TỪ NGỮ ĐIỂN CỐ CAO ĐÀI

 

 

Danh mục vần V

 

Vá may

Vá trời

 

VẢ

Vả

Vả lại

Vả xiên ngắt xéo

 

VẠ

Vạ

Vạ gió tai trời

 

VÁC

Vác

 

VẠC

Vạc

Vạc ngã

Vạc ngã thành xiêu

 

VÁCH

Vách có âm thinh

 

VẠCH

Vạch

 

VAI

Vai

Vai tuồng

Vai trò

 

VÁI

Vái

Vái van

 

VÀI

Vài

 

VẢI

Vải

Vải bô

 

VÃI

Vãi

 

VAY

Vay

Vay mượn

Vay trả

 

VÁY

Váy

 

VẢY

Vảy

 

VẠY

Vạy

Vạy tà

Vạy vò

 

VÀM

Vàm

Vàm Cỏ Đông

 

VAN

Van

Van vái

 

VÁN

Ván

 

VÃN

Vãn hồi

 

VẠN

Vạn

Vạn ban

Vạn bang

Vạn bất đắc dĩ

Vạn bệnh hồi xuân

Vạn cổ

Vạn chủng

Vạn dặm trường

Vạn đại

Vạn hộ

Vạn hữu

Vạn kiếp

Vạn linh

Vạn lý

Vạn Lý Trường Thành

Vạn loại

Vạn loại thiện ác tất kiến

Vạn pháp

Vạn Pháp Cung

Vạn quốc

Vạn sự

Vạn sự do Thiên

Vạn sự do Thiên định

Vạn sự viết vô

Vạn tượng

Vạn thế

Vạn thù

Vạn trượng

Vạn vật

Vạn vật đồng nhứt thể

 

VANG

Vang

Vang dội

Vang rân

Vang rền

Vang mày

 

VÀNG

Vàng

Vàng đá

Vàng trui lửa

Vàng son

Vàng thau

Vàng thau ngọc thạch

Vàng xi

 

VÃNG

Vãng

Vãng lai

Vãng sanh

 

VÀNH

Vành

 

VÀO

Vào

Vào lòn ra cúi

 

VĂN

Văn

Văn ban võ bá

Văn chương

Văn chương quốc âm

Văn đàn

Văn đằng

Văn hào

Văn hiến

Văn hoá

Văn kiện

Văn miếu

Văn minh

Văn nghệ

Văn nhơn

Văn nhân tài tử

Văn Pháp

Văn Quân

Văn tài

Văn tải đạo

Văn Tuyên

Văn từ

Văn thi

Văn Thù Bồ Tát

Văn uyển

Văn Vương

 

VẮN

Vắn

Vắn ngủn

Vắn tắt

Vắn vỏi

 

VẰN

Vằn vện

 

VẶN

Vặn

 

VĂNG

Văng

Văng vẳng

 

VẮNG

Vắng

Vắng bặt

Vắng bóng

Vắng dạng

Vắng hoe

Vắng mặt

Vắng vẻ

 

VẮT

Vắt

 

VÂY

Vây

Vây cánh

 

VẤY

Vấy

 

VẦY

Vầy

Vầy bừa

Vầy đạp

Vầy đông

Vầy hiệp

Vầy vã

Vầy vò

 

VẪY

Vẫy vùng

 

VÂN

Vân

Vân ám đảnh hồ

Vân cẩu

Vân du

Vân du Thiên ngoại

Vân đài

Vân lôi

Vân trình

Vân xa

 

VẤN

Vấn

Vấn an

Vấn danh

Vấn đề

Vấn nạn

Vấn vương

 

VẦN

Vần

Vần ngược

Vần vũ

Vần xây

Vần xuôi

 

VẨN

Vẩn

Vẩn vơ

 

VẪN

Vẫn

 

VẬN

Vận

Vận bĩ

Vận cùng

Vận cùng thông

Vận chuyển

Vận động

Vận hành

Vận hội

Vận mạng

Vận mệnh

Vận rủi

Vận suy

Vận tải

Vận tử hồi môn

Vận thới

Vận thời

Vận trù

 

VÂNG

Vâng

Vâng lời

Vâng phục

 

VẦNG

Vầng

Vầng ô

 

VẤP

Vấp

 

VẤT

Vất vơ

 

VẬT

Vật

Vật chất

Vật chất lợi danh

Vật chơi

Vật dục

Vật dụng

Vật đổi sao dời

Vật hoán tinh di

Vật hữu linh

Vật liệu

Vật loại

Vật tối linh

Vật thực

 

VẤU

Vấu

 

VE

Ve

 

VẺ

Vẻ

Vẻ đẹp

Vẻ ngọc

Vẻ Vang

 

VẼ

Vẽ

 

VEN

Ven

 

VÉN

Vén

 

VẸN

Vẹn

Vẹn gìn

Vẹn giữ

Vẹn phận

Vẹn toàn

Vẹn tròn

Vẹn vẽ

 

VÈO

Vèo

 

VẸO

Vẹo

 

VẸT

Vẹt

Vẹt ngút mây xanh

 

VỀ

Về

 

VỆ

Vệ

Vệ sinh

 

VẾT

Vết

 

VỆT

Vệt

 

VI

Vi

Vi bằng

Vi chủ

Vi chứng

Vi diệu pháp

Vi Hộ

Vi Hộ Pháp

Vi lịnh

Vi nhân bất phú

Vi nhơn nan

Vi phú bất nhân

Vi rồng

Vi Thánh Thần Tiên Phật chi chủ

 

Ví bằng

Ví dầu

Ví dụ

Ví như

 

Vì chưng

 

Vĩ đại

Vĩ nhân

 

VỊ

Vị

Vị bài

Vị kỷ

Vị nể

Vị quốc

Vị quốc vong thân

Vị quốc vong xu

Vị sanh

Vị tất

Vị tình

Vị tha

Vị Thánh

Vị xưa

 

VÍA

Vía

 

VICTOR

Victor Hugo

 

VIỆC

Việc

Việc lành nhỏ nhít cũng là công phu

 

VIÊM

Viêm Đế

Viêm lương

 

VIÊN

Viên

Viên gạch khởi công

Viên mãn

Viên quan

Viên tịch

 

VIỀN

Viền

 

VIỂN

Viển vông

 

VIỄN

Viễn cận

Viễn trấn

Viễn vọng

Viễn xứ

Viễn xứ tha hương

 

VIẾNG

Viếng

Viếng sớm thăm hôm

Viếng thăm

Viếng thăm hôm sớm

 

VIẾT

Viết

Viết chàng Hồ

 

VIỆT

Việt

Việt chủng

Việt đảnh

Việt Hồ

Việt kiều

Việt phong

Việt Thường

Việt Vương

 

VIN

Vin

Vin nhành quế

 

VỊN

Vịn

 

VINH

Vinh

Vinh diệu

Vinh hạnh

Vinh hiển

Vinh hoa

Vinh hoa lợi lộc

Vinh huê

Vinh nhục

Vinh quang

Vinh quy

Vinh quy bái tổ

Vinh sang

Vinh tông

Vinh thân

Vinh thê ấm tử

Vinh xú

 

VĨNH

Vĩnh

Vĩnh biệt

Vĩnh biệt ngàn thu

Vĩnh cửu

Vĩnh hằng

Vĩnh kiếp

Vĩnh kiếp quần sanh ngưỡng kỳ huệ đức

Vĩnh mộc từ ân

Vĩnh Nguyên Tự

Vĩnh quyết

Vĩnh sanh

Vĩnh sùng chánh giáo

Vĩnh tồn

Vĩnh trường

Vĩnh viễn

 

VỊNH

Vịnh

 

VỊT

Vịt

 

VỸ

Vỹ Sinh

 

Vó câu

Vó câu cửa sổ

Vó cu

Vó ký

Vó kỳ

Vó ngựa

 

 

VỎ

Vỏ

 

Võ bị

Võ đài

Võ Đông Sơ Thu Hà

Võ Hầu

Võ Kiết

Võ lộ

Võ lực

Võ môn

Võ phu

Võ Tắc Thiên

Võ trang

Võ trụ

Võ Vương

 

VÓC

Vóc

Vóc ngọc

 

VỌC

Vọc

 

VOI

Voi

Voi cày chim cấy

Voi vày mả tổ

 

VÓI

Vói

 

VÒI

Vòi vọi

 

VỌI

Vọi vọi

 

VONG

Vong

Vong ân

Vong hồn

Vong hồn tiến hoá

Vong linh

Vong như tồn

Vong phàm

Vong phế

Vong quốc

Vong thân

Vong xu

 

VÒNG

Vòng

Vòng hắc ám

Vòng lý khổ

Vòng Minh Khí

Vòng trần

Vòng xây chuyển

 

VÕNG

Võng dù

 

VỌNG

Vọng bái

Vọng cầu

Vọng động

Vọng niệm

Vọng nguyệt

Vọng ngoại

Vọng ngữ

Vọng ngưỡng

Vọng nhựt

Vọng phu

Vọng tâm

Vọng tưởng

Vọng Thiên

Vọng Thiên cầu Đạo

 

