TỪ NGỮ ĐIỂN CỐ CAO ĐÀI

 

 

Danh mục vần R

 

RA

Ra

Ra hầu la

Ra mồ quạt duyên

Ra tay

Ra tài lợi sanh

Ra oai

 

Rã bèn

Rã rời

Rã rục

Rã tan

 

RẠC

Rạc tù

 

RÁCH

Rách

Rách lành

Rách rưới

Rách te

 

RẠCH

Rạch

Rạch sông

 

RẢI

Rải rác

 

RAY

Ray rứt

 

RÀY

Rày

 

RÃY

Rãy

 

RAN

Ran

 

RÁN

Rán

Rán lo

Rán sức

 

RÀN

Ràn rụa

 

RÁNG

Ráng

 

RÀNG

Ràng

Ràng buộc

Ràng rịt

 

RẠNG

Rạng

Rạng ngần

Rạng ngời

Rạng soi

 

RÀNH

Rành

Rành mạch

Rành rạnh

Rành rẽ

 

RẢNH

Rảnh

Rảnh rang

Rảnh rỗi

 

RAO

Rao

Rao nam hát khách

 

RÁO

Ráo

 

RÀO

Rào

 

RẢO

Rảo

 

RẠO

Rạo

 

RÁP

Ráp

Ráp gương

 

RAU

Rau

Rau nào sâu nấy

 

RẮC

Rắc

Rắc rối

 

RẰM

Rằm

 

RĂN

Răn

Răn cấm

Răn dạy

Răn đời

Răn he

Răn mình

Răn trừng

 

RẮN

Rắn

Rắn độc thuế má

Rắn mắt

 

RĂNG

Răng

Răng cắn lưỡi

 

RẰNG

Rằng

 

RẮP

Rắp

Rắp ranh

 

RẦY

Rầy

Rầy la

 

RẪY

Rẫy bái

 

RẬM

Rậm

Rậm rạp

Rậm ri

 

RẦN

Rần rần

Rần rần rộ rộ

Rần rộ

 

RẬP

Rập

Rập rềnh

Rập rình

 

RÂU

Râu

Râu mày

 

RẦU

Rầu

Rầu buồn

Rầu rĩ

 

 

 

RẺ

Rẻ

Rẻ khinh

Rẻ rúng

 

RẼ

Rẽ

Rẽ phân

 

RÈM

Rèm

Rèm châu

Rèm là

 

RÈN

Rèn

Rèn lòng

Rèn lòng sửa nết

Rèn trau

 

REO

Reo

Reo cười

 

RÉO

Réo rắt

 

RỂ

Rể

Rể đông sàng

 

RỄ

Rễ

 

RÊN

Rên la

Rên xiết

 

RỀN

Rền

 

RÊU

Rêu

Rêu phong

 

RỈ

Rỉ rả

 

RIA

Ria

 

RỈA

Rỉa

 

RIÊNG

Riêng

Riêng biệt

Riêng tư

 

RINH

Rinh

 

RÌNH

Rình

 

RỊT

Rịt

 

RÍU

Ríu rít

 

RÌU

Rìu búa

 

RO

Ro re

 

Rõ ràng

Rõ rệt

 

RỌ

Rọ

 

ROI

Roi

Roi bồ

Roi dấu

Roi thần

Roi truyền

Roi vọt

 

RỌI

Rọi

 

RÓN

Rón rén

 

RÒNG

Ròng

 

RÓT

Rót

 

RỔ

Rổ

 

RỐI

Rối

Rối bòng

Rối bời

Rối loạn

Rối nùi

Rối rắm

 

RỒI

Rồi

 

RỖI

Rỗi

Rỗi rảnh

 

RỐN

Rốn

 

RỔN

Rổn

 

RỘN

Rộn

Rộn rã

Rộn ràng

Rộn rịp

Rộn rực

 

RỐNG

Rống

 

RỒNG

Rồng

Rồng mây

Rồng nhang

Rồng phun châu

Rồng Tiên

 

RỘNG

Rộng

Rộng lòng

Rộng quyền

Rộng tình

Rộng thinh

Rộng thứ

 

RỐT

Rốt

Rốt cuộc

Rốt ráo

 

RỚ

Rớ

 

RỠ

Rỡ

Rỡ ràng

Rỡ rỡ

 

RỢ

Rợ

 

RƠI

Rơi

Rơi trâm

 

RỜI

Rời

Rời rã

 

RỜN

Rờn rợn

 

RỞN

Rởn

 

RỢP

Rợp

 

RỚT

Rớt

Rớt rơi

 

RU

Ru

 

Rù quến

 

RỦ

Rủ ren

 

RỦA

Rủa

Rủa gà mắng vịt

Rủa sả

 

RÚC

Rúc rắc

 

RỦI

Rủi

Rủi may

Rủi ro

 

RÙM

Rùm

 

RUN

Run

Run en

 

RÚN

Rún nhau

 

RUNG

Rung

Rung chuyển

Rung rinh

 

RÚNG

Rúng động

 

RỤNG

Rụng

Rụng cải rơi kim

Rụng rời

 

RUỒI

Ruồi

Ruồi nương đuôi ký

 

RUỔI

Ruổi

Ruổi giong

 

RUỘNG

Ruộng

Ruộng cày sáu mẫu

Ruộng dâu hoá bể

Ruộng đất

Ruộng đồng

Ruộng lòng

Ruộng rẫy

Ruộng vườn

 

RUỘT

Ruột

Ruột chín chiều

Ruột rà

Ruột rối vò tơ

Ruột tằm

Ruột thịt

 

RÚT

Rút

Rút cuộc

 

RỨA

Rứa

 

RỬA

Rửa

Rửa tai

Rửa tội

 

RỮA

Rữa

 

RỰA

Rựa

 

RỰC

Rực

Rực rỡ

 

RỪNG

Rừng

Rừng chiều ác xế

Rừng Nho

Rừng Nho biển Thánh

Rừng Nhu

Rừng tòng

Rừng thiên nhiên

Rừng thiền

Rừng thung

Rừng tre

Rừng truớc

Rừng trước tử

 

RỰNG

Rựng sáng

 

RƯỚC

Rước

Rước yến mời anh

Rước voi phá mả

 

RƯỚI

Rưới

Rưới Ân Thiên

Rưới chan

Rưới khắp

Rưới khổ

Rưới lửa phiền

 

RƯƠNG

Rương

Rương trấp

 

RƯỜNG

Rường cột

 

RƯỢT

Rượt

 

RƯỢU

Rượu

Rượu quỳnh

Rượu thịt

 

 

 

 

 

 

 

 

R

 

RA

1.- Ra là đi từ trong tới ngoài, trái với vào. Như: Ra khỏi cửa, ra phố, ra ngoài dạo mát.

Giải về Chơn thần, Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Là nhị xác thân (périsprit), là xác thân thiêng liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu.

Ðã từng muôn kiếp có tên Ta,

Ta bởi Ðạo Trời mở cửa ra.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ra vòng thế tục ít người toan,

Vì chẳng ưa mua một chữ nhàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Ra là tiếng dùng sau động từ để chỉ nghĩa ở trong phát ra ngoài.

Như: Cổi ra, thả ra, buông ra, chia ra, tháo ra.

Thánh giáo Chí Tôn dạy về chấp bút có câu: Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho thần con bất định một lát, cho thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết.

Chín Trời mười Phật cũng là Ta,

Truyền Ðạo chia ra nhánh nhóc ba.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðẩu giai phải chịu nạn binh đao,

Người dữ xem ra chẳng khác nào.

(Đạo Sử).

3.- Ra là phát sinh, phát xuất, phát lộ, thành ra. Như Ra hiệu, ra oai, ra dáng, ra mặt, ra tay.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Các con ngã thì tại nơi Thầy. Nếu Thầy biết các con nhẹ tính thì thế nào cũng chẳng chịu. Lại để lời tiên tri mà dặn trước, nào dè Thánh Ngôn, các con không đọc, lời Thầy nói cũng như không, mới ra tội lỗi các con phạm thượng thế ấy.

Trường Ðời đem thử gan Anh Tuấn,

Cửa Ðạo mới ra mặt Thánh Hiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðường tâm tự tỉnh chơn ra giả,

Nẻo đức gồm theo thiệt hoá chơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RA HẦU LA

Ra Hầu La hay La hầu La là con trai của Sĩ Đạt Ta Cồ Đàm (Siddhartha Gautama) và Bà Da Du Đà La (Yasodhara). Hán dịch là Phú Chướng, có nghĩa là trói buộc, che lấp, che áng chướng ngại.

Lúc còn là Thái tử, Ngài Sĩ Đạt Ta đặt tên cho con Ra Hầu La là có ý nói đứa con sinh ra đã làm che áng mặt trời trí tuệ và làm chướng ngại cho việc xuất gia tu hành để tìm đạo giải thoát.

Ra Hầu La được sinh ra thì đó cũng là lúc Đức Phật có quyết định rời bỏ gia đình để đi tìm giác ngộ. Ra Hầu La thọ giới xuất gia từ Ngài Xá Lợi Phất, nhập tăng chúng từ lúc còn là một đứa trẻ, nên tính còn ham chơi đùa nghịch ngợm, chuyện thấu tai đến Phật. Ngài đích thân đến vườn Ôn Tuyền để dạy đỗ.

Khi chưa thành đạo, tính tình Ra Hầu La cộc cằn, lười biếng không chịu lo tu học, đức Phật liền bảo Ra Hầu La về tịnh xá Hiền Ðộ để tu học trong chín mươi (90) ngày không dừng nghỉ và sám hối tội lỗi.

Khi nghe tin Đức Phật đến, Ra Hầu La ra đón và đem nước để Đức Phật rửa chân. Phật rửa chân xong, chỉ nước trong chậu hỏi Ra Hầu La nước đó có thể uống được không? Ra Hầu La đáp: Vì ô uế không thể uống được. Phật dạy rằng: Con cũng như vậy, là con ta, là cháu vua Tịnh Phạn, từ bỏ cuộc sống xa hoa để sống xuất gia tu hành. Nếu con không lo chăm tu học, để tâm ô uế cũng như nước bẩn kia không thể dùng được.

Phật lại hỏi Ra Hầu La: Nếu nước trong chậu dơ, đem đổ nước đi thì cái chậu có thể đựng thức ăn không? Ra Hầu La đáp: Vì chất bẩn còn bám đầy chậu nên không thể đựng thức ăn. Phật dạy Ra Hầu La: Con cũng vậy, tuy làm kẻ tu hành nhưng tâm biếng nhác, miệng nói điều chẳng lành và bị tiếng đồn không tốt. Cũng như cái chậu kia không dùng vào việc cao trọng được.

Ðức Phật lấy cái chân hất chậu làm cho nứt bể và hỏi Ra Hầu La: Con có tiếc cái chậu bể không? Ra Hầu La đáp: Cái chậu rửa chân là vật không quý nếu bể cũng không lấy gì làm tiếc.

Phật bảo Ra Hầu La: Con cũng vậy, tuy là kẻ tu hành nhưng đã mang tiếng xấu, nên chẳng có ai thương quý, cũng như con không quý cái chậu kia.

Nghe lời Phật dạy Ra Hầu La lấy làm xấu hổ, bèn phát tâm sám hối và từ đó về sau tinh tấn tu hành.

Bên ngoài hành lang Báo Ân Từ về phía nữ phái có một khuôn hình lấy tích “Phật dạy Ra Hầu La”.

Ra Hầu La chưa hoàn bổn thiện,

Tình cha con Phật khuyến mấy lời.

Mọi vật tan biến đổi dời,

Muốn tâm trí định hạnh thời cẩn ngôn.

(Báo Ân Từ).

 

 

RA MỒ QUẠT DUYÊN

Ra mồ: Tới trước mả. Quạt duyên: Quạt cho mồ khô để tìm nhơn duyên mới.

Ra mồ quạt duyên có nghĩa là ra ngoài mồ quạt mả chồng cho mau khô để đi tìm duyên mới.

Do tích trong Kim Cổ Kỳ Quan chép: Trang Tử một hôm đi dạo chơi, thấy một người đàn bà bận đồ tang, cầm chiếc quạt, luôn tay quạt nấm mồ đất còn mới. Trang Tử lấy làm lạ hỏi, người đàn bà trả lời: Đây là mồ của chồng tôi, lúc hấp hối ông ấy có dặn phải đợi cho mồ khô hết hẳn mới được lấy chồng khác, nay mồ còn mới, ướt, nên tôi quạt cho mau khô.

Ra mồ quạt duyên chỉ sự bội bạc, chồng chết mồ chưa ráo cỏ đã tính chuyện sang ngang.

Chừ sao kẻ Hớn người Hồ,

Để cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RA TAY

Ra: Phát sinh, phát xuất, phát lộ, thành ra. Tay: Bộ phận ở thân, liền với đầu vai ra đến ngón.

Ra tay là bắt đầu làm, nhúng tay vào, bắt đầu hành động để tỏ rõ khả năng.

Như: Chờ có thời cơ mới ra tay.

Thấy người gặp lúc tai nguy,

Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RA TÀI LỢI SANH

Ra tài: Đem tài sức ra thực hiện. Lợi sanh: Làm lợi ích cho chúng sanh.

Ra tài lợi sanh nghĩa là đem cái tài ba ra để làm lợi ích cho nhơn sanh.

Biết được công đức của Thánh nhân xưa chỉ dạy cho con người làm ra lương thực để sống, biết được công ơn của nhiều người chung góp sức lực nhọc nhằn để tạo ra hạt cơm để con người có độ nhựt, thì người tu học phải có tâm nguyện vay mượn công ơn đó mà đem cái tài sức sẵn có của mình phục vụ lợi ích cho chúng sanh.

Ngậm cơm ơn ngậm hằng ngày,

Nên người con nguyện ra tài lợi sanh.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

RA OAI

Hay “Ra uy”.

Ra: Tỏ ra, làm ra vẻ. Oai (uy 威): Có dáng vẻ của người có quyền lực khiến cho người phải nể sợ.

Ra oai, như chữ “Ra uy”, là cố ý tỏ ra có sức mạnh, quyền thế để cho người khác phải nể sợ.

Như: Bắn mấy phát súng để ra oai.

Mong nhờ lịnh đức Thánh Quan,

Ra oai tiêu diệt cho tàn ác ma.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

là rời ra, tan ra, rớt ra từng mảnh một. Như: Hoa rã cánh, rã đám, xách nặng rã tay.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Nếu họ không đi đến phận sự họ thì tội họ chịu. Thật ra cả thảy đều không dám, họ cảm xúc đến nước nhà, khi Bần Ðạo ra về họ than nói: “Từ thử tới giờ tôi mới nghe được lời an ủi của mẹ chúng tôi”, thế mà từ bấy lâu quốc dân gây oán, chác hờn làm cho tan khối thân ái, thành ra khó đặng hoà nhau.

Con bất hiếu xay cưa đốt giã,

Mổ bụng ra phanh tim gan.

(Kinh Sám Hối).

Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,

Cơn tàn hoa keo sơn rời.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RÃ BÈN

Rã: mất tính toàn khối, các thành phần rời nhau ra, không còn liên kết nhau. Bèn: Tai đài, vành cánh hoa.

Rã bèn, như chữ “Rã ten ben”, tức là tan rã ra thành từng mảnh nhỏ.

Ca dao có câu: Anh đừng chê em áo rách quần phèn, Anh không coi bụi hẹ nó rã bèn còn thơm.

Dưới đời ai tốt bằng sen,

Quan yêu dân chuộng, rã bèn cũng hư.

(Đoàn Thị Điểm Giáng).

 

 

RÃ RỜI

Rã: Tan ra từng mảng. Rời: Lìa ra, không còn dính.

Rã rời là rã ra từng mảng.

Rã rời còn có nghĩa vì mỏi mệt mà cảm thấy thân thể hay chân tay rời rã.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Tâm cứng cỏi, Ðạo điều hoà thì cứ bước tới Thầy; tâm trí bất định, đạo hạnh không hoàn toàn thì con đường hám lợi xu danh tới hang sâu vực thẳm đó, vì sức các con đã rã rời thì tài nào níu kéo đỡ nâng khuyên nhủ nhau được.

Thôi thôi nín nẩm xem thời thế,

Cái chí hiên ngang chẳng rã rời.

(Thơ Thuần Đức).

Tơ tóc rã rời khiến đảo điên,

Hiếu trung danh để tạc thành Phiên.

(Thơ Chánh Đức).

 

 

RÃ RỤC

Rã: Cắt, xả ra, làm cho đứt rời thành từng đoạn, từng mảnh. Rục: Chín tơi ra, nhừ ra.

Rã rục, như chữ “Rục rã”, là chỉ ở tình trạng chín tơi ra, nhừ ra và như muốn rời ra, tan rã.

Ao nước nóng sôi thì sục sục,

Dầm cho người rã rục thịt xương.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RÃ TAN

Rã: Rời, tan ra từng mảng. Tan: Vỡ vụn ra thành mảnh nhỏ, không còn nguyên vẹn như trước.

Rã tan, như chữ “Tan rã”, là mất hết, tức bị rời ra từng mảng nhỏ, không còn là một khối duy nhứt nữa.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Mà cái độc nhứt chỉ là cái giận, vì các con, dầu công phu đến mấy chục năm, song các con nếu để cho lửa giận một phen bừng cháy thì cũng đủ thiêu đốt kim đơn phải rã tan ra nước hết trơn.

Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo,

Khối hình hài đã chịu rã tan.

(Kinh Tận Độ).

Mang câu thất hiếu đã đành,

Bao nhiêu công quả biển gành rã tan.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

RẠC TÙ

Rạc: Nhà giam tội nhân. Tù: Người có tội bị giam.

Rạc tù, như chữ “Tù rạc”, là tù nhà giam, chỗ nhốt người có tội.

Rạc tù còn có nghĩa là tù đày, bắt giam giữ và chịu mọi điều khổ sở cực nhọc.

Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,

Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù,

(Kinh Sám Hối).

 

 

RÁCH

Rách là toạc ra, tức ở trạng thái không còn thành nguyên mảnh, có những chỗ bị tách ra mà không phải do đường cắt, trái với lành. Như: Giấy rách, áo rách, rách thịt.

Nói về tánh đức người quân tử, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Chỗ phải Ðạo thì tới, nơi vô đạo thì lánh xa, xem công danh như dép rách, nhắm phú quý tợ bèo trôi, sắc đẹp chẳng động được lòng, cảnh nguy không thay được chí.

Nghèo sạch rách thơm mới đáng người,

Nệ chi cực nhọc buổi xuân mơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,

Không quản lao đao giữ tiếng lành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RÁCH LÀNH

Rách: bị toạc ra, ở trạng thái không còn thành nguyên mảnh, trái với lành. Lành: Ở trạng thái còn nguyên vẹn, không bị sứt mẻ hoặc rách nát.

Rách lành là rách rưới và lành lặn, ý chỉ áo quần bị te tua hay nguyên vẹn, ý nói nghèo khó hay đủ ăn.

Phước Thiện nuôi nấng ấm no.

Phước Thiện vào đặng khỏi lo rách lành.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

RÁCH RƯỚI

Rách: Ở trạng thái không còn nguyên mảnh, có những chỗ bị tách ra mà không phải do có đường cắt.

Rách rưới ý chỉ vì quá nghèo túng nên thân mình ăn mặc tả tơi, rách nát.

Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo của Đức Diêu Trì Nương Nương có câu: Trong cửa Đạo, từ đứa tín đồ nhỏ nhoi cho đến hạng Chức sắc Cửu Trùng khiêm tốn đều chịu dưới quyền áp bức khổ tâm, kẻ rách rưới cơ hàn, đứa cơm không no bữa, cho tới lớp chiến sĩ cầm quân, biết bao nhiêu là khổ tâm, mà tiếng rên xiết đau thương mấy ai ngó ngàng đến.

Xấu xa rách rưới lõa lồ,

Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đói no hẩm hút lòng không nại,

Rách rưới cơ hàn dạ chẳng than.

(Thơ Ngọc Tứ Thanh).

 

 

RÁCH TE

Rách: Trái với lành, tức ở trạng thái không còn nguyên mảnh, có những chỗ bị tách ra mà không phải do có đường cắt. Te: Rách nhiều đường xuôi.

Rách te, như chữ “Rách bươm”, tức là rách thành nhiều mảnh le tua, tả tơi.

Như: Chiếc cặp da nay đã rách te rồi.

Chị vừa vá manh quần tấm áo,

Ra đá bò đánh đáo rách te.

(Phương Tu Đại Đạo).

Đời vốn rách te, khoác áo lành,

Bề ngoài thơm phức hoá hôi tanh.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

RẠCH

1.- Rạch là ngòi dẫn nước từ sông vào đồng ruộng, thuyền bè có thể đi lại.

Như: Hệ thống kinh rạch, thuyền trôi lờ đờ suốt đêm trên sông rạch.

Gay chèo thoát khổ đầy linh cảm,

Rạch nước trừ oan đủ diệu huyền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Rạch là làm cho đứt thành đường trên bề mặt bằng vật sắc.

Như: Dùng dao rạch một đường trên tấm bảng.

Tay rạch đất con ôi trẻ nhớ,

Ngước mặt lên phú có cao xanh.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

RẠCH SÔNG

Rạch: Ngòi dẫn nước từ sông vào đồng ruộng, thuyền bè có thể đi lại. Sông: Dòng nước lớn, chảy từ nguồn ra bể.

1.- Rạch sông là con rạch và con sông.

Như: Rạch sông hiện thời bị ô nhiễm, vì thường xuyên bị rác thải.

Đồ dơ giặt đổ rạch sông,

Đương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.

(Kinh Sám Hối).

2.- Rạch sông, như chữ “Sông rạch”, là đồng nghĩa với chữ sông ngòi, chỉ giao thông đường thủy, hệ thống đường thủy nói chung.

Như: Chuyên chở bằng hệ thống rạch sông.

Trên trời dưới đất, rạch sông,

Máy bay xe cộ, thuyền rồng đón đưa...

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

RẢI RÁC

Rải: Làm cho phân tán ra tương đối đều khắp trên một phạm vi nhứt định.

Rải rác là lưa thưa, tức ở trạng thái phân tán ra nhiều nơi tương đối cách xa nhau.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Phạm Phủ Từ chúng ta mà tạo dựng được có nhiều điều ích lợi một trong Tông Phạm ta còn ở rải rác khắp nơi; cả thảy đều biết rằng dòng Phạm Vi, dòng Phạm Đăng, tưởng không ai còn lạ gì.

Thôn lân rải rác bóng người qua,

Hỏi lại chưa ai vẹn chữ hoà.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

RAY RỨT

Ray rứt, như chữ “day dứt”, là ở trạng thái lo nghĩ, không yên lòng, không yên tâm trí.

Như: Khi đối xử với anh ta tệ tôi nghĩ lại lòng thấy ray rứt quá, nỗi nhớ nhung ray rứt.

Dù đang ray rứt niềm chua chát,

Cũng tạm bãi buôi ý ngọt ngào.

(Thơ Hoài Tân).

Ai biết cảnh tình người lữ thứ,

Nghe chim ray rứt cõi lòng ta.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

RÀY

Rày là một từ cổ, có nghĩa là nay, hiện nay.

Như: Từ rày về sau nó không dám tái phạm nữa đâu, mấy bữa rày trời mưa luôn.

Nhơn đạo rày đã suy vi,

Chay lạt dời đổi còn chi tu hành.

(Thất Nương Giáng Bút).

Rày mừng đệ tử rất siêng năng,

Đạo đức sâu xa biết mót cằn.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

 

 

RÃY

Rãy là từ bỏ, nói về vợ chồng hay bạn bè từ bỏ lẫn nhau. Như: Gái bị chồng rãy, rãy vợ, phụ rãy.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ðấng ấy chẳng khi nào phụ rãy cái Thánh Thể của Ngài, và con cái của Ngài. Bần Ðạo biết hẳn vậy, hằng khuyên chúng ta giữ đạo đức tinh thần đặng làm tôi tớ của Ngài, làm môn đệ của Ngài, hay là đặng làm con của Ngài, vì có bao nhiêu đó mà thôi, Ðấng ấy không hề chịu nợ tình với chúng ta.

Thà cháo rau trọn đạo tào khương,

Hơn sang cả người thương đành phụ rãy.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RAN

Ran là âm thanh phát ra liên tiếp, vang xa và kéo dài.

Như: Pháo nổ ran khắp nơi, sấm ran một góc trời, tiếng cười trong hội trường ran lên.

Lục lạc khua ran cả Ngũ châu,

Nương chi vật chất phải âu sầu.

