: To, cục mịch, có hình dáng không gọn gàng, thiếu tế nhị, không thanh nhã. Kịch (kệch): Thô, nhìn không thích mắt.

Thô kịch, như chữ “Thô kệch”, là có hình dáng không thanh, không nhã, không gọn gàng, không được sắc sảo, nhìn không thích mắt.

Như: Chị có bàn chân to, lớn trông thô kịch, chiếc xe nầy trông thô kịch quá.

Xem: Thô kịch.

Nên chẳng quản lời thô tiếng kịch,

Cầu đàn bà con nít đọc cho nhiều.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÔ SƠ

粗 疏

Thô: To, cục mịch, có hình dáng không gọn gàng, thiếu tế nhị, không thanh nhã. Sơ: Qua loa, thưa.

Thô sơ là đơn giản, sơ sài, hay chưa được nâng cao về mặt kỹ thuật, hay mỹ thuật.

Như: Phương tiện thô sơ, nhà còn thô sơ.

Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÔ TỤC

粗 俗

Thô: Không được tinh tế, quê kệch. Tục: Tục tằn, không nhã nhặn.

Thô tục là thô bỉ, tục tằn, tức không trang nhã, thiếu lịch sự, thiếu tế nhị đến mức tục tằn. Như: Nó dùng lời thô tục chưởi rủa.

Trong Tân Luật, Điều Ngũ Bất Vọng Ngữ có câu: là cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác; xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách; ăn nói lỗ mãng, thô tục, chửi rủa người; huỷ báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa.

Ngày hôm nay, phong hoá quốc gia xã hội ta không còn nguyên hình tướng nữa, đã thay đổi ra thô tục gớm ghiếc quá chừng.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THỐ LỘ

Hay “Thổ lộ”.

Thố: Do chữ “Thổ” đọc trại ra, có nghĩa là ói, mửa, nói năng. Lộ: Bày ra ngoài.

Thố lộ, như chữ “Thổ lộ 吐 露”, là nói ra với người khác biết những điều thầm kín trong tâm tư của mình.

Do thói quen người ta thường nói là “Thố lộ”.

Thánh giáo Thái Thượng Đạo Tổ dạy: Chí Tôn sở cậy Bần Đạo thố lộ chút ít điều mật yếu để dìu bước chư đạo hữu trong buổi loạn lạc trong nền Ðạo buổi nầy.

Thầy phải ép lòng chịu tư vị với các con mà thố lộ chút ít.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỐ TỬ HỒ BI

兔 死 狐 悲

Thố tử: Thỏ chết. Hồ bi: Chồn cáo buồn.

Thố tử hồ bi là thỏ chết chồn xót thương, ý nói vật biết thương đồng loại.

Trong Tống Sử có câu: Hồ tử thố khấp, Lý thị diệt, Hạ thị năng độc tồn 狐 死 兔 泣, 李 氏 滅, 夏 氏 能 獨 存?, nghĩa là chồn chết thỏ khóc, họ Lý bị tiêu diệt, họ Hạ có thể một mình tồn tại được không?

Thố tử hồ bi thơ sớt thảm,

Tạ tình tri kỷ gượng nương vần.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

THỔ

1.- Thổ là đất, dùng để trồng trọt, cất nhà ở. Như: Lãnh thổ, điền thổ, cương thổ.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thái Thơ Thanh có câu: Suối Vàng thì đặng, phương chở chuyên không thuận tiện, song phong thổ tốt đẹp, con cũng yêu cầu Hội Thánh xét nét, nghe à! Thầy ban ơn cho các con.

Tiền nhân bố đức khai cơ nghiệp,

Hậu đại nhớ ơn dựng thổ cương.

(Thơ Huệ Giác).

Một trăm trứng nở gây nòi giống,

Mười tám đời truyền mở thổ cương.

(Thơ Chơn Tâm).

2.- Thổ là đất, là một âm trong bát âm.

Trong âm nhạc xưa, người ta chia ra làm tám thứ âm thanh tùy theo loại nhạc cụ:

 

1.- Bào: Tiếng sênh.

 

2.- Thổ: Tiếng trống đất.

 

3.- Cách: Tiếng trống da.

 

4.- Mộc: Tiếng mõ gỗ.

 

5.- Thạch: Tiếng khánh đá.

 

6.- Kim: Tiếng chuông đồng.

 

7.- Ty: Tiếng dây đàn.

 

8.- Trúc: Tiếng ống sáo tre.

Như vậy thổ là tiếng trống đất.

Chớ phân tiếng Thổ tiếng Bào,

Thạch Kim với Mộc hoà vào mới vui.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

3.- Thổ là ói ra, nhả ra.

Như: Thổ ra huyết, bị bịnh thổ tả, thổ lộ những điều bí ẩn trong lòng.

Ngoài ra toàn vạn vật đều có tình hữu ái đối với ta “Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tàm thổ tư, phong nhưỡng mật”.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THỔ ĐỊA LONG THẦN

土 地 龍 神

Thổ địa: Chỉ các vị Thần cai quản đất đai. Long thần: Chỉ các vị Thần cai quản vùng biển.

Thổ địa Long thần là các vị Thần cai quản đất đai và các vị Thần gìn giữ vùng biển.

Trong Đạo Cao Đài, bài Kệ Chuông U Minh, lời nguyện thứ 17 có câu: Thổ địa Long thần an tăng hộ pháp 土 地 龍 神 安 僧 護 法, nghĩa là các vị Thần cai quản đất đai và thần giữ gìn vùng biển giúp an cho kẻ tu hành và hộ trì đạo pháp.

Thổ địa Long thần an tăng hộ pháp.

(Kệ U Minh).

 

 

THỔ VÕ

Hay “Thổ vũ”.

Thổ: Đất. (vũ): Đất đai. Võ còn là toà nhà, như chữ Miếu võ.

Thổ võ, như chữ “Thổ vũ 土 宇” là đất đai của một nước. Thổ võ còn dùng để chỉ toà nhà thờ thần đất.

Phòng tía cất thành hình thổ võ,

Cung loan lập giống dạng Cao Ðài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Danh vọng ru hồn quên thổ võ,

Thẹn nòi bộc lại mộ đai cân.

(Đạo Sử).

 

 

THÔI

1.- Thôi là dừng lại, nghỉ. Như: Nó thôi làm việc đã lâu, hai bên thôi đánh nhau.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Nếu kẻ nào biết hiểu Thánh Ngôn của Thầy nơi miệng các con mà tỉnh ngộ thì số hằng sống nó vốn còn, còn chẳng thì thôi, để cho chúng nó theo tà quái.

Thân còn nương giữa phong trần,

Khổ kia còn đếm mấy lần mới thôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Biết thốn thiếu thôi đừng gây nên nợ,

Phận yếu hèn mong đỡ nâng ai.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thôi là tiếng dùng để chỉ chừng ấy chứ không thêm nữa, chỉ có thế.

Như: Chỉ năm đồng thôi, chơi một lát thôi, có bấy nhiêu lời mà thôi.

Thánh giáo Thầy có câu: Tuỳ theo phong hoá của nhơn loại mà gầy Chánh giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.

Ðinh ninh Thầy dặn trẻ đôi lời,

Mình biết Ðạo mình giữ đó thôi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Thôi là tiếng trợ ngữ dùng ở đầu câu, để tỏ ý là đủ rồi, chán rồi, hết rồi, không có gì mà mong nữa.

Như: Thôi, không nói nữa, thôi còn chi nữa mà mong, thôi thì liều mạng cho xong.

Thôi chẳng tranh chi mồi phú quý,

Quý là đạo đức đó ai ôi!

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thôi đành kiếp nớt non gượng sống,

Sống vì con chẳng sống vì thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÔI NÔI

Thôi: Dừng lại, hết, nghỉ. Nôi: Cái chỏng dùng cho trẻ con nằm để đưa, để ru.

Thôi nôi, còn nói “Tôi nôi”, hay “Tôi tôi”, là dùng để chỉ kỷ niệm một năm ngày sinh ra, hay ngày tròn một tuổi của đứa bé.

Như: Ngày mai có khách đến dự cuộc thôi nôi của đứa cháu ngoại.

Đừng thấy lẫn rầy la mà phụ,

Phải nhớ hồi còn bú tới thôi nôi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÔI THÚC

摧 束

Thôi: Thúc giục. Thúc: Giục liên tiếp.

Thôi thúc, là thúc đẩy, giục giã, tức thúc giục một cách liên hồi. Như: Làm nhanh đi kẻo họ đến thôi thúc đó.

Thánh giáo Thầy có câu: Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào ngũ tạng lục phủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng, mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng.

Ngày giờ thôi thúc mà các con còn dụ dự giữa chừng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỐI

退

Thối, cũng đọc là “Thoái”, có nghĩa lùi lại, thụt lại.

Như: Thối bộ, thối bước trở lại, bây giờ gặp cảnh tấn thối lưỡng nan.

Chức sắc trong Hội Thánh không tính sổ chung niên để biết lộc vị tấn hay thối,...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THỐI BỘ

Thối (thoái): Thụt, lùi lại. Bộ: Bước.

Thối bộ, như chữ “Thoái bộ 退 步” là thụt lùi, lùi bước lại, không tiến tới nữa.

Thoái bộ còn có nghĩa là thụt lại, không tiến lên được nữa, trở thành ngày một kém đi, trái với tiến bộ.

Như: Mấy mươi năm cầm quyền mà nền kinh tế đất nước vẫn bị thối bộ.

Trí giả năng tri tu thối bộ,

Trì nghi hậu hối tán kim đơn.

(Quan Thánh Giáng Bút).

 

 

THỐI BƯỚC

Thối (thoái): Lùi lại, thụt lại. Bước: Dời chân, đi.

Thối bước, còn đọc “Thoái bước”, là lui bước, tức không tiến tới mà trở ngược lại phía sau, hướng về nơi xuất phát. Như: Dừng chân thối bước.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Kẻ hữu đức buồn lòng thối bước, đứa chơn thành không vui nắm tay theo. Ma hồn quỷ xác loán vào, kẻ đức thiếu níu đứa không nhân, thành ra nhân kém đức suy, cứ thẳng một đường tà dung ruổi.

Môn đệ nhiều đứa lòng vẫn nhẹ tợ lông, thấy sự chi khó thì đã muốn bần dùn thối bước.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỐI BƯỚC LUI CHƠN

Thối bước: Thụt lùi bước. Lui chơn: Trở lui chơn.

Thối bước lui chơn là không muốn tiến lên nữa, nghĩa bóng là muốn rút lui.

Như: Chơi với nó thành kẻ hung bạo thà thối bước lui chơn cho rồi.

Thà Lão thối bước lui chơn hơn thấy Thánh thể của Người phải ra ô trược.

(Bát Đạo Nghị Định).

 

 

THỐI CHÍ

退 志

Thối (thoái): Lùi lại. Chí: Ý chí.

Thối chí là mất hết ý chí, không còn muốn theo đuổi việc đang làm vì gặp khó khăn, trở ngại.

Như: Thối chí ngã lòng, gặp nhiều thất bại khiến cho tinh thần thối chí.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðạo là quý, của quý chẳng bán nài, các con đừng thối chí.

Xem: Thối chí ngã lòng.

Chẳng vẹn nghiệp nhà đừng thối chí,

Ðợi thời noi chước Lạn Tương Như.

(Đạo Sử).

Chớ có lửng lơ mà thối chí,

Rồi sau đừng nói thất Chơn truyền.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

 

 

THỐI CHÍ NGÃ LÒNG

Thối chí: Mất hết ý chí. Ngã lòng: Không cò giữ được ý chí, quyết tâm.

Thối chí ngã lòng, đồng nghĩa với chữ “Thối chí nãn lòng”, là mất hết ý chí, quyết tâm, không còn muốn theo đuổi việc đang làm vì gặp phải khó khăn, trở ngại.

Đừng thối chí ngã lòng trở gót,

Để cho đời chua xót tình thương.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THỐI LUI

Thối (thoái): Lùi lại, thụt lại. Lui: Không tiến tới mà di chuyển ngược trở lại phía sau.

Thối lui là thụt lùi lại, không tiến lên nữa mà quay ngược trở lại.

Như: Phía trước nguy hiểm phải thối lui thôi.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy cũng có phép răn trị kẻ vạy tà, các con duy có trông cậy nơi Thầy, bước đường cứ thủng thẳng đi lần tới, đừng gấp quá, mà cũng chớ thối lui, thì một ngày kia sẽ đặng toại kỳ sở nguyện.

Nhưng về mặt xử thế, Ðức Lão Tử cũng có cái chí vị tha, chung thân phụng sự cho Ðời cho đến lúc công thành sự toại rồi mới thối lui.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THỐI NHẬP

退 入

Thối (thoái): Lùi lại, thụt lại. Nhập: Vào.

Thối nhập là lui bước vào.

Như: Cả ngày làm việc tiền dinh, giờ thối nhập hậu đường an nghỉ.

Âu là chỉnh đai cân thối nhập hậu thoàn,

Trình ca trưởng đôi lời trần tố.

(Tuồng Hát Chèo Thuyền).

 

 

THỐI TÂM

退 心

Thối (thoái): Lùi lại. Tâm: Lòng, dạ.

Thối tâm, hay “Thoái tâm”, là ngã lòng. Như: Đường đi gian nguy vất vả là mọi người thối tâm nãn chí.

Nói về Đức Quan Âm Bồ Tát, Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Đức Quan Âm chơn linh của Ngài là thời gian cho nên tánh đức của Ngài không bao giờ thối tâm ngã lòng hay bật rật, gấp rút, lật đật. Bà là người điềm tỉnh, bởi thế cho nên Bà đầu kiếp người ta vu oan đủ mọi điều, nhưng tánh đức từ hoà nhẫn nại của Bà vẫn chịu nổi đủ phương diện khổ não và oan khúc, chịu nổi thế tình ấy là một vị Trạng Sư đắc lực và oai quyền nơi cảnh thiêng liêng hằng sống bảo vệ cả nữ phái vậy.

Phổ Tế là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm.

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

THỐI TRẦM

退 沈

Thối (thoái): Lùi lại. Trầm: Chìm xuống.

Thối trầm, hay “Thoái trầm”, là lùi lại và chìm lỉm xuống. Như: Mấy năm nay làm ăn thua lỗ, công ty không phát triển được, trái lại muốn thối trầm.

Khi Chí Tôn đem Dương quang ấm áp mà làm cho hoá sanh, thì cái khoảnh Âm quang phải thối trầm làm tinh đẩu, là cơ quan sanh hoá vạn linh.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỔI

1.- Thổi là làm cho luồng hơi từ miệng bật mạnh ra hoặc nhạc khí phát thành tiếng bằng cách phì hơi vào.

Như: Lớn nhanh như thổi, trọng tài trận đấu đã thổi còi, thổi kèn thúc quân, thổi tiêu, sáo, thổi bễ lò rèn.

Hễ đuổi dê thì cậy con roi,

Muốn rượt thịt thổi còi khiển chó.

(Phương Tu Đại Đạo).

Chồng có tài theo phía thợ rèn,

Vợ phải tập cho quen thổi bễ.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thổi là nói không khí chuyển động thành luồng, gây ra một tác động.

Như: Gió thổi thành luồng, bão thổi mạnh, cuồng phong thổi gãy trụ đèn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo của Bát Nương có câu: Xin quý anh quý chị ráng nắm gốc cây cho chắc, kẻo gió lớn thổi bay đa!

Thổi thẳng cánh buồm thì Lão thủ,

Nâng an lòng bản cậy Thần, Tiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nửa cánh gươm phơi gan tuấn kiệt,

Chậm chơn đợi gió thổi vân đài.

(Đạo Sử).

Đờn nhắn khách năm cung nhặt trỗi,

Vẹt mây đen gió thổi chiều hôm.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

THÔN

Thôn là khu vực dân cư ở nông thôn, gồm nhiều xóm và là một phần của làng hoặc xã.

Như: Người dân trong thôn rất thật thà, chất phác, đất đai trong thôn thường bị ngập lụt.

thôn nhắm hướng ngóng trời Tây,

Mới biết đời nay mới thiệt ngày.

(Đạo Sử).

 

 

THÔN DÃ

村 野

Thôn: Làng xóm. Dã: Quê, đồng nội.

Thôn dã tức là cảnh ở đồng quê, có làng xóm, cây cối, đồng ruộng.

Như: Người ở thôn dã không quen sống nơi thành thị.

Đau nhìn thôn dã thương ai đó,

Nghèo đói thân không áo ngự hàn.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THÔN LÂN

村 鄰

Thôn: Làng quê. Lân: Xóm.

Thôn lân là làng xóm. Trái với thành thị, thôn lân là làng xóm ở thôn quê.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thần Hoàng Bổn Cảnh giáng cơ có câu: Chào chư Thiên phong, chào cả thảy các đạo hữu và các đẳng chúng sanh nam nữ trong thôn lân.

Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,

Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.

(Kinh Sám Hối).

Gội nhuần đức trước rạng thôn lân,

Ðạo Thánh dìu chơn bước khởi lần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÔN LÝ

村 里

Thôn: Làng quê. Lý: Như chữ hương là xóm làng.

Thôn lý, cũng như “Thôn hương 村 鄉”, chỉ xóm làng, tức chỉ khối dân cư ở nông thôn với đời sống riêng.

Như: Từ thành thị đến thôn lý, mọi người dân đều được no ấm.

Ân hồng đã rải cùng thôn lý,

Bóng phước phủ che khắp ruộng đồng.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THÔN QUÊ

Thôn: Khu vực dân cư ở nông thôn, gồm nhiều xóm. Quê: Nông thôn, nơi có đồng ruộng, làng mạc.

Thôn quê là chỉ làng xóm ở nông thôn. Thí dụ: Từ thành thị cho đến thôn quê.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngọn lửa chiến tranh thảm khốc đã bao trùm khắp đất nước, đã lan tràn từ thành thị đến thôn quê gây nên cảnh chết chóc tang thương, nhà tan nghiệp nát.

Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,

thôn quê lam lụ làm ăn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THỐN THIẾU

Thiếu: Không đủ, thiếu hụt.

Thốn thiếu, như chữ “Thiếu thốn”, là không đủ tiền bạc, phương tiện hay thực phẩm cho cuộc sống, chỉ hoàn cảnh túng thiếu.

Như: Lúc nầy mua bán ế ẩm nên gia đình gặp cảnh thốn thiếu tiền bạc.

Xem: Thiếu thốn.

Lớp lương tháng chẳng tròn, nỗi vợ con ương yếu,

Rủi phải cơn thốn thiếu, chịu người níu kẻ đòi.

(Ngụ Đời).

Phải noi gương cha giữ lái giữ lèo,

Phương tiện tặn làm theo đâu thốn thiếu.

(Phương Tu Đại Đạo).

Biết thốn thiếu thôi đừng gây nên nợ,

Phận yếu hèn mong đỡ nâng ai.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỔN THỨC

1.- Thổn thức là ở trạng thái có những tình cảm làm xao xuyến, bứt rứt khó yên. Như: Thổn thức trong lòng.

Nguyễn Du trong Truyện Kiều có viết: Nàng càng thổn thức gan vàng, Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!

Thương ai thổn thức canh tràng,

Dở phòng phòng vắng, vén màn màn côi.

(Thất Nương Giáng Bút).

Sầu quảy nặng từng giờ thổn thức,

Muộn ôm đầy sáu khắc suy tư.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

2.- Thổn thức còn có nghĩa là khóc ấm ức, tức khóc thành những tiếng ngắt quãng như cố nén mà không được do quá đau đớn, xúc động.

Như: Cố nén những tiếng thổn thức.

Mẹ già thổn thức nào an dạ,

Đổ lụy vì đâu vắng ẵm bồng.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THÔNG

1.- Thông là nối liền với nhau một mạch, không bị cản trở, ngăn cách.

Như: Đường đi thông từ nam chí bắc, làm xong chiếc cầu tuyến đường sẽ thông.

Có hiệp đem đường nẻo mới thông,

Phân chia cội Ðạo uổng vun trồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thông là thông thoáng, chạy suốt được, không bị tắc nghẽn.

Như: Thông thoáng, thông Thiên định Địa, thông gió.

Để gió vô khoản khoát cho thông,

Mặt trời rọi cho cùng khắp chốn.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thông , như chữ “Thông hiểu”, là hiểu rõ và chấp thuận, không còn gì thắc mắc hay băn khoăn.

Thánh giáo Thầy có câu: Mỗi Giáo Hữu ít nữa phải thông cội rễ nền Ðạo, chúng nó phải năng tìm biết Thánh Ngôn của Thầy đã dạy, và thay phiên nhau mà nói đạo cho chư thiện nam tín nữ hiểu.

Nay con chưa đủ thông đường Ðạo,

Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lựa những mặt tài tình thọ giáo,

Học cho thông mối đạo quân thần.

(Nữ Trung Tùng Phận).

4.- Thông là sáng, tai nghe sáng suốt. Như: Thông minh, thông tuệ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðấng Chí Tôn đã cho ra đời nhà thông minh xuất chúng đó hầu sáng tạo cho đất nước Việt Nam một nền chánh giáo để nâng cao tinh thần của giòng giống Lạc Hồng ngang hàng với các nước trên mặt địa cầu về phương diện tín ngưỡng.

Thông biết thế thời mới gọi thông,

Thông minh học Ðạo vẹn trau lòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÔNG CẢM

通 感

Thông: Hai bên hoà hợp nhau. Cảm: Động lòng, xúc động tình cảm.

Thông cảm là hiểu thấu khó khăn riêng và chia sẻ tâm tư, tình cảm cho nhau. Như: Người cùng cảnh ngộ thường thông cảm với nhau.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chúng tôi ước mong toàn thể Chức sắc, Chức việc thông cảm nỗi ưu tư ấy, để tâm giúp đỡ lẫn nhau, hầu đem chiếc thuyền từ đến chỗ thuận nẻo êm dòng, đưa con cái của Ðại Từ Phụ cho đến tận bên bờ giác.

Tiếp đặng giai chương đọc mấy vần,

Động niềm thông cảm chạnh bâng khuâng.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÔNG CÔNG

通 公

Thông: Khắp các nơi. Công: Chung.

1.- Thông công là quan hệ làm việc thông đồng qua lại lẫn nhau.

Như: Các cơ quan hành chánh trong Đạo đều được thông công với nhau.

Chánh Phối Sư đặng trọn quyền thông công cùng chánh phủ và nhơn sanh...

(Bát Đạo Nghị Định).

2.- Trong đạo Cao Đài, Thông công còn là tiếng dùng để chỉ sự liên lạc về cơ bút của Hiệp Thiên Đài với các Đấng Thiêng liêng để nhận Thánh giáo.

Chú Giải Pháp Chánh Truyền có câu: Lại nữa, Hiệp Thiên Đài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam thập lục Thiên, Tam Thiên thế giái, Lục thập thất địa cầu. Thập điện Diêm cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại.

Trên đường sứ mạng bằng nay,

Thông công khắp cả bảy hai Địa Cầu.

(Lược Thuật Toà Thánh).

Đưa lối Trời người chung hội hiệp,

Bắc cầu Tiên tục đặng thông công.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THÔNG ĐỒNG

通 同

Thông: Nối liền với nhau từ nơi nọ đến nơi kia. Đồng: Cùng nhau.

1.- Thông đồng là thông với nhau, hoặc thông ý với nhau làm chung một việc gì.

Đức Thượng Sanh cũng dạy: Theo Kinh Cảm Ứng, con người thở ra thở vô, hơi thở đều có thông đồng với khí hư vô của Trời, cho nên niệm tưởng vừa phát động tuy người phàm không hay chớ Trời đã rõ thấu.

Tâm tánh đặng hiệp hoà Trời, Ðất,

thông đồng muôn vật thế gian.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

2.- Thông đồng còn là đồng ý với nhau mà làm việc trái phép, hoặc thoả thuận ngầm với nhau để làm những việc sái quấy.

Như: Thông đồng với người ngoài hiếp đáp anh em.

Cấm Hiến Pháp không đặng thông đồng cùng Hiến Đạo và Hiến Thế.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THÔNG GIA

通 家

Thông: Qua lại với nhau. Gia: Nhà.

Thông gia là sui gia, tức hai gia đình có con cái kết hôn với nhau, trong quan hệ với nhau.

Như: Làm thông gia với người khác họ, hai nhà có mối quan hệ là thông gia nhau.

Già kết thông gia lòng nặng nghĩa,

Trẻ thành giai ngẫu mặt tươi màu.

(Thơ Thành Toại).

 

 

THÔNG HIỂU

通 曉

Thông: Hiểu thấu. Hiểu: Biết thấu rõ.

Thông hiểu là hiểu thấu đáo, hiểu cặn kẽ. Như: Tài xế phải thông hiểu luật giao thông.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nếu thấy mình chưa được sáng tỏ, tức là sự học Ðạo còn nhiều thiếu sót, phải gắng công trau dồi thêm nữa, khoản nào chưa thông hiểu tột lý thì cứ việc trình hỏi cho rõ ràng, vì sự hiểu biết mập mờ chỉ có hại chớ không có ích lợi.

Trong cả chư đạo hữu, Lão cho hiền hữu biết rằng Nữ phái phần nhiều chưa thông hiểu về Ðạo cho lắm.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÔNG MINH

聰 明

Thông: Sáng suốt, sáng tai. Minh: Sáng.

Thông minh là sáng suốt, tức là người có khả năng hiểu biết nhanh. Như: Thằng bé thông minh.

Thánh giáo Thầy có dạy: Các con phải hiểu rằng: Thầy là huyền diệu thế nào! Cách dạy, Thầy buộc tuỳ thông minh của mỗi đứa mà dạy. Dầu cho thầy phàm tục cũng phải vậy, nếu đứa dở mà dạy cao kỳ, nó biết đâu mà hiểu đặng.

Cầu khẩn Đấng Chơn Linh nhập thể,

Đủ thông minh học lễ học văn.

(Kinh Thế Đạo).

Chi bẳng một bầu đầy nhựt nguyệt,

Thông minh miệng thế mặc dò đon.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trí cao thượng nhiễm từ trong bụng,

Con đẻ ra chắc đúng bực thông minh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÔNG NGÔN

通 言

Thông: Hai bên hoà hợp nhau, truyền đạt. Ngôn: Lời nói, tiếng nói.

Thông ngôn là người đứng giữa để làm môi giới cho hai người có ngôn ngữ khác nhau nói chuyện cùng nhau.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Sưu Tập dạy Ngài Lê Văn Trung có câu: Con kêu hai người thông ngôn Thổ vào, để một đứa trước chùa, một đứa trong Điện. Thầy nói thì nó nói lại nghe.

Già rủi bị hai tai đều điếc,

Dâu cứ gần giữ việc thông ngôn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỐNG NGỰ VẠN VẬT

統 御 萬 物

Thống ngự: Cai trị, cai quản cả toàn thể. Vạn vật: Muôn vật, tức là mọi sinh vật trong vũ trụ.

Thống ngự vạn vật là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế cai quản và điều hành sự tiến hoá của vạn vật.

Chính nhờ sự cai trị và điều hành của Thượng Đế theo một quy luật mà Càn khôn Vũ trụ mới an tịnh, muôn loài vạn vật mới yên ổn.

Theo Xuân Thu Phồn Lộ, Đổng Trọng Thư cho biết cuộc tuần huờn của Trời đất, tuy rằng rộng lớn vô cùng, nhưng không bao giờ trái với quy luật gọi là thường hằng, ông nói: “Thiên chi Đạo, hữu tự nhi thời, hữu độ nhi tiết, biến nhi hữu thường 天 之 道, 有 敘 而 時, 有 度 而 節, 變 而 有 常, nghĩa là Đạo Trời có thứ tự mà đúng thời, có chừng mực mà đúng tiết, biến mà vẫn theo quy luật thường.

Hoá dục quần sanh,

Thống ngự vạn vật.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THÔNG SUỐT

Thông: Làm cho đi suốt từ nơi nầy đến nơi kia, hiểu thấu. Suốt: Thấu, khắp cả, trong suốt.

Thông suốt là thông từ đầu đến cuối, không bị gián đoạn, hoặc hiểu rõ và tán thành hoàn toàn, không còn điều gì băn khoăn, thắc mắc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Có điều mình chẳng học, nhưng đã học mà chẳng thành công thì không thối, có điều mình chẳng hỏi, nhưng hỏi mà không thông suốt thì không bao giờ chịu, có điều mình chẳng suy nghĩ, nhưng suy nghĩ mà không vỡ lẽ thì suy nghĩ mãi.

Nếu chẳng biết tôn chỉ của Đạo cho thông suốt, lại truyền bá cho nhơn sanh những tư tưởng nghịch cùng chơn lý của Đạo là hại Đạo.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THÔNG SỰ

通 事

Thông sự là phẩm Chức việc do Đức Hộ Pháp lập ra để coi về luật pháp trong một Ấp đạo.

Pháp Chánh Truyền gọi Thông sự là Hộ Pháp Em, vì Thông sự là người nắm quyền luật pháp trong một Âp đạo, cũng giống như Hộ Pháp thì nắm quyền luật pháp của cả nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Nhiệm vụ của Thông sự và Hộ Pháp giống nhau, nắm về luật pháp, nhưng phạm vi quyền hạn lớn nhỏ khác nhau. Trong một hương đạo có nhiều vị Thông sự, tuỳ theo Ấp đạo, tức là mỗi Ấp đạo có một Thông sự nắm quyền về luật pháp.

Các Thông Sự hiệp cùng Chánh Trị Sự và các Phó Trị Sự của một Hương đạo được gọi chung là Bàn Trị Sự Hương đạo.

Thông Sự là Chức Sắc của Lý Giáo Tông khuyên Hộ Pháp lập thành.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THÔNG THÁI

通 太

Thông: Thông suốt, hiểu thấu. Thái: Rất, lắm.

Thông thái là có kiến thức rộng và sâu, tức bác học.

Nhà thông thái là nhà bác học.

Trong quyển Thiên Đạo của Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu có câu: Các tín đồ Thông thiên học (Théosophie), các tín đồ Thần linh học (Spiritisme), các nhà tu kín (Trappistes) và những nhà thông thái Âu Tây chuyên chú về đạo đức tinh thần, cũng ăn rau trái mà được khương kiện và sống lâu.

Linh hồn được mở mang thông thái,

Kinh nghiệm đời quấy phải phân minh.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Thưởng tên Xoài đáng mặt học trò,

Học thông thái dám so người lớn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÔNG THIÊN ĐỊNH ĐỊA

通 天 定 地

Thông Thiên: Thông suốt trên Trời. Định địa: Liệu tính dưới đất.

Thông Thiên định địa là thông suốt việc cõi Trời, liệu định việc ở đất, tức là thông hiểu và định đoạt được các việc trong Trời đất.

Đắc văn sách thông Thiên định Địa,

Phép huyền công trụ nghĩa hoá thân.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THÔNG THIÊN GIÁO CHỦ

通 天 教 主

Thông: Thông suốt, hiểu thấu. Thiên: Trời. Giáo chủ: Làm chủ một tôn giáo.

Thông Thiên Giáo Chủ là Giáo Chủ phái Triệt Giáo, ở Bích Du Cung, một trong ba vị học trò của Đức Hồng Quân Lão Tổ, hoá thân của Thượng Đế.

Theo truyện Phong Thần, Hồng Quân Lão Tổ có ba vị học trò: Lão Tử, Nguơn Thỉ là Giáo chủ Xiển giáo, còn Thông Thiên Giáo Chủ là Giáo Chủ Triệt giáo.

Học trò của phái Triệt Giáo là những người tu hành thường kém hạnh đức, lại hay xuống thế phò Trụ Vương, tham dự vào việc hồng trần, nên không đắc được hàng Tiên vị mà phải thành Thần.

Ðạo Tiên Nguơn Thỉ chưa ra đời thì có Hồng Quân Lão Tổ, Lão Tử, Thông Thiên Giáo chủ truyền đạo.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÔNG THUỘC

Thông: Suốt, hiểu biết mọi việc. Thuộc: Nhớ kỹ rõ ràng và thạo mọi việc.

Thông thuộc là biết tường tận và nhớ rõ mọi việc.

Như: Nó thông thuộc hết mọi đường ngang ngõ tắt, Ở đây tôi chưa thông thuộc mọi tình hình.

Khi già yếu cần lo thang thuốc,

Trong gia đình thông thuộc liệu giùm phương.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÔNG THƯƠNG

通 商

Thông: Đi suốt qua, hai bên hoà hợp nhau. Thương: Buôn bán, làm ăn.

Thông thương là nước nầy buôn bán với nước kia.

Thông thương còn có nghĩa là thông suốt từ vùng nầy tới vùng kia, không bị ngăn cách.

Như: Quan hệ thông thương giữa hai nước, bắc cây cầu là sự đi lại giữa hai làng đã thông thương.

Có thần nuôi nấng thần càng mạnh,

Luyện khí thông thương khí mới tường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THÔNG TRI

通 知

Thông: Suốt qua, truyền đạt đi. Tri: Biết.

Thông tri là truyền bảo cho cấp dưới biết, thông thạo hiểu biết, hoặc bản thông báo cho mọi người biết.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trước buổi Ðức Thích Ca gần quy liễu, Ananda và A Nan Ca Diếp đến bên Ngài khóc lóc hỏi Ngài rằng: Thầy quy vị rồi ai dạy chúng con, Ðức Thích Ca nói: Có một Ðấng đến sau ta, oai quyền hơn ta nữa. Ðức Phật Thích Ca đã nói một vị Tây Phương Giáo Chủ Jésus Christ đó vậy. Ấy là một đàn anh đã thông tri cho nhơn loại biết người em kế vị của mình sắp đến, Ngài có nói trước còn oai quyền hơn ta nữa, thì thật quả vậy.

Thi hài như gỗ biết gì,

Linh hồn là chủ thông tri việc đời.

(Kinh Sám Hối).

Thông tri thời thế xét soi mình,

Biết tội mà chừa phải trọng khinh.

(Đạo Sử).

 

 

THÔNG TRUYỀN

通 傳

Thông: Suốt qua, truyền đạt đi. Truyền: Trao lại, đưa đi xa. Như: Truyền ngôi, truyền tin, truyền khẩu.

Thông truyền là truyền suốt khắp mọi nơi.

Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Đức Quyền Giáo Tông “Giải nghĩa về đức Chí thành” có câu: Ðứng vào hàng Tín Ðồ cần phải kính tuân chư Chức Sắc Thiên Phong, vì chư Thiên Phong là người đã thọ lãnh nơi Thượng Ðế một cái Thiên chức đặc biệt để thông truyền Chánh Giáo.

Ngày nay Đệ tử khẩn nguyền,

Chín tầng Trời, Đất thông truyền chứng tri.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Thơ văn sưu tập ân tiền bối,

Kinh điển thông truyền thuyết đại bi.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THỐNG ĐỐC

統 督

Thống: Mối, tóm lại một mối. Đốc: Cai quản, coi sóc.

Thống Đốc là người đứng đầu một ngân hàng.

Thống Đốc còn là viên chức người Pháp đứng đầu bộ máy cai trị ở Nam Kỳ thời thực dân Pháp.

Quan Thống Đốc uất hơi hậm hực,

Mời Hộ Pháp chọc tức tại dinh.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THỐNG HIỆP

Hay “Thống hợp”.

Thống: Quản lý cả mọi việc, hợp cả lại. Hiệp (hợp): Họp, hội lại.

Thống hiệp, như chữ “Thống hợp 統 合”, là hiệp tất cả lại thành một mối.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Có một điều làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn hết là từ thử đến giờ nhơn sanh đã hiểu quyền năng vô đối của quyền lực thương yêu nhưng họ chưa hiểu biết thống nhứt cả khối thương yêu ấy đặng làm phương cứu thế độ đời, hay là làm phương châm tạo hạnh phúc cho kiếp sanh của họ trái ngược lại họ chỉ thống hiệp tinh thần thù hận, oán ghét làm cho mặt địa cầu nầy biết mấy phen đẩm máu, nhơn loại tương tàn tương sát với nhau là vì họ bội tín của họ, biết thù hận hơn là thống hiệp thương yêu.

Phục hồi xã tắc xinh dòng Lạc,

Thống hiệp uy linh đẹp giống Hồng.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

THỐNG KHỔ

痛 苦

Thống: Đau đớn. Khổ: Cực khổ, vất vả.

Thống khổ là đau đớn, khổ sở về tinh thần, vật chất đến cực độ. Như: Nỗi thống khổ của người dân mất nước.

Trong Đạo Sử Xây Bàn, Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Vua là kẻ chăn dân, vậy bổn phận ấy là phải lập trên những hành tàng để cứu giúp cho dân khỏi điều thống khổ.

Hoàn đồ sắp đến bến tang thương,

Thống khổ nhơn sanh khó độ lường.

(Tôn Sơn Chơn Nhơn).

Ví biết giống nòi đang thống khổ,

Trở đương cho vẹn phận làm trai.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

THỐNG NGỰ VẠN VẬT

統 御 萬 物

Thống ngự: Cai trị, cai quản cả toàn thể. Vạn vật: Muôn vật, tức là mọi sinh vật trong vũ trụ.

Thống ngự vạn vật là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế cai quản và điều hành sự tiến hoá của vạn vật.

Chính nhờ sự cai trị và điều hành của Thượng Đế theo một quy luật mà Càn khôn Vũ trụ mới an tịnh, muôn loài vạn vật mới yên ổn.

Theo Xuân Thu Phồn Lộ, Đổng Trọng Thư cho biết cuộc tuần huờn của Trời đất, tuy rằng rộng lớn vô cùng, nhưng không bao giờ trái với quy luật gọi là thường hằng, ông nói: Thiên chi Đạo, hữu tự nhi thời, hữu độ nhi tiết, biến nhi hữu thường 天 之 道, 有 敘 而 時, 有 度 而 節, 變 而 有 常 nghĩa là đạo Trời có thứ tự mà đúng thời, có chừng mực mà đúng tiết, biến mà vẫn theo quy luật thường”.

Hoá dục quần sanh,

Thống ngự vạn vật.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THỐNG NHỨT

Hay “Thống nhất”.

Thống: Hợp cả lại. Nhứt (nhất): Một.

Thống nhứt, như chữ “Thống nhất 統 一”, là hợp cả các mối lại làm một, làm cho phù hợp nhau, không mâu thuẫn nhau. Như: Nước nhà đã thồng nhứt.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ngày nào tiếng trống giác mê, hồi chuông cảnh tỉnh có đủ mãnh lực dìu dắt bước đường của phần đông theo bước đường đạo đức; ngày nào trên con đường thống nhứt giang sơn, quốc dân Nam những kẻ có trách nhậm lớn nhỏ trong xã hội thấy lợi nghĩ đến nghĩa, thấy nguy nghĩ đến dân, tận tuỵ vì bổn phận, bỏ hẳn nhơn cách đáng khinh, theo Thiên-lương sáng suốt, đồng một lòng làm cho cạn nguồn đau khổ của giống nòi, trụ lại một quốc hồn mạnh mẽ, thì ngày ấy chủ nghĩa dân chủ mới rạng soi, hạnh phúc quốc dân mới mong mỏi!

Trường công đã vững tuyển hiền tài,

Thống nhứt quyền hành ở một tay.

(Lục Nương Giáng Bút).

Kề vai hai nước mựa hồ nghi,

Thống nhứt ngày nay đã đến kỳ.

(Bát Nương Giáng Bút).

Cũng như tài thường lại ố tài,

Tài hay dở một tay thà thống nhứt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỐNG QUẢN

統 管

Thống: Hợp cả lại. Quản: Coi sóc công việc.

Thống quản là quản lý toàn thể.

Trong đạo Cao Đài chức Thống Quản Phước Thiện là một vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài chi Đạo nắm giữ, cả Cơ Quan Phước Thiện thuộc nam nữ phái.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ðó là nhờ nơi thiện chí của Chức Sắc Ban Cai Quản, nhờ nơi sự hưởng ứng của toàn thể Chức Sắc Phước Thiện Trung ương cũng như ở Ðịa Phương và cũng nhờ nơi sự tham gia trực tiếp của Hội Thánh H.T.Ð. vào công việc của Phước Thiện, đó là ba vị Thời Quân sẵn lòng đảm đương phận sự Thống Quản các cơ cấu trong Ban Cai Quản Trung ương nên mọi việc được sắp đặt hoàn bị, có mực thước, có chuẩn thằng, các việc được tiến hành trong vòng trật tự và cứ theo đà tiến triển ấy, chúng ta hy vọng Cơ Quan Phước Thiện sẽ đi đến một tương lai tốt đẹp hơn.

Hộ Đàn kiêm luôn Thánh Vệ và Bảo Thể vì hai cơ quan nầy chịu dưới quyền thống quản của Hộ Đàn.

(Thánh Giáo Hộ Pháp).

 

 

THỐNG THIẾT

痛 切

Thống: Đau đớn trong người. Thiết: Khắc vào.

Thống thiết là đau khổ lắm, hoặc tỏ nỗi đau xót và gợi lòng thương. Như: Lời lẽ thống thiết.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Cái khổ tâm hồn của loài người nó thống thiết nặng nề, nguy hiểm nhiệt liệt hơn cái khổ xác thịt muôn phần.

Chia ly thống thiết nơi trần khổ,

Quy vị an vui chốn Niết Bàn.

(Thơ Hiến Pháp).

Não nùng thay toàn đạo thở than,

Thống thiết bấy tín đồ tang chế.

(Điếu Văn Đầu Sư).

 

 

THỐNG TRỊ

統 治

Thống: Quản lý cả mọi việc. Trị: Cai trị.

Thống trị là hành sử chủ quyền của quốc gia mà cai trị toàn thể nhân dân.

Thống trị còn có nghĩa là dùng sức mạnh mà cai trị. Như: Thực dân Pháp thống trị nước Việt Nam.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tâm ở nơi con người cũng như một vị quốc sư ở cạnh một đấng cầm quyền thống trị thiên hạ.

Đòn này cảnh cáo người Mông Cổ,

Thống trị Á Âu mộng bất thành.

(Thơ Thành Toại).

 

 

THỐNG TRUYỀN

統 傳

Thống: Tóm lại một mối. Truyền: trao đi, đưa đi.

Thống truyền là tóm thâu làm một mối để truyền bá đi khắp mọi nơi.

Đôi liễn bên Minh Sư có câu: Cao như Bắc Khuyết nhân chiêm ngưỡng, Đài tại Nam phương Đạo thống truyền 高 如 北 闕 人 瞻 仰, 臺 在 南 方 道 統 傳, nghĩa là Cao như Huỳnh Kim Khuyết ở hướng Bắc, nhân sanh đều chiêm ngưỡng, Đài cao tại phương Nam là mối Đạo lớn thống quản tất cả và truyền khắc nơi.

Vun bồi cội ái, Đời hưng thịnh,

Xây đắp nền nhân, Đạo thống truyền.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

THỐT

Thốt là nói, hoặc bật ra thành tiếng, thành lời một cách tự nhiên, thình lình. Như: Thưa thốt, thề thốt.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Muốn thực hành phép lập ngôn, chúng ta phải làm chủ khẩu khí, phải suy nghĩ kỹ trước khi thốt lời thì lời nói mới đoan trang, có mực thước.

Công làm vật dụng đừng thô kệch,

Ngôn thốt lời ra chớ cộc cằn.

(Bát Nương Giáng Bút).

Buổi bé thơ dầu buổi vui cười,

Đừng quen miệng thốt lời tục tĩu.

(Phương Tu Đại Đạo).

Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,

Vàng rơi riêng chạnh khách chương đài.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

THƠ

1.- Thơ là non, nhỏ. Như: Trẻ thơ, bé thơ, ấu thơ, dạy con từ thuở còn thơ.

Huấn từ Đức Thượng Sanh trong buổi Lễ Bãi Trường Đạo Đức Học Đường có câu: Tôi tin rằng Ban Giám Ðốc và Giáo viên có thể nung đúc trí não của trẻ thơ theo đường lối đạo đức, thế nào cho chúng được hấp thụ một nề nếp lễ giáo thuần tuý xứng đáng là những học sinh khuôn mẫu được đào tạo nơi một học đường của Hội Thánh.

Thấy xuân đến vẻ hồng khắp chốn,

Nương con thơ sống rốn cùng xuân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thơ, do chữ “Thi 詩” nói trại ra, là một thể văn có vần. Như: Thơ phú, thơ Đường, thơ lục bát, làm thơ.

Tuy xa cách mặt lòng không cách,

Buồn dở thơ hoà đọc lại ngâm.

(Lục Nương Giáng Bút).

Khi hứng trăng thơ khi gió sách,

Ðèn khuya nay luống một mình thôi.

(Thất Nương Giáng Bút).

3.- Thơ, một âm khác của chữ “Thư 書”, là sách. Như: Đồ thơ, Thiên thơ, xa thơ.

Thánh giáo Thầy có câu: Mỗi đứa con đều có tên trong Thiên thơ cả, chức phận cũng đã tiền định, chớ chẳng phải tước hàm trần thế dâng cho kẻ lễ nhiều.

Còn gánh đồ thơ tua vẹn giữ,

Dứt dây oan trái chớ riêng thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cầm mối Thiên thơ lo cứu chúng,

Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðường mây sẵn lối gặp may duyên,

Nâng gánh xa thơ sửa mối giềng.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

4.- Thơ, như chữ “Thư 書”, là giấy tờ của người ta viết riêng cho nhau.

Như: Viết thơ gửi cho cha mẹ ở Mỹ, thơ báo tin chưa nhận được mà nó đã đến rồi.

Lâm Hương Thanh hiền muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm nầy, Thầy đến phong chức lập thành Nữ phái, nghe à!

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THƠ BÉ

Thơ: Còn nhỏ tuổi, còn bé dại. Bé: Còn nhỏ, rất ít tuổi, non trẻ.

Thơ bé, như chữ “Thơ ấu”, là rất ít tuổi, còn bé dại, chưa hiểu biết về chuyện đời.

Như: Tuổi còn thơ bé, những ngày còn thơ bé.

Thương hồi thơ bé tuổi tên,

Thương cơn khôn lớn giữ bền nghĩa nhau.