VỌP

Vọp bẻ

 

VỌT

Vọt

 

Vô biên

Vô can

Vô can sát mạng

Vô căn

Vô cùng

Vô cùng vô tận

Vô cực

Vô cực vô thượng

Vô duyên

Vô dụng

Vô đạo

Vô Địa Ngục

Vô đối

Vô giá

Vô hậu kế đại

Vô hình

Vô hình vô ảnh

Vô hồn viết tử

Vô ích

Vô kiếp

Vô lao bất phục hồi

Vô lối

Vô lương

Vô lượng

Vô lượng độ nhơn

Vô minh

Vô ngã

Vô ngằn

Vô ngần

Vô nhân

Vô phần

Vô phước

Vô phương

Vô quả

Vô Quỷ quan

Vô sách

Vô sự tiểu thần tiên

Vô tâm

Vô tận

Vô tình

Vô tư

Vô tư vô vị

Vô thần

Vô thường

Vô ưu

Vô vi

Vô vi cư Thái cực chi tiền

Vô Vi nhi dịch sử quần linh

Vô vị

 

VÔI

Vôi

 

VỘI

Vội

Vội vã

Vội vàng

 

VỐN

Vốn

Vốn liếng

Vốn lời

 

Vơ vẩn

Vơ vét

 

VỞ

Vở

 

VỠ

Vỡ

Vỡ đầu

Vỡ lòng

Vỡ lở

 

VỢ

Vợ

Vợ con khám ngục

Vợ Châu Công canh cữi

Vợ chồng

Vợ hiền trọn trinh

Vợ tế chồng

Vợ tôi chồng chúa

 

VƠI

Vơi

Vơi vơi

 

VỚI

Với

 

VỜI

Vời

Vời vợi

 

VỜN

Vờn

 

VỚT

Vớt

 

VU

Vu cáo

Vu Hựu

Vu Lan

Vu oan

Vu quy

Vu san

 

 

Vũ bão

Vũ đài

Vũ lộ

Vũ trụ

 

VỤ

Vụ

Vụ lợi

Vụ tất

 

VUA

Vua

Vua chúa

Vua Trời

 

VÙA

Vùa

Vùa giúp

Vùa sức

 

VUI

Vui

Vui cười

Vui chơi

Vui hạc cầm

Vui hứng

Vui lòng

Vui mừng

Vui say

Vui tươi

Vui thú

Vui vầy

Vui vẻ

 

VÙI

Vùi

Vùi dập

Vùi lấp

Vùi thân

 

VUN

Vun

Vun bồi

Vun đắp

Vun quén

Vun trồng

Vun vút

 

VÙN

Vùn vụt

 

VỤN

Vụn vằn

 

VUNG

Vung

 

VÙNG

Vùng

Vùng vẫy

 

VŨNG

Vũng

 

VỤNG

Vụng

Vụng về

 

VUÔNG

Vuông tròn

 

VUỐT

Vuốt

Vuốt ve

 

VỤT

Vụt

 

VỪA

Vừa

Vừa ý

Vừa lòng

Vừa vặn

 

VỰA

Vựa vàng

 

VỨC

Vức

 

VỰC

Vực

Vực binh

Vực nước

Vực sâu

Vực sâu hang thẳm

Vực thẳm hang sâu

 

VƯNG

Vưng

 

VỪNG

Vừng

Vừng đông

Vừng đông rạng

 

VỮNG

Vững

Vững bền

Vững bước

Vững chãi

Vững chắc

Vững tâm

Vững vàng

 

VƯỜN

Vườn

Vườn dâu

Vườn đào

Vườn hồng

Vườn Ngạn Uyển

Vườn thu vắng khách

 

VƯỢN

Vượn hú chim kêu

 

VƯƠNG

Vương

Vương bá

Vương bá công hầu

Vương Duy

Vương đạo

Vương giả

Vương Khải

Vương mang

Vương Mẫu

Vương Tân sách phụ

Vương tôn

Vương tơ

Vương Tường

Vương thần loạn ngôi

Vương Thị Lễ

Vương Thôi

Vương vấn

Vương víu

 

VƯỚNG

Vướng

Vướng mắc

 

VƯỢNG

Vượng

 

VƯỢT

Vượt

 

 

 

 

 

 

 

 

V

 

là lấy một miếng vải hoặc giẻ để vào chỗ thủng, rách mà khâu lại.

Như: Áo rách khéo vá hơn lành vụn may.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Cuộc tranh đấu của Cao Đài hôm nay chẳng khác nào như áo quàng, thật khi Ngài về được nước nhà chính mình Đức Thượng Hoàng Thành Thái và tôi có gặp mặt nhau một phen ở Saigon tôi còn nhớ một cái chí khí già rồi mà vẫn còn mãi mãi.

Chị vừa manh quần tấm áo,

Ra đá bò đánh đáo rách te.

(Phương Tu Đại Đạo).

Lắm đứa ngu thịt rượu no say,

Chẳng nghĩ mẹ tiền may bạc .

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÁ MAY

Vá: Làm kín chỗ bị rách, bị thủng, bị hở bằng cách phủ lên một mảnh, một lớp và làm cho gắn chặt vào. May: Dùng kim chỉ kết những mảnh vải lụa thành quần áo hoặc đồ dùng.

Vá may, như chữ “May vá”, là may và vá quần áo, chỉ công việc của đàn bà công gái.

Như: Chị ấy rất khéo về vá may, thêu thùa.

Gái chuyên lo học tập vá may,

Trai gắng sức dồi mài kinh sử.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÁ TRỜI

Vá: Lấp lại chỗ hư thủng. Trời: Bầu trời, chỉ khoảng mênh mông, rộng lớn trên không.

Vá trời, dịch từ chữ “Bổ thiên 補 天”, do điển tích bà Nữ Oa, con gái vua Phục Hy, thường luyện đá ngũ sắc để vá trời. Ý nói người có chí lớn, hay làm những việc to lớn, phi thường.

Xem: Bổ thiên.

Cứu thế độ đời tua gắng sức,

Vá trời lấp bể vượt Thiên môn.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

VẢ

1.- Vả là tiếng trợ từ để nối thêm ý, thêm lẽ, có nghĩa hơn nữa, thêm vào đó.

Như: Vả lại tôi không thích, vả cũng không có thời giờ nên không đi xem.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Vả lại, cái chí hướng của người học Ðạo là trau mình cho được sáng hầu giúp cho kẻ khác cũng được sáng như mình, tức là tự giác nhi giác tha.

Vả chăng hễ hoà mới hiệp, hiệp mới có định, mà hễ có định mới có an.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Vả là xoè bàn tay mà đập vào mặt người ta. Như: Vả miệng, vả vào mặt, vả vào má.

Truyền Kiều của Nguyễn Du có câu: Vội vàng xuống lệnh ra uy, Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng.

Cột trói ngược quá kinh rất lạ,

Quỷ Dạ xoa đánh vả kẹp cưa.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VẢ LẠI

Vả: Trợ từ dùng để nối thêm ý, thêm lời. Lại: Thêm lần nữa, một lần nữa.

Vả lại là thêm vào đó, hơn nữa. Như: Vả lại tôi không có thời giờ.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy: Chư Đạo hữu phải hiệp sức nhau đặng lập thành Toà Thánh, chi chi cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi. Vì là Thánh Địa, vả lại phong thổ thuận cho nhiều nước ngoại quốc đến đây học Đạo.

Vả lại, lòng tự nhiên của dân là muốn điều lành ghét điều ác, cứ do theo lòng dân ấy mà trị dân tức là dìu dắt dân đến con đường hạnh phúc.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VẢ XIÊN NGẮT XÉO

Vả ngắt: Vừa vả vừa ngắt, ý chỉ rầy mắng của mẹ. Xiên xéo: xỏ xiên, nói một cách bóng gió để tỏ ý không kính trọng, hoặc đả kích ái đó.

Vả xiên ngắt xéo ý chỉ không rầy thẳng mà mắng một cách bóng gió, xỏ xiên.

Như: Tật của nó là hay vả xiên ngắt xéo.

Đừng tức mẹ vả xiên ngắt xéo,

Ấy phép linh mẹ sửa méo ra tròn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẠ

Vạ là tai hoạ, điều hại bỗng dưng đến với người nào đó. Như: Rước vạ vào thân, lây vạ.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Cái hoạ lây vạ tràn kia, nhiều khi phải bôi xoá đến công trình xứng đáng của mỗi con và nhận chìm luôn đến con thuyền Bát Nhã.

Xáo trộn tinh thần qua vạ gió,

Phũ phàng bão tố nghẽn đường mây.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VẠ GIÓ TAI TRỜI

Vạ gió: Tai hoạ thình lình bay đến. Tai trời: Tai nạn xui khiến gặp phải.

Vạ gió tai trời, như thành ngữ “Vạ gió tai bay”, là nói tai vạ từ đâu đưa đến, như gió bay đến một cách thình lình.