(Đạo Sử).

 

 

RÁN

Rán, như chữ “Ráng”, là ra sức, cố gắng. Như: Rán sức học hành, làm rán cho xong việc.

Thánh giáo Đức Thích Ca Mâu Ni trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Chư tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp, đặng gặp kỳ Phổ Ðộ nầy là lần chót, phải rán sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trông giả luật.

Xem: Ráng.

Chung hiệp rán vun nền đạo đức,

Bền lòng son sắt đến cùng Ta.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mối đạo từ đây rán vẹn gìn,

Tu là khổ hạnh khá đinh ninh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RÁN LO

Rán (ráng): Gắng sức, cố gắng. Lo: Suy tính, định liệu, để làm tốt công việc thuộc về trách nhiệm của mình.

Rán lo hay “Ráng lo”, là cố gắng tính toán, cố gắng lo liệu một công việc gì đó để hoàn thành cho tốt.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy ban ơn cho phái phụ nữ. Các con cũng vậy, rán lo phận sự.

Li bì cảnh ngộ dạ hằng lo,

Lo chẳng đặng mà cũng rán lo.

(Đạo Sử).

Khí chất tiêu hao không thế phục,

Rán lo âm chất chứa cho đầy.

(Đạo Sử).

 

 

RÁN SỨC

Rán (ráng): Gắng sức, cố gắng. Sức: Khả năng hoạt động, hay làm việc.

Rán sức hay “Ráng sức”, là đem sức lực ra nhiều hơn bình thường làm việc để đạt được kết quả.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai, kim viết Cao Đại Tiêng Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát có dạy: Chư tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp, đặng gặp kỳ Phổ Ðộ nầy là lần chót, phải rán sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trông giả luật.

Rán sức đua chen trong thế sự,

Song thường sợ sệt phép Trời linh.

(Đạo Sử).

An thân ngự đặng chốn cân đai,

Hai chữ vô tư rán sức nài.

(Đạo Sử).

 

 

RÀN RỤA

Ràn rụa, như chữ “Giàn giụa”, là chảy tràn ra nhiều và không cầm giữ nổi.

Như: Khói cay xé làm cho nước mắt ràn rụa, khóc đến mức nước mũi chảy ràn rụa.

Nắng chiều ràn rụa buông rơi,

Trải bao tâm sự mấy người vương mang.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

RÁNG

Ráng, như chữ “Rán”, là gắng sức, cố công mà làm việc. Như: Ráng làm việc, ráng học cho giỏi.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy sẽ giao trách nhậm trọng hệ cho con truyền đạo Trung Kỳ, ráng tập tành đạo hạnh.

Xem: Rán.

Thoát khỏi tường tham dục, tránh nạn eo,

Người chí liệt ráng dòm theo đèn Ngọc Đế.

(Giác Mê Khải Ngộ).

Ráng kiếm diệu huyền lo tế thế,

Ngày sau chung hưởng cảnh Bồng lai.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

RÀNG

Ràng là chằng nhiều lằn dây để buộc cho chặt. Như: Ràng buộc, ràng gói hàng vào xe.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy lấy đức háo sanh mở Ðạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt.

Bảy dây oan nghiệt hết ràng,

Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.

(Kinh Tận Độ).

Đừng thấy đặng nghiệp nhà tử tế,

Mà toan mưu tính kế buộc ràng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RÀNG BUỘC

Ràng: Chặt, không được tự do. Buộc: Lấy dây quấn, thắt lại, chẳng cho đi lại.

Ràng buộc là không được hành động tự do, đặt trong tình trạng có những điều kiện bắt buộc phải làm, trong quan hệ với người khác.

Thánh giáo Thầy có câu: Nguồn Tiên, đạo Thánh dìu bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẻo vạy, bước đường ngay, mà lần vào nơi Cực Lạc an nhàn, rừng tòng suối lặng, động thẳm non xanh, để mình vào bực thanh cao, thoát khỏi chốn luân hồi ràng buộc.

An nhàn gió túi với trăng sân,

Ràng buộc cân đai chịu mạng thần.

(Đạo Sử).

Ðưa bước vào đường đời ngắn ngủi,

Can chi ràng buộc tội bên mình.

(Đạo Sử).

Nỗi đeo đẳng đường đời ràng buộc,

Nỗi đưa chơn theo cuộc tang thương.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

RÀNG RỊT

Ràng: Chằng nhiều lằn dây để buộc cho chặt. Rịt: Giữ chặt, không chịu buông ra.

Ràng rịt là buộc chặt, buộc nhiều vòng chằng chéo không để tự do.

Như: Ràng rịt vết thương, mối dây tình cảm ràng rịt.

Thanh tịnh ít người toan định tỉnh,

Công danh ràng rịt cột chôn chơn.

(Đạo Sử).

Một làn ác khí bao ràng rịt,

Muôn xác tinh ma nhảy dập dìu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RẠNG

1.- Rạng là ở trạng thái trời chuyển dần từ tối sang sáng tỏ.

Như: Trời sắp rạng sáng, ánh đèn trong nhà chiếu ra sân rạng tỏ.

Chiều xuân sương toả lồng sân hoạn,

Dặm liễu trăng soi rạng bước đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Rạng còn dùng để chỉ trạng thái sáng tỏ, vẻ vang lên. Như: Danh Đạo rạng ngời, tiếng tăm chói rạng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Ðời cũng thế, Ðạo cũng thế, chẳng Ðạo chẳng nên Ðời, Ðời Ðạo chẳng trọn, lấy Ðạo trau Ðời, mượn Ðời dồi Ðạo. Ðạo nên Ðời rạng, giũ áo phồn hoa nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc tự thanh cao, nếm mùi tự toại, dưỡng chí thanh nhàn, thì có chi hơn.

Tánh tự thông minh hỏi của ai?

Ban cho nên mới rạng cân đai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nước bốn ngàn năm lừng máu đỏ,

Dân hăm lăm triệu rạng da vàng.

(Thơ Chánh Đức).

 

 

RẠNG NGẦN

Rạng: Hé sáng, chiếu sáng. Ngần: Có màu trong trắng như màu bạc.

1.- Rạng ngần là sáng tỏ màu trắng như bạc.

Như: Trong nhà tối tăm tia sáng xuyên qua khe cửa chiếu rạng ngần.

Ðường gai gốc gắng lần qua khỏi,

Cảnh rạng ngần tua rán bước vào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lừng Trời vẹt ngút mây xây mịt,

Ðài ngọc khoe gương sắc rạng ngần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Rạng ngần còn dùng để chỉ khí tiết trắng trong, chói rạng. Như: Tiết hạnh rạng ngần.

Thể cách đoan trang tiết rạng ngần,

Muôn đời giữ trọn vóc thanh xuân.

(Quỳnh Hoa Tiên Nữ).

 

 

RẠNG NGỜI

Rạng: Ở trạng thái trời chuyển dần từ tối sang sáng. Ngời: Sáng và đẹp rực rỡ.

Rạng ngời là sáng rực rỡ, cùng nghĩa với “Sáng rỡ”.

Rạng ngời còn dùng để chỉ sự vẻ vang, như: Chiến công rạng ngời.

Nay con phước gặp nền Chơn Ðạo,

Ngọc tốt bền trau sắc rạng ngời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Kim chi ngọc điệp nhà noi dấu,

Thổ võ huyền môn đức rạng ngời.

(Đoàn Thị Điểm Giáng).

 

 

RẠNG SOI

Rạng: Ở trạng thái sáng lên, sáng tỏ lên. Soi: Chiếu ánh sáng vào.

Rạng soi là soi sáng, chiếu sáng tỏ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ngày nào tiếng trống giác mê, hồi chuông cảnh tỉnh có đủ mãnh lực dìu dắt bước đường của phần đông theo bước đường đạo đức; ngày nào trên con đường thống nhứt giang sơn, quốc dân Nam những kẻ có trách nhậm lớn nhỏ trong xã hội thấy lợi nghĩ đến nghĩa, thấy nguy nghĩ đến dân, tận tuỵ vì bổn phận, bỏ hẳn nhơn cách đáng khinh, theo Thiên-lương sáng suốt, đồng một lòng làm cho cạn nguồn đau khổ của giống nòi, trụ lại một quốc hồn mạnh mẽ, thì ngày ấy chủ nghĩa dân chủ mới rạng soi, hạnh phúc quốc dân mới mong mỏi!

Đuốc huệ rạng soi đường tấn hoá,

Thuyền từ nhẹ tách bến luân hồi.

(Thơ Tiếp Đạo).

Phất trần quét sạch làn mây ám,

Đuốc huệ rạng soi vẹt ngút mù.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

RÀNH

Rành là biết rõ, sành, thạo. Như: Rành việc, rành nghề, kể rành từng câu chuyện.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Sự sanh hoạt trong cửa Ðạo cũng chẳng khác chi sự sanh hoạt ngoài mặt đời, kẻ rành về nghề nầy, người chuyên môn về nghề khác, có nghề đòi hỏi sự lao tâm, có nghề cần nơi sự lao lực.

Để tâm dưới ánh Chí linh,

Soi tường chơn lý chỉ rành chánh văn.

(Kinh Thế Đạo).

Ðoan chánh khen ưa xử sự rành,

Nay ta cũng dụng cải khôn lanh.

(Đạo Sử).

Muôn vật cho biết tánh biết danh,

Giá mua bán cho rành cho rõ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RÀNH MẠCH

Rành: Biết rõ, sành, thạo. Mạch: Đường nối liên tiếp rõ ràng giữa các bộ phận.

Rành mạch là rõ ràng từng điều, từng khoản. Như: Trả lời một cách rành mạch.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Công quả nội là phương pháp làm cho mình sáng suốt, hiểu thông rành mạch đạo lý, không còn chỗ nào ngờ vực hầu trau dồi tâm tánh để trở nên người đạo đức hoàn toàn.

Bần Ðạo sẽ giảng rành mạch về quyền chúa ấy sau. Bây giờ Bần Ðạo giải rõ quyền cha mà thôi.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

RÀNH RẠNH

Rành: Biết rõ, thạo, sành.

Rành rạnh là rành, rõ ràng từng nét, in đậm dấu vết.

Rành rạnh còn có nghĩa là hết sức rõ ràng, hiển hiện ra đó, ai cũng có thể hiểu, có thể nhìn thấy.

Như: Chứng cớ rành rạnh đó mà còn cãi.

Thành tâm giáo thuận lòng chí Thánh,

Mong sao cho rành rạnh Phật tông.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

 

 

RÀNH RẼ

Rành: Biết rõ, sành, thạo.

Rành rẽ, như chữ “Rành rọt”, là rõ ràng đến tận chi tiết, không có một chỗ nào không rõ. Như: Bé nói rành rẽ.

Trong bài Điếu văn của Đức Thượng Sanh đọc trước Liên Đài Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Ngoài nhiệm vụ đã được giao phó trong lúc rảnh rang thì Ngài cặm cụi, đem hết trí óc, não cân để sáng tác những sách Ðạo với mục đích là giúp cho Chức sắc, Chức việc và Ðạo hữu am hiểu rành rẽ giáo lý Ðại Ðạo và các Tôn giáo cõi Á Ðông.

Buổi nọ vì thời gian ngắn ngủi, nên công việc chưa rành rẽ, vì không đủ thì giờ để chuyên luyện, hoặc cho là chưa trọng hệ cho lắm, nên có điều sơ lược.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

RẢNH

Rảnh là hết bận, thong thả, tức ở trạng thái không có công việc gì thúc bách phải làm ngay, không bận bịu.

Thánh giáo Thầy có câu: Các con đã đặng thong dong rồi, rảnh chẳng lo tu đức mà sửa mình, lại còn cả gan trước mặt Thần, Thánh, Tiên, Phật, gây thêm tội lỗi nữa, thiệt là đáng giận!

Quy điền có lúc phong trần rảnh,

Ðinh sắt một lòng, chí chớ lay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phủi sạch bụi hồng cho rảnh kiếp,

Thân còn chẳng kể, kể chi duyên.

(Đạo Sử).

Tuổi xanh nặng gánh đền ơn nước,

Đầu bạc nhẹ vai rảnh nợ nhà.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

RẢNH RANG

Rảnh: Hết bận, thong thả.

Rảnh rang là rảnh, ở trạng thái không có việc gì thúc bách phải làm ngay, không vướng víu, bận bịu. Như: Lúc rảnh rang mời anh đến nhà uống nước.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta thử để cái trí não bình tĩnh một lúc cũng như các thi gia, các văn sĩ kia để rảnh rang cái trí của mình giây phút dòm cả vạn vật đồng sinh với ta, rồi chúng ta tìm tòi hiểu cái khuôn Luật Thiên Nhiên kia đã định phận cho họ thế nào?

Dừng chơn ngó lại miền nhơn sự,

Thương kẻ lo đời chẳng rảnh rang.

(Đạo Sử).

Khuyên em trọng Đạo thương Thầy,

Khuyên em trì chí có ngày rảnh rang.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

RẢNH RỖI

Rảnh: Hết bận, thong thả. Rỗi: Ở trạng thái ít hoặc không có việc làm.

Rảnh rỗi là ở trạng thái không phải làm việc gì hoặc không có việc gì thúc bách phải làm ngay.

Như: Những khi rảnh rỗi ngồi nhớ lại chuyện xưa.

Khi rảnh rỗi nghiêm trang khẩn đảo,

Lúc thừa nhàn đàm đạo vong linh.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

RAO

1.- Rao là truyền bá cho mọi người đều biết. Như: Thằng mõ đi rao khắp làng, rao hàng, bán rao.

Ca dao ta có câu: Trách người quân tử bạc tình, Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.

Ngồi mà đợi vắng hoe cũng ức,

Mới mang hàng lấy lực ra rao.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Rao là đờn hay ca dạo đầu, hoặc kết thúc cho các câu ca.

Như: Rao đờn, rao dạo đầu một khúc nhạc, rao nam hát khách.

Hoa tiên trải đợi tình nghiên bút,

Cầm nguyệt rao chờ nghĩa trúc tơ.

(Thơ Hồng Ân).

 

 

RAO NAM HÁT KHÁCH

Rao nam: Như chữ: “Hát nam”, điệu hát tuồng phổ theo các thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát, lời thơ toàn văn nôm. Hát khách: Điệu hát tuồng phổ theo các thể thơ cổ, tính cách vui, hoạt động dồn dập, bi hùng theo nội dung lời ca.

Rao nam hát khách dùng để chỉ tình ý vợ chồng hay bè bạn hoà hợp với nhau.

Chồng rao nam hơi chẳng đặng dài,

Vợ hát khách bằng hai giúp sức.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RÁO

1.- Ráo là ở tình trạng đã khô hoặc đã được lấy hay loại hết nước.

Như: Hong quần áo từ sáng tới giờ chưa ráo, chắt cho ráo hết nước, nghỉ cho ráo mồ hôi.

Lòng xót Đạo luỵ rơi không ráo,

Đậu tiền tay mới tạo Chùa riêng.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

2.- Ráo là hết tất cả, sạch, nhẵn, không còn chút gì.

Như: Trời mưa không đem đồ đạc vô, bị ướt hết ráo, Nó ở nhà ăm ráo nồi cơm.

Anh vừa sang cho mực một ve,

Đi học đánh đeo xe đổ ráo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RÀO

1.- Rào là hàng cây hay cọc giạu trồng chung quanh vườn đất nhà mình hoặc các cơ quan. Như: Vượt rào vô.

Nói về công nghiệp Đức Hộ Pháp, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Thời kỳ Ðức Ngài cầm quyền đã tiếp tục kiến thiết nhà Hội Thánh Ngoại Giáo, tức là Hội Vạn Linh bây giờ, làm vòng rào và các cửa.

Chừ sao bỏ cảnh úa xào,

Nhụy phai hương lợt, khuôn rào tả tơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Mây lành phủ động ra khuôn cửa,

Tòng rậm bao cung giống mặt rào.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Rào còn có nghĩa giữ gìn, bảo vệ hay ngăn chận.

Như: Khuyên rào tiết ngọc, anh ta nói chuyện hay rào trước đón sau.

Tính để viết khuyên rào tiết ngọc,

Thì sợ e ghẹo chọc si tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Dạy kế hay đào lý ngăn rào,

Đừng để trống bướm ong xao xuyến giỡn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RẢO

Rảo là đi bằng những bước chân nhanh, gấp và liền một mạch.

Như: Rảo bước về nhà, rảo qua các phố, đi rảo để xem xét các công trình.

Ðâu đâu Thiên Ðịa cũng đồng khai,

Rảo bước xuống xe đến Dịch đài.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Khi thì rảo bước động đào,

Khi thì tịnh luyện nhập vào cảnh tiên.

(Thơ Hộ Pháp).

Mượn nước nhành dương lau tục trái,

Thoát mê rảo bước thử đi lần.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

RẠO

Rạo là hàng cọc cây cắm ở giữa dòng nước để đóng đáy, chăn lưới bắt cá, hoặc thả chà nhử tôm.

Như: Cắm rạo theo dòng nước để bắt cá, dưới sông đầy rạo thuyền qua chẳng đặng.

Ruộng dâu, giáo đóng dầy hơn rạo,

Biển hoạn, nước xao dẫy quá bờ.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RÁP

Ráp là lắp vào, tức đặt cho khớp vào với nhau.

Như: Ráp các bộ phận của máy, ráp cánh cửa vào, ráp các tin lại thấy không khớp, ráp vần.

Thân Tiên dầu lỡ gót phàm,

Gương xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi?

(Nữ Trung Tùng Phận).

Hễ a, b thuộc lảu tới nơi,

Làm vần ngược vần xuôi ráp lại.

(Phương Tu Đại Đạo).

Tìm Công Viễn là tay diệu pháp,

Đưa đường phàm cho ráp cung thiềm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RÁP GƯƠNG

Ráp: Lắp vào, tức đặt cho khớp vào với nhau. Gương: Kính soi mặt.

Ráp gương là lấy hai mảnh gương ráp lại, do điển “Phá kính trùng viên 破 鏡 重 圓” là gương vỡ lại lành.

Từ Đức Ngôn và vợ là Lạc Xương Công Chúa gặp lúc loạn lạc, hai vợ chồng bèn hẹn nhau mỗi người giữ nửa mảnh gương soi, sau này đem ra chợ Trường An bán đặng tìm nhau. Nhờ hai nửa mảnh gương ráp lại vợ chồng mới gặp lại và sum họp nhau.

Xem: Gương vỡ lại lành.

Một khối tuyền đài tình khó dứt,

Ráp gương kiếp khác quyết chờ thôi.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

RAU

Rau là tiếng gọi chung các thứ cây cỏ dùng làm thức ăn cho người.

Thánh giáo Thầy có dạy: Những sanh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối vật chất có tánh linh, vì vật chất nuôi nấng nó cũng đều là sanh vật, tỷ như: rau cỏ, cây trái, lúa gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh.

Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,

Đạo quân vương chữ dặn nơi lòng.

(Kinh Thế Đạo).

Thà cháo rau trọn đạo tào khương,

Hơn sang cả người thương đành phụ rãy.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RAU NÀO SÂU NẤY

Rau nào: Loại rau gì. Sâu nấy: Có loại sâu đó.

Rau nào sâu nấy là câu tục ngữ có nghĩa là tuỳ theo rau mà sinh ra loại sâu thích hợp, ý nói cha mẹ thế nào thì con thế ấy.

Như: Có câu: Rau nào sâu nấy, con nhỏ nầy lại giống mẹ nó thôi.

Việc kết sui gia, kén dâu kến rể, phải thận trọng, lọc lừa cho kỹ, nhớ câu “Rau nào sâu nấy”.

(Quan Hôn Tang Lễ).

 

 

RẮC

Rắc là làm cho vật có dạng hạt nhỏ rơi đều khắp trên một bề mặt. Như: Rắc mè vào bánh, mưa rắc hạt.

Rắc còn có nghĩa là rải xuống khắp mọi nơi. Như: Gieo rắc, tia nắng rắc dài trên đồng ruộng.

Trong Thuyết Đạo của Đức Thượng Sanh có câu: Vùng Thánh Ðịa Tây Ninh nầy là nhà chung của nhơn sanh, là nơi được Ðấng Chí Tôn che chở dưới bóng từ bi, họp tất cả những tâm hồn biết tin cậy nơi lượng háo sanh của Ðức Ngài, để gieo rắc tình thương yêu vô lượng, xoa dịu nỗi đau khổ của kẻ vô cùng bạc phước, dù ở trong cảnh ngộ nào, cũng là con cái chung của Ðại gia đình mà Ðức Ngài là Ðại Từ Phụ.

Thu nguyệt mây phô tờ gấm trải,

Tà dương vàng rắc lối hoa mơ.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

RẮC RỐI

Rối: Ở trạng thái bị mắc, vướng vào nhau một cách chằng chịt, khó gỡ.

Rắc rối là lôi thôi, tức có nhiều yếu tố mà mối quan hệ với nhau phức tạp, khó nắm, khiến trở nên khó hiểu, khó giải quyết.

Nói về Lễ Nhạc, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trái lại nếu Lễ không nghiêm, Nhạc không hoà thì đàn cúng có cái trạng thái hỗn loạn khiến cho người đến Lễ bái có một tâm trạng xao xuyến, tinh thần bất định. Ðó là một sự thất Lễ đối với các Ðấng Thiêng liêng và như vậy Ðức Chí Tôn không khi nào giáng Ðàn, tà quái có thể thừa dịp xung nhập gây nên điều rắc rối.

Sẩy tay lọt tuốt xuống A-Tỳ,

Chịu những khổ sầu rắc rối nguy.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Thoả thuận cùng không cơn rắc rối,

Vững bền theo Đạo mới vuông tròn.

(Đông Phương Sóc Giáng).

 

 

RẰM

Rằm là ngày có trăng tròn, tức ngày 15 của mỗi tháng Âm lịch. Như: Rằm Thượng nguơn, rằm Hạ nguơn.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh có câu: Lâm Hương Thanh hiền muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm nầy, Thầy đến phong chức lập thành Nữ phái, nghe à!

Rằm tháng hai Đàn lễ Giáng sanh,

Nguơn linh Thái Thượng Lão Đam thành.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

RĂN

Răn là ngăn cấm, dạy bảo, tức chỉ cho những điều sai trái và tác hại của nó để biết mà tránh. Như: Tự răn mình, phạt một người để răn những người khác.

Thánh giáo Lý Thái Bạch trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy.

Dối ai đâu dễ dối cùng Trời,

Biết Ðạo răn mình cũng hết hơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cầm cân thăng thưởng răn người thế,

Người thế sao cho hạnh chói ngần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RĂN CẤM

Răn: Dạy bảo những điều sai trái và có tác hại để ngăn cản. Cấm: Không cho phép.

Răn cấm, như chữ “ngăn cấm”, là ngăn cản, cấm không cho phép làm việc gì đó có tính chất không tốt đẹp, hoặc hại người khác.

Như: Những điều răn cấm của Phật.

Người nào trong đạo phạm một hay nhiều điều răn cấm trên đây, thì mấy người khác trong bổn đạo hay biết phải khuyên giải.

(Tân Luật).

 

 

RĂN DẠY

Răn: Chỉ cho những điều sai trái và tác hại của nó để biết mà tránh làm việc xấu. Dạy: Chỉ bảo, giáo dục.

Răn dạy là dạy bảo để khuyên răn, tức là vừa chỉ bảo vừa ngăn cản những hành động sai trái, có tác hại.

Như: Làm anh phải răn dạy đàn em út.

Khi răn dạy cũng là thừa dịp,

Dầu ông Tiên tái kiếp cũng không bì.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RĂN ĐỜI

Răn: Chỉ cho những điều sai trái và tác hại của nó để biết mà tránh làm việc xấu. Đời: Xã hội loài người.

Răn đời là răn đe người đời, tức chỉ những điều sai trái, lầm lỗi của người đời để khuyên nên xa lánh.

Thuyết về Đức Jésus Christ, Đức Hộ Pháp có câu: Đức Chúa Jésus de Nazareth (gọi là Christ) bởi lòng nhân cứu thế lập nên Thánh Giáo Gia Tô, Ngài mượn bác ái nhân sanh, đặng thay mặt Chí Tôn khai hoá, xem phổ tế chúng sanh rằng trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ nghèo, dỗ kẻ dữ, dạy người ngu, ngó chân thật mạng sanh hành thiện Đạo, diệt dị đoan, trừ mê tín, dụng chân lý để răn đời, nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời, lấy trí tuệ vẽ tươi Thiên Cảnh.