(Kinh Thế Đạo).

Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,

Rán theo cha học lễ học văn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THƠ CẢO

Hay “Thư cảo”.

Thơ (thư): Sách. Cảo: Bản thảo, tức là những bài viết chưa in thành sách.

Thơ cảo, như chữ “Thư cảo 書 稿”, là những tác phẩm đã được viết rồi nhưng chưa cho in, vẫn còn là bản thảo.

Nét bút làng văn tiếng mãi còn,

Dở dang thơ cảo đậm màu son.

(Thơ Tùng Chơn).

 

 

THƠ CƯU

Hay “Thư cưu”.

Thơ cưu, như chữ “Thư cưu 雎 鳩”, là tên một loài chim nước thường bắt cá để ăn, tương truyền biết phân biệt nghĩa vợ chồng.

Do câu trong Kinh Thi chép: Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu 關 關 雎 鳩, 在 河 之 洲, nghĩa là quan quan kìa tiếng thư cưu, Bên cồn hót hoạ cùng nhau vang vầy, ý chỉ vợ chồng hoà đôi.

Trước mai chẳng hiệp nghĩa thơ cưu,

Mấy kiếp vì chưa trả hết thù.

(Đạo Sử).

 

 

THƠ CHIM

Hay “Thư chim”.

Thơ (thư): Giấy tờ của người ta viết gửi riêng cho nhau. Chim: Loài có lông và có cánh bay.

Thơ chim tức là viết thư rồi buộc vào chân chim cho mang đi, chỉ thư từ tin tức.

Do tích: Dương Nhuận Chi có người vợ tên là Tuý Tiêu, đẹp tuyệt trần, bị quan Trụ Quốc thấy được, bèn sai quân bắt về làm thiếp. Nhuận Chi không dám thưa kiện vì sợ thế lực của quan Trụ Quốc, đành ôm mối hận lòng. Mỗi khi Dương Nhuận Chi nhớ nàng Tuý Tiêu chỉ còn biết viết thơ qua lại nhờ chim én mang đi.

Đừng đề thi lá thơ chim,

Cầu hôn để phụng đến tìm cung loan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THƠ ĐÀN

Hay “Thư đàn”.

Thơ (thư): Sách vở. Đàn: Đờn, tiếng gọi chung các đồ nhạc khí có dây để đánh, để gảy.

Thơ đàn, như chữ “Thư cầm 書 琴”, là chỉ sách và đàn để nói việc đọc sách và gảy đàn của các thư sinh hoặc các văn nhân ngày xưa.

Xem: Thư cầm.

Bờ dương chừ đặng phong trần rảnh,

Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương.

(Đạo Sử).

Sẵn gánh thơ đàn say thú cũ,

Thêm mùi lê hoác dưỡng thân tàn.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

THƠ ĐÀO

Thơ: Còn nhỏ tuổi, còn bé dại. Đào: Hoa đào.

Thơ đào tức là đào tơ mơn mởn, chỉ người con gái đẹp đến tuổi lấy chồng.

Do trong Kinh Thi, bài “Đào yêu” thuộc thơ Quốc Phong, có câu: Đào chi yêu yêu, 桃 之 夭 夭, nghĩa là đào tơ mơn mởn xinh tươi.

Xem: Đào yêu.

Vẹo trăm nết hạnh kiếp thơ đào,

Ðừng để thường tình chịu sóng xao.

(Đạo Sử).

 

 

THƠ HƯƠNG

Hay “Thư hương”.

Thơ (thư): Sách vở. Hương: Ở đây, chỉ khói hương truyền từ đời này qua đời khác, chỉ tiếng thơm.

Thơ hương, như chữ “Thư hương 書 香”, dùng để chỉ nhà dòng dõi có học hay nhà Nho.

Như: Nối dòng thơ hương.

Trong Văn Tế tiểu sử Đức Cao Thượng Phẩm của chức sắc Hiệp Thiên Đài có câu: Nhà phiệt duyệt lưu truyền nơi thế thượng, tỉnh Tây Ninh lớn nhỏ thảy đều thương, Trí thông minh còn roi dấu thơ hương, miền Bến Nghé trẻ già nào chẳng rõ.

Xem: Thư hương.

Châu lưu tứ hải ngũ hồ,

Thơ hương đắc vận cậy nhờ dân sinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Sự nghiệp văn chương là cẩm tú,

Công trình học vấn vốn thơ hương.

(Thơ Thân Dân).

 

 

THƠ NGÂY

Thơ: Còn nhỏ tuổi, còn thơ dại. Ngây: Ngây ngô, dại dột, chưa biết gì.

Thơ ngây, như chữ “Ngây thơ”, là không hiểu biết hoặc rất ít hiểu biết về đời, do còn non trẻ, ít kinh nghiệm.

Như: Cô ấy tuổi đã lớn rồi mà coi có vẻ thơ ngây.

Đừng phiền cách trị gia cao thấp,

Nhớ thơ ngây cha tập đến trường.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THƠ PHÚ

Hay “Thi phú”.

Thơ (thi): Hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ để thể hiện nội dung một cách hàm xúc. Phú: Mô tả, hay một thể văn.

Thơ phú, như chữ “Thi phú”, có nghĩa thơ ca và từ phú, hai thể loại trong văn chương.

Thơ phú còn dùng để tiêu biểu cho các loại văn vần. Như: Văn chương thơ phú.

Xem: Thi phú.

Bàn luận sử kinh từng thoả thích,

Xướng hoà thơ phú mặc vui say.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

THƠ SANH

Hay “Thơ sinh”.

Thơ: Hồi còn nhỏ, bé dại. Sanh (sinh): Học trò.

Thơ sanh, như chữ “Thư sanh 書 生”, là đứa trẻ còn nhỏ tuổi, hay chỉ người đi học.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Vì cớ cho nên quyền lực Thiêng Liêng buộc họ phải quên cái tánh đức cái trí thức kia đi, nên khi đầu kiếp làm một đứa bé thơ sanh, phải học, phải tìm, phải hiểu, tới chừng tìm hiểu được là nhờ cái ấy nó mở khiếu ta, ta mới định cái nguyên căn của ta được.

Khiêm cung từ thuở tuổi thơ sanh,

Thương mẹ hiếu cha lắm nhọc nhằn.

(Đạo Sử).

Bước thơ sanh đã gần cõi Thánh,

Vén gai chông đặng lánh bụi hồng.

(Xuân Hương Giáng Bút).

 

 

THƠ SONG

Hay “Thư song”.

Thơ (thư): Sách vở. Song: Cửa sổ.

Thơ song, như chữ “Thư song 書 窗”, là cửa sổ nơi phòng đọc sách. Thư song còn dùng để chỉ phòng sách.

Xem: Thư song.

Mượn bực cung thương mở nỗi lòng,

Dạo đàn khuây khoả dựa thơ song.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

THƠ TÍN

Hay “Thư tín”.

Thơ (thư): Giấy tờ của người ta viết gửi riêng cho nhau. Tín: Tin tức.

Thơ tín, như chữ “Thư tín 書 信”, là thông báo tin tức bằng thư từ gửi cho nhau.

Như: Thơ tín vãng lai, bặt thơ tín hơn một năm rồi.

Cấm không đặng thơ tín vãng lai với người ngoài, trừ ra thân nhân, song phải có người Tịnh chủ xem xét trước.

(Tân Luật).

 

 

THƠ THẨN

Thơ thẩn là mơ màng, có vẻ nghĩ ngợi. Như: Nằm thơ thẩn, ngồi thơ thẩn.

Thơ thẩn còn có nghĩa lặng lẽ và như có điều gì suy nghĩ vẩn vơ, lan man. Như: Thơ thẩn dạo chơi một mình.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngài (Chỉ Đức Lý Giáo Tông) biểu Bần Đạo phải nghe lời Ngài thì mới cứu vãn tình thế, bằng không thì tiêu diệt nền chánh trị Đạo buổi đó, có mạnh mẽ duy nhứt nào cả, bên nầy là lời giáo huấn của Đức Chí Tôn, bên kia là lời dạy của Anh Cả, hai bên không biết đường nào mà đi, làm cho Bần Đạo ngơ ngẩn trong 6 tháng trường, cứ thơ thẩn đi tới đi lui nơi rừng thiên nhiên mà suy nghĩ, làm cho Bần Đạo bối rối cả đầu óc.

Đèn khuya tim lụn còn thao thức,

Thơ thẩn trăng tà đã xế tây.

(Thơ Tòng Bá).

 

 

THƠ THỚI

Thơ thới, như chữ “Thư thái 舒 泰”, là ở trạng thái cảm thấy nhẹ nhàng, dễ chịu, không có điều gì phải suy nghĩ, căng thẳng. Như: Trong lòng thơ thới.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðức Cao Thượng Phẩm có giáng cơ dạy rằng: “Phải giữ thân thể khỏi sa ngã vào sự ràng buộc nào phải cực trí lao thần. Tâm được trong sạch thanh cao, Thần được nhẹ nhàng thơ thới, người hành đạo mới thành hữu dụng cho Ðạo Ðời.

Bửu toà thơ thới trổ thêm hoa,

Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bóng trải diềm dà xuân đợi chúa,

Tiết nồng thơ thới hạ khoe sen.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thơ thới cành hôm hoa đọng ngọc,

Im lìm giạu tối cỏ đeo châu.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THƠ TRANG

Hay “Thư trang”.

Thơ (thư): Sách, vở. Trang: Nhà chứa hàng, sách vở.

Thư trang, như chữ “Thư trang 書 莊”, là nơi chứa sách vở tài liệu và dành để đọc sách.

Thơ trang đồng nghĩa với “thư phòng”.

Thơ trang đưa rước khách tài ba,

Nên nghiệp bởi con biết chữ hoà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THƠ TRUYỆN

Hay “Thư truyện”.

Thơ (thư): Sách vở. Truyện: Sách giải thích kinh nghĩa do các nhà triết học cổ viết.

Thơ truyện, như chữ “Thư truyện 書 傳”, là sách và truyện. Như: Không đọc những thơ truyện huê tình.

Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn, Phối Sư Thái Đến Thanh có câu: Cho nên bậc nào cũng lo tu hành là điều cần nhứt, có câu: Tự Thiên Tử chí ư thứ dân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn. Nghĩa là: từ ngôi Thiên Tử xuống tới hàng thứ dân, chỉ dùng sự tu thân mà làm căn bản. Xem trong thơ truyện các bậc Ðế Vương cũng xuất thân lo việc tu hành.

Các thơ truyện huê tình xé huỷ,

Kẻo để đời làm lụy luân thường.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THƠ VIỆN

Hay “Thư viện”.

Thơ (thư): Sách. Viện: Toà nhà.

Thơ viện, như chữ “Thư viện 書 院”, là toà nhà lưu trữ các loại sách, dành cho người có thẻ vào đó mượn đọc hoặc nghiên cứu, học hỏi.

Như: Mỗi quốc gia đều có nhiều thơ viện.

Từ hồi ở nơi Thơ Viện nhà Châu bị đuổi, lên xe trâu mà về Côn Lôn sơn, đi thì có một manh áo, một con trâu ra khỏi dinh nhà Châu.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THỜ

1.- Thờ là tỏ lòng tôn kính bằng lễ nghi, đền đài để thờ các Đấng Thiêng liêng, hoặc thờ Tổ tiên.

Thánh giáo Thầy có câu dạy: Khắp trong nhân loại trên mặt địa cầu nầy, phần đông vì kính thờ Tà quái, mà Tà quái vốn chứa sự chết, thì tức nhiên chúng nó ở trong vòng sự chết là phải tiêu diệt, thì bao giờ biết đặng sự hằng sống là gì.

Đồ dơ giặt đổ rạch sông,

Đương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.

(Kinh Sám Hối).

Trung thành một dạ thờ Cao Sắc,

Sống có Ta, thác cũng có Ta.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đừng chê tánh già hay thờ lạy,

Bởi nuôi con khấn vái biết bao phen.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thờ là tôn kính và coi là thiêng liêng.

Như: Thờ vua, thờ thân, lấy lòng chung thuỷ để thờ chồng, thờ cha kính mẹ.

Ở sao đáng phận đạo dâu,

Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

(Kinh Sám Hối).

Nhơn nghĩa gắng gìn dạ sắt son,

Thờ cha kính mẹ hiếu lo tròn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Làm anh lớn dạy em nhỏ dại,

Đạo thờ thân phải trái dắt dìu nhau.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thờ còn có nghĩa là tôn kính thái quá những thứ có thể làm con người bị chìm đắm hoặc sa ngã.

Như: Thờ sắc đẹp, thờ danh lợi, thờ tiền tài.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trên đường đời đầy dẫy những chông gai hiểm trở trong lúc thiên hạ đua nhau tôn thờ tiền tài danh vọng để mặc tâm hồn dật dờ trong vòng tối tăm tội lỗi.

Hễ muốn lợi danh mang thất đức,

Thờ chung danh lợi hết gần Trời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THỜ CHA KÍNH MẸ

Thờ kính: Chăm sóc, nuôi dưỡng một cách tôn kính. Cha mẹ: Song thân, hai đấng sinh ra mình.

Thờ cha kính mẹ là thờ kính cha mẹ, tức chăm sóc nuôi dưỡng một cách tôn kính khi cha mẹ còn sống.

Thờ cha kính mẹ còn có nghĩa là thờ phụng và cúng kinh khi cha mẹ đã chết rồi.

Nhơn nghĩa gắng gìn dạ sắt son,

Thờ cha kính mẹ hiếu lo tròn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THỜ CHỒNG

Thờ: Thờ phượng và tôn kính. Chồng: Người đàn ông đã kết hôn trong quan hệ với vợ.

Thờ chồng là thờ phượng ông chồng, khi ông ấy mất.

Thờ chồng còn có nghĩa là chăm sóc nuôi dưỡng một cách tôn kính ông chồng.

Trong chế độ cổ xưa, Đạo thờ chồng đã được người đời khen tặng và triều đình ban cho tinh biểu, tức là ban biển khen cho những người trung, hiếu, tiết liệt để tỏ lòng kính mến mà làm gương cho mọi người đời sau.

Trong Thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp có kể lại lời nói của một người đàn bà Chàm như sau: Tôi chỉ biết thờ chồng tôi, chứ không biết thờ ai hết. Từ thử đến giờ tôi thương có một mình Ổng, tôi biết có một mình ổng mà thôi.

Ở sao đáng phận đạo dâu,

Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

(Kinh Sám Hối).

Út eo nhưng hiểu giữ bền lòng,

Trinh liệt thờ chồng đã gắng công.

(Đạo Sử).

 

 

THỜ MẤT NHƯ CÒN

Thờ mất: Thờ phượng ngưới đã mất. Như còn: Dường như còn sống.

Thờ mất như còn, bởi câu “Sự vong như sự tồn 事 亡 如 事 存” tức là thờ người chết như người còn sống đó.

Do câu nói của Đức Khổng Tử: Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn 事 死 如 事 生, 事 亡 如 事 存, nghĩa là thờ người chết như khi còn sống, thờ người mất cũng như lúc người còn.

Ghi ơn lãnh đạo thời phô trĩ,

Thờ mất như còn, tưởng niệm sâu.

(Thơ Huệ Ngàn).

Đạo mầu đạt lý, đời là tạm,

Thờ mất như còn đáp hiếu ân.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THỜ PHƯỢNG

Thờ: Tỏ lòng tôn kính bằng lễ nghi, bằng đền đài. Phượng (phụng): Hiến dâng, hầu hạ.

Thờ phượng, như chữ “Thờ phụng” là lo lắng, chăm sóc một cách tôn kính, như thờ phụng cha mẹ già Thờ phượng (phụng) còn dùng để chỉ sự thờ cúng các Đấng Trời Phật, hoặc Tổ tiên ông bà.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy dạy Ngài Quyền Giáo Tông có câu: Trung! Con phải lên nhà G. bây giờ mà xem sóc, sắp đặt sự thờ phượng theo bây giờ cho tới ngày tác thành Tân Luật.

Cầu ai mở đặng khiếu thông minh,

Thờ phượng Thầy khuyên trẻ hết tình.

(Đạo Sử).

 

 

THỜ PHỤNG

Thờ: Tỏ lòng tôn kính bằng lễ nghi, bằng đền đài. Phụng (phượng): Hiến dâng, hầu hạ.

Thờ phụng, hay “Thờ phượng”, là lo lắng, chăm sóc một cách tôn kính, Như: Thờ phụng cha mẹ già.

Thờ phụng là dùng để chỉ sự thờ cúng các Đấng Trời Phật, hoặc Tổ tiên ông bà. Như: Thờ phụng Cửu Huyền Thất Tổ, thờ phụng Thần Hoàng Bổ Cảnh.

Xem: Thờ phượng.

Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,

Tế tông đường lo cúng lo đơm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THỜ THÂN

Thờ: Tỏ lòng tôn kính bằng lễ nghi, bằng đền đài. Thân: Chỉ cha và mẹ.

Thờ thân là thờ cha mẹ, tức lo lắng, hầu hạ cha mẹ một cách tôn kính nếu cha mẹ còn sống, hoặc thờ cúng cha mẹ khi cha mẹ đã mất.

Như: Đối với Nho giáo, đạo thờ thân là một đạo hiếu của người con thảo.

Làm anh lớn dạy em nhỏ dại,

Đạo thờ thân phải trái dắt dìu nhau.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỞ

Thở là hô hấp, hít không khí qua mũi vào phổi, rồi đưa trở ra. Như: Thở không khí trong lành, người bị thương nặng vẫn còn thở, hết thở thì chết.

Thánh giáo Thầy có câu: Cang thường điên đảo, phong hoá suy vi, những mảng ghét lẫn nhau, giành xé nhau, mối tôn giáo phân chia, đạo nước nhà chẳng đoái, chánh tà tà chánh nan phân, còn chút hơi thở ở cõi trần mà tính tình dọc ngang chưa chịu dứt, một mai hồn xuống Diêm Ðài, khổ A Tỳ bảo sao không buộc trói.

Đày đoạ chồng thở chẳng ra hơi,

Buộc chồng sợ vâng lời nhắc nhắc.

(Phương Tu Đại Đạo).

Ngoài đồng không đặng thở tốt hơn,

Mơi thì hứng mặt trời cho khoẻ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỞ THAN

Thở: Nói ra những điều không hay. Than: Thốt ra những lời thương cảm cho nỗi đau, bất hạnh của mình.

Thở than, như chữ “Than thở”, là kêu than, hoặc thổ lộ nỗi buồn rầu, đau khổ của mình. Như: Ngồi thở than cho số mệnh bạc bẽo.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Không vì công lớn mà tỏ vẻ tự đắc, lập thế chuyên quyền làm điều trái đạo cho kẻ ăn oán nuốt hờn, người thở than đau khổ, biết lo chung cho sanh chúng, không cần tiếng bợ lời khen, tự khép mình vào khuôn viên đạo đức, treo tấm gương thanh bạch quyết thực hành tôn chỉ vì Ðạo cứu đời.

Cao sâu đã hiểu cuộc trần hoàn,

Có nợ trả rồi chớ thở than.

(Đạo Sử).

Thân vua còn phải lánh ngai vàng,

Huống khách phàm trần lại thở than.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

THỢ MỘC

Thợ: Người lao động chân tay làm một nghề nào đó để lấy tiền công. Mộc: Cây, gỗ.

Thợ mộc là thợ đóng đồ gỗ hoặc làm các bộ phận bằng gỗ trong công trình xây dựng, hay chế tạo.

Nói về việc xây dựng Toà Thánh, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nhờ những bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con, thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách khổ cực hơn mười năm trường mới dày công đào tạo nên.

Nghề thợ mộc tuy coi rằng dễ,

Đồ không hay cũng tệ món hàng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỢ RÈN

Thợ: Người lao động chân tay làm một nghề nào đó để lấy tiền công. Rèn: Đập khối kim loại đã nung mềm thành đồ dùng.

Thợ rèn là thợ làm nghề rèn sắt thành những khí cụ như dao, kéo, liềm, lưỡi cày...

Như: Thợ rèn không có dao ăn trầu.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Sự nong nả chẳng phải tìm phương cho dân cày cấy ruộng nương mà thôi, phải khuyến khích chăn nuôi súc vật, khuếch trương các tiểu công nghệ trong làng, thúc giục dân nuôi tầm dệt vải làm tơ lụa, các nghề thợ mộc, thợ rèn và các kỹ nghệ nào hay khéo mà dân sở tại làm đặng, quyền ấy là quyền của ông Chủ Hương đảng, còn Ban Hội Tề, Hương Sư, Hương Hào, v.v... đều là phụ thuộc vào triều chánh của ông Hương Chủ mà thôi.

Chồng có tài theo phía thợ rèn,

Vợ phải tập cho quen thổi bễ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỢ TẠO

Thợ: Người lao động chân tay làm một nghề nào đó để lấy tiền công. Tạo: Gầy dựng ra.

Thợ Tạo, bởi chữ “Tạo công 造 工”, là chỉ Đấng Tạo hoá, hay Trời.

Bài phú của Giả Nghị có câu: Thiên địa vi lô, tạo hoá vi công 天 地 為 爐, 造 化 為 工, nghĩa là trời đất làm cái lò, Đấng Tạo hoá làm thợ. Vì vậy mà người ta dùng chữ “Thợ tạo” để chỉ Trời.

Thợ tạo trớ trêu, thêu lắm cảnh,

Màn trời thảm đạm, vẽ nên tranh.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THỚI

Hay “Thái”.

Thới, một âm khác của chữ “Thái 泰”, là nói thời vận hay hoàn cảnh thuận lợi, may mắn.

Như: Vận bĩ vận thới, hết hồi bĩ cực đến hồi thới lai.

Xem: Thái.

Khi vận thới lung lăng chẳng kể,

Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.

(Kinh Sám Hối).

Tác hiệp sẵn nhờ xây bĩ thới,

Thành song trước định gặp thư hùng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THỜI

1.- Thời hay “Thì” có nghĩa thế là, tiếng trợ từ chỉ về trong thì giờ, hay trong cái địa vị nào đó để nối phần nói trên với phần nói dưới.

Như: Đói thời ăn, khát thời kiếm nước uống, mệt thời nằm nghỉ ngơi.

Nên thời vương bá lúc ngồi câu,

Lựa phải cửa công đến chực hầu.

(Đạo Sử).

Hễ giỏi thời lại trọng lại cưng,

Dở lại bớt nâng niu hun hít.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thời (thì) là thuở, lúc, buổi, tuổi. Như: Đương thời, thời còn trẻ, thời còn làm quan.

Thánh giáo Thầy có câu: Sanh nhằm thời buổi nhơn sanh dụng gương bất đức mà gieo hoạ cho bước trần, khiến cho sai sót nẻo luân thường.

Cương toả đương thời đã giải vây,

Ðừng mơ oan nghiệt một đời nầy.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Suy thời dầu quý cũng ra hèn,

Nghiệp cả khuyên con lửa nhúm nhen.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vàng chìm đáy biển nghĩ khôn tầm,

Biết phận tuỳ thời chốn gửi thân.

(Đạo Sử).

3.- Thời (Thì) là chỉ thời gian. Như: Thời giờ, thời khắc trôi qua.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thượng Trung Nhựt trong quyển Đạo Sử có câu: Con phải liệu dùng thời giờ thế nào cho có đủ mà xem xét cách hành động phần nhiều trong các Ðạo Hữu của các con trong buổi nầy.

Thời gian tôi cách chốn nầy,

Tìm nơi thanh vắng am mây tu trì.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THỜI CƠ

時 機

Thời: Lúc. Cơ: Cơ hội.

Thời cơ là lúc có cơ hội thuận tiện. Như: Phải biết nắm thời cơ để mà hành động.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Khi Bần Ðạo bị đồ lưu hải ngoại (Madagascar) trở về thấy thời cơ đang rối rắm, cuộc cờ nước nhà đã lâm vào lối bế tắc không thế thắng được.

Thử đem tâm chí làm công quả,

Mới rõ thời cơ dựng thái bình.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THỜI CUỘC

Hay “Thời cục”.

Thời: Khoảng thời gian. Cuộc (cục): Sự việc có nhiều người tham gia, diễn ra, theo một quá trình nhất định.

Thời cuộc, như chữ “Thời cục 時 局” là nói tình hình xã hội, chính trị chung trong một thời gian cụ thể nào đó. Như: Tiên đoán về thời cuộc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hội Thánh cũng lấy làm mãn nguyện, vì mặc dầu thời cuộc khó khăn trong năm qua Hội Thánh đã đồng tâm nhất trí lo bồi bổ các khuyết điểm về vật chất cũng như về tinh thần cố đem lại cho bổn Ðạo sự hoà nhã an vui, xa lánh những cạm bẫy hiểm nguy của cơ thử thách.

Thời cuộc tuần hoàn tai ách khởi,

Liệu mà xông lướt, liệu đua tranh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dở hay thời cuộc dầu thay đổi,

Chí nguyện dân Nam hưởng thái bình.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THỜI DUY THIÊN VẬN

時 維 天 運

Thời: Thời gian, lúc, đương thời. Duy: Tiếng dùng mở đầu một bài văn tế, sớ. Thiên vận: Vận số của Trời.

Thời duy Thiên vận có nghĩa đương thời là vận trời vào năm...

Thí dụ như: Thời duy Thiên vận Đinh Dậu niên, Chánh ngoạt sơ cửu nhựt, tý thời. nghĩa là Đương thời là vào ngày mùng chín, tháng giêng, năm Đinh Dậu.

Thời duy Thiên vận...... niên, Chánh ngoạt, Sơ nhứt nhựt,......thời,...

(Sớ Văn).

 

 

THỜI ĐẠI

時 代

Thời: Thời gian, lúc, đương thời. Đại: Đời.

Thời đại là một khoảng thời gian dài có xảy ra những sự kiện lịch sử quan trọng.

Như: Hiện nay là thời đại tin học.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Tình trạng nầy đã kéo dài qua các thời đại ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện chính sách ngu dân và đồng hoá triệt để.

Các con ở nhằm thời đại nầy, đặng lắm cuộc tân toan, nên mới để ý vào đường đạo đức.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỜI GIAN

時 間

Thời: Một phần mười hai của ngày, thì giờ. Gian: Khoảng giữa.

Thời gian là thì giờ, tức chỉ khoảng thời gian trong đó diễn ra sự việc từ đầu cho đến cuối.

Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, trong đó vật chất vận động và phát triển liên tục, không ngừng diễn biến một chiều theo ba trạng thái là hiện tại, quá khứ và tương lai. Như: Đi mất nhiều thời gian.

Trong bài Chúc Tết Xuân Năm Mậu Tuất, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Năm cũ sắp tàn, thời gian trôi qua thấm thoát, tuổi chẳng chờ người mà phận sự còn bộn bề chưa biết đâu là cứu cánh.

Chuyển xây thế sự đang ly loạn,

Xoay trở thời gian với tánh lành.

(Thơ Hộ Pháp).

Đầu đội thời gian hai thế hệ,

Mắt nhìn hưng phế mấy tang thương.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THỜI GIỜ

Thời (thì): 時 là chỉ thời gian. Giờ: Khoảng thời gian sáu mươi phút.

Thời giờ, như chữ “Thì giờ”, là chỉ thời gian. Như: Mất nhiều tời giờ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nhưng vì quá bận rộn công việc, ông Khai Ðạo xin chấm dứt nhiệm vụ cố vấn trên đây để có thời giờ điều khiển và lo chỉnh đốn Cơ Quan Phước Thiện.

Vì cớ nên, thời giờ nầy, thấy Bần Ðạo bó buộc nghiêm khắc có lẽ những kẻ biếng nhác cũng phàn nàn lén lút.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THỜI KỲ

時 期

Thời: Thời gian, lúc, đương thời. Kỳ: Hạn, hẹn.

Thời kỳ là chỉ khoảng thời gian được phân chia theo ra theo một sự việc hay sự kiện nào đó. Như: Thời kỳ nầy gọi là Tam Kỳ Phổ Độ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có dạy: Trong thời kỳ cuối hạ nguơn này, thiên hạ bị lôi cuốn vào làn sóng văn minh vật chất, luân lý cổ truyền của Á Ðông đã bị luân lạc đến tám chín phần mười thì chẳng dễ gì đi ngược với trào lưu đặng xây dựng một sự nghiệp tinh thần đáng kể.

Thời kỳ mạt pháp nầy, khiến mới có Tam Kỳ Phổ Ðộ, các sự hữu hình phải hủy phá tiêu diệt.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỜI LAI

時 來

Thời: Giai đoạn thuận lợi cho một hành động hay một công việc. Lai: Đến, tới.

Thời lai là đến buổi.

Thời lai, đồng nghĩa với “Thời cơ 時 機” là gặp cơ hội thuận tiện, hay gặp dịp may đến.

Thơ Đường có câu: Thời lai phong tống Đằng Vương Các 時 來 風 送 滕 王 閣 tức thời vận nhờ thuận gió đến gác Đằng Vương.

Do điển: Vương Bột đời nhà Đường mới 16 tuổi, đi thuyền nhờ thuận gió trong một đêm tới gác Đằng Vương, vừa kịp lúc vào dự yến do Đô đốc Diêm Bá Tự tổ chức và làm bài tự nổi tiếng vào thời bấy giờ.

Xem: Đằng Vương Các.

Thời lai gió đẩy đến Ðằng Vân,

Thường biết mình tuy cũng kép bần.

(Đạo Sử).

Chưa phải thời lai con ẩn nhẫn,

Dầu sao làng xóm cũng ngồi trên.

(Đạo Sử).

 

 

THỜI QUÂN

時 君

Thời: Thời gian. Quân: Người, tiếng tôn xưng người có phẩm vị cao trọng.

Thời Quân, nói đầy đủ là “Thập Nhị Thời Quân 十 二 時 君”, tức là mười hai vị chức sắc Đại Thiên Phong của Hiệp Thiên Đài, thuộc Đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh, dưới quyền của Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng Sanh.

Xem: Thập Nhị Thời Quân.

Chung sức Thời Quân thừa sứ mạng,

Tinh thần vững đặc tợ non Côn.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Dưới có bốn vị Thời Quân,

Tiếp, Khai, Hiến, Bảo đều tuân quyền hành.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THỜI TIẾT

時 節

Thời: Mùa. Tiết: Khí tiết, là một khoảng thời gian có khí hậu không thay đổi.

Thời tiết là khí hậu của bốn mùa. Như: Thời tiết năm nay mát mẻ, mưa nhiều.

Phong hoà võ thuận tốt tươi,

Thuận hoà thời tiết hiện đời Phật, Tiên.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Trải bao thời tiết bốn mùa xây,

Cây cũ trơ trơ bến cũ nầy.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THỜI TỰ ĐIỀU HOÀ

時 序 調 和

Thời tự: Thời tiết đi theo thứ tự. Điều hoà: Sự hoà hợp, không xung khắc, không tranh giành nhau.

Thời tự điều hoà là thời tiết đi theo thứ tự một cách điều hoà, không rối loạn, không xung khắc.

Kim vì Dương Xuân Chánh Lịnh, thời tự điều hoà.

(Sớ Văn).

 

 

THỜI THẾ

時 勢

Thời: Giai đoạn thuận lợi cho một hành động. Thế: Có sức mạnh để ảnh hưởng đến.

Thời thế là có vận mệnh, có thế lực, tức được thời, được thế để làm nên sự nghiệp to lớn.

Thánh giáo Thầy có câu: Hay ỷ sức mà chẳng dòm xem thời thế chẳng thâu phục nhân tâm, chẳng biết dùng khiêm từ mà đãi khách, là những nét của các bậc Vương Bá xưa dùng mà phải tan tành vũ trụ đó.

Thông tri thời thế xét soi mình,

Biết tội mà chừa phải trọng khinh.

(Đạo Sử).

Xác hồn đoàn kết xây thời thế,

Thế sự do nhiên hưởng thái bình.

(Quyền Giáo Tông Giáng).

Thôi thôi nín nẩm xem thời thế,

Cái chí hiên ngang chẳng rã rời.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THỜI THỪA LỤC LONG

時 乘 六 龍

Thời thừa: Thường cỡi. Lục long: Sáu rồng. Đây chỉ sáu hào dương trong quẻ Bát thuần càn.

Trong kinh Dịch, quẻ Càn có câu: Thời thừa lục long dĩ ngự thiên 時 乘 六 龍 以 御 天.

Vua Phục Hy lập ra các quẻ kép (trùng quái), bằng cách chồng lần lượt quẻ đơn của Tiên thiên bát quái lên với nhau tạo thành 64 quẻ. Như vậy quẻ Bát thuần càn là chồng hai quẻ càn lên nhau, nên ta có sáu vạch dương, hay nói cách khác, sáu hào đều dương, mỗi hào dương ở vào cái thời trung riêng:

1.- Hào sơ cửu: Tiềm long 潛 龍: Rồng còn đang chìm dưới nước, thì không nên làm việc gì.

2.- Hào cửu nhị: Hiện long 現 龍: Rồng đã hiện lên ruộng, hợp với vị đại nhơn.

3.- Hào cửu tam: Tịch tích 僻 跡: Mặc dầu rồng nằm ở ruộng nhưng mong vùng vẫy.

4.- Hào cửu tứ: Tại uyên 在 淵: Tức là rồng nhảy lên khỏi vực.

5.- Hào cửu ngũ: Phi long 飛 龍: Rồng bay lên Trời.

6.- Hào thượng cửu: Cang long 剛 龍: Rồng mạnh mẽ cứng cát bay xa.

Thời thừa lục long là thường cỡi sáu rồng, ý nói Đạo Trời vốn mạnh mẽ, vận hành khắp vũ trụ không.

Nơi plafond của Đền Thánh, thuộc chín cấp của Cửu Trùng Đài có khuôn hình sáu con rồng đoanh nhau với ba sắc đạo: hai rồng vàng, hai rồng xanh và hai rồng đỏ.

Thời thừa lục long, du hành bất tức,

Khí phân Tứ tượng, hoát truyền vô biên.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THƠM

1.- Thơm là một loại dứa, nhưng quả thường to hơn có khi gấp hai lần dứa, vỏ quả có mắt lớn, màu xanh đậm, khi chín chỉ hơi ửng vàng, ruột chín có màu vàng nhạt.

Như: Cây thơm, quả thơm.

Trời sanh hoa quả rất chông gai,

Người gọi danh thơm tiếng để hoài.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Thơm là có mùi như hương của hoa, dễ chịu, làm cho thích ngửi, trái với thúi.

Như: Dầu thơm, hoa thơm, hương thơm, cuốn sách thơm mùi mực.

Mùi ngào ngạt thơm luôn Thánh thể,

Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.

(Kinh Tận Độ).

Nhụy đương nở mùi thơm ngào ngạt,

Dâng hình hoa lo lót con ong.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Hễ thấy họ phấn son thơ thới,

Mình lại dâng cho tới dầu thơm.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thơm là nói về tiếng tăm tốt được người đời quý mến, kính trọng.

Như: Danh thơm, tiếng thơm muôn thuở, đói cho sạch rách cho thơm.

Nghèo sạch rách thơm mới đáng người,

Nệ chi cực nhọc buổi xuân mơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nghèo mà trong sạch danh thơm rạng,

Phúc hậu Trời ban để cháu con.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THƠM PHỨC

Thơm: Có mùi dễ chịu, có cái hương gây được sự thích thú ngửi, có danh tiếng tốt. Phức: Thơm ngào ngạt.

Thơm phức là có mùi thơm bốc lên mạnh, hấp dẫn.

Như: Thức ăn thơm phức, mùi nước hoa thơm phức.

Đời vốn rách te, khoác áo lành,

Bề ngoài thơm phức hoá hôi tanh.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THƠM THO

Thơm: Có mùi dễ chịu, có cái hương gây được sự thích thú ngửi, có danh tiếng tốt.

Thơm tho là có mùi hương bát ngát, hoặc có tiếng tăm lừng lẫy.

Như: Quần áo sạch sẽ, mùi hương thơm tho.

Giải về sự cúng tế bằng vật thực, Thánh giáo Đức Thượng Phẩm có dạy: Em phải biết rằng, ẩm thực cốt để làm phương bảo thủ thi hài, mà quy vào nguơn khí thì vật thực còn bổ ích vào đâu mà cúng tế, duy có điều hữu dụng của sự cúng tế là lòng thành, cảm động tình ái lẫy lừng, làm cho nguơn khí của Chơn thần trở nên thơm tho đẹp đẽ, cả những Đấng thiêng liêng lấy đó làm báu vật.

Thơm tho chi cũng vốn mùi đời,

Chưa kẻ dùng nên của để chơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trau tánh ôn hoà chừa cải trước,

Dựa hơi rừng quế cũng thơm tho.

(Đạo Sử).

Thơm tho giữ trọn ấy loài sen,

Vùi dập bùn nhơ cũng sạch bèn.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THỚT DAO

Thớt: Vật dùng bằng gỗ có mặt phẳng dùng để băm, xắt thức ăn.

Dao: Đồ dùng để cắt, gồm có lưỡi sắc và chuôi cầm.

Thớt dao là cái thớt cây dao, ý chỉ bị giết, bị phân thây bằm, xắt.

Khi anh được người thương kẻ mến,

Thì anh nên nhớ đến thớt dao.

(Thơ Hộ Pháp).

Rồi đây có lẽ lâu mau,

Nươc sôi chẳng vị thớt dao không từ.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THU

1.- Thu là mùa thứ ba trong bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Như: Gió thu, trăng thu, thu qua đông tới.

Thánh giáo Thầy có câu: Chiều thu nguyệt xế, non nhạn ngày thâu, lẩn thẩn ngày tháng qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc.

Màu thu cảnh ướm trở về đông,

Ðạo đức soi gương đã vẹn lòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,

Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thu là năm, dùng để tính thời gian mà con người đã trải qua.

Như: Đã mấy thu qua, ngàn thu vĩnh biệt.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Ngoài ra những đấng anh hùng tương lai của đất nước, những nhơn vật đã dám tuẫn tiết vì non sông, dám liều mình vì dân tộc đã đem thắng lợi cho quê hương và giữ danh dự chung cho nòi giống. Những đấng ấy đều đáng đem vào Báo Quốc Từ để được thiên thu phụng tự.

Thiên cơ tuy hẳn nên trường khảo,

Lướt khỏi ngàn thu quả đắc thành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vì Ðạo mấy muơi năm tận tuỵ,

Nghìn thu lưu mãi nét tinh thần.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

THU BA

秋 波

Thu: Mùa thu. Ba: Sóng nước.

1.- Thu ba là sóng nước mùa thu đầy và trong trẻo, trong văn chương người thường dùng để ví với sóng mắt của người đàn bà, con gái đẹp.

Thơ Tô Thức có câu: Giai nhân vị khẳng hồi thu ba 佳 人 未 肯 回 秋 波, nghĩa là người đẹp chưa chịu quay sóng thu, tức chưa chịu quay lại nhìn.

Chéo áo phất phơ đường thẩm mỹ,

Hồ sen lóng lánh khoé thu ba.

(Thơ Chơn Tâm).

Khuôn mặt ngọc đầy vành trăng sáng,

Gợn thu ba lấp loáng đôi ngươi.

(Phù Kiều Hận Sử).

2.- Thu ba đồng nghĩa với “Thu thuỷ 秋 水”, tức chỉ nước mùa thu.

Hoa thu ủ như màu thẹn nguyệt,

Giữa thu ba e tuyết đông về.

(Bài Thài Nhứt Nương).

 

 

THU CÚC

秋 菊

Thu: Mùa thứ ba trong bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Cúc: Bông cúc.

Thu cúc là bông cúc nở vào mùa thu.

Mùa thu là mùa của hoa cúc vì vậy tháng tám âm lịch được gọi là cúc nguyệt (ngoạt).

Thu cúc hứng sương khách kiếm mùi,

Chín Cô cùng Mẹ đến chung vui.

(Đạo Sử).

 

 

THU KHÔNG

收 空

Thu: Nhận lấy. Không: Trống không.

Thu không tức là thu ánh sáng ban ngày lại, có nghĩa là trời bắt đầu tối.

Theo Hán Việt Từ Nguyên, chữ “Thu không” vốn là “Sưu không 搜 空”, với chữ Sưu là lục soát.

Ngày xưa ở Kinh thành, hay các tỉnh, mỗi khi trời sắp tối, quân lính đi lục xét trong thành, khi thấy không có quân gian ẩn núp, lúc ấy mới ra hiệu đánh chiêng, đánh trống để đóng cửa thành. Tiếng chiêng tiếng trống gọi là thu không, dùng để chỉ trời sắp tối.

Mảng sầu muộn ngổn ngang trăm mối,

Chùa thu không bóng tối mịt mờ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Thu phòng học chước thu không,

Đốt hương cho ấm cho nồng phòng tiêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Vẳng trống thu không hồi nhặt thúc,

Cảnh trời buồn bã nhớ về đâu.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

THU NHẶT

Thu (thâu): Nhận vào từ nhiều nguồn đóng góp, tập trung vào một chỗ từ nhiều nơi. Nhặt: Gom góp, lượm lặt.

Thu nhặt hay “Thâu nhặt”, là nhặt nhạnh gom góp lại từ nhiều nguồn.

Như: Bà ấy đi thu nhặt giấy vụn và các loại phế liệu.

Còn tài sản là tổng quát các vật quý giá của con người đã thu nhặt trên thế gian nầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THU PHÂN

秋 分

Thu: Mùa thứ ba trong bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Phân: Chia ra.

Thu phân là tên gọi một tiết vào mùa thu, trong hai mươi bốn ngày tiết theo năm Âm lịch.

Trong tiết thu phân là ngày mặt trời đi qua xích đạo, có ngày và đêm dài bằng nhau trên khắp trái đất, và ở bắc bán cầu được coi là giữa mùa thu vào ngày 23 hoặc 24 tháng chín Dương lịch.

Một năm có hai tiết đặc biệc: Xuân phân, và Thu phân, có ngày và đêm dài bằng nhau.

Xuân phân nhằm ngày 21, hoặc 22 tháng 3 dương lịch hằng năm.

Thánh chúa hiền thần phò tổ nghiệp,

Khải ca định phận tại thu phân.

(Lý Giáo Tông Giáng).

 

 

THU THẬP

收 拾

Thu: Góp, thâu. Thập: Nhặt, lượm.

Thu thập là góp nhặt, tức là góp nhặt và tập hợp lại.

Như: Thu thập tài liệu kinh sách, thu thập ý kiến của toàn tín đồ trong đạo Cao Đài.

Trong sách Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Chu Hối Am lấy chữ Kính làm gốc. Ông nói: “Thu thập tinh thần vào một chữ Kính, trước sau chuyên nhứt thì mới hiểu được Đạo lý”.

Ðiều đáng vui mừng là Hội Thánh đã thu thập một thắng lợi vẻ vang cho nền Ðạo.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÚ

1.- Thú là muông, tức loại động vật có xương sống, có lông mao, tuyến vú, nuôi con bằng sữa.

Như: Mặt người lòng thú, sư tử và cọp là loài thú rừng hung tợn nhất.

Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,

Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Ở trong nhà nuôi thú nuôi chim,

Nghe có tiếng càng thêm vui vẻ.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thú là vui hứng, tức điều làm cho người ta vui thích. Như: Thú đọc sách, thú ngắm trăng, thú nhàn nhã.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trước kia Bần Đạo cũng chạy theo quyền lợi chắc lót từ đồng lương cũng có thể an thú lạc hoan với gia đình, cả cuộc mộng ảo của trường đời là chỉ biết có quyền lợi đó thôi.

Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,

Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Rán viết nhắn cùng trai tuấn tú,

Thú chi vui hơn thú trăng hoa.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thú là người đàn ông lấy vợ.

Như: Thú thê (cưới vợ), giá thú (nói chung là gả chồng cưới vợ), hôn thú.

Thú thê ái nữ định gieo cầu,

Hăm chín tháng mười lễ sính trao.

(Thơ Duy Thần).

4.- Thú là chịu đầu phục, chịu nhận tội.

Như: Thú nhận, ra toà thú tội, làm đơn thú thật, quân giặc ra đầu thú.

Thật sự ra Bần Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng hề khi nào làm cho Bần Đạo khủng khiếp.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÚ CẦM

獸 禽

Thú: Tiếng chỉ chung loài vật có bốn chân. Cầm: Chỉ chung các loài có lông, cánh.

Thú cầm là loài chim thú, thú chạy chim bay.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi, từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.

Chẳng so như bực thú cầm,

Hồ bi thố tử, nghĩ thầm thương nhau.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Xem cây cỏ như màu thảm đạm,

Ngó thú cầm dường cảm đau thương.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÚ HÌNH

獸 形

Thú: Muông, tức loại động vật có xương sống, có lông mao, tuyến vú, nuôi con bằng sữa. Hình: Hình thể.

Thú hình là hình thể của loài thú.

Thánh giáo Thầy có câu: Vậy thì óc là nguồn cội của Khí, mà óc cũng bị huyết vận động vô chừng làm cho đến đỗi loạn tán đi, thì chơn thần thế nào đặng an tịnh điều khiển, thân thể phải ra ngây dại, trở lại chất thú hình, mất phẩm nhơn loại rồi, còn mong chi đặng phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật.

...kẻ nào phi ân, bạc nghĩa, bất hiếu, bất trung, là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú hình và thú tính mà chớ.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÚ TIÊN

Thú: Hứng vui, như thú chơi hoa, thú làm thơ. Tiên: Bậc Tiên, cõi Tiên.

Thú Tiên là cái thú thanh nhàn ở cõi Tiên, hoặc chỉ cái thú vị của bậc Tiên gia.

Vui miền non nước câu thi hứng,

Cái thú thanh nhàn cái thú tiên.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THÚ TÍNH

獸 性

Thú: Muông, tức loại động vật có xương sống, có lông mao, tuyến vú, nuôi con bằng sữa. Tính: Bản nhiên của Trời phú cho.

Thú tính là tính của loài thú vật, thường dùng để chỉ những thứ ham muốn về xác thịt, hoặc những hành động man rợ, độc ác, mất hết tính người.