Vạ gió tai trời trót tháng qua,

Như vàng trui lửa tuổi thêm già.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VÁC

Vác là cầm cái gì để lên vai mà mang đi. Như: Vác cuốc ra đồng làm rẫy.

Vác, nói tắt chữ “Gánh vác”, có nghĩa là gánh lấy việc khó khăn, nặng nề.

Như: Vác một nhiệm vụ nặng nề, vác việc non sông.

Oằn vai Thần đạo non sông vác,

Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.

(Thơ Thượng Phẩm).

 

 

VẠC

Vạc là đồ trần thiết bằng kim loại, hình như cái vạc to có ba chân, để ở nơi triều đình hoặc miếu thờ.

Vạc tượng trưng cho đất nước.

Như: Vạc nhà Chu, vạc nhà Hán, vạc đồng, vạc ngã thành xiêu.

Đỡ nâng vạc cả dành tay đạo,

Búa Việt phải toan gắng giữ gìn.

(Quyền Giáo Tông).

 

 

VẠC NGÃ

Vạc: Đồ bằng kim loại, có ba chân, để ở nơi triều đình hoặc miếu thờ, tượng cho đất nước. Ngã: Đổ lăn xuống đất, nghiêng ngửa.

Vạc ngã là cái đỉnh đồng bị lật ngã, ý muốn nói đất nước trong tình trạng nghiêng ngửa.

Vạc ngã người đày trâu ngựa kéo,

Gia tàn yến rủ gió mưa tuông.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

VẠC NGÃ THÀNH XIÊU

Vạc: Do chữ đỉnh 鼎, tượng trưng cho đất nước. Vạc ngã: Chỉ đất nước nghiêng ngửa. Thành xiêu: Thành trì xiêu đổ.

Vạc ngã thành xiêu ý nói đất nước và thành trì gặp hồi nghiêng nghèo, xiêu đổ.

Vạc ngã thành xiêu nào kể đến,

Đai cân rực rỡ miễn cao ngôi.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

VÁCH CÓ ÂM THINH

Vách: Bức phên, hoặc xây tường để che chắn hay ngăn cách trong nhà. Có âm thinh: Có tiếng.

Vách có âm thinh, do từ nghĩa câu tục ngữ “Tai vách mạch rừng”, tức là vách có tai, nghe được tiếng thì lậu chuyện ra hết, không giữ kín được.

E khi vách có âm thinh,

Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VẠCH

1.- Vạch là rẽ, banh ra vẹt ra để có được khoảng trống bị che khuất.

Như: Vạch lưng chỉ thẹo, vạch hang bắt chuột.

Chừng biết thương cha mẹ hết đời,

Dầu moi đất vạch Trời tìm chẳng đặng.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Vạch là nêu ra, làm cho thấy rõ để theo đó mà thực hiện. Như: Vạch kế hoạch để hoạt động.

Thánh giáo Đức Chí Tôn bằng Pháp văn, do Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Con ráng tiếp tục đi trên con đường vạch sẵn ấy để theo đuổi đến mức cuối cùng. Nhiều Ðấng Anh linh sẽ dìu bước cho con. Các lời cầu nguyện của con sẽ được chuẩn nhận.

Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,

Vạch lưng con viết chữ để dành.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VAI

1.- Vai là bộ phận ở hai bên cổ, nối liền thân với cánh tay. Như: Quảy gánh trên vai.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ngày nay đã mất hết một người môn đệ của Thầy, lại là một đạo hữu của các con, đã cùng các con nghiêng vai gánh vác một trách nhậm trong Ðại Ðạo Tam Kỳ.

Lộc nước gắng đền công chín tháng,

Nợ nhà tua vẹn gánh hai vai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðồ thơ oằn oại gánh nghiêng vai,

Mặc khách làng văn nhọc chớ nài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Gồng gánh hai vai nặng nợ trần,

Có thân âu hẳn khổ cho thân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Vai coi là biểu tượng của sức lực. Như: Kề vai chiến đấu, chung vai gánh vác.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trung và Thứ hoà hợp với nhau, để đem công bình, bác ái lại cho thiên hạ, cùng nhau góp sức chung vai nâng đỡ nhau về cùng Thượng Ðế toàn thiện toàn mỹ.

Vùi sầu nay gắng chung vai gánh,

Hưởng phước sau may hiệp bước đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Vai là người đóng một nhân vật nào trên sân khấu, trong tuồng hát hoặc trong phim ảnh.

Như: Vai chính trong vở kịch, đóng vai hề.

Tay trượng phu cầm mảnh má đào,

Tranh vai kép vai đào chi cho rộn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VAI TUỒNG

Vai: Chỉ người đóng vai trong tuồng hát, hay giữ một chức vụ trong xã hội. Tuồng: Tuồng hát, vẻ bộ tịch.

Vai tuồng, như chữ “Vai trò”, chỉ người giữ một chức vụ gì trong xã hội, hay trong vở kịch.

Thánh giáo Thầy có dạy: Sanh đứng vào vòng thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng đặng chờ lúc kết quả, hồn quy Thiên ngoại, lánh khỏi xác phàm, trở về nơi khởi hành mà phục các điều đã thi hành giữa sân khấu là chốn trần ai khốn đốn nầy.

Công khanh xạo xự cũng vai tuồng,

Ðêm lặng rừng thiền lóng tiếng chuông.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vai tuồng chưa mãn còn vinh nhục,

Nấm đất rồi chôn dứt khóc cười.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

VAI TRÒ

Vai: Người đóng nhân vật nào trong tuồng hát, nghĩa bóng địa vị chức vụ. Trò: Cuộc diễn ra để tiêu khiển hoặc để lừa thiên hạ, như trò xiếc, trò mị dân.

Vai trò là người giữ một chức vụ gì trong xã hội, hay trong một vở kịch. Như: Giữ vai trò quyết định.

Thánh giáo bằng Pháp Văn của Đức Chí Tôn được Hội Thánh dịch ra Việt Ngữ có câu: Thầy chỉ định con lãnh một vai trò bạc bẽo mà nhân đạo. Con vì tâm tình cao thượng mà cứu vãn sự sụp đổ của một dân tộc đã hấp thụ một nền văn minh tối cổ.

Bát Nhã chi sờn trận bão to,

Chạnh thương thuyền trưởng nặng vai trò.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

VÁI

Vái chắp tay giơ lên hạ xuống, đồng thời cúi đầu để tỏ lòng cung kính hoặc để cầu xin các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Như: Vái chào từ biệt, vái Trời khấn Phật.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy như sau: Khi hai vị Ðầu Sư vái rồi, phải đến trước Bửu điện Thầy mà làm lễ (12 lạy) và trước ngôi Giáo Tông (9 lạy), rồi biểu Giảng xướng lên: “Phục vị”, thì hai người leo lên ngồi.

Tấc lòng đòi đoạn đau thương,

Chơn mây vái với hương hồn hiển linh.

(Kinh Thế Đạo).

Vái cùng Sư Phụ linh thiêng,

Chứng lòng đệ tử đáp đền ơn xưa.

(Kinh Thế Đạo).

Đừng chê tánh già hay thờ lạy,

Bởi nuôi con khấn vái biết bao phen.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÁI VAN

Vái: Chắp tay, cúi đầu để tỏ lòng cung kính theo nghi lễ xưa, hoặc để cầu xin Trời, Phật. Van: Nói khẩn khoản, thiết tha và nhún nhường để cầu xin sự đồng ý.

Vái van, như chữ “Van vái”, là tự cúi mình cầu xin một cách thành tâm.

Vái van xin quý Cửu Thiên Nương,

Tâu với Ngọc Hư tỏ ngọn nguồn.

(Đạo Sử).

Thiệt dạ Ta khuyên về ít bữa,

Vái van thưa tội với Ông Trời.

(Đạo Sử).

 

 

VÀI

Vài là dùng để chỉ số ước lượng không nhiều, khoảng hai, ba mà thôi. Như: Nhà có vài người, ăn vài chén cơm.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Cái Chánh cái Tà rồi đây sẽ phân biệt nhau. Nếu các con còn để một vài điểm mờ hồ trong dạ thì làm sao chóng đến nơi đến chốn đặng?

Lòng Trời đâu có phụ riêng ai,

Ai đạo đức hơn trổi một vài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Khuyên lòng khá niệm vài câu kệ,

Bể Thánh nghiêng tai lóng tiếng đờn.

(Đạo Sử).

 

 

VẢI

Vải là hàng dệt bằng sợi bông, thường thô, phân biệt với hàng tơ lụa. Như: Anh hùng áo vải.

Thánh giáo Thầy có câu: Lễ Sanh Nữ phái mặc như Giáo Hữu, nhưng choàng ngang trên đầu một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí dài một mí vắn, ngay đầu tóc có giắt một Bông sen.

Mua vải dùm em để phất diều,

Treo văn trước mõ mới là kêu.

(Bát Nương Giáng Bút).

Đừng chịu phận thây đi thịt chạy,

Uổng hột cơm tấm vải của đời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẢI BÔ

Vải: Đồ dệt bằng sợi bông, thường là thô. Bô: Một loại cây dùng dệt vải.