Đạo Nho truyền dạy nghĩa nhơn,

Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời.

(Xưng Tụng Công Đức).

Thương ghét chưa ai đem khỏi sự,

Răn đời lấy một tấc gan vàng.

(Đạo Sử).

 

 

RĂN HE

Răn: Dạy bảo để ngăn cản việc làm quấy, làm dữ. He: Hăm he.

Răn he là dạy bảo cho biết việc làm sai trái và hăm he trừng trị nếu vi phạm.

Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có đoạn: Người tín đồ mà phạm luật Đạo, thì Chánh Trị Sự phải khuyên nhủ, răn he, ít nữa là đôi lần, thảng như không biết ăn năn chừa cải, thì tư tờ về Thánh Thất sở tại cho Giáo Hữu, đặng người đòi đến mà dạy dỗ, răn he.

Rộng thứ không bằng toan dạy trước,

Răn he đừng đợi ngọn gươm quơi.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

RĂN MÌNH

Răn: Dạy bảo để ngăn cản việc làm quấy, làm dữ. Mình: chỉ bản thân mình.

Răn mình là tự mình răn he lấy mình, tức tự suy xét mà ngăn cản những điều lỗi của mình. Như: Người sợ tội lỗi lúc nào cũng lo tự răn mình.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có đoạn: Ấy vậy, nên biết mà răn mình. Cái Tâm là vật người không thấy được, khá giồi trau nó trước. Nếu bỏ Tâm kia ra ngoài mà rèn hình thể thì chẳng khác chi quỳ đọc kinh, đèn đốt đỏ hừng, mà thiếu bức Thiên Nhãn trên điện vậy.

Lẽ báo ứng cao thâm huyền diệu,

Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình.

(Giới Tâm Kinh).

Dối ai đâu dễ dối cùng Trời,

Biết Ðạo răn mình cũng hết hơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phải thường viếng tù lao nơi khám,

Mà khuyên lơn kẻ phạm răn mình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RĂN TRỪNG

Răn: Dạy bảo để ngăn cản việc làm quấy, làm dữ. Trừng: Răn bảo, tức dặn dò để không làm bậy.

Răn trừng, như chữ “Trừng răn”, là trừng trị để răn dạy kẻ có lỗi. Như: Thi hành án để răn trừng kẻ tội phạm.

Xem: Trừng răn.

Đừng thấy mắng mà đành chẳng ngó,

Nhớ công cha buổi nhỏ dạy, răn trừng.

(Phương Tu Đại Đạo).

Mình cứ giữ lấy mình mình dặn,

Muốn răn trừng đừng nặng tình chung.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RẮN

1.- Rắn là động vật thuộc lớp bò sát, thân dài, có vẩy, không chân, di chuyển bằng cách uốn thân.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thanh Tâm có câu: Ðạo nơi Tâm, thì Tâm ví như Ðiền, có Ðiền mà chẳng cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột thì ruộng tất phải bỏ hoang, bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú.

Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,

Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.

(Kinh Sám Hối).

Rồng rắn cùng đời, rồng hoá rắn,

Vinh huê ngó lại, giấc mơ màng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rước voi phá mả đào lăng miếu,

Thả rắn xua ong nhiễu điện tà.

(Đạo Sử).

2.- Rắn là cứng, chắc, có khả năng chịu đựng. Như: Rắn tợ kim cương, rắn tợ như đá, cứng rắn.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo nói quả quyết mỗi sự khó khăn gay trở, mọi sự khổ hạnh, mà Thánh Thể Đức Chí Tôn đã chịu mà có thể thắng được mọi trở lực là nhờ khối thương yêu của Đức Chí Tôn đã dành để cho chúng ta, nếu chúng ta lấy khối thương yêu cứng rắn ấy làm căn bản, thì không có quyền năng nào dưới thế gian nầy làm cho khối ấy lay chuyển, tiêu diệt được.

Chức sắc Bộ Nhạc đã nung đúc thành khối kiên tâm, cứng rắn thì dù khó khăn bao nhiêu cũng có thể san bằng để đi tới chỗ cứu cánh.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

RẮN ĐỘC THUẾ MÁ

Rắn độc thuế má ý nói người dân không sợ rắn độc cắn hơn là gánh chịu thuế mà nặng nề.

Do tích trong truyện: “Bộ xà giả thuyết 捕 蛇 者 說” của Liễu Tông Nguyên có viết:

Ở đất Vĩnh Châu, có nhiều loại rắn độc dữ, nhưng lại có dược tính, trừ được nhiều loại bịnh, nên triều đình ra lịnh, ai bắt nộp hai con rắn thì miễn một năm thuế thân.

Trong làng có người họ Tưởng ba đời bắt rắn, ông và cha của anh đã bị rắn độc cắn chết, bản thân anh mấy lần cũng suýt mạng vong.

Liễu Tông Nguyên nghe được tìm đến đề nghị anh đổi nghề khác, người bắt rắn nói: Ông thương tình dạy thế thôi, chứ thuế má còn nguy hiểm gấp mười lần rắn độc, nếu không bắt rắn thì tiền đâu đóng thuế, phải bị bắt giữ thôi lôi, không làm ăn được thì làm sao có cơm gạo mà ăn, phải chết lần mòn, còn làm nghề rắn như tôi, tuy nguy hiểm nhưng chỉ cần hai hồi sanh tử để được rắn thì suốt năm tôi sẽ nhàn nhã.

Than ôi! Rắn độc gớm ghê,

Nhưng so thuế má, có bề nhẹ hơn.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

RẮN MẮT

Rắn mắt là nghịch ngợm, táy máy, tinh nghịch, thường chỉ bọn trẻ con đùa nghịch một cách không có ý thức, hay có những việc làm, trò chơi gây nguy hại mà không biết đến.

Như: Thằng bé chơi rắn mắt nhè tổ ong vò vẽ mà nó đi thọc phá.

Đừng quen tánh theo đồ lí lắc,

Việc nên hư rắn mắt nói không nghe.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RĂNG

Răng là phần xương cứng mọc ở hai hàm trong miệng, dùng để nhai, cắn thức ăn.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Triết lý về hình thể của con người, thọ tinh cha huyết mẹ sản xuất ra, thì có sự cảm giác thiêng liêng đối cùng nhau rất mật thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà, khi cha mẹ có bịnh hoạn hay xảy ra điều gì tai biến, thì thân thể của người con sẽ có điềm máy động; giựt thịt, máy mắt, hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các điều khác.

Già răng rụng cắn cơm không bể,

Dâu kiếm phương nhai thế đút mồi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RĂNG CẮN LƯỠI

Răng: Phần xương cứng mọc ở hai hàm trong miệng, dùng để nhai, cắn thức ăn. Cắn: Lấy răng nghiến. Lưỡi: Bộ phận trong miệng, dùng để nếm, để nói.

Răng cắn lưỡi là nói miệng nhai thức ăn, răng cắn phải lưỡi, nghĩa bóng chỉ tình anh em cốt nhục bất hoà.

Người tín đồ Cao Đài khi nhập môn vào Đạo tu hành, trước nhất phải trọn giữ đạo nhân luân, trong đó nghĩa anh em rất sâu nặng. Người xưa thường nói: Thế gian tối nan đắc giả huynh đệ 世 間 最 難 得 者 兄 弟, nghĩa là cái khó kiếm được nhứt ở thế gian là anh em. Câu này cho chúng ta thấy rằng tình nghĩa anh em thực là nồng nàn, thắm thiết, rất cao quý và thiêng liêng.

Anh em ruột thịt cùng cha mẹ sinh ra, tức là cùng núm ruột, đã từng sống bên nhau, thân thiết nhau từ lúc thơ bé cho đến lớn khôn, cùng vui đùa, cùng chia sẻ, san sớt ngọt bùi cho nhau, từng miếng cơm, miếng cá mà mẹ đút cho ăn cũng giống như răng và lưỡi cùng chung hưởng mùi thức ăn, thế mà nỡ lòng nào dứt tình anh em với nhau cũng như “Răng cắn lưỡi”.

Câu chuyện “răng cắn lưỡi” sau đây ví như tình anh em bất hoà với nhau.

Chuyện kể rằng: Hồi xảy ra chuyện bất hoà giữa anh em Tây Sơn, là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ. Bình Định Vương Nguyễn Huệ bèn kéo quân vào vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc (anh Huệ) đứng vào thế nguy ngặt đến nỗi phải thân lên đứng trên thành kêu khóc, nhưng Nguyễn Huệ vẫn không chịu rút quân.

Bữa đó, trong trại đang lúc ăn cơm, Nguyễn Huệ vô ý để răng cắn nhằm lưỡi, bèn bảo Trần Văn Kỷ là người nổi tiếng hay chữ, đỗ giải nguyên, đang giữ chức tham mưu, làm một bài thơ và lấy tựa là “Răng cắn lưỡi”.

Trần Văn Kỷ liền đọc luôn bốn câu sau đây:

 

Ngã ký sanh tiền, nhữ vị sanh,

 

我 既 生 前, 汝 未 生,

 

Nhữ sanh chi hậu, ngã vi huynh.

 

汝 生 之 後, 我 為 兄.

 

Lý ưng cộng hưởng trân cam vị,

 

理 應 共 享 珍 甘 味,

 

Hà nhẫn tương tranh cốt nhục tình.

 

何 忍 相 爭 骨 肉 情.

Nghĩa là:

Ta đã ra đời, chú mới sanh,

Từ sanh ra chú, ta làm anh.

Lẽ nên cùng hưởng mùi ngon ngọt,

Cốt nhục tranh nhau nỡ đoạn đành?

Nguyễn Huệ nghe xong bài thơ, xúc động, ăn cơm xong, liền ra lệnh tha cho Nguyễn Nhạc và rút quân về Phú Xuân.

Sao nỡ đoạn đành răng cắn lưỡi?

Anh em cốt nhục phải lìa tan.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

RẰNG

Rằng là nói, nói ra như vầy. Như: Nghĩ rằng, phán rằng, ngồi yên chẳng nói chẳng rằng.

Thánh giáo Đức Chí tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy cho các con biết trước đặng sau đừng trách rằng quyền hành Thầy không đủ mà kềm thúc trọn cả môn đệ.

Ðạo đời tua biết rằng đời trọng,

Một điểm quang minh một điểm linh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cày mây cuốc nguyệt chờ Thang Võ,

Rằng biết cho dân chịu buộc ràng.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Nâng ly vừa cạn hạc reo vang,

Rằng chiếu đòi ông đến điện vàng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RẮP

Rắp là định, toan, ý muốn làm việc gì.

Như: Rắp sửa lại sân nhà trước tết, rắp làm một số công việc vào tháng tới.

Ca dao có câu: Giương cung rắp bắn phượng hoàng, Chẳng may lại gặp một đàn chim ri.

Rắp nhập cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống,

Chốn quê xưa giải mộng trần gian.

(Kinh Tận Độ).

Ách đất rắp nhồi trường náo nhiệt,

Cửa Trời kịp mở vớt quần sinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phong ba chấn động góc trời nghiêng,

Bát nhã tuông khơi rắp đắm thuyền.

(Thơ Bảo Văn Pháp Quân).

 

 

RẮP RANH

Rắp: Định, toan.

Rắp ranh là sắp sẵn, mưu mô làm việc gì, lăm le. Như: Phe chống đối rắp ranh làm đảo chánh.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Mãi đến lớn lên, lần lần nhiễm lấy mùi trần, rồi ham giàu, ham sang mới rắp ranh trù nghĩ kế nọ mưu kia, phương này, chước khác, mà báo hại, phải hao cái Chơn tâm.

Ðời người ma quỷ rắp ranh,

Ðời như trái chín trên cành gió đưa.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

RẦY

Rầy là làm phiền, quấy nhiễu. Như: Quấy rầy, đến làm rầy anh ấy luôn.

Rầy còn có nghĩa là mắng, quở trách, ngầy ngà. Như: Chủ nhà rầy đứa tớ, cha rầy con, anh rầy em.

Thánh giáo Thầy giảng về cơ bút có đoạn: Như chấp cơ mà mê thì Chơn thần ra trọn vẹn khỏi xác. Thầy mới dạy nó viết chữ chi đó, nó đồ theo, Thầy nói tên chữ, xác nó cầm cơ viết ra, người đọc trật chữ, nó nghe đặng, không chịu, Thầy buộc viết lại và rầy kẻ đọc trật ấy.

Lại đừng giận cha hay rầy nói cù cưa,

Vì sợ trẻ mắc lừa đời xảo quyệt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RẦY LA

Rầy: Trách, mắng. La: Rầy mắng.

Rầy la là trách mắng, tỏ ý không bằng lòng. Như: Anh ấy khó lắm rầy la tôi suốt ngày.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Còn bây giờ đã có dạy dỗ khuyên lơn, rầy la thì kỳ cào, quạo quọ, ở trong cửa Đạo nầy Bần Đạo xin đứt cả thảy mấy em thanh niên rán giữ chữ Hiếu làm gương mẫu.

Đừng thấy lẫn rầy la mà phụ,

Phải nhớ hồi còn bú tới thôi nôi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RẪY BÁI

Rẫy: Ruộng được lên luống, hoặc đất ở miền núi dùng để trồng trọt hoa màu.

Rẫy bái là một từ Nam bộ dùng để chỉ chung công việc lao động trồng trọt ruộng rẫy.

Như: Anh ấy làm giàu bằng nghề rẫy bái, làm rẫy bái phải siêng năng chăm chút hằng ngày.

Rẫy bái thà quen thú dốt mình,

Thà là giữa chợ lắm đua tranh.

(Đạo Sử).

 

 

RẬM

1.- Rậm là nhiều, mau.

Như: Nôn đến địa điểm nên mọi người đi rậm chơn, tánh cô ây ăn nói rậm lời.

Phất phơ đưa phướn diệu huyền,

Trông vơi thấy khách cửu tuyền rậm chơn.

(Lục Nương Giáng Bút).

2.- Rậm là dày, khít, tức gồm nhiều yếu tố giống nhau như cành, lá, sợi, lông khít vào nhau, không có kẽ hở, mà phủ kín tất cả. Như: Bụi rậm, rừng rậm, râu rậm.

Khi nói về công nghiệp xây dựng Toà Thánh, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Không có Ðức Hộ Pháp thì nơi đây vẫn còn là những đám rừng rậm sầm uất.

Mây lành phủ động ra khuôn cửa,

Tòng rậm bao cung giống mặt rào.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RẬM RẠP

Rậm: Dày, khít.

Rậm rạp, như chữ “Rậm ri”, là dày đặc, không có kẽ hở đến mức chỉ còn thấy một khối dày đặc.

Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có câu: Ðường sá vắng bóng người, hai vệ đường cây che rậm rạp, heo rừng và nai lững thững đi kiếm ăn, thấy xe ngựa chạy ngang chúng tuông vào đám rừng chồi sột sạt làm tôi cũng giựt mình.

Rậm rạp vườn xuân lan quế trổ,

Sui gia ngày tháng đậm tình thân.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

RẬM RI

Rậm: Dày, khít.

Rậm ri, như chữ “Rậm rì”, là dày, khít đến mức như chỉ còn thấy một khối dày đặc.

Như: Cỏ mọc trong vườn rậm ri, rong rêu mọc rậm ri dưới chân tường.

Đường ngắn ngủn mà đường bít chịt,

Sậy lè tè khít rịt rậm ri.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

RẦN RẦN

Rần rần, như chữ “Rầm rầm”, ầm ĩ, đông đảo, ồn ào, vang động, có tính chất nhộn nhịp, tấp nập.

Như: Đêm hôm không biết có chuyện gì mà mọi người xách đèn chạy rần rần ngoài ngõ.

Dạ nhiệt huyết dầu sôi sục sục,

Niềm Từ bi lửa đốt rần rần.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

RẦN RẦN RỘ RỘ

Rần rần rộ rộ, như chữ “Rầm rầm rộ rộ”, là rần rần, nhưng có ý nhấn mạnh hơn. Như: Những đứa bé trong xóm ráp nhau chạy rần rần rộ rộ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong nước của người ta trương cờ xí của Đạo lên dọc dài theo đường đặng nghinh tiếp vị Giáo Chủ của mình một cách tự do không ái ngại e lệ chi cả, nhứt là nơi bên đó ở Ba Nam đem biểu ngữ ra ngoài đường trương cờ tiếp lễ từ Ba Nam cho tới Kinh Đô rần rần rộ rộ, lên tới thấy sắp đặt khéo lắm, Bần Đạo được lễ nghinh tiếp rất trọng hậu.

Người có vợ chồng con cháu đủ,

Rần rần rộ rộ góc trời Tây.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RẦN RỘ

Rần: Có âm vang và đồng loạt, gây được sự chú ý. Rộ: Ồn lên một lượt.

Rần rộ, như chữ “Rầm rộ”, là đông đảo, ồn ào, vang động, gây sự tấp nập, nhộn nhịp.

Rần rộ còn là từ gợi tả hoạt động mạnh, có tác động lôi cuốn. Như: Chuyện ấy làm cho thiên hạ đi coi rần rộ.

Tân Luật Điều thứ mười sáu định rằng: Trong việc tống chung, không nên dùng đồ âm công có màu sắc loè loẹt, chỉ dùng toàn đồ trắng, không nên đãi đằng rần rộ mà mất sự nghiêm tịnh và mất dấu ai bi.

Quân lịnh nghiêm trang hàng ngũ chỉnh,

Ngựa voi rần rộ trót giờ lâu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Rần rộ chung tư lời khánh hỷ,

Ngập ngừng văn điếu giọng ai bi.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

RẬP

1.- Rập là in theo, phỏng theo, làm hoàn toàn giống với một cái mẫu có sẵn.

Như: Rập cùng một khuôn mà ra, Những mẫu giày nầy được làm ra rập một khuôn.

Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh xác phàm như khuôn in rập.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2.- Rập là nhiều người, nhiều âm thanh phát ra cùng một lúc và đúng nhịp nhau.

Như: Nhiều người cùng hô rập một tiếng, những đứa bé cùng hát rập theo, kèn trống ăn rập nhau.

Cung đàn rập trỗi hơi kinh tụng,

Quán tục không mơ chén rượu nồng.

(Thơ Chơn Tâm).

3.- Rập là cái bẫy, vật dụng dùng để bắt chim, chuột.

Như: Nó ra đồng mang theo ba, bốn cái rập chuột, chim vướng vào rập của nó từng bầy luôn.

Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá,

Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RẬP RỀNH

Rập rềnh là tiếng dùng để diễn tả âm thanh chen lẫn nhiều thứ rập đi rập lại.

Như: Tiếng trống rập rềnh, âm thanh rập rềnh phát ra theo tiếng đàn.

Quến rủ đôi ba thầy tụng,

Rập rềnh tiếng quyển rập tiếng tiêu,

Trù trì năm bảy ông sư,

Thù tạc chén thung đưa chén cúc.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

RẬP RÌNH

Rập rình, như chư “Dập dềnh”, là từ diễn ta dáng chuyển động lên xuống nhịp nhàng.

Như: Ngồi rập rình trên lưng ngựa, con thuyền rập rình trôi trên sông.

Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,

Bằng địa sóng xao khiến rập rình.

(Đạo Sử).

 

 

RÂU

Râu là lông mọc phía trên môi và ở dưới cằm của người đàn ông.

Như: Râu mép, râu ông nọ cắm cằm bà kia.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Từ đó Tào Tháo chí công mua lòng Ðức Ngài Quan Thánh hơn nữa: Như may đai gấm để bọc râu cho Ðức Ngài, khi hội yến thì nhường cho Ðức Ngài ngồi trên như bậc thượng khách, khi Ðức Ngài lên ngựa thì thưởng vàng, xuống ngựa lại thưởng bạc, cố ý làm cho Ðức Ngài cảm động hầu lưu Ðức Ngài ở luôn với mình.

Mày râu đã đủ phận cùng người,

Biết Ðạo thì con chớ dể ngươi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trước thềm có lão ưa nương gậy,

Bên cạnh thêm người đứng vuốt râu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Hễ muốn trọn căn phần hữu phước,

Rán làm tề để được một chòm râu.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RÂU MÀY

Râu: Lông mọc ở cằm, ở mép. Mày: Hàng lông mọc trên mắt.

Râu mày, bởi chữ “Tu my 鬚 眉”, là râu và lông mày, dùng để chỉ người đàn ông, hoặc chỉ cương vị hay thân phận của người đàn ông con trai.

Râu mày dầu khác bậc quần thoa,

Là biết từ tâm với phụ tề.

(Bát Nương Giáng Bút).

Khổ hạnh đâu long lòng sắt đá?

Nhục vinh chả hổ phận râu mày.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

RẦU

Rầu là buồn phiền trong lòng. Rầu còn có nghĩa là héo úa, hư hại. Như: Ngồi rầu cả ngày, hoa rầu.

Thánh giáo Thầy có câu: Nhưng than ôi! Bầy quỷ rất hung hăng, một con sâu làm rầu cả mùa màng, vì vậy mà con đường của các con bị linh chinh vì nơi hành động của một hai kẻ có trách nhậm xứng đáng.

Trông thu rầu nhớ thân con,

Thu ơi! Thu biết hao mòn tấm duyên?

(Nữ Trung Tùng Phận).

Làm như người trong dạ ngậm ngùi,

Rầu con dốt lo nuôi uổng gạo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RẦU BUỒN

Rầu: Buồn trong lòng. Buồn: Có tâm trạng không vui, không thích thú của người gặp việc đau thương.

Rầu buồn là có tâm trạng buồn và rầu rĩ.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có dạy: Con khá an lòng chờ đợi, Thầy sắp đặt Nữ phái, công con Thầy chẳng quên, con chớ rầu buồn. Thầy còn lắm điều sắp đặt, con đừng vội mà ngã lòng nghe à.

Quyền con cũng lớn cửa nhà Thầy,

Những việc rầu buồn khá bỏ khuây.

(Đạo Sử).

Cơn bịnh hoạn ân cần thang thuốc,

Khi rầu buồn dịu ngọt khuyên lơn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RẦU RĨ

Rầu: Buồn phiền trong lòng.

Rầu rĩ là nhìn bên ngoài biểu lộ tâm trạng buồn bã, đau khổ.

Như: Nét mặt rầu rĩ suốt ngày, hắn kể chuyện với giọng rầu rĩ.

Nỗi đau đớn hình thù tiều tụy,

Nỗi nhớ nhung rầu rĩ ái hoài.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

là phát ra tiếng kêu to, rít lên đột ngột, nghe chói tai. Như; Con nít khóc ré, tiếng còi ré lên.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Mấy vị Công Hầu ở đó trước hai tháng rồi, có hỏi Ðức Dalai Lama: Chí Tôn đến cách nào và hình thể Người ra sao? Trả lời: Các Ngài muốn biết cứ đợi đến chừng đó sẽ thấy, chỉ xin căn dặn các Ngài một điều là chung quanh Ðền Thánh có treo những Thanh Chung, chừng nào những Thanh Chung đó lên một lượt là Chí Tôn đến vậy.

Mình ra có quân hô tướng ,

Nhớ lúc cha ké né cửa nha môn.

(Phương Tu Đại Đạo).

Đừng để con quen thói giận hờn,

Vừa khóc khuyên lơn bồng dỗ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

là có lẫn tiếng rung của những âm pha tạp, nghe không trong. Như: Chuông rè, tiếng loa bị rè.

Rè là toè, không còn sắc, nhọn, gọn nét như ban đầu nữa. Như: Ngọn viết bị rè.

Vừa viết tới đây tay vọp bẻ,

Ngòi viết khó vẽ nên điều.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RẺ

1.- Rẻ là nhẹ giá, có giá thấp hơn mức bình thường. Như: Mua rẻ bán đắt, lúa gạo mùa nầy rẻ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ngày nay người ta dùng Âm Nhạc làm công cụ cho chủ nghĩa con buôn trên sân khấu, khiến nên nhà nhạc sĩ vì kế sinh nhai phải bán rẻ tài nghệ làm cho cái giá trị của Quốc nhạc phải bị hạ thấp đến cực điểm.

Ðạo đức cũng như mua buổi chợ,

Dở ngon mắc rẻ miệng mình nài.

(Đạo Sử).

Đến ăn uống cũng mua vật rẻ,

Cho đặng nhiều lại nhẹ đồng tiền.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Rẻ, theo nghĩa bóng là coi không có giá trị gì. Như: Coi rẻ, rẻ rúng, đừng khi rẻ nhà nghèo.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Có một điều Bần Đạo dặn trước: Những kẻ tưởng Ngài vô hình coi chừng Ngài, những kẻ thiếu đức tin dám khi rẻ quyền lịnh của Đạo, oai quyền của Ngài coi chừng Ngài trừng trị, những kẻ nào phạm nhầm Thiên Điều Bần Đạo dám quả quyết khó tránh nơi tay của Ngài.