...kẻ nào phi ân, bạc nghĩa, bất hiếu, bất trung, là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú hình và thú tính mà chớ.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THÚ TRÙNG

獸 蟲

Thú: Tiếng chỉ chung loài vật có bốn chân. Trùng: Loại côn trùng.

Thú trùng là nói loài thú vật và loài côn trùng, dùng để chỉ chung các loài vật thuộc hạng cao đến hạng thấp.

Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,

Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÚ VỊ

趣 味

Thú: Hứng thú. Vị: Ý vị, mùi vị.

Những thứ gì đem đến cho ta nềm hứng thú và ý vị, gọi là thú vị. Như: Câu chuyện kể nghe rất thú vị.

Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung có câu: Mấy em nên nhớ rằng: Sống một đời đã nhiều đau thảm với tuồng đời, mà niên cao kỷ trưởng, hỏi lại coi lập nghiệp tại thế có thú vị gì không? Trọn nửa kiếp sanh đầu râu tóc bạc trắng mà lắm thảm sầu, rốt cuộc chung hưởng điều gì nói thử?

Mình biết phận mình an thú vị,

Chẳng phen bằng Phật cũng là Tiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tẻ vui thú vị riêng mùi hưởng,

Ðừng tưởng vinh hoa khó phụ phàng.

(Đạo Sử).

Thanh nhàn ai khéo phớm trần tâm,

Đường hoạn trông xa thú vị nhầm.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

THÙ

Thù là kẻ có điều hiềm oán, nghịch với mình.

Như: Phân biệt bạn và thù, thù trong giặc ngoài, quân thù nhiễu dân hại nước.

Thánh giáo Thầy có dạy: Cả môn đệ Thầy duy có biết một chớ không biết hai. Kẻ nào cưu tâm chia phe phân phái là đứa thù nghịch của Thầy.

Tình thương vốn ngoài vòng tội phước,

Với kẻ thù thương được cũng là thương.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÙ HẬN

讎 恨

Thù: Căm ghét. Hận: Giận, hờn.

Thù hận, như chữ “Hận thù”. là căm giận, oán hờn sâu sắc đến mức thôi thúc phải trả thù. Như: Quyết định phải trả mối thù hận.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Từ nay thế giới phải chịu trong vòng hắc ám. Tinh thần đạo đức đã tiêu mất, sự thù hận tràn ngập khắp hoàn cầu. Chiến tranh thế giới không thể tránh khỏi.

Tránh điều đố kỵ gây thù hận,

Lập chí tương liên vững nước nhà.

(Thơ Thượng Sanh).

Thìn lòng nguyện trả chung thù hận,

Gắng dạ toan đền vẹn nợ duyên.

(Thơ Chánh Đức).

 

 

THÙ HIỀM

讎 嫌

Thù: Cừu địch, nghĩa là có lòng căm ghét đối với kẻ gây hại cho mình. Hiềm: Không vừa ý.

Thù hiềm, như chữ “Hiềm thù 嫌 讎”, là thù hằn nhau một cách sâu sắc đã lâu ngày. Như: Gây thù hiềm giữa hai gia đình từ trước.

Hễ chị răn để dạ thù hiềm,

Coi nấu nướng nêm thêm cho mặn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÙ NGHỊCH

讎 逆

Thù: Căm ghét. Nghịch: Phản lại.

Thù nghịch là kẻ phản lại mình và mình rất căm ghét mà chống đối lại vì lẽ sống còn. Như: Hai anh em nó hiện nay trở thành thù nghịch nhau.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có câu: Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn khôn Thế giới. Có thương yêu, nhơn loại mới hoà bình, Càn khôn mới an tịnh. Ðặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, mới giữ bền cơ sanh hoá.

Thù nghịch sanh ra lòng độc ác,

Thuận hoà nảy nở tánh hiền lương.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THÙ OÁN

讎 怨

Thù: Nuôi ý trả thù kẻ đã gây tai hại cho mình. Oán: Giận nung nấu trong lòng kẻ đã gây hại mình.

Thù oán là thù rất sâu nhưng giữ kín trong lòng, không để biểu lộ ra. Như: Nó gây nhiều thù oán.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Người hành đạo chẳng đủ quyền chế cải, kẻ tự cao muốn chiếm vị cầu danh, nghịch tư cách đối đãi với thế tình, gây ác cảm mà tạo thù oán.

Trong xã hội, người ta vì lời nói mà sanh ra việc bất bình, có khi gây ra thù oán có thể đánh giết nhau.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THÙ TẠC

酬 酢

Thù: Chủ rót rượu mời khách. Tạc: Khách rót rượu mời lại chủ.

Thù tạc là chủ khách mời rượu lẫn nhau, ý nói vui vẻ mời mọc nhau.

Như: Hai người chuyện trò, thù tạc cả buổi với nhau.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bây giờ giảng tới quyền, quyền là công chánh. Cơ thể tạo đoan chẳng vì một ai, chẳng quên ai, chẳng giận ai, chẳng doạ ai, không thù tạc ai, không bỏ rơi ai.

Chén rượu nghinh hôn còn đợi khách,

Câu thi thù tạc vẫn chờ ghi.

(Thơ Vạn Năng).

Hàn huyên vài tứ trông tương đắc,

Thù tạc đôi chung cảm mặn mà.

(Thơ Huệ Đăng).

 

 

THỦ

1.- Thủ là tay. Như: Thủ túc (tay chân), thủ bút, thủ công, thủ đoạn.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nhưng ban Giám đốc với ý chí cương quyết đã cố gắng xoay chuyển cho có đủ tài chánh để bắt đầu tái kiến thiết, không vì cuộc thử thách vừa qua mà phải chịu thúc thủ vô sách.

Ngã vấn chư nhu hà thủ tạo?

Kỉnh Ngô vi chủ, Ðạo như hà?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thủ túc tình thâm ấy bạn vàng,

Đừng phân anh tiện với em sang.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thủ là giữ. Như: Thủ thân, thủ thành, thủ lễ, thủ hiếu, thế công thế thủ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh cũng có đoạn: Sứ mạng! Ôi sứ mạng! Vì sứ mạng mà hai vị Tổng Trấn Võ Tánh và Ngô Tùng Châu phải tuẫn tiết nơi thành Bình Ðịnh; cụ Phan Thanh Giản phải quyên sinh tại Vĩnh Long vì thất thủ thành trì.

Kinh Châu thất thủ nơi Thiên định,

Khiến Hớn vận suy mới đổi thay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tánh hiền đức một lời chẳng phạm,

Thủ hiếu thân cai quản gia tề.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỦ BỘ

守 簿

Hay “Thủ bạ”.

Thủ: Giữ gìn. Bộ (bạ): Sổ sách.

Thủ bộ, hay “Thủ bạ”, là giữ văn thư, sổ sách.

Thủ bộ hay “Thủ bạ” còn dùng để chỉ vị hương chức giữ sổ sách ở làng thời xưa.

Giáo Sư là người thủ bộ Đời của Đạo, quyền hành đã nhứt định; chẳng chức sắc nào đạt đặng.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THỦ CƠ

取 乩

Thủ: Cầm, lấy. Cơ: Hay kê, là một dụng cụ để các Đấng vô hình mượn điển đồng tử để thông công với con người, gọi là cơ bút.

Thủ cơ là cầm cơ, ý chỉ các vị đồng tử, tức là những người đứng trung gian để Đấng thiêng liêng thông công với con người.

Riêng trong Đạo Cao Đài Tây Ninh, các vị đồng tử là những chức sắc Đại Thiên Phong Hiệp Thiên Đài được Đức Chí Tôn chọn lựa kể từ ngày khai Đạo. Thủ cơ còn gọi là Phò cơ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thủ cơ hay là Chấp bút phải để cho thần, tâm tịnh mới xuất Chơn thần ra khỏi phách đặng hầu Thầy nghe dạy.

Xem: Phò cơ.

Hiến thân cho Đạo, son sắt một lòng,

Nương bút thủ cơ, tuyết sương mấy độ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

THỦ GIỚI

守 戒

Thủ: Giữ gìn. Giới: Những điều răn cấm, có khả năng ngăn ngừa sự sai trái, không làm các việc ác.

Thủ giới là gìn giữ giới luật.

Để trở thành một tín đồ của Đạo Cao Đài, trước hết phải lập thệ để nhập môn, rồi thọ năm giới (ngũ giới cấm), và Tứ đại điều quy.

Thủ giới là để phòng bị ngăn ngừa tội lỗi và những hậu quả tai hại, để hướng dẫn con người đi vào con đường chơn chánh, sống đời thiện lương.

Thủ giới trì trai niệm chuỗi lần,

Quên mùi chả phụng với nem lân.

(Thơ Phạm Mộc Bổn).

 

 

THỦ HIẾU

守 孝

Thủ: Trông giữ. Hiếu: Thảo, chỉ lòng kính yêu và biết ơn cha mẹ.

Thủ hiếu là giữ tròn đạo hiếu. Thủ hiếu còn dùng để chỉ trong lúc có tang cha mẹ.

Khi nói về Ông Phan Thanh Giản, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ông xuất sĩ rồi bận việc triều chánh luôn, hết khi ở Bắc rồi lại vào Trung, không mấy khi vào Nam. Bà mạng phụ ở nhà với cha mẹ chồng lo thủ hiếu thay thế cho chồng, xét ra thì gương ấy cả Âu Châu cũng chưa hề có vậy.

Giúp những kẻ ôm mồ thủ hiếu,

Dỗ những trang bận bịu khối tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Mình đủ trí gìn lòng thủ hiếu,

Đặng cho em thấy kiểu học đòi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỦ LỄ

守 禮

Thủ: Gìn giữ. Lễ: Phép tắc.

Thủ lễ là giữ gìn lễ phép hay phép tắc.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có dạy: Ðúng giờ Tý nầy khởi lễ. Khi cầu các Ðấng, phải ráng thủ lễ. Mãn lễ cũng để nhang đèn như kỳ nầy vậy.

Khi tế tự chớ lờn chớ dể,

Việc quan, hôn thủ lễ nghiêm trang.

(Kinh Sám Hối).

Gà thấy hạc chẳng cần thủ lễ,

Giả lơ là dường thể khinh khi.

(Thơ Hộ Pháp).

Gặp quan cũng đãi đằng tử tế,

Gặp dân thì thủ lễ kỉnh nhường.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỦ LỢI

取 利

Thủ: Cầm, nắm, lấy. Lợi: Những cái có ích thu được.

Thủ lợi là lấy điều lợi, tức chỉ muốn có lợi cho mình mà thôi.

Như: Làm bất cứ việc gì anh ta cũng muốn thủ lợi.

Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung trong Đàn cơ năm Giáp Thân (1944) có câu: Mình xúi hai đàng kiện lộn với nhau, đặng mình thủ lợi, thì thử hỏi Ông Trời có xúi làm điều đó không?

Ðời ai cũng mong lòng thủ lợi,

Ðời Ðạo khai để khượi chơn-thành.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THỦ NGHĨA

守 義

Thủ: Gìn giữ. Nghĩa: Đạo nghĩa.

Thủ nghĩa là giữ lấy đạo nghĩa.

Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Bần Ðạo tuy sanh Thiêng Liêng chi vị, nếu kẻ thường khó mà gần đặng, mà nay Bần Ðạo vì thọ ân nhau mới tận tâm phò hộ ấy vậy Bần Ðạo kiếm phương trả nghĩa thì cả thảy cũng nên liệu bề thủ nghĩa.

Thà tảo tần mơi cháo, chiều rau,

Biết thủ nghĩa hơn nhà cao cửa rộng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỦ PHẬN

守 分

Thủ: Giữ, trông giữ. Phận: Bổn phận.

Thủ phận là giữ bổn phận của mình.

Thủ phận còn có nghĩa cam chịu cái phận của mình, không dám đòi hỏi gì khác.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Bởi vậy cho nên, nhiều bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật cam lòng thủ phận, chẳng dám vọng cầu đem thân vào cảnh đoạ, nhưng mà chẳng tái kiếp thì như nhu sĩ trốn thi, thế nào giữ vững địa vị cao thượng?

Ngoạt nhựt chi qua khổ chẳng qua,

Phải cam thủ phận cải lòng tà.

(Đạo Sử).

Cơn bão tố thuyền con thủ phận,

Để chờ cơn tan trận phong ba.

(Lục Nương Giáng Bút).

Núi rừng thủ phận thanh bần,

Tịnh thanh một cõi phong trần mặc ai.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THỦ TIẾT

守 節

Thủ: Trông, giữ. Tiết: Lòng ngay thẳng, trong sạch, giữ trước sau như một.

Thủ tiết là giữ gìn khí tiết.

Thủ tiết còn dùng để chỉ đàn bà giữ tiết hạnh với chồng đã chết, không tái giá, theo quan niệm đạo đức của ngày xưa. Như: Thủ tiết thờ chồng.

Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn của Ngài Thái Đến Thanh dạy về Tam cang có câu: Vua tôi, cha con, chồng vợ; Chúa ở với tôi có đạo đức, thì tôi thờ chúa mới tận kỳ trung; Cha ở với con từ thiện, thì con thờ cha chí hiếu; Chồng giữ trọn nghĩa với vợ, thì vợ phải thủ tiết thờ chồng ấy là Tam cang tức là đời có Ðạo.

Thà cầm đèn thủ tiết tàn canh,

Hơn thụt ló như mèo rình ăn vụng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỦ TÚC

手 足

Thủ: Cái tay. Túc: Cái chân.

Thủ túc là tay và chơn, chỉ tình anh em ruột thịt.

Trang Tử nói: Huynh đệ như thủ túc, phu thê như y phục; y phục phá thời cánh đắc tân, thủ túc đoạn thời nan tái tục 兄 弟 如 手 足, 夫 妻 如 衣 服; 衣 服 破 時 更 得 新, 手 足 斷 時 難 再 續, nghĩa là anh em như tay chân, vợ chồng như áo quần. Áo quần rách lại may mới được, chân tay đứt thì khó bề nối lại đặng.

Niềm thủ túc đã đành vĩnh biệt,

Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.

(Kinh Thế Đạo).

Dầu đắn đo cũng nghĩa đồng bào,

Dầu ngọt dịu người sao hơn thủ túc.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỦ THÂN

守 身

Thủ: Giữ. Thân: Thân mình.

Thủ thân có nghĩa giữ mình, tức là tự bảo vệ lấy bản thân mình.

Như: Vào rừng sâu phải biết tự thủ thân.

Ai cũng thủ thân nơi hỗn độn,

Ðời là chiến trận lúc đua tranh.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THỦ THƯỜNG

守 常

Thủ: Giữ gìn. Thường: Bình thường.

Thủ thường là giữ gìn theo phép thường, hoặc giữ đời sống theo cách bình thường.

Trong thành ngữ Việt Hán có câu: An phận thủ thường 安 分 守 常, có nghĩa là bằng lòng với thân phận và chỉ muốn giữ nếp sống bình thường như hiện có, không cầu tiến thủ.

Tiệp theo thời thế tánh hiền lương,

Cứ giữ ôn nhu chịu thủ thường.

(Đạo Sử).

 

 

THỤ

1- Thụ , còn đọc “Thọ” là cây, hoặc trồng cây. Như: Cổ thụ, thụ mộc, thụ đức.

Sách có câu: Thụ dục tĩnh nhi phong bất tức, tử dục dưỡng nhi thân bất tồn 樹 欲 靜 而 風 不 息, 子 欲 養 而 親 不 存, nghĩa là cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, con muốn phụng dưỡng mà cha mẹ không còn, ý nói người con than tiếc cha mẹ đã mất, không kịp chăm lo, phụng dưỡng.

Bắc Ngụy quan văn tâm mộ hữu,

Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2- Thụ , còn có thể đọc là “Thọ”, là vâng chịu. chịu lấy. Như: Thụ bệnh, hưởng thụ, thụ thâm ân của hai Đấng phụ mẫu.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Sự ham muốn làm cho ta mù quáng, chúng ta chỉ muốn hưởng thụ trên cái đau khổ của kẻ khác.

Con vì tâm tình cao thượng mà cứu vãn sự sụp đổ của một dân tộc đã hấp thụ một nền văn minh tối cổ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỤ HUẤN

受 訓

Thụ (thọ): Nhận chịu. Huấn: Dạy dỗ.

Thụ huấn, hay “thọ huấn”, là được sự dạy dỗ, giáo huấn, tức theo để chịu học tập.

Như: Bốn tuần thụ huấn tại Hạnh Đường.

Sự kém cỏi đó, có lẽ một phần Nhạc sĩ thiếu tập dượt, hoặc có thụ huấn mà chưa nhuần nhã.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THUA

Thua là bại, kém, tức bị đánh đến mức không chống lại được nữa. Như: Thua trận, thua bạc, hơn thua, thua kém, thua thiệt.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người ở trong vùng Thánh Ðịa dù là Chức Sắc hay Tín hữu cũng đồng con cái của Ðức Chí Tôn, nên không thể thiếu lòng thương yêu được, mỗi cá nhân không nên chiều theo thị dục mà gây sự tranh chấp hơn thua với nhau, gây nên kiện tụng liên miên, tạo ra cảnh rối loạn như ở bến chợ đời.

Hơn thua trối mặc đời bao biếm,

Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.

(Đạo Sử).

Nào chửa đẻ biết bao khổ nhọc,

Nào hơn thua theo học sách đời.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THUA SÚT

Thua: Để đối phương giành được phần hơn, phần thắng. Sút: Giảm đi, kém hơn so với trước.

Thua sút, như chữ “Thua kém”, là không bằng, kém sút hơn mọi người.

Huấn từ của Đức Thượng Sanh đọc trong buổi lễ Bãi trường và Phát thưởng tại Đạo Đức Học Đường niên khoá 1964-1965 có câu: Vậy thì phận sự của mấy cháu chỉ có lo học, đừng để thua sút chúng bạn, đừng để cho cha mẹ phải buồn phiền, cho thầy dạy phải thất vọng.

Con một nhà, đãi đồng một bực, đứa thua sút yếu thế, lại đỡ nâng dìu dắt nhiều hơn đứa thế trọng sức nhiều.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÙA

Thùa là viền miệng khuyết, tức khâu móc từng mũi chỉ để viền kính các mép của lỗ khuyết, hoặc kết tơ lụa để trang sức cho đẹp.

Như: Thùa khuyết, thùa bông hoa trên áo, thêu thùa là công việc của phụ nữ.

Mừng em bút pháp đầy hương sắc,

Dệt gấm thùa hoa nét nét thần.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THUẤN

Thuấn là vị vua trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, được các nhà Nho coi là mẫu mực, đã theo được đạo trời mà trị dân.

Thông Chí viết: Thuấn, họ Diêu, tên Trùng Hoa, cha là Cổ Tẩu, người có mắt như mù, không phân biệt điều phải trái, mẹ chết sớm, Cổ Tẩu lấy vợ kế sinh ra Tượng, được cha yêu vì. Cổ Tẩu và Tượng đều muốn giết Thuấn, nhưng Thuấn vẫn một mực giữ tròn đạo hiếu với cha, mẹ kế và thương yêu Tượng.

Thuấn cày ruộng ở Lịch Sơn, đánh cá ở đầm Lôi Trạch, được nổi tiếng là hiền đức, có người tiến cử lên vua Nghiêu, vua Nghiêu gả hai nàng con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn và giao cho Thuấn là nhiều việc để xét về tài đức. Sau nhiều năm thử thách, vua Nghiêu bèn nhường thiên hạ cho Thuấn. thuấn lên ngôi thiên tử hiệu là Hữu Ngu.

Sau vua Thuấn đi tuần ở phương Nam, mất ở đất Thương Ngô, trị vị được mười tám năm, nhường ngôi lại cho Vũ nhà Hạ.

Trời Nghiêu đổi lại miền Nam Việt,

Đất Thuấn phục hồi cõi Á Đông.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THUẤN ĐẾ

舜 帝

Thuấn: Ngu Thuấn, một vị Thánh vương đời thượng cổ. Đế: Vua.

Thuấn Đế tức là vua Thuấn, một ông vua trong thời Thượng cổ của Trung Quốc. Cha và mẹ ghẻ Thuấn nhiều lần tìm cách hại, nhưng ông vẫn một mực giữ tròn đạo hiếu. Vua Nghiêu nghe tiếng bèn gả con gái và nhường thiên hạ lại cho Thuấn.

Xem: Ngu Thuấn.

Gương đạo noi theo đời Thuấn Ðế,

Ðế dân vẹn giữ lối Văn Vương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THUẤN NGHIÊU

舜 堯

Vua Thuấn và vua Nghiêu là hai vị vua thời thượng cổ của nước Trung Hoa, sau Phục Hy, Thần Nông và Huỳnh Đế, rất nhân từ minh chánh.

Dưới thời của hai vua Nghiêu, Thuấn, thiên hạ thái bình, đất nước thạnh trị, nhân dân no ấm, người ta gọi thời đó là “Nghiêu thiên Thuấn nhựt” (Ngày Nghiêu tháng Thuấn).

Xem: Thuấn và Nghiêu.

Rủi sanh phải lúc thời ly loạn,

Mong gặp đặng hồi chúa Thuấn Nghiêu.

(Thơ Hộ Pháp).

Cứu quốc khó trông mong gặp Thuấn,

An dân hết sở cậy nhờ Nghiêu.

(Thơ Đức Hộ Pháp).

 

 

THUẦN DƯƠNG

純 陽

Thuần: Chỉ toàn một thứ, một loại, không xen lẫn thứ khác, loại khác. Dương: Một thứ khí trong trời đất, trái với âm.

Thuần dương, hoàn toàn là dương, không có âm.

Người tu hành phải cố gắng lọc trược lưu thanh, tức là loại bỏ những thứ ác trược thuộc âm, để còn lại tính thuần dương thì lúc đó mới đắc đạo được, như lời Đại Thừa Chơn Giáo dạy: Lần lần tuyệt hết phần âm, Thuần dương thì đặng cao thâm trở về.

Đoạt Đạo nhờ Thầy dìu bước tục,

Thiên ân hạnh hưởng phước thuần dương.

(Thài Phối Thánh Màng).

Lưu thanh khử trược mới thuần dương,

Tà chánh, giả chơn đã tỏ tường.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THUẦN HẬU

醇 厚

Thuần: Không xen lẫn, ý nói một lòng ngay thẳng không xen lẫn xảo trá. Hậu: Đậm đà, dồi dào.

Thuần hậu là hiền lành và chất phác, tức là đối xử với người ngay thẳng và thật thà.

Như: Cô ấy có vẻ mặt diệu dàng thuần hậu.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo bằng Pháp ngữ của Chí Tôn được Hội Thánh dịch có câu: Nơi xứ nầy, dân tình rất thuần hậu và ôn hoà, nên Thầy đến cũng như Chúa Cứu Thế đã đến với chúng con để bài trừ Tà thuyết và truyền bá Chơn đạo trên toàn cầu.

Tánh hạnh khá trau thuần hậu lại,

Nên danh có thuở đặng nên thời.

(Đạo Sử).

 

 

THUẦN KHIẾT

純 潔

Thuần: Chỉ toàn một thứ, một loại, không xen lẫn thứ khác, loại khác. Khiết: Trong sạch.

Thuần khiết là hoàn toàn trong sạch. Như: Gương,ặt chị ấy ngời lên vẻ thuần khiết.

Trong Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Sự nào tốt đẹp cao siêu, thuần khiết thì nên lấy đó mà làm mẩu mực để luyện trau, rèn đúc tinh thần; việc nào xấu xa, hèn mạt bạo tàn thì nên xem đó như tấm gương soi, để sửa đổi cải canh đức tánh.

Đấng ấy sẽ xướng xuất một đời sống đạo đức hoàn toàn thuần khiết.

(Giáo Lý).

 

 

THUẦN LƯƠNG

純 良

Thuần: Chỉ toàn một thứ, một loại, không lẫn chất khác, nguyên chất. Lương: Tốt.

Thuần lương là người có lòng tốt hoàn toàn, lòng thành thật và ngay thẳng trọn vẹn.

Trong Sớ Văn có đoạn: Ngưỡng vọng Vô Trung Từ Phụ phát hạ hồng ân, quảng thi đại đức, bố hoá chư đệ tử trí não quang minh tinh thần mẫn huệ, thừa hành mạng lịnh, tế độ nhơn sanh, định tâm giác ngộ hoà ái tương thân, Đại đồng huynh đệ, phục hồi thượng cổ Thánh đức thuần lương, cộng hưởng thanh bình, an ninh hạnh phước.

Đem con trẻ trở về Tiên cảnh,

Chọn linh căn tánh hạnh thuần lương.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Đức chánh chơn, thuật xử thế thuần lương,

Hạnh liêm khiết, ôn hoà điều khắc kỷ.

(Ai Điếu Hương Lự).

 

 

THUẦN PHONG

純 風

Thuần: Chỉ toàn một thứ, một loại, không lẫn chất khác, nguyên chất. Phong: Lề thói.

Thuần phong là phong tục lành mạnh.

Thuần phong, do thành ngữ “Thuần phong mỹ tục 純 風 美 俗” là phong tục thuần hậu tốt đẹp.

Phật pháp khuyến nhơn quy mỹ tục,

Nho Tông phục thế hưởng thuần phong.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Long Hoa hội lập nền chân lý,

Sửa cho đời thiện mỹ thuần phong.

(Long Hoa Hội).

 

 

THUẦN PHONG MỸ TỤC

純 風 美 俗

Thuần phong: Lề thói thuần hậu. Mỹ tục: Phong tục đẹp đẽ.

Thuần phong mỹ tục là phong tục thuần hậu, tốt đẹp và lành mạnh.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Hại thay! Nếu quyền ấy không chỉnh đốn lại phong hoá của con người đem vào khuôn khổ thuần phong mỹ tục thì cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ chạy theo hưởng ứng với sự tự do mà đi đến địa vị con vật, là mất hết tính chất làm người đó.

Thuần phong mỹ tục giáo nhơn sanh,

Ðức hoá thường lao mạc vị danh.

(Đạo Sử).

Dạy thuần phong mỹ tục cho Đạo nhà,

Tỉnh giấc mộng rõ là cơn kiếp chót.

(Giác Mê Khải Ngộ).

Thuần phong noi dấu gương tiên tổ,

Mỹ tục lưu truyền điệu tử tôn.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

THUẦN TÂM MỸ TÁNH

Hay “Thuần tâm mỹ tính”.

Thuần tâm: Ý nói tâm ngay thẳng thành thật, không xen lẫn xảo trá. Mỹ tánh (tính): Cái tánh tình tốt đẹp.

Thuần tâm mỹ tánh, như câu “Thuần tâm mỹ tính 純 心 美 性”, là tâm tánh được thành thật và đẹp đẽ, không xen lẫn cái ác đức, xấu xa.

Rèn trau cho thuần tâm mỹ tánh, rồi mới lần đến bề ngoài, trọn hết cả ngoài trong, thì chừng ấy thân hình tâm trí chắc khư, nào ai chuyển lay cho được.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THUẦN TUÝ

純 粹

Thuần: Không lẫn lộn thứ gì. Tuý: Tinh tuý, chuyên nhất không tạp nhạp.

Thuần tuý là tinh rồng, tức là không pha trộn, hoàn toàn mà lại tốt đẹp.

Thánh giáo Lý Giáo Tông dạy: Lão khuyên hai Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng nên chung tâm nhứt trí chấn chỉnh nền chánh giáo cho được thuần tuý hơn, nghiêm trang hơn, để đối phó với sự tiến triển của các tôn giáo, làm cho rạng danh Đạo, và mới có đủ chuẩn thằng độ rỗi nhơn sanh trong thời kỳ mạt kiếp nầy.

Cái thái độ thuần tuý kinh nghiệm bản thân ấy là cái kết quả quá trình của công phu tự giác.

(Giáo Lý).

 

 

THUẬN

1.- Thuận là theo, không trái, không ngược, đối với nghịch. Như: Thuận hoà, thuận cảnh, thuận theo ý trời.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Tu là chi? Tu là trau giồi đức tính cho nên hiền, thuận theo ý Trời định trước.

Chim Hồng thuận gió mới xa bay,

Thánh đức mới hay Ðạo nhiệm bày.

(Đạo Sử).

Chi bẳng tuỳ theo Thiên ý định,

Cũng như buồm thuận gió đưa hơi.

(Đạo Sử).

2.- Thuận là bằng lòng, đồng tình. Như: Ưng thuận, chấp thuận, bỏ phiếu thuận, hai người thuận lấy nhau.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Phàm một sắc lịnh hay một quyết nghị nào sẽ đem ra ban hành là khi đã được phần đông chức sắc Hiệp Thiên Ðài chấp thuận.

Trăm tuổi chưa ai quen nết Thánh,

Biết toan đem dưới thuận cùng trên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dạy không nghe chẳng đặng làm thinh,

Can chẳng đặng nài xin em phải thuận.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THUẬN BUỒM XUÔI GIÓ

Thuận buồm: Buồm của chiếc thuyền theo hướng rất thuận. Xuôi gió: Xuôi theo chiều gió thổi.

Thuận buồm xuôi gió, bởi Chữ “Nhất phàm phong thuận 一 帆 風 順” là thuyền buồm đi xuôi theo chiều gió, ý chỉ công việc trôi chảy, xuôi thuận.

Thuận buồm xuôi gió thuyền từ lướt,

Độ chúng kỳ ba trọn kịp thời.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THUẬN CĂN

順 根

Thuận: Xuôi theo. Căn: Gốc rễ.

Cuộc sống hiện tại của mình là do cái gốc rễ nơi kiếp trước, tức là nếu kiếp trước mình làm lành thì tạo nghiệp lành, nghiệp lành nầy chính là số phận của mình trong kiếp hiện tại.

Như vậy, thuận căn là thuận theo cái số phận, tức thuận theo cái nghiệp của mình để lo trả dứt nghiệp.

Con người còn nghiệp thì còn luân hồi, nết dứt nghiệp thì sẽ trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Trăm năm thọ khảo vĩnh trường,

Thuận căn thuận mạng đôi đường cao thăng.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THUẬN DƯỚI HOÀ TRÊN

Thuận dưới: Xử với cấp dưới thì thuận thảo. Hoà Trên: Đối với bậc trên thì hoà bình.

Thuận dưới hoà trên, như câu “Trên thuận dưới hoà”, ý chỉ trên dưới đều hoà thuận với nhau.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thầy có dạy: Phải làm thế nào rửa thẹn cho mấy em con Hiệp Thiên Đài nghe. Ngày về của chúng nó phải cho long trọng, kẻo nó để lòng phiền, phạm tội Ngọc Hư, tội nghiệp nghe. Thầy khuyên con điều đình cho thuận dưới hoà trên thì mới yên nền Đạo đặng.

Thuận dưới hoà trên nhà sắp đặt,

Ðạo mầu đừng vội trễ nay mai.

(Đạo Sử).

 

 

THUẬN HOÀ

順 和

Thuận: Noi theo, không trái ý. Hoà: Vui vẻ, chẳng xung đột nhau.

Thuận hoà là không xung đột, như thời tiết bình thường, đúng quy luật, thuận lợi cho việc trồng trọt.

Thuận hoà, như chữ “Hoà thuận 和 順”, là hoà bình, êm ấm, không trái ý nhau.

Thánh giáo Thầy vào ngày 28 tháng 1 năm 1926 có câu: Thầy vui vì các con thuận hoà cùng nhau; Thầy muốn cho các con như vậy hoài, ấy là một lễ hiến cho Thầy rất trân trọng.

Người tai mắt đạo nhà khá giữ,

Nghĩa anh em cư xử thuận hoà.

(Kinh Sám Hối).

Thù nghịch sanh ra lòng độc ác,

Thuận hoà nảy nở tánh hiền lương.

(Thơ Thông Quang).

 

 

THUẬN MẠNG

Hay “Thuận mệnh”.

Thuận: Xuôi theo. Mạng: Mạng sống.

Thuận mạng, như chữ “Thuận mệnh 順 命”, là thuận theo mạng sống của mình.

Mạng sống của con người do chơn linh tạo ra, mà chơn linh là điểm linh quang của Chí Tôn ban cho.

Như vậy, thuận mạng là thuận theo cái mạng sống của mình, tức thuận theo chơn linh, mà thuận theo chơn linh là hợp thiên lý.

Trăm năm thọ khảo vĩnh trường,

Thuận căn thuận mạng đôi đường cao thăng.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THUẬN NGHỊCH HÀNH

順 逆 行

Thuận: Xuôi theo. Nghịch: Ngược lại. Hành: Đi.

Thuận nghịch hành là đi theo chiều thuận và chiều nghịch. Theo triết lý tôn giáo, Đời là thuận hành còn Đạo là nghịch hành.

Theo Đại Thừa Chơn Giáo: Người mà theo Lý Thiên Nhiên, biết dụng công phu, nghịch chuyển tinh khí giao cảm nguơn thần cho thành Tiên, Phật, dứt bỏ hồng trần thời người ấy là bực Nguyên Nhân. Còn người mà theo lẽ tự nhiên, sanh ra ở cõi trần chịu những điều bắt buộc theo việc trần cấu, sanh sản về hậu thiên cơ ngẫu nữa thì chịu trong luật quả báo luân hồi.

Một lý phân hai thuận nghịch hành,

Nghịch hành tu luyện đắc trường sanh.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THUẬN NHƠN TÂM

Hay “Thuận nhân tâm”.

Thuận: Noi theo, không trái ý. Nhơn (nhân) tâm: Lòng của con người.

Thuận nhơn tâm, như chư “Thuận nhân tâm 順 人 心”, là thuận với lòng người.

Người xưa cho rằng “Ý dân là ý Trời”, nếu thuận nhơn tâm thì ắt là thuận lòng Trời.

Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn, Phối Sư Thánh Đến Thanh có câu: Vì cớ mới nảy sanh phong-trào cách mạng, gây nên đời loạn lạc chiến tranh, ấy là tại những người cầm quyền, hành luật không tùng thiên ý, chẳng thuận nhơn tâm, nên mới có tai nạn đao binh lan tràn khắp xứ.

Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,

Câu kinh Vô Tự độ người thiện duyên.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THUẬN TIỆN

順 便

Thuận: Theo, thuận lợi. Tiện: Tiện lợi.

Thuận tiện là tiện lợi và dễ dàng, không có khó khăn, trở ngại. Như: Giao thông thuận tiện.

Trong Đạo Sử, Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có đoạn: Mỗi nơi xa Thánh Thất phải lập thêm Tiểu Thánh Thất cho thuận tiện. Nếu Hiền Hữu không lo trong đôi tháng nữa Hiền Hữu lo không kham. Ðạo càng ngày càng thạnh nhiều, chư Hiền Hữu biếng nhác thể nào thành Ðạo?

Ðã trải qua con đường thử thách, quý vị nên bền tâm ẩn nhẫn chờ qua khỏi khúc quanh nguy hiểm tức nhiên con đường sẽ trở nên ngay thẳng thuận tiện hơn.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THUẬN TÙNG

順 從

Thuận: Bằng lòng. Tùng: Theo.

Thuận tùng là theo cùng một chiều hướng, tức là bằng lòng đi theo.

Như: Người tín đồ phải thuận tùng các vị Chức sắc được Hội Thánh bổ nhiệm hành đạo.

Thuận tùng Thiên mạng quy chơn giáo,

Hoà hiệp nhơn tâm hưởng phước lành.

(Thơ Thượng Tước Thanh).

Đạt Đạo chỉ nhờ giữ nhứt tâm,

Thuận tùng Thiên mạng há đâu lầm.

(Thơ Thượng Tước Thanh).

 

 

THUẬN THIÊN

順 天

Thuận: Vui lòng theo, không trái, không ngược. Thiên: Trời.

Thuận Thiên là thuận theo Trời, hay thuận lòng Trời.

Trong Minh Tâm Bửu Giám có câu: Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong 順 天 者 存, 逆 天 者 亡, nghĩa là thuận theo Trời thì còn, nghịch với Trời thì mất.

Thuận Thiên thì tánh mạng còn,

Nghịch Thiên hồn xác tiêu mòn chẳng chơi!

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THUẬT

1.- Thuật là kể lại, chép lại. Như: Thuật lại câu chuyện từ đầu cho người nghe.

Như: Tường thuật từ đầu của câu chuyện.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Trước ngày Đức Chí Tôn chưa mở Đạo, Bà Đầu Sư duy có biết Đạo Phật mà thôi, chính miệng của Người thuật lại với Bần Đạo.

Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,

Một kiếp sanh của bậc văn tài.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thuật là phương pháp, mẹo mực.

Như: Nghệ thuật, Thuật làm giàu, thuật lừa dối, nhiếp ảnh là một ngành mỹ thuật.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Giờ đây vị Chưởng Quản và Chức sắc Bộ Nhạc phải gắng công đào luyện đàn em cho thành tài, đồng thời trau luyện Nghệ thuật mình cho đến chỗ tận thiện, tận mỹ, trước để phụng sự nền Ðạo sau để nâng cao phẩm giá của Âm nhạc là môn học rất trọng yếu của Khổng Giáo.

Đức chánh chơn, thuật xử thế thuần lương,

Hạnh liêm khiết, ôn hoà điều khắc kỷ.

(Ai Điếu Hương Lự).

 

 

THÚC

1.- Thúc là giục, không để chậm trễ.

Như: Thúc nợ, thúc việc đóng thuế, trời mưa nhiều thúc thu hoạch lúa chín.

Thánh giáo Thầy có câu: Ngày giờ thôi thúc mà các con còn dụ dự giữa chừng. Nền Ðạo cao thâm là mấy, chí phàm không thấu lý sâu, nếu các con chẳng ra khỏi vòng trần tục thì các con chẳng là luống công theo Thầy kể đã đầy năm.

Im lìm kìa cõi Niết Bàn,

Lôi Âm trống thúc lên đàng Thượng Tiêu.

(Kinh Tận Độ).

Dụng văn hoá trau tria nữ phách,

Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Phép quan luật nước thúc dằn,

Đỉnh chung rốt cuộc mơ màng chiêm bao.

(Đại Đạo Truy Nguyên).

2.- Thúc là bó buộc. Như: Thúc thủ, thúc phược, câu thúc, kềm thúc.

Quyền, Thầy cũng ban cho các con in như Thầy đã ban cho chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, hầu cho đủ thế kềm thúc lấy nhau đặng giữ vẹn Thánh chất yêu sanh của Thầy, mà quyền ấy trở nên một cơ thể buộc trói nhơn sanh trong vòng tôi mọi.

Thầy cho các con biết trước đặng sau đừng trách rằng quyền hành Thầy không đủ mà kềm thúc trọn cả môn đệ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THÚC ĐẨY

Thúc: Giục, không để chậm trễ. Đẩy: Làm cho chuyển động theo một hướng nào đó bằng sức lực.

Thúc đẩy là làm cho hoạt động phát triển mạnh, hơn theo một hướng nhất định nào đó. Như: Sự cải tiến cách làm việc đã thúc đẩy sản xuất phát triển.

Trong Ðặc San Thông Tin số 28, ngày 19/5/1971, nói về tiểu sử Đức Thượng Sanh có viết: Nỗi niềm ưu hương, ái chủng của Ngài đã thúc đẩy Ngài cần giao du với bạn bè hầu tìm người tri kỷ, tri âm, trong số ấy có Ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc, Võ Văn Sang,.v.v...

Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu nầy.

(Lời Trần Thuyết).

 

 

THÚC GIỤC

Thúc: Giục, không để cho chậm trễ. Giục: Thúc cho mau, gấp.

Thúc giục là thúc hối, giục giã, tức tác động đến bằng lời nói, động tác, cử chỉ nhằm làm việc nhanh hơn, hoặc làm ngay, không để chậm. Như: Tiếng còi xe vang lên như thúc giục hành khách.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Qua trận giặc 1914-1918 Đức Chí Tôn Ngài nói, nếu Đạo trễ một ngày là hại cho nhơn loại, nên Ngài mới thúc giục thánh thể của Ngài đặng đem cơ cứu khổ độ rỗi cho nhơn loại mà thu hồi cho nhơn loại, hầu có nghe lời từ bi bác ái của Ngài chăng?

Hồi cảnh tỉnh chuông mơi thúc giục,

Để lánh xa hưởng phúc tạo nhà.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

THÚC HỐI

Thúc: Giục, không để cho chậm trễ. Hối: Giục, thúc.

Thúc hối, như chữ “Hối thúc”, là giục liên hồi, liên tiếp, vì không muốn chậm trễ.

Như: Để thủng thẳng người ta làm, chớ thúc hối quá sao mà làm được.

Trống đã giục con nào lơi dạ,

Thúc hối mau bươn bả kịp kỳ.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Chuông tỉnh thế rền vang thúc hối,

Ðuốc huệ soi dẫn lối thoát trần.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THÚC PHƯỢC

束 縛

Thúc: Buộc. Phược: Trói.

Thúc phược là trói buộc. Như: Danh lợi là sợi dây vô hình thúc phược người hành đạo.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Nếu thân ắt hữu tội chỉ đê đầu cúi xin Ðức Chí Tôn giảm bớt cái nạn ấy trong buổi Bần Ðạo đang đảm nhiệm thì quốc dân Việt Nam đã bị thúc phược muốn làm cũng không đặng, muốn nói cũng không ai nghe, vì nòi giống của chúng ta thiếu tâm đức, thiếu quyền hành chánh trị.

Danh lợi lánh xa vòng thúc phược,

Tinh thần quyết tạo nghiệp tương lai.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THÚC TỀ

Thúc Tề là em của Bá Di, con của vua Cô Trúc ở cuối đời Thương, đầu đời Châu. Vua cha truyền ngôi cho Thúc Tề, Thúc Tề không chịu, nhường lại cho Bá Di cho phải lẽ. Bá Di cũng không chịu, nhường lại cho Thúc Tề để tuân lệnh cha. Hai anh em không ai chịu nhận rồi cả hai trốn vào núi ở ẩn.

Khi Võ Vương cử binh đi đánh Trụ, Thúc Tề cùng anh đến trước đầu ngựa can ngăn, nhưng Võ Vương không chịu nghe, sau diệt được vua Trụ, lên làm vua xưng hiệu nhà Châu, thiên hạ đều thần phục, chỉ Bá Di, Thúc Tề không thờ nhà Châu và không chịu hưởng lộc nhà Châu.

Xem: Di Tề.

Hành thuyền kỵ mã miệng đời chê,

Thầy tưởng thân con tỉ Thúc Tề.

(Đạo Sử).

Cơ duyên mong được ngày tương hội,

Nhắc chuyện Thúc Tề với Bá Di.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THÚC THÁCH

Thúc: Giục, không để cho chậm trễ. Thách: Đưa ra điều kiện để tranh đua.

Thúc thách là thúc giục và thử thách.

Câu “Lấy kinh luân thúc thách quần hồng” ý muốn nói lấy kinh luân để thúc giục và thử thách người phụ nữ tài ba.

Dụng văn hoá trau tria nữ phách,

Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THÚC THỦ

束 手

Thúc: Buộc, bó. Thủ: Tay.

Thúc thủ là bó tay, đành phải chịu, không có cách gì có thể giải quyết được.

Như: Chuyện vừa xảy ra, nó đoán trước rồi nhưng không có cách nào hơn đành phải chịu thúc thủ.

Đó thật là điều khó khăn, nhưng không phải là một sự khó khăn làm cho ta phải thúc thủ vô sách.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THỤC

1.- Thục là thuộc, quen. Như: Thuần thục, thục thủ, thành thục, thục luyện.

Tịnh cho thuần thục tức là luyện cho cái khí Hậu Thiên tiếp Tiên Thiên hiệp với tánh Phật, Tiên cùng hư vô chi khí.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

2.- Thục có nghĩa là thuần hậu, hiền hoà, không dùng một mình.

Như: Trinh thục, trước kia bà là người thục nữ, gia đình đó có một con dâu hiền thục.

Quần xoa đỡ ngọn binh đao,

Xây hình thục nữ giặm màu nước non.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Thục là tên một nước về đời Tam Quốc bên Trung Hoa, nay là tỉnh Tứ Xuyên. Như: Thục Nguỵ Ngô, phò Lưu dựng Thục.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Hớn Thọ Ðình Hầu Quan Vân Trường buổi nọ là một vị tướng của Thục tức của Lưu Bị. Ta thấy đại nghĩa của Ngài trung can nghĩa khí của Ngài nhứt là về bằng hữu chi giao, tình nghĩa đối với bạn hữu của Ngài, dám chắc dầu chúng ta dân tộc Việt Nam hằng chịu ảnh hưởng văn hoá của Nho Tông, chưa có được người nào đã giống như Ngài vậy.

Tiết nghĩa trung can Hớn đảnh xây,

Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngô chưa quét Thục Ngụy tranh phong,

Một dãy non sông chứa bá tòng.

(Đạo Sử).

4.- Thục là chuộc về.

Như: Đem tiền đi thục ruộng, đoái công thục tội, thục mệnh (chuộc mạng).

Còn linh hồn nào trong sạch thì đặng nhập vào cõi hư linh hay là đặng chung lộn với người trên dương khí mà lo giúp đỡ cho thế gian chờ ngày đoái công thục tội...

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THỤC ĐẾ

蜀 帝

Thục Đế là tên một giống chim, còn gọi là Tử quy hay Đỗ vũ hay Đỗ quyên.

Chim Đỗ quyên có miệng lớn, đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng. Tiếng kêu của nó réo rắt, buồn thảm, khiến người lữ khách động lòng nhớ quê hương.

Tương truyền, Thục chúa Đỗ Vũ thông dâm với vợ Biết Linh và sau đó truyền ngôi lại cho Biết Linh, rồi bỏ nước mà ra đi. Sau chết, Thục Đế hoá thành chim Đỗ quyên ngày đêm kêu mãi vì nhớ nhà nhớ nước.

Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Khúc đâu êm ái xuân tình, Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?

Lắng giọng Đỗ quyên gào hận tiếc,

Tưởng hồn Thục đế gọi xuân về.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

THỤC NỮ

淑 女

Thục: Hiền lành trinh thuận. Nữ: Người con gái.

Thục nữ dùng để chỉ người con gái hiền lành nề nếp, trinh thuận.