Vải bô là vải dệt bằng sợi bô, một loại vải thô, vải dầy, xấu và rẻ tiền, chỉ cảnh nghèo

Vải bô còn dùng cho kẻ ẩn dật hay người tu để tạm che thân. Như: Quần vải áo bô.

Trong Tân Luật, Điều thứ hai mươi mốt về phần Thế đạo có quy định: Người bổn đạo ăn mặc phải cần kiệm, tuỳ phận tuỳ dươn; cũng nên dùng đồ vải bô và giảm bớt hàng lụa.

Xem: Bô vải.

Bốn mùa no dạ nhờ dưa muối,

Tám tiết che mình với vải bô.

(Thơ Thượng Sanh).

Gấm nhiễu kim thời khoe mỹ lệ,

Vải bô cổ tục lựa phô trang.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

VÃI

1.- Vãi là người đàn bà theo đạo Phật, ở giúp việc cho nhà chùa.

Ca dao có câu: Trên chùa chú tiểu mười ba, Ông sư mười bốn, vãi già mười lăm.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðầu Sư Nữ phái mặc một Ðạo phục y như Ðạo phục Ðầu Sư Nam phái, phải đội một Ni Kim Cô như các vãi chùa, toàn hàng trắng, chín dải, áo có thêu bông sen.

Vãi trọc hơn trang Hoàng Hậu thế,

Cửa chùa yên tịnh chẳng như đô.

(Đạo Sử).

2.- Vãi là ném vung ra, rải rộng ra nhiều phía.

Như: Vãi lúa giống xuống ruộng, vãi chài xuống sông bắt cá, vãi cát ra sân.

Ngươi Trọng Sơn sạch mình đến đỗi cho ngựa uống nước rồi vãi tiền xuống sông mà trả...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VAY

Vay là mượn tiền hay vật của ai để dùng rồi sau phải trả lại, thường cộng thêm tiền lời. Như: Vay tiền để buôn bán, vay thóc để ăn.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Chí Tôn có dạy là dân tộc Việt Thường đang ở trong vòng vay trả oan nghiệp, nhưng hơn 20 năm qua đã hứng chịu nạn binh đao thảm khốc, sự đau khổ đã chập chồng trên đất nước, dù là nơi an tịnh tu hành cũng không tránh khỏi thảm hoạ chết chóc, sự nghiệp tiêu tàn, cửa nhà đổ vỡ.

Biến chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,

Trả vay cho sạch vết oan khiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Như nhiên lành phước dữ tai ương,

Một trả một vay cũng lẽ thường.

(Đạo Sử).

 

 

VAY MƯỢN

Vay: Mượn rồi sau trả lại, thường chịu tiền lời. Mượn: Lấy của người dùng trong một thời gian rồi trả lại, với sự đồng ý của người đó.

Vay mượn nói chung là vay. Như: Tuy thiếu nhưng không vay mượn của ai.

Vay mượn còn có nghĩa lấy cái đã có sẵn của người dùng làm của mình, thay cho tự mình sáng tạo ra. Như: Vay mượn cốt truyện.

Túng cùng vay mượn của người,

Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.

(Kinh Sám Hối).

Hễ bần cùng thì vay mượn,

Phải phận vướng nợ nần.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VAY TRẢ

Vay: Mượn rồi sau trả lại, thường chịu tiền lời. Trả: Hoàn, đưa lại.

Theo luật nhơn quả, khi con người đầu kiếp xuống thế gian là đền trả món nợ vay mượn. Nếu trả xong nợ cũ rồi, lại vay nợ mới thì kiếp sau tiếp tục trả cho xong món nợ vừa vay, cứ thế hết trả đến vay, hết vay đến trả, thì con người cứ mãi trôi lăn trong vòng luân hồi sinh tử.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Bậc nhơn sanh vì đó mà phải chịu thiên niên chìm đắm vào số luân hồi, vay trả trả vay, căn quả chẳng bao giờ tiêu đặng.

Hai đường hoạ phước tua lừa lọc,

Vay trả cơ Trời chớ dể khinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thua được, được thua phiền luỵ mãi,

Trả vay, vay trả nghiệp nhân còn.

(Thuần Đức).

Vay trả nợ đời sạch mới thôi,

Trái oan gầy vướng đoạ luân hồi.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

VÁY

Váy là đồ mặc che nửa thân dưới của đàn bà, không chia làm hai ống như quần.

Như: Quần là váy lĩnh, chị ấy mặc váy ngắn.

Vinh thì chàng mão thiếp cân,

Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VẢY

Vảy hay vẩy là những mảnh nhỏ và cứng bằng chất sừng hay xương bám vào da con cá, con tê tê...

Như: Đánh vảy cá, vảy ốc, vảy tê tê, rồng giương nanh trương vảy.

Xem xuống Thất Đầu Xà trương vảy,

Quấn vòng quanh ba cái cẩm đôn.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

VẠY

Vạy là cong, không thẳng. Như: Con sông khúc vạy khúc ngay.

Vạy còn có nghĩa là tà, không ngay thẳng, không chơn chánh. Như: Vạy tà, nẻo vạy.

Thánh giáo Thầy có dạy: Ôi! Tấc bóng quang âm nhặt thúc, mà xem lại tâm hạnh của mỗi con của Thầy thì nét Ðạo vẫn kém hơn, đức chưa thêm được, tâm chí mòn mỏi lối đường ngay mà nấu nung về nẻo vạy, e cho nền tảng thiêng liêng đồ sộ phải nghiêng ngửa.

Nguồn Tiên, đạo Thánh dìu bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẻo vạy, bước đường ngay,...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VẠY TÀ

Vạy: Cong, không thẳng. Tà: Gian dối, không ngay thẳng.

Vạy tà, do chữ “Tà vạy”, là gian dối, xảo trá, không ngay thẳng, không chơn chánh.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi nơi Thiên luật.

Xem: Tà vạy.

Một nét vạy tà Thần Thánh chép,

Rèn lòng trong sạch thoát mê tân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ca diêu đã ví giấc Nam Kha,

Kiếp sống dữ răn nết vạy tà.

(Đạo Sử).

 

 

VẠY VÒ

Vạy: Cong, không thẳng, gian tà.

Vạy vò là tà vạy, gian tà, tức không ngay thẳng, không chơn chánh.

Như: Những việc vạy vò, người tu phải xa lánh.

Việc chi cũng có chánh tà,

Làm điều phải nghĩa lánh xa vạy vò.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VÀM

Vàm là cửa rạch, cửa ghềnh chảy ra sông.

Trên ngã ba của sông, nơi dòng nước rạch chảy ra sông, hoặc dòng nước của sông con chảy ra sông lớn, gọi là vàm.

Như: Nước chảy mạnh vào vàm rạch, thuyền đậu ngoài vàm sông.

Tuỳ tánh tuỳ tâm lo đức nghiệp,

Ðò xưa đưa rước đậu vào vàm.

(Đạo Sử).

Vào vàm thế sự lắm gay go,

Nửa kiếp hằng lo mỏi sức trò.

(Đạo Sử).

 

 

VÀM CỎ ĐÔNG

Vàm Cỏ Đông là một nhánh của sông, thuộc hệ thống sông Đồng Nai.

Sông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn từ vùng đồng bằng trũng thấp thuộc lãnh thổ Campuchia chảy vào Việt Nam tại xã Biên Giới, xã Thành Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, rồi qua các huyện Bến Cầu, Hoà Thành, Gò Dầu, Trảng Bàng (đều thuộc Tây Ninh) chiều dài khoảng 98 km. Đoạn tiếp theo dài khoảng 6 km là ranh giới hai tỉnh Tây Ninh, Long An.

Sau đó, sông chảy vào địa phận tỉnh Long An qua các huyện Đức Hoà, Đức Huệ, Bến Lức, dài 86 km rồi kết hợp với sông Vàm Cỏ Tây tạo nên sông Vàm Cỏ để đổ vào sông Soài Rạp và đi ra biển Đông.

Vàm Cỏ Đông bao mùa sóng sánh,

Núi Điện Bà chóp đảnh cao cao.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

VAN

Van là kêu xin, nài nỉ, nghĩa là nói một cách khẩn khoản và tha thiết để cầu xin sự đồng ý, đồng tình.

Như: Van vái, van nài mãi mà không được, van xin nài nỉ, than van.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Chính mình đã dời tai hoạ đến cho mình mà chừng tai hoạ đến lại than van số phận, trách đất hờn Trời.

Vái van xin quý Cửu Thiên Nương,

Tâu với Ngọc Hư tỏ ngọn nguồn.

(Thơ Thương Phẩm).

 

 

VAN VÁI

Van: Kêu xin, nài nỉ, nghĩa là nói một cách khẩn khoản và tha thiết để cầu xin sự đồng ý, đồng tình. Vái: Chắp tay lên trán cầu nguyện.

Van vái là cầu khẩn van xin một điều gì. Như: Van vái với Ơn trên cho mau lành bệnh.