Lộc thế rẻ mùi chê mặn lạt,

Ơn Trời nên phận gắng đua tranh.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

RẺ KHINH

Rẻ: Không có giá trị bao nhiêu. Khinh: Cho là không có giá trị gì đáng phải coi trọng.

Rẻ khinh, như chữ “Khinh rẻ”, là khinh khi và coi rẻ. Như: Tánh nó thấy ai nghèo thường hay rẻ khinh.

Lễ nghi khá giữ nét nhà mình,

Xấu hổ chi chi lại rẻ khinh.

(Đạo Sử).

Hễ thất nghĩa rẻ khinh kim cải,

Khó tưới hoa trở lại thanh tươi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RẺ RÚNG

Rẻ: Nhẹ giá, không có giá trị gì.

Rẻ rúng là không chăm sóc tới và có ý bạc đãi.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Thái Bạch hằng giận các con rằng, mọi điều chi nó đã hiệp đồng cùng Hộ Pháp mà ban hành thì các con lại còn khi lịnh mà xem rẻ rúng.

Vì đức chẳng dồi lo chút Ðạo,

Mà ra rẻ rúng cái nhơn tài.

(Đạo Sử).

Luật Đạo lại có lời rẻ rúng,

Phép nghiêm làm lợi dụng mưu gian.

(Bát Nương Giáng Bút).

Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học,

Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RẼ

Rẽ là chia hai ra, tách đôi ra. Như: Rẽ đường, rẽ phân, rẽ duyên.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tại sao có cái chung họp đương nhiên bây giờ? Các con cũng đã ngó thấy, vì một điều không có đồng chánh kiến mà nhơn loại đã phân rẽ nhau, thù nghịch lẫn nhau.

Rẽ lối non sông thấy Ðộng đào,

Bừng con mắt tỉnh giấc chiêm bao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,

Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

RẼ PHÂN

Rẽ: Tách ra thành hai phần. Phân: Chia ra.

Rẽ phân, như chữ “Phân rẽ”, là chia cắt nhau ra, mỗi người một nơi, cách biệt hẳn.

Rẽ phân còn có nghĩa làm cho mâu thuẫn lẫn nhau, mất sự thống nhất, nhất trí.

Rẽ phân cốt nhục đồng bào,

Cảnh Thiên cõi tục lẽ nào không thương.

(Kinh Thế Đạo).

Điềm phúc ứng dê xanh qua cửa,

Bỗng rẽ phân hai ngả Sâm thương.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

RÈM

Rèm là vật hình tấm, đan bằng tre, nứa, hoặc bằng vải dùng để treo trước cửa nhà che sương, nắng.

Như: Rèm trúc, rèm châu, rèm gió, bức rèm tương, ngoài cửa rèm che sáo phủ.

Cung Diệt Bửu ngọc rèm đã xủ,

Nghiệp hữu hình tượng đủ vô vi.

(Kinh Tận Độ).

Rèm gió đêm trăng bóng rạng thinh,

Nghêu ngao non Túy thú riêng mình.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

RÈM CHÂU

Rèm: Vật đan bằng tre, trúc, dùng để treo trước cửa nhà. Châu: Hạt châu ngọc.

Rèm châu, bởi chữ “Châu liêm 珠 簾”, tức là tấm rèm được kết bằng hạt châu, ngọc.

Như: Cuốn bức rèm châu.

Rỡ rỡ sen đưa gót ngọc,

Dịu dàng tay hé rèm châu.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

RÈM LÀ

Rèm: Một tấm màn bằng gấm, lụa hay kết bằng tre dùng để treo trước cửa buồng hoặc cửa sổ. Là: Lụa, nên thường nói lụa là.

Rèm là tức một tấm rèm làm bằng lụa là.

Đừng cho nhiễm lấm thân thục nữ,

Chốn phòng the cứ xủ rèm là.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RÈN

1.- Rèn là dập khối kim loại như sắt, thép đã nung mềm thành đồ dùng.

Như: Ống bễ lò rèn, thợ rèn không dao ăn trầu, rèn búa bửa củi.

Chồng có tài theo phía thợ rèn,

Vợ phải tập cho quen thổi bễ.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Rèn là luyện tập, tập cho những đức tính tốt cho thuần thục, thành thói quen. Như: Rèn nhân cách.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Nếu bỏ Tâm kia ra ngoài mà rèn hình thể thì chẳng khác chi quỳ đọc kinh, đèn đốt đỏ hừng, mà thiếu bức Thiên Nhãn trên điện vậy.

Ðai mão chưa quen đường hoạn lộ,

Công linh rèn dạ lắm công phu.

(Đạo Sử).

 

 

RÈN LÒNG

Rèn: Luyện tập. Lòng: Lòng dạ.

Rèn lòng, như chữ “Luyện tâm 鍊 心”, trau dồi tâm tánh cho thiện lương, thanh tịnh. Như: Rèn lòng sửa nết.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Bến khổ đường mê vẫn cứ tìm vào mà làm cho biển trần chẳng biết bao nhiêu chìm đắm. Ðạo đức chẳng rèn lòng mà tội tình càng chác lấy.

Vun nền đạo hạnh khá rèn lòng,

Gặp hội đành vui chữ sắc không.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Một nét vạy tà Thần Thánh chép,

Rèn lòng trong sạch thoát mê tân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RÈN LÒNG SỬA NẾT

Rèn lòng: Do chữ luyện tâm 鍊 心 là trau dồi tâm cho thiện lương, thanh tịnh. Sửa nết: Do chữ tu tánh 修 性 là trau dồi tánh nết.

Rèn lòng sửa nết, như chữ “Trau tâm sửa tánh”, tức là trau dồi tâm tánh thiện lương.

Giữ cho trong sạch linh hồn,

Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.

(Kinh Sám Hối).

Hễ là niệm Phật tụng kinh,

Rèn lòng sửa nết khá in như nguyền.

(Kinh Sám Hối).

Chúng sanh cảm đức cao sâu,

Rèn lòng, sửa nết, lo âu làm lành.

(Xưng Tụng Công Đức).

 

 

RÈN TRAU

Rèn: Luyện tập. Trau: Chuốt, làm cho tốt, đẹp.

Rèn trau là luyện tập nhiều trong thực tế để đạt tới những phẩm chất tốt hay trình độ vững vàng thông thạo.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Rèn trau cho thuần tâm mỹ tánh, rồi mới lần đến bề ngoài, trọn hết cả ngoài trong, thì chừng ấy thân hình tâm trí chắc khư, nào ai chuyển lay cho được.

Có thương chúng ta mới phục vụ cho nhơn sanh, mới vùi thân khổ hạnh để rèn trau đức tính dìu dắt nâng đỡ lẫn nhau.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

REO

1.- Reo là cất tiếng kêu lên. Như: Chuông reo, tiếng hạc reo vang, non Kỳ reo tiếng phụng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Giữa thế kỷ 20 nầy, tâm lý nhơn sanh thất đạo, đem một cái hoà bình nêu cao lên làm trung tâm điểm cho tinh thần đạo đức nơi cõi Á Ðông, đã mỏi tay gióng trống Lôi Âm, reo chuông Bạch Ngọc, mà nhơn loại giả vờ điếc đui không biết cơ quan cứu thế là gì hết.

Thanh Minh trong tiết vườn xuân,

Phụng chầu, hạc múa, gà rừng gáy reo.

(Bài Trời Còn).

Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,

Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Reo là hô vang để tỏ ý vui mừng, phấn khởi.

Như: Quân reo khi thắng trận, reo lên sung sướng, mừng quá nên reo hò.

Vui có kẻ đùa vui đậm nét,

Mừng có người miệng hét reo mừng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

REO CƯỜI

Reo: Hô vang để tỏ ý vui mừng, phấn khởi. Cười: Nhếch môi hé miệng lộ sự vui vẻ.

Reo cười là cười vang lên để tỏ sự thích chí, vui mừng, phấn khởi.

Như: Nó chạy nhảy reo cười sung sướng, mừng quá thằng bé bỗng reo cười.

Quỷ giải Âm ty thì rống khóc,

Thần dìu Tiên cảnh lại reo cười.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RÉO RẮT

Réo rắt là âm thanh cao và trong, lúc to lúc nhỏ, lúc nhanh lúc chậm, nghe êm tai.

Như: Tiếng đàn réo rắt trong đêm, tiếng sáo réo rắt từ xa vọng lại.

Trống cổ động ầm ầm réo rắt,

Chuông hô hào nhặt nhặt vang rân.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

RỂ

Rể là người chồng của con gái mình. Như: Kén rể, làm rể, rể đông sàng, anh rể, em rể.

Ca dao ta có câu: Con bà có thương bà đâu, Để cho chàng rể, nàng dâu nó vì.

Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Đương môn, đối hộ là một điều tốt, nhưng nó đứng vào hàng thứ nhì, duy có điều: Chọn dâu, chọn rể kia, mới thật là trọng yếu.

Dầu rể thương còn bụng chị sui,

Để dạ ghét nặng lời hiếp đáp.

(Phương Tu Đại Đạo).

Anh rể thường ít dối ít thừa,

Thương kỉnh phục nên chừa không dể mặt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỂ ĐÔNG SÀNG

Rể: Chồng của con gái mình. Đông sàng 東 床: giường phía đông, chỉ chàng rể.

Do tích Vương Đạo có dạy một số học trò, trong đó có Vương Hy Chi, một nhà thơ, một học trò giỏi và người viết chữ đẹp nhứt trong thiên hạ.

Quan Thái uý Khước Giám muốn tìm một người để làm rể, bèn sai người qua nhà Vương Đạo để chọn. Người nào cũng ăn mặc đẹp đẽ để giành làm rể, duy chỉ có Vương Hy Chi là không thèm để ý đến, nằm tréo chân ở giường phía đông.

Khước Giám nghe chuyện, bèn nói: Người ấy mới đáng là rể của ta.

Trông gặp rể đông sàng biết phải,

Bên nhạc gia cũng lạy mà dâng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỄ

Rễ là bộ phận của cây, thường đâm sâu xuống đất, giữ cho cây đứng thẳng và hút chất dinh dưỡng nuôi cây.

Như: Rễ cây, gốc rễ, cội rễ.

Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong quyển Giáo Lý có viết: Nhưng còn phải tiến nữa, còn phải thực hành phép Định huệ để thâm nhập vào nội giới tâm linh, bứng gốc, bứng rễ những tật hư, nết xấu, ác căn, tà kiến còn ẩn núp trong chỗ sâu kín.

Mỗi Giáo Hữu ít nữa phải thông cội rễ nền Ðạo, chúng nó phải năng tìm biết Thánh Ngôn của Thầy đã dạy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

RÊN LA

Rên: Than với lời biểu lộ sự đau đớn, kêu ca, than van. La: Tiếng kêu lớn, rầy mắng.

Rên la là vừa rên xiết vừa kêu la vì thân bị quá đau đớn, hay khổ sở.

Như: Nó nằm trên giường rên la suốt ngày.

Ngày sau đoạ chốn âm ty,

Gông kềm khảo kẹp ích gì rên la.

(Kinh Sám Hối).

Khi anh sặc sỡ đẹp trai,

Thì anh nên nhớ những ngày rên la.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

RÊN XIẾT

Rên: Phát ra những tiếng than với giọng run, biểu lộ sự đau đớn, khổ sở.

Rên xiết là than thở một cách ai oán vì bị đau khổ, bị đè nén, áp bức không chịu đựng nổi. Như: Người dân rên xiết dưới sự kềm kẹp.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ta có đem công quả để chuộc các điều lầm lỗi của Ta trong đời sống hiện tại chưa? Tự hỏi lấy mình rồi, nếu là người biết phục thiện, có công tâm đối với nghĩa vụ, tất nhiên phải xung xăng bước tới trên đường lập vị, không còn chần chờ nữa, vì ngày tháng sẽ thoát qua và sẽ bỏ rơi ta lại với một mớ tuổi chập chồng với một thân hình gầy yếu và một sự rên xiết đau thương.

Thành Uổng tử cheo leo gớm ghiếc,

Cầm hồn oan rên xiết khóc than.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RỀN

Rền là tiếng trầm và vang dậy từng hồi đều đều, liên tục không dứt.

Như: Năm Mậu Thân súng nổ rền khắp mọi nơi trong nước, pháo rền suốt mấy ngày tết.

Pháo nổ lân chơi miền Bắc địa,

Sấm rền cù dậy cõi Đông dương.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

RÊU

Rêu là thứ rong rất nhỏ, thường sinh ra nơi ẩm ướt, mọc bám vào vật khác.

Như: Rong rêu, chân thềm mọc rêu, rêu phong dấu tiều, sân rêu tường mốc.

Trước ngõ sân Trình rêu lấp dấu,

Nay mừng cửa Khổng gió đưa hương.

(Thơ Chơn Tâm).

Phòng tía nào khi loan phượng chạ,

Suối vàng này lúc mộ rêu in.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

RÊU PHONG

Rêu: Loài rong cỏ rất nhỏ, mọc ở chỗ ẩm ướt lầy lội, bám vào vật khác. Phong: Gói bọc, đóng kín.

Rêu phong là rong rêu bọc kính, đóng kính.

Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: Xập xè én liệng lầu không, Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.

Rêu phong ngõ hạnh sầu hoa cỏ,

Nhạn chích phương trời quạnh nước non.

(Thơ Tùng Chơn).

 

 

RỈ RẢ

Rỉ rả là không ngớt, không thôi, tức tiếng gợi tả những âm thanh không to, không cao, lập đi lập lại cách quảng nhưng đều đều và kéo dài như không dứt.

Rỉ rả còn có nghĩa là chậm chậm và kéo dài.

Như: Mưa rỉ rả suốt đêm, Giọt châu rỉ rả, Ăn uống rỉ rả cả ngày.

Kìa oan ương ấp nhau chẳng hở,

Nọ én anh rỉ rả kêu thương.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Bên tai rỉ rả dế tường kêu,

Nhớ bạn đài mây, ruột chín chiều.

(Thơ Hương Hiếu).

Phước Thiện chạnh lòng châu rỉ rả,

Cửu Trùng xót dạ lệ tròng nghiêng.

(Thơ Mai Ngọc Nhiễu).

 

 

RIA

1.- Ria là lia, ném rơi rộng ra, vãi thành hình rẻ quạt.

Như: Đổ giọt châu ria, ria lúa cho gà ăn, bắn ria một loạt đạn thì chết hết.

Thương mưa đổ giọt châu ria,

Cỏ cây nhờ nước chan bìa dầm xuân.

(Thất Nương Giáng Bút).

2.- Ria là râu mọc ở hai bên mép.

Như: Râu ria, râu nó cạo hết nhưng chừa ria mép, nó chừa bộ ria nên nói chuyện thấy có duyên.

Chớ đừng tưởng nói tu cho chính là phải để râu ria xồm xàm mà đạo đức huyền bí thì không có,...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

RỈA

Rỉa là dùng miệng hoặc mỏ để mổ rứt dần từng miếng nhỏ một.

Như: Rút rỉa, Gà rỉa bông lúa, cua kình rỉa thây, cá rỉa mồi, chim rỉa mãng cầu.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người thanh bần như vậy thì vui sướng hơn kẻ giàu mà sâu mọt, lường công tham của, thâu đa nạp thiểu, hoặc lợi dụng quyền thế để rút rỉa dân nghèo khép chặt cửa công, mở rộng cửa tư để dục vọng được thoả mãn.

Hụt chơn ván lại gập ghình,

Nhào đầu xuống đó cua kình rỉa thây.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RIÊNG

1.- Riêng là thuộc về của mình, trái với chung.

Như: Hai người đứng nói chuyện riêng, của làm riêng, làm việc riêng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Thầy dặn các con một điều, nhứt nhứt đều đợi lịnh Thầy, chẳng nên lấy tứ riêng mà phán đoán chi hết.

Một Trời một Ðất một nhà riêng,

Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðau khổ rán gìn nhơn nghĩa vẹn,

Tang thương chờ hưởng huệ ân riêng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Riêng là có tính chất phân biệt, tách khỏi cái chung, không chung lộn.

Như: Để riêng, ra riêng, làm riêng, xét riêng từng trường hợp.

Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có đoạn dạy: Toà Thánh là gốc cội của Ðạo. Nếu muốn lập công nơi đó, vì Thầy đã dạy, thì nên làm đi. Cách xây đổi phương lược tuỳ cơ ứng biến. Ấy là cơ nghiệp riêng của mỗi đạo hữu, Bần Đạo không dám dạy. Nếu chờ thì phải trễ chăng?

Còn gánh đồ thơ tua vẹn giữ,

Dứt dây oan trái chớ riêng thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðã chẳng phải duyên không phải nợ,

Can chi con buộc tấm tình riêng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cũng có ngày con phải ra riêng,

Lo học tập cho yêu nghề nội trợ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RIÊNG BIỆT

Riêng: Có tính chất tách biệt, tách khỏi cái chung. Biệt: Chia ra, riêng.

Riêng biệt là tách biệt riêng ra một mình, không giống, không quan hệ với những cái khác cùng loại.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trong lúc người ta chực chờ cấu xé nhau, giết hại nhau đề tranh giành lợi lộc, chúng ta lại may mắn được che chở dưới bóng từ bi, được sống một đời an vui thanh đạm. Chúng ta nên coi đó là một ân huệ tối cao của Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu đã ban thưởng riêng biệt cho chúng ta.

Một đàn cơ riêng biệt ít khi được thiết lập cho ai, mặc dầu lời thỉnh nguyện có quan hệ cách mấy đi nữa cũng không đặng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

RIÊNG TƯ

Riêng: Thuộc về của mình mà thôi. Tư: riêng, tây.

Riêng tư là riêng của cá nhân.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Khoát vào mình cái áo Ðạo chỉ vì mục đích riêng tư, những phần tử đáng thương hại đó toan che mắt bề trên, lừa dối thiên hạ, có khi chạy theo phe nầy nhóm kia, làm tay sai cho thế lực kim tiền, lợi dụng danh Ðạo, họ ví lời minh thệ trước Thiên bàn như một món đồ chơi, muốn ném vào xó nhà lúc nào cũng được.

Cho nên không người nào giống tánh chất người nào, mỗi chơn linh có địa vị riêng tư của mình, địa vị ấy tạo thành do phương tu của mỗi người đạt đặng.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

RINH

Rinh là mang đi nơi khác.

Như: Rinh thúng lúa đi, rinh chồng quần áo, rinh máy truyền hình đi sửa.

Chồng hoang đàng cũng cứ làm thinh,

Chờ gặp dịp cho rinh ống xoáy.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RÌNH

Rình là nấp để coi chừng, tức quan sát một cách kín đáo để theo dõi từng động tác, từng hoạt động.

Như: Kẻ trộm rình nhà, mèo rình chuột, rình bắt kẻ gian, rình nghe lén.

Thà cầm đèn thủ tiết tàn canh,

Hơn thụt ló như mèo rình ăn vụng.

(Phương Tu Đại Đạo).

Mỗi bước đường đi cũng theo rình,

Ghen nói bướng người khinh thêm khó chịu.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỊT

Rịt là không chịu buông, không chịu rời ra.

Như: Ôm rịt lấy tên trộm không chịu buông, rịt gói đồ vào yên xe, ràng rịt.

Thanh tịnh ít người toan định tỉnh,

Công danh ràng rịt cột chôn chơn.

(Đạo Sử).

Một làn ác khí bao ràng rịt,

Muôn xác tinh ma nhảy dập dìu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RÍU RÍT

Ríu rít có nghĩa là tiếng nói liền miệng, vui vẻ, không phân minh. Như: Bầy trẻ ríu rít đến trường.

Ríu rít còn là từ mô phỏng những âm thanh cao, trong và tiếp liền nhau. Như: Tiếng chim kêu ríu rít.

Bầy én dập dìu mừng ríu rít,

Khóm tòng tha thướt vẻ đoan trang.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

RÌU BÚA

Rìu: Búa lớn, cán dài dùng để đẽo gỗ. Búa: Dụng cụ dùng để đóng đinh, hoặc bửa củi.

1.- Rìu búa, như chữ “Búa rìu”, là cây rìu và cây búa.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lời tục có nói: Một kẻ nói ngang ba làng nói không lại, mà hễ ai nói ngược lại thì rút rìu búa ra doạ nạt thiên hạ. Đó là một điều người quân tử gớm ghiết hơn hết.

Lão tiều thích thú chốn rừng xanh,

Rìu búa tri âm lực sĩ thành.

(Thơ Hương Cường).

2.- Rìu búa còn dùng để ví với sự phê phán nặng nề, nghiêm khắc.

Như: Rìu búa dư luận.

Rừng tòng phủi sạch điều hơn thiệt,

Rìu búa chi màng cảnh được thua.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

RO RE

Ro re, như chữ “Róc rách”, là tiếng dùng để diễn tả âm thanh của nước chảy liên tiếp và đều đều.

Như: Tiếng suối chảy ro re, nước chảy theo kẹt đá ro re không ngừng.

Đầu gành lăn líu chim ca hát,

Kẹt đá ro re suối khảy đờn.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

là tỏ tường, minh bạch. Như: Thấy rõ, nghe rõ, tỏ rõ, làm cho rõ.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy. Phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe! Các con giữ phận làm tuỳ ý Thầy muốn, ngày kia sẽ thấu ý muốn của Thầy.

Dò đon cho nẻo Thiên thai,

Cái tiếng tài khen chẳng phải tài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chưa nay còn tìm tỏi đến,

Ðến nơi cửa Phật biết rồi chưa?

(Đạo Sử).

 

 

RÕ RÀNG

Rõ: Biết tường tận, cụ thể. Ràng: Ràng ràng, rất rõ.

Rõ ràng là rất rõ đến mức ai cũng có thể nhận biết được một cách dễ dàng.

Dạy Ngài Thái Bính Thanh về Quả Càn Khôn, Thánh giáo Chí Tôn có câu: Con giở sách Thiên văn tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Ðẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Ðẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Ðẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu chăng?

Đài Chiếu giám cảnh minh nhẹ bước,

Xem rõ ràng tội phước căn sinh.

(Kinh Tận Độ).

Dưới mắt rõ ràng trăm phép lạ,

Nào ai chối đặng một Thiên quyền.

(Đạo Sử).

 

 

RÕ RỆT

Rõ: Biết tường tận, cụ thể.

Rõ rệt là rõ đến mức có những biểu hiện cụ thể, nhận thấy được một cách dễ dàng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Bởi vậy trong buổi loạn Ðạo người nầy, người nọ tìm đủ phương thế diệt trừ đảng phái. Bần Ðạo đã nhận định được nên mới biểu họ cứ việc làm đi, rồi sẽ thấy cái ngày của sự chơn giả xuất hiện. Tấn tuồng đó đã rõ rệt lắm, Bần Ðạo nói thật rằng: Năng lực mà họ đem ra ngày nay thi thố với Toà Thánh, ngày kia mấy em và mấy con sẽ đắc thắng.

Trong việc tu thân, sách Ðại Học vạch ra bốn công tác rõ rệt là: Chính tâm, thành ý, cách vật, trí tri.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

RỌ

Rọ là đồ đan bằng tre, nứa, dùng để đánh bẫy hay nhốt súc vật khi vận chuyển.

Như: Rọ bẫy nai, rọ cá, bắt lợn nhốt vào rọ.

Chờ gặp cơn hoa cợt đài trăng,

Bủa lưới bắt ả Hằng đem nhốt rọ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

ROI

1.- Roi là vật hình que dài, nhỏ bằng mây hoặc bằng da, dùng để đánh phạt người có lỗi.

Như: Đánh bằng roi mây, thương cho roi cho vọt, quất cho mấy roi chạy dài.

Cậy kẻ dạy con cũng lẽ thường,

Cho roi cho vọt mới là thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bà rút roi giả bộ theo ôm,

Đưa cán quạt cho bà đơm ít phát.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Roi còn có nghĩa là lưu lại, truyền lại, noi theo.

Như: Gương của tiền nhân roi lại cho hậu thế, roi dấu người xưa, roi truyền cho con cháu.

Ðộ đời quyết lánh vòng danh lợi,

Trau chí tìm roi bậc Thánh hiền.

(Thơ Thượng Sanh).

Gắng chí độ đời danh tạc để,

Tận tâm dìu chúng sử truyền roi.