Kinh Thi có câu: Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu 窈 窕 淑 女, 君 子 好 逑, nghĩa là người thục nữ yểu điệu, nghĩa là con gái nết na xinh đẹp, xứng đôi cùng người quân tử.

Đừng cho nhiễm lấm thân thục nữ,

Chốn phòng the cứ xủ rèm là.

(Nữ Trung Tùng Phận).

May gặp cơn lặng nước êm thuyền,

Mình dễ thế giao nguyền cùng thục nữ.

(Phương Tu Đại Đạo).

Thân yểu điệu chịu danh thục nữ,

Để cho ai rộng chữ hảo cừu.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THUÊ

Thuê là dùng người hay vật trong một thời gian, với điều kiện trả một khoản tiền trong thời gian sử dụng. Như: Cày thuê, cuốc mướn, thuê nhà, thuê ruộng.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Ta thử tưởng tượng như ta làm cha mẹ đương giữ đại nghiệp cho con, phần hương hoả đó rất vĩ đại, trong thời buổi còn niên thiếu cho nó đi ra ngoại quốc du học rồi lúc ở ngoại quốc nó không đủ phương sanh sống, cái gia nghiệp ấy nó chưa được hưởng mà không ai giúp đỡ tự nó tìm kế làm thuê làm mướn với tài hay mà sống.

Mẹ cả đời chịu phận cửi canh,

Cha mãn kiếp lao thân, thuê mướn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THUẾ

Thuế: Tiền mà dân chúng phải nạp cho nhà nước để dùng vào những việc lợi ích chung.

Như: Thuế thương nghiệp, sưu cao thuế nặng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hai phần ba để vào công nho làng, một phần ba nạp cho triều chánh của nhà Vua, nên không có lấy thuế bằng tiền bạc.

Sinh thời cộng hưởng vui xâu thuế,

Kích nhưỡng nhi ca khỏi chiến chinh.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THUẾ SƯU

稅 搜

Thuế: Tiền mà dân chúng phải nạp cho nhà nước để dùng vào những việc lợi ích chung. Sưu: Hay sưu dịch là mỗi năm người dân phải làm một số ngày nhứt định những công việc cho nhà nước. Như đào kênh, vét sông...

Thuế sưu là nói nghĩa vụ đóng góp hằng năm của người dân phải có đối với nhà nước.

Chớ làm con giặc tôi loàn,

Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.

(Kinh Sám Hối).

Điền viên đất nổi lên vàng,

Oằn vai nông chịu muôn ngàn thuế sưu.

(Ngụ Đời).

Lương bổng hẹp hòi thân bộc lại,

Thuế sưu oằn oại phận tôi đòi.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

THUI THỦI

Thui thủi là lẻ loi, cô đơn, tức chỉ có một mình lặng lẽ, không ai làm bầu bạn.

Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có câu: Từ đây góc bể chân trời, Nắng mưa thui thủi quê người một thân.

Bảo Pháp Chơn Quân khuất bóng rồi,

Từ đây thui thủi một mình tôi.

(Thơ Hiến Pháp).

Trong đục mơ màng đôi bến nước,

Sớm hôm thui thủi một thân già.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THÚI

Hay “Thối”.

1.- Thúi, như chữ “Thối”, là nói về mùi khó ngửi, trái với thơm.

Như: Hôi thúi, mắm thúi, bãi rác bay hơi thúi, thịt đã sình thúi, phân chuồng thúi.

Sang trọng làm chi bả thúi tanh,

Ðua nhau rộn rực đẩy xô giành.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

2.- Thúi, như chữ “Thối”, là nói về các sinh vật hay mầm thực vật đã bị hư hoại, đã chết.

Như: Khoai tây thúi, xác chuột chết bay hơi thúi, hạt mầm thúi.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Tà mị cũng như một hột lúa bị hẩm mà thúi thì thế nào mọc đặng mà sanh bông trổ trái.

Nọc ăn máu nước thúi ruồng,

Khô khan lạc khí hao mòn hồn tinh.

(Ngụ Đời).

 

 

THÚI HÔI

Hay “Thối hôi”.

Thúi (thối): Có mùi khó ngửi như mùi phân tươi hay mùi xác chết lâu ngày. Hôi: Có mùi thức ăn để lâu ngày.

Thúi hôi, như chữ “Thối hôi”, là có mùi thúi và mùi hôi, không chịu nổi.

Thúi hôi còn dùng để chỉ sự xấu xa, đê tiện.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Ðáng lẽ khi bước vô Bửu Ðiện, đi ngang qua Hiệp Thiên Ðài thấy toàn màu đỏ, màu đỏ thuộc về xác thịt, vậy đi qua rồi phải tịnh tâm. Qua không nói ai, vì trước mỗi buổi đều tắm rửa, vô đó, dầu hình thể của mấy em có nhơ nhớp, thúi hôi, cùi đày mà cái tâm của mấy em trong sạch đó là tâm vô tội.

U ám mịt mờ màu thảm đạm,

Thúi hôi nhơ nhớp cảnh đìu hiu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THÚI ÒM

Hay “Thối òm”.

Thúi (thối): Có mùi khó ngửi.

Thúi òm, như chữ “Thối òm”, là thối rùm, thối ùm, có mùi hôi rất nặng ở một diện rộng.

Như: Đống rác thúi òm, quần áo lâu giặt thúi òm.

Đừng để dơ cứt đái thúi òm,

Quần áo trẻ thăm lom coi giặt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THÚI RUỒNG

Hay “Thối ruồng”.

Thúi (thối): Có mùi khó ngửi như mùi phân tươi hay mùi xác chết lâu ngày. Ruồng: Luồn sâu ở bên trong, ăn thông ở bên trong.

Thúi ruồng, như chữ “Thối ruồng”, là thúi và ăn luồn vào bên trong.

Nọc ăn máu nước thúi ruồng,

Khô khan lạc khí hao mòn hồn tinh.

(Ngụ Đời).

 

 

THÚI THA

Hay “Thối tha”.

Thúi (thối): Có mùi khó ngửi như mùi phân tươi hay mùi xác chết lâu ngày.

Thúi tha. Như chữ “Thối tha”, là hôi thúi, không thể ngửi được.

Thúi tha còn có nghĩa là xấu xa, tồi tệ đến mức khó thể chấp nhận được.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo thuyết điều ấy cốt yếu nói cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, dầu cho hàng tín đồ nam nữ dĩ chí Đại Thiên Phong cũng vậy, mỗi phần tử Thánh Thể của Ngài phải biết cái mạnh của mình là cái sống thật, cái yếu của mình là cái sống giả, phải có can đảm hy sinh cái chết, cái thi hài thúi tha của ta đây đặng mà đạt cho đặng cái danh hằng sống và chúng ta đặng ngôi vị Thiêng Liêng Hằng Sống nơi cửa Thiêng Liêng kia của Ngài đã dành để, tức nhiên là đại nghiệp của Ngài đã chia chung cho mỗi đứa con.

Có ngày hư nát cửa nhà,

Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng.

(Kinh Sám hối).

 

 

THUỲ DƯƠNG

垂 楊

Thuỳ: Rũ xuống. Dương: Hay liễu, loại cây cành mềm, lá dài và nhỏ.

Cây dương liễu cành mềm, lá rũ xuống, nên người ta gọi là “Thuỳ dương”.

Đêm vườn ngự xác xơ cảnh sắc,

Hàng thuỳ dương ngơ ngác đứng yên.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

THUỲ TỪ MẪN KHỔ

垂 慈 憫 苦

Thùy từ: Rủ lòng thương. Mẫn khổ: Thương xót, hay lo lắng cho cảnh khổ.

Theo bài kinh Nho Giáo, “Thuỳ từ mẫn khổ” là nói về Đức Khổng Tử là người thường rủ lòng thương xót những khổ cảnh của con người.

Thật vậy, Đức Khổng Tử là một người rất nhân hậu, hễ thấy ai đau đớn, buồn rầu, khổ sở thì Ngài động lòng thương xót. Chương Thuật Nhi có kể lại rằng: Tử thực ư hữu tang giả chi trắc, vị thường bão dã. Tử ư thị nhật, khốc tắc bất ca. 子 食 於 有 喪 者 之 側, 未 嘗 飽 也. 子 於 是 日, 哭 則 不 歌, nghĩa là Đức Phu Tử mà ngồi ăn bên cạnh người có tang thì ăn không no. Ngày nào có đi phúng điếu về thì suốt cả ngày không đàn hát.

Do tính thương người mà suốt đời Ngài phải bôn ba chu du khắp các chư hầu, mong đem cái Đạo mình ra để bảo toàn sự sống cho nhơn dân. Ngài muốn giúp đời nên chủ trương chính sách “nhập thế”, khiến trước đây, có một người nước Sở là Tiếp Dư cho Ngài không thức thời, chẳng biết cái lẽ lánh đời, nên làm bài hát “Phụng Hoàng” để kích bác Ngài. Người đời sau vì tôn sùng Đức Khổng Tử nên cho Lục Thông là kẻ nói bậy, và đặt cho cái tên hiệu là Sở Cuồng (thằng điên nước Sở).

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta thấy “thùy từ mẫn khổ” của Ổng (chỉ Đức Chí Tôn) vô tận vô biên, từ thử đến giờ, thùy từ mẫn khổ nó buộc ta rằng: Cái lẽ sống của ta không phải sống trong hạnh phúc của ta, mà ta sống trong hạnh phúc của toàn thể con cái của Ngài.

Ứng mộng bảo sanh,

thùy từ mẫn khổ.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THUỶ

1.- Thuỷ là nước. Như: Bình thuỷ (bèo nước), ngư thuỷ, thuỷ triều, thuỷ tai.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Ðức Chí Tôn thấy nhơn loại không giữ vững thiên lương đức tánh mới làm ra trận Ðại Hồng thuỷ, cho nên mới có thế giới mới ngày nay.

Hạnh phùng bình thuỷ thân an tại,

Nhược ngộ phong ba phận đảo huyền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mảng đeo đai hai chữ vận thời,

Như bèo bọt nổi trôi giòng khổ thuỷ.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thuỷ còn đọc là “Thỉ”, là trước, đầu, mới bắt đầu. Như: Ăn ở có thuỷ có chung, thuỷ chung như nhất, nguyên thuỷ, khởi thuỷ.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Ðạo nhơn luân khởi thuỷ từ hôn nhơn, mà Nho phong đã định cho cha mẹ vi chủ, nếu để cho đứa con vi chủ thì chỉ có hư mà thôi, mà gia đình hư tức nhiên sẽ có ảnh hưởng tới xã hội vậy.

Tình chung thuỷ ví dầu nồng mặn,

Lại nhờ ai lên thẳng mối tơ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THUỶ CHUNG

始 終

Thuỷ: Lúc đầu. Chung: Lúc cuối.

Thuỷ chung là việc có trước có sau, rức chỉ cách đối xử trước sau như một, không có thay đổi.

Như: Vợ chồng phải ăn ở thuỷ chung

Hoặc là tròn nghĩa thuỷ chung,

Hoặc là chia dạ não nùng với con.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Thành tâm, Mẹ phải chứng đàn,

Canh khuya dạy bảo con toàn thuỷ chung.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THUỶ CHUNG NHƯ NHỨT

Hay “Thuỷ chung như nhất”.

Thuỷ chung: Đối xử trước sau như một. Như nhứt (nhất): Như một.

Thuỷ chung như nhứt, như câu “Thuỷ chung như nhất 始 終 如 一”, là trước sau như một, nghĩa là trước sau giữ một lòng, một dạ chung thuỷ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhưng mà đối với Đức Ngài thì Đức Ngài coi vàng như củi mục, thị sắc đẹp như cây khô, tước lộc cũng không màng, một tấm lòng son thuỷ chung như nhứt.

Hiệp hoà huynh đệ bằng hữu tương giao, sanh tử bất ly, thuỷ chung như nhứt.

(Sớ Văn).

 

 

THUỶ QUÁI

水 怪

Thuỷ: Nước. Quái: Lạ lùng, kỳ dị, yêu quái.

Thuỷ quái là con vật lạ lùng dưới nước. Thuỷ quái còn chỉ loài yêu quái dưới thuỷ cung.

Như: Long cung thuỷ quái.

Mỏ ngậm lửa hồng, lôi điển nhoáng,

Ðuôi lừa thuỷ quái, võ phong gây.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THUỶ TAI

水 災

Thuỷ: Nước. Tai: Nạn tai, tai ương.

Thuỷ tai là một trong Tam tai gồm: Thuỷ tai, Hoả tai, Phong tai.

Thuỷ tai là tai nạn do nước gây ra. Thường dùng để nói đến những trận lũ lụt, sóng thần.

Như: Miền Trung dân bị thuỷ tai hư hại mùa màng.

Nạn tương sát Thần sầu quỷ khốc,

Nạn thuỷ tai động đất lan tràn.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

 

 

THUỶ TỔ

始 祖

Thuỷ: Trước, đầu, mới bắt đầu. Tổ: Người được coi là đầu tiên lập ra một dòng họ.

Thuỷ tổ là ông tổ đầu tiên lập ra một dòng họ, hoặc chỉ người sáng lập ra một tông phái, hoặc người sáng lập ra cái gì trong lịch sử.

Cho nên từ Ðức Khổng Tử trở đi, cái học của Nho gia được gọi là Nho Giáo và Ðức Khổng Tử được tôn là thuỷ tổ của Nho Giáo.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THUỶ THỔ

水 土

Thuỷ: Nước. Thổ: Đất.

Thuỷ thổ là khí hậu, phong thổ ở một vùng nào đó.

Như: Mới đến nên chưa quen thuỷ thổ miền núi, người tu hành phải biết ơn thuỷ thổ.

Lo xây nền lập Ðiện, đem hết lòng tu bổ, trót mấy thu từng trải mảnh hình hài,

Lo trẩy gốc ven đường, dâng trọn tấm nhiệt thành, bao nhiêu tuổi đủ đền ơn thuỷ thổ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

THUỶ TRIỀU

水 潮

Thuỷ: Nước, dòng nước. Triều: Con nước ở sông, ở biển khi lên khi xuống.

Thuỷ triều là con nước ở sông hay biển khi lên khi xuống, mỗi ngày đêm hai lần. Hiện tượng này có được là do bởi sức hút của mặt trăng và mặt trời. Người bình dân thường gọi là con nước lớn ròng.

Trong Thánh Ngôn có câu: Công chỉ dẫn của Thầy phải lững đững theo giọt thuỷ triều, mà rồi rốt cuộc lại, bến khổ cũng chưa xa, ngôi xưa còn lánh mãi. Thảm thay! Tiếc thay!

Thuỷ triều vận tải biển đông,

Lòng hằng dường ấy phước đồng ăn chay.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THỤY VŨ

瑞 雨

Thụy: Điềm tốt, lành. Vũ: Mưa.

Thụy vũ là cơn mưa ứng với điềm lành, như mồng một tết có mưa, là mưa ứng với điềm lành được mùa.

Thụy vũ còn dùng để chỉ ơn mưa móc của vua ban xuống cho các cung nhân.

Thuỵ vũ dầm chan mùa phước nhỏ,

Tường vân nằm ngắm bức tranh treo.

(Thơ Hoàn Nguyên).

Lời nguyện dâng luôn lời thuỵ vũ,

Tấc thành soi thấu bóng Cao quang.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THUYÊN BỔ

銓 補

Thuyên: Đổi đi làm công tác khác ở nơi khác. Bổ: Bổ dụng, tức dùng làm quan và đưa đi nhận nhiệm sở.

Thuyên bổ là bổ nhiệm một vị quan hay một vị chức sắc trong tôn giáo từ chỗ này qua địa phận khác.

Theo Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, những chức sắc thuyên bổ không đi được xếp vào tội không tùng mạng lịnh Hội Thánh, bị phạm Đệ nhị hình thì giáng cấp tới tín đồ hay buộc hành Đạo ngoại quốc, trừ Ai Lao và Tần Quốc.

Trong Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn: Về mặt khác, Hội Thánh lo Phổ biến Giáo lý, lại còn thuyên bổ Chức Sắc đi khắp các nơi, để giúp cho Đạo Hữu thông hiểu Giáo Lý và thể hiện Đạo đức. Việc làm tuy phô diễn hình thức, nhưng tựu trung đều nhắm vào hai chữ Phổ Độ.

Các Chức sắc trấn nhậm mấy Thánh Thất phải do nơi quyền Người (Thượng Phẩm) thuyên bổ, liệu lượngh tầi sức mỗi người mà chỉ định phận sự.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THUYÊN DŨ

痊 癒

Thuyên: Bớt, đỡ, lành bịnh. Dũ: Khỏi bịnh.

Thuyên dũ là khỏi bịnh hẳn, hết bịnh. Như: Hai năm bác sĩ tận tình chữa trị, bệnh đã thuyên dũ.

Chú thích: Trong mẫu Sớ Văn bằng chữ Quốc ngữ được lưu hành khắp các địa phương, có nhiều bản viết: “Thiên dũ”, là không đúng chánh tả.

Thọ bệnh trầm kha, diệu dược bất năng thuyên dũ.

(Sớ Văn).

 

 

THUYÊN GIẢM

痊 減

Thuyên: Bớt, đỡ, lành bịnh. Giảm: Bớt đi.

Thuyên giảm là nói bệnh có giảm nhẹ, đỡ, bớt một phần nào đó.

Như: Bịnh đã thuyên giảm, nó hết mê nhờ thuyên giảm cơn sốt.

Thánh giáo Đức Hộ Pháp có dạy: Hội Thánh đã có lập đàn cầu nguyện rồi, nhưng còn phải tuỳ oan trái, nếu các bạn có lòng thương Bảo Thế thì mỗi khi cúng thời Tý, ráng thành tâm cầu Ơn Trên bố đức cho cơn bịnh mau thuyên giảm.

Trong những ngày đầu, thấy căn bịnh Ngài (Tiếp Pháp) được nhiều thuyên giảm thì ai ai cũng có lòng mừng.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THUYỀN

Thuyền là loại phương tiện giao thông nhỏ trên mặt nước, hoạt động bằng sức người, sức gió hay động cơ.

Như: Thuyền buồm. thuyền chài, thuyền đánh cá.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Thảm thay! mà cũng tiếc thay! Gió khuất thuyền đưa, nhạn về rừng cũ. Con đường đạo hạnh đợi buổi khuất dấu, mờ mệt nét rêu phong, mới sửa soạn lần chơn, âu dễ biết vô phần hay hữu phúc.

Thìn dạ bước dìu sanh chúng độ,

Nương thuyền mới trọn thoát qua sông.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thắt dạ thuyền xưa không đậu bến,

Ðau lòng hạc cũ chẳng về tùng.

(Đạo Sử).

Nhường nhịn gắng qua cơn khảo lớn,

Ngược xuôi mong vững chiếc thuyền con.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

THUYỀN BÁ

船 柏

Hay “Thuyền bách”.

Thuyền: Một loại phương tiện giao thông nhỏ trên mặt nước, chạy bằng sức người, sức gió. (bách): Gỗ bá.

Thuyền bá hay thuyền bách, như chữ “Bách châu 柏 舟”, là chiếc thuyền làm bằng gỗ bá hay gỗ bách.

Do điển Bà Cộng Khương, vợ của Vệ Thái tử, sau khi Thái tử chết, thủ tiết không chịu tái giá. Cha mẹ bà cố ép vẫn không chịu và làm bài thơ “Bách châu 柏 舟” để tự răn mình.

Xem: Bách châu.

Thương con thuyền bá nương buồm,

Thương dòng nhi nữ chứa hờn Tương giang.

(Thất Nương Giang Bút).

Bởi thuyền bá sóng xao biển ái,

Bởi non thề sương trải lạnh lùng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THUYỀN BÁT NHÃ

Thuyền: Chiếc thuyền. Bát Nhã: Dịch âm chữ Phạn Prajna, nghĩa là trí tuệ.

Thuyền Bát Nhã tức là lấy trí tuệ sáng suốt của Phật, đó là Phật pháp để làm con thuyền đưa con người qua khỏi biển khổ để đến bên kia bờ “Giác ngạn”.

Con người vì bị vô minh che lấp, để cho thất tình lục dục cám dỗ, sai khiến, chừng nào phá được bức màn vô minh, tức đạt được trí tuệ thì mới mong đến cảnh Cực Lạc được. Trí tuệ ấy được ví như chiếc Thuyền Bát Nhã, đưa con người đến cảnh Cực Lạc, đắc Đạo.

Về thể pháp, trong Đạo Cao Đài chiếc Thuyền Bát Nhã có hình một con rồng vàng, được đóng bằng gỗ, nơi thân rồng có cái nhà vàng để đặt quan tài người chết đưa đến huyệt mộ chôn cất.

Thánh giáo Thầy dạy: Than ôi! Chới với cả muôn triệu giữa dòng, mà thuyền Bát Nhã độ người không mấy kẻ. Ðức thừa ít có, mà tài vô dụng chẳng thiếu chi.

Nương thuyền Bát Nhã cho an,

Dìu chừng con cháu vào đàng nghĩa nhân.

(Kinh Thế Đạo).

Hứng giọt Ma Ha lau tục luỵ,

Ngừa thuyền Bát nhã thoát mê tân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trương thẳng cánh con thuyền Bát nhã,

Cổi đau thương giải quả trừ khiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THUYỀN ĐẠO

Thuyền: Vật dùng để chuyên chở trên mặt nước. Đạo: Tôn giáo.

Thuyền Đạo là chỉ nền tôn giáo.

Triết lý tôn giáo cho rằng chúng sanh bị chìm đắm trong sông mê, tôn giáo được ví như chiếc thuyền có bổn phận đưa người vượt qua bể khổ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Xin thưa rằng: Trị nước an dân thì có nhà cầm quyền Quốc gia, lèo lái con thuyền Ðạo thì có nhà lãnh đạo tinh thần của Tôn Giáo.

Linh ứng hộ trì cờ cứu khổ,

Đỡ nâng thuyền Đạo lướt phong ba.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Thuyền Đạo vượt qua hồi cách trở,

Trời xuân đem lại cảnh vui vầy.

(Thơ Thái Phong).

 

 

THUYỀN HUỆ

Thuyền: Một vật dùng để đi và chuyên chở theo đường thuỷ. Huệ: Hay tuệ là sự sáng suốt thông hiểu rốt ráo đạo lý.

Thuyền huệ là chiếc thuyền trí huệ, còn gọi là thuyền bát nhã. Theo Phật, trí huệ được ví như con thuyền chở chúng sanh vượt qua biển luân hồi sinh tử sang đến bờ Niết Bàn giải thoát.

Mảnh thân xin gởi bấy chừ,

Nương theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Tiếng chuông thức giấc huỳnh lương,

Toan nương thuyền huệ vào đường vĩnh sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THUYỀN LAN

船 蘭

Thuyền: Một vật dùng để đi và chuyên chở theo đường thuỷ. Lan: Gỗ cây mộc lan.

Thuyền lan: Thuyền làm bằng gỗ mộc lan.

Cây mộc lan là thứ cây cao lớn, lá hình quả trứng. Hoa bên ngoài sắc tím đậm, bên trong tím lợt. Mé sông Tầm Dương có rất nhiều cây mộc lan, do ngày xưa vua Ngô Hạp Lư trồng để lấy gỗ làm cung điện.

Cây mộc lan thường được ông Lỗ Ban đẽo làm thuyền, nên người sau hay gọi là “Thuyền lan”.

Thinh thinh một chiếc thuyền lan,

noi dòng Xích Bích,

Nhẹ nhẹ đôi con chèo quế,

dực bến Thương Lang.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

THUYỀN LINH

Thuyền: Một vật dùng để đi và chuyên chở theo đường thuỷ. Linh: Thiêng liêng.

Thuyền linh hay “Linh thuyền 靈 船”, là chiếc thuyền thiêng liêng, có nhiệm vụ cứu vớt các chơn linh xa lánh cõi hồng trần để đưa về Cực Lạc.

Thuyền linh còn có nghĩa là thuyền Bát Nhã.

Xem: Thuyền Bát Nhã.

Nầy gươm thần huệ đưa oan trái,

Nọ chiếc thuyền linh, lánh bụi hồng.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

Miền Đông Á, vẫn từ đời Bàn Cổ, xưa đã bao phen Đạo Thánh dẫn nhơn sanh,

Đất Việt Nam, khai những thuở Hồng Bàng, nay mới gặp lúc thuyền linh đưa bến khổ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

THUYỀN NAN

Thuyền: Một vật dùng để đi và chuyên chở theo đường thuỷ. Nan: Thanh tre, nứa, mỏng dùng để đan.

Thuyền nan là loại thuyền nhỏ, mỏng manh, được đương bằng nan tre, chỉ dùng để đi gần bờ.

Trong văn chương, chữ “Thuyền nan” thường dùng để ví với thân phận của người đàn bà.

Thuyền nan sợ sóng dòng khơi,

Khúc quanh co hẹp, chiều thời khúc quanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THUYỀN QUÀY LẠI BẾN

Thuyền: Một vật dùng để đi và chuyên chở theo đường thuỷ. Quày lại: Quay đầu lại. Bến: Nơi đậu của loại xe thuyền.

Thuyền quày lại bến ví với người xuất thân từ quê nhà, đi khắp tha phương để cầu thực rồi một ngày kia cũng phải quay về cố hương.

Thuyền quày lại bến, theo triết tôn giáo, còn dùng để chỉ thuyền khởi hành từ bến đậu, ra đi rồi quày lại bến, có ý nói sự trở về quê xưa vị cũ, tức trở về nguồn cội.

Thuyền sớm ra khơi quày lại bến,

Chim chiều bạt gió hướng về non.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THUYỀN QUYÊN

嬋 娟

Thuyền: Dáng xinh đẹp. Quyên: Tươi đẹp.

Thuyền quyên chỉ người đàn bà, con gái có dáng đẹp đẽ dễ thương. Thường dùng để nói về người con gái xinh xắn, dịu dàng.

Như: Trai anh hùng gái thuyền quyên.

Thiệt thòi cam phận thuyền quyên,

Chứa chan giọt lệ cửu tuyền cuộn trôi.

(Kinh Thế Đạo).

Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học,

Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THUYỀN RỒNG

Thuyền: Một vật dùng để đi và chuyên chở theo đường thuỷ. Rồng: Loài vật đứng đầu trong tứ linh.

1.- Thuyền rồng là thuyền có chạm hình rồng, dành để cho vua đi.

Hiện nay thuyền rồng là thuyền có hình rồng, dùng để đua hoặc trang trí đèn hoa trong lễ hội.

Trên trời dưới đất, rạch sông,

Máy bay xe cộ, thuyền rồng đón đưa...

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

2.- Trong đạo Cao Đài, thuyền rồng còn gọi là “Thuyền Bát Nhã”, là một phương tiện dùng để di chuyển quan tài của tín đồ, Chức việc, Chức sắc đến huyệt mộ để an táng.

Xem: Thuyền Bát Nhã.

Di quan lên chiếc thuyền rồng,

Đưa vào Cực Lạc thong dong muôn đời.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THUYỀN SEN

Thuyền: Vật đi dưới sông hồ. Sen: Bông sen.

Thuyền sen là thuyền bằng hoa sen của đức Phật dùng để rước các chơn linh đầy đủ phước đức trở về cõi Phật. Thuyền sen cũng chính là thuyền Bát Nhã.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Càn khôn càng náo nhiệt, ngày tận diệt đã hầu kề. Kẻ hữu phần đặng nắm mối Ðạo Trời, dựa chiếc thuyền sen lần vào non cao suối lặng, để rửa bớt chút bợn trần, dưỡng tánh tu thân, để nâng lên địa vị thanh cao, lánh xa đoạ luân hồi trong lúc hồn lìa khỏi xác.

Buồm trương lái vững chờ sông lệ,

Ðưa chiếc thuyền sen đến đảnh Thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đủng đỉnh thuyền sen ghé bến trần,

Cam lồ để mái giọng cao ngân.

(Bát Nương Giáng Bút).

Cùng nhau thắt chặt tình thân thiện,

Đưa chiếc thuyền sen lánh bến trần.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THUYỀN TÌNH

Thuyền: Vật đi dưới sông hồ. Tình: Tình ái, tức tình yêu trai gái; còn có nghĩa tình yêu thương.

1.- Trong văn học, Thuyền tình dịch từ chữ “Tình chu 情 舟” là chiếc thuyền chở tình yêu đôi nam nữ.

Đường Thi có câu: Nhất phiến tình chu dĩ đáo ngạn, bình trầm hoa chiết dĩ đa thời 一 片 情 舟 已 到 岸, 瓶 沉 花 折 已 多 時, nghĩa là một chiếc thuyền tình vừa tới bờ, cái bình đã chìm cành hoa đã gãytừ bao giờ.

Do vậy, Truyện Kiều của Nguyễn Du Tiên Sinh mới có câu: “Thuyền tình vừa ghé tới nơi, Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ”.

Thuyền tình chịu sóng không kham,

Xin cho phận thiếp biến làm ni cô.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Trong tôn giáo, Thuyền tình là chiếc thuyền của tình yêu thương, tình bác ái, thuyền từ bi để cứu vớt chúng sanh đang chìm đắm nơi bể khổ, tức chiếc thuyền của Đức Quan Âm Bồ Tát chèo trong biển khổ để độ chúng sanh đưa lên bờ Giác ngộ.

Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,

Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THUYỀN TỪ

船 慈

Thuyền: Chiếc thuyền. Từ: Tức từ bi, chỉ lòng thương yêu chúng sanh.

Thuyền từ do chữ “Từ hàng 慈 航” là chiếc thuyền từ bi (bè từ) của Đức Phật, cũng chính là “Thuyền Bát nhã” dùng để chở người đầy đủ phước đức vượt qua khỏi sông mê để đến bờ giác.

Trong tôn giáo, người ta ví Đạo như chiếc thuyền từ để cứu vớt chúng sanh đưa qua biển khổ.

Thuyền từ sông lệ buồm trương cánh,

Cảnh trí rừng thung khách lướt đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dòng bích thuyền từ còn đợi bến,

Thu qua gặp gió cánh buồm trương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đuốc huệ rạng soi đường tấn hoá,

Thuyền từ nhẹ tách bến luân hồi.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

THUYỀN TRƯỞNG

船 長

Thuyền: Một phương tiện giao thông trên mặt nước, hoạt động bằng sức người, gió hoặc máy móc. Trưởng: Người phụ trách chính, người đứng đầu một đơn vị tổ chức.

Thuyền trưởng là người đứng đầu để chỉ huy một chiếc thuyền lớn hay một chiếc tàu thuỷ.

Bát Nhã chi sờn trận bão to,

Chạnh thương thuyền trưởng nặng vai trò.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THUYẾT ĐÀN

說 壇

Thuyết: Giảng giải, nói lý lẽ nhằm làm cho người ta nghe theo. Đàn: Nền đắp cao, dùng để tế lễ, diễn giảng.

Thuyết đàn là đàn để thuyết pháp, hoặc để thuyết giảng giáo lý của một tôn giáo.

Thuyết đàn đã trổi thinh danh,

Thổi loa giục thức chúng sanh giấc nồng.

(Lục Nương Giáng Bút).

Truyền đạo dìu đời dường trống thúc,

Thuyết đàn độ chúng tợ chuông ngân.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THUYẾT ĐẠO

說 道

Thuyết: Dùng lời nói để giảng giải cho rõ ràng dễ hiểu. Đạo: Đạo lý, giáo lý của tôn giáo.

Thuyết đạo là giảng giải giáo lý, kinh sách hay luật pháp của nền Đạo.

Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp là một bộ sách rất quý báu cho những người cần học hỏi và tìm hiểu giáo lý của nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn. Bộ sách này do Đức Hộ Pháp đã suốt hai mươi mấy năm thuyết đạo tại Toà Thánh, Ban tốc ký ghi chép lại, rồi Hội Thánh ấn hành.

Trong Đạo Luật Năm Mậu Dần có dạy: Mỗi kỳ sóc vọng tại Thánh Thất hoặc các Đàn lệ khác, vị chức sắc đương quyền phải thuyết đạo, hoặc đọc Châu tri, Bố cáo, hay là dẫn giải những điều khuyết điểm, cùng là khuyến khích và nhắc nhở chư Đạo hữu trong đường đạo đức.

Con phải nhắc cho chúng nó và Hội Thánh phải hội một tháng một kỳ mà chỉ dẫn cho nhau về việc thuyết đạo trong mỗi đàn, nghe!

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THUYẾT GIÁO

說 教

Thuyết: Nói, giảng giải nhằm làm cho người ta nghe theo. Giáo: Giáo lý, hay giáo pháp của một tôn giáo.

Thuyết giáo là thuyết giảng giáo lý, hay giảng giải giáo pháp của tôn giáo.

Dạy về phương pháp giảng Đạo, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Phú là đọc thông sách vở đem nguyên văn ra giảng giải cho rõ nghĩa. Tỉ lấy cổ soi kim, dùng tích xưa giải hiện tại. Hứng là đứng lên giảng đài rồi phát hứng chí mà nói. Hậu thuẫn do ba môi giới nầy là: Kinh, Ðiển, Luật. Muốn Phú phải thuộc Kinh mới Phú được. Tỉ thì phải lấy điển tích ra mà ví dụ đặng so sánh. Hứng không được ngoài khuôn luật, ngoài sự thật, không được nói bậy.... nhớ ba chơn tướng trước, ba hậu thuẫn sau. Một bài thi đủ cho mình thuyết giáo rồi, với Chí Tôn điều chi cũng không khó.

Mở đường tích cực oai linh,

Cậy phương thuyết giáo vẽ thành kinh chơn.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THUYẾT PHÁP

說 法

Thuyết: Dùng lời để thu phục người. Pháp: Giáo pháp của tôn giáo.

Thuyết pháp là giảng giải giáo pháp của một tôn giáo, bao gồm thuyết về giáo lý, thuyết về kinh luật, thuyết về đạo đức...

Phần nhiều các tín đồ đã nhập môn, không để công tìm hiểu, đến nỗi Thánh giáo Chí Tôn phải than: “Than ôi! Đã bước chân vào đường đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn, thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền Thánh giáo đâu?”.

Do sự lơ đễnh việc học hỏi về Kinh sách của chư môn đồ, Thầy đã dạy Hội Thánh mỗi đàn lệ phải thuyết Đạo để nhắc nhở và dìu dẫn chúng sanh về với đường đạo đức. Thánh giáo dạy: “Các Giáo hữu phải lo lắng về phần thuyết Đạo cho kịp mỗi đàn lệ, phải trích ra một bài Thánh ngôn dạy về đạo đức và đọc cho chúng sanh nghe. Như vậy thì lời Thánh giáo như còn vẳng bên tai các môn đệ, để giục bước đường của chúng nó chẳng sụt sè vậy”.

Dìu đời với sức không kham,

Mượn quyền thuyết pháp đặng làm cơ quan.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THUYẾT PHỤC

說 服

Thuyết: Nói rõ ra, lập luận, ngôn luận. Phục: Theo, chịu, thuộc quyền.

Thuyết phục là dùng lời giải cho người ta thấy đúng, hay mà tin theo, làm theo.

Như: Lấy giáo lý Cao Đài mà thuyết phục họ, hành động tốt đẹp của anh ấy có sức thuyết phục.

Lấy lời ngọt dịu khuyên giải, phải nhẫn nại thuyết phục để trị bịnh cho họ mà họ khỏi phải tốn kém chi hết.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THUNG DUNG

從 容

Thung dung hay thong dong dùng để chỉ sự thong thả, nhàn hạ.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Nền Ðạo thung dung được đứng sững trên cõi Việt mà đùm bọc che chở những kẻ hữu phước hữu phần, nếu dần dà chẳng tỉnh ngộ mà un đúc cho cứng khối tinh thần, để nay trở bước, mai đổi đường, thì mảnh xác phàm tục kia tránh sao khỏi lối tan tành ra tro bụi.

Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,

Thung dung nhờ núp bóng Cao Ðài.

(Đạo Sử).

Thung dung quân tử hảo cừu,

Năm thê bảy thiếp mặc dầu trăng hoa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THUNG CỖI HUYÊN GIÀ

Hay “Xuân cỗi huyên già”.

Thung cỗi: Cây thung (xuân) đã cằn cỗi, chỉ người cha lúc tuổi già, ví với buổi xế tà. Huyên già: Cỏ huyên già nua nói người mẹ xế bóng.

Thung (xuân) cỗi huyên già ý nói cha mẹ trải nhiều năm sương gió, nay tuổi đã già rồi.

Than ôi! thung cỗi cội huyên già,

Năm tháng lao trần tóc điểm pha.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THUNG ĐƯỜNG

椿 堂

Thung (xuân): Một loại cây to, sống lâu, người ta thường mong cho cha sống lâu, nên ví cha với cây thung. Đường: Nhà.

Thung đường, hay “Xuân đường”, là nhà thung, dùng để chỉ người cha.

Nhìn thung đường đền ơn cúc dục,

Nhớ công sanh giữ chút hình hài.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Thế nhọc công giúp đỡ thung đường,

Để cha mẹ dựa nương như con gậy.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THUNG HUYÊN

椿 萱

Cây Thung (xuân) là một loại cây to, sống lâu, lấy 800 năm làm một mùa xuân, 800 năm làm một mùa thu, mượn để tượng trưng cho tuổi thọ. Tục mong cha được trường thọ, nên gọi cha là “Thung đường” (xuân đường).

Huyên là một loại cỏ ăn được, khi ăn vào có thể quên phiền muộn, nên còn được gọi là vong ưu thảo. Cỏ huyên thường được người xưa ví như người mẹ, vì lấy điển ở Kinh Thi: Yên đắc huyên thảo ngôn thụ chi bối (焉 得 萱 草 言 樹 之 背 ước gì được cỏ huyên mà trồng thềm bắc). Do đó người ta gọi mẹ bằng “Huyên đường”.

Thung huyên hay “Xuân huyên” dùng để chỉ cha mẹ.

Xem: Xuân đường, Huyên đường.

Càng sợ hở thung huyên phiền muộn,

Thảm bao nhiêu gắng gượng làm vui.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Vườn hạnh đượm nhuần ân võ lộ,

Rừng thiên mát mẻ cội thung huyên.

(Thơ Thái Phong).

 

 

THÚNG

Thúng: Đồ là đan khít bằng nan tre, hình tròn, lòng sâu, dùng để đựng đồ. Như: Thúng đựng gạo, lấy thúng úp voi.

Phối Thánh Phạm Văn Màng giáng cơ do Hộ Pháp và Tiếp Thế phò loan tại Phạm Nghiệp có câu: Còn mấy chị bạn của mấy ông học trò kỳ nhứt thì cứ lo miết ba cái nồi, ba cái giỏ, ba bụi chuối, ba thúng rau, hỏi chừng nào mới nên đặng?

Đố thử ai mà thúng úp voi,

Bao nhiêu phải quấy cũng ra mòi.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

Làm bên gái mẹ cha nghi bụng,

Sợ khó bề lấy thúng úp voi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỦNG

Thủng là có chỗ bị rách, bị chọc thành lỗ xuyên qua một vật gì đó.

Như: Cái thùng thiếc bị thủng đít, ánh nắng xuyên qua lỗ thủng trên tấm cửa gỗ.

Tầng đá lớn mới vừa đục thủng,

Chiếc dùi con co rúng đôi lần.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THỦNG THẲNG

Hay “Thủng thỉnh

Thủng thẳng hay “Thủng thỉnh”, là chậm rãi, từ từ, như không có gì cần thiết vội vàng. Như: Cứ thủng thẳng mà làm, đừng nên vội hư việc.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Muốn thành tựu Nhơn Đạo ấy họ phải thông minh trí thức lịch duyệt thế tình, thông minh trí thức phải học, lịch duyệt thế tình họ phải chuyên nghiệp lấy họ, nghiệp làm quan ấy, vì cớ cho nên một ông quan mới đầu tiên thủng thỉnh bực nhỏ lên cao, học đặng chuyên chú nghệ nghiệp của họ, cốt yếu họ cầm quyền trị dân ấy đặng chi, họ mong mỏi gì, họ mong mỏi cho cả toàn dân được hạnh phúc cả cái sống còn của dân được bảo thủ, cái sanh hoạt của dân được hoà ái tương thân, thật ra họ không có đi ngoài khuôn khổ Tam Cang Ngũ Thường của văn minh ta lưu lại từ thử đến giờ.

Thầy cũng có phép răn trị kẻ vạy tà, các con duy có trông cậy nơi Thầy, bước đường cứ thủng thẳng đi lần tới, đừng gấp quá, mà cũng chớ thối lui...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THUỐC

1.- Thuốc là chất lấy ở khoáng vật, động vật hay thực vật, dùng để chữa bệnh.

Như: Thuốc chữa bệnh, thuốc đau mắt.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Cắt ruột, ai lại không đau, nếu Thầy không cầu khẩn Thái Bạch đình hình phạt lại cho tới ngày lập thành Toà Thánh, các con lấy công mà chuộc tội, thì trong các con chẳng đặng còn lại một phần mười, các con nên lấy lời răn Thầy đây làm vị thuốc khử tội của các con.

Phước Thiện chứa thuốc kim đơn,

Phước Thiện cứu thế khỏi cơn thảm sầu.

(Thất Nương Giáng Bút).

Rượu cúc Bàn đào chờ hội ẩm,

Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thuốc còn dùng những chất độc làm thành, để hại đến tính mệnh người, hay loài vật.

Như: Thuốc độc, thuốc trừ sâu, thuốc giết cá.

Phạt răn quến gái, dụ trai,

Bày ra thuốc độc, phá thai tuyệt loài.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THUỐC CÁ

Thuốc: Chất được chế biến dùng để gây độc. Cá: Động vật có xương sống ở nước, thở bằng mang, bơi bằng vây.

Thuốc cá là dùng thuốc độc để bắt cá.

Như: Muốn làm vệ sinh ao, phải thuốc cá dữ để bảo vệ giống nuôi.

Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá,

Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THUỐC ĐỘC

Thuốc: Chất được chế ra để chữa bịnh hay gây tác dụng nào đó đối với cơ thể. Độc: Chất có tác dụng làm hại sức khoẻ hay gây chết người.

Thuốc độc là chất độc dùng để giết người hay các loài vật, hoặc chỉ thuốc chữa bịnh có chất độc.

Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Bần Ðạo biểu Thái Bính Thanh cứ lo thuốc cho Tiếng, nhưng trước khi uống phải dâng lên Ðiện mà cầu Thầy nghe à! Dầu Tiếng uống thuốc độc cũng mạnh...

Phạt răn quến gái, dụ trai,

Bày ra thuốc độc, phá thai tuyệt loài.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THUỐC MEN

Thuốc: Chất thảo mộc hoặc hoá học được chế biến dùng để phòng, hoặc chữa bệnh.

Thuốc men nói chung là những loại thuốc dùng để phòng hoặc chữa bệnh.

Như: Nhiều loại thuốc men có tác dụng phụ.

Thân thể dạy giữ gìn tinh sạch,

Thường thuốc men cho huyết mạch điều hoà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THUỘC

1.- Thuộc là quen, làu, thạo. Như: Học thuộc bài, đi thuộc đường, thuộc hết tính nết từng người.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngoài ra có ông bạn ai cũng đều biết là nhà thi sĩ danh tiếng, Bần Ðạo dám chắc nội trong Nam Bộ chúng ta đây chưa có ai bằng, nỗi danh thi sĩ đứng đầu hết thảy là người ấy, không biết chứng cớ gì mà người mê thi phú của Ðức Chí Tôn quá chừng quá đổi, đến nước người thuộc lòng thi phú của Ðức Chí Tôn, rồi người hoạ lại với Ðức Chí Tôn, người làm như mê man vậy.

Nguyện các Đấng đương chầu Bạch Ngọc,

Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.

(Kinh Thế Đạo).

Thuộc lòng hai chữ ái nhơn xưa,

Phải đức trái oan trả nợ thừa.

(Đạo Sử).

Dạy gắng học sử kinh lảu thuộc,

Thấy gương hay trau chuốt lấy thân mình.

(Phương Tu Đại Đạo).

2,- Thuộc là phụ về, nhập vào, theo với. Như: Của nầy thuộc ai, thuộc quyền sai khiến, lệ thuộc.

Thánh giáo Thầy có dạy: Người sống trên thế gian nầy, dầu thuộc giống dân nào, cũng chỉ có một Cha chung mà thôi., ấy là Trời đang chế ngự số mạng của các con. Tại sao các con lại chia rẽ nhau vì sự bất đồng Ðạo lý, mà chính tất cả các con đều phải chung chịu đau khổ để rửa tội của các con ở cõi thế gian nầy?

Bao nhiêu lệ thuộc không nao núng,

Đánh đuổi xâm lăng chí quật cường.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THUỘC ĐỊA

屬 地

Thuộc: Phụ về, nhập vào, theo với. Địa: Đất đai của một nước.

Thuộc địa là nước hoặc vùng bị một nước khác chiếm đoạt, mất chủ quyền.

Như: Các nước hùng mạnh có nhiều thuộc địa, cuộc đấu tranh của các nước thuộc địa.

Giang san gấm vóc điêu tàn,

Nam Kỳ thuộc địa Pháp đang trị vì.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THUỘC HẠ

屬 下

Thuộc: Phụ về, ở trong phạm vi sở hữu, dưới quyền điều khiển của đối tượng nào đó. Hạ: Dưới.

Thuộc hạ là người cấp dưới trực tiếp dưới quyền một viên quan, trong quan hệ với viên quan ấy.

Như: Chức sắc hành chánh không nên dùng lời nặng nhẹ để khiển trách thuộc hạ.

Người trên không sẳn lòng nâng đỡ kẻ dưới cho được thành công vì kẻ đó không phải thuộc hạ thân tín của mình...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THUỞ

Thưở (thủa) là lúc, khi, tức chỉ khoảng thời gian không xác định đã lùi xa vào quá khứ, hoặc thuộc về tương lai xa. Như: Thuở xưa, thuở trước, muôn thuở.

Thánh giáo Thầy có dạy: Kẻ phàm dầu ly hương thuở ấu xuân đi nữa, lòng hằng hoài vọng. Chí Thánh dầu bị đoạ trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh. Nếu chẳng vậy, ai còn dám ưng thuận hạ thế cứu đời?