Đức Ngài ôm lấy Bần Đạo mà khóc chỉ van vái có một điều là cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VÁN

Ván: Tấm gỗ phẳng và mỏng được xẻ ra từ thân cây.

Như: Xẻ ván đóng thuyền, cầu ván bắt ngang sông, vách bằng ván thông.

Hụt chơn ván lại gập ghình,

Nhào đầu xuống đó cua kình rỉa thây.

(Kinh Sám Hối).

Còn theo thăm ván bán thuyền,

Trông chi giữ mảnh hương nguyền cùng nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VÃN HỒI

挽 回

Vãn: Kéo. Hồi: Trở lại, xoay lại.

Vãn hồi là kéo trở lại, tức làm cho trở lại tình trạng bình thường như trước.

Vãn hồi đồng nghĩa với chữ “Khôi phục”. Như: Vãn hồi nền hoà bình.

Vãn hồi trật tự an ninh 挽 回 秩 序 安 寧 là xây dựng trở lại cho được nền an ninh trật tự.

Giải thoát chiến tranh khổ nạn, vãn hồi trật tự an ninh.

(Sớ Văn).

 

 

VẠN

Vạn là muôn hay mười nghìn. Như: Vạn cổ, vạn đại, vạn tuế, vạn sự như ý, vạn sự khởi đầu nan.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Vì vậy, trăm ban vạn sự trên thế gian nầy đều có nguyên nhân chớ chẳng phải tình cờ mà chẳng phải do một định mạng nào cả.

Một kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,

Ðôi năm mệt nhọc vạn năm bường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dầu mình có giàu sang ức vạn,

Nhớ lúc cha bạc tháng tiền ngày.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẠN BAN

萬 般

Vạn: Muôn, mười nghìn, chỉ số nhiều. Ban: Thức, các loài vật trong thế gian.

Vạn ban là muôn thức, tức là loài người và các loài vật trong vũ trụ.

Bài giáng cơ của Quan Âm có câu: Cổ ngữ vạn ban đô thị giả, Kim ngôn bá kế nhứt trường không 古 語 萬 般 都 是 假, 今 言 百 計 一 場 空, nghĩa là lời cổ nói muôn điều toàn giả tạm, câu nay rằng trăm kế đều là không.

Thấy đời tranh cạnh luống đau lòng,

Thế sự vạn ban tổng thị không.

(Thơ Thông Quang).

 

 

VẠN BANG

萬 邦

Vạn: Muôn, tức mười ngàn, chỉ số nhiều. Bang: Quốc gia, nước.

Vạn bang là muôn nước, ý chỉ chung các nước trên thế giới.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thượng Phẩm có câu: Theo Thánh ý của Đức Chí Tôn là muốn dùng dân tộc Việt Nam làm gương mẫu cho toàn cầu, là chỗ mà thiên hạ cho là thấp hèn, bạc nhược, lại được Đức Chí Tôn đem lên ngang hàng cùng vạn bang mà còn cho trổi hơn mặt tinh thần, do đó mới kêu là Quốc Đạo.

Vạn bang dẹp cuộc chiến tranh,

Lập cơ thoát khổ độ sanh muôn loài.

(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).

 

 

VẠN BẤT ĐẮC DĨ

萬 不 得 已

Vạn: Muôn, tức mười ngàn, chỉ số nhiều. Bất đắc dĩ: Chẳng đặng đừng, cực chẳng đã phải vậy.

Vạn bất đắc dĩ có nghĩa là muôn lần chằng dừng được hay muôn lần không thể không làm được.

Thuyết về Con Đường Giải Thoát, Đức Thượng Sanh có câu: Nếu vạn bất đắc dĩ phải răn phạt người sái phép, thì nhà cầm quyền chỉ vẽ một vòng tròn nơi một khoảng đất nào, rồi bắt người phạm tội vào ngồi trong đó một hay là nhiều ngày, gọi là cách giam phạt tội nhơn.

Ðức ngài (Quan Thánh) thế cùng lực tận, muốn bảo hộ nhị tẩu được vẹn toàn nên vạn bất đắc dĩ Ðức Ngài phải chịu đầu Tào...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VẠN BỆNH HỒI XUÂN

萬 病 回 春

Vạn bệnh: Muôn bịnh, chỉ nhiều thứ bịnh. Hồi xuân: Trở lại mùa xuân.

Hồi xuân, tức trở lại mùa xuân, vạn vật đều có vẻ sống trở lại, nên người xưa thường dùng để ví với người sắp chết được trị sống trở lại. Hoặc chỉ những người bịnh như mùa đông tàn, nay mạnh khoẻ như trở lại mùa xuân.

Do vậy hồi xuân có nghĩa như bình phục.

Vạn bệnh hồi xuân ý nói mọi thứ bịnh đều dứt hết, sức khoẻ được phục hồi lại.

Tinh thần tráng kiện, quý thể khương cường, vạn bệnh hồi xuân, gia tăng phước thọ.

(Sớ Văn).

 

 

VẠN CỔ

萬 古

Vạn: Muôn, tức mười nghìn, chỉ số nhiều. Cổ: Xưa.

1.- Vạn cổ là muôn đời, chỉ sự mãi mãi.

Như: Lưu danh vạn cổ.

Phò Lưu Huyền Đức lắm công lao,

Chánh khí gương nêu vạn cổ làu.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

2.- Vạn cổ là muôn xưa, dùng để chỉ một thời kỳ rất xa xưa.

Như: Những vị thuốc nam được tìm thấy từ vạn cổ.

Vô hư quy phục nhơn sanh khí,

Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẠN CHỦNG

萬 種

Vạn: Muôn, tức mười ngàn, ở đây chỉ số nhiều. Chủng: Chủng tộc, giống người.

Vạn chủng là mọi chủng tộc.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Bần Đạo mừng cho nhơn sanh từ đây được hưởng hồng ân và cũng rất cảm khích Hội Thánh, Hộ Pháp và mấy bạn Hiệp Thiên Đài đã nêu cao thể đạo cho toàn vạn chủng.

Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch,

Quy thiên lương quyết sách vận trù.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Mở rộng cửa đại đồng vạn chủng,

Khai nẻo sanh cứu sống nhơn gian.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

VẠN DẶM TRƯỜNG

Vạn: Muôn, tức mười ngàn, ở đây chỉ số nhiều. Dặm trường: Dặm dài.

Vạn dặm trường là nói một khoảng đường rất dài, dùng để chỉ cách nhau xa xôi lắm.

Ðạo cao phó có tay cao độ,

Gần gũi sau ra vạn dặm trường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẠN ĐẠI

萬 代

Vạn: Muôn, tức mười nghìn, chỉ số nhiều. Đại: Đời.

Vạn đại là muôn đời, chỉ một khoảng thời gian hết sức dài lâu, từ đời nầy tiếp nối đời sau.

Như: Mối thù vạn đại.

Ghi các sách ngàn lời để lại,

Chép nhiều thơ vạn đại truyền ra.

(Xưng Tụng Công Đức).

Ðời rạng lưu tồn gương nhựt nguyệt,

Ðạo thành vạn đại chiếu sơn hà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẠN HỘ

萬 户

Vạn: Muôn, tức mười nghìn, chỉ số nhiều. Hộ: Nhà.

Vạn hộ là muôn nhà.

Vạn hộ là các trưởng quan quân sự ở địa phương thời nhà Nguyễn.

Vạn hộ hầu là tước hầu lãnh miền đất muôn nhà.

Chia gia tài bạc đắp nền toà,

Giàu vạn hộ cha làm mà con hết của.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẠN HỮU

萬 有

Vạn: Muôn, tức mười nghìn, chỉ số nhiều. Hữu: Có, có sự tồn tại.

Vạn hữu là muôn cái có, ý chỉ toàn vạn vật trong vũ trụ. Như: Trong thế giới vạn hữu.

Nếu suy diễn nữa, chúng ta tin tưởng rằng phía sau Thế giới vạn hữu còn có một Thế giới huyền linh nữa.

(Giáo Lý).

 

 

VẠN KIẾP

萬 刧

Vạn: Muôn, tức mười ngàn, chỉ số nhiều. Kiếp: Một đời sống.

Vạn kiếp là muôn kiếp, chỉ khoảng thời gian rất dài. Đồng nghĩa với chữ “Vạn đại 萬 代”, là muôn đời.

Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,

Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thoát xác xưa tầng tu vạn kiếp,

Ðộ hồn nay gội khắp năm châu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẠN LINH

萬 靈

Vạn: Mười ngàn, muôn. Linh: Chơn linh.

Vạn linh là muôn chơn linh, tức là tất cả các chơn linh trong Càn khôn vũ trụ, bao gồm bát phẩm chơn hồn là kim thạch hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn, nói chung là chúng sanh.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy, nghĩa là Hội Thánh của Ðại Ðạo ngày nay, rồi thì Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy đặng đủ phương tận độ chúng sanh; còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh chúng, dưới quyền hành chuyển thế của Ðời, nghĩa là toàn nhơn loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo hoá vạn linh vốn là con cái của Thầy.

Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,

Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.

(Kinh Tận Độ).

Vạn linh đã hiệp Chí Linh,

Hội xong cậy sức công bình Thiêng Liêng.

(Kinh Thế Đạo).

Thần thông trói chặt Ma vương quái,

Dìu bước vạn linh đến cảnh nhàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẠN LÝ

萬 里

Vạn: Muôn, tức mười ngàn, chỉ số nhiều. Lý: Dặm, dặm đường.

Vạn lý là muôn dặm, chỉ đường dài muôn dặm. Nghĩa bóng: Chỉ đường xa.

Như: Vượt qua vạn lý trường đồ.

Thùy tri thế sự tâm thiềm quý,

Ðắc nhữ trung toàn vạn lý minh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Có hiểu lòng nhau ngoài vạn lý,

Rượu dời cho cạn chén tương tri.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH

萬 里 長 城

Vạn lý: Muôn dặm. Trường thành: Cái thành dài.

Vạn Lý Trường Thành là bức thành dài hơn 4800 dặm của vua Tần Thủy Hoàng xây ở phương Bắc Trung Quốc để phòng ngự giặc Hồ.

Đời Chiến Quốc, các nước chư hầu ở tiếp giáp với rợ Hồ, sợ Hồ vào xâm lấn bờ cõi, mới đắp một cái thành dài để ngăn giữ. Đến đời Tần Thuỷ Hoàng, Mông Điềm được lệnh đem tám mươi muôn binh đắp thêm để nối bức thành nói trên dài từ Lâm Thao đến Liêu Đông, gọi là Vạn Lý Trường Thành.

Có tồn tại một món là Tần Thủy Hoàng tạo đặng Vạn Lý Trường Thành,...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VẠN LOẠI

萬 類

Vạn: Mười ngàn, muôn. Loại: Loài.

Vạn loại là muôn loài, chỉ tất cả các loài vật trong Càn khôn Thế giới.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Vì có ghét nhau, vạn loại mới khi nhau, khi lẫn nhau mới tàn hại hại nhau, mà tàn hại lẫn nhau là cơ diệt thế.

Thiên Ðịa Càn Khôn kiêm vạn loại,

Nhơn quần thảo mộc cập chư hoa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Khải ca lập lại đời Nghiêu Thuấn,

Vạn loại đồng tông đức thắng tài.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VẠN LOẠI THIỆN ÁC TẤT KIẾN

萬 類 善 惡 悉 見

Vạn loại thiện ác: Tất cả các điều lành dữ của muôn loài. Tất kiến: Ắt thấy rõ, đều thấu suốt.

Vạn loại thiện ác tất kiến là muôn vật lành dữ ở dưới thế gian, Trời đều thấy rõ hết.

Đây là một câu kinh trong bài “Ngọc Hoàng Kinh” để nói Đức Chí Tôn có thể cảm ứng được nhưng điều lành dữ ở thế gian.

Trong kinh Thư có câu: Thiên vô sở bất văn, vô sở bất kiến 天 無 所 不 聞, 無 所 不 見 nghĩa là không có gì mà Trời không nghe, không thấy được hết.

Càn kiện cao minh,

Vạn loại thiện ác tất kiến.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

VẠN PHÁP

萬 法

Vạn: Muôn tức mười ngàn, chỉ số nhiều. Pháp: Giáo lý, và tất cả mọi sự, mọi vật, mọi lý, dù thấy được hay không thấy được.

1.- Vạn pháp là tất cả các pháp ở thế gian.

Vạn pháp đen khoe tài Hộ Pháp,

Cũng như đực rựa sánh kim câu.

(Quyền Giáo Tông).

2.- Theo Kinh Đệ Lục Cửu, Vạn Pháp còn là một cung nơi tầng trời Kim Thiên, do Lục Nương Diêu Trì Cung cai quản, và có nhiệm vụ dẫn dắt chơn hồn vào cung Vạn Pháp, một cung huyền diệu, thiên biến vạn hoá, nơi đó hiện ra cho thấy những toà Thiên nhiên, tức là những ngôi vị (Cựu nghiệp) đã định sẵn do duyên nghiệp mà Chơn hồn tạo lập từ trước hay kiếp sanh vừa qua trên cõi thế gian.

Vạn Pháp vào cung xem cựu nghiệp,

Tam Kỳ tùng luật hưởng sanh duyên.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

VẠN PHÁP CUNG

萬 法 宮

Vạn pháp: Chỉ tất cả các pháp ở thế gian. Cung: Toà nhà lớn.

Vạn Pháp Cung Nhơn Hoà Động là một Tịnh thất dành cho nam phái, được Đức Hộ Pháp dự kiến xây dựng nơi Sở Sơn Đình, gần chân núi Điện Bà. Bản đồ án xây dựng Vạn Pháp Cung được Đức Hộ Pháp phê chuẩn hiện nay đã bị thất lạc.

Vâng lịnh Đức Hộ Pháp, Hội Thánh Phước Thiện ra thông tri dự định tuyển mộ ba ngàn công quả để tình nguyện tạo tác Vạn Pháp Cung, rồi dâng lên thỉnh giáo, được Đức Ngài phê vào ngày 16 tháng 2 năm Ất Mùi (Dl. 9/3/1955) như sau: “Trừ ra mấy đứa đạo núi, còn lại bao nhiêu là số tuyển mộ, phải lựa kỹ người đủ khoẻ mạnh đặng tạo tác Tịnh Thất. Sau còn 1000 nữa sẽ tới các vị lão thành”.

Công trình xây dựng Vạn Pháp Cung được Hội Thánh giao cho Thượng Thống Công Viện Phước Thiện là Đạo Nhơn Phạm Văn Út, đương quyển Trưởng Tộc Phạm Môn. Ông Đạo Nhơn Út bèn công cử Ban Chưởng Quản Vạn Pháp Cung, và cử ông Đạo Nhơn Nguyễn Văn Gia đảm nhiệm Chưởng Quản Ban Tạo Tác.

Chương trình đã chuẩn bị xong, dự định khởi công trong trong tháng 2 năm Ất Mùi thì bị ngưng lại do Đức Hộ Pháp phải lưu vong sang Tần Quốc vào ngày 5 tháng giêng năm Bính Thân, 1956.

Từ đó công cuộc xây dựng Vạn Pháp Cung bị đình hoãn cho đến ngày nay.

Lúc đầu Đức Hộ Pháp định lập Vạn Pháp Cung – Linh Sơn Động tại sở Sơn Đình gần núi Bà Đen, nhưng bị đình hoãn. Sau danh từ “Linh Sơn Động” được đổi thành “Nhơn Hoà Động” cho hiệp nghĩa “Thiên, Địa. Nhơn” với hai Động kia là “Thiên Hỷ Động” và “Địa Linh Động”.

Đôi liễn nơi Vạn Pháp Cung dự định như sau:

萬 里 和 心 同 一 脈

Vạn lý hoà tâm đồng nhứt mạch.

法 高 平 智 會 三 宗

Pháp cao bình trí hội tam tông.

Nghĩa là:

Muôn lý hoà hiệp với tâm, đồng một nguồn gốc.

Đạo pháp cao siêu, yên trí não, hội cùng tam giáo.

Theo sự tìm hiểu riêng, việc tổ chức, xây dựng cơ sở, cũng như cạo đầu, cách ăn mặc, tu hành của Vạn Pháp Cung hiện nay là do ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi, chứ không do lịnh của Đức Hộ Pháp. Chính vì vậy mà Đức Hộ Pháp gọi nhóm nầy là nhóm Đạo núi.

Võ Văn Đợi, tự là Đại, quê làng Gia Lộc, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Ông nhập vào Phạm Môn, lập hồng thệ kỳ I tại sở Trường Hoà ngày 3 tháng 1 năm Nhâm Thân (Dl. 7/2/1932), được Đức Hộ Pháp ban cho Đạo hiệu “Linh Đoán”. Ông đắc phong Lễ Sanh Giáo Thiện (phái Thượng), được bổ đi làm Đầu Họ Đạo Rạch Giá ngày 12 tháng 9 năm Ất Hợi (Dl. 9/10/1935) để khai mở nhà Sở Phước Thiện và các cơ sở lương điền công nghệ thương mãi để thu huê lợi về xây cất Toà Thánh.

Vào ngày 12 tháng 6 năm Mậu Dần (Dl. 9/7/1938), ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi, lúc đó ông còn ở Họ Đạo Mỹ Tho có về Tây Ninh, tháp tùng theo Đức Hộ Pháp vào Sở Sơn Đình, gần chân núi Điện Bà quan sát, nên có ý định sau nầy sẽ trở về đó tu chơn.

Sau ba năm hành Đạo bên Phước Thiện, ông Võ Văn Đợi bèn xin từ chức Giáo Thiện, mặc dầu chưa được thượng quyền chấp thuận, nhưng ông vẫn treo chức để vào chân Núi Điện Bà tự lập cơ sở, không tùng Hội Thánh Phước Thiện, thay áo trắng, cạo đầu, mặc áo quần màu dà để tu chơn.