(Thơ Huệ Giác).

Noi gương Thánh đức tiền nhân nối,

Truyền giáo Cao Ðài hậu thế roi.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

ROI BỒ

Roi: Cây dài, và nhỏ dùng để đánh phạt kẻ có tội. Bồ: Cỏ bồ, cỏ lát.

Roi bồ tức là roi bằng cỏ bồ hay cỏ lát.

Do câu “Bồ tiên thị nhục 蒲 鞭 示 辱” nghĩa là dùng roi bồ mà đánh cho biết xấu.

Bởi tích Lưu Khoan, tự là Văn Nhiêu, người xứ Huê Âm đời Đông Hán, làm Thái thú Nam Dương, rất thương dân, mỗi khi dân có lỗi, chỉ dùng cỏ bồ làm roi đánh cho dân biết xấu mà chừa lỗi.

Thánh giáo có giải rằng: Ðời Hớn ông Lưu Khoan lấy đức trị dân, khi dân phạm tội thì đánh bằng cái roi bồ, roi lát để tượng trưng sự răn phạt vậy thôi.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

ROI DẤU

Roi: Lưu lại, để lại. Dấu: Dấu tích, vết tích.

Roi dấu là để lại dấu tích.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là một nền Quốc Ðạo được khai sáng trên đất Nam Phần Việt Nam, nơi mà tinh ba của đất nước đã nung đúc biết bao bậc anh phong chí sĩ, lẽ tất nhiên là Ðại Ðạo có phận sự bảo tồn quốc tuý, giữ cho còn mãi những cái hay, cái đẹp riêng biệt của nước nhà hầu lưu truyền cho đời sau roi dấu.

Mẫn Tử Khiên tích còn roi dấu,

Dẩy xe cha áo xấu mặt dơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Trí thông minh còn roi dấu thơ hương,

miền Bến Nghé trẻ già nào chẳng rõ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

ROI THẦN

Roi: Một cây dài, nhỏ thường bằng mây hoặc da dùng để đánh. Thần: Thiêng liêng, huyền diệu.

Roi Thần là roi thiêng liêng, một trong những bửu pháp của Lôi Bộ, tức những bửu bối của Thần Ngũ Lôi, gồm Búa Thần và Roi Thần.

Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,

Bộ Lôi Công giải tán trược quang.

(Kinh Tận Độ).

 

 

ROI TRUYỀN

Roi: Lưu lại, để lại. Truyền: Chuyển lại, lan rộng cho mọi người biết.

Roi truyền, như chữ “Lưu truyền 流 傳” là truyền lại cho người đời sau.

Viết về ngày quy Thiên của Đức Cao Thượng Phẩm, Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu trong Đạo Sử, có câu: Thợ hồ lo xây Tháp cho Ngài, có gắn cẩm thạch mạ chữ vàng nơi Bửu Tháp Bát Giác; sau lưng có khắc bài kỷ niệm để tỏ dấu cảm hoài và roi truyền hậu thế.

Nước Việt Thường ghi tạc dấu tài lành,

Nòi Hồng Lạc roi truyền gương tiết nghĩa.

(Văn Tế Tiểu Tường).

Vẫy vùng lắm lúc vùi tro bụi,

Nghiệp cả roi truyền mới đến ta.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

ROI VỌT

Roi: Cây dài, và nhỏ dùng để đánh phạt kẻ có tội. Vọt: Đồng nghĩa với chữ roi.

Roi vọt là tiếng nói chung để chỉ cây roi để đánh.

Roi vọt còn dùng để chỉ sự đánh phạt.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thương thì cho roi cho vọt, ghét thì cho ngọt cho bùi”.

Cậy kẻ dạy con cũng lẽ thường,

Cho roi cho vọt mới là thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RỌI

Rọi là soi, hướng luồng ánh sáng chiếu thẳng vào.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Ðài Nghiệt Cảnh là nơi rọi sáng các việc lỗi lầm, bước luân hồi sẽ dẫn vào nơi u khổ cùng sầu mà đoạ đày đời đời kiếp kiếp. Ấy là buổi chung quy của khách trần đó.

Nước dương rưới sạch trần ai cũ,

Bờ giác nương theo nguyệt rọi làu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ác lố rọi tan lằn gió bụi,

Nguyệt lờ soi gượng bước công khanh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RÓN RÉN

Rón rén là từ dùng để gợi tả dáng điệu của động tác, cố làm cho thật nhẹ nhàng, thong thả vì sợ gây tiếng động hoặc vì muốn giữ bí mật.

Ngài Khai Pháp Chơn Quân trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Chính Bần tăng rón rén bước vào Bạch Ngọc Kinh, phải nhờ chơn linh Vi Hộ dẫn tấn. Từ đây mới biết Chí Tôn phần nào và được thấu đáo nhiệm vụ của Thời Quân, chẳng phải nơi thế trần mà còn nơi cõi Thiên nữa.

Rón rén dựa lan can ngồi xuống,

Hỏi sao chàng nỡ phụ cố nhơn.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

Rón rén trước Phật ngồi cúi gật,

Mấy lạy trình mấy nấc tương tư.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RÒNG

Ròng là chảy thành dòng, thành vệt.

Như: Nước mắt tuôn ròng trên má, mồ hôi chảy ròng thấm ướt áo quần.

Hoạ chung khôn thể lường đong,

Thấy vầy Thầy đổ lụy ròng vì con.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

RÓT

Rót là trút chất lỏng chứa trong ấm, trong bình, trong chai ra một vật khác.

Như: Rót nước trà vào chung, lấy chai rót rượu vào ly, rót dầu lửa vào đèn.

Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy: Sơn phải lấy một ly rượu nhỏ, một ly rượu lớn, rót ly nhỏ vào một ly lớn đem lại đây...

Hồ Tiên vội rót tức thì,

Nước Cam Lồ rửa ai bi kiếp người.

(Kinh Tận Độ).

Chung ly biệt con đưa tay rót,

Mối thương tâm chưa ngớt đeo sầu.

(Kinh Thế Đạo).

Bèn đem rượu cúc rót ba tuần,

Rắp mượn bút huê đề nhứt luật.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

RỔ

Rổ là vật đan thưa bằng nan tre, dùng để đựng đồ ăn.

Như: Ra đồng hái một rổ rau, xuống ao xúc một rổ cá, tiệm bán thúng rổ.

Mình mua một trận cười, ngàn bạc đổ,

Nhớ lúc cha đương rổ mẹ nong sàng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỐI

1.- Rối là ở trạng thái bị mắc, vướng vào nhau chằng chịt, khó gỡ. Như: Chỉ rối, tơ rối, đầu bù tóc rối.

Thánh giáo Thầy có dạy: Như kẻ làm quan ỷ quyền hiếp bức dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con có biết vì tại sao chăng?. Tại vô đạo.

Trái oan nào khác mối tơ,

Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.

(Kinh Sám Hối).

Lần lựa chỉ sầu tay gỡ rối,

Trời tây bóng nhựt đã hầu chinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đừng ỷ thế cậy tài dụng sức,

Rối tơ duyên toan bứt cho rồi.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Rối còn có nghĩa là loạn, xáo trộn, không yên. Rối loạn, khuấy rối, gây rối trật tự an ninh.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thương chẳng đặng thấy nên, thì dầu cho các con càng đông lại càng thêm nhiều người làm rối, thêm mối hận để chờ dịp cắn xé nhau chớ chẳng ích chi.

Ngày nay, Lão định trừ diệt quỷ quyền, không cho rối loạn nền Đạo...

(Bát Đạo Nghi Định).

Bôn chôn làm rối mối giềng nhà,

Để ý xem người nhắm lại ta.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

RỐI BÒNG

Rối: Ở trạng thái bị mắc, vướng vào nhau chằng chịt, khó gỡ. Bòng: Như chữ “Bòng bong”, ở tình trạng rối ren.

Rối bòng, như chữ “Rối bòng bong”, là ở tình trạng rất rối ren, lộn xộn, khó giải quyết.

Đôi miền rẽ mộng gan khô héo,

Chín khúc vò tơ ruột rối bòng.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

RỐI BỜI

Rối: Ở trạng thái bị mắc, vướng vào nhau chằng chịt khó gỡ. Bời: Nhiều đến mức ngổn ngang.

Rối bời là rối và bề bộn ngổn ngang, làm cho khó tháo gỡ, hoặc khó sắp xếp, giải quyết.

Như: Ruột gan rối bời, ngồi mà đầu óc rối bời.

Hạ nguơn hầu mãn chạnh cơ đời,

Nhìn buổi loạn ly dạ rối bời.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

RỐI LOẠN

Rối: Lộn lạo, xoắn xít, không yên. Loạn: Không trật tự, lộn xộn, ngổn ngang.

Rối loạn là không yên ổn.

Thánh giáo Thầy có dạy: Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Còn cả môn đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe lập đảng, nhược kẻ nào phạm tội thì Thầy trục xuất ra ngoài cho khỏi điều rối loạn.

Nước không Ðạo quân thần rối loạn,

Mới nảy ra phe đảng chiến tranh,

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

RỐI NÙI

Rối: Ở trạng thái bị mắc, vướng vào nhau chằng chịt khó gỡ. Nùi: Nắm, như nắm rơm, giẻ, giấy vò lại với nhau.

1.- Rối nùi là nói vật bị rối bung ra thành nùi, không thể gỡ được.

Như: Chỉ bị rối nùi khó tháo ra được, tóc không chải thường bị rối nùi, ruột rối nùi.

Sầu dài ngày vắn dễ chi vui,

Toan tính thâu đêm ruột rối nùi.

(Thơ Huệ Giác).

2.- Rối nùi còn có nghĩa là gặp sự rắc rối, trở ngại khó mà có thể giải quyết xong được.

Như: Việc sản xuất từng khâu bị rối nùi thì làm sao tăng gia sản xuất được.

Gỡ xong thế cuộc rối nùi,

Trăng thanh gió mát là mùi thanh tao.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

RỐI RẮM

Rối: Ở trạng thái bị mắc, vướng vào nhau chằng chịt khó gỡ.

Rối rắm, như chữ “Rối beng”, là lộn xộn, không rõ ràng, khó giải quyết, khó yên ổn được.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Con đã để hết tấc thành vào Ðạo, thế mà cũng khó gỡ sự rối rắm ấy được, buộc Thầy phú rủi may của chúng nó cho Toà Tam Giáo định liệu.

Nơi đâu mà rối rắm như vầy,

Bởi đó nên Thầy mới đến đây.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Cái bả vinh huê đời rối rắm,

Nguồn đào thong thả đã là đâu?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RỒI

1.- Rồi là xong. Như: Việc đã rồi, nhiệm vụ chưa rồi, công việc ấy rồi chưa?

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Mỗi bậc phẩm đều đặng một vai tuồng của Ðấng cầm quyền thế giới ban cho, dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách nhậm, hầu buổi chung cuộc, hồn lìa cõi trần, đặng đến nơi khởi hành mà phục hồi công cán.

Lợi lộc xôn xao rồi một kiếp,

Nghĩa nhơn tích trữ để muôn đời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Rồi, khi đứng sau tiếng động từ thì chỉ việc đã qua hẳn. Như: Ăn rồi, uống rồi, làm rồi, hắn đi rồi.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chí Tôn đến mới nói đại đồng thế giới đã làm rồi, nhưng không thành, Chí Tôn đến làm cho thành, đem nhơn loại quy một bổn nên mở Ðạo Cao Ðài làm nguồn cội.

Cao sâu đã hiểu cuộc trần hoàn,

Có nợ trả rồi chớ thở than.

(Đạo Sử).

3.- Rồi, khi đứng trước tiếng động từ hay một tiếng khác thì chỉ việc sẽ đến. Như: Rồi sẽ liệu, rồi về nhà sau, rồi hãy hay.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy lại thấy nhiều đứa chưa hiểu thấu huyền diệu là gì, bị người chê, rồi về còn biếm nhẻ nữa. Phải nghịch chánh lý chăng?

Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,

Chủ quyền Chơn đạo một mình Ta.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Giành giựt mà chi rồi phủi sạch,

Tuồng đời nhìn thấy những đau lòng.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

RỖI

1.- Rỗi là nhàn, rảnh rang, thong thả, tức ở trạng thái không có việc phải làm.

Như: Tranh thủ lúc rỗi đọc sách, nay rỗi việc nghỉ xả hơi, gởi tiết kiệm số tiền để rỗi.

Cửa Ðạo gay go trường khổ hạnh,

Ðường Tiên nhàn rỗi bước thong dong.

(Đầu Sư Hương Hiếu).

2.- Rỗi là linh hồn được cứu vớt khỏi mọi sự ràng buộc tội lỗi, được giải thoát.

Như: Nhờ tu linh hồn mới được cứu rỗi, tụng kinh siêu rỗi cho các chơn linh chiến sĩ.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy vì thương nhơn loại, muốn cứu hết nên thường thâu thập nhiều đứa vô tâm, cũng muốn cho chúng nó ăn năn chừa lỗi, ngõ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao mong rỗi đặng.

Thầy vì thương mến đến trần gian,

Độ rỗi chúng sanh chẳng mấy ngàn.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

 

 

RỖI RẢNH

Rỗi: Rảnh rang, thong thả. Rảnh: Hết bận, ở trạng thái không có việc gì thúc bách phải làm ngay.

Rỗi rảnh, như chữ “Rảnh rỗi”, là ở tình trạng không bận bịu hoặc không có việc gì thúc bách phải làm ngay.

Như: Những khi rỗi rảnh ngồi ôn lại kỷ niệm xưa.

Một bầu hy vọng đã đầy,

Chờ ngày rỗi rảnh đi ngay một đường.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

RỐN

Rốn là cố kéo dài thêm một ít thời gian nữa. Như: Rốn lại ít phút để nghe dứt câu chuyện, sống rốn.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ðã từng chịu phong ba bão tố, bị chìm đắm mà chúng ta còn sống rốn nơi đây (rescapé) tức là Chí Tôn dành để lại hột giống lành để làm căn bản cho cội hạnh phúc hoà bình đại đồng thế giới thì sự ưu ái nhau rất nồng nàn hơn tình cốt nhục.

Thấy xuân đến vẻ hồng khắp chốn,

Nương con thơ sống rốn cùng xuân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RỔN

Rổn là từ mô phỏng tiếng va chạm của những vật cứng, như sành sứ, thuỷ tinh.

Như: Thằng nhỏ bưng làm rổn một cái không còn chén ăn cơm, tiếng rửa chén khua rổn rổn.

Binh khí quanh mình khua rổn rổn,

Mỗi viên hầu hạ một vài trai.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RỘN

Rộn là chộn rộn, quấy rầy, gây rối, bận tâm cho người khác.

Như: Nó có tật hay làm rộn chớ đâu thèm khát gì, làm rộn công việc mọi người,

Chanh ranh làm rộn đến người mời,

Chẳng biết phận mình chịu tả tơi.

(Đạo Sử).

Tay trượng phu cầm mảnh má đào,

Tranh vai kép vai đào chi cho rộn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỘN RÃ

Rộn rã là nhiều âm thanh sôi nổi, nhiều lời bàn tán vui vẻ và liên tiếp.

Như: Tiếng đồn đại rộn rã cả xóm, tiếng đàn giọng hát rộn rã tưng bừng.

Mười bảy tuổi cả làng rộn rã,

Những bao năm bươn bã học hành.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

RỘN RÀNG

Rộn: Rối rít, ồn ào.

1.- Rộn ràng là lăng xăng, tức có sự tác động của nhiều hình ảnh, âm thanh hay màu sắc.

Như: Vẻ rộn ràng của khách qua đường, người và xe đi lại rộn ràng, khúc nhạc vang lên rộn ràng.

Lừa lọc lắm phen tìm cảnh quý,

Rộn ràng nhiều buổi kiếm đường mây.

(Đạo Sử).

Phồn hoa xa mã rộn ràng,

Vinh vinh nhục nhục dẫy tràn kiếp căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Rộn ràng còn nghĩa là có nhiều cảm xúc vui mừng dậy lên trong lòng.

Như: Niềm vui rộn ràng, thấy con học giỏi lòng thấy rộn ràng yêu thương.

Vào chùa trí tịnh tâm nhàn,

Dứt đường danh lợi rộn ràng niềm vui.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

RỘN RỊP

Rộn: Rối rít, tức âm thanh nổi lên liên tiếp, sôi nổi.

Rộn rịp, như chữ “Nhộn nhịp”, là từ gợi tả không khí đông vui, tấp nập, do có nhiều người qua lại hoặc cùng tham gia hoạt động.

Như: Xe tàu qua lại rộn rịp, tết đến thôn xóm rộn rịp người thưởng xuân.

Mỗi độ xuân về thay sắc đẹp,

Mừng xuân rộn rịp khắp nơi nơi.

(Thơ Từ Huệ).

 

 

RỘN RỰC

Rộn: Rối rít, ồn ào.

Rộn rực là ở trạng thái có những cảm xúc, tình cảm làm xao xuyến trong lòng, như có cái gì thôi thúc trong lòng không yên.

Rộn rực, như chữ “xôn xao”, dùng để chỉ sự rộn rịp, ồn ào.

Như: Lòng rộn rực chờ mong, chim bay rộn rực.

Chim nước chào người bay rộn rực,

Cây che tiếp khách bước an nhàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rộn rực Nam giao bầy chúa quỷ,

Chàng ràng Văn miếu lũ thương ma.

(Thơ Hộ Pháp).

Rộn rực tuồng đời vẫn bấy nhiêu,

Công danh quyền tước ngược Thiên điều.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

RỐNG

Rống là kêu vang lên những tiếng to và kéo dài, thường nghe thảm thiết.

Như: Con bé khóc rống lên vì đòi mẹ, Con bò rống lên vì đòi ăn.

Quỷ giải Âm ty thì rống khóc,

Thần dìu Tiên cảnh lại reo cười.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RỒNG

Rồng là loài động vật theo truyền thuyết, mình dài, có vẩy, có chân, biết bay, được coi là loài cao quý nhất.

Như: Rồng bay phụng múa, con Rồng cháu Tiên.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Kiệt có câu: Thầy giao cho con phải săn sóc, mướn thợ làm bảy cái ngai: Một cái trọng hơn cho Giáo Tông, ba cái cho ba vị Chưởng Pháp, ba cái cho ba vị Ðầu Sư, nhứt là cái ngai của Giáo Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ Tứ Linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng, còn của Chưởng Pháp chạm hai con Phụng, của Ðầu Sư chạm hai con Lân.

Rồng rắn cùng đời, rồng hoá rắn,

Vinh huê ngó lại, giấc mơ màng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Gươm thư giúp sức gươm hùng,

Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RỒNG MÂY

Rồng: Một vật trong Tứ linh. Mây: Hơi nước bốc lên đọng lại thành từng đám bay trên trời.

Rồng mây, bởi chữ “Long vân hội 龍 雲 會”, tức hội rồng mây, dùng để chỉ việc gặp thời cơ tốt, hoặc chỉ công danh hiển đạt.

Kinh Dịch có câu: Vân tùng long, phong tùng hổ 雲 從 龍, 風 從 虎, nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp, có ý nói những vật cùng khí loại thường cảm ứng mà tìm nhau.

Xem: Long vân hội.

Nắm giữ mối giềng nền Đạo cả,

Lão đương lừa lọc trận rồng mây.

(Giáo Tông Giáng Bút).

 

 

RỒNG NHANG

Rồng: Một vật trong Tứ linh. Nhang: Hương, loại cúng phẩm đùng để đốt dâng lễ Phật.

Rồng nhang là một con rồng vàng, dài, làm bằng vải, ngoài có cặm nhang đã đốt cháy khắp thân con rồng. Dưới thân rồng có những cây trụ, cách nhau từng khoảng để người ta cầm diễn hành hoặc múa, uốn khúc.

Trong Đạo Cao Đài, đêm Đại lễ Hội Yến Diêu Trì cung, Rồng nhang cùng với nhạc Tần, lân mã đưa cộ hình Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương diễn hành từ sân Báo Ân Từ đến Đền Thánh.

Thời gian trước lễ toàn chưng cộ,

Múa rồng nhang điệu bộ rất hay.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

RỒNG PHUN CHÂU

Rồng: Loài vật thiêng liêng, đứng đầu trong tứ linh. Phun châu: Nhả ra ngọc châu.

Rồng phun châu là con rồng phun hạt châu.

Người xưa thường trang trí hình “Lưỡng long tranh châu”, tức hình hai con rồng tranh nhau hạt châu. Nếu chỉ có một bên thì tựa như rồng phun châu.

Nhang thơm tốc đốt nực nồng,

Ðèn loà ngọn lửa tựa rồng phun châu.

(Bài Mừng Thay).

 

 

RỒNG TIÊN

Rồng Tiên, bởi chữ “Long phụ tiên mẫu 龍 父 仙 母”, tức là cha rồng mẹ tiên.

Do truyền thuyết vua Lạc Long Quân nước ta là thuộc giống con Rồng, lấy bà Âu Cơ là con Tiên, đẻ được trăm cái trứng nở ra trăm người con trai, là tổ tiên của dân tộc ta, nên dân tộc Việt Nam được gọi là nòi giống “Rồng Tiên” hay “Con Rồng cháu Tiên”.

Rồng Tiên đã gặp hồi phong vũ,

Thay đổi càn khôn thử thế nào.

(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).

Ba kỳ con cháu Rồng Tiên ấy,

Nâng đỡ, thương nhau một tấc thành.

(Thơ Thuần Đức).

Đất đai Âu Lạc nam liền bắc,

Sông núi Rồng Tiên gấm dệt hoa.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

RỘNG

1.- Rộng là có bề mặt to lớn, trái với hẹp. Như: Nhà rộng, đường rộng, trời cao bể rộng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thái Thơ Thanh có câu: Con phải khai rộng Thánh Thất cho chúng sanh cầu đạo, đừng phân sang hèn, ai ai đều cũng con Thầy. Con khá khuyên chư nhu đến Thánh Thất cầu đạo nghe!

Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,

Xô người vào, lội lặn nhờm thay!

(Kinh Sám Hối).

Mở rộng đường mây rước khách trần,

Bao nhiêu tình gợi nhắn nguyên nhân.

(Bát Nương Giáng Bút).

Thảnh thơi biển rộng ngư mừng nước,

Thanh tịnh rừng sâu thú lập làng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Rộng còn có nghĩa là mở lớn, chứa nhiều, bao dung được to tát.

Như: Học rộng, biết rộng, rộng lượng, tâm mở rộng.

Thánh giáo Thầy có câu dạy: Các con phải mở rộng tâm chí ra mà hành đạo mới nên cho, chớ đừng mờ hồ rằng, Ðạo thành thì mình được làm đặng một vị xứng đáng và đại ích trong Ðạo.

Ăn năn khử ám hồi minh,

Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.

(Kinh Sám Hối).

Mùi tục lần xa, vui đạo đức,

Cõi tâm rộng mở khổ giồi trau.

(Đạo Sử).

Học cho rộng giao thông tứ xứ,

Học cho cùng xủ sự ngoại lân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RỘNG LÒNG

Rộng: To lớn về bề mặt, không hẹp. Lòng: Bụng, biểu tượng về tình cảm, tâm lý.

Rộng lòng là có tấm lòng rộng lượng, quảng đại, dễ cảm thông với người sai sót, lầm lỡ và dễ tha thứ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Quan Âm Như lại có dạy: Các em có hiểu vì sao mà phải khai rộng lòng thương cho đến bác ái chăng?

Tập trẻ đặng rộng lòng tha thứ,

Thì trẻ đà lánh dữ gần hiền.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỘNG QUYỀN

Rộng: To lớn về bề mặt, không hẹp. Quyền: Thế lực có thể định đoạt được việc nầy việc khác.

Rộng quyền là quyền hành rộng rãi.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy để rộng quyền cho các con thay mặt Thầy mà dìu dắt lấy nguyên nhơn, đã chịu nạn luân hồi nơi khổ cảnh.

Đạo Quân đức hoá háo sinh,

Rộng quyền máy nhiệm an linh cứu đời.

(Giới Tâm Kinh).

Nay Chí Tôn rộng quyền ân xá,

Chắc phen nầy Mẹ đã gặp con.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

RỘNG TÌNH

Rộng: To lớn về bề mặt, không hẹp. Tình: Sự yêu mến, gắn bó giữa người với người.