Lập Ðạo dầu nên ngàn thuở để,

Nêu danh hậu thế tiếng bền dai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Một dải đồng tâm bao thuở nối,

Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

THUỞ XƯA

Thuở (thủa): Lúc, khi. Xưa: Thuộc về thời gian đã qua rất lâu rồi.

Thuở (thủa) xưa là thời xưa, tức thời đã qua lâu.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trong một bài Thánh giáo, Ðức Chí Tôn có nêu gương hai nhà hiền triết thuở xưa mà đời còn nhắc nhở trong hai câu: “Hớn Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục, Hạng Trọng Sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền”.

Sống thì định bá đồ vương,

Quy Thiên dựng lại miếu đường thuở xưa.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THỤT

Thụt: Rụt lại, rụt vào, tức là tụt lại phía sau hoặc tụt thấp xuống. Như: Thụt cổ, đi thụt về phía sau.

Thánh giáo Thầy dạy cách đi lễ có đoạn: Phết trước mấy dấu ngón chơn mặt, giơ lên, phết qua một cái đặng làm cái chấm... Ðứng hai chơn cho ngang nhau. Con phết đi, đứng thụt lại

Co cẳng muốn vào rồi lại thụt,

Biểu thương sao đặng buộc người thương?

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Vùn vụt tiếng roi quơ nhấp nhoáng,

Mờ mờ cảnh vật thụt thùi lui.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THỤT LÙI

Thụt: Tụt lại phía sau hoặc tụt thấp xuống. Lùi: Di chuyển ngược về phía sau, sa sút.

Thụt lùi là chuyển động lùi dần phía sau. Như: Đi thụt lùi, bò thụt lùi.

Thụt lùi còn có nghĩa sút đi so với trước, về mặt cố gắng và thành tích đạt được.

Cảnh vật thụt lùi qua vạn dặm,

Ngựa xe rần rộ lướt ngàn cây.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THƯ

1.- Thư hay “Thơ” là sách.

Như: Thư điếm, thư hiên, thư hương, thư phòng, thư trai, binh thư, thiên thư.

Bởi bo bo chuộng nết yêu đào,

Chẳng đếm bực thư hào đồng phẩm vị.

(Phương Tu Đại Đạo).

Thơ, như chữ “Thư ”, là sách. Như: Thiên thơ, Binh thơ đồ trận, thơ sanh.

Thánh giáo Thầy có câu: Nơi Thiên thơ đã có dấu ràng ràng. Các con có đi tranh luận cũng nhọc công vô ích. Kẻ hữu phần, người vô phước, tin tin, không không, cũng chẳng sửa cơ Trời đặng.

Về đông hết kế Tử Phòng,

Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.

(Ngụ Đời).

2.- Thư là tiếng gọi người con gái còn trẻ tuổi. Như: Tiểu thư, anh thư nữ kiệt.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Những bậc anh hùng dân tộc như: Phạm Ngũ Lão, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Ðạo... những bậc anh thư như: Hai Bà Trưng, Trưng Trắc, Trưng Nhị, mặc dù ngày nay đã khuất bóng, nhưng uy danh vẫn còn ghi tạc sử xanh được muôn đời nhắc nhở ca tụng.

Thương tô điểm anh thư khí tiết,

Thương học đòi cương quyết liễu bồ.

(Bát Nương Giáng Bút).

Xem từ trước anh thư nữ liệt,

Dầu đến điều chẳng tiếc phận đào thơ.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thư là con mái, giống cái, chỉ loài hay vật thuộc tính âm, (không dùng một mình).

Như: Thư hùng kiếm.

Gươm thư giúp sức gươm hùng,

Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THƯ HÙNG

雌 雄

Thư: Mái. Hùng: Trống.

1.- Thư hùng là trống và mái, tiếng dùng để chỉ riêng về loài có cánh, chim trống là hùng, chim mái chỉ thư.

Thư hùng còn dùng để chỉ nữ và nam.

Cung Diêu ghé mắt thư hùng,

Reo tơ may gặp hội cùng tương tri.

(Nhứt Nương Giáng Bút).

Truân chuyên mới dựng nghiệp thư hùng,

Liều thác chàng cam nghĩa vụ chung.

(Thơ Tiếp Đạo).

2.- Ngoài ra “Thư Hùng”, tức “Thư Hùng Kiếm”, hay “Kiếm Thư hùng” là một cặp kiếm báu, gồm một cây kiếm dương (Hùng) và một cây kiếm âm (Thư).

Trong Đạo Cao Đài, Thư Hùng Kiếm và cây Phất Chủ là Cổ Pháp của Đức Thượng Sanh, cầm quyền chi Thế Hiệp Thiên Đài.

Phất Chủ quét tan lằn trược khí,

Thư Hùng định vững bậc thanh danh.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THƯ HÙNG KIẾM

雌 雄 劍

Thư hùng: Chỉ loài chim, loài có cánh thuộc mái và trống, hay chỉ âm dương. Kiếm: Gươm.

Thư Hùng kiếm là hai cây kiếm báu, một cây Thư kiếm thuộc cây mái hay âm, một cây Hùng kiếm, thuộc cây trống hay dương.

Trong đạo Cao Đài, khi chầu lễ Đức Chí Tôn, Đức Thượng Sanh mặc một áo tràng trắng, ngoài khoác một áo lá xanh, lưng nịt Dây lịnh sắc, thả mối bên tả. Ngoài ra, còn buộc thêm sợi Dây Thần thông, trên lưng có giắt Thư Hùng kiếm, tay phải cầm Phất chủ, tay trái nắm xâu Chuỗi Từ Bi, đầu bịt Thanh cân, chân đi giày Vô ưu có chữ Thế.

Nắm cây Phất Chủ Phướn Thần,

Giắt Thư Hùng Kiếm độ nhân kịp thì.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THƯ HƯƠNG

書 香

Thư: Sách vở. Hương: Ở đây, chỉ khói hương truyền từ đời này qua đời khác, chỉ tiếng thơm.

Thư hương nghĩa rộng dùng để chỉ nhà dòng dõi có học, hay dòng Nho gia.

Như: Anh ấy thuộc dòng dõi thư hương.

Nòi phong nhã nếp thư hương,

Trông đẹp làm sao hiếu nghĩa đường.

(Thơ Hoàn Nguyên).

Văn hoá đắp xây nền thổ võ,

Tao đàn rèn luyện nếp thư hương.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THƯ NHẠN

書 雁

Thư (thơ): Sách, thơ từ. Nhạn: Chim nhạn.

Thư nhạn hay “Thơ nhạn” tức là viết thư rồi buộc vào chân chim nhạn cho mang đi, chỉ thư từ, tin tức.

Như: Thư nhạn đã bặt tin từ lâu rồi.

Xem: Tin nhàn.

Tơ tằm vương vấn tình ưu ái,

Thơ nhạn phô bày mối cảm thông.

(Thơ Thuần Đức).

Đày sứ mười chín năm dài hạn,

Hán Đế được thư nhạn tin về.

(Báo Ân Từ).

 

 

THƯ SINH

書 生

Thư: Sách. Sinh: Học trò.

Thư sinh hay “Thơ sanh”, là chỉ người đọc sách, hay người học trò trẻ tuổi thời xưa.

Trong Hậu Hán Thư có chép: Phí Trường Phòng đi đường gặp một thư sinh, đầu bịt khăn vàng, mình mặc áo cầu, cỡi ngựa không có yên, bèn nhảy xuống cúi đầu chào.

Tóc tôi từ độ bước sang thu,

Thay nét thư sinh trải dặm cù.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

THƯ SONG

書 窗

Thư (thơ): Sách vở. Song: Cửa sổ.

Thư song là cửa sổ nơi phòng đọc sách. Thư song còn dùng để chỉ phòng sách.

Trong Truyện Kiều có câu: “Chàng Kim từ lại thư song, Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây”.

Thư song mấy lượt vui tin nhạn,

Khách quý nhọc lòng đến vấn an.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

THƯ TỊCH

書 籍

Thư (thơ): Sách vở. Tịch: Sổ sách để ghi chép.

Thư tịch là chỉ các loại sách và những tài liệu ghi chép thành văn bản.

Như: Sưu tầm thư tịch cổ.

Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho binh lửa.

(Ban Tốc Ký).

 

 

THƯ TÍN

書 信

Thư: Giấy truyền tin tức, ý kiến, tình cảm riêng của một người đến người khác. Tín: Tin tức.

Thư tín là thư từ và tin tức, tức thơ gởi qua lại cho nhau để thông tin.

Thư tín còn dùng để chỉ thư từ gởi qua bưu điện. Như trao đổi thư tín để biết tin tức.

Cấm không đặng thư tín vãng lai với người ngoài, trừ ra thân nhân, song phải có người “Tịnh chủ” xem trước.

(Tân Luật).

 

 

THƯ THẢ

Thư: Duỗi ra, chậm rãi, không có công việc cấp bạch. Thả: Buông thả, không kềm giữ.

Thư thả là thong thả, nhàn rỗi. Như: Ít có dịp thư thả như ngày hôm nay.

Huấn từ Đức Thượng Sanh có dạy: Thật ra, sự giúp đỡ của quý vị không có tánh cách bắt buộc. Lẽ dĩ nhiên Hội Thánh để cho quý vị thư thả liệu định, tuỳ cơ hội, tuỳ dịp may mà thực hành.

Giấc mộng phù sanh thức tỉnh lần,

Cảnh chiều thư thả đọc Kinh Lân.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THƯ THÁI

舒 泰

Thư: Rảnh rỗi, thong thả. Thái (thới): An vui.

Thư thái hay “Thư thới”, là chỉ sự thong thả, an vui, dễ chịu, không có điều gì phải căng thẳng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Những lợi lộc chính đáng nơi công trình lao lực, nếu ta biết tri túc, có thể đem lại cho ta một thư thái an vui nên cũng cho là được phần nào hạnh phúc.

Phủi tay danh lợi lòng thư thái,

Ưu ái hoà mình với chúng sanh.

(Thơ Thuần Đức).

Trường đời xa lánh lòng thư thái,

Bến giác quay về gót nhẹ phao.

(Thơ Huệ Ngàn).

 

 

THƯ THỚI

Hay “Thư thái”.

Thư: Rảnh rỗi, thong thả. Thới (thới): An vui.

Thư thới, như chữ “Thư thái 舒 泰”, là ở trạng thái cảm thấy nhẹ nhàng, dễ chịu không có điều gì phải suy nghĩ, căng thẳng.

Như: Ông ấy có vẻ ung dung thư thới, đi dạo một vòng để đầu óc thư thới.

Xem: Thư thái.

Sum vầy cửa Đạo tâm thư thới,

Hội hiệp trường đời chí lạc quan.

(Thơ Ngọc Triệu Thanh).

 

 

THỨ

1.- Thứ là hạng, món, loại, tức tập hợp những sự vật giống nhau về một hay những mặt nhất định nào đó. Như: Thứ vải tốt, mấy thứ đồ ăn, đầu đã hai thứ tóc.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Trách nhậm là trách nhậm, cá nhơn là thứ chi, phải biết nguồn cội là gốc, thì mới tránh khỏi thường tình đặng.

Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,

Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.

(Kinh Sám Hối).

Nhiều đứa dại muốn sang đủ thứ,

Chẳng kể cha bạc cữ tiền ngày.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thứ là tầng bậc, tức thứ tự trong sắp xếp. Như: Thứ tự, đến thăm lần thứ nhì, hội lần thứ sáu.

Thánh giáo Chơn Cực Lão Sư có dạy: Người nhạc công phải ăn mặc tinh khiết, sắp đặt vào khởi Nhạc phải có thứ lớp phân minh, chớ chẳng phải muốn đờn bài chi cũng đặng.

Dầu kén chọn vào hàng bạn lữ,

Nên cho em hạng thứ trên người.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thứ là bậc dưới, bậc kém, tức chỉ hạng trung bình hoặc thấp kém, sau ngôi chánh.

Như: Vợ thứ, con thứ, hạng thứ.

Con coi phận mẹ mỏng mành,

Chánh thê nay lại sánh mình thứ thê.

(Nữ Trung Tùng Phận).

4.- Thứ là nhiều, đông.

Như: Thứ dân, vua Nghiêu, Thuấn là hai vị vua thời cổ đại, lúc trị vì thường yêu thương lê thứ.

Vợ nhơn từ lê thứ đều bình,

Dẫu tội trọng cầu xin chồng chế giảm.

(Phương Tu Đại Đạo).

5.- Thứ là bỏ qua cho, dung chế cho.

Như: Tha thứ, dung thứ, thứ lỗi.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy hằng nói với các con rằng: Thà là các con lỗi với Thầy thì Thầy vì lòng từ bi mà tha thứ, chớ chẳng nên động đến oai linh chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, vì họ chẳng tha thứ bao giờ.

Thứ dung mấy lượt Phật Trời thương,

Cứ thói lung lăng chẳng kính nhường.

(Đạo Sử).

 

 

THỨ DÂN

庶 民

Thứ: Đông đúc. Dân: Người dân.

Thứ dân là những người dân thường không có chức vị gì trong xã hội, vì trong xã hội người dân thường là hạng đông đúc nhứt.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Từ bậc vua chúa dĩ chí thứ dân, ai cũng lấy sự học để sửa mình làm gốc. Muốn sửa mình cho ra người có đức hạnh hoàn toàn, trước phải giữ gìn cái tâm cho chính, cái ý cho thành, sau mới cách vật trí tri, nghĩa là tìm hiểu rõ các sự vật và biết đến cho cùng cực của sự biết.

Từ thứ dân cho đến viên quan,

Vơ vẩn thấy cùng đàng lấp ngõ.

(Phương Tu Đại Đạo).

Từ Thiên Tử, chí thứ dân,

Dù Nam hay Nữ tu thân hưởng nhàn.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

THỨ DUNG

恕 容

Thứ: Rộng rãi độ lượng. Dung: Bao bọc.

Thứ dung, như chữ “Dung thứ 容 恕”, là bao bọc, rộng lượng đối với người có lỗi.

Như: Cầu xin cha mẹ thứ dung cho những lỗi lầm.

Thứ dung mấy lượt Phật Trời thương,

Cứ thói lung lăng chẳng kính nhường.

(Đạo Sử).

 

 

THỨ LỖI

Thứ: Rộng rãi độ lượng, bỏ qua cho. Lỗi: Mắc phải điều sai sót.

Thứ lỗi là xin tha lỗi cho. Như: Mong các bạn thứ lỗi cho, mọi người đã thứ lỗi anh ấy.

Cúi lạy thân sinh thứ lỗi con,

Âm dương tuy cách, hiếu tâm còn.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

THỨ THÊ

次 妻

Thứ: Bực dưới. Thê: Người vợ.

Thứ thê là vợ thứ, tức vợ bé.

Ngày xưa, người đàn ông sang giàu có quyền cưới nhiều vợ, vợ chánh thức gọi là chánh thê, vợ nhỏ gọi thứ thê hoặc thứ thiếp.

Con coi phận mẹ mỏng mành,

Chánh thê nay lại sánh mình thứ thê.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Chia thương ơn ấy đã đành,

Thứ thê chánh thiếp giựt giành chi duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THỬ

1.- Thử là một từ Nôm, có nghĩa là dùng cách mà nghiệm xem có đúng có được hay không, hoặc để xem xét để nghiên cứu trước.

Như: Tổ chức thi thử, ăn thử món nầy.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đến chuyển đạo, lập lại vô vi. Các con coi thử bên nào chánh lý: Hữu hình thì bị diệt đặng, chớ vô vi chẳng thế nào diệt đặng.

Nương chơn chưa biết chơn nào vững,

Níu thử cân đai thấy nặng trì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đổi thử máy Trời coi có đựơc,

Thì ta đổi tội dữ ra lành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thử từ nết khi chung lúc chạ,

Gióng từ hơi hoà nhã tơ loan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thử là một từ Việt Hán, có nghĩa là ấy, cái ấy, như thế. Như: Từ thử đến giờ, thử nhật (ngày nay).

Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy: Lão chẳng nói rõ, hiền hữu cũng thấy hiển nhiên rằng từ thử, thảng Lão có muốn nên cho Ðạo đi nữa thì cũng không thi thố chi đặng với một Hội Thánh hữu hư vô thiệt, như vậy có phải?

Khối vật chất vô hồn viết tử,

Đất biến hình tự thử quy căn.

(Kinh Tận Độ).

Quốc Ðạo kim triêu thành Ðại Ðạo,

Nam phong thử nhựt biến nhơn phong.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THỬ THÁCH

Thử: Dùng phương để xét nghiệm xem có đúng hay có chịu nổi không? Thách: Đưa ra điều kiện xem ai có thể làm được.

Thử thách là đặt ra một tình huống khó khăn, nguy hiểm để qua đó thử xem khả năng giải quyết hay tinh thần đạo đức có vượt nổi không.

Như: Thử thách lòng chung thuỷ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển ngày 05 tháng 05 năm Mậu Thìn 1928, Đức Chí Tôn dạy rằng: Hại thay! Ðã nhiều lần các con chẳng hiểu ý, Thầy cũng đau lòng mà thấy các con đi sái bước. Nhưng than ôi! Cơ thử thách chỉ dùng với những đứa tâm phàm lẫn chất Thánh.

Một phen thử thách đều trôi hết,

Thầy buộc lập công khá hết tình.

(Đạo Sử).

Tuỳ lòng cơ tạo đổi xây,

Dùng phương thử thách dở hay mất còn.

(Lục Nương Giáng Bút).

Mừng đã qua rồi chút hoạ tai,

Của cơ thử thách bấy lâu nay.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THƯA

1.- Thưa là hở, trống, không khít, không mau, không đông, không kín.

Như: Phên đan thưa, răng lược thưa, nhà thưa người, thưa mối hàng.

Tưới hoa chạ bên đường vô chủ,

Đậy giậu thưa cúc xủ mai xào.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Con gậy tay cầm, râu tóc bạc,

Cái nhà lá lợp, cửa song thưa.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Thưa là bày tỏ với người trên hay người mình yêu quý cho có lễ độ.

Như: Thưa chuyện với cha mẹ, vợ bắt chồng phải thưa, xin thưa vài lời.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Xin thưa rằng: Trị nước an dân thì có nhà cầm quyền Quốc gia, lèo lái con thuyền Ðạo thì có nhà lãnh đạo tinh thần của Tôn Giáo.

Sấp mình cúi lạy xin thưa,

Ơn Trên Từ Phụ cho chừa tội khiên.

(Kinh Thế Đạo).

Bắt lễ nghi muốn buộc chồng thưa,

Muôn sự khiến phải thừa theo lịnh.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thưa là bày tỏ nỗi oan ức, nỗi tức tối với quan, hay với người trên.

Như: Đút đơn thưa kiện, đem việc đến thưa làng, toà án xử vụ thưa chiếm đoạt tài sản.

Lấn lướt đặng đời Trời ghét mặt,

Hình răn nào phải đợi người thưa.

(Đạo Sử).

 

 

THƯA KIỆN

Thưa: Bày tỏ nỗi oan ức, tức tối của mình với cấp trên. Kiện: Thưa ra trước toà án.

Thưa kiện là đút đơn kiện trước toà án hay cơ quan có thẩm quyền xét xử việc tranh chấp giữa hai đàng.

Như: Toà án xét đơn thưa kiện.

Gặp thây nuốt sống ăn tươi,

Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THƯA NHẶT

Thưa: Không nhiều và mỗi lần cách nhau một khoảng thời gian dài. Nhặt: Khít, mau dồn dập.

Thưa nhặt, như chữ “Nhặt thúc”, là lúc thưa lúc nhặt, hay lúc chậm lúc mau.

Thưa nhặt thoi đưa trời xế bóng,

Xét mình một khắc một mau chân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thưa nhặt thoi đưa cái bóng thiều,

Anh hùng xuất thế biết bao nhiêu.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THƯA THỚT

Thưa: Có nhiều khoảng trống, khoảng hở, không mau, không sít.

1.- Thưa thớt là có ít và phân bố không đều ra nhiều nơi, nhiều lúc, gây cảm giác rời rạc. Như: Răng mọc thưa thớt, chợ nhóm thưa thớt.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo không biết, chỉ có cười một điều cả con cái Đức Chí Tôn không biết lựa người đặng bợ đít, đêm nay đi cúng thưa thớt, nhè Đấng oai quyền sang cả kể từ mực thước nhỏ nhen nhứt.

Mấy ngón tri âm thưa thớt bạn,

Mà trong ngựa bạc cửa sơn vàng.

(Đạo Sử).

2.- Thưa thớt còn dùng để chỉ non kém, chưa hiểu biết nhiều.

Như: Nó lo đi học nên nghề ruộng rẫy còn thưa thớt lắm, con gái gì mà thưa thớt nghề may vá.

Còn bé bỏng nghề nông thưa thớt,

Lại ngây ngô hời hợt việc nhà.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THỪA

1.- Thừa là dư ra, không thiếu, không dùng đến nữa. Như: Thừa ăn, cơm thừa, thừa thải.

Thánh giáo Thầy có Câu: Than ôi! Chới với cả muôn triệu giữa dòng, mà thuyền Bát Nhã độ người không mấy kẻ. Ðức thừa ít có, mà tài vô dụng chẳng thiếu chi.

Ðức trước hưởng thừa tâm vẹn giữ,

Nhân sau để dấu chí đừng lay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ăn mượn ở thừa đời gắt gổ,

Thì toan lo tránh, chớ đua bơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Quốc dân ăn thãi uống thừa,

Khôn ngăn bán lận, khó ngừa buôn gian.

(Ngụ Đời).

2.- Thừa là nhân có, tức có dịp tốt, có điều kiện thuận lợi để làm việc gì.

Như: Thừa cơ, thừa thế thoát khỏi cơn nguy, thừa thắng xông lên, thừa dịp trở về thăm nhà.

Hành người bế địch, trợ hoang,

Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.

(Kinh Sám Hối).

Phải chiều con lòng dạ ghét ưa,

Dầu quấy phải cũng thừa dạy dỗ.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Thừa là cỡi lên vật gì. Như: Thừa hạc, thừa long, thừa xa.

Theo Hàn Thi ngoại truyện, thì loại hạc vàng có thể bay rất xa, mỗi lần cất cánh thì có thể bay hàng muôn dặm, vì thế những linh hạc được các vị Thần Tiên dùng để cỡi hay kéo xe vân du trong các cõi giới.

Hào quang chiếu chín từng mây bạc,

Thần, Thánh, Tiên thừa hạc cỡi rồng.

(Xưng Tụng Công Đức).

4.- Thừa là vâng chịu. Như: Thừa mệnh, thừa nhận, thừa lịnh, phụng thừa.

Trong Bài “Bia Kỷ niệm Đức Cao sĩ Thượng Phẩm” có câu: Vậy nên Cao Quân hiệp cùng chư Ðạo Hữu phụng thừa Thiên mạng khắp miền Hậu Giang phổ độ chúng sanh, nền Ðại Ðạo mới gây nên từ đó.

Bắt lễ nghi muốn buộc chồng thưa,

Muôn sự khiến phải thừa theo lịnh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỪA CƠ

承 機

Thừa: Tiếp nối, lợi dụng gặp lúc hay việc tốt. Cơ: Máy móc, dịp, hay lúc.

Thừa cơ là lợi dụng cơ hội, hay nắm lấy cơ hội, tức là nhân cơ hội tốt mà làm việc.

Như: Thừa cơ mọi người đi vắng, lẻn vào trộm đồ.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Hai em Hậu, Đức, đã lập chí chơn thật thì cứ vậy mà giữ cho trọn đến ngày Lão tái nhậm, Lão sẽ chỉ biểu cho, chớ bây giờ phải phòng kẻ bất chánh, nó thừa cơ mà làm rẻ rúng tôn chỉ Đại Đạo.

Thừa cơ mầu khuyên trẻ răn mình,

Tự nhiên trẻ kính tinh đạo hạnh.

(Phương Tu Đại Đạo).

Rồi những kẻ lòng Tần dạ Sở,

Mới thừa cơ tráo trở thị phi.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

THỪA DỊP

Thừa: Tiếp nối, lợi dụng gặp lúc hay việc tốt. Dịp: Cơ hội, thời gian thuận tiện.

Thừa dịp, như chữ “Nhân dịp”, là lợi dụng dịp tốt, tức nhân gặp được điều kiện thuận tiện mà hành động.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã nói: Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, nó hằng thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.

Khi răn dạy cũng là thừa dịp,

Dầu ông Tiên tái kiếp cũng không bì.

(Phương Tu Đại Đạo).

Thừa dịp đặng treo giò chú Lía,

Láy vợ hiền người xỉa miệng vô.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỪA HÀNH

承 行

Thừa: Vâng, chịu. Hành: Làm.

Thừa hành là vâng lệnh mà làm, tức làm theo chức trách, theo mệnh lệnh cấp trên.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Triết lý nhà Phật từ tạo thiên lập địa đến giờ đã tạo ra biết bao nhiêu Ðấng đã thừa hành mạng lịnh Phật Giáo, đang hành hoá chúng sanh nơi mặt thế gian nầy, nếu không có tánh đức ấy chẳng hề khi nào lập giáo đặng.

Tam Trấn thừa hành cơ chuyển thế,

Tứ thời xưng tụng Đấng Khai Thiên.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THỪA LỊNH

Hay “Thừa lệnh”.

Thừa: Vâng, chịu. Lịnh (lệnh): Mệnh lệnh.

Thừa lịnh, như chữ “Thừa lệnh 承 令”, là vâng lịnh bề trên, tức vâng lịnh cấp trên mà thi hành.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo đứng trước giảng đài nầy thừa lịnh Đức Chí Tôn, làm Anh cả mấy em để lời tâm huyết dặn rằng: Buổi mấy em bị áp bức mấy em sợ phải bảo vệ tức là phải tranh đấu, giờ phút nầy mấy em mạnh rồi có đủ oai quyền đủ năng lực nên bỏ phương pháp tranh đấu ấy đi, trải lớp từ bi ra đặng độ thế.

Hộ Pháp uy nghi chưởng bát hồn,

Tuyển thăng thừa lịnh Đại Thiên Tôn.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

THỪA LONG

乘 龍

1.- Thừa long là cỡi rồng, dùng để chỉ sự chọn lựa được người chồng quý.

Do tích trong Sở Quốc Tiền Hiên Truyện chép: Hai người con gái của Thái uý Hoàng Yên gả cho hai người là Hoàng Yến và Lý Quảng, nên người đương thời gọi hai cô gái ấy đã “Thừa long” (cỡi rồng).

Xem: Cỡi rồng.

Ngâm câu trạch đức già ưng bụng,

Đẹp phận thừa long, trẻ phỉ nguyền.

(Thơ Thuần Đức).

Tháng năm thứ nữ hội thừa long,

Kính thỉnh tri âm lá thiệp hồng.

(Thơ Chơn Tâm).

2.- Thừa long hay cỡi rồng còn dùng để chỉ vua thăng hà hoặc sau nầy người ta dùng chỉ chung người chết.

Xem: Cỡi rồng.

Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,

Cõi Đào nguyên cỡi hạc thừa long.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THỪA NHÀN

乘 閒

Thừa: Nhân lúc, gặp dịp. Nhàn: Rỗi rảnh, không có hoặc ít công việc.

Thừa nhàn là nhân lúc nhàn nhã, tức không có công việc thúc bách.

Như: Công ty thừa nhàn nên tổ chức cho nhân viên đi tham quan, du lịch.

Khi rảnh rỗi nghiêm trang khẩn đảo,

Lúc thừa nhàn đàm đạo vong linh.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THỪA THẾ

乘 勢

Thừa: Lợi dụng dịp tốt hay một điều kiện thuận lợi nào đó. Thế: Quyền lực, sức mạnh ảnh hưởng.

Thừa thế là thừa cơ, tức thừa cơ hội đang ở vào tình trạng thuận lợi hay thế mạnh.

Như: Thằng đó hay thừa thế làm càn.

Thừa thế chuyển nguy an Thánh địa,

Mạng Trời đâu để quỷ hành quyền.

(Hộ Pháp Giáng Bút).

 

 

THỪA ƯA

Thừa ưa là tình cờ, bất thình lình.

Như: Hai người thừa ưa mà gặp gỡ nhau, Nó thừa ưa đánh cho một bạt tay.

Khôn khéo khá lo âm chất để,

Phẩm Tiên nẻo tục chẳng thừa ưa.

(Đạo Sử).

Thừa ưa đến buổi đặng chơi Tiên,

Chẳng mất công phu chẳng tốn tiền.

(Đạo Sử).

Danh uyển thừa ưa dạo khắp cùng,

Cảnh xinh mà cảnh cũng lao lung.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THỬA

Thửa: Nghĩa từ chữ sở 所, là đại danh từ thay cho người và vật.

Thửa tội tiền khiên là cái tội lỗi ấy trong kiếp trước.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Kiếp phù sinh không mấy chốc, đời mộng ảo chẳng là bao, sanh đứng nên người chen vai vào vòng thế cuộc, có khác chi kẻ bị đày vào biển khổ, để làm xong nhân sự đặng chuộc thửa tội tiền khiên.

Quyền năng vưng thửa Thiên Triều,

Càn Khôn thế giái dắt dìu Tinh Quân.

(Lý Đại Tiên Giáng Bút).

Tuy là khác thửa đồng bào,

Mà trong sanh tử một màu sắt son.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THỬA NGUYỀN

Thửa: Do chữ sở, là đại danh từ thay cho người hay việc. Nguyền: Mong, ước.

Thửa nguyền, do chữ “Sở nguyện 所 願”, tức là cái mà mình ước muốn, mong chờ.

Chừ nay đã toại thửa nguyền,

Độ sanh vững nắm Chơn truyền Chí Tôn.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Ba sanh dầu toại thửa nguyền,

Hoạ trong giấc mộng giải phiền giao hoan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Nhờ Ơn Trên dầu toại thửa nguyền,

Đành có thuở vợ Tiên, chồng Phật.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THỨC

1.- Thức là ở tình trạng không ngủ, chưa ngủ hoặc vừa mới tỉnh dậy.

Như: Thức giấc, thức khuya dậy sớm, thức học bài, thức khuya mới biết đêm dài.

Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn,

Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.

(Kinh Tận Độ).

Vừa mở mắt giựt mình thức dậy,

Con mang ơn cúi lạy Từ Bi.

(Kinh Thế Đạo).

Hễ tiếng còi vừa túc bửng tưng,

Phải thức sớm theo chân công cấy.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Thức là hết mê. Như: Thức tỉnh, tỉnh hồn thức trí.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy chỉ mong mỗi con tỉnh hồn thức trí, ngó lại bước đường sái trước kia mà lập tâm làm việc chánh đáng, theo lần Thầy, thì sự may mắn ấy không còn chi cho Thầy vui hơn nữa.

Con nguyện xin khuôn linh giúp sức,

Bước Ta bà giục thức huệ quang.

(Kinh Thế Đạo).

3.- Thức là thứ, món, hoặc tiếng đặt trước danh từ để chỉ món đồ ăn uống, các thứ đồ mặc.

Như: Hàng hoá có nhiều thức làm từ nước ngoài, thức ăn, thức uống, mùa nào thức nấy.

Liên huê mấy thức chẳng phai màu,

Giữa chốn bụi nhơ giữ phẩm cao.

(Đạo Sử).

Đợi nơi cửa khách tìm thức ngọc,

Đừng đỗ đường rời bốc đoá hoa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

4.- Thức là biết. Như: Thức giả, thức thời, trí thức, nhận thức, ý thức.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Giờ đây hiểu thấu cái nguyên nhân của sự vay trả ở cõi đời, tự nhiên ta nhận thức tại sao mà ta sanh ra ở cõi thế, ta từ nơi nào mà đến vậy và đến đây để đi về đâu? Tại sao con người phải khổ đau? Phải rên xiết?

Không sâu trí thức hiếu hơn người,

Nếu chẳng mắt Thầy hỏi có ngươi.

(Đạo Sử).

Hễ có thân âu biết thương thân,

Lấy trí thức định phân cho cạn.

(Phương Tu Đại Đạo).

5.- Thức là kiểu cách, lề lối. Như: Thể thức, cách thức, hình thức, nghi thức.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: hiền hữu có mang trách nhiệm lớn lao của Ðại Từ Bi đặng phổ thông điều đình mối Ðạo, hiệp với Hội Thánh mà trù nghĩ suy tính cách thức hành động về bước đường của chư Thiên phong và đạo hữu trong buổi nầy.

Nợ nhơn quả tiền khiên đã dứt,

Ðể lưu truyền nghi thức Tàng Thơ,

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

THỨC GIẤC

Thức: Tỉnh dậy, săn ngủ. Giấc: Từ dùng để chỉ từng khoảng thời gian ngủ.

Thức giấc là tỉnh ngủ, không còn ở trạng thái ngủ nữa, hoặc tỉnh dậy sau giấc mộng, hay giấc mê.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hễ tôn sùng, tức nhiên phải nhìn Ðấng Tạo Ðoan đã ban cho chúng ta mạng sống, cho ta nhứt điểm linh quang, mới biết phân biệt hiền với ác, chánh với tà, để làm biểu hiệu cho con người thức giấc mê, tìm hiểu chơn lý của sự sống như thế nào, đặng trở lộn lại sống theo tinh thần của Thánh Hiền hay sống theo tánh hung bạo tàn ác của con vật.

Tiếng chuông thức giấc huỳnh lương,

Toan nương thuyền huệ vào đường vĩnh sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THỨC LỆ

式 例

Thức: Cách thức, kiểu cách, đường lối. Lệ: Lề lối người ta đặt ra, hoặc người ta đã làm để về sau theo, tức lề lối đã có sẵn.

Thức lệ là cách thức và lề lối đã sẵn có từ trước. Như: Nhiều thức lệ hiện nay quá đã thay đổi.

Nếu không chế giảm cho phù hợp thức lệ, lễ nghi của sắc dân ấy thì khó mà độ rỗi cho đặng.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THỨC TỈNH

1.- Thức: Ở trạng thái không ngủ, chưa ngủ, hoặc tỉnh dậy. Tỉnh: Không mê, hiểu biết được.

Thức tỉnh, như chữ “Tỉnh thức”, là thức dậy sau một giấc ngủ.

Như: Đang ngủ, tiếng nổ vang làm thức tỉnh.

Ngày về thức tỉnh trời trưa sớm,

Non rạng an vui cảnh bá tùng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nào là lúc ngửa nghiêng đêm quạnh,

Nào là khi thức tỉnh đêm khuya.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Thức: Biết. Tỉnh: Không mê, hiểu biết được.

Thức tỉnh, như chữ “Tỉnh thức 醒 識”, là nhờ tác nhân mà bừng tỉnh ra, mới biết rõ mọi sự việc, không còn bị mê muội nữa, gọi là thức tỉnh.

Như: Bài thơ làm thức tỉnh lòng yêu nước.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Bao nhiêu tiếng khóc câu cười, thế lộ bước đã mòn mà giấc mộng trần chưa thức tỉnh.

Nhắn nhủ phồn hoa mau thức tỉnh,

Lần lừa bỏ quá kiếp xuân thời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Gót nhân ái đến nhà kẻ bịnh,

Giọng từ bi thức tỉnh hung tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Giấc mộng phù sanh thức tỉnh lần,

Cảnh chiều thư thả đọc Kinh Lân.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THỨC THỜI

識 時

Thức: Biết, nhận biết. Thời: Thích hợp với thời nghi.

Thức thời là biết thời thế.

Người thức thời là người hiểu biết thời thế để có những hành động phù hợp, trong lúc xã hội có nhiều biến chuyển, đổi thay.

Như: Phải là người thức thời mới tránh được tai hoạ.

Nên mình đừng ghét nỗi nên người,

Phải phải phân phân khá thức thời.

(Đạo Sử).

Đắc thế khua môi đồ phản ác,

Thức thời kín miệng mới hay hiền.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THỰC

Thực là ăn.

Như: Ẩm thực, vật thực (đồ ăn), những nhà hào hiệp xưa thường chứa nhiều thực khách, thực phẩm bày bán đầy chợ.

Bởi thế nên ai dùng vật thực mà cúng, tốt hơn nên dùng trái cây.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỰC BẨT CẦU BÃO

食 不 求 飽

Thực: Ăn. Bất cầu bão: Không mong được no.

Thực bất cầu bão là ăn chẳng cầu mong được no, ý nói không cần phải có món ngon vật lạ và đầy đủ, miễn ăn vào nuôi sống được thân thể mà thôi.

Do câu nói trong sách Luận Ngữ: Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn ư sự nhi thận ư ngôn, tựu hữu đạo nhi chánh yên, khả vị hiếu học giả dĩ 子 食 無 求 飽, 居 無 求 安, 敏 於 事 而 慎 於 言, 就 有 道 而 正 焉, 可 謂 好 學 者 已, nghĩa là người quân tử ăn không cầu no, ở không cầu yên, làm việc thì cần mẫn, nói điều gì thì cẩn thận, tìm người có đạo mà theo học, để làm cho chánh đáng ngôn ngữ và hành vi của mình. Được như vậy mới có thể gọi là người hiếu học.

Nhưng chưa nghèo phải học nghèo, chưa khổ phải học khổ, kế chí quân tử, cư bất cầu an, thực bất cầu bão...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THỰC CHỨNG

實 證

Thực: Thật, không giả, đúng sự thật. Chứng: Soi xét cho, biết đến cho.

Thực chứng là cái tri thức chân chính, tức là sự nhận định đúng đắn.

Hãy phấn đấu không ngừng, phấn đấu để thắng dục vọng, thực chứng sự lý giải thoát...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THỰC HÀNH

實 行

Thực: Có thực. Hành: Làm.

Một ý nghĩ hay một lý thuyết đem ra làm thành một sự thực gọi là “Thực hành”.

Như: Lý thuyết và thực hành phải đi đôi.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngoài ra phương pháp nào quá cao siêu ta chưa với tới được thì để lại cho bậc có quan niệm cao thượng hơn ta thực hành.

Giáo lý mong đem chỗ thực hành,

Góp phần phổ biến giữa nhơn sanh.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THỰC HIỆN

實 現

Thực: Có thực. Hiện: Đương có lúc nói.

Thực hiện là làm cho hiện ra thành sự thật. Như: Phải thực hiện lời hứa.

Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông có dạy: Về Đạo Nghị Định của Lão đối với Chi phái là phương pháp lúc trước để phổ độ nhơn sanh mà thôi. Hiện giờ, cửa Đạo đã mở rộng, thì cơ quy nhứt thế nào cũng sẽ thực hiện được.

Hoài bão lớn, lý tưởng cao siêu,

Nhưng ngặt nỗi không cơ thực hiện.

(Điếu Văn Đầu Sư).

 

 

THỰC NHƠN TÀI

Thực: Ăn. Nhơn (nhân): Người. Tài: Tiền bạc.

Thực nhơn tài, như câu “Thực nhân tài 食 人 財”, là ăn tiền của người, ý muốn nói lấy tiền của người để ăn, tức đã thọ ơn người thì phải làm đáp lại một việc gì đó cho người mới phải đạo lý.

Như: Người tu hành đã thoát ly gia đình là phải nợ thực nhơn tài.

Theo thế thường người ta nói: “Thực nhơn tài phải cứu nhơn tai”.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THỰC TẾ

實 際

Thực: Thật, sự việc có thực, đúng như vậy. Tế: Thích đáng với thời.

Thực tế là tình hình thực tại, hay tình hình đời sống trước mắt.

Thực tế là được thích ứng đúng vào mục đích, nhằm đúng vào lợi ích gần.

Thực tế là có một cách cụ thể, có quan hệ hoặc có giá trị rõ rệt đối với con người.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thanh danh của Ðạo là trọng hơn hết, chúng ta phải nâng cao cái thinh danh tôn quý ấy bằng việc làm thực tế chớ chẳng phải bằng lời nói suông và cái khổ của nhơn sanh càng được vơi bớt phần nào, chủ nghĩa Phước Thiện càng thêm bành trướng thì cái thinh danh của Ðạo càng được cao siêu và càng thêm chói rạng.

Nhưng muốn cho thực hiện được thực tế, có lẽ cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam còn dài.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THỰC THI

實 施

Thực: Thực tế, sự thật. Thi: Thi hành, làm.

Thực thi là những điều dự tính được đem ra làm (thi hành) thực sự. Như: Thực thi lời nguyện.ràng,

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hiện thời Ðạo mới ra đời hơn bốn mươi năm, trong nước lại đương hồi bị nạn chiến tranh liên tiếp, chức sắc Phước Thiện vì thời cuộc mà chưa thực thi chính sách kinh doanh, khai thác kỹ nghệ, mở mang nông nghiệp sản điền.

Hồng thệ thực thi tròn nghĩa vụ,

Trường công sẽ đặng rạng thinh danh.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Nghiêm chỉnh thực thi khuôn luật pháp,

Khẩn trương điều khiển việc hôn tang.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THỪNG

Thừng là sợi dây to, chắc, thường bện bằng đay, gai, dùng để ràng, buộc. Như: Dây thừng.

Ca dao có câu: Biết nhau từ thuở buôn thừng, Trăm chắp nghìn nối xin đừng quên nhau.

Sợi thừng kéo nhẵng ra dài,

Người sau kẻ trước khó sai lạc đường.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THƯỚC

1.- Thước là đồ dùng để đo chiều dài. Thước còn là đơn vị đo chiều dài, gồm có mười tấc.

Như: Thước dẹp, thước dây, thước đo góc, cây trăm thước, thân bảy thước.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy: Lão lại dặn, từ cây nọc bên phía miếng đất, phải đo vô Bàu Cà Na 27 thước Lang sa, nghe à!

Cây trăm thước bắc thang bến khổ,

Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Thuần Ðức về Tiên đã thảnh thơi,

Tấm thân bảy thước trả cho đời.

(Thơ Thượng Sanh).

2.- Thước là một loài chim có lông đen, đuôi dài, chuyên ăn sâu bọ, có tiếng kêu khách khách, nên được gọi là chim khách.

Như: Ô thước, ngoài rèm thước chẳng mách tin.

Cung đờn đợi khách còn đang khảy,

Cánh thước về non bóng xế chiều.

(Lục Nương Giáng Bút).

Kìa cá giỡn vẩn vơ đáy nước,

Nọ kết đôi cưu thước ven trời.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THƯỚC CƯU

鵲 鳩

Thước: Chim thước, tức là chim khách. Cưu: chim cưu, một loài chim vụng về trong việc xây tổ.

Kinh thi có câu: Duy thước hữu sào, duy cưu cư chi 維 鵲 有 巢, 維 鳩 居 之, nghĩa là chim thước có tổ, chim cưu đến ở, ý nói chim cưu không biết làm tổ, chờ chim thước làm tổ xong rồi đến ở.

Chim thước ví với người vợ lớn, xây dựng sẵn gia đình, vợ nhỏ vào ở.

Xem: Cưu cư.

Hơn chi giành én giựt anh,

Thước cưu khuất bóng dựa cành chung nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Nối tông môn dài đến cửu lưu,

Nếu chẳng giữ thước cưu pha lẫn giống.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THƯỚC KIỀU

鵲 橋

Thước: Chim quạ. Kiều: Chiếc cầu.

Thước kiều là cầu ô thước, tức là cầu do chim quạ đen bắc để Ngưu Lang Chức Nữ qua sông Ngân gặp gỡ nhau trong đêm thất tịch (Mồng 7 tháng 7).

Xem: Cầu Ô thước.

Thước kiều trên dải Ngân giang,

Cho đêm thất tịch hai đàng gặp nhau.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THƯỚC NGỌC KHUÔN VÀNG

Thước khuôn: Vật làm mẫu mực cho những vật khác theo. Ngọc vàng: Chỉ sự quý báu.

Thước ngọc khuôn vàng là nói những thứ có thể làm mẫu mực để cho mọi người phải theo.

Xem: Khuôn vàng thước ngọc.

Luật pháp chơn truyền Đạo vẻ vang,

Để làm thước ngọc với khuôn vàng.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

THƯƠNG

1.- Thương là có tình cảm yêu tha thiết và thường tỏ ra quan tâm săn sóc. Như: Yêu thầy thương bạn.

Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Thầy nói cho các con hiểu rằng, muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm môn đệ Thầy thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn ngã thì cửa Ðịa Ngục lại mời.

Hãy có dạ kỉnh già thương khó,

Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.

(Kinh Sám Hối).

Vào vòng huynh đệ khá thương nhau,

Một đức trổi hơn một phẩm cao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thương là đau đớn xót xa

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Các con trước đã vì Thiên mạng phải bỏ các ngôi cao đặng đem mình vào nơi khổ não, Thầy chỉ đường vẽ bước, dạy từ nét, dẫn từ dặm đường mà đem các con về chốn Cực Lạc xưa, các con chẳng chịu vầy hiệp nhau cho đặng bền, cho thân ái, đặng tiến bước đường, thì Thầy cũng lắm nỗi thương đau mà nắm cân công bình ngó xem một phần trong các con sa nơi u hiểm.

Khóc roi ngẩn chạnh lòng con thảo,

Chọn xóm ngùi thương bóng mẹ hiền.

(Thơ Chơn Tâm).

3.- Thương là chỉ việc buôn bán.

Như: Thương buôn, thương mại, Hải Phòng là một thương cảng lớn ở xứ Bắc Kỳ.

Trường thương lấp ló ít người,

Nơi tay dị chủng như Trời nắng mưa.

(Ngụ Đời).

4.- Thương còn dùng để chỉ triều đại nhà Thương:

Trong Đạo Sử, Đức Chí Tôn giáng cơ quở về việc hiểu chữ “Thương” của hai câu thơ sau: Biểu nó nói... nhà Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu. Lũ bây cũng chưa hiểu thơ há? Cho nữa vô ích. Thầy nói Thương là nhà Thương, các con hiểu thương là thương, ngu ngu ngu...

Xem: Ai chẳng chịu lộc nhà Châu.

Thương, ai chẳng chịu lộc nhà Châu,

Ăn thể ăn vi chịu thảm sầu.

(Đạo Sử).