Trong một cơn bạo bịnh, ông mất vào ngày 22 tháng 4 năm Đinh Hợi, 1947, hưởng thọ 50 tuổi. Sau khi chết, Đức Hộ Pháp khoan dung và cho phục chức Giáo Thiện theo Thánh lịnh số 58/TL, ngày 23 tháng 4 năm Đinh Hợi, được hành lễ tang theo hàng phẩm Giáo Thiện.

Vào Cung Vạn Pháp xin cầu chúc,

Đắc quả sau may đến Phật Đài.

(Thơ Chơn Tâm).

Phía Nam triền núi cảnh nên thơ,

Vạn Pháp Cung nền chọn trước giờ.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VẠN QUỐC

萬 國

Vạn: Muôn. Quốc: Một nước, có lãnh thổ, nhân dân và chủ quyền.

Vạn quốc, đồng nghĩa với “Vạn bang 萬 邦”, là khắp các nước, ý chỉ chung cả các nước trên thế giới.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy chưa giáng cơ lập đạo tại nước Nam, chớ chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, dùng huyền diệu nầy mà truyền đạo cùng vạn quốc.

Bình Dương lập trận sờ sờ,

Cả chư vạn quốc dựng cờ chiến tranh.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

VẠN SỰ

萬 事

Vạn: Muôn, mười ngàn, chỉ số nhiều. Sự: việc.

Vạn sự là muôn việc. Như: Vạn sự khởi đầu nan.

Thánh giáo Bát Nương có câu: Năm mới, chùa mới, vạn sự đều mới, vậy em đến cầu chúc cho quý anh quý chị đặng những điều mới mẻ may mắn.

Vạn sự nên hư vốn tại mình,

Chẳng phân lẽ trọng với lời khinh.

(Đạo Sử).

Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,

Tuổi nđã bảy mươi cũng đã rồi.

(Bài Thài Hộ Pháp).

Ba năm xa cách để chờ may,

Vạn sự do Thiên đã sắp bài.

(Hộ Pháp Giáng Bút).

 

 

VẠN SỰ DO THIÊN

萬 事 由 天

Vạn sự: Muôn việc. Do Thiên: Bởi Trời, ý nói do Trời sắp đặt nên.

Vạn sự do Thiên là muôn việc chi đều do bởi Trời định đoạt ra cả.

Trong sách Minh Tâm có câu: Vạn sự do thiên mạc cưỡng cầu, Hà tu khổ khổ dụng tâm mưu 萬 事 由 天 莫 強 求, 何 須 苦 苦 用 心 謀, nghĩa là Muôn sự do Trời chớ gượng cầu, chớ nên khổ não dựng lòng mưu.

Ba năm xa cách để chờ may,

Vạn sự do Thiên đã sắp bài.

(Hộ Pháp Giáng Bút).

 

 

VẠN SỰ DO THIÊN ĐỊNH

萬 事 由 天 定

Hay “Vạn sự do Thiên”.

Vạn sự: Muôn việc. Thiên định: Trời đất định đoạt.

Vạn sự Thiên định là muôn việc đều do quyền thiêng liêng (Trời, Chí Tôn) định đoạt.

Câu chuyện sau cho ta thấy điều đó.

Năm 1928, trong lúc Cao Thượng Phẩm lo xây dựng các cơ sở Ðạo trong khu Nội Ô Toà Thánh, Ngài bị bọn người xấu vu cáo Ngài đục tủ hành hương lấy tiền của Ðạo bỏ túi riêng, rồi nhóm côn đồ ở Chợ Lớn dưới quyền của Ông Nguyễn Phát Trước, tục gọi là Tư Mắt kéo về Toà Thánh, dùng bạo lực xua đuổi Ðức Hộ Pháp và Đức Cao Thượng Phẩm ra khỏi Toà Thánh.

Đức Cao Thượng Phẩm phải trở về đất nhà của Bà Tư Hương Hiếu, bạn đời của Ngài ở xã Hiệp Ninh, thuộc Tây Ninh cất lên một ngôi nhà tranh để an dưỡng và tiếp tục tu hành. Nơi đây các Đấng thường hay giáng cơ an ủi Ngài, vào ngày 12 tháng 6 năm Mậu Thìn (Dl. 28/7/1928), Thất Nương Diêu Trì Cung giáng cơ đặt tên cho ngôi nhà tranh là “Thảo Xá Hiền Cung” và cho đôi liễn:

Thảo Xá tùy nhơn, ngu muội bần cùng nghinh nhập thất.

草 舍 隨 人, 愚 昧 貧 窮 迎 入 室

Hiền Cung trạch khách, thông minh phú quý cấm lai môn.

賢 宮 擇 客, 聰 明 富 貴 禁 來 門

Nghĩa là:

Thảo xá tùy theo người, người ngu muội và nghèo hèn thì đón tiếp vào nhà.

Hiền cung chọn khách, người thông minh và giàu sang thì cấm đến cửa.

Còn Đức Hộ Pháp đang phân vân, không biết phải đi đâu. Ông Đầu Sư Thái Thơ Thanh mới đề nghị Ngài xuống Thánh Thất Thủ Đức tạm lánh một thời gian, vì ngôi Thánh Thất do ông tạo. Đức Hộ Pháp nghĩ cũng tạm được, nên cùng hai người Cao Miên là ông Inh và ông Lễ Sanh Thái Chia Thanh (sau ông Chia đắc phong Phối Sư) lo thu dọn đồ đạc, rồi ba người rời Tây Ninh đến Thánh Thất Thủ Đức.

Khi đến Thánh Thánh Thủ Đức, Ngài không có việc gì để làm cả, hằng ngày chỉ cúng tứ thời mà thôi. Ở đó được một thời gian Ban Cai Quản Thánh Thất đã không tôn trọng Ngài mà càng ngày càng tỏ vẻ xem thường Đức Ngài. Thấy vậy, Ngài chán ngán cho tình đời, quyết định phải ra đi.

Một hôm Đức Hộ Pháp đến nhà ông Thái Thơ Thanh chơi, ông Thơ biết ý Ban Cai Quản muốn đuổi xua Đức Ngài, nên mới ngỏ ý Ngài về vườn cao su của ông làm việc. Đức Hộ Pháp thấy không tiện nên từ chối, Ngài quyết định phải ra đi, vì thấy nơi nầy không xứng đáng cho Ngài ở.

Ngài có ý định đến nhà của một người bạn ở Gò Công là ông Hội Đồng Quản, cũng là người bà con cô cậu với Khai Pháp Trần Duy Nghĩa. Trước khi rời Thủ Đức, Ngài nhờ hai người Miên đến nhà ông Hội Đồng Quản hỏi trước, rồi Ngài sẽ đến sau.

Nhưng quyền Thiêng liêng đã định từ trước khiến cho Đức Hộ Pháp không đi Gò Công được.

Nguyên vào năm 1927, vâng lịnh Đức Phật mẫu, Hộ Pháp cùng với Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu đến làng Phú Mỹ thuộc tỉnh Mỹ Tho tìm mua một miếng đất lập một trang trại, trong đó cất một Thánh Thất, đặt tên là Khổ Hiền Trang, rồi giao cho Giáo Hữu Thượng Minh Thanh làm chủ (Sau nầy Thượng Minh Thanh được thăng lên phẩm Giáo Sư, nên thường được gọi là Giáo Sư Cậu).

Ông Giáo Hữu Minh nghe tin Đức Hộ Pháp bị đuổi khỏi Toà Thánh lên Sài Gòn, nên ông từ Phú Mỹ lên Sai Gòn để đón Ngài, nhưng không gặp vì Ngài đi Thủ Đức. Ông bèn tức tốc qua Thủ Đức tìm thì gặp Đức Hộ Pháp đang định đi Gò Công. Rõ ràng Thiên cơ huyền diệu định cho Đức Hộ Pháp phải về Khổ Hiền Trang để lãnh hai nhiệm vụ nặng nề và quan trọng sau nầy: Thứ nhứt, tiếp nhận Minh Thiện Đàn là tiền thân của cơ quan Phạm Môn (Phước Thiện), sau đó Ngài hành pháp cân thần và lập Hồng thệ thọ Đào viên Pháp. Thức nhì, vào năm 1930, Ngài hiệp cùng với quý vị trong Minh Thiện Đàn đi giải ếm Long Tuyền Kiếm, do do Bát Nương Diêu Trì Cung mách bảo và Lỗ Ban Tiên Sư chỉ dẫn.

Khi Ngài đến Thánh Thất Phú Mỹ, ngay từ đầu đường các tín đồ cũng như các người ngoại đạo hiếu kỳ, nghe tin Đức Hộ Pháp đến, họ chen nhau ra tiếp đón để được thấy mặt Ngài.