Rộng tình là có cái tình cảm rộng lượng, như chữ “Rộng lòng” có tấm lòng cảm thông, dễ tha thứ.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Bát Nương Diêu Trì Cung có đoạn: Em rất may mắn đặng mấy chị thương tình, ngặt nỗi nhớ vai tuồng Em phải diễn trong trường Đạo nầy, là phận nắm bề kích trách thói tệ tánh phàm, e khi có thế mích nhau. Em xin trước mấy chị rộng tình tha thứ.

Ăn năn khử ám hồi minh,

Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RỘNG THINH

Rộng: To lớn về bề mặt, không hẹp. Thinh (thênh): Rất rộng, không gây cảm giác vướng víu.

Rộng thinh, như chữ “Rộng thênh”, là rộng quá mức bình thường, rộng đến mức có cảm giác quá trống trải.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Còn con hạc nội, tuy bữa đói bữa no, nhưng Trời Ðất rộng thinh, mặc tình cao bay xa liệng.

Tuy là Trời Đất rộng thinh,

Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RỘNG THỨ

Rộng: Không hẹp lượng. Thứ: Bỏ qua cho, dung chế cho.

Rộng thứ, như chữ “Rộng lượng”, là có độ lượng, dễ cảm thông với người có sai sót, lầm lỡ và dễ tha thứ.

Rộng thứ không bằng toan dạy trước,

Răn he đừng đợi ngọn gươm quơi.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

RỐT

Rốt là sau chót, ở vị trí cuối cùng trong một trật tự sắp xếp, sau đó không còn gì nữa.

Như: Đứa con rốt, ngồi hàng sau rốt, trong hàng nó đi sau rốt, danh sách nằm rốt bảng.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Tương mãn phần cũng nơi số mạng tiền định. Nó có phước là vì đặng về Thầy trong mấy ngày rốt của kiếp trần ai của nó.

Gắng cầm viết nín hơi sống rốt,

Đề năm vần khắc cốt nữ lưu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RỐT CUỘC

Rốt: Ở một vị trí cuối cùng. Cuộc: Việc bày ra có manh mối.

Rốt cuộc, như chữ “Rút cuộc”, là một từ dùng biểu thị ý kết quả cuối cùng của sự việc.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Ðạo Trời dìu bước nhơn sanh, đường Thánh dẫn người phàm tục. Sanh nhằm lối may mắn đặng gặp một Ðạo Chánh, nếu chẳng lo dưỡng tánh trau mình, để bước vào con đường Cực Lạc, thoát đoạ Tam đồ, một mai cảnh ủ bông tàn, rốt cuộc lại ăn năn vô ích.

Thầy đến nói thời con định quả,

Ðừng chờ rốt cuộc hẹn không ngày.

(Đạo Sử).

Phép quan luật nước thúc dằn,

Đỉnh chung rốt cuộc mơ màng chiêm bao.

(Đại Đạo Truy Nguyên).

 

 

RỐT RÁO

Rốt: Ở một vị trí cuối cùng. Ráo: Hết tất cả, không chừa một ai, một cái gì.

Rốt ráo là nhanh chóng và triệt để. Như: Làm cho rốt ráo công việc.

Rốt ráo còn có nghĩa là sạch bách, không còn chừa lại cái gì. Như: Đam mê cờ bạc nó bị thua rốt ráo tiền rồi, còn gì đâu.

Ngài Hộ Pháp say ngây bổ báo,

Hiệp Thiên Đài rốt ráo chu toàn.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

RỚ

Rớ là vó, một dụng cụ dùng lưới buộc căng ở đầu một thân tre dài đặt xuống nước để bắt cá, tép.

Như: Cất rớ, đi rớ cá, thuyền rớ, đương rớ.

Gặp vợ hiền đã đủ kiếp may,

Dầu đương rớ chằm gai cũng đặng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỠ

1.- Rỡ, từ cũ, có nghĩa là sáng sủa, đẹp đẽ. Nay thường dùng ở dạng láy: Rỡ rỡ.

Như: Nhà đốt đèn sáng rỡ, mặt mày thấy rạng rỡ, màu sắc bức tranh rực rỡ.

Thướt tha bóng liễu buổi dương tà,

Rực rỡ ngàn hồng đẹp vẻ hoa.

(Thơ Tiếp Đạo).

2.- Rỡ còn có nghĩa là sáng và vẻ vang.

Như: Rạng rỡ, rỡ mình là vẻ cân đai, sinh được đứa con hiếu thảo làm rỡ mặt cha mẹ.

Lờ mờ non nước rước tin mai,

Ửng ửng phương đông rỡ mặt mày.

(Thơ Thuần Đức).

Băm ba năm Đạo rày nên mặt,

Mấy triệu tín đồ hiện rỡ danh.

(Bảo Văn Pháp Quân).

 

 

RỠ RÀNG

Rỡ: Sáng ngời, sáng sủa. Ràng: Ai cũng đều thấy.

Rỡ ràng là sáng ngời một cách đẹp đẽ, hay vẻ vang.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Thầy không phải biểu làm Toà Thánh trước việc phổ độ. Thầy muốn cho các con hiệp nhau lại mà làm cho rỡ ràng danh Ðạo, tức nhiên đâu đâu cũng đến mà cầu Ðạo, nghe à!

Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên,

Nước Cam Lồ rửa sạch thuyền độ nhân.

(Kinh Tận Độ).

Rỡ ràng đặng thấy Ðạo khai thành,

Ðộ tử cũng còn tính độ sanh.

(Đạo Sử).

 

 

RỠ RỠ

Rỡ: Sáng sủa, vẻ vang.

Rỡ rỡ là sáng ngời, rực rỡ, tức ánh sáng ngời chiếu ra một cách đẹp đẽ.

Như: Gương mặt chị ấy sáng rỡ rỡ.

Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn,

Chơn thần khoái lạc lên đàng vọng Thiên.

(Kinh Tận Độ).

Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ,

Cõi Xích Thiên vội mở ải quan.

(Kinh Tận Độ).

Con phải nhớ da vàng máu đỏ,

Cõi Nam Châu rỡ rỡ quốc triều.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RỢ

Rợ là tiếng dùng để gọi chung các bộ tộc có đời sống và văn hoá lạc hậu.

Như: Man di mọi rợ, Hung Nô là giống rợ ở phương bắc, Nguyệt Nga bị cống sang cho rợ Hồ.

Lạnh biên tái sương rơi tuyết đổ,

Lực rợ Phiên hùng hổ chiến cơ.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

RƠI

Rơi là rớt xuống. Như: Đánh rơi quyển sách, tuột tay rơi xuống đất.

Thánh giáo Thầy có câu: Ðường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng toan vào, mà thấy bạc rơi cũng chẳng bỏ, lợi mún chẳng từ, mượn danh Ðạo mà tạo danh mình, vô Thánh điện mà hơi tà còn phưởng phất.

Làm người phải khá xét suy,

Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.

(Kinh Sám Hối).

Có đức của rơi còn lượm lại,

Không duyên phẩm hạnh khó nâng cao.

(Đạo Sử).

 

 

RƠI TRÂM

Rơi: Rớt. Trâm: Đồ trang sức của phụ nữ, dùng để cài lên mái tóc.

Rơi trâm làm rớt mất cây trâm, chỉ tình duyên trai gái hay vợ chồng bị chia lìa, gãy đổ.

Nguyên ngày xưa, trai gái thường lấy cây trâm cài đầu của phụ nữ để làm vật đính hôn.

Nếu bị “Rơi trâm” hay “Gãy trâm” thì là điềm báo mối tình duyên đổ vỡ, vợ chồng xa cách.

Phòng đào giữ rủi rơi trâm,

Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RỜI

1.- Rời là rã ra, không dính với nhau. Như: Cơm rời, keo rã sơn rời, tháo rời cái máy.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu dạy: Quả Càn Khôn cũng vậy, khi tháo rời ra rồi ráp lại y như vậy. Khi tháo ra phải cầu Lão đưa Thần một đỗi, rồi mới đặt tay người vào, nghe à!

Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,

Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Rời là chia tách ra, di chuyển khỏi.

Như: Tàu rời bến, rời ghế nhà trường, mắt không rời mục tiêu, lá rời cành, vợ chồng rời xa, sống chết rời nhau.

Điếu văn Đức Thượng Sanh đọc trước Liên Đài của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Nào hay mạng căn dĩ định, thiên số nan đào, Ngài trở bịnh không mấy ngày, bỗng chốc rời bỏ xác trần quy hồi Tiên cảnh.

Làm cho chồng vợ lìa xa,

Cả đời nghiệt báo oan gia chẳng rời.

(Kinh Sám Hối).

Đâu đến đỗi loan chung phụng chạ,

Lại rời ra hai ngả phụ phàng nhau.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỜI RÃ

Rời: Bị tách riêng ra, độc lập với nhau. Rã: Các thành phần rời nhau ra, không còn liên kết nhau.

Rời rã, như chữ “Rã rời”, là rã ra thành từng phần, từng mảnh tách rời, không còn quan hệ gì nhau nữa.

Rời rã còn có nghĩa là ở trạng thái rất mỏi mệt, có cảm giác các bộ phận cơ thể như muốn rời nhau ra, cử động không nổi.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thầy có câu: Cũng giờ nầy, nhiều đứa đang gợi óc khêu tâm đặng tìm phương hay nghiên cứu nền Đạo, mà cũng giờ nầy nhiều đứa bị hơi tà, đem trí não chung nhau mà làm cho nền Đạo tiêu tàn rời rã.

Sợ cơn giông gió tơi bời,

Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Phiên thành tạc để danh trung hiếu,

Ðiên đảo khiến rời rã tóc tơ.

(Huệ Giác).

 

 

RỜN RỢN

Rờn rợn là có cảm giác lạnh người, hơi rùng mình vì sợ hãi, vì xót xa.

Như: Đi trong đêm vắng cảm thấy rờn rợn cả người.

Đau đớn bấy thẫn thờ đau đớn,

Xót xa nhiều rờn rợn xót xa.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

RỞN

Rởn là sởn, có hiện tượng da nổi gai ốc vì bị lạnh hoặc vì sợ hãi.

Như: Lạnh rởn ốc, nó làm tôi sợ rởn cả người, đi đêm vì sợ ma mà rởn cả ốc.

Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,

Tội nhơn qua ốc rởn dùn mình.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RỢP

Rợp là chỉ nơi có nhiều bóng mát.

Như: Đi một đoạn đường nữa tìm chỗ rợp nghỉ chân, đường làng rợp bóng tre.

Thái Sơn ngã mất tầm cao đỉnh,

Lương mộc còn đâu bóng rợp hàng.

(Thơ Huệ Ngàn).

 

 

RỚT

Rớt là rơi xuống từ trên cao. Như: Làm rớt cái bóp, máy bay bị rớt.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Một buổi trưa Ngài đang tham thiền nhập định tại chơn núi, chính Vadatha lăn đá xuống để cho Ngài chết, một vị Phật chẳng lẽ chết “bất đắc kỳ tử” như thế được, nên khiến một cây cản lại có miểng văng rớt xuống trúng chơn trái của Ngài đổ máu, Ngài giựt mình ngước mặt lên thấy Vadatha ở trên núi.

Mão cao dể rớt nên thành nhát,

Cổ ngắn không kêu phải hoá lì.

(Thanh Sơn Đạo Sĩ).

 

 

RỚT RƠI

Rớt: Rơi xuống, còn sót lại. Rơi: Rớt xuống.

Rớt rơi, như chữ “Rơi rớt”, là rớt, rớt từ từ, đổ xuống mỗi nơi một ít, có tính kéo dài, khắp nơi.

Rớt rơi có nghĩa khác là còn rớt lại, sót lại. Ví dụ: Những tàn dư của xã hội trước còn rớt rơi lại tới bây giờ.

Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,

Đốt ra tro bỏ chảy dòng sông.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RU

1.- Ru là hát cho trẻ em nghe êm tai để dễ ngủ. Như: Ru con, ru em.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có có đoạn: Sợ Chí Tôn phải khổ, nên Ngự Mã Quân tái kiếp lập Ðạo thay thế cho Ngài. Tại sao vậy? Nói thật, không ai có quyền năng nào hơn mẹ ru con, không ai có quyền năng bằng cha yêu ái, khi con đau đớn, con đương khóc mẹ bồng thì liền nín, còn cha hôn một cái, hết thảm hết buồn.

Dầu mình có thiếp hầu trăm ả,

Cũng nhớ nơi chòi lá mẹ ru con.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Ru còn có nghĩa là làm cho tinh thần mê muội và tê liệt ý chí phấn khởi, hay đấu tranh.

Như: Ru hồn, dùng nhạc tình để ru ngủ tâm hồn thanh niên nam nữ.

Danh vọng ru hồn quên thổ võ,

Thẹn nòi bộc lại mộ đai cân.

(Đạo Sử).

 

 

RÙ QUẾN

Quến: Dính khắn, bám chặt vào. Quến còn có nghĩa là quyến, làm cho ai đó bị mê hoặc, đeo bám theo, không muốn rời ra.

Rù quến là quyến rũ, làm cho người khác mê hoặc mà nghe theo. Như: Mầy bị thằng ăn chơi đó rù quến rồi.

Cũng đừng bài bạc lận nhau,

Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.

(Kinh Sám Hối).

Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển,

Thói dâm phong rù quến nguyệt hoa.

(Giới Tâm Kinh).

Lấy khổ cực làm bài thuốc mến,

Dụng đau thương rù quến thâm tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RỦ REN

Rủ: Bảo người khác nghe theo để cùng làm với mình.

Rủ ren, như chư “Rủ rê”, là kêu gọi người khác theo làm những việc sái quấy, xấu xa.

Như: Chơi với nó coi chừng bị rủ ren làm bậy nhe.

Cũng đừng bài bạc lận nhau,

Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RỦA

Rủa là dùng những lời độc địa cầu cho người mình căm ghét gặp những điều không lành.

Như: Ghét nhau rủa độc cho nhau, hắn ngồi rủa thầm, rủa gà mắng vịt.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hễ có rầy la có dạy dỗ, có nhiều đứa cường ngạnh lén lút ra ngoài nói: Ổng vầy, bả khác, gắt gao, ăn hiếp, rủa sả, có nhiều khi ra sau lén lén ngồi rủa đủ thứ.

Để hành kẻ chứa xâu, lường của,

Trù ếm người, chưởi rủa Tổ tông.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RỦA GÀ MẮNG VỊT

Rủa gà: Chưởi rủa những con gà. Mắng vịt: Mắng nhiếc bầy vịt.

Rủa gà mắng vịt là rủa mắng gà vịt, ý nói chưởi rủa một cách lông bông, xiêng xáo, không nhằm vào một người nào.

Hay bày điều nói quỷ nói ma,

Dùng những tiếng rủa gà mắng vịt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỦA SẢ

Rủa: Nói ra những lời nặng nề để chửi mắng người.

Rủa sả là dùng lời nói độc địa cầu cho người mình căm ghét gặp những việc chẳng lành.

Như: Người tu tập tránh không nên rủa sả.

Ổng vầy, bả khác, gắt gao, ăn hiếp, rủa sả, có nhiều khi ra sau lén lén ngồi rủa đủ thứ.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

RÚC RẮC

Rúc rắc có nghĩa là trúc trắc, có vướng víu, trở ngại, không suôn sẻ, thuận lợi.

Rúc rắc, như chữ “Lắc rắc”, là lấm tấm, nhiều hạt nhỏ li ti rơi xuống.

Rúc rắc cofn là từ mô phỏng âm thanh của những hạt mưa nhỏ, không đều rơi chạm vào vật.

Canh thâu rúc rắc mưa tuôn nhặt,

Ngày vắng xơ rơ gió thổi vèo.

(Thơ Huệ Giác).

Rúc rắc mưa sa run bất luận,

Lao rao gió thổi rét vô phương.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

RỦI

Rủi là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến. Như: Một may một rủi, rủi ro.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Các em thử xét, ở đời nếu cha phàm mà rủi có một đứa con bất hiếu thì có phiền chăng?

Làm người nhơn nghĩa xử xong,

Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.

(Kinh Sám Hối).

Hiền ngõ rủi sanh đời bạo ngược,

Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nên hư chịu lắm rủi cùng may,

Thời vận đã nên khiến đến nài.

(Đạo Sử).

 

 

RỦI MAY

Rủi: Không may mắn. May: Được điều tốt, dịp tốt.

Rủi may là cái rủi và cái may, ý muốn nói không chắc chắn được.

Thánh giáo Thầy có dạy: Con đã để hết tấc thành vào Ðạo, thế mà cũng khó gỡ sự rối rắm ấy được, buộc Thầy phú rủi may của chúng nó cho Toà Tam Giáo định liệu.

Xem: May rủi.

Than rằng: Cõi phù sanh nháy mắt,

Trăm năm đâu biết chắc rủi may.

(Thanh Tâm Tài Nữ).

Gọi duyên nợ đừng lòng cố chấp,

Sự rủi may cao thấp cam đành.

(Phương Tu Đại Đạo).

Rủi may cơ Tạo đã an bài,

Oan nghiệp đền bồi dám trách ai.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

RỦI RO

Rủi ro ở tình trạng gặp điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến. Như: Hôm nay ra đường gặp rủi ro.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu trong gia đình nào rủi ro con cháu hay họ hàng chết thì trông thấy ai bi lạ lùng, một ông cha vì con chết có thể chết theo được, sự thảm khổ đó vô đối.

Rủi ro gặp gái bán thuyền,

Loạn gia phải chịu thảm phiền lắm cơn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RÙM

Rùm là ầm, có nhiều tiếng động lớn, vang lên.

Như: Chưa gì mà rùm lên, súng bên kia sông nổ rùm tai, anh ấy đi khoe rùm xóm.

Thây người máu chảy dầm dề,

Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.

(Kinh Sám Hối).

 

 

RUN

Run là nguyên nhân bởi sinh lý hay tâm lý mà bị rung động nhẹ về chân tay hoặc cơ thể.

Như: Rét run cầm cập, run en phát rét, nhút nhát nên thấy người lạ thì run.

Đôi sợi đờn lòng run một nhịp,

Duyên thơ mơ ước hội Lan đình.

(Thơ Thuần Đức).

Mẫn Tử Khiên giữ tròn hiếu Đạo,

Đông lạnh run bởi áo hoa lau.

(Báo Ân Từ).

 

 

RUN EN

Run: Thân thể rung động liên tiếp. En: Ớn lạnh, có triệu chứng phát run.

Run en là lạnh run vì bệnh. Như: Giờ nầy mà nó vẫn còn run en, đắp hai ba cái mền cũng không hết.

Già run en nói chẳng ra điều,

Dâu nhái tiếng cho kêu cần cổ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RÚN NHAU

Rún: Như chữ “Rốn”, là sẹo tròn và nhỏ ở bụng, nơi ống dẫn máu từ nhau vào bào thai. Nhau: Bộ phận ở dạ con, có chức năng trao chất dinh dưỡng giữa cơ thể mẹ và bào thai.

Rún (rốn) nhau là hai bộ phận tiếp dưỡng máu cho bào thai, ý chỉ mối quan hệ xã hội gắn bó thân thiết, không thể tách rời đặng.

Biết rằng không phải rún nhau,

Mà Thầy đem lại đổi trao mối tình.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

RUNG

Rung là chuyển động, lay động, lúc lắc.

Như: Ngồi rung đùi, động đất làm rung cửa kính, rung cây nhát khỉ.

Cây muốn tịnh nhành rung vì gió,

Trăng ánh mờ mất tỏ vì mây.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

RUNG CHUYỂN

Rung: Chuyển động, lúc lắc. Chuyển: Rung động.

Rung chuyển là làm cho rung động mạnh. Rung chuyển còn dùng để chỉ làm cảm động lòng người.

Như: Xe chạy làm rung chuyển mặt đường, nhạc có thể làm rung chuyển lòng người.

Nầy các bạn, tôi xin kiếu từ các bạn và trông đợi các bạn. Lúc nào tâm hồn cũng rung chuyển cho mấy người.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

RUNG RINH

Rung rinh là lung lay, chuyển động nhẹ và liên tiếp. Như: Ngọn trúc rung rinh theo gió.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Bần Ðạo chỉ kêu: “Coi chừng hễ giữa Hội Thánh hai quyền tương khắc nhau đem lên tới trên, gặp quyền độc tôn thì chịu lấy”. Nên hai bên hoảng mới tìm phương dung hoà nhau. Ðó chỉ nghĩa Bần Ðạo duy mới cầm cây Phướn Thượng Hội rung rinh chớ không có dùng đến quyền gì hết.

Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,

Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.

(Thơ Thượng Phẩm).

Từng ngọn lá rung rinh bóng nguyệt,

Trên trời cao từng vệt khói bay.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

RÚNG ĐỘNG

Rúng: Núng, nao núng. Động: Lay chuyển, không yên, trái với tĩnh.

Rúng động là náo động và nao núng. Như: Sau trận lũ tại miền Trung, mọi người bị rúng động tinh thần.

Khi tạn mặt dạt dào nôn nóng,

Lúc dừng chân rúng động tâm tư.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

RỤNG

Rụng là lìa ra, rời ra và rơi xuống. Như: Lá rụng, tóc rụng, trẻ sơ sinh vừa rụng rún.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Triết lý về hình thể của con người, thọ tinh cha huyết mẹ sản xuất ra, thì có sự cảm giác thiêng liêng đối cùng nhau rất mật thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà, khi cha mẹ có bịnh hoạn hay xảy ra điều gì tai biến, thì thân thể của người con sẽ có điềm máy động; giựt thịt, máy mắt, hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các điều khác.

Hoa ấy rụng, tòng già chẳng rụng,

Vinh nọ mòn, bá chợt màu tươi.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Biệt cành lá rụng đầy rừng,

Con thuyền Bát Nhã lỡ chừng độ duyên.

(Ngụ Đời).

 

 

RỤNG CẢI RƠI KIM

Rụng rơi: Bị rơi, bị mất dần đi một ít, không còn nguyên vẹn. Kim cải: Nam châm hút cây kim, hổ phách hút hạt cải, nói tính hoà hợp nhau mà tìm đến nhau, ý chỉ vợ chồng hoà thuận.

Rụng cải rơi kim, tức rụng hạt cải, rơi cây kim, ý nói không cảm ứng nhau, để chỉ duyên tình đổ vỡ.

Xem: Kim cải.

Vì ai rụng cải rơi kim,

Để con bèo nổi mây chìm vì ai.

(Truyện Kiều).

 

 

RỤNG RỜI

Rụng: Rời ra, lìa ra và rơi xuống. Rời: Tách lìa ra.

Rụng rời là cảm thấy chân tay rã rời, do quá mệt mỏi hoặc bị khiếp sợ.

Như: Làm cả ngày khiến tay chân rụng rời, hung tin làm cả nhà rụng rời.

Ngùi trông đỉnh hộ mây u ám,

Chạnh ngắm bàn linh ảnh rụng rời.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

RUỒI

Ruồi là loài côn trùng có hai cánh, có vòi hút, thường hay bu vào thức ăn làm mất vệ sinh an toàn.

Ruồi xanh, còn gọi là “Lằng xanh”, thường được ví bọn tiểu nhân.

Như: Ruồi bu kiến đậu, ngọt mật chết ruồi.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời giọt liễu, tan tành gối mai.

Xem: Lằng xanh.

Cũng như người cổ xạ tay cùi,

Đã hoá cọp thấy ruồi còn muốn chụp.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RUỒI NƯƠNG ĐUÔI KÝ

Ruồi: Con ruồi, vật nhỏ bay đậu thức ăn. Nương: Nhờ, cậy. Đuôi Ký: Đuôi con ngựa Kỳ Ký, một loại ngựa giỏi, chạy rất nhanh.

Ruồi nương đuôi ký tức là ruồi đậu trên đuôi ngựa ký để nhờ sức ngựa đi xa, ý nói hạng người không có thực tài, chỉ mượn sức kẻ khác để làm nên việc mà còn khoe khoang tài giỏi.

Ai là gánh vai tuồng Hiếu Trung nên xét kỹ, Cho lưỡng toàn, chớ học sách ruồi nọ nương đuôi ký, toan múa mỏ gọi đi xa đường...

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

RUỔI

Ruổi là chạy mau, đi nhanh trên đường dài.

Như: Ruổi ngựa đuổi theo, ruổi xe chạy trên đường dài, ruổi theo chiếc xe trước.

Thánh giáo Thầy có câu: Kẻ hữu đức buồn lòng thối bước, đứa chơn thành không vui nắm tay theo. Ma hồn quỷ xác loán vào, kẻ đức thiếu níu đứa không nhân, thành ra nhân kém đức suy, cứ thẳng một đường tà dung ruổi.

Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,

Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,

Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RUỔI GIONG

Ruổi: Đi nhanh, chạy nhanh trên đường dài. Giong: Đi, đi mau.

Ruổi giong là đi nhanh, đi hấp tấp một mạch cho mau tới điểm. Như: Ruổi giong hằng tháng trên đường dài.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ruổi giong trên đường tục lụy, người ta chạy theo danh vọng tiền tài, chúng ta chạy theo nghĩa nhân đạo đức, người ta đạp đổ lầu đài tinh thần trong sự tranh giành quyền lợi, mưu hại lẫn nhau, chúng ta củng cố đạo tâm, vun trồng cội phúc.

Xem: Giong ruổi.

Sao bằng hôm sớm say mùi Đạo,

Nhẹ gót an nhàn mặc ruổi giong.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

RUỘNG

Ruộng là đất để cày cấy, trồng trọt. Như: Ruộng lúa, ruộng khoai, ruộng rau muống.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Sông có thể thành ruộng, núi có thể diệt tiêu mà làm biển cả, cũng như sự buồn lắm lúc hoá ra vui, sự vinh thành nên nhục, cái phước đổi cái hoạ vậy.

Xưa ruộng Thuấn voi cày chim cấy,

Vì hiếu thân nổi dậy tuổi tên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Công lao sanh dưỡng nặng nề thay,

Ruộng biển, cao non chẳng sánh tày.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RUỘNG CÀY SÁU MẪU

Ruộng: Đất trồng lúa. Cày: Nông cụ, dùng để sới đất. Sáu: Số đếm. Mẫu: Bằng 10 sào đất.

Tâm được ví như ruộng, gọi là “Tâm điền 心 田”. Nếu ruộng không cày bừa, dọn cỏ thì trở thành ruộng hoang, cây cỏ um tùm; còn tâm cũng vậy, không trau dồi sẽ trở nên tăm tối, đảo điên. Vì vậy, làm ruộng thì hằng ngày phải dọn cỏ, trau tâm thì phải rèn luyện cho tâm trong sáng thì đạo tâm mới càng ngày càng phát triển thêm.

Khi làm Ruộng cày sáu mẫu thì phải chăm sóc cỏ rác sáu mẫu ruộng đó, cũng như tâm phải gìn giữ sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý), là sáu giác quan thường quấy nhiễu thân tâm người tu.

Như vậy ruộng cày sáu mẫu nghĩa bóng chỉ tâm phải gìn giữ lục căn, còn gọi là lục tặc, chuyên phá khuấy người tu hành.

Ruộng cày sáu mẫu lo vun quén,

Nhà ở bảy căn rán vẹn gìn.

(Thơ Cao Thượng Phẩm).

 

 

RUỘNG DÂU HOÁ BỂ

Ruộng dâu: Ruộng trồng cây dâu. Hoá bể: Thay đổi thành biển.

Ruộng dâu hoá bể, bởi chữ “Tang điền thương hải 桑 田 蒼 海” biển xanh hoá thành ruộng dâu, dịch sang Việt là bãi bể nương dâu.

Thần Tiên Truyện viết: Tam thập niên vi nhất biến, thương hải biến vi tang điền 三 十 年 為 一 變, 蒼 海 變 為 桑 田, nghĩa là ba mươi năm lại một lần thay đổi, biển cả hoá thành ruộng dâu.

Ruộng dâu hoá bể, ý nói có sự thay đổi lớn lao nơi cõi thế gian.

Sanh gặp lúc ruộng dâu hoá bể,

Phong di tục diệt,

Nhìn nước non tha thiết tấm trung thành.

(Văn Tế Tiểu Tường).

Ruộng dâu hoá bể đầy kình ngạc,

Dòng nước mưa thanh chảy bến Hà.

(Thơ Hiến Đạo).

 

 

RUỘNG ĐẤT

Ruộng: Đất để cày cấy lúa thóc. Đất: Khoảng mặt đất trên đó có thể trồng trọt được.

Ruộng đất là ruộng và đất trồng trọt hoa màu.

Ruộng đất còn dùng để chỉ chung đất trồng trọt, về mặt là tư liệu sản xuất, như: Cải cách ruộng đất.

Nói về Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Em đã làm Hộ Pháp chỉ ân hận một điều: Chị giàu sang tưởng nơi mặt thế này, người nào có thể nói với thiên hạ rằng: Trong kiếp sanh tôi giàu sang, nào ruộng đất, lầu đài, ngọc ngà, châu báu, không có món gì mà chị không có, chỉ tiếc một điều là của cải ấy không để nơi nào nó phải để.

Tôi không thích ngựa trâu ruộng đất,

Chán sắc tài vật chất lợi danh.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

RUỘNG ĐỒNG

Ruộng: Đất để cày cấy lúa thóc. Đồng: Khoảng đất rộng và phẳng, dùng để cày cấy, trồng trọt.

Ruộng đồng, như chữ “Đồng ruộng”, là chỉ những khoảng đất rộng ở vùng nông thôn, dùng để cày cấy lúa thóc, hoặc trồng trọt hoa màu.

Ân hồng đã rải cùng thôn lý,

Bóng phước phủ che khắp ruộng đồng.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

RUỘNG LÒNG

Ruộng: Đất để cày cấy lúa thóc. Lòng: Lòng dạ, ý chỉ chữ Tâm.

Ruộng lòng, bởi chữ “Tâm điền 心 田”, dùng để chỉ cái tâm phải được chăm sóc như mảnh ruộng.

Người xưa thường ví lòng của con người như một mảnh ruộng, gọi là tâm điền. Hằng ngày, tâm phải trau luyện, dồi mài, cũng như mảnh ruộng kia phải năng dọn dẹp, nếu không cỏ rác sẽ mọc đầy hoang vu.

Ruộng lòng hằng bữa lo chăm sóc,

Gươm huệ thường khi gắng sức mài.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

RUỘNG RẪY

Ruộng: Đất để cày cấy lúa thóc. Rẫy: Đất trồng trọt.

Ruộng rẫy, như chữ “Ruộng nương”, là nói chung về đất trồng trọt về lúa và các loại hoa màu khác.

Như: Người dân vùng nầy không có nghề làm thủ công, chuyên làm ruộng rẫy.

Trời còn đất lỡ tang thương biến,

Ruộng rẫy phố phường lộ mốc meo.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

 

 

RUỘNG VƯỜN

Ruộng: Vùng đất dùng để trồng lúa. Vườn: Đất để trồng cây ăn trái.

Ruộng vườn là ruộng và vườn, tức đất ngoài đồng để làm lúa và đất quanh nhà dùng để trồng cây ăn trái.

Ruộng vườn đồng nghĩa với chữ “Điền viên 田 園”.

Đốt nhà, tháo cống, phá mương,

Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.

(Kinh Sám Hối).

Đất nhà cảnh vật ruộng vườn,

Hình chàng như gắn nẻo đường vô ra.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Vợ con nhà cửa ruộng vườn,

Làm sao dứt bỏ tầm đường thoát thân.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

RUỘT

1.- Ruột là bộ phận tiêu hoá, nối từ cuối dạ dày cho đến hậu môn.

Thánh giáo Thầy có câu: Cắt ruột, ai lại không đau, nếu Thầy không cầu khẩn Thái Bạch đình hình phạt lại cho tới ngày lập thành Toà Thánh, các con lấy công mà chuộc tội, thì trong các con chẳng đặng còn lại một phần mười, các con nên lấy lời răn Thầy đây làm vị thuốc khử tội của các con.

Mổ bụng độn vàng, quăng phổi ruột,

Xẻ đầu nhét sách, ốm hình thù.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Ruột được biểu tượng của sự chịu đựng về tình cảm của con người.

Như: Xót ruột, ruột đau như dần, tức lộn ruột, ruột rối như tơ vò.

Trời khuya chưa rõ canh tàn lụn,

Não oán trí lo ruột nát bầm.

(Đạo Sử).

3.- Ruột dùng để chỉ mối quan hệ ruột thịt, tức có cùng cha mẹ với nhau.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Trừ ra vợ chồng hay là chị em ruột, anh em ruột đặng chuyện vãn nhau nơi Tịnh đàn. Còn kỳ dư, như hai đàng muốn chuyện vãn nhau, phải có hai người chứng, một bên Nam, một bên Nữ.

Trời định người hai mẹ hai cha,

Cha mẹ vợ cũng như cha mẹ ruột.

(Phương Tu Đại Đạo).

Ruột của chồng vợ chẳng phép khinh,

Vì chồng vợ đã đành hoà lại một.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RUỘT CHÍN CHIỀU

Ruột: Phần cuối của bộ phận tiêu hoá. Chín chiều: Chín nấc trong khúc ruột.

Ruột chín chiều là chín khúc trong một đoạn ruột, chỉ sự đớn đau, khổ sở.

Như: Nhìn thấy con đói mà ruột chín chiều quặn thắt.

Lầu gần đêm vẳng hồi chuông thúc,

Chạnh nỗi niềm riêng ruột chín chiều.

(Thơ Thượng Sanh).

Bên tai rỉ rả dế tường kêu,

Nhớ bạn đài mây, ruột chín chiều.

(Đầu Sư Hương Hiếu).

 

 

RUỘT RÀ

Ruột: Phần cuối của bộ phận tiêu hoá, chỉ quan hệ gia đình thân thuộc.

Ruột rà là có quan hệ ruột thịt hoặc thân thiết như ruột thịt với nhau.

Như: Bà con ruột rà, hai người anh em ruột ra nhau.

Cũng là một gốc sanh ra,

Gồm bao nâng đỡ ruột rà thương nhau.

(Kinh Sám Hối).

Xin có tưởng ruột rà màu mủ,

Cõi Hư linh bao phủ ân hồng.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

RUỘT RỐI VÒ TƠ

Hay “Ruột rối tơ vò”.

Ruột rối: Chỉ lòng dạ rối rắm, Vò tơ (tơ vò): Tơ rối chằng chịt vào nhau, không tháo gỡ được.

Ruột rối vò tơ, đồng nghĩa với câu “Ruột rối tơ vò”, ý nói lòng dạ bấn loạn như cuộn tơ bị rối rắm.

1.- Ruột rối vò tơ:

Buồn than thở khi trưa lúc tối,

Quặn chín chiều ruột rối vò tơ.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

2.- Ruột rối tơ vò:

Phải cơn ruột rối vò tơ,

May duyên Bát Nhã thuyền ngừa độ sanh.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

RUỘT TẰM

Ruột: Phần cuối của bộ tiêu hoá. Tằm: Ấu trùng của loài bướm, ăn lá dâu, nhả ra tơ.

Ruột tằm dùng để chỉ lòng rối như tơ tằm.

Con tằm càng nhả ra nhiều tơ chừng nào thì ruột của nó héo hon chừng nấy, nên chữ “Ruột tằm” thường được ví với lòng người bối rối, đớn đau.

Qua đi, em ở, phân tay lìa bạn, người Hớn kẻ Hồ, ruột tằm đòi đoạn...

(Thánh Giáo Thượng Phẩm).

 

 

RUỘT THỊT

Ruột: Bộ phận tiêu hoá từ cuối dạ dày đến hậu môn. Thịt: Phần mềm bọc quanh xương trong cơ thể con người và động vật.

Ruột thịt là những người có quan hệ thương yêu, thân thiết như ruột và thịt, hai bộ phận trong cùng một cơ thể con người.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Muốn đoạt cho được mục đích ấy, duy lấy đạo đức tinh thần, muốn kỉnh nhau, hoà nhau, nhìn nhau là ruột thịt, mà thấy nhà bạn mình có của nhiều lại ganh ghét, đứa nầy giành của đứa kia, hỏi vậy hoà được chăng?

Khuyên con nhìn biết Lão đớn đau,

Tình đồng đạo yêu nhau bằng ruột thịt.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Cha mẹ chồng tuy gọi tiếng rằng,

Phải cung phụng cũng bằng ruột thịt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RÚT

1.- Rút là kéo ra, lôi ra. Như: Rút roi đánh, rút ruột, rút đơn trở lại không nộp.

Trong bài Điếu văn Đức Thượng Sanh đọc trước Liên đài của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Hồi nhớ lại những lúc cùng nhau hiệp mặt, Ngài thường than thở, tỏ ý bực tức, chỉ vì muốn rút hết ruột gan để phục vụ cho nền Ðạo, nhưng lại bị lối đố kỵ tài hiền, phải hứng chịu những lời cay đắng vô ân. Ðó là cái nguyên nhân làm cho Ngài âm thầm đau khổ.

Ngồi đợi nóng lòng đừng rút nhợ,

Cả ngày buồn giựt chẳng nên trò.

(Đạo Sử).

Rút vỏ gươm linh ta quyết một,

Chẳng bao kẻ nghịch đặng ăn nằm.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

2.- Rút là tăng nhịp độ hoạt động để làm giảm thời gian hoàn thành một việc gì.

Như: Đi rút cho kịp chuyến xe khởi hành, vạn động viên xe đạp chạy nước rút.

Ráng rút tranh đua qua tuổi trẻ,

Bền lòng theo Lão dẫn về ngôi.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

 

 

RÚT CUỘC

Rút: Thu lại. Cuộc: Cái thế bày ra.

Rút cuộc, như chữ “Rốt cuộc”, là từ biểu thị ý kết quả cuối cùng rồi cũng dẫn đến của sự việc.

Như: Bàn cãi mãi rút cuộc mọi người cũng đồng ý, rút cuộc anh ta cũng phải chịu nhượng bộ.

Xem: Rốt cuộc.

Muốn qua sông mà để lựa thuyền,

Tới rút cuộc kết nguyền cùng chú lái.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỨA

Rứa là thế, vậy. Như: Đi mô rứa, mần răng mần rứa, việc làm nào cũng rứa.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy chẳng nỡ xem xét cho đến cùng, bởi rứa nên Thầy mới giao quyền cho cả môn đệ của Thầy.

Thiệt thòi bấy phận không con nối,

Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.

(Đạo Sử).

Cõi tục can qua dầu phải rứa,

Xứ thần tai ách có vầy sao?

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RỬA

1.- Rửa là dùng nước hoặc chất lỏng làm cho sạch. Như: Rửa chân tay, rửa mặt, rửa rau.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðã vào trọn một thân mình nơi ô trược thì Thầy đây cũng khó mà rửa với một gáo nước cho đặng trong sạch.

Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên,

Nước Cam Lồ rửa sạch thuyền độ nhân.

(Kinh Tận Độ).

Ðường trần dù muốn dừng chơn tục,

Nguồn suối tìm nơi rửa bụi hồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rửa tai biến lộng câu đầu lưỡi,

Ngậm miệng cho qua ách giữa đường.

(Thơ Thuần Đức).

2.- Rửa, nghĩa bóng là làm cho sạch, làm cho hết.

Như: Thề quyết rửa thù hận, cố học để chờ ngày rửa nhục, rửa thảm lau phiền.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðặng bậc Chí Tôn cầm quyền thế giới dìu dắt, rửa lỗi, mà chẳng cho kịp thì, để đua nhau nghĩ tính về miếng đỉnh chung, nếu Thầy chẳng đại từ đại bi thì công quả đã chảy theo dòng nước.

Xin gìn giữ thánh hình thanh bạch,

Xin xá ân rửa sạch tiền khiên.

(Kinh Tận Độ).

Soi gương hạnh đức trau lòng tục,

Hứng giọt từ bi rửa bợn sầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thuyền chờ bến tục buồm trương sẵn,

Ðưa đến nguồn trong rửa bợn sầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RỬA TAI

Rửa: Dùng nước hoặc chất lỏng làm cho sạch. Tai: Lỗ tai, bộ phận để nghe.

Rửa tai là xuống dòng nước rửa lỗ tai.

Do tích Vua Nghiêu định nhường ngôi lại cho Hứa Do, một cao sĩ trong đời Thượng cổ. Khi Hứa Do nghe đến danh lợi, cho rằng nhơ tai, bèn ra bờ sông Dịch để rửa sạch lỗ tai.

Lúc đó có Sào Phủ, là bậc hiền sĩ, đang dắt trâu xuống dưới dòng định cho uống nước, thấy Hứa Do đang rửa lỗ tai, bèn hỏi duyên cớ, Hứa Do thuật chuyện lại, Sào Phủ kéo trâu lên trên dòng nước cho uống và nói: Dưới dòng nước bẩn, dơ miệng trâu.

Lao lực thế tình chi xạo xự,

Rửa tai chờ lóng nhạc năm cung.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tử Phòng dâng dép mà nên nghiệp,

Sào Phủ rửa tai mới bợn hồ.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

RỬA TỘI

Rửa: Nghĩa bóng là làm cho sạch, làm cho hết. Tội: Việc làm phi pháp bị hình luật xử trị.

Rửa tội là làm cho sạch các thứ tội lỗi.

Rửa tội còn là Bí tích của Thiên Chúa giáo, làm lễ để nhận một người mới vào Đạo.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Ông già, Bà già (Cha, mẹ của Ngài) là người có Đạo, mà buộc mình phải vào Đạo đặng đem Bần Đạo đi rửa tội theo Thiên Chúa Giáo, tình trạng lúc đó trong nhà sợ sệt biết bao nhiêu, cho tới năm 7 tuổi Bần Đạo còn chết một lần nữa, chừng sống lại được rồi thân thể không còn gì hết, vì lúc chết người ta gỏ đầu, gỏ cổ, căn tay, căn chơn không còn hết, chịu đau đớn biết mấy.

Tại sao các con lại chia rẽ nhau vì sự bất đồng Ðạo lý, mà chính tất cả các con đều phải chung chịu đau khổ để rửa tội của các con ở cõi thế gian nầy?

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

RỮA

Rữa là bã ra, sắp rụng, sắp tàn, tức nói hoa quả hay thực phẩm ở tình trạng nát nhủn ra đến mức dễ rời, dễ rã ra khi đụng đến.

Như: Hoa tàn nhuỵ rữa, nát rữa, thịt thối rữa, quả chuối chín rữa.

Đến lúc đã hoa tàn nhụy rữa,

Đừng quên khi hương lửa mặn nồng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RỰA

Rựa một loại dao to, có sống dầy, mũi bằng, dùng để chặt, chẻ đồ vật hay cây củi.

Như: Nhờ cây rựa mà anh ấy dọn hết khu rừng, tên tội phạm dùng rựa để chém người.

Cây cả còn chờ ngày rựa cốt,

Chẳng qua báo ứng chậm cùng mau.

(Đạo Sử).

 

 

RỰC

1.- Rực là ở trạng thái đang bừng lên, toả mạnh hơi nóng hoặc ánh sáng ra chung quanh.

Như: Than nơi lò cháy nóng rực, đom đóm rực lên trong đêm đen, khói lửa rực trời.

Vừng đông rạng ánh vàng chói rực,

Lời pháp lành đánh thức chơn tâm.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Rực còn dùng để chỉ màu (đỏ, vàng) tươi đậm và chói chan.

Như: Cờ bay đỏ rực, đồng lúa chín vàng rực, lửa cháy nhà đỏ rực một góc trời.

Bông trao sính lễ mai vàng rực,

Pháo nổ nghinh hôn tiếng nhặt lơi.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

RỰC RỠ

Rực: Ở trạng thái đang bừng lên, toả hơi nóng hoặc ánh sáng ra chung quanh. Rỡ: Sáng ngời một cách đẹp đẽ.

Rực rỡ là có màu sắc tươi sáng đẹp đẽ và nổi bật hẳn lên, làm cho ai cũng phải chú ý.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Có nhiễm trần, có lăn lóc mơi sương chiều gió, có kim mã ngọc đàng, có đai cân rực rỡ, có lấn lướt tranh đua, có ích kỷ hại nhân, có vui vẻ với mùi đỉnh chung lao lực, mới thấy đặng tỏ rõ bước đời gai chông khốn đốn, mới thấy cuộc nhục vinh, buồn vui không mấy chốc, chẳng qua là trả vay vay trả đồng cân, chung cuộc lại thì mối trái oan còn nắm, mà cũng vì đó mới thấy đặng đường hạnh đức trau mình, trò đời chẳng qua một giấc huỳnh lương.

Xuân hoa rực rỡ muôn màu đẹp,

Xuân cảnh thanh tao một tiếng kình.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Chúc bạn mấy câu đáp hoạ vần,

Vườn xuân rực rỡ đón Đông Quân!

(Thơ Thượng Sanh).

Thướt tha bóng liễu buổi dương tà,

Rực rỡ ngàn hồng đẹp vẻ hoa.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

RỪNG

Rừng là vùng đất rộng có nhiều cây cối mọc lâu năm. Như: Rừng già, rừng chồi, trồng cây gây rừng.

Thánh giáo Thầy có câu: Nếu chẳng có một Ðấng Từ Bi lấy đức háo sanh mở Ðạo Tam Kỳ đặng vớt những kẻ hữu căn thì toàn thế giới sẽ bị dần dần tiêu diệt, ngôi cựu vị ở chốn non thẳm rừng xưa, cũng chẳng có một bực Tiên Thánh đoạ trần nào đoạt lại được.

Ðộng cũ vườn tòng sầu biếng trổ,

Non xưa rừng bá thảm buông mành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðội mão khỉ ngồi non hớn hở,

Lìa rừng cọp ngóng biển thon von.

(Đạo Sử).

 

 

RỪNG CHIỀU ÁC XẾ

Rừng chiều: Cảnh rừng núi lúc về chiều. Ác xế: Bóng mặt trời đã xế tà.

Rừng chiều ác xế là cảnh rừng núi, sắp về chiều lúc mặt trời vừa xế bóng, ý chỉ con người tuổi già.

Nơi trường thi công quả, nên cân lấy phước phần, chẳng sớm trau thân, rừng chiều ác xế.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

RỪNG NHO

Rừng: Vùng đất rộng, có nhiều cây cối lâu năm. Nho: Chữ nghĩa trong kinh sách Nho gia.

Rừng Nho, do chữ “Nho lâm 儒 林”, tức là chữ nghĩa và kinh sách của Nho học nhiều như lá cây trong rừng.

Xem: Rừng Nho biển Thánh.

Vun bồi nền Thánh nâng hồn trẻ,

Tô điểm rừng Nho khích hậu đàn.

(Thơ Thân Dân).

Biển Thánh xa khơi thuyền Bát Nhã,

Rừng Nho còn đượm nét anh phong.

(Thơ Tiếp Pháp).

 

 

RỪNG NHO BIỂN THÁNH

Rừng Nho: Chữ nghĩa, kinh sách của Nho học nhiều như lá cây trong rừng. Biển Thánh: Sự hiểu biết của người xưa rộng như biển cả.

Rừng Nho biển Thánh tức là chữ Nho và kinh sách của Thánh hiền nhiều như cây lá trên rừng, sâu rộng như biển cả.

Câu thành ngữ này cho thấy việc học như rừng sâu biển cả, mà người xưa gọi là “Nho lâm học hải 儒 林 學 海”, không biết bao giờ mới học hết được.

Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,

Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RỪNG NHU

Hay “Rừng Nho”.

Rừng: Vùng đất rộng, có nhiều cây cối lâu năm. Nhu (Nho): Chữ nghĩa trong kinh sách Nho gia.

Rừng Nhu, như chữ “Rừng Nho”, tức là chữ nghĩa và kinh sách của Nho học nhiều như lá cây trong rừng.

Xem: Rừng Nho.

Rừng Nhu hoa lá sợ điêu tàn,

Sáng kiến khen người cố điểm trang.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

RỪNG TÒNG

Rừng: Vùng đất rộng, có nhiều cây cối lâu năm. Tòng (tùng): Cây thông.

Rừng tòng (tùng), bởi chữ “Tùng lâm 叢 林”, là rừng cây tòng, hay rừng cây thông.

Ngày xưa các tu sĩ theo Phật thường hay chọn rừng tòng để cất chùa chiền, làm nơi tu hành. Vì vậy, rừng tòng hay rừng thung dùng để chỉ chùa chiền, nơi tu hành.

Xem: Rừng thung.

Cội trước gió đưa hơi nhắn khách,

Rừng tòng khách giục cảnh chờ người.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rừng tòng tìm đến lánh cay chua,

Đêm lặng lắng nghe tiếng khánh chùa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,

Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.

(Đạo Sử).

 

 

RỪNG THIÊN NHIÊN

Rừng: Vùng đất rộng, có nhiều cây cối lâu năm. Thiên nhiên: Tự nhiên như vậy.

Rừng thiên nhiên, hay “Thiên nhiên”, là cánh rừng trong đó cây cối tự mọc, không do ai trồng.

Rừng Thiên Nhiên là tên được người ta gọi hai cánh rừng trong Nội Ô trước ngôi Đền Thánh.