 

 

THƯƠNG CẨU

蒼 狗

Thương: Màu xanh. Cẩu: Chó.

Thương cẩu là chó xanh, do câu “Bạch vân thương cẩu 白 雲 蒼 狗”, tức là mây trắng biến thành chó xanh.

Thương cẩu dùng để chỉ sự vật thay đổi không thường, hoặc chỉ biến cố xảy ra.

Đỗ Phủ có câu: Thiên thượng phù vân như bạch y, tu du hốt biến vi thương cẩu 天 上 浮 雲 如 白 衣, 須 臾 忽 變 為 蒼 狗, nghĩa là trên trời mây nổi như áo trắng, phút chốc biến thành chó xanh.

Bức tranh thương cẩu không liền có,

Giấc mộng huỳnh lương thiệt hoá chơi.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THƯƠNG DƯƠNG MÚA

Thương dương 商 羊: là loài chim có một chân. Chim ấy có tánh linh, xuất hiện thường báo hiệu cho biết trời sắp có mưa lớn. : múa.

Thương dương múa, do chữ “Thương dương vũ 商 羊 舞”, là chỉ loài chim thương dương nhảy múa.

Do tích trong sách Gia Ngữ chép: Vùng biên giới giữa nước Tề và nước Lỗ có xuất hiện loại chim chỉ có một chân đứng ngoài đồng múa. Vua nước Lỗ thấy điềm lạ, bèn sai sứ đến hỏi Đức Khổng Tử. Ngài đáp: Đấy là con chim thương dương. Hồi xưa có một đứa đồng tử chỉ có một chân, dang hai cánh tay mà nhảy và ca rằng: Thiên tương đại vũ, thương dương cổ vũ 天 將 大 雨 商 羊 鼓 舞, nghĩa là Trời sắp mưa to, con thương dương nhảy múa. Nay vùng này có loại chim đó ắt sẽ có mưa to gió lớn.

Vua nước Lỗ truyền cho dân chúng hay để lo phòng bị, riêng nước Tề không biết, đến chừng ba hôm sau có mưa lớn gây ngập lụt, dân Lỗ có chuẩn bị nên không thiệt hại nhiều, còn bên Tề vì không hay biết, nên dân chúng chịu nạn ngập lụt rất khổ sở.

Trong sách Ấu Học Quỳnh Lâm có câu: Phong dục khởi nhi thạch yến phi, thiên tương vũ nhi thương dương vũ 風 欲 起 而 石 燕 飛, 天 將 雨 而 商 羊 舞, nghĩa là gió gần dậy thì đá thạch yến bay, trời sắp mưa to thì con thương dương múa.

Bên trong hành lang Báo Ân Từ về phía nữ phái có vẽ bức tranh lấy tích “Thương dương vũ 商 羊 舞”.

Thương Dương giống một chân ở biển,

múa là điều kiện đề phòng.

Ba hôm trời bão mưa dông,

Nước Lỗ biết trước nên không thất mùa.

(Báo Ân Từ).

 

 

THƯƠNG ĐAU

Thương: Xót xa, hại. Đau: Khó chịu, nhức nhối.

Thương đau, bởi chữ “Đau thương”, là chỉ sự đau đớn, xót thương.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Các con chẳng chịu vầy hiệp nhau cho đặng bền, cho thân ái, đặng tiến bước đường, thì Thầy cũng lắm nỗi thương đau mà nắm cân công bình ngó xem một phần trong các con sa nơi u hiểm.

Tấn thối mảng lo đời ấm lạnh,

Chập chồng đã trải mấy thương đau.

(Thơ Thượng Sanh).

Đời ly loạn nghĩ thôi quá ngán,

Cảnh đảo huyền bày dạng thương đau.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

THƯƠNG GHÉT

Thương: Có tình cảm mến yêu và thường tỏ ra quan tâm săn sóc. Ghét: Không thích, không ưa, có ý xua đuổi.

Thương ghét là yêu thương và ghét bỏ.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy hỏi: Vậy chớ cái trí khôn của con người biết thương ghét, vui buồn, mà toàn trong nhơn loại đều có, khi rốt cuộc thì trí khôn ấy đi đâu? Không lẽ cái trí khôn ngoan dường ấy mà cũng mất đi đặng sao các con?

Thương ghét chưa ai đem khỏi sự,

Răn đời lấy một tấc gan vàng.

(Đạo Sử).

Hiểu thương ghét giả cam phận dại,

Biết nên hư chẳng cãi cho cùng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đừng học đòi lũ dại học khôn,

Phân thương ghét quên ơn cúc dục.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THƯƠNG HẢI TANG ĐIỀN

蒼 海 桑 田

Thương hải: Biển xanh. Tang điền: Ruộng dâu.

Thương hải tang điền là bãi bể nương dâu, tức biển xanh hoá thành ruộng dâu, chỉ việc đời biến đổi.

Theo Thần Tiên Truyện viết: Vị Tiên Vương Phương Bình, người đời Hậu Hán, đỗ Hiếu liêm, làm quan đến chức Trung tán đại phu, sau đó bỏ quan đi tu Tiên, đắc đạo, giáng xuống nhà Thái Kinh, cho mời Tiên nữ Ma Cô.

Ma Cô bảo Phương Bình rằng: Từ khi được tiếp hầu ông đến nay, đã thấy biển xanh ba lần biến làm ruộng dâu.

Xem: Tang điền thương hải.

Cuộc thương hải tang điền thấy khổ,

Khắp bốn phương nhiều chỗ hoạ tai.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Thương hải Tang điền xem lắm lúc,

Công danh phú quý nhắm trò chơi.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

THƯƠNG HẠI

Thương: Có tình cảm tha thiết và tỏ ra quan tâm, săn sóc. Hại: Cái gây tổn thất, tổn thương.

Thương hại là rủ lòng thương xót. Như: Hoàn cảnh anh ấy đáng thương hại.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Duy có hạng người có ý niệm nông nổi cho rằng ngày Tết thì phải ăn xài phủ phê, mặc dù không dư dả hoặc nghèo túng quanh năm, cũng học đòi theo nhà sẳn của, cũng sắm ăn sắm mặc lòe loẹt bề ngoài. Thành thử phải tiêu phí số tiền nhỏ nhen dành dụm bấy lâu hoặc vay mượn tứ phía để rồi xong ba ngày Tết phải cặm cụi lao nhọc mãn năm mà trả cũng chưa dứt nợ. Ðó là một điều sai lầm đáng thương hại, khổ nỗi cái tệ đoan ấy không biết bao giờ mới tiêu trừ được.

Lại có lắm kẻ đáng thương hại tự phụ rằng, họ hiểu thấu cả lẽ mầu nhiệm của Ðấng Tạo hoá.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THƯƠNG HOA TIẾC NGUYỆT

Thương tiếc: Thương yêu và tiếc nuối. Hoa nguyệt 花 月: Trăng hoa, thường dùng để nói về chuyệt trai gái.

Thương hoa tiếc nguyệt là thương tiếc về trăng hoa, ý chỉ người lãng mạn hay tiếc thương về tình luyến ái.

Thương hoa tiếc nguyệt đà bao kẻ,

Dập phấn dùi hương tủi một mình.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

THƯƠNG KHÁCH

商 客

Thương: Buôn bán. Khách: Người.

Thương khách là người đi buôn bán. Đồng nghĩa với thương nhân 商 人.

Như: Thương khách nước ngoài theo tàu vào nước ta.

Trên liễu hoàng oanh kêu thức bạn,

Đầy đường thương khách bước chen chưn.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THƯƠNG YÊU

Thương: Có tình cảm tha thiết và tỏ ra quan tâm quan tâm, săn sóc. Yêu: Có tình cảm thắm thiết.

Thương yêu, như chữ “Yêu thương”, là thương người thương vật, thương khắp chúng sanh và muốn giúp chúng sanh thoát khổ.

Thương yêu đối với tôn giáo là từ bi, bác ái.

Trong Thánh giáo Thầy thường dạy về thương yêu:

Thầy thường nói với các con rằng, các con là cơ thể của sự thương yêu, mà các con không còn hiểu sự thương yêu là gì, bởi nơi nào đó? T... kiếm coi.

Không, con. Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn khôn Thế giới. Có thương yêu, nhơn loại mới hoà bình, Càn khôn mới an tịnh. Ðặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, mới giữ bền cơ sanh hoá.

Vậy Thầy cấm các con từ đây, nếu không đủ sức thương yêu nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe à!

Tôn trọng người như Trời với Phật,

Thương yêu cả hết chúng sanh thành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THƯƠNG LANG

滄 浪

Thương Lang là tên một con sông, cũng là tên một bài hát của người nước Sở, để nói cái phong cách thanh cao, thái độ giữ mình trong sạch.

Lời hát có câu: Thương Lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh. Thương Lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc 滄 浪 之 水 清 兮, 可 以 濯 我 纓. 滄 浪 之 水 濁 兮, 可 以 濯 我 足, nghĩa là nước sông Thương Lang trong thì ta giặt dải mũ, nước sông Thương Lang đục thì ta rửa chân.

Ôm ấp gánh đời đời há biết,

Thương Lang nước Thánh tấm thân già.

(Đạo Sử).

Thuyền nước Thương Lang cánh dập dìu,

Tiếng ve kêu hạ rủ xuy tiêu.

(Lục Nương Giáng Bút).

Thinh thinh một chiếc thuyền lan,

noi dòng Xích Bích,

Nhẹ nhẹ đôi con chèo quế,

dực bến Thương Lang.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

THƯƠNG MÃI

商 賣

Thương: Buôn bán. Mãi: Đọc đúng mại là bán.

Thương mãi hoặc “Thương mại” là chỉ việc trao đổi hàng hoá, mua bán.

Như: Nhiều người muốn làm giàu bằng thương mãi chuyên đầu cơ tích trữ.

Mỗi Quận đạo nào có lập cơ sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi thuộc Phước Thiện...

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

THƯƠNG MẾN

Thương: Yêu. Mến: Ưa, quý.

Thương mến, như chữ “Mến thương”, là có tình cảm thương yêu gắn bó.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Các con thương mến nhau, dìu dắt nhau, chia vui sớt nhọc nhau, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui vẻ đó.

Trời hằng thương mến lũ nhơn sanh,

Giận nỗi cưu cưu ở bạc tình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thầy hay thương mến lũ con hoang,

Song chớ ỷ y phải ngỡ ngàng.

(Đạo Sử).

 

 

THƯƠNG NGHỊ

商 議

Thương: Thương lượng, bàn luận. Nghị: Bàn bạc để quyết định.

Thương nghị là cùng nhau thảo luận, bàn bạc để sắp đặt công việc.

Như: Đưa sứ giả sang thương nghị với nhau.

Thầy có hội chư Tiên, Phật lại mà thương nghị về sự lập Ðạo tại Ðại Nam Việt quốc.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THƯƠNG NHỚ

Thương: Có tình cảm tha thiết và tỏ ra quan tâm quan tâm, săn sóc. Nhớ: Tái hiện trong trí điều trước đó đã từng cảm biết, nhận biết.

Thương nhớ là nhớ đến, nghĩ đến người yêu mến đã đi xa hay người đã khuất với tình tha thiết. Như: Thương nhớ không nguôi.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Ðã trót 5 năm dư, Bần Ðạo bị đồ lưu nơi hải ngoại, thì đã từng chịu biết bao nhiêu là sự đau khổ tâm hồn, nỗi lo cho tương lai của Ðạo, nỗi sợ cho vận nước tránh không khỏi nạn chiến tranh loạn ly, nặng nơi lòng một tình thương nhớ cả con cái của Chí Tôn trót triệu chơn linh của Người giao gìn giữ.

Ven Trời gởi chút tình thâm,

Động lòng thương nhớ tuôn dầm lệ sa.

(Kinh Thế Đạo).

Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,

Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THƯƠNG PHONG BẠI TỤC

傷 風 敗 俗

Thương: Làm hại đến. Bại: Hư hỏng. Phong tục: Những thói quen lâu đời trong xã hội.

Thương phong bại tục là làm thương tổn, hoặc hư hỏng đến nền phong tục tốt đẹp trong xã hội.

Như: Những lễ hội bày ra sự mê tín là làm thương phong bại tục.

Chẳng phải nói các kinh điển của người trong đạo làm ra mà thôi, dầu cho người ngoại giáo làm ra đi nữa, nếu có thương phong bại tục thì buộc Hội Thánh phải vùa giúp Chưởng Pháp mà lo trừ diệt cho đặng.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THƯƠNG SANH

Hay “Thương sinh”.

Thương: Màu xanh của cây cỏ. Sanh (sinh): Đẻ ra.

Thương sanh, như chữ “Thương sinh 蒼 生”, là loài cây cỏ mọc lên.

Ân đức của vua bao trùm khắp mọi nơi cho đến cả cây cỏ. Nên chữ “Thương sinh” được dùng để chỉ nhân dân (nơi mà ân đức vua lan tràn).

Kinh Thư chép: Vũ viết: Du tai, đế quang thiên chi hạ, chí hải ngung thương sinh 禹 曰: 俞 哉, 帝 光 天 之 下, 至 于 海 隅 蒼 生, nghĩa là phải thay, công đức của nhà vua sáng khắp thiên hạ, đến cả nơi cây cỏ xanh tốt chốn chân trời góc bể.

Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,

Hộ thương sanh u hiển khương ninh.

(Kinh Tận Độ).

Muốn cho thiên hạ đại đồng,

Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.

(Kinh Thế Đạo).

Nhiều kiếp đã đầu thai biết mấy,

Xuống hồng trần khuyến dạy thương sanh.

(Xưng Tụng Công Đức).

 

 

THƯƠNG TÂM

傷 心

Thương: Làm tổn hại. Tâm: Lòng, biểu tượng cho tâm lý, tình cảm của con người.

Thương tâm là đau lòng, hoặc làm cho đau lòng. Như: Cảnh thương tâm, những câu chuyện thương tâm.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðạo đã lập thành, gót trần của phần nhiều Môn Ðệ hầu rửa sạch bợn, nhưng các con phải chịu lắm nỗi gay go mà gieo mối thương tâm cho đoàn hậu tấn.

Chung ly biệt con đưa tay rót,

Mối thương tâm chưa ngớt đeo sầu.

(Kinh Thế Đạo).

Nắm tay bước tận thang Trời,

Lằn thương tâm níu đổi dời dây oan.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Chừ sao chong ngọn đèn ngồi,

Cô đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THƯƠNG TƯỞNG

Thương: Yêu, trìu mến. Tưởng: Nhớ đến, nghĩ đến.

Thương tưởng là thương yêu và tưởng nghĩ đến. Như: Mỗi năm đến ngày giỗ là nhắc nhở con cháu thương tưởng đến ông bà.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Trên nhờ ơn Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu thương tưởng, dưới nhờ toàn thể con cái của Ngài nam cũng vậy, nữ cũng vậy. Bần Đạo nghĩ lại chẳng còn phần thưởng Thiêng Liêng nào hơn, cả bao nhiêu lời cầu chúc của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã trả công nghiệp cho Bần Đạo với một giá rất mắc mà không hay đó vậy.

Lòng thành thương tưởng ông bà,

Nước nguồn cây cội mới là tu my.

(Kinh Sám Hối).

Lễ kính bái chị em thương tưởng,

Nhớ nhau không cân lượng dễ sầu.

(Thất Nương Giáng Bút).

Thường cho xem vẻ đẹp non sông,

Đặng con trẻ thề lòng thương tưởng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

THƯƠNG THUYẾT

商 說

Thương: Bàn bạc. Thuyết: Ý nghĩa mình đề xướng đem ra cho mọi người cùng biết.

Thương thuyết, như chữ “Thương nghị”, nghĩa là cùng nhau thảo luận, bàn bạc để sắp đặt công việc.

Thương thuyết, đồng nghĩa với “Đàm phán”, là bàn bạc giữa hai hay nhiều bên để cùng nhau giải quyết những vấn đề có liên quan đến các bên. Như: Hai bên thương thuyết về chủ quyền lãnh thổ.

Nghị trường thương thuyết gần xa,

Ngoại giao chính trị sáng loà nơi nơi.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

THƯƠNG XÓT

Thương: Đau đớn xót xa. Xót: Có cảm giác đau rát, nghĩa bóng: Thương tiếc đau đớn.

Thương xót là xót xa thương cảm, tức cảm thấy đau lòng vì nỗi bất hạnh của người khác. Như: Thương xót những người tàn tật.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ta vì thương xót sanh linh, mở Ðạo Tam Kỳ để độ người hữu phước. Nếu chẳng mau chân, ngày giờ hầu cận, chư Tiên, Phật hội Tam Giáo xin bế lại thì dầu Ta muốn cứu vớt thêm cũng chẳng qua số Thiên cơ đặng.

Động lòng thương xót buổi đời nguy,

Đình hội Phật Tiên đã mấy kỳ.

(Lý Giáo Tông Giáng).

Thương xót đàn dân chịu đoạn trường,

Lắm cơn dãi nắng với dầm sương.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

THƯƠNG VONG

傷 亡

Thương:  Đau đớn xót xa, tổn hại. Vong: Mất, chết.

Thương vong là chết vì bị thương tích.

Như: Thời chiến tranh nhân dân bị thương vong vì bom đạn rất nhiều, bệnh viện hạn chế thương vong.

Trận bại thương vong câu sanh Tịnh độ.

(Kệ U Minh).

 

 

THƯỜNG

1.- Thường là luôn luôn, năng. Như: Đến thường, đi học thường, thường ngủ trưa.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Ðặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi chớ vội buồn, vì sự mừng vui và buồn tủi thường pha lẫn kế cận nhau.

Trước vốn thương sau cũng thương,

Một lòng nhơn đức giữ cho thường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,

Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.

(Bát Nương Giáng Bút).

2.- Thường là không có gì khác, không có gì lạ.Như: Chuyện thường, hơn hẳn người thường.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Mở một mối đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối đạo cũng chẳng phải dễ.

Cậy kẻ dạy con cũng lẽ thường,

Cho roi cho vọt mới là thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,

Chẳng để mũi gần chẳng biết hương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THƯỜNG DÂN

常 民

Thường: Không có gì khác, không có gì lạ. Dân: Người ở dưới quyền vua quan.

Thường dân là người dân thường, dùng để phân biệt với những tầng lớp đặc biệt trong xã hội.

Như: Tuy sang trọng nhưng cô ấy là con nhà thường dân, Công an giả thường dân để theo dõi.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Người dâng ngọc liền thưa: tôi là thường dân mà cầm ngọc nầy, sợ phải bị trộm cướp mà hại đến thân, nên không dám giữ nó.

Napoléon 1er vẫn là một người thường dân trong hàng lê thứ, đi từ tên lính lên tới Đế vị rồi, biết bao nhiêu vinh diệu cho nước Pháp thọ hưởng.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THƯỜNG LỆ

常 例

Thường: Lâu, bình thường, không lạ. Lệ: Phép đã thành từ trước.

Thường lệ, như chữ “Lệ thường”, là theo thói quen hoặc theo quy định từ lâu. Như: Dậy sớm hơn thường lệ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Mỗi 15 ngày mới tới kỳ đàn, mỗi kỳ đàn cúng rồi cả thảy đều mệt, cúng thường có một giờ rưỡi, hay một giờ bốn mươi phút nên thường lệ lên giảng đạo Bần Đạo tìm thế thúc nhặt gói ghém lại, nhưng trong thời gian ngắn ngủi không thế gì thuyết minh nhiều vấn đề trọng yếu.

Cũng như thường lệ gần đến Rằm Trung Thu thì toàn thể Chức Sắc nơi địa phương tựu về Tổ Ðình hiệp với Hội Thánh để cúng Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THƯỜNG NIÊN

常 年

Thường: Hằng, bình thường, không lạ. Niên: Năm.

Thường niên là hằng năm đều như thế.

Như: Hội nghị thường niên là hội nghị hằng năm, năm nào cũng đều hội nghị như vậy.

Hôm nay là ngày nhóm họp thường niên mà cũng là buổi họp đầu tiên năm Nhâm Dần...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THƯỜNG NGŨ

常 五

Thường: Hằng, bình thường, không lạ. Ngũ: Năm.

Thường ngũ, bởi chữ “Ngũ thường 五 常” là năm đạo thường, hay “Năm hằng”, gồm có: Nhân 仁, Nghĩa 義, Lễ 禮, Trí 智, Tín 信.

Xem: Ngũ thường.

Cang tam thử gióng, cân nào nhẹ,

Thường ngũ kê vai, lượng cũng bằng.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

THƯỜNG SƠN

常 山

Thường Sơn là nơi Triệu Tử Long, tướng nhà Thục sinh ra, nên còn được gọi là Thường Sơn Triệu Vân.

Triệu Tử Long là một dũng tướng đời Tam Quốc, theo phò Lưu Bị, đạt được đầu công trong việc phò ấu chúa là A Đẩu, đánh phá vòng vây tại trận Đương Dương.

Xem: Triệu Vân.

Nhớ thuở Thường Sơn đeo A Đẩu,

Tưởng hồi Hồ Địch hận Thiên Tào.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

THƯỜNG TÌNH

常 情

Thường: Tầm thường, không có gì khác lạ. Tình: Tính tự nhiên của mỗi người do sự cảm xúc ở ngoài mà phát lộ.

Thường tình là thông thường, không có gì lạ. Như: Cha mẹ thương con là chuyện thường tình.

Thánh giáo Thầy có dạy: Nếu các con hiểu rõ cơ huyền diệu của kiếp luân hồi con người, chẳng phải như thói thường tình định liệu, thì con không buồn và cũng không oán trách Thầy.

Nên hư cuộc thế gẫm thường tình,

Đừng mỗi muôn điều đổ Chí Linh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vẹo trăm nết hạnh kiếp thơ đào,

Ðừng để thường tình chịu sóng xao.

(Đạo Sử).

Giành phần mình đặng chẳng thương người,

Thói tục thường tình khéo dể ngươi.

(Đạo Sử).

 

 

THƯỞNG

Thưởng là khen ngợi, trả công cho người có công, tức cho tiền, hiện vật để tỏ ý khen ngợi và khuyến khích vì đã có công, có hành động tốt.

Như: Công thưởng tội trừng, đoạt giải thưởng.

Thánh giáo Đức Thíc Ca Như Lai có dạy: Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo. Ôi! Thương thay! Công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà Ta rất đau lòng.

Cuộc danh lợi là phần thưởng quý,

Đấng Hoá Công xét kỹ ban ơn.

(Kinh Sám Hối).

Trời linh mới có thưởng người lành,

Nếu chẳng thế gian cứ cạnh tranh.

(Đạo Sử).

 

 

THƯỞNG BAN

賞 頒

Thưởng: Khen ngợi, trả công cho người có công. Ban: Cho, cấp cho kẻ dưới.

Thưởng ban, như chữ “Ban thưởng 頒 賞”, là vua hoặc Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu ban ơn mà thưởng cho người có công nghiệp.

Trong Bài Văn Tế Đức Cao Thượng Phẩm của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài có câu: Vì công lao khổ, ơn huệ thưởng ban, hứng cảnh tiêu diêu, sắc son đã rõ. Miền Cực Lạc xin hương hồn Cao Thượng Phẩm chứng lòng đơn cho các bạn tại tiền, trước Linh Toà cả Chức Sắc Hiệp Thiên, dâng Tam Bửu ngỏ đền ơn tri ngộ.

Hội Bàn Đào, Diêu Trì Cung,

Phục sinh đào hạnh rượu hồng thưởng ban.

(Kinh Tận Độ).

Luân hồi trở lại trên đời,

Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.

(Kinh Sám Hối Ngắn).

 

 

THƯỞNG NGOẠN

賞 玩

Thưởng: Thưởng thức. Ngoạn: Ngắm xem.

Thưởng ngoạn là ngắm xem để thưởng thức những vẻ đẹp của thiên nhiên và cảm thấy thích thú.

Như: Du lịch sinh thái là để thưởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên, chị ấy thích thưởng ngoạn hoa kiểng.

Dừng chân thưởng ngoạn quanh sau trước,

Dị thảo kỳ hoa đẹp lạ thường.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

THƯỞNG PHẠT

賞 罰

Thưởng: Cho người có công. Phạt: Trị kẻ có tội.

Thưởng phạt đối với người có công, tội ở thế gian còn có sự tư vì, thiên lệch, nhưng phép Trời thưởng phạt thì rất công bình và không bao giờ sai chạy.

Như: Thưởng phạt nghiêm minh.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Phải quấy, Thần, Thánh chỉn chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc. Khá biết lấy!

Phước nhiều tội quá tiêu trừ,

Phép Trời thưởng phạt không tư chẳng vì.

(Kinh Sám Hối).

Gìn lòng chơn chánh chớ tà tây,

Thưởng phạt về sau cũng hội này.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thưởng phạt rõ ràng nâng khí phách,

Ân oai đầu đủ vững tinh thần.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

THƯỞNG PHONG

賞 封

Thưởng: Cho người có công. Phong: Ban phẩm tước cho bầy tôi.

Thưởng phong do chữ phong thưởng, tức là khen thưởng hay ban phẩm tước cho người có công.

Thánh giáo Thầy có câu: Vậy các con đứa nào đã được thưởng phong cũng chẳng nên vội mừng mà quên phận sự, còn mấy đứa chưa đặng phong thưởng cũng không nên vội buồn mà thất đạo tâm. Các con hiểu à!

Ngọc Hư Cung, sắc lịnh kêu,

Thưởng, phong, trừng, trị phân điều đoạ thăng.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THƯỞNG RĂN

Thưởng: Khen tặng cho người có công. Răn: Dạy bảo để ngăn cản.

Thưởng răn là khen thưởng người có công răn đe người lầm lỗi.

Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn, Phối Sư Thái Đến Thanh có câu: Thiên lý, ấy là kẻ tội nhơn trong nền Tôn giáo, phải chịu luân hồi chuyển kiếp trả quả tiền khiên, do theo lẽ công bình thưởng răn của Tạo hoá.

Cũng như bóng nọ tuỳ hình,

Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.

(Kinh Sám Hối).

Trước mặt luật đời xem rõ thấy,

Thưởng răn phép Phật rõ ngay gian.

(Đạo Sử).

Lành dữ thưởng răn coi quả báo,

Rồi đây ta rõ máy hành tàng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

THƯỢNG

1.- Thượng là trên. Như: Thượng đẳng, thượng hạng, thượng thừa, thế thượng, lộ thượng, phạm thượng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Lại để lời tiên tri mà dặn trước, nào dè Thánh Ngôn, các con không đọc, lời Thầy nói cũng như không, mới ra tội lỗi các con phạm thượng thế ấy.

Tiền khiên đã mãn nghiệp căn xưa,

Phải biết ăn năn chiếm thượng thừa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Thượng là lên.

Như: Thượng trình (như chữ thượng lộ), chúc thượng lộ bình an, thượng mã đăng đồ.

Càn khôn bước Thánh thượng trình,

Giải xong xác tục mượn hình Chí Tôn.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THƯỢNG CẦM HẠ THÚ

上 禽 下 獸

Thượng cầm: Các loài chim bay ở trên trời. Hạ thú: Các loài thú sống ở dưới đất.

Thượng cầm hạ thú là nói chung các giống thú cầm, trên là các loài chim bay, dưới là các loài thú chạy.

Thượng cầm hạ thú lao xao,

Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.

(Kinh Sám Hối).

 

 

THƯỢNG CỔ

上 古

Thượng: Trên, bực trên, dâng lên, xưa. Cổ: Xưa.

Thượng cổ là rất xưa, thời đại xa xưa.

Theo Kinh Dịch Thượng cổ là thời kỳ chưa phát minh chữ viết. Có người lại cho rằng Thượng cổ là kể từ trời đất mới mở mang xuống đến đời Tam Đại (Hạ, Thương, Châu).

Ở Việt Nam, người ta cho Thượng cổ là kể từ họ Hồng Bàng đến hết đời Bắc thuộc.

Khắp cả chúng sanh đồng chung sống,

Lập đời thượng cổ hưởng âu ca.

(Thơ Hộ Pháp).

Tái tạo hạ nguơn quy Thượng cổ,

Hồng trần biến thế cảnh Thiên đường.

(Long Hoa Hội).

 

 

THƯỢNG CHƯỞNG TAM THẬP LỤC THIÊN

上 掌 三 十 六 天

Thượng chưởng: Trên chưởng quản. Tam thập lục thiên: Ba mươi sáu tầng Trời.

Thượng chưởng Tam thập lục Thiên, nghĩa là Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế trên thì chưởng quản ba mươi sáu tầng Trời.

Đây là một câu kinh trong bài Ngọc Hoàng Kinh.

Thượng chưởng Tam thập lục Thiên,

Tam Thiên Thế giái.

Hạ ốc Thất thập nhị Địa,

Tứ Đại Bộ Châu.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

THƯỢNG ĐẲNG

上 等

Thượng: Trên, bực trên. Đẳng: Thứ bực.

Thượng đẳng là thuộc về bậc cao, bậc trên.

Như: Con người là thượng đẳng chúng sanh, sâm cao ly là thuốc thượng đẳng trong y học.

Bởi lý do đó các nhà thượng đẳng nhơn sanh chia nền chánh trị ra mỗi quốc gia, dụng tâm lý chia đều quyền lợi,...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THƯỢNG ĐẾ

上 帝

Thượng: Trên. Đế: Vua.

Thượng Đế, bởi chữ “Ngọc Hoàng Thượng Đế 玉 皇 上 帝”, là vua Trời.

Trong Kinh Thi có xưng tụng Đức Thượng Đế như sau: Hoàng hỹ Thượng Đế! Lâm hạ hữu hách, Giám quan tứ phương, Cầu dân chi mạc 皇 矣 上 帝, 臨 下 有 赫. 監 觀 四 方, 求 民 之 莫. Nghĩa là:Vĩ đại thay Thượng Đế! Soi xét xuống dưới rất rõ ràng, uy nghiêm. Ngài xem xét bốn phương, Để tìm sự khốn khổ của dân mà cứu giúp.

Xem: Thiên Đế.

Nam Mô Thượng Đế Ngọc Hoàng,

Mở cơ tận độ nhẹ nhàng chơn linh.

(Kinh Tận Độ).

Vọng Thượng Đế chứng lòng thành tín,

Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn nguyền.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

THƯỢNG GIỚI

上 界

Thượng: Trên, ở trên hết. Giới: Cõi.

Thượng giới là cõi trên, ý chỉ cõi giới của bậc Thần Tiên trên Trời, đối lập với hạ giới.

Hai Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có viết: Thượng giới gồm ba cõi Tiên là:

1. Cõi Thiên Tiên, cũng gọi là cõi Bồ đề (Monde Spirituel ou Monde Bouddhique).

2. Cõi Địa Tiên (Monde Mental supérieur-Manas supérieur).

3. Cõi Nhơn Tiên (Monde Mental-Manas).

Mỗi cõi chia làm ba từng, cộng chung là chín từng, gọi là Cửu Trùng Thiên.

Tao Đàn Thượng giới nay về hội,

Xin chứng trần gian khách điếu văn.

(Thơ Huệ Ngàn).

 

 

THƯỢNG HẠ

上 下

Thượng: Trên. Hạ: Dưới.

Thượng hạ là trên dưới, ý chỉ cấp trên và cấp dưới trong tôn ty phẩm trật.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Cả thảy đều con của Thầy, trừ ra tôn ty thượng hạ nơi việc hành chánh, thì đồng một bậc cả, chẳng ai đặng vì quyền mà lấn lướt, chẳng ai đặng vì mạng lịnh mà đè ép xua đuổi ai.

Lễ nghi dùng để phân định ngôi thứ: Tôn ty, thượng hạ.

(Giáo Lý).

 

 

THƯỢNG HẠ KHẮC NHAU

Thượng hạ: Trên dưới, ý chỉ cấp trên và cấp dưới trong tôn ty phẩm trật. Khắc nhau: Trái nghịch nhau.

Thượng hạ khắc nhau là nói cấp trên cấp dưới có ý kiến trái nghịch nhau, không thống nhứt được với nhau.

Như: Khi Đại hội biểu quyết, các chức sắc thượng hạ khắc nhau, không thống nhứt được ý kiến.

Nếu không có Chưởng Pháp đứng trung gian thế quyền Hiệp Thiên Đài nơi Cửu Trùng Đài điều độ cho êm đềm hoà nhã thì nền Đạo phải ching nghiêng sanh ra rối loạn, thượng hạ khắc nhau, phải mất trật tự mà gây nên đảng phái.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THƯỢNG HOÀNG

上 皇

Thượng: Trên. Hoàng: Vua chúa.

Thượng hoàng, như chữ “Hoàng thượng 皇 上”, chỉ vua, hoặc vua đã chết.

Thượng Hoàng, như chữ “Thái thượng hoàng 太 上 皇”, dùng để chỉ cha của nhà vua.

Thượng Hoàng sánh đức Chí Công,

Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

THƯỢNG HỌC Y NÔNG

上 學 醫 農

Thượng: Phái Thượng của chức sắc Cửu Trùng Đài. Học: Chỉ về Học viện. Y: Chỉ về Y viện. Nông: Chỉ về Nông viện.

Do bài thi của Đức Lý Giáo Tông, phân chia Cửu viện thuộc quyền hành Chánh Phối Sư ba phái Thái, Thượng, Ngọc của Cửu Trùng Đài.

Chánh Phối Sư phái Thượng Chưởng quản ba viện trong Cửu viện, mỗi viện lại đặt dưới quyền của một vị Thượng Thống và hai vị Phụ Thống.

Ba viện thuộc phái Thượng trông coi là:

- Học viện, phụ trách giáo dục, đào tạo cho thanh thiếu niên Đạo, huấn luyện chức sắc, Chức việc trước khi đi hành Đạo.

- Y viện phụ trách điều trị bịnh bằng Đông, Tây y cho người trong Đạo, điều hành, chăm sóc các nhà Dưỡng lão, cô nhi viện.

- Nông viện phụ trách về việc nông, trồng tỉa, khai thác ruộng rẫy, lập đồn điền và quản lý trồng các loại cây công nghiệp...

Xem: Cửu viện.

Thái Hộ, Lương, Công, nội chủ trương,

Thượng Nông, Y, Học, chấp phương cương.

(Lý Giáo Tông Giáng).

Phái Thượng gồm Học, Y, Nông,

Ngọc Hoà, Lại, Lễ cũng trong Cửu Trùng.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

THƯỢNG HỘI

上 會

Thượng: Trên. Hội: Nhóm họp.

Thượng Hội là một phiên hội cao nhứt trong ba Hội lập quyền vạn linh của tôn giáo Cao Đài.

Hội lập quyền vạn linh gồm ba cấp: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội.

A. Thành phần của Thượng Hội gồm mười một vị chức sắc Đại Thiên phong Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài như sau:

1.- Giáo Tông: Nghị trưởng.

2.- Hộ Pháp: Phó Nghị trưởng.

3.- Thượng Phẩm: Nghị viên.

4.- Thượng Sanh: Nghị viên.

5.- Ba vị Chưởng Pháp: Nghị viên.

6,- Ba vị Đầu Sư nam: Nghị viên.

7.- Nữ Đầu Sư: Nghị viên.

B. Từ hàn: Một vị chức sắc Cửu Trùng Đài phẩm Phối Sư hoặc Giáo Sư.

Từ hàn không phải là Nghị viên, nên không có quyền bàn cãi và bỏ thăm trong Thượng Hội.

Từ hàn có nhiệm vụ lập vi bằng và ghi chép các lời bàn cãi của chư Nghị viên, viết thư mời họp và lập chương trình nghị sự theo lịnh của Nghị trưởng.

Từ hàn gìn giữ sổ sách, giấy tờ của Thượng Hội.

Nhiệm kỳ của Từ hàn bốn năm và có thể được tái cử.

C. Thời gian và nơi họp:

Mỗi năm, sau lễ Noel thì Thượng Hội nhóm lệ thường niên trong hạn kỳ 15 ngày.

Ngoài ra Thượng Hội còn nhóm ba tháng một lần.

Khi có việc khẩn cấp, Nghị trưởng gởi tờ mời họp bất thường.

Thượng Hội nhóm phiên thường lệ hằng năm nơi giữa Đền Thờ Đức Chí Tôn tại Toà Thánh Tây Ninh.

D.- Biểu quyết:

Mỗi Hội viên có trọn quyền bàn cãi các việc đem ra Hội và được xin nói 3 lần, mỗi lần không quá năm phút đồng hồ, hay là một lần không quá 15 phút.

Trong mỗi việc chừng cả Hội tỏ hết ý kiến và bàn luận rồi, thì Hộ Pháp và Giáo Tông có ý kiến chi thì mới tỏ bày sau rốt. Chừng rồi, Nghị trưởng định cho bỏ thăm, bên nào đa số thăm thì là nghị quyết của Thượng Hội.

Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một thì là quyền Chí Tôn, nên không bỏ thăm, chỉ tính 9 nghị viên mà thôi. Điều nào có 5 thăm thuận thì được quá bán.

Nếu cả ba Hội (Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh, Thượng Hội) có ý kiến phản khắc nhau thì quyền của Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp lại quyết định thế nào thì toàn đạo phải tuân theo thế ấy.

Nếu ý kiến của Giáo Tông và Hộ Pháp nghịch nhau thì cả thảy đều hủy bỏ. Chừng ấy Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội phải nhóm lại để thảo luận lần nữa.

Điều thứ mười ba: Ngoài Hội thường lệ, thì ba tháng Thượng Hội nhóm một lần.

(Ba Hội Lập Quyền).

 

 

THƯỢNG HƯƠNG

上 香

Thượng: Dâng lên. Hương: Nhang đốt cúng.

Thượng hương là dâng hương lên Điện tiền, hay Bàn linh của người chết.

Khi Lễ sĩ xướng “Thượng hương”, hai người tiếp lễ nhận, hương thì cắm vào lư hương nơi chánh Điện hay Bàn linh, còn trầm thì để nơi bàn Nội nghi, hoặc trên bàn linh người quá cố.

Thượng hương.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

 

 

THƯỢNG LỘ

上 路

Thượng: Trên, lên, dâng lên. Lộ: Đường, con đường.

Thượng lộ là lên đường.

Thành ngữ “Thượng lộ bình an 上 路 平 安” thường được dùng trong lời chúc người đi xa.

Huấn dụ của Đức Thượng Sanh đọc tại giảng đường trong bữa tiệc đãi vị Tân Ðầu Sư và Toàn Thể Chức Sắc Chức việc ngày 24/1/Quý Mão (Dl. 17/02/1963): Trước khi dứt lời, riêng về Chức sắc Chức việc Nam Nữ ở Ðịa phương, tôi cầu chúc mỗi vị thượng lộ bình an, trong năm tất cả công việc Ðạo đều được tiến triển khả quan dưới sự che chở của Ðức CHÍ TÔN Ðại Từ Phụ.

Đạm bạc chung vui tỏ thạnh tình,

Ông bà thượng lộ đặng an ninh.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

THƯỢNG LƯU

上 流

Thượng: Trên. Lưu: Nước chảy, một phái riêng.

Thượng lưu là vùng sông ở phía trên theo hướng dòng nước chảy.

Thượng lưu còn dùng để chỉ tầng lớp con người được coi là cao sang trong xã hội, theo quan niệm cũ.

Thánh giáo Thầy có câu dạy: Nhà nghèo, hạnh tốt, ấy là gương treo dạy đời, các con khá bền lòng son sắt, cái hạnh tốt là thang vạch ngút mây xanh, tâm thành là để dồi trau tánh tục, lòng đạo đức quý hơn là miếng đỉnh chung, tố bần hàn tuỳ mình mà hành đạo thì công quả ấy trổi hơn hạng thượng lưu đó các con.

Trong giới thượng lưu trí thức có nhiều người học rộng tài cao chiếm những địa vị quan trọng ngoài mặt đời, nhưng vì thiếu đức tính nên không làm được gì hữu ích cho xã hội.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

THƯỢNG NGUƠN

上 元

Hay “Thượng nguyên”.

1.- Thượng nguơn là một trong ba nguơn của một năm, và đứng đầu ba nguơn đó.

Như ta biết, một năm người ta chia ra làm ba nguơn, tức là có ba cái rằm lớn nhất: Thượng nguơn là rằm tháng giêng, Trung nguơn là rằm tháng bảy, Hạ nguơn là rằm tháng mười.

Lễ Thượng nguơn đẹp bầu phong cảnh,

Tiếng tụng kinh Đền Thánh vang lừng.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

Thượng nguơn hành hiến lễ Nguyên tiêu,

Chư Phật, chư Tiên giáng ngự triều.

(Thơ Thanh Hương).

2.- Thượng nguơn còn có nghĩa là nguơn đầu tiên của một chuyển, kế đó Trung nguơn, cuối cùng là Hạ nguơn.

Hiện nay, Địa cầu 68 của nhân loại đang ở vào cuối Hạ nguơn của chuyển thứ ba, gọi là Hạ nguơn tam chuyển. Như vậy, Thượng nguơn sắp tới bước qua Thượng nguơn tứ chuyển.

Thượng Nguơn qua Trung Nguơn, qua Hạ Nguơn rồi trở lại Nhứt Nguơn nữa gọi là Hội Nguơn.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THƯỢNG NGUƠN THÁNH ĐỨC

上 元 聖 德

Nguơn là khoảng một thời gian dài trong sự hình thành Càn Khôn Vũ Trụ, vạn vật và sự tiến hoá của nhơn loại. Ba nguơn là một Chuyển, hay nói rõ hơn một Chuyển gồm Thượng nguơn hay nguơn Thánh đức, Trung nguơn hay nguơn Tranh đấu (Tấn hoá), Hạ nguơn hay nguơn Tái tạo (Bảo tồn).

Hiện nay nhơn loại đang ở vào thời kỳ Hạ nguơn Tam chuyển, sắp bước qua Thượng nguơn Tứ chuyển.

Như trên ta biết, Thượng nguơn được gọi là nguơn Thánh đức, nên người ta thường gọi là Thượng nguơn Thánh đức.

Tế độ Nhơn sanh, định tâm giác ngộ, hoà ái tương thân, đại đồng huynh đệ, phục hồi Thượng nguơn Thánh đức.

(Sớ Văn).

 

 

THƯỢNG PHẨM

上 品

Hay “Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư”.

Thượng Phẩm là một phẩm Chức sắc cao cấp của Hiệp Thiên Đài, chưởng quản Chi Đạo, dưới quyền Đức Hộ Pháp và trên Thập Nhị Thời Quân.

Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư 上 品 高 瓊 居 là một vị chức sắc Đại Thiên phong chưởng quản Chi Đạo Hiệp Thiên Đài, được Đức Chí Tôn phong cho Ngài Cao Quỳnh Cư.

Theo Pháp Chánh Truyền, các chơn linh, dầu nguyên nhân hay là hoá nhân, đều nhờ Thượng Phẩm gìn giữ binh vực cho ngồi đặng an ổn địa vị mình, giúp đỡ cho đức hạnh trổi thêm cao cho khỏi phạm luật lệ, xem sóc ngôi thứ chẳng cho giành giựt lẫn nhau, ắt giữ cho Cửu Trùng Đài đặng hoà nhã yêm điềm, khép cửa Thiên môn, cấm đường không cho các chơn linh thối bước (Hay!).

Phẩm trật nhờ người mà đặng thăng lên hay là bị người mà phải hạ. Người nắm luật đạo nơi tay mà binh vực cả chư Chức sắc Thiên phong và các tín đồ, chẳng cho ai phạm luật, vùa lo cho người đạo hạnh lên cho tột phẩm vị của mình.

Thượng Phẩm là chủ phòng cãi luật, làm trạng sư của tín đồ.

Thượng Phẩm thì quyền về phần Đạo, dưới quyền có: Tiếp Đạo, Khai Đạo, Hiến Đạo, Bảo Đạo, lo về phần Tịnh Thất, mấy Thánh Thất đều xem sóc chư môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khổ khắc cho đặng.

Các Tịnh Thất đều về quyền của Thượng Phẩm cai quản. Cả tín đồ thì về phần người binh vực, chẳng cho ai phạm luật đến khổ khắc cho đặng. Các Chức sắc trấn nhậm mấy Thánh Thất phải do nơi quyền người thuyên bổ, liệu lượng tài sức mỗi người mà chỉ định phận sự (công bình vậy).

Thượng Phẩm là cây cờ của Đạo. Hễ đạo nơi nào thì Thượng Phẩm nơi ấy.

Thượng Phẩm đối quyền Chưởng Pháp bên Cửu Trùng Đài. Hiệp Thiên Đài là luật lệ, mà Thượng Phẩm lại là chánh trị, ấy vậy, Thượng Phẩm là người của Cửu Trùng Đài nơi Hiệp Thiên Đài.

Đạo phục của Thượng Phẩm có hai bộ: một bộ đại phục và một bộ tiểu phục.

- Bộ đại phục thì toàn bằng hàng trắng, ngoài mặc áo lá màu xanh có viền chỉ kim tuyến bạc. Đầu để trần, chơn đi giày Vô ưu màu trắng, trước mũi có chữ “Đạo”. Lưng buộc dây Lịnh sắc y như của Hộ Pháp, song mối phải thả ngay bên hữu. Tay hữu cầm Long Tu Phiến (nghĩa là cây quạt kết đủ 36 lông cò trắng), trên đầu quạt ngay giữa có Phất Chủ (thể quạt đưa các chơn hồn vào Tam thập lục Thiên, nghĩa là vào Thiên vị), tay tả nắm Xâu chuỗi Từ bi (thể dâng Đạo vào cho Hộ Pháp).

- Bộ tiểu phục cũng bằng hàng trắng, lưng cột dây Lịnh sắc y như đại phục, đầu đội Hỗn Nguơn Mạo màu trắng y như của Hộ Pháp, ngay giữa trán có Long Tu Phiến, ngay trên hình Long Tu Phiến có chữ Đạo. Khi đến Toà Tam giáo thì mặc bộ Tiểu phục, còn đại phục thì chỉ dùng khi đến ngự trên ngai.”

Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư, hiệu là Bội Ngọc, sanh năm Mậu Tý (1888) tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là Cao Quỳnh Tuân, làm Cai Tổng Hàm Ninh Thượng, và mất lúc Ngài Cư mới được 10 tuổi. Thân mẫu của Ngài Cư là Bà Trần Thị Huệ, sau đắc phong nữ Giáo Sư ngày 14 tháng giêng Đinh Mão.

Ngài có người anh thứ ba là Cao Quỳnh Diêu được đắc phong Tiếp Lễ Nhạc Quân năm 1927 và Bảo Văn Pháp Quân năm 1929.

Năm 1907, Ngài lập gia đình với bà Nguyễn Thị Hiếu ở Sài gòn. Bà Hiếu được Đức Chí Tôn phong làm nữ Giáo Sư năm 1927, sau thăng lên Đầu Sư năm 1968. Hai Ông Bà chỉ sanh được một người con trai là Cao Quỳnh An, nhưng mất sớm khi còn du học ở Pháp.

Năm 1915, Ngài Cao Quỳnh Cư làm thư ký sở hoả xa Sài gòn, sau 10 năm làm việc Ngài được lên ngạch Còm mi. Gia đình cư ngụ tại 134 đường Bourdais, nay là đường Calmette thuộc Quận Nhứt Sài gòn.

Vào ngày 4 tháng 6 năm Ất Sửu (Dl. 24/7/1925), quý Ngài Cao Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc cùng đến nhà Ngài Cao Hoài Sang ở dãy phố hàng dừa, bây giờ là đường Cống Quỳnh, gần chợ Thái Bình, Sài Gòn để uống trà đàm đạo. Giờ càng khuya Ngài Cư vì muốn tìm hiểu về thế giới vô hình nên đề nghị xây bàn tiếp xúc với các vong linh người khuất mặt, thì hai ông Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang cũng đồng tình hưởng ứng. Đêm đầu xây bàn không đạt được kết quả.

Qua đêm sau, quý Ngài lại tiếp tục xây bàn thì có vong linh Cao Quỳnh Lượng (con trai của Cao Quỳnh Diêu) nhập bàn, sau đó vong linh Cao Quỳnh Tuân, là thân phụ Ngài Cao Quỳnh Diêu và Cao Quỳnh Cư giáng bàn cho bài thi như sau:

Ly trần tuổi đã quá năm mươi,

Mi mới vừa lên ước đặng mười.

Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,

Tình thương căn dặn gắng tâm đời.

Bên màn đôi lúc trêu hồn phách,

Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.

Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,

Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.

Bốn đêm sau, tức vào ngày 10 tháng 06 Ất Sửu (Dl. 30/07/1925), ba ông cũng họp tại nhà ông Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn nữa. Kỳ nầy có một nữ vong linh nhập bàn cho một bài thi xưng là Đoàn Ngọc Quế.

Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?

Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.

Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,

Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.

Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,

Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.

Dồn dập tương tư oằn một gánh,

Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?

Bài thi quá hay, nên ba Ngài mỗi người đều có đáp hoạ lại. Sau khi tìm hiểu thân thế của Đoàn Ngọc Quế thì ba Ngài mới biết vong linh đó chính là Bà Vương Thị Lễ, con gái Ông Đốc Phủ Vương Quan Trân, và cũng là cháu ngoại của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương.

Kể từ đó Bà Vương Thị Lễ thường giáng cơ xướng hoạ với ba Ngài. Sau đó vào một tối thứ bảy, Bà giáng bàn kết nghĩa anh em với ba vị: Bà tự cho mình là Tứ muội, gọi ông Cao Quỳnh Cư là trưởng ca, ông Phạm Công Tắc là nhị ca, ông Cao Hoài Sang là tam ca. Đồng thời Bà còn giới thiệu các vị Nữ Tiên khác như Nhứt Nương, Lục Nương, Bát Nương về giáng hoạ thi văn với ba Ngài.

Sau nầy, Bà Vương Thị Lễ mới cho ba Ngài biết chính Bà là Thất Nương Diêu Trì Cung có nhiệm vụ dùng văn chương thi phú để dìu dắt ba vị theo đường Đạo đức, rồi dẫn đến khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Đến hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925), ba Ngài xây bàn tiếp nhận được một bài thi có ý tứ rất lạ lùng, Ngài Cư hỏi tên họ thì Đấng ấy tự xưng là AĂÂ.

Bài thi đó như sau:

Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,

Muối mặn ba năm muối mặn dai.

Túng lúi đi chơi nên tấp lại,

Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.

Ngài Cư hỏi về tuổi thì Đấng A Ă Â gõ bàn trả lời đếm hoài tới mấy trăm mà bàn vẫn tiếp tục gõ, nên Ngài Cư không dám hỏi nữa.

Một hôm, Đấng A Ă Â giáng bàn dạy ba Ngài như sau: “Nếu muốn cho ta tận tâm truyền dạy Đạo lý thì hết thảy phải kỉnh Ta bằng Thầy, cho tiện bề đối đãi”.

Ba Ngài đồng ý và bắt đầu thọ giáo học Đạo cùng Đấng A Ă Â.

Kể từ đó, Đấng A Ă Â thường nhập bàn giảng dạy cho ba ông những thắc mắc khó giải quyết, khiến mọi người đều kính phục.

Đến thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu, Ba Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang theo lời dạy của Thất Nương giữ trai giới trọn ba ngày rồi đi tìm mượn Ngọc Cơ của ông Phán Tý gần nhà để cầu Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung.

Qua đêm 14 tháng 8 năm Ất Sửu, ba Ngài dọn một tiệc chay đặt trên một cái bàn dài ở giữa nhà và chung quanh xếp mười cái ghế thì có Cửu Thiên Nương Nương và chín Bà Tiên Nương, mỗi vị giáng cho một bài thi. Những bài thi nầy sau Hội Thánh dùng làm Bài Thài để hiến lễ các Bà trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung tại Báo Ân Từ.

Trong Đàn cơ ngày 27 tháng 10 năm Ất Sửu, Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng cơ bảo rằng: Mùng một nầy tam vị Đạo hữu Vọng Thiên Cầu Đạo”.

Ngày hôm sao, ba Ngài lập đàn cầu hỏi Bà Thất Nương xem cầu Đạo là gì và phải làm sao? Bà Thất Nương trả lời: Không phải phận sự của em, xin hỏi Ông A Ă Â.

Đến ngày 30 tháng 10 năm Ất Sửu, Đấng A Ă Â giáng cơ, ba Ngài hỏi thì được dạy như sau: Ngày mùng 1 tháng 11 nầy tam vị phải Vọng Thiên Cầu Đạo, tức là phải tắm gội cho tinh khiết rồi ra quỳ ở ngoài sân, cầm chín cây nhang mà vái rằng: Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang vọng bái Cao Đài Thượng Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà quy chánh.

Theo lời dạy, ba Ngài mới cầm chín cây nhang quỳ trước bàn Vọng Thiên cầu nguyện y như lịnh dạy, đến tàn hết chín cây nhang mới thôi.

Sau đó, ba Ngài đem ngọc cơ ra cầu, Đấng A Ă Â mới ban cho một bài thi như sau:

Cứ níu theo phan Ðức Thượng Hoàng,

Tự nhiên tu tánh đặng bình an.

Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,

Vịn lấy nhành dương hưởng Ðạo nhàn.

Mãi đến đêm Noel ngày 24 tháng 12 năm 1925, Thất Nương Diêu Trì Cung giáng cơ truyền cho ba ông phải chỉnh đàn cho nghiêm để tiếp giá.

Liền đó, Đấng A Ă Â mới giáng cơ xưng danh là “NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương”

Và cho bài Thánh giáo như sau:

Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,

Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.

Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,

Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

Ðêm nay, 24 Décembre, phải vui mầng vì là ngày của Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây (Europe).

Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta.

Giờ ngày gần đến, đợi lịnh nơi Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.

Nhờ bài Thánh giao nầy mọi người mới biết Đấng A Ă Â chính là Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế tạm ẩn danh để dìu dắt các vị Tiền khai Đại Đạo.

Ngày 15 tháng 3 năm Bính Dần (Dl. 26/4/1926), Đức Chí Tôn phong Ngài Cao Quỳnh Cư là Tá Cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ.

Trong Đàn cơ ngày 18 tháng 5 năm Bính Dần (Dl. 27/6/1926), Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Mấy đứa con là: Nghĩa, Hậu, Ðức, Tràng, Cư, Tắc, Sang, đều mặc đồ trắng, hầu theo thứ lớp như vầy:

Nghĩa, Ðức, đứng xướng ngoài, là tại bàn thờ Hộ Pháp; rồi Hậu, Tràng, đứng cặp kế đó; kế ba con sau rốt hết: Tắc giữa, Cư mặt, Sang trái.

Theo đàn cơ trên sự sắp xếp của Đức Chí Tôn cho ta thấy: Nghĩa (Trần Duy Nghĩa), Hậu (Nguyễn Trung Hậu), Đức (Trương Hữu Đức), Tràng (Trương Văn Tràng), Cư (Cao Quỳnh Cư), Tắc (Phạm Công Tắc), Sang (Cao Hoài Sang) đều mặc đồ trắng đứng cận bàn Hộ Pháp, tức là xác nhận những vị đó đều là chức sắc Hiệp Thiên Đài.

Còn Cư, Tắc, Sang đứng sau rốt hết: Tắc giữa, Cư mặt, Sang trái. Sự sắp xếp nầy của Đức Chí Tôn mặc nhiên dạy: Tắc là Hộ Pháp đứng ở giữa, Cư là Thượng Phẩm, đứng bên mặt, Sang là Thượng Sanh, đứng bên trái, là ba vị chưởng quản ba chi Pháp, Đạo và Thế của Hiệp Thiên Đài.

Ngài Cao Quỳnh Cư có công rất lớn trong việc tìm mua đất tại làng Long Thành, rồi huy động dân công quả phá rừng để xây cất Toà Thánh tạm. Nhứt là việc di dời cốt Phật Tổ về Chùa mới để trả ngôi Từ Lâm Tự (chùa Gò Kén) lại cho Hoà Thượng Như Nhãn.

Theo quyển Đạo Sử, Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có nhắc lại việc đòi chùa cho Hoà Thượng như sau: Kể từ Rằm tháng 10 Bính Dần (1926) tới Rằm tháng Giêng Ðinh Mão (1927) là đúng kỳ hứa trả chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén) là ba tháng, nhưng tới tháng hai năm Ðinh Mão, đã quá hạn kỳ một tháng mà Hội Thánh chưa trả chùa lại được, vì chưa kiếm được đất để mua, còn ông Huề Thượng Giác Hải thì cứ đòi chùa lại hoài.

Vì sự đòi chùa ấy nên Ðức Lý Giáo Tông giáng dạy quý ông Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng đi kiếm đất mua đặng dời chùa.

Hôm đầu, Hội Thánh tìm mua không được đất. Qua ngày sau, 22 tháng 1 năm Đinh Mão, Hội Thánh theo lời chỉ dạy của Đức Lý thì tìm mua được một miếng đất rừng của ông Kiểm lâm người Pháp tên là Aspar.

Khi mua được đất rồi, Đức Cao Thượng Phẩm huy động hơn ngàn người Thổ (Cao Miên) đứng ra phá rừng, khiến cho ông Chánh Tham Biện Tây Ninh, người Pháp phải mời Đức Cao Thượng Phẩm ra Toà Bố hỏi lý do phá rừng. Ngài trả lời là phá rừng để trồng cao su.

Một mặt phá rừng, một mặt Ngài huy động hai chiếc xe bò cùng một số nhân công để thỉnh cốt Phật từ chùa Gò Kén về chùa mới.

Trong quyển Đạo Sử, Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có kể lại giai đoạn nầy như sau: Trong lúc sửa soạn thỉnh cốt Phật thì ông Chánh Tham Biện người Pháp cho một toán lính mặc đồ thâm núp dưới đường mương ngoài chong súng lên đặng bắn Ðức Thượng Phẩm. Tới chừng thấy rõ là thỉnh cốt Phật mới rút lui. Hội Thánh từ từ di cốt Phật về đất mới mua.

Ðức Thượng Phẩm đứng trên xe bò vịn Ðức Phật Tổ, thấy nghiêng bên nào thì hô lên để sửa lại ngay; đi từ 6 giờ chiều tới 2 giờ khuya mới đến Thánh Ðịa (ngay cửa Hoà Viện bây giờ). Trước cửa Hoà Viện có cây vên vên, đến đây di cốt Phật Tổ vào không được vì bị một cái đường mương lớn quá; Ðức Thượng Phẩm phải lập kế kiếm ván đặng lót xe vô mới được. Khi xe qua đường mương rồi thì tạm để cốt Phật Tổ nơi đây, vì Ðức Thượng Phẩm mệt đuối, nhào xuống đống lá khô trong rừng nằm nghỉ; tất cả Chức Sắc cũng nằm xuống đó nghỉ theo.

Trong lúc lo xây dựng chùa và các cơ quan Đạo, Ngài Cao Quỳnh Cư phải chịu một cơn khảo đảo dữ dội, do một nhóm người xấu, phao tin là Ngài đục đáy tủ hành hương, lấy tiền của Đạo bỏ túi riêng. Thừa dịp, ông Tư Mắt (dân du đảng) nghe lời người ta xúi giục đứng ra lãnh đạo một nhóm côn đồ ở Chợ Lớn kéo lên Toà Thánh, dùng bạo lực xua đuổi Ðức Thượng Phẩm trong vòng 24 giờ phải ra khỏi Toà Thánh.

Ngài quá đau buồn và tủi nhục làm bài thi Tự Thuật như sau:

Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,

Bằng địa sóng xao khiến rập rình.

Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,

Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.

Xưa Toà Thánh dập dìu lai vãng,

Nay Bửu Ðình hiu quạnh lụy nhìn.

Thương Ðạo mến Thầy xin sớm liệu,

Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.

Sau đó, Thất Nương Diêu Trì Cung có giáng cơ an ủi Ngài Thượng Phẩm bằng một bài thi như sau:

Nghĩ giận mà ra bắt nực cười,

Nhờ ai an vị lại an nơi.

Trăm năm chưa giữ bền thân sống,

Một kiếp đã gây lắm tội đời.

Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo,

Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời.

Nhắn lời nói với phường đen bạc,

Ðến cửa Thiêng liêng ngó mặt Trời.

Ngài rời khỏi Toà Thánh về Thảo Xá Hiền Cung thì lâm bịnh nặng. Ngày 15 tháng 10 năm Mậu Thìn (1928) lúc 7 giờ, Hội Thánh có đến rước Đức Cao Thượng Phẩm về Toà Thánh nhập Tịnh Thất một thời gian, khoảng hơn hai tháng, Ngài lại đòi trở về Thảo Xá Hiền Cung.

Cho đến ngày 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (Dl. 10/4/1929), lúc 11 giờ trưa, có mặt Đức Hộ Pháp cùng Ngài Bảo Văn Pháp Quân, Bà Giáo Sư Hương Hiếu... Ngài để lời trối cùng Đức Hộ Pháp như sau: Nay Qua về chầu Đức Chí Tôn, Em ở lại hiệp với Chức sắc chung lo nền Đạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự. Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như còn. Nói xong, Ngài day qua căn dặn Bà Hương Hiếu vừa dứt lời thì Ngài đăng Tiên một cách nhẹ nhàng tại Thảo Xá Hiền Cung.

Bài Thài hiến lễ Đức Thượng Phẩm:

Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,

Cõi Thiên mừng đặng dứt dây oan.

Nợ trần đã phủi, lòng son sắt,

Ngôi vị nay vinh, nghĩa đá vàng.

Cổi tấm chơn thành lòa nhựt nguyệt,

Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.

Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,

Để mắt xanh coi nước khải hoàn.

Bài thài trên được Đức Ngài giáng cơ ban cho khi di Liên đài của Ngài ra bửu tháp.

1.- Thượng Phẩm:

Đức Thượng Phẩm về phần Chi Đạo,

Nắm trọn quyền truyền giáo Thiên Phong.

(Lược Thuật Toà Thánh).

2.- Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư:

Nếu toàn thể con cái của Ngài, một đôi triệu chơn linh mà có đức tin vững chắc như đức tin của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư và Hộ Pháp Phạm Công Tắc, nếu cả thảy đều có đức tin vững vàng dường ấy, Bần Đạo dám nói chắc rằng: Các người dời núi Bà xuống Châu Thành Saigon cũng được.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THƯỢNG PHẨM CUNG NGHINH

上 品 恭 迎

Hay “Thượng Phẩm quỳ nghinh”.

Thượng Phẩm cung nghinh (Thượng Phẩm quỳ nghinh) là chỉ Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư cung nghinh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương.

Do tích “Hớn rước Diêu Trì” tức là vua Hớn Võ Đế tiếp rước Đức Phật Mẫu, cho nên ngôi Báo Ân Từ tại Toà Thánh Tây Ninh, nơi chánh điện, có hình ngôi Hoa Điện, trên có Đức Phật Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương và bốn Tiên Đồng Nữ Nhạc cỡi chim thanh loan, đứng bên có Đông Phương Sóc đang tiếp rước Phật Mẫu. Trước sân Hoa Điện là Đức Thượng Phẩm quỳ nghinh giá.

Đáng lý nơi tượng thờ phải đắp vua Hớn Võ Đế quỳ cung nghinh Đức Phật Mẫu như điển tích, nhưng Đức Hộ Pháp dạy đắp tượng Đức Thượng Phẩm bởi vì nguyên linh của vua Võ Đế chính là Hớn Chung Ly và Đức Thượng Phẩm cũng chính là Chơn linh Hớn Chung Ly giáng phàm trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, nên tượng Đức Thượng Phẩm thay thế cho vua Võ Đế nhà Hớn.

Xem: Hớn Rước Diêu Trì.

1.- Thượng Phẩm cung nghinh:

Di tích lịch sử ban sơ,

Thượng Phẩm quỳ tại ngôi thờ cung nghinh.

(Báo Ân Từ).

2.- Thượng Phẩm quỳ nghinh:

Đào Tiên Phương Sóc tiếp nâng,

Đức Cao Thượng Phẩm đầu trần quỳ nghinh.

(Báo Ân Từ).

 

 

THƯỢNG PHỤ

上 父

Thượng: Trên, ở đây cũng có hiểu là Thượng Đế. Phụ: Cha, viết tắt của Đại Từ Phụ.

Thượng phụ có nghĩa là Cha trời, ý chỉ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Nay con nắm ấn rồng Thượng Phụ,

Ngậm phù linh đặng giữ lòng con.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

THƯỢNG SANH

上 生

Hay “Thượng Sanh Cao Hoài Sang”.

Thượng Sanh là phẩm vị chức sắc cao cấp của Hiệp Thiên Đài chưởng quản chi Thế, dưới quyền của Hộ Pháp.

Theo Pháp Chánh Truyền, chơn linh các nguyên nhân bị đoạ trần, quỷ nhân chuộc tội hay là hoá nhân thăng cấp đều nhờ Thượng Sanh độ rỗi (ấy là Thế độ), nên Thượng Sanh làm chủ của Thế Đạo, nắm luật nơi tay mà dìu dắt cả chúng sanh vào cửa Đạo.

Ai làm cho ngăn cản bước đường tu của thế gian thì Thượng Sanh đặng quyền kiện cùng Toà Thánh, chư Chức sắc phạm luật làm cho chúng sanh phải xa lánh Đạo thì người có quyền xin trị tội tức thì.

Thượng Sanh làm chủ phòng Cáo luật.

Thượng Sanh thì lo về phần Đời. Mỗi sự chi thuộc về Đời thì về quyền của Thượng Sanh. Dưới quyền của Thượng Sanh có 4 vị Thời Quân là: Tiếp Thế, Khai Thế, Hiến Thế, Bảo Thế.

Thượng Sanh đối quyền Chưởng Pháp bên Cửu Trùng Đài.

Hiệp Thiên Đài là luật lệ, mà Thượng Sanh lại là chánh trị, ấy vậy, Thượng Sanh là người của Cửu Trùng Đài nơi Hiệp Thiên Đài.

Thượng Sanh và tứ vị Thời Quân chi Thế cũng phải thề giữ dạ vô tư mà hành chánh.

Đạo phục của Thượng Sanh có hai bộ: một bộ đại phục và một bộ tiểu phục.

- Bộ đại phục cũng y như của Thượng Phẩm, đầu bịt Thanh Cân, nghĩa là một bao đảnh xanh, lưng mang dây Thần thông, nghĩa là một đường lụa đỏ và nịt dây Lịnh sắc y như của Hộ Pháp và Thượng Phẩm, song mối phải thả ngay về bên tả. Nơi lưng giắt Thư Hùng Kiếm (thể tạo Thế và chuyển Thế), tay hữu cầm Phất Chủ (thể đưa Thế vào cho Hộ Pháp), tay tả nắm Xâu chuỗi Từ bi (thể dâng Đạo cho nhơn sanh), chơn đi giày Vô ưu màu trắng, trước mũi có chữ “Thế”.

- Bộ tiểu phục cũng y như của Thượng Phẩm, song ngay trước mão, chính giữa có thêu Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ, ngay trên hình Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ có chữ Thế, lưng cột dây Lịnh sắc như đại phục.

Khi đến Toà Tam giáo thì phải mặc bộ tiểu phục, còn đại phục thì chỉ khi đến ngự trên ngai mình.”

Thượng Sanh Cao Hoài Sang, sanh ngày 29 tháng 7 Tân Sửu (Dl. 11/9/1901) tại làng Thái Bình tỉnh Tây Ninh.

Thân phụ của Ngài là Cao Hoài Ân (Huệ Chương trong Đại Đạo Truy Nguyên viết là Cao Hoằng Ân), lúc sanh tiền làm việc tại Toà Án, là vị Thẩm phán Việt Nam đầu tiên. Thân mẫu là Bà Hồ Thị Lự đắc phong nữ Giáo Sư tại Kim Biên năm1927, thăng Phối Sư năm 1935 và thăng nữ Đầu Sư 1968.

Cụ Ông và cụ Bà là người hiền hậu, gia đình nề nếp Nho phong, giàu lòng bác ái, hay giúp nghèo trợ khó.

Ngài có ba anh em: Anh thứ hai là Cao Đức Trọng đắc phong Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài. Người chị thứ ba là Cao Thị Cường đắc phong nữ Giáo Hữu, năm 1971 làm Giám Đốc Cô Nhi Viện Tây Ninh, sau thăng lên Giáo Sư.

Thuở nhỏ Ngài học trường Sư phạm (Ecole Normale), thi đậu bằng Thành chung, rồi ra làm việc ở sở Thương chánh, Sài Gòn. Ngài là một công chức thanh liêm cương trực, đã được bề trên giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, Ngài đều làm hoàn thành, vì thế Ngài lần lần được thăng lên ngạch Tham tá.

Ngài lập gia đình với Bà Võ Thị Giáo, sanh đặng 9 người con, gồm 5 người trai và 4 người gái.

Vào ngày 4 tháng 6 năm Ất Sửu (Dl. 24/7/1925), quý Ngài Cao Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc cùng đến nhà Ngài ở dãy phố hàng dừa, bây giờ là đường Cống Quỳnh, gần chợ Thái Bình, Sài Gòn để uống trà đàm đạo. Rồi sau đó vì muốn tìm hiểu về thế giới vô hình nên Ngài Cao Quỳnh Cư đề nghị xây bàn tiếp xúc với các vong linh người khuất mặt, thì Phạm Công Tắc và Ngài cũng đồng tình hưởng ứng. Đêm đầu xây bàn không đạt được kết quả.

Năm đêm sau, tức vào ngày 10 tháng 06 Ất Sửu (Dl. 30/07/1925), ba ông cũng họp tại nhà Ngài để mở cuộc xây bàn nữa. Kỳ nầy có một nữ vong linh nhập bàn cho một bài thi xưng là Đoàn Ngọc Quế.

Bà Đoàn Ngọc Quế sau nầy cho biết chính Bà là Vương Thị Lễ, chơn linh Thất Nương Diêu Trì Cung giáng phàm. Từ đó Bà Thất Nương dẫn dắt các vị Tiên Nương Diêu Trì Cung khác giáng đàn cho thi, rồi dạy các Ngài tổ chức lễ cung nghinh Đức Phật Mẫu.

Đồng thời, khoảng tháng 7 có một chơn linh rất cao trọng, giáng cơ xưng là A, Ă, Â (sau các Ngài mới biết là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế) cho thi văn dạy Ðạo và dìu dẫn các Ngài Vọng Thiên Cầu Đạo, rồi sau đó đưa đến khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại chùa Gò Kén vào ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần (1926).

Trong Đàn cơ ngày 18 tháng 5 năm Bính Dần (Dl. 27/6/1926), Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Mấy đứa con là: Nghĩa, Hậu, Ðức, Tràng, Cư, Tắc, Sang, đều mặc đồ trắng, hầu theo thứ lớp như vầy:

Nghĩa, Ðức, đứng xướng ngoài, là tại bàn thờ Hộ Pháp; rồi Hậu, Tràng, đứng cặp kế đó; kế ba con sau rốt hết: Tắc giữa, Cư mặt, Sang trái.

Theo đàn cơ trên sự sắp xếp của Đức Chí Tôn cho ta thấy: Nghĩa (Trần Duy Nghĩa), Hậu (Nguyễn Trung Hậu), Đức (Trương Hữu Đức), Tràng (Trương Văn Tràng), Cư (Cao Quỳnh Cư), Tắc (Phạm Công Tắc), Sang (Cao Hoài Sang) đều mặc đồ trắng đứng cận bàn Hộ Pháp, tức là xác nhận rằng những vị đó đều là chức sắc Hiệp Thiên Đài.

Còn Cư, Tắc, Sang đứng sau rốt hết: Tắc giữa, Cư mặt, Sang trái.

Như vậy, sự sắp đặt nầy của Đức Chí Tôn mặc nhiên phong cho Ngài Phạm Công Tắc là Hộ Pháp đứng ở giữa, Cao Quỳnh Cư là Thượng Phẩm, đứng bên mặt, Cao Hoài Sang là Thượng Sanh, đứng bên trái, là ba vị chưởng quản ba chi Pháp, Đạo và Thế của Hiệp Thiên Đài.

Ngài cùng Cao Quỳnh Diêu là một cặp phò loan phổ độ trong các tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hòa, Bà Rịa, Sa Đéc. Ngoài ra Ngài còn hiệp với Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm để chấp cơ phổ độ và chung lo Đại lễ Khai đạo tại Thánh Thất Từ Lâm Tự.

Ngày 16 tháng 12 Bính Dần (Dl. 20/11/1926) Ðức Chí Tôn giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Ðài.

Ngày 9 tháng 1 năm Ðinh Mão (Dl. 10/2/1927) Ðức Lý Thái Bạch giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Nữ phái.

Ngày 12 tháng 1 năm Ðinh Mão (Dl. 13/2/1927) Ðức Chí Tôn giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài.

Trong giai đoạn tổ chức lễ Khai Đạo tại chùa Gò Kén, Đức Thượng Sanh thường lên xuống để chung lo với Hội Thánh. Ngài chưa trọn phế đời hành Đạo.

Sau lễ Khai Đạo, Hoà Thượng Như Nhãn đòi chùa Gò Kén lại, Hội Thánh phải lo mua đất tại làng Long Thành và Đức Thượng Phẩm huy động nhân công để phá rừng, xây dựng ngôi chùa mới.

Trong lúc lo xây dựng chùa và các cơ quan Đạo, Ngài Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư phải chịu một cơn khảo đảo dữ dội, do một nhóm người xấu, phao tin là Ngài đục đáy tủ hành hương, lấy tiền của Đạo bỏ túi riêng. Thừa dịp, ông Tư Mắt (dân du đảng) nghe lời người ta xúi giục đứng ra lãnh đạo một nhóm côn đồ ở Chợ Lớn kéo lên Toà Thánh, dùng bạo lực xua đuổi Ðức Thượng Phẩm trong vòng 24 giờ phải ra khỏi Toà Thánh.

Ngài quá đau buồn, tủi nhục lui về Thảo Xá Hiền Cung và làm bài thi Tự Thuật sau đây:

Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,

Bằng địa sóng xao khiến rập rình.

Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,

Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.

Xưa Toà Thánh dập dìu lai vãng,

Nay Bửu Ðình hiu quạnh lụy nhìn.

Thương Ðạo mến Thầy xin sớm liệu,

Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.

Ðức Thượng Sanh nghe tin đến thăm, có hoạ nguyên vận bài thi của Thượng Phẩm như sau:

Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh,

Hiu quạnh hôm nay ngó rập rình.

Trước Ðiện lai rai ba chú Ðạo,

Sau hiên meo mốc mấy pho kinh.

Rừng xơ vẻ thắm chim khôn đỗ,

Cảnh cũ màu xanh khách biếng nhìn.

Rường cột Ðạo mầu bao thuở dựng,

Sụt sùi để bước khó làm thinh.

Phần đông các Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, cũng như Đức Thượng Sanh trước đây đều là Công, hoặc Tư chức ở Sài Gòn, thỉnh thoảng có việc Đạo, họ mới về giải quyết hay thư từ góp ý mà thôi.

Cho đến năm Bính Thân (1956), Đức Hộ Pháp phải lưu vong sang Miên quốc, không người lèo lái thuyền Đạo, nên theo vi bằng ngày 10 tháng 3 năm Ðinh Dậu (Dl. 9/4/1957), Hội Thánh yêu cầu Đức Ngài về cầm quyền mối Đạo.

Ngày 15 tháng 4 năm Ðinh Dậu (Dl.14/5/1957), Thượng Sanh Cao Hoài Sang liền triệu tập phiên họp Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài ở Sài Gòn tại nhà Ông Hiến Thế và Ông Bảo Sanh Quân, Ðức Ngài cùng chư vị Thời Quân đồng chấp thuận về Toà Thánh cầm giềng mối, điều hành nền Đạo Ðạo.

Hội Thánh định tổ chức cuộc lễ rước Ngài bằng một nghi thức vô cùng long trọng, nhưng Ðức Ngài từ khước, không nhận.

Khi về cầm quyền Hội Thánh, Đức Thượng Sanh có làm bài thi có tựa đề là “Về Toà Thánh Hành Đạo” như sau:

Nhìn thấy Đạo Trời lúc ngửa nghiêng,

Biển khơi ra sức lái con thuyền.

Chống chèo sẵn cậy trang đồng chí,

Day trở nhờ nương bạn Hiệp thiên.

Bầu ái đầy chan gieo Thánh đức,

Cõi tâm rộng mở rước nhân hiền.

Bao nhiêu khổ hạnh thân chi xá,

Miễn đặng ngàn năm nghiệp Đạo truyền.

Đồng thời, Ngài cũng nói lên lập trường của mình trong bài “Thuyết Minh” vào đêm 14 tháng 4 năm Đinh Dậu (13/5/1957) đọc tại Toà Thánh Tây Ninh có đoạn như sau:

“Chúng tôi, Thượng Sanh và Chư vị Thời quân, Bảo Quân Hiệp Thiên Ðài. Hôm nay lấy làm vui mừng về đến Tổ đình hội hiệp với chư quý hiền huynh, hiền tỷ để được cùng nhau chung gánh nhiệm vụ thiêng liêng đối với Ðức Chí Tôn, với Ðạo và với nhơn sanh.

Cái nhà chung này, trên vùng Thánh địa tạo thành bởi bao nhiêu tâm trí của chức sắc và lao lực của nhơn sanh, giờ này đã gom góp lại hầu hết những người của Hiệp Thiên Ðài mà lúc ban sơ Ðức Chí Tôn đã giao phó trách nhiệm lập Ðạo.

Vậy chúng tôi có lời chào thân mật toàn cả chức sắc Nam Nữ và chư Ðạo Hữu lưỡng phái.

Theo quý vị đã biết, ngày nay tôi và chư vị thời quân Hiệp Thiên Ðài về Toà Thánh đảm đương trách nhiệm cầm giềng mối Ðạo, một là vì có sự thỏa thuận của các cơ quan trong Hội Thánh, hai là vì thấy tình thế của Ðạo đã đến lúc cực kỳ nghiêm trọng nên chẳng đành tỏa quan thành bại.

Cái nguyên do làm cho nhân tâm ly tán nền Ðạo chinh nghiêng, chúng tôi xin miễn nhắc đến, đó là dĩ vãng.

Ðiều chúng tôi cần quan tâm là hiện tại của Ðạo, Ðạo đã bị nguy nan, chúng ta cần phải lo cứu vãn.

Ngày nay toàn thể chức sắc lưỡng phái đã tín nhiệm chức sắc Hiệp Thiên Ðài và triệt để tuân theo mạng lệnh Hiệp Thiên Ðài điều khiển việc Ðạo, hai bên Hiệp Thiên và Cửu Trùng phải đồng tâm chung trí để lo xây dựng lại nền chánh giáo, sửa đương cho có trật tự điều hoà làm cho lộ rõ nét bác ái từ bi, nhơn sanh mới phấn khởi bước tới lo về tu niệm. Ngày giờ này chẳng phải ngày giờ nói nhiều nữa. Phải làm việc nhiều hơn nói và làm việc một cách minh bạch theo lẽ công, biết lo cho cái nên, biết sợ cái hư, dứt bỏ hết bản ngã ra ngoài, thì cả tư tưởng và hành động mới được thanh cao trong sạch.

Hôm nay chúng tôi về đây để gánh lấy cực nhọc khổ tâm để phụng sự Ðạo, phụng sự nhơn sanh chớ chẳng phải để tranh quyền cố vị.

Trong cửa Ðạo nhơn sanh đã lắm thống khổ, chúng ta hãy quên mình chia sớt cái thống khổ ấy, trong khi chúng ta tận tâm dìu bước Ðạo và trông mong đi đến con đường êm ấm hơn, toàn diện hơn.

Ðiều chúng tôi chú ý là hành vi của tất cả chức sắc phải hoàn toàn ở trong mặt Ðạo, do khuôn viên luật pháp của Ðạo. Có vậy chúng ta mới cộng tác trong tình thân ái thiệt mặt để tâm dìu dắt nhau, nương nhờ nhau, sức thiêng liêng mới trợ giúp đưa chúng ta đến cứu cánh hoàn hảo.

Chúng ta mang nặng xác phàm, tức phải có điều sơ sót. Vì đó một người mà nắm trọn quyền thống nhất trong tay thế nào tránh khỏi lạm quyền và độc đoán là điều tối kỵ đối với Ðạo.

Ngày nay về đảm đương việc Ðạo, chúng tôi quyết tôn trọng tinh thần tập thể, nghĩa là sẽ chung trí mà lái con thuyền Ðạo giữa cơn sóng gió bão bùng”.

Từ đó Đức Thượng Sanh về tái thủ phận sự nơi Toà Thánh Tây Ninh là Ngài đã trọn phế đời hành Ðạo, cho đến ngày 26 tháng 3 năm Tân Hợi (Dl. 21/4/1971) Ngài ngọa bịnh và đăng Tiên tại tư gia số nhà 36/24 đường Cô Giang Sài Gòn, vào lúc 17 giờ, hưỏng thọ 71 tuổi.

Qua đêm sau, hồi 20 giờ 20 phút ngày 27 tháng 3 năm Tân Hợi, Ngài giáng cơ tại Cung Đạo Đền Thánh ban cho bài Thài. Bài Thài nầy, Ngài dạy lấy bài thi của Ngài làm lúc tái thủ quyền hành, chỉ sửa lại hai câu đầu.

Bài Thài như sau:

Từ lúc đưa tay nắm Ðạo quyền,

Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.

Ðộ đời quyết lánh vòng danh lợi,

Trau chí tìm roi bậc Thánh hiền.

Từ ái làm nền an thổ võ,

Ðức ân dụng phép tạo nhơn duyên.

Những mong huệ trạch trên nhuần gội,

Sứ mạng làm xong giữ trọn nguyền.

Trong 14 năm cầm quyền, Đức Thượng sanh đã tìm đủ mọi phương pháp để đem lại sự yên bình trong cửa Đạo và nhứt là kiến thiết nhiều cơ quan trong Nội Ô Toà Thánh như: Nhà Hội Thánh Ngoại Giáo, (tức Nhà Hội Vạn Linh), xây dựng vòng rào và các cửa Nội Ô, xây dựng văn phòng Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý, Văn Phòng Ban Thế Đạo, Bắc Tông Đạo, Đầu Sư Đường...nhứt là Ngài đã cho khởi công Cửa Chánh Môn và mở Đại lộ Chánh Môn...

Kể từ ngày Đức Thượng Sanh về cầm quyền Đạo tính đến ngày quy Thiên là 14 năm thiếu 20 ngày.

Lúc sinh tiền, Đức Thượng Sanh là con người có tính liêm khiết, cho nên trong lúc Ngài cầm quyền thường nhắc nhở chư chức sắc phải trau giồi tính liêm khiết. Lời Ngài dạy có đoạn như sau:

Hạng Quân tử không bao giờ quan tâm đến sự phú quý. Không phải là họ ghét sự phú quý, mà chỉ vì họ trọng đạo quá nên phú quý không đủ mãnh lực làm cho họ phải thèm muốn. Hơn nữa, họ cũng quan niệm hể vi phú thì bất nhân, thà vi nhơn bất phú.

Ðức Khổng Tử dạy rằng: “Giàu sang ai cũng muốn, nhưng không lấy đạo nghĩa mà được thì quyết không nhận. Nghèo hèn ai cũng ghét, nhưng không lấy lẽ phải làm cho khỏi thì đành chịu nghèo”. Ngài nói: “Ăn cơm hẩm, uống nước lã, co tay gối đầu thật là cảnh buồn mà ta có thú vui trong đó, còn làm điều bất nghĩa mà được giàu sang, ý ta coi như đám mây nổi”.

Tánh liêm khiết nâng cao giá trị con người và làm cho người được thơ thới, dầu cho ở trong cảnh nghèo khó người ta cũng hảnh diện tự tìm sự vui trong chỗ thanh cao khác thường của mình, vì ngó lên không thẹn với Trời, dòm xuống không hổ với thiên hạ.

Người thanh bần như vậy thì vui sướng hơn kẻ giàu mà sâu mọt, lường công tham của, thâu đa nạp thiểu, hoặc lợi dụng quyền thế để rút rỉa dân nghèo khép chặt cửa công, mở rộng cửa tư để dục vọng được thỏa mãn.

Vì làm giàu với những hành động bất chánh nên họ vẫn cứ phập phồng lo sợ không biết cơ mưu sẽ bại lộ ngày nào.

Ðó thiệt là “Thanh bần thường lạc, trược phú đa ưu”. Lại có câu “Hoạnh tài bất phú”, ham dụng của phi nghĩa rốt cuộc cũng không hưởng được bền lâu, phép nước dầu không trừng trị thì luật Trời cũng không thứ tha, thiện ác đều có sự báo ứng.

Ngoài ra, Đức Thượng Sanh còn là một vị lãnh đạo tôn giáo rất trầm tỉnh. Nhờ đức tính trầm tỉnh đó mà Đức Ngài lèo lái con thuyền Đạo trong cơn sóng gió mà không nghiêng lật, đưa vào bờ bến một các yên ổn.

Thật vậy, trong giải đoạn gần cuối của Ngài cầm quyền Đạo, các tôn giáo bạn đều đứng ra kêu gọi liên kết nhau để chống chế độ độc tài của nhà cầm quyền lúc ấy, chỉ có đạo Cao Đài Tây Ninh là giữ thế im lặng.

Chính Ngài đã giải thích lý do nầy trong Huấn Từ đọc tại Hạnh Đường ngày 18 tháng Giêng năm Tân Hợi (Dl. 13/2/1971) như sau:

“Chúng tôi thường nghe nhiều Tín hữu hoặc người trong các giới hỏi rằng: Tại sao Toà Thánh Tây Ninh vẫn trầm lặng, không nói lên ý kiến chi đối với thời cuộc, trong lúc các Tôn giáo khác đã có tiếng vang dội kêu gọi hoà bình cho đất nước.

Xin thưa rằng: Trị nước an dân thì có nhà cầm quyền Quốc gia, lèo lái con thuyền Ðạo thì có nhà lãnh đạo tinh thần của Tôn Giáo. Tôn giáo không có thể xoay chuyển vận nước được, cũng như Chánh quyền không thể điều khiển Tôn giáo, thế thì chúng ta kêu gọi, la lối để làm gì?

Nếu đem chính trị nhập vào Tôn giáo, chắc chắn Tôn giáo sẽ đi sai lạc hướng và nắm thất bại trong tay. Còn như hô hào tở mở vạch lối chỉ đường theo quan niệm của mình, thử hỏi mình có thực hành được theo như sự hô hào hay không? Hai bên Chánh phủ đối phương có chịu nhận mình làm trọng tài để phán quyết hay không? Ví như nghe người ta kêu gào, mình cũng bắt chước kêu gào, thấy ai nhảy mình cũng nhảy, ai múa mình cũng múa, quý vị hãy tưởng tượng thiên hạ sẽ bình phẩm mình ra sao? Vả lại hoạt động chính trị chẳng phải một việc mà ai cũng có thể làm được bất cứ ở vào trình độ văn hoá nào, chính trị rất quan trọng vì nó có liên hệ với sự trị loạn của quốc gia và phúc hoạ của dân tộc.

Ðức Khổng Tử nói rằng: Trong đạo làm người chánh trị là việc lớn (Nhơn đạo chính vi đại). Cho nên người làm chính trị phải có đủ tài đức, trọng nghĩa, ái nhân thì mới có thể giúp ích cho dân, cho nước. Nếu thiếu kinh nghiệm, kém tài, thiếu đức chỉ biết chạy theo bả lợi mồi danh thì vận nước phải suy vi, dân tình thống khổ. Mục đích của chính trị là làm cho quốc gia hưng vượng, công lý thăng bằng, nhân dân no ấm, đó là đường lối chính trị thời xưa của những bậc ưu thời mẫn thế. Thời nay, quý vị thử nhìn quanh sân khấu đời coi những nhân vật hoạt động chính trị có bao nhiêu người vì nước, vì dân, biết lo quốc kế dân sinh, mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào. Hay là phần đông chỉ là những kẻ tay sai cho thế lực kim tiền?

Lợi dụng địa vị hoành hành thiên hạ, bốc lột nhân sanh, khoát nạt trước đám dân đen, cúi rạp mình trước người thượng cấp, lấy nhục làm vinh, lấy xấu làm tốt, miễn lo cho đầy túi tham, không cần nghĩ tới hậu quả việc làm đen tối của mình.

Người đã khép mình trong cảnh giới tu hành đã xả thân cầu Ðạo, thấy diễn những lớp tuồng bẩn thỉu như vậy cũng đã bất bình, chán ngán. Không lẽ còn mê luyến hồng trần, ham mùi chung đỉnh để rồi phải chịu lỡ dở công phu trên đường lập vị. Không lẽ đã lánh khỏi bến sông mê, người tu sĩ còn đi trở lại đoạn đường phiền não; tức là từ trên cao bổng sa xuống chỗ thấp hèn, từ chỗ sạch trong bổng gieo mình vào nơi ô trược.

Là môn đệ của Ðức Chí Tôn, là Chức sắc Thiên phong, chúng ta không thể làm như vậy và tôi tin rằng quý vị cũng đồng có cái quan niệm đó.

Dung ruổi trên đường tục lụy, người ta chạy theo danh vọng tiền tài, chúng ta chạy theo nghĩa nhân đạo đức, người ta đạp đổ lầu đài tinh thần trong sự tranh giành quyền lợi, mưu hại lẫn nhau, chúng ta củng cố đạo tâm, vun trồng cội phúc.

Ðời càng tỏ ra đê hèn, hạ tiện, chúng ta càng tỏ ra chơn chánh, siêu phàm, thiên hạ cúi mình bò lết trong chỗ nhơ bẩn vì chút ít lợi quyền, chúng ta phải vươn mình lên cao để đón hứng mùi hương thanh thoát, làm cho trí óc trở nên phi thường và tâm hồn thơ thới. Mùi hương đó là mùi Ðại Ðạo do ngọn gió Thiêng liêng của Ðấng Chí Tôn đưa đến bên chúng ta để thổi vẹt không khí ô trược, mê hồn mà trước kia chúng ta bị thâm nhiễm.

Ðạo và Ðời khác nhau ở chỗ một cao, một thấp, một trắng một đen. Nếu Ðạo cũng là đà nơi chỗ thấp hèn như ở bến chợ đời thì Ðạo có ích gì cho chúng sanh? Và Ðạo lấy gì để làm gương mẫu và cảnh tỉnh thiên hạ?

Ðược nuôi dưỡng trong tình thương của Ðức Chí Tôn, Chức sắc Thiên phong là những bậc Thánh hiền trong cửa Ðạo. Hễ làm bậc Thánh hiền thì phải có tư cách thanh cao, tánh tình phong nhã, phải trau dồi tâm trí cho ra bậc phi thường để cho đàn em noi gương mà tiến bước. Bực phi thường tức là người đã vượt khỏi mức thường tình không sân, si, hỷ, nộ như kẻ phàm phu, phải đi ngược với thế tình, tức là trọng tinh thần, khinh vật chất, ham nhơn nghĩa, lánh vạy tà, bỏ thói kiêu sa, bỏ lòng tự ái, đó là giữ đúng mức siêu nhiên của một phần tử trong Thánh thể Ðức Chí Tôn”.

Đức Thượng Sanh là một nhà thơ lỗi lạc, với bút hiệu Thanh Thủy và Huệ Giác, Ngài đã sáng tác rất nhiều bài thi. Chúng tôi đưa ra vài bài tiêu biểu.

KHUYẾN TU

Trước làm Tiên Phật phải làm người,

Muốn đặng làm người chẳng phải chơi.

Bác ái ví chưa tròn bước Ðạo,

Từ bi đâu vẹn chí thương Ðời.

Mùi trần dầu thoát bao vòng lụy,

Bể khổ còn qua mấy dặm khơi.

Trau rạng lòng son sanh chúng độ,

Thênh thang nương bóng ngọn đèn Trời.

HUỆ GIÁC (1948).

TỰ THUẬT

Tuồng đời nhàm trải vẻ đai cân,

Tòng bá chọn nơi Ðạo gội nhuần.

Hẩm hút muối dưa an phận khó,

Thung dung ngày tháng đắp nền nhân.

Nương thuyền độ khách qua bờ giác,

Luyện tánh tầm chơn dứt mộng trần.

Gắng khổ quyết tâm lo giải khổ,

May duyên kịp buổi hưởng hồng ân.

HUỆ GIÁC (1958).

Ngoài ra, Ngài lại có thiên tài về âm nhạc cổ truyền, Ngài là một nhạc sư thuộc vào hàng hậu tổ, vì vậy trong thời gian cầm quyền, Ngài đã chấn chỉnh Bộ nhạc, huấn luyện các nhạc sĩ nơi Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý để bảo vệ nền Quốc nhạc Việt Nam

1.- Thượng Sanh:

Thăng trầm Đại Đạo lúc chinh nghiêng,

Nhờ Đức Thượng Sanh vững lái thuyền.

(Thơ Phạm Mộc Bổn).

Kỷ niệm ngày hai mươi sáu tháng ba,

Thượng Sanh đức độ rất khoan hoà.

(Thơ Huệ Phong).

2.- Thượng Sanh Cao Hoài Sang:

Ðức Thượng Sanh thế danh Cao Hoài Sang, gia đình nề nếp, tánh đức hiền lương, lòng công bình trên dưới ngợi khen, tâm chánh trực tha nhân đều sùng kính.

(Điếu Văn Đầu Sư).

 

 

THƯỢNG SĨ

上 士

Thượng: Ở vị trí cao, ở phía trên, trái với hạ. Sĩ: Vị quan lại hay người có học thức.

Thượng sĩ là vị quan hay người trí thức bậc trên, tức bậc sĩ phu tài giỏi.

Văn là thượng sĩ danh thần,

Võ thì bạt tuỵ siêu quần quân trung.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

THƯỢNG SỚ

上 疏

Thượng: Dâng lên trên. Sớ: Bài văn viết ra để tâu trình, dâng lên Đức Thượng Đế.

Thượng sớ là bài Sớ văn được dâng lên để tâu trình, hay để cầu xin với Đức Chí Tôn, hay Đức Phật Mẫu trong Đàn cúng tế.

Câu chú mà khi thượng sớ, chúng ta thường nghe đọc “Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn”.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

THƯỢNG TẤN

Hay “Thượng tiến”.

Thượng: Trên, lên. Tấn (tiến): Đi tới.

Thượng tấn, như chữ “Thượng tiến 上 進”, là tiến bước đi lên, ý nói chơn linh nhập vào những cõi giới cao.

Bồ Đề Dạ dẫn hồn thượng tấn,

Cực Lạc Quan đẹp phận Tây Quy.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THƯỢNG TẤU

上 奏

Thượng: Dâng lên. Tấu: Tâu trình lên vua hay Đức Chí Tôn.

Thượng tấu là tâu lên Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế hoặc Đức Phật Mẫu.

Chư đệ tử đồng thành tâm khấu bái, cẩn sớ thượng tấu. DĨ VĂN.

(Sớ văn).

 

 

THƯỢNG TIÊN HOA

上 仙 花

Thượng: Dâng lên. Tiên: Tiếng tôn xưng, chỉ sự quý báu. Hoa: Bông.

Thượng Tiên hoa là dâng hoa quys lên Đức Chí Tôn và đặt trên bàn thờ.

Thượng Tiên hoa.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

 

 

THƯỢNG TIÊN TỬU

上 仙 酒

Thượng: Dâng lên. Tiên: Tiếng tôn xưng, chỉ sự quý báu. Tửu: Rượu.

Thượng Tiên tửu là dâng rượu quý lên Đức Chí Tôn và đặt trên bàn thờ.

Thượng Tiên tửu.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

 

 

THƯỢNG TIÊN TRÀ

上 仙 茶

Thượng: Dâng lên. Tiên: Tiếng tôn xưng, chỉ sự quý báu. Trà: Lá cây chè đã chế biến để pha nước uống.

Thượng Tiên trà là dâng nước trà quý lên Đức Chí Tôn và đặt trên bàn thờ.

Thượng Tiên trà.

(Nghi Tiết Cúng Lễ).

 

 

THƯỢNG TƯỢNG

上 像

Thượng: Trên, dâng lên. Tượng: Bức tượng hay bức hình, hoặc viết chữ để thờ.

Thượng Tượng là một nghi lễ đặt Thánh Tượng Thiên Nhãn lên Bàn thờ để cúng Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng trong Đạo Cao Đài.

Lễ Thượng Tượng là lễ thiết lập Thiên Bàn thờ Đức Chí Tôn lần đầu tại tư gia của mỗi tín đồ.

Mỗi tín đồ Cao Đài khi đã nhập môn quy tùng chánh pháp, thì phải lấy việc hồi hướng phụng thờ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu làm trọng, do đó luật Đạo buộc phải lập vị thờ Thầy tại tư gia, để chơn linh có nơi quy hướng.

Trong lễ Thượng Tượng tại tư gia cho tín đồ có dâng sớ cầu nguyện, vị Lễ Sanh cai quản Họ Đạo chứng đàn cúng tế Đức Chí Tôn.

Lễ Sanh phải đi thăm viếng các nhà Đạo Hữu. thượng tượng khai đàn; dạy cho biết lễ nghi cúng tế Thầy, thay quyền cho Giáo Hữu.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

THƯỢNG THIÊN

1. Thượng: Trên, trên hết. Thiên: Trời.

Thượng Thiên là tầng Trời cao hơn hết.

Trong Di Lạc Chơn Kinh có câu: Thượng Thiên Hỗn Nguơn, có nghĩa trên hết, là tầng Hỗn Nguơn Thiên, một Tầng Trời do Đức Di Lạc Vương Phật cai quản.

Thượng Thiên Hỗn Nguơn hữu...

(Di Lạc Chơn Kinh).

2.- Thượng: Lên. Thiên: Trời, tầng Trời.

Thượng Thiên là lên Trời, tức đi vào cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Im lìm kìa cõi Niết Bàn,

Lôi Âm trống thúc lên đàng Thượng Thiên.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THƯỢNG THIÊN HỖN NGUƠN

上 天 混 元

Thượng Thiên: Tầng Trời trên cao. Hỗn Nguơn: Một tầng Trời do Đức Di Lạc Vương Phật chưởng quản.

Thượng Thiên Hỗn Nguơn là tầng Trời Hỗn Nguơn ở trên cao do Di Lạc Vương Phật chưởng quản.

Xem: Hỗn Nguơn Thiên.

Thượng Thiên Hỗn Nguơn hữu: Brahma Phật, Civa Phật, Christna Phật...

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

THƯỢNG THỌ

上 夀

Thượng: Trên. Thọ: Sống lâu.

Thượng Thọ là tuổi thọ cao nhứt của một người, tức khoảng từ 80 tuổi trở lên

Tuổi thọ con người có nhiều thuyết phân chia:

Theo Trang Tử, trên sáu mươi tuổi là Hạ thọ, trên bảy mươi tuổi là Trung thọ và trên tám mươi tuổi là Thượng thọ.

Theo Ấu Học Quỳnh Lâm thì bách tuế viết Thượng thọ, bát thập viết Trung thọ, lục thập viết Hạ thọ. Bát thập viết Điệt, cửu thập viết Mạo, bách tuế viết kỳ hy 百 歲 曰 上 壽, 八 十 曰 中 壽, 六 十 曰 下 壽. 八 十 曰 耋, 九 十 曰 耄, 百 歲 曰 奇 希, nghĩa là trăm tuổi là Thượng thọ, tám mươi tuổi là Trung thọ, sáu mươi tuổi là Hạ thọ. Người tám mươi tuổi gọi là Điệt, người chín mươi tuổi gọi là Mạo, người một trăm tuổi gọi là Kỳ hy.

Khánh hỷ chờ thêm trung, thượng thọ,

Lục tuần xin chúc chữ “Tam đa”.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

THƯỢNG THÔNG THIÊN ĐÀNG

上 通 天 堂

Thượng thông: Trên thông suốt với. Thiên đàng: Hay Thiên đường, chỉ cõi Trời.

Thượng thông Thiên đàng là trên thì thông suốt đến các cõi trời.

Trong Đạo Cao Đài, bài Kệ chuông U minh, câu nguyện thứ nhì là: Thượng thông Thiên đàng, hạ triệt Địa phủ 上 通 天 堂, 下 徹 地 府, nghĩa là trên thì thông suốt đến các cõi trời, dưới thì thấu suốt đến cõi Âm Quang.

Thượng thông Thiên đàng, hạ triệt Địa phủ.

(Kệ U Minh).

 

 

THƯỢNG THỪA

上 乘

Thượng: Trên. Thừa: Bực.

Thượng Thừa là bực trên, hay bực cao.

Theo Tân Luật, trong hàng tín đồ của Đạo Cao Đài được chia làm hai bực: Hạ thừa và Thượng thừa.

Hạ thừa là người còn ở thế, có vợ, hoặc chồng, phải ăn chay từ 6 đến 10 ngày một tháng, giữ Ngũ Giới cấm, luật pháp Đại Đạo.

Thượng thừa là những tín đồ phải tuân theo các điều luật, đặc biệt như phải giữ trường trai, phải giới sát, giữ Tứ Đại Điều Quy, ngũ giới cấm và luật pháp của Đại Đạo.

Trong Tân Luật có câu: Chức sắc cai trị trong Đạo từ bực Giáo Hữu sắp lên, phải chọn trong bực người Thượng thừa mà thôi.

Tiền khiên đã mãn nghiệp căn xưa,

Phải biết ăn năn chiếm thượng thừa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

THƯỢNG TRÍ

Thượng: Trên. Trí: Khả năng nhận thức, suy nghĩ, phán đoán của con người.

Thượng trí là bậc có sự nhận thức cao nhứt, còn gọi là “Thánh trí”, trái với bậc hạ ngu.

Người xưa thường chia ra ba bậc trí thức: Thượng trí, trung trí và hạ trí.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Còn Ðạo Giáo là huyền bí, thậm chí ư huyền bí, chỉ có người bực thượng trí mới thấu đáo chỗ căn nguyên, còn bực thường nhơn hạ trí thì rất khó thông cơ mầu nhiệm, bởi vậy mới hiểu lầm tưởng sái mà bày ra phép tắc, phù chú làm cho mê hoặc thói đời thêm hư phong tục, khiến người nhiễm lấy dị đoan nào là hô phong hoán võ, tróc quỷ, trừ ma, bày binh, bố trận, mới biến ra tả Ðạo bàng môn, thiệt là rất hại.

Cao thanh miệng thế mặc chê khen,

Thượng trí màng chi tiếng thấp hèn

(Đạo Sử).

 

 

THƯỢNG TRÌNH

上 程

Thượng: Lên, đi. Trình: Đường đi.

Thượng trình, như chữ “Thượng lộ 上 路”, nghĩa là lên đường, tức bắt đầu khởi hành.

Thượng trình đồng nghĩa với “Đăng trình”.

Càn khôn bước Thánh thượng trình,

Giải xong xác tục mượn hình Chí Tôn.

(Kinh Tận Độ).

 

 

THƯỢNG TRUNG NHỰT

上 忠 日

Thượng Trung Nhựt là Thánh danh của Ngài Lê Văn Trung, được Đức Chí Tôn phong vào phẩm Đầu Sư phái Thượng Cửu Trùng Đài vào năm Bính Dần 1926.

Đến ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (Dl. 22/11/1930), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho Ngài Quyền Giáo Tông hữu hình, để thay mặt cho Đức Lý Giáo Tông điều hành nên Đạo về mặt hữu hình.

Từ đó toàn Đạo gọi Ngài là Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung. Lúc đó Ngài không còn mang Thánh danh là Thượng Trung Nhựt nữa.

Xem: Lê Văn Trung.

Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt, và Lê Văn Lịch tự Thiên ân là Ngọc Lịch Nguyệt...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

THƯỢNG UYỂN

上 苑

Thượng: Trên, chữ dùng để chỉ vua, như hoàng thượng, kim thượng. Uyển: Vườn.

Thượng uyển là vườn hoa của nhà vua.

Đấu ngọc Lam điền nghiêng mắt ghé,

Nhành hoa Thượng uyển ướm tay vin.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

THƯỚT THA

Thướt tha chỉ bộ dài lê thê. Như: Quần áo thướt tha.

Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: Dưới cầu nước chảy trong veo, Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Thướt tha còn dùng để chỉ dáng của người, nhứt là phụ nữ có vẻ dong dỏng cao và mềm mại.

Như: Chị ấy mặc chiếc áo dài hình dáng thướt tha.

Tươi thắm đào hoa môi thục nữ,

Thướt tha liễu rũ tóc giai nhân.

(Thơ Thuần Đức).

Thướt tha bóng liễu buổi dương tà,

Rực rỡ ngàn hồng đẹp vẻ hoa.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

THỨU LÃNH

鷲 嶺

Thứu: Chim ó. Lãnh: Đỉnh núi.

Thứu lãnh, như chữ “Thứu Sơn 鷲 山”, là tên một quả núi ở gần thành Vương Xá, Ấn Độ, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thường hay đến trú ngụ.

Thứu lãnh, Hán dịch âm là núi Kỳ Xà Quật, còn gọi là “Linh Thứu 靈 鷲”, Linh sơn, Thứu sơn. Sở dĩ gọi là Thứu lãnh là vì đỉnh núi có dạng như con chim ó.

Sở dĩ gọi là Thứu lãnh là vì đỉnh núi có dạng như con chim ó.

Tương truyền, Đức Phật đã thuyết Kinh Pháp Hoa tại Linh Sơn.

Khổng tước lừng danh non Thứu lãnh,

Chở che bá điểu khỏi lo phong.

(Thơ Trần Thạnh Mậu).

 

 


 )
 )(
 __)_(__
 __(_____)__
(((_________)))
 )    ׀    (

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Danh mục vần TH

 

THA

Tha

Tha bang

Tha chủng

Tha giác

Tha hương

Tha nhân

Tha phương

Tha quả vong căn

Tha tín

Tha thứ

Tha thướt

 

THÀ

Thà

Thà cam

Thà xuống Âm Cung chia khổ tội

 

THẢ

Thả

Thả lá

Thả lá hồng

 

THÁC

Thác

Thác sống

 

THÁCH

Thách

 

THẠCH

Thạch bàn

Thạch động

Thạch Sùng Vương Khải

 

THAI

Thai

Thai bào

 

THÁI

Thái Ất Thiên Tôn

Thái Bạch

Thái Bạch Kim Tinh

Thái bình

Thái Bình Dương

Thái căn tánh định

Thái Công Tướng Phụ

Thái Cực

Thái Cực Thánh Hoàng

Thái dương

Thái độ

Thái hoà

Thái Hộ Lương Công

Thái lai

Thái quá bất cập

Thái Sơn

Thái Tây

Thái thậm

Thái Thú

Thái Thuận

Thái Thượng

Thái Thượng Đạo Tổ

Thái Thượng Lão Quân

 

THÀI

Thài

 

THẢI

Thải

 

THÃI

Thãi

 

THAY

Thay

Thay duyên đổi nợ

Thay đen đổi trắng

Thay đổi

Thay lòng

Thay mặt

Thay thân Tạo hoá

Thay thế

Thay Trời tạo thế

Thay xiêm đổi áo

 

THÀY

Thày lay

 

THẢY

Thảy

 

THAM

Tham

Tham danh lợi

Tham danh chác lợi

Tham danh trục lợi

Tham dục

Tham dự

Tham gian bạo ngược

Tham giàu phụ khó

Tham lam

Tham lạm

Tham lê bỏ lựu

Tham lựu bỏ đào

Tham nhũng

Tham phú

Tham phú phụ bần

Tham tàn

Tham tâm

Tham thì phải thâm

Tham thiền

Tham thiền nhập định

Tham vọng

 

THÁM

Thám

 

THẢM

Thảm

Thảm bại

Thảm đạm

Thảm hoạ

Thảm kinh

Thảm khổ

Thảm khốc

Thảm não

Thảm sầu

Thảm tín

Thảm thiết

Thảm thương

Thảm trạng

 

THAN

Than

Than khóc

Than ôi

Than thở

Than van

Than vãn

 

THÁN

Thán

Thán oán

 

THẢN

Thản

Thản nhiên

 

THANG

Thang

Thang mây

Thang thuốc

Thang Trời

Thang Võ

Thang vô ngằn

 

THÁNG

Tháng

Tháng lụn năm chầy

Tháng lụn ngày qua

Tháng Thuấn ngày Nghiêu

 

THẢNG

Thảng

Thảng mảng

Thảng như

 

THANH

Thanh

Thanh âm

Thanh bạch

Thanh bai

Thanh bần

Thanh bần thường lạc

Thanh bình

Thanh bường

Thanh cao

Thanh Cân

Thanh cung

Thanh chước

Thanh danh

Thanh đạm

Thanh Đạo

Thanh giá

Thanh khí

Thanh khí ứng cầu

Thanh lặng

Thanh lâu

Thanh liêm

Thanh liêm chánh trực

Thanh loan

Thanh long

Thanh my

Thanh minh

Thanh niên

Thanh nhã

Thanh nhàn

Thanh phong

Thanh quang

Thanh sắc

Thanh sơn

Thanh Sơn Đạo Sĩ

Thanh sử

Thanh tao

Thanh tâm

Thanh tâm quả dục

Thanh Tâm Tài Nữ

Thanh tân

Thanh tịnh

Thanh Tịnh Đại Hải Chúng

Thanh thản

Thanh thao

Thanh thế

Thanh Thiên

Thanh thoát

Thanh trừng

Thanh trược

Thanh u

Thanh vắng

Thanh vân

Thanh Vương Đại Hội

Thanh xuân

Thanh xuân bất tái

 

THÁNH

Thánh

Thánh ân

Thánh bất khả tri

Thánh cốc

Thánh cốt

Thánh chất

Thánh chỉ

Thánh chúa

Thánh danh

Thánh đản

Thánh đạo

Thánh địa

Thánh điện

Thánh đức

Thánh giáo

Thánh Giáo Tâm Kinh

Thánh hiền

Thánh hình

Thánh huấn

Thánh Huấn Giác Mê

Thánh ý

Thánh Kinh

Thánh lịnh

Thánh luật

Thánh miếu

Thánh Ngôn

Thánh nhân

Thánh Nho

Thánh nhơn

Thánh phàm

Thánh quân

Thánh tâm

Thánh Toà trấn tịnh

Thánh Toà lợp tranh

Thánh Tông Đồ

Thánh Tử Đạo

Thánh Tượng

Thánh thai

Thánh thân

Thánh Thần Tiên Phật chi chủ

Thánh Thất

Thánh Thất Cầu Kho

Thánh Thể

Thánh thót

Thánh trị

Thánh triết

Thánh truyền

Thánh trước hiền xưa

Thánh vệ

Thánh vị

Thánh vức

 

THÀNH

Thành

Thành bại

Thành công

Thành dạ

Thành danh

Thành đạo

Thành đạt

Thành đô

Thành độc Sớ văn

Thành ý

Thành kiên luỹ cố

Thành kiến

Thành kỉnh

Thành khẩn

Thành lập

Thành luỹ

Thành ngữ

Thành phục

Thành quả

Thành sầu

Thành song

Thành sự do Thiên

Thành tâm

Thành tích

Thành tín

Thành tựu

Thành Thang

Thành thật

Thành thị

Thành thị thôn quê

Thành trì

Thành Uổng Tử

Thành vàng

 

THẢNH

Thảnh thoát

Thảnh thơi

 

THẠNH

Thạnh

Thạnh hành

Thạnh nộ

Thạnh suy

Thạnh tình

Thạnh thế

Thạnh trị

 

THAO

Thao

Thao lược

Thao tác

Thao thức

 

THÁO

Tháo

 

THẢO

Thảo

Thảo căn mộc bổn

Thảo Đường

Thảo hài

Thảo luận

Thảo mộc

Thảo ngay

Thảo xá

Thảo Xá Hiền Cung

 

THÁP

Tháp

Tháp Đầu Sư

Tháp Giáo Tông

Tháp Hộ Pháp

Tháp tùng

 

THAU

Thau

 

THẮC

Thắc mắc

Thắc thẻo

 

THĂM

Thăm

Thăm lom

Thăm thẳm

Thăm ván bán thuyền

Thăm viếng

 

THẮM

Thắm

Thắm nghĩa nặng tình

Thắm đậm

Thắm thiết

 

THẲM

Thẳm

 

THĂNG

Thăng

Thăng bằng

Thăng cấp

Thăng chức

Thăng hà

Thăng Long

Thăng phẩm vị

Thăng quan tiến chức

Thăng Thiên

Thăng thưởng

Thăng trầm

 

THẮNG

Thắng

Thắng cảnh

Thắng khổ

Thắng lợi

 

THẰNG

Thằng

 

THẲNG

Thẳng

Thẳng băng

Thẳng dùn

Thẳng rẳng

 

THẮP

Thắp

Thắp nhang

 

THẮT

Thắt

Thắt chặt

Thắt dạ

Thắt ngặt

 

THÂY

Thây

Thây đi thịt chạy

Thây phàm

Thây thi

 

THẤY

Thấy

Thấy lân

 

THẦY

Thầy

Thầy giáo

Thầy pháp

 

THÂM

Thâm

Thâm ân

Thâm cảm

Thâm giao

Thâm hiểm

Thâm ý

Thâm niên

Thâm nhiễm

Thâm nhập

Thâm sơn cùng cốc

Thâm tạ

Thâm tâm

Thâm tình

Thâm thuý

Thâm trầm

Thâm trọng

Thâm u

Thâm uyên

Thâm viễn

 

THẤM

Thấm

Thấm nghĩa nặng tình

Thấm nhuần

Thấm thía

Thấm thoát

 

THẦM

Thầm

Thầm lặng

Thầm vái

 

THẨM

Thẩm mỹ

Thẩm phán

Thẩm quyền

 

THẬM

Thậm

Thậm chí

Thậm thâm

Thậm trọng

 

THÂN

Thân

Thân ái

Thân bằng

Thân bằng cố hữu tế lễ

Thân bèo

Thân cận

Thân côi

Thân cuội

Thân danh

Thân goá

Thân giống Càn khôn

Thân hầu phận thiếp

Thân hình

Thân hoà làm một

Thân Hồ tâm Hớn

Thân hữu

Thân mật

Thân mòn gối mỏi

Thân mòn gối run

Thân nghiệp

Thân phàm

Thân phận

Thân phụ

Thân quyến

Thân sanh

Thân sinh

Thân sơ

Thân tằm

Thân tâm

Thân tín

Thân tộc

Thân thể

Thân thích

Thân thiện

Thân thiết

Thân trăm tuổi

 

THẦN

Thần

Thần an

Thần bí

Thần biến

Thần bút

Thần cơ

Thần cư tại Nhãn

Thần chú

Thần chung

Thần dân

Thần đồng

Thần đồng vấn Khổng Tử

Thần giao

Thần hao

Thần Hoàng

Thần Hoàng Bổn Cảnh

Thần hôn

Thần linh

Thần Linh Học

Thần lực

Thần minh

Thần Nông

Thần Nữ

Thần nhường quỷ sợ

Thần phẩm

Thần Phù

Thần sắc

Thần sầu quỷ khốc

Thần Siêu Thánh Quát

Thần Tiên chẳng xa

Thần tỉnh

Thần tỉnh mộ khang

Thần Tú

Thần tướng

Thần Thánh

Thần thoại

Thần thông

Thần thông biến hoá

Thần Thông Nhơn

Thần thức

Thần trí

Thần oai

Thần vị

Thần xỉ

 

THẪN

Thẫn thờ

 

THẬN

Thận

Thận chung

Thận độc

Thận trọng

 

THẤP

Thấp

Thấp chủm

Thấp hèn

Thấp kém

Thấp thoáng

Thấp thỏi

Thấp thỏm

 

THẬP

Thập ác

Thập Can

Thập Điện Diêm Cung

Thập Điện Từ Vương

Thập hình

Thập loại

Thập niên đăng hỏa

Thập Nhị Bảo Quân

Thập Nhị Chi

Thập Nhị Đẳng Cấp

Thập Nhị Khai Thiên

Thập Nhị Thời Quân

Thập Nhị Thời Thần

Thập phương

Thập phương chư Phật

Thập tam ma

Thập Tự Giá

Thập Thiên Can

Thập thò

Thập trai

 

THẤT

Thất

Thất bại

Thất bát

Thất bửu

Thất Công

Thất chánh

Thất chí

Thất chơn truyền

Thất đạo

Thất đạo tâm

Thất đầu xà

Thất đức

Thất gia

Thất giáo

Thất hiếu

Thất học

Thất kinh

Thất kỳ truyền

Thất khiêm cung

Thất lễ

Thất mùa

Thất Nương Diêu Trì Cung

Thất Nương khêu đuốc đạo đầu

Thất ngôi diệt vị

Thất nghĩa

Thất nghiệp

Thất phách

Thất phu

Thất quốc

Thất Sơn

Thất tịch

Thất tiết

Thất tín

Thất tinh

Thất tình

Thất Tổ

Thất tuần

Thất Thánh

Thất thập cổ lai hy

Thất thập nhị địa

Thất thập nhị hiền

Thất thế

Thất thể đạo

Thất thệ

Thất thố

Thất thủ

Thất thường

Thất truyền

Thất ức

Thất ức niên

Thất vị

Thất vọng

 

THẬT

Thật

Thật hành

Thật lòng

Thật tình

Thật thà

 

THÂU

Thâu

Thâu các Đạo hữu hình

Thâu đa

Thâu đa nạp thiểu

Thâu đêm

Thâu đoạt

Thâu hoạch

Thâu hồi

Thâu nhập

Thâu phục

Thâu thập

 

THẤU

Thấu

Thấu đáo

Thấu hiểu

Thấu triệt

 

THE

The

 

THÈM

Thèm

Thèm khát

Thèm muốn

 

THEN

Then

Then chốt

 

THẸN

Thẹn

Thẹn bóng

Thẹn thuồng

 

THEO

Theo

Theo dõi

Theo chơn dõi bước

 

THÈO

Thèo lẻo

 

THÉP

Thép

 

THÊ

Thê

Thê lương

Thê lương thảm đạm

Thê noa

Thê nhi

Thê tử

Thê thảm

Thê thằng tử phược

Thê thiếp

Thê vinh tử ấm

 

THẾ

Thế

Thế cuộc

Thế chiến

Thế đạo

Thế giái

Thế gian

Thế giới

Thế giái ba ngàn

Thế giới như nhà

Thế hệ

Thế kỷ

Thế luật

Thế lực

Thế lực phàm phu

Thế phiệt

Thế sự

Thế tình

Thế Tôn

Thế tục

Thế thái nhân tình

Thế Thiên hành hoá

Thế thời

Thế thượng

Thế thượng vô nan sự

Thế trần

Thế trọng

Thế vị

 

THỀ

Thề

Thề non

Thề non hẹn biển

Thề nguyền

 

THỂ

Thể

Thể cách

Thể chất

Thể diện

Thể hài

Thể hoà

Thể lệ

Thể phách

Thể pháp

Thể Thiên hành chánh

Thể Thiên hành đạo

Thể Thiên hành hoá

Thể thống

 

THỆ

Thệ

Thệ hải sơn minh

Thệ nhứt tâm

 

THÊM

Thêm

 

THỀM

Thềm

Thềm quế

 

THÊNH

Thênh thang

Thênh thênh

 

THẾ

Thế phát

 

THẾT

Thết đãi

 

THÊU

Thêu

Thêu dệt

 

THI

Thi

Thi ân

Thi ân bố đức

Thi ân tế chúng

Thi cử

Thi đàn

Thi điếu

Thi đua

Thi gia

Thi hài

Thi hành

Thi hào

Thi hữu

Thi lá

Thi nhân

Thi nhân tế chúng

Thi phàm

Thi pháp

Thi phú

Thi rượu đờn cờ

Thi thố

Thi thơ

Thi thơ chi phố

Thi thư

Thi xã

 

THÍ

Thí

Thí mạng

Thí nghiệm

Thí pháp

Thí phát

Thí tài

Thí tiền thí bạc

Thí thân

 

THÌ

Thì

Thì giờ

 

THỈ

Thỉ

Thỉ chung

 

THỊ

Thị

Thị chi chứng quả

Thị dục

Thị khi

Thị không thị sắc

Thị nữ

Thị nhận

Thị nhục

Thị phi

Thị thành

Thị thiềng

 

THÍCH

Thích

Thích Ca

Thích chí

Thích Đạo

Thích giáo

Thích lưng con

Thích Tiên Nho

Thích thú

Thích trung

Thích ứng

 

THIÊM

Thiêm thiếp

 

THIỀM

Thiềm

Thiềm cung

 

THIÊN

Thiên

Thiên ân

Thiên Bàn

Thiên binh

Thiên các

Thiên can

Thiên cảnh

Thiên cổ

Thiên Công

Thiên cơ

Thiên cung

Thiên chiếu

Thiên chức

Thiên đàng

Thiên đạo

Thiên địa

Thiên địa giao thới

Thiên địa giao thừa

Thiên địa hữu âm dương

Thiên địa tất giai tri

Thiên địa vô tư

Thiên điều

Thiên điều tại thế

Thiên đình

Thiên định

Thiên đồ

Thiên đường

Thiên hạ

Thiên hạ đại đồng

Thiên Hậu

Thiên hình vạn trạng

Thiên Hỷ Động

Thiên hương

Thiên hương quốc sắc

Thiên ý

Thiên kiều

Thiên kim

Thiên khai Huỳnh Đạo

Thiên la đia võng

Thiên lao

Thiên lịch

Thiên lý

Thiên lôi

Thiên luật

Thiên lực

Thiên lương

Thiên ma bách chiết

Thiên mạng

Thiên môn

Thiên niên

Thiên ngoại

Thiên Nguơn Bát Quái Mạo

Thiên nhai hải giác

Thiên nhan

Thiên Nhãn

Thiên nhiên

Thiên phẩm

Thiên phong

Thiên phong dĩ hạ

Thiên phục

Thiên Quân

Thiên sai

Thiên sắc

Thiên sầu địa thảm

Thiên số

Thiên số nan đào

Thiên sứ

Thiên tác nghiệt du khả di

Thiên tai

Thiên tai địa ách

Thiên tài

Thiên tải

Thiên tánh

Thiên tào

Thiên tâm

Thiên Tiên

Thiên Tôn

Thiên tùng nhân nguyện

Thiên tư

Thiên tứ

Thiên tử

Thiên tước

Thiên Thai

Thiên Thai bảy lão

Thiên Thai Kiến Diện

Thiên Thần

Thiên thi

Thiên thiều

Thiên thơ

Thiên thời

Thiên thời địa lợi

Thiên thu

Thiên thư

Thiên trị

Thiên tru địa lục

Thiên văn

Thiên vận

Thiên vị

Thiên võng

 

THIỀN

Thiền

Thiền định

Thiền lâm

Thiền môn

 

THIỂN

Thiển cận

 

THIỆN

Thiện

Thiện ác

Thiện ác đáo đầu

Thiện cảm

Thiện căn

Thiện chí

Thiện duyên

Thiện lương

Thiện mỹ

Thiện nam chơn nữ

Thiện nam tín nữ

Thiện nam tử thiện nữ nhân

Thiện niệm

Thiện nguyện

Thiện quả

Thiện tâm

Thiện tín

 

THIÊNG

Thiêng

Thiêng liêng

Thiêng liêng chi vị

Thiêng Liêng Hằng Sống

 

THIẾP

Thiếp

Thiếp thê

 

THIỆP

Thiệp

Thiệp hồng

 

THIẾT

Thiết

Thiết đãi

Thiết đàn

Thiết giáp

Thiết yếu

Thiết lập

Thiết lễ

Thiết nghĩ

Thiết Quả

Thiết tưởng

Thiết tha

Thiết thạch

Thiết thực

 

THIỆT

Thiệt

Thiệt bỏ giả vay

Thiệt chiến

Thiệt dạ

Thiệt giả

Thiệt hại

Thiệt hành

Thiệt hơn

Thiệt hư

Thiệt tướng

Thiệt thà

Thiệt thòi

 

THIÊU

Thiêu

Thiêu huỷ

Thiêu tàn

Thiêu thân

 

THIẾU

Thiếu

Thiếu hụt

Thiếu niên

Thiếu sót

Thiếu thốn

 

THIỀU

Thiều

Thiều quang

Thiều quang nhị bá

 

THIỂU

Thiểu

Thiểu đức

Thiểu khí

Thiểu số

 

THÌN

Thìn

Thìn dạ

Thìn lòng

 

THINH

Thinh

Thinh âm

Thinh danh

Thinh giá

Thinh không

Thinh sắc

Thinh thế

Thinh thinh

 

THÍNH

Thính

Thính đắc ngã ngôn

Thính giả

Thính Thiện

 

THÌNH

Thình lình

 

THỈNH

Thỉnh

Thỉnh an

Thỉnh giáo

Thỉnh nguyện

Thỉnh nhập

Thỉnh Thoảng

 

THỊNH

Thịnh

Thịnh nộ

Thịnh soạn

Thịnh vượng

 

THỊT

Thịt

Thịt nát xương tan

Thịt xáo nồi da

Thịt xương

 

THIU

Thiu thiu

 

THỎ

Thỏ bạc

Thỏ chết chồn rầu

Thỏ lặn ác tà

Thỏ ngọc

Thỏ thẻ

 

THỌ

Thọ

Thọ ân

Thọ đắc kỳ truyền

Thọ giáo

Thọ giới

Thọ hình thập tự

Thọ khảo

Thọ khổ

Thọ lãnh

Thọ lịnh

Thọ mạng

Thọ ơn

Thọ pháp

Thọ phong

Thọ phục

Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung

Thọ sanh

Thọ sắc

Thọ tang

Thọ tỷ Nam san

Thọ tội

Thọ tước

Thọ trì

Thọ truyền bửu pháp

 

THOA

Thoa

 

THOẢ

Thoả

Thoả chí

Thoả lòng

Thoả mãn

Thoả nguyền

Thoả nguyện

Thoả tình

Thoả thích

Thoả thuận

 

THOÁI

Thoái bộ

Thoái vị

 

THOẠI

Thoại khí

Thoại vũ

 

THOÀN

Thoàn

Thoàn mây

 

THOÁNG

Thoáng

Thoáng qua

 

THOẢNG

Thoảng

 

THOÁT

Thoát

Thoát ách tiêu tai

Thoát đọa luân hồi

Thoát khổ

Thoát ly

Thoát lưới

Thoát mê

Thoát mê tân

Thoát nạn

Thoát phàm

Thoát tai

Thoát tội

Thoát tục

Thoát tục siêu phàm

Thoát thân

Thoát trần

Thoát trần đăng Tiên

Thoát xác

 

THOẠT

Thoạt

Thoạt còn thoạt mất

 

THÓC

Thóc

 

THỌC

Thọc

Thọc thò

 

THOI

Thoi

Thoi đưa

 

THÓI

Thói

Thói bộc dâu

Thói bướm ong

Thói đời

Thói yến anh

Thói mạt

Thói tệ

Thói tục

Thói thường

 

THON

Thon von

 

THỎN

Thỏn mỏn

 

THONG

Thong dong

Thong dung

Thong thả

 

THÕNG

Thõng

 

THÔ

Thô

Thô bỉ

Thô kệch

Thô kịch

Thô sơ

Thô tục

 

THỐ

Thố lộ

Thố tử hồ bi

 

THỔ

Thổ

Thổ địa Long Thần

Thổ võ

 

THÔI

Thôi

Thôi nôi

Thôi thúc

 

THỐI

Thối

Thối bộ

Thối bước

Thối bước lui chơn

Thối chí

Thối chí ngã lòng

Thối lui

Thối nhập

Thối tâm

Thối trầm

 

THỔI

Thổi

 

THÔN

Thôn

Thôn dã

Thôn lân

Thôn lý

Thôn quê

 

THỐN

Thốn thiếu

 

THỔN

Thổn thức

 

THÔNG

Thông

Thông cảm

Thông công

Thông đồng

Thông gia

Thông hiểu

Thông minh

Thông ngôn

Thống ngự vạn vật

Thông suốt

Thông Sự

Thông thái

Thông Thiên định Địa

Thông Thiên Giáo Chủ

Thông thuộc

Thông thương

Thông tri

Thông truyền

 

THỐNG

Thống Đốc

Thống hiệp

Thống khổ

Thống ngự vạn vật

Thống nhứt

Thống quản

Thống thiết

Thống trị

Thống truyền

 

THỐT

Thốt

 

THƠ

Thơ

Thơ bé

Thơ cảo

Thơ cưu

Thơ chim

Thơ đàn

Thơ đào

Thơ hương

Thơ ngây

Thơ phú

Thơ sanh

Thơ song

Thơ tín

Thơ thẩn

Thơ thới

Thơ trang

Thơ truyện

Thơ viện

 

THỜ

Thờ

Thờ cha kính mẹ

Thờ chồng

Thờ mất như còn

Thờ phượng

Thờ phụng

Thờ thân

 

THỞ

Thở

Thở than

 

THỢ

Thợ mộc

Thợ rèn

Thợ tạo

 

THỚI

Thới

 

THỜI

Thời

Thời cơ

Thời cuộc

Thời duy Thiên vận

Thời đại

Thời gian

Thời giờ

Thời kỳ

Thời lai

Thời Quân

Thời tiết

Thời tự điều hoà

Thời thế

Thời thừa lục long

 

THƠM

Thơm

Thơm phức

Thơm tho

 

THỚT

Thớt dao

 

THU

Thu

Thu ba

Thu cúc

Thu không

Thu nhặt

Thu phân

Thu thập

 

THÚ

Thú

Thú cầm

Thú hình

Thú tiên

Thú tính

Thú trùng

Thú vị

 

THÙ

Thù

Thù hận

Thù hiềm

Thù nghịch

Thù oán

Thù tạc

 

THỦ

Thủ

Thủ bộ

Thủ cơ

Thủ giới

Thủ hiếu

Thủ lễ

Thủ lợi

Thủ nghĩa

Thủ phận

Thủ tiết

Thủ túc

Thủ thân

Thủ thường

 

THỤ

Thụ

Thụ huấn

 

THUA

Thua

Thua sút

 

THÙA

Thùa

 

THUẤN

Thuấn

Thuấn Đế

Thuấn Nghiêu

 

THUẦN

Thuần dương

Thuần hậu

Thuần khiết

Thuần lương

Thuần phong

Thuần phong mỹ tục

Thuần tâm mỹ tánh

Thuần tuý

 

THUẬN

Thuận

Thuận buồm xuôi gió

Thuận căn

Thuận dưới hoà trên

Thuận hoà

Thuận mạng

Thuận nghịch hành

Thuận nhơn tâm

Thuận tiện

Thuận tùng

Thuận Thiên

 

THUẬT

Thuật

 

THÚC

Thúc

Thúc đẩy

Thúc giục

Thúc hối

Thúc phược

Thúc Tề

Thúc thách

Thúc thủ

 

THỤC

Thục

Thục Đế

Thục nữ

 

THUÊ

Thuê

 

THUẾ

Thuế

Thuế sưu

 

THUI

Thui thủi

 

THÚI

Thúi

Thúi hôi

Thúi òm

Thúi ruồng

Thúi tha

 

THUỲ

Thuỳ dương

Thuỳ từ mẫn khổ

 

THUỶ

Thuỷ

Thuỷ chung

Thuỷ chung như nhứt

Thuỷ quái

Thuỷ tai

Thuỷ tổ

Thuỷ thổ

Thuỷ triều

 

THỤY

Thụy vũ

 

THUYÊN

Thuyên bổ

Thuyên dũ

Thuyên giảm

 

THUYỀN

Thuyền

Thuyền bá

Thuyền Bát Nhã

Thuyền Đạo

Thuyền huệ

Thuyền lan

Thuyền linh

Thuyền nan

Thuyền quày lại bến

Thuyền quyên

Thuyền rồng

Thuyền sen

Thuyền tình

Thuyền từ

Thuyền trưởng

 

THUYẾT

Thuyết đàn

Thuyết đạo

Thuyết giáo

Thuyết pháp

Thuyết phục

 

THUNG

Thung dung

Thung cỗi huyên già

Thung đường

Thung huyên

 

THÚNG

Thúng

 

THỦNG

Thủng

Thủng thẳng

 

THUỐC

Thuốc

Thuốc cá

Thuốc độc

Thuốc men

 

THUỘC

Thuộc

Thuộc địa

Thuộc hạ

 

THUỞ

Thuở

Thuở xưa

 

THỤT

Thụt

Thụt lùi

 

THƯ

Thư

Thư hùng

Thư Hùng Kiếm

Thư hương

Thư nhạn

Thư sinh

Thư song

Thư tịch

Thư tín

Thư thả

Thư thái

Thư thới

 

THỨ

Thứ

Thứ dân

Thứ dung

Thứ lỗi

Thứ thê

 

THỬ

Thử

Thử thách

 

THƯA

Thưa

Thưa kiện

Thưa nhặt

Thưa thớt

 

THỪA

Thừa

Thừa cơ

Thừa dịp

Thừa hành

Thừa lịnh

Thừa long

Thừa nhàn

Thừa thế

Thừa ưa

 

THỬA

Thửa

Thửa nguyền

 

THỨC

Thức

Thức giấc

Thức lệ

Thức tỉnh

Thức thời

 

THỰC

Thực

Thực bẩt cầu bão

Thực chứng

Thực hành

Thực hiện

Thực nhơn tài

Thực tế

Thực thi

 

THỪNG

Thừng

 

THƯỚC

Thước

Thước cưu

Thước kiều

Thước ngọc khuôn vàng

 

THƯƠNG

Thương

Thương cẩu

Thương dương múa

Thương đau

Thương ghét

Thương hải tang điền

Thương hại

Thương hoa tiếc nguyệt

Thương khách

Thương yêu

Thương Lang

Thương mãi

Thương mến

Thương nghị

Thương nhớ

Thương phong bại tục

Thương sanh

Thương tâm

Thương tưởng

Thương thuyết

Thương xót

Thương vong

 

THƯỜNG

Thường

Thường dân

Thường lệ

Thường niên

Thường ngũ

Thường Sơn

Thường tình

 

THƯỞNG

Thưởng

Thưởng ban

Thưởng ngoạn

Thưởng phạt

Thưởng phong

Thưởng răn

 

THƯỢNG

Thượng

Thượng cầm hạ Thú

Thượng cổ

Thượng chưởng Tam thập lục Thiên

Thượng đẳng

Thượng Đế

Thượng giới

Thượng hạ

Thượng hạ khắc nhau

Thượng Hoàng

Thượng Học Y Nông

Thượng Hội

Thượng hương

Thượng lộ

Thượng lưu

Thượng nguơn

Thượng nguơn Thánh đức

Thượng Phẩm

Thượng Phẩm cung nghinh

Thượng phụ

Thượng Sanh

Thượng sĩ

Thượng sớ

Thượng tấn

Thượng tấu

Thượng Tiên hoa

Thượng Tiên tửu

Thượng Tiên trà

Thượng Tượng

Thượng Thiên

Thượng Thiên Hỗn Nguơn

Thượng Thọ

Thượng thông Thiên đàng

Thượng thừa

Thượng trí

Thượng trình

Thượng Trung Nhựt

Thượng uyển

 

THƯỚT

Thướt tha

 

THỨU

Thứu lãnh

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Tha | Thà | Thả | Thác | Thách | Thạch |
Thai | Thái | Thài | Thải | Thãi | Thay | Thày | Thảy |
Tham | Thám | Thảm | Than | Thán | Thản | Thang | Tháng | Thảng |
Thanh | Thánh | Thành | Thảnh | Thạnh |
Thao | Tháo | Thảo | Tháp | Thau |
Thắc | Thăm | Thắm | Thẳm |
Thăng | Thắng | Thằng | Thẳng | Thắp | Thắt |
Thây | Thấy | Thầy |
Thâm | Thấm | Thầm | Thẩm | Thậm |
Thân | Thần | Thẫn | Thận |
Thấp | Thập | Thất | Thật | Thâu | Thấu |

The | Thèm | Then | Thẹn | Theo | Thèo | Thép |
Thê | Thế | Thề | Thể | Thệ |
Thêm | Thềm | Thênh | Thế | Thết | Thêu |

Thi | Thí | Thì | Thỉ | Thị |
Thích | Thiêm | Thiềm | Thiên | Thiền | Thiển | Thiện | Thiêng |
Thiếp | Thiệp | Thiết | Thiệt | Thiêu | Thiếu | Thiều | Thiểu |
Thìn | Thinh | Thính | Thình | Thỉnh | Thịnh | Thịt | Thiu |

Thỏ | Thọ | Thoa | Thoả | Thoái | Thoại |
Thoàn | Thoáng | Thoảng | Thoát | Thoạt |
Thóc | Thọc | Thoi | Thói | Thon | Thỏn | Thong | Thõng |
Thô | Thố | Thổ | Thôi | Thối | Thổi |
Thôn | Thốn | Thổn | Thông | Thống | Thốt |
Thơ | Thờ | Thở | Thợ | Thới | Thời | Thơm | Thớt |

Thu | Thú | Thù | Thủ | Thụ |
Thua | Thùa | Thuấn | Thuần | Thuận | Thuật |
Thúc | Thục | Thuê | Thuế | Thui | Thúi |
Thuỳ | Thuỷ | Thụy | Thuyên | Thuyền | Thuyết |
Thung | Thúng | Thủng | Thuốc | Thuộc | Thuở | Thụt |
Thư | Thứ | Thử | Thưa | Thừa | Thửa | Thức | Thực | Thừng |
Thước | Thương | Thường | Thưởng | Thượng | Thướt | Thứu |


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cập nhật ngày: 09-06-2020

THA | THĂ | THÂ | THE | THÊ | THI | THO | THÔ | THƠ | THU | THƯ


A | B | C | CH | D | Đ | E | G | H | I-Y | K-KH | L | M | N | NG | NH | O | P | Q | R | S | T | TH | TR | U | V | X


[ MỤC LỤC ]

Ấn bản (v.2018)

TỪ NGỮ ĐIỂN CỐ CAO ĐÀI
Soạn giả: Hiền Tài Quách Văn Hoà

DOWNLOAD
E-book-PDF