Nguyên vùng đất Nội ô Toà Thánh trước kia là một khu rừng rộng lớn, khi xây dựng Đền Thờ, Hội Thánh khai phá chung quanh, chừa lại hai cánh rừng sẵn có ở hai bên Toà Thánh, nên hai cụm rừng đó được gọi là rừng thiên nhiên.

1.- Rừng thiên nhiên:

Rừng thiên nhiên đây kề đôi cụm,

Chim cóc về lúm xúm nghe kinh.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Rừng thiên nhiên kia hầu mát mẻ,

Chim chóc mừng thỏ thẻ trên cây.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

2.- Thiên nhiên:

Hai dải rừng xanh trước Tổ đình,

Thiên Nhiên danh gọi rất oai linh.

(Thơ Chơn Tâm).

Cành khoe lá mới đón xuân phong,

Đôi cụm Thiên Nhiên dưới nắng hồng.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

RỪNG THIỀN

Rừng: Vùng đất rộng, có nhiều cây cối lâu năm. Thiền: Phạn ngữ: Thiền na, chỉ sự thanh tĩnh. Thiền còn là một pháp môn tu đốn ngộ, thuộc phái Thiền tông.

Rừng thiền, như chữ “Thiền lâm 禪 林”, dùng để chỉ nơi chùa chiền, am tự.

Rừng thiền nhặt thúc tiếng chuông trưa,

Phước gặp về Ta buổi đã vừa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rừng thiền trở gót mới thung dung,

Nhàn hạ riêng vui cảnh bá tùng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phước gặp kỳ ba Trời phổ độ,

Mau chơn rán lướt tới rừng thiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RỪNG THUNG

Rừng: Vùng đất rộng, có nhiều cây cối lâu năm. Thung: Tức cây thông hay cây tòng.

Rừng thung, như chữ “Tùng lâm 叢 林”, là rừng cây thung, hay rừng cây tòng.

Ngày xưa các tu sĩ Phật giáo thường chọn rừng thung để cất chùa chiền, làm nơi tu hành.

Vì vậy, “Rừng thung”, hay “Tùng lâm”, “Rừng tòng”, dùng để chỉ cảnh chùa, nơi thanh tịnh để tu hành.

Thuyền từ sông lệ buồm trương cánh,

Cảnh trí rừng thung khách lướt đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rừng thung bóng nhựt đã hầu chinh,

Tỏ rạng gần nơi bước vẹn gìn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rừng thung nắng giọi cành phai thắm,

Bờ liễu quyên đưa tiếng gọi sầu.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

RỪNG TRE

Rừng: Vùng đất rộng, có nhiều cây cối lâu năm. Tre: Loại cây nhỏ cao, ruột rổng, có nhiều đốt.

Rừng tre, như chữ “Trúc lâm 竹 林”, dùng để chỉ Trúc Lâm Thất Hiền, tức là bảy ông hiền đời nhà Tấn, không chịu ra làm quan, ở ẩn và tụ họp vui chơi nơi rừng tre.

Xem: Trúc lâm.

Miệng chào lại nhủ mặc Tiên y,

Mời đến Rừng tre hội cuộc kỳ.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Chẳng thích buộc ràng nơi gác tía,

Chỉn ham thong thả chốn rừng tre.

(Thơ Thượng Sanh).

Gốc tử, vẹn gìn ba mối đạo,

Rừng tre, vui với bảy ông hiền.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

RỪNG TRUỚC

Rừng: Vùng đất rộng, có nhiều cây cối lâu năm. Trước: Do chữ “Trúc 竹”, là một loại với tre, cây nhỏ, ít gai.

Rừng trước, dịch từ chữ “Trúc lâm 竹 林”, là nơi tụ họp vui chơi của bảy người hiền đời nhà Tấn, chỉ nơi thanh nhàn, ẩn dật.

Xem: Trúc Lâm.

Thi Thần vui hứng ngoài rừng trước,

Rượu Thánh buồn say dưới cội tàn.

(Đạo Sử).

Thà đọc sách xưa hiền bảy Lão,

Tại nơi rừng trước hưởng khương bình.

(Đạo Sử).

Rừng trước khách hiền dầu trữ đức,

Cửa thiền chí Thánh nhẫng khinh tài.

(Thơ Tây Sơn Đạo).

 

 

RỪNG TRƯỚC TỬ

Rừng: Nơi có nhiều cây cối mọc um tùm. Trước: Như chữ “Trúc 竹”, một loại như cây tre. Tử: Màu tía.

Rừng trước tử là rừng tía, tức rừng gồm những cây tre màu tía, chỉ nơi thanh nhàn, ẩn dật.

Thương đến chốn gọi rừng trước tử,

Chứa hiền xưa đặng giữ đạo trời.

(Thất Nương Giang Bút).

 

 

RỰNG SÁNG

Rựng: Rạng, ở trạng thái trời chuyển dần từ đêm tối sang sáng ngày. Sáng: Có ánh sáng toả ra trong không gian khiến có thể nhìn thấy mọi vật.

Rựng sáng, như chữ “Rạng sáng”, trời vừa dần sáng, chỉ khoảng thời gian trước lúc mặt trời mọc, bầu trời ở phía đông vừa hửng sáng.

Một bữa nọ trời vừa rựng sáng,

Ánh nhựt hồng chói rạng phương đông.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

RƯỚC

1.- Rước là đón mời. Như: Rước khách, rước dâu, rước thầy về chữa bệnh, rước cái của nợ.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ai đặng phước thêm cao trọng, ai vô phần thì trí não vẫn mờ hồ, nét hạnh đời càng mê muội, biết biết không không, luật Trời đã định, phần công quả trả cho rồi thì cảnh u nhàn là nơi rước khách tục trong lúc chung quy đó.

Mở rộng đường mây rước khách trần,

Bao nhiêu tình gợi nhắn nguyên nhân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bến mê rước khách thuyền đương đợi,

Ðưa đến đào nguyên hưởng phước lành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Rước còn là đón mời một cách long trọng, có đủ nghi vệ như tàn lọng, cờ phướn, hay nhạc lễ trọng thể. Như: Rước Đức Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, rước sắc, rước Hội Thánh, rước Huấn Lịnh.

Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão Sư có câu: Nhạc còn chưa đủ thể cách, đờn để rước chư Tiên, Thánh, không phải vậy là đủ. Người nhạc công phải ăn mặc tinh khiết, sắp đặt vào khởi Nhạc phải có thứ lớp phân minh, chớ chẳng phải muốn đờn bài chi cũng đặng.

Ơn Tạo hoá tha tiền khiên trước,

Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.

(Kinh Thế Đạo).

Lọng tàn vui rước người ba miệng,

Nghi trượng hoan nghinh Mắt một tròng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

RƯỚC YẾN MỜI ANH

Yến anh: Chim én, chim anh, thường dùng để chỉ việc trăng hoa, chơi bời.

Rước yến mời anh ý nói tụ tập trai gái ăn chơi, tình tự không đứng đắn.

Đừng học chiều rước yến mời anh,

Kìa nhục chốn lầu xanh xem những kẻ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RƯỚC VOI PHÁ MẢ

Rước voi: Dẫn voi từ trong rừng về. Phá mả: Phá hoại mồ mả.

Rước voi phá mả, do câu tục ngữ “Rước voi giầy mả tổ”, là mượn tay bên ngoài mà phá hại trong nhà, ý nói những người mượn binh lực nước ngoài về giày xéo đất nước và nhân dân.

Đồng nghĩa với câu “Cõng rắn cắn gà nhà”.

Rước voi phá mả đào lăng miếu,

Thả rắn xua ong nhiễu điện tà.

(Đạo Sử).

 

 

RƯỚI

Rưới là rảy cho thấm đều từng tý một lên khắp bề mặt của một vật. Như: Rưới nước cốt lên bánh bò.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðạo Trời qua bến tục, đường Thánh dẫn khách trần, nếu chẳng biết thế thời, giọt nhành dương hết chờ khi rưới khổ đặng.

Kìa Chí Tôn Cao Đài đương ngự,

Rưới hồng ân chặt giữ biên cương.

(Kinh Thế Đạo).

Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,

Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tình ái nhành dương đem rưới tắt,

Nắm tay dìu lại cõi Tiên bang.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RƯỚI ÂN THIÊN

Rưới: Rảy nhẹ cho thấm đều trên bề mặt. Ân Thiên: Ơn huệ của Trời.

Rưới Ân Thiên là nói ơn huệ của Trời chan rưới xuống cho tất cả chúng sanh.

Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ,

Cúi mong Thượng Đế rưới Ân Thiên.

(Bài Dâng Hoa).

 

 

RƯỚI CHAN

Rưới: Rảy nhẹ cho thấm đều trên bề mặt. Chan: Cho nước vào vật gì.

Rưới chan, như chữ “Chan rưới”, là nói những hạt mưa, hạt sương rưới xuống thấm nhuần cho cây cỏ.

Cũng vậy, rưới chan còn dùng để chỉ những ân huệ lớn (hồng ân) của vua hay của Chí Tôn bủa khắp mọi nơi cho dân chúng chung hưởng.

Xem: Chan rưới.

Day mặt Hồng Quân ngó địa hoàn,

Rưới chan vạn vật khối sinh quang.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rưới chan tịnh thuỷ an lê thứ,

Bồi đắp sơn hà thuận nghĩa nhân.

(Bát Nương Giáng Bút).

Đổi tục về Tiên sắc đượm nhuần,

Rưới chan cho khắp giọt hồng ân.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

RƯỚI KHẮP

Rưới: Rảy nhẹ cho thấm đều trên bề mặt. Khắp: Mọi nơi, cùng cả.

Rưới khắp là rảy đều mọi nơi, ý chỉ giọt hồng ân hoặc đạo pháp của Đức Chí Tôn chan rưới đều cho tất cả chúng sanh.

Thánh giáo Thầy có câu: Ta, vì lấy đức háo sanh, mượn giọt từ bi, hội Tam Giáo, mà rưới khắp Càn khôn, để độ rước những bậc Chí Thánh đoạ trần trước kỳ Thiên điều hành phạt.

Đại Từ Phụ hồng ân rưới khắp,

Trợ giúp con đặng lập nên công.

(Kinh Thế Đạo).

Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,

Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RƯỚI KHỔ

Rưới: Rảy nhẹ cho thấm đều trên bề mặt. Khổ: Đau đớn khổ sở.

Rưới khổ là làm tiêu tan những nỗi khổ đau bằng nước Cam lộ.

Cam lộ thuỷ là loại nước thiêng liêng mầu nhiệm của chư Phật Tiên, có công năng tẩy trừ các thứ ô trược, giải tất cả oan khiên bịnh chướng, hoặc tiêu trừ những khổ não cho chúng sanh.

Ðạo Trời qua bến tục, đường Thánh dẫn khách trần, nếu chẳng biết thế thời, giọt nhành dương hết chờ khi rưới khổ đặng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

RƯỚI LỬA PHIỀN

Rưới: Tưới nhẹ cho thấm đều trên bề mặt. Lửa phiền: Phiền não được ví như ngọn lửa đang cháy.

Rưới lửa phiền là rưới nước (cam lộ) làm cho tắt ngọn lửa phiền não, tức là làm cho hết phiền não.

Tiên nguồn Thánh ngọn dò chơn đến,

Ðến đặng là phương rưới lửa phiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

RƯƠNG

Rương là cái hòm gỗ để đựng đồ dùng. Như: Rương đựng quần áo.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo phải chạy xuống nhà Chị đặng mượn tiền, gặp Chị trong buổi mắc nợ nần, lúa gạo mất giá, một giạ lúa có 2 cắc ($0.20) lúa chất đầy kho dầu có bán cũng không bao nhiêu tiền, cái nghèo của Chị nghèo chướng hơn ai hết, nghèo lạ lùng không ai tưởng tượng được, Chị không tiền, chị mới đem ra cái rương sắt (5 tấc tây) chứa đầy vàng với hột xoàn đem ra nói trong buổi khó khăn này không thể nào kiếm tiền đặng, vậy Em đem đồ này về Sài Gòn cầm không dưới tám chín chục ngàn đồng.

Tôi toại hưởng phước hồng dào dạt,

Lúa đầy kho tiền bạc đầy rương.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

RƯƠNG TRẤP

Rương: Đồ đựng vật dụng, áo quần. Trắp: Cái hộp chứa đồ vật.

Rương trắp là đồ đựng vật dụng, áo quần, khăn lược, ý chỉ bổn phận của người đàn bà lo chăm sóc cho chồng.

Thuở rương trắp hồi kinh rộn rã,

Đẹp làu làu hai đoá thiên hương.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

RƯỜNG CỘT

Hay “Rường trụ”.

Rường: Xà ngang nhỏ trong phần trên của kèo để đỡ các trụ nhỏ hay các đấu. Cột (trụ): Cây tròn được dựng thẳng đứng để chống đỡ, treo, mắc.

Rường cột, như chữ “Rường trụ”, dịch từ chữ “Lương đống 樑 棟”, có nghĩa là cây rường và cây cột là hai bộ phận quan trọng của cái nhà, dùng để chỉ chỗ dựa vững chắc nhất của một cơ cấu tổ chức, hay dùng để chỉ kẻ bề tôi quan trọng của nhà nước.

Diễn văn của Đức Thượng Sanh đọc trước Liên đài của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng: Ðạo đã mất một tay rường cột, Hiệp Thiên Ðài phải mất thêm một bạn hiền lương đạo đức đã cùng chúng tôi chia vui sớt khổ trên những bước đường đen tối, chinh nghiêng của Ðạo.

1- Rường cột:

Rường cột mặc ai đưa nổi núi,

Mình chen vào đám phế cân đai.

(Đạo Sử).

Rường cột đạo mầu bao thuở dựng,

Sụt sùi để bước khó làm thinh.

(Thơ Huệ Giác).

2.- Rường trụ:

Phần du Tiên gẫm cũng tại Thiên cơ,

Người khuất bóng thiếu tay rường trụ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

RƯỢT

Rượt là đuổi theo. Như: Rượt kẻ trộm, rượt bắt.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Ta thấy hồi sáu tướng của Hạng Võ đem lòng phản bội, đầu nhà Hớn rượt Hạng Võ đến bến Ô Giang phải cắt đầu, trao cho Ðình Trưởng.

Hễ đuổi dê thì cậy con roi,

Muốn rượt thịt thổi còi khiển chó.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RƯỢU

Rượu là chất lỏng, vị cay nồng, thường cất từ gạo, nếp hay bằng trái cây ủ với men. Như: Rượu thuốc, rượu chát, rượu chè.

Thánh giáo Thầy có dạy: Hình chất con người vẫn là thú, phải ăn uống mới nuôi sự sống. Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào ngũ tạng lục phủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng, mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng.

Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,

Non sông dạo khắp lối đêm xuân.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Lắm đứa ngu thịt rượu no say,

Chẳng nghĩ mẹ tiền may bạc vá.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

RƯỢU QUỲNH

Rượu: Chất lỏng, có vị cay nồng, thường cất từ gạo nếp, trái cây ủ với men. Quỳnh: Ngọc quỳnh, một loại ngọc quý màu đỏ, thường được vua chúa hoặc các nhà phú quý dùng để chế thành chung uống rượu.

Rượu quỳnh, như chữ “Tửu quỳnh 酒 瓊”, là rượu đựng trong cái chung bằng ngọc quỳnh, ý muốn nói rượu ngọn, rượu quý.

Xem: Tửu quỳnh.

Chừ toan bứt mảnh tơ tình,

Trà ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

RƯỢU THỊT

Rượu: Chất lỏng vị cay nồng, thường cất từ trái cây, nếp ủ men. Thịt: Loại thức ăn lấy từ phần mềm có thớ, bọc quanh xương của động vật.

Rượu thịt, như chữ “Tửu nhục 酒 肉”, là hai thứ nằm trong điều răn của Ngũ giới cấm.

Trong đạo Cao Đài, điều thứ tư trong Ngũ Giới Cấm có viết: Tứ bất tửu nhục, là cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá độ, rối loạn tâm thần, làm cho náo động xóm làng, hoặc miệng ước rượu ngon, bụng mơ đồ mỹ vị.

Rượu thịt hằng ngày hại tấm thân,

Say sưa vất vả, bại tâm thần.

(Thơ Thiên Vân).

 

 


 )
 )(
 __)_(__
 __(_____)__
(((_________)))
 )    ׀    (

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Danh mục vần R

 

RA

Ra

Ra hầu la

Ra mồ quạt duyên

Ra tay

Ra tài lợi sanh

Ra oai

 

Rã bèn

Rã rời

Rã rục

Rã tan

 

RẠC

Rạc tù

 

RÁCH

Rách

Rách lành

Rách rưới

Rách te

 

RẠCH

Rạch

Rạch sông

 

RẢI

Rải rác

 

RAY

Ray rứt

 

RÀY

Rày

 

RÃY

Rãy

 

RAN

Ran

 

RÁN

Rán

Rán lo

Rán sức

 

RÀN

Ràn rụa

 

RÁNG

Ráng

 

RÀNG

Ràng

Ràng buộc

Ràng rịt

 

RẠNG

Rạng

Rạng ngần

Rạng ngời

Rạng soi

 

RÀNH

Rành

Rành mạch

Rành rạnh

Rành rẽ

 

RẢNH

Rảnh

Rảnh rang

Rảnh rỗi

 

RAO

Rao

Rao nam hát khách

 

RÁO

Ráo

 

RÀO

Rào

 

RẢO

Rảo

 

RẠO

Rạo

 

RÁP

Ráp

Ráp gương

 

RAU

Rau

Rau nào sâu nấy

 

RẮC

Rắc

Rắc rối

 

RẰM

Rằm

 

RĂN

Răn

Răn cấm

Răn dạy

Răn đời

Răn he

Răn mình

Răn trừng

 

RẮN

Rắn

Rắn độc thuế má

Rắn mắt

 

RĂNG

Răng

Răng cắn lưỡi

 

RẰNG

Rằng

 

RẮP

Rắp

Rắp ranh

 

RẦY

Rầy

Rầy la

 

RẪY

Rẫy bái

 

RẬM

Rậm

Rậm rạp

Rậm ri

 

RẦN

Rần rần

Rần rần rộ rộ

Rần rộ

 

RẬP

Rập

Rập rềnh

Rập rình

 

RÂU

Râu

Râu mày

 

RẦU

Rầu

Rầu buồn

Rầu rĩ

 

 

 

RẺ

Rẻ

Rẻ khinh

Rẻ rúng

 

RẼ

Rẽ

Rẽ phân

 

RÈM

Rèm

Rèm châu

Rèm là

 

RÈN

Rèn

Rèn lòng

Rèn lòng sửa nết

Rèn trau

 

REO

Reo

Reo cười

 

RÉO

Réo rắt

 

RỂ

Rể

Rể đông sàng

 

RỄ

Rễ

 

RÊN

Rên la

Rên xiết

 

RỀN

Rền

 

RÊU

Rêu

Rêu phong

 

RỈ

Rỉ rả

 

RIA

Ria

 

RỈA

Rỉa

 

RIÊNG

Riêng

Riêng biệt

Riêng tư

 

RINH

Rinh

 

RÌNH

Rình

 

RỊT

Rịt

 

RÍU

Ríu rít

 

RÌU

Rìu búa

 

RO

Ro re

 

Rõ ràng

Rõ rệt

 

RỌ

Rọ

 

ROI

Roi

Roi bồ

Roi dấu

Roi thần

Roi truyền

Roi vọt

 

RỌI

Rọi

 

RÓN

Rón rén

 

RÒNG

Ròng

 

RÓT

Rót

 

RỔ

Rổ

 

RỐI

Rối

Rối bòng

Rối bời

Rối loạn

Rối nùi

Rối rắm

 

RỒI

Rồi

 

RỖI

Rỗi

Rỗi rảnh

 

RỐN

Rốn

 

RỔN

Rổn

 

RỘN

Rộn

Rộn rã

Rộn ràng

Rộn rịp

Rộn rực

 

RỐNG

Rống

 

RỒNG

Rồng

Rồng mây

Rồng nhang

Rồng phun châu

Rồng Tiên

 

RỘNG

Rộng

Rộng lòng

Rộng quyền

Rộng tình

Rộng thinh

Rộng thứ

 

RỐT

Rốt

Rốt cuộc

Rốt ráo

 

RỚ

Rớ

 

RỠ

Rỡ

Rỡ ràng

Rỡ rỡ

 

RỢ

Rợ

 

RƠI

Rơi

Rơi trâm

 

RỜI

Rời

Rời rã

 

RỜN

Rờn rợn

 

RỞN

Rởn

 

RỢP

Rợp

 

RỚT

Rớt

Rớt rơi

 

RU

Ru

 

Rù quến

 

RỦ

Rủ ren

 

RỦA

Rủa

Rủa gà mắng vịt

Rủa sả

 

RÚC

Rúc rắc

 

RỦI

Rủi

Rủi may

Rủi ro

 

RÙM

Rùm

 

RUN

Run

Run en

 

RÚN

Rún nhau

 

RUNG

Rung

Rung chuyển

Rung rinh

 

RÚNG

Rúng động

 

RỤNG

Rụng

Rụng cải rơi kim

Rụng rời

 

RUỒI

Ruồi

Ruồi nương đuôi ký

 

RUỔI

Ruổi

Ruổi giong

 

RUỘNG

Ruộng

Ruộng cày sáu mẫu

Ruộng dâu hoá bể

Ruộng đất

Ruộng đồng

Ruộng lòng

Ruộng rẫy

Ruộng vườn

 

RUỘT

Ruột

Ruột chín chiều

Ruột rà

Ruột rối vò tơ

Ruột tằm

Ruột thịt

 

RÚT

Rút

Rút cuộc

 

RỨA

Rứa

 

RỬA

Rửa

Rửa tai

Rửa tội

 

RỮA

Rữa

 

RỰA

Rựa

 

RỰC

Rực

Rực rỡ

 

RỪNG

Rừng

Rừng chiều ác xế

Rừng Nho

Rừng Nho biển Thánh

Rừng Nhu

Rừng tòng

Rừng thiên nhiên

Rừng thiền

Rừng thung

Rừng tre

Rừng truớc

Rừng trước tử

 

RỰNG

Rựng sáng

 

RƯỚC

Rước

Rước yến mời anh

Rước voi phá mả

 

RƯỚI

Rưới

Rưới Ân Thiên

Rưới chan

Rưới khắp

Rưới khổ

Rưới lửa phiền

 

RƯƠNG

Rương

Rương trấp

 

RƯỜNG

Rường cột

 

RƯỢT

Rượt

 

RƯỢU

Rượu

Rượu quỳnh

Rượu thịt

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Ra | | Rạc | Rách | Rạch | Rải | Ray | Rày | Rãy |
Ran | Rán | Ràn | Ráng | Ràng | Rạng | Rành | Rảnh |
Rao | Ráo | Rào | Rảo | Rạo | Ráp | Rau |
Rắc | Rằm | Răn | Rắn | Răng | Rằng | Rắp |
Rầy | Rẫy | Rậm | Rần | Rập | Râu | Rầu |

| | Rẻ | Rẽ | Rèm | Rèn | Reo | Réo |
Rể | Rễ | Rên | Rền | Rêu |

Rỉ | Ria | Rỉa | Riêng |
Rinh | Rình | Rịt | Ríu | Rìu |

Ro | | Rọ | Roi | Rọi | Rón | Ròng | Rót |
Rổ | Rối | Rồi | Rỗi |
Rốn | Rổn | Rộn | Rống | Rồng | Rộng | Rốt |
Rớ | Rỡ | Rợ | Rơi | Rời |
Rờn | Rởn | Rợp | Rớt |

Ru | | Rủ | Rủa | Rúc | Rủi |
Rùm | Run | Rún | Rung | Rúng | Rụng |
Ruồi | Ruổi | Ruộng | Ruột |
Rút |
Rứa | Rửa | Rữa | Rựa | Rực |
Rừng | Rựng |
Rước | Rưới | Rương | Rường | Rượt | Rượu |


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cập nhật ngày: 09-06-2020

RA | | | RE | | RI | RO | | | RU |


A | B | C | CH | D | Đ | E | G | H | I-Y | K-KH | L | M | N | NG | NH | O | P | Q | R | S | T | TH | TR | U | V | X


[ MỤC LỤC ]

Ấn bản (v.2018)

TỪ NGỮ ĐIỂN CỐ CAO ĐÀI
Soạn giả: Hiền Tài Quách Văn Hoà

DOWNLOAD
E-book-PDF