Đức Hộ Pháp đến Thánh Thất Khổ Hiền Trang thì nơi đây được sắp đặt trang nghiêm chỗ thờ phượng, bổn đạo đến cúng kiếng đông đảo. Có khi cúng Đức Chí Tôn xong Ngài thuyết đạo, hoặc cầu cơ, nếu có người bịnh yêu cầu, Ngài hành pháp giải bịnh, nhứt là Ngài thường xuyên dạy dỗ nhơn sanh vùng nầy.

Thánh Thất Khổ Hiền Trang trở nên nhộn nhịp cả ngày lẫn đêm, kéo dài gần hai năm, cho đến khi Ngài nghe tin Đức Cao Thượng Phẩm bệnh nặng, Ngài buộc phải về Tây Ninh.

Ở tại Thánh Thất Thủ Đức, Ngài cảm thấy bổn đạo không gần gũi và thân thiện, khi đến Phú Mỹ, Ngài nhận thấy nơi đây mọi người tôn kính và đặt trọn vẹn đức tin nơi Ngài, nên Ngài có lần nói rằng: “Thủ Đức không biết xài ngọc, nên Qua đem ngọc đi. Còn Phú Mỹ biết xài ngọc, nên Qua đem ngọc ban cho”.

Đức Ngài còn kể lại: “Lúc Qua rời khỏi Thủ Đức có làm một bài thi dán tại văn phòng Thánh Thất (1928)”.

Bài thi đó như sau:

Thắng khổ người tu vẫn để lòng,

Ta thua Thủ Đức phải đành dông.

Buồn chưa giỏi đứng trên đầu Rắn,

Vui đã phân minh chí khí Rồng.

Chẳng kể vịt gà chê tiếng Phụng,

Chỉ phiền hồng hộc ghét đuôi Công.

Mở kho nuôi đói đây trề miệng,

Ta quảy hồng ân rải giáp vòng.

Qua câu chuyện kể trên, chúng ta có thể kết luận Rằng “vạn sự Thiên định”, tức muôn việc đều do Trời định định đoạt cả.

Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,

Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.

(Bài Thài Hộ Pháp).

 

 

VẠN SỰ VIẾT VÔ

Vạn sự: Muôn việc.Viết vô: Nói rằng không, hoặc gọi là không.

Vạn sự viết vô có nghĩa là mọi việc đều gọi là không, ý nói muôn việc trong cõi thế gian nầy đều không tất cả, vì nó có tạm một khoảng thời gian, rồi sẽ hư hoại.

Trong sách Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn viết: Trước thuyền Bát Nhã chở quan tài đi an táng có hai câu liễn như vầy: “Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh huờn tại thổ, Thiên niên tự hữu, Linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên”. Muôn việc gọi không, Nhục thân do đất sanh thì trả về cho đất. Muôn năm tự có, Linh Hồn Trời ban cho thì trở về với Trời.

Vạn sự viết vô:

Nhục thể Thổ sinh hoàn tại Thổ,

Thiên niên tự hữu:

Linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên.

(Liễn Thuyền Bát Nhã).

 

 

VẠN TƯỢNG

萬 象

Vạn: Muôn, mười ngàn, chỉ số nhiều. Tượng: Hình, hình trạng.

Vạn tượng là hình tượng của muôn vật.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta đã ngó thấy như mặt trời cho chúng ta ánh sáng ban ngày, mặt trăng cho chúng ta ánh sáng ban đêm, cả vạn tượng tinh tú chớp nhoáng trên đầu ta, cả Càn Khôn Võ Trụ ấy đối với con người có cái tinh thần vững chắc.

Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,

Tùng Địa Chi hoá trưởng Càn Khôn.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

VẠN THẾ

萬 世

Vạn: Muôn, mười ngàn, chỉ số nhiều. Thế: Đời.

Vạn thế là muôn đời.

Như: Vạn thế sư biểu, tên tuổi những anh hùng đất nước sẽ được lưu truyền vạn thế.

Chanh ranh vạn thế ở trong vòng,

Giành giựt lẫn nhau miếng đỉnh chung.

(Đạo Sử).

 

 

VẠN THÙ

萬 殊

Vạn: Muôn, tức mười ngàn, chỉ số nhiều. Thù: Khác, sai biệt.

Vạn thù là muôn cái sai biệt, ý chỉ nhiều cái đặc biệt riêng lẻ.

Người xưa có câu: Nhứt bản tán vạn thù, vạn thù quy nhứt bản, nghĩa là một gốc phân ra muôn ngàn cái sai biệt, rồi muôn cái sai biệt lại trở về một gốc.

Từ Thượng Đế là gốc, ở Nhứt kỳ và Nhị kỳ phổ độ mới lập ra nhiều mối Đạo khắp mọi nơi để phổ độ chúng sanh đó là Nhứt bản tán vạn thù, đến thời Tam kỳ phổ độ là vạn thù quy nhứt bản, tức là đạo Cao Đài của Đức Thượng Đế sẽ quy hiệp Tam giáo, Ngũ chi làm một.

Thích Ca bình bát thể tâm tu,

Bửu pháp Tam Tông lý vạn thù.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VẠN TRƯỢNG

萬 丈

Vạn: Muôn, tức mười ngàn, chỉ số nhiều. Trượng: Đơn vị đo chiều dài, bằng mười thước cổ.

Vạn trượng: Muôn trượng là mười ngàn trượng, tức một khoảng cách rất xa, rất dài.

Như: Hào quang chiếu sáng vạn trượng.

Vạn trượng then gài ngăn Bắc đẩu,

Muôn trùng nhíp khảm hiệp Nam tào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẠN VẬT

萬 物

Vạn: Muôn, tức mười ngàn. Vật: Những thứ vật chất, các loài như người và côn trùng thảo mộc.

Vạn vật tức muôn loài, là tất cả các loài vật hữu sanh, từ vật chất, kim thạch, thảo mộc, thú cầm và nhơn loại.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy lại phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm, gọi là Chúng sanh.

Những vạn vật Âm Dương tạo hoá,

Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh,

(Kinh Tận Độ).

Giữa vạn vật con người một giống,

Phải uống ăn nuôi sống thây phàm.

(Kinh Thế Đạo).

Day mặt Hồng Quân ngó địa hoàn,

Rưới chan vạn vật khối sinh quang.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẠN VẬT ĐỒNG NHỨT THỂ

萬 物 同 一 體

Vạn vật: Muôn loài. Đồng: Cùng. Nhứt (nhất) thể: Một cách thức.

Vạn vật đồng nhứt thể là muôn vật đều có một thể giống nhau, vì có cùng chung một nguồn gốc, tức các tiểu Linh quang tách ra từ khối Đại Linh quang Thượng Đế.

Nói khác đi, vạn vật đều do Đức Thượng Đế tạo ra, mà con người là cấp cao, thú cầm và thảo mộc là cấp thấp.

Vì vạn vật do Ðức Từ Bi mà sanh hoá trong cả thế gian. Vậy vạn vật đồng nhứt thể.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VANG

Vang là tiếng dội lại của một âm thanh đã phát ra.

Như: Giọng hát vang ra xa, tiếng sét vang động góc trời, tiếng cười vang khắp phòng.

Hồi chuông cảnh tỉnh vang rừng Thánh,

Tiếng trống giác mê nhặt đỉnh Thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nâng ly vừa cạn hạc reo vang,

Rằng chiếu đòi ông đến điện vàng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

VANG DỘI

Vang: Có âm thanh dội lại, phản lại tiếng đã phát ra. Dội: Vang lại.

Vang dội là tiếng vang dội lên mạnh mẽ, truyền đi rất xa, rất rộng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tại sao Toà Thánh Tây Ninh vẫn trầm lặng, không nói lên ý kiến chi đối với thời cuộc, trong lúc các Tôn giáo khác đã có tiếng vang dội kêu gọi hoà bình cho đất nước.

Bảng vàng tên tuổi đề vang dội,

Trường đạo công phu gắng miệt mài.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VANG RÂN

Vang: Có âm thanh dội lại, phản lại tiếng đã phát ra. Rân: Ầm ĩ, náo động, ở trạng thái vang động.

Vang rân là vang dội, vang động, vang lên mạnh mẽ, có khả năng truyền đi rất xa.

Như: Đứng đầu hẽm réo, tiếng vang rân khắp xóm.

Trống cổ động ầm ầm réo rắt,

Chuông hô hào nhặt nhặt vang rân.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

VANG RỀN

Vang: Có âm thanh dội lại, phản lại tiếng đã phát ra. Rền: Âm thanh từng hồi.

Vang rền là vang dội, vọng từng hồi và liên tục dường như không dứt.

Như: Tiếng trống vang rền giữa đêm khuya.

Lôi Âm Cổ vang rền nơi Thánh Ðiện,

Giục người về kịp buổi Triều Thiên.

(Hiền Nhơn Lê Văn Trung).

 

 

VANG MÀY

Vang: Đau, nhức. Mày: Tức mặt mày, chỉ khuôn mặt.

Vang mày là đau mặt, ý chỉ phải chịu nhiều nỗi khó khăn nguy hiểm trong công việc.

Như: Lắm lúc phaải chịu nhiều nỗi ang mày.

Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao nhiêu điều khổ hạnh, mấy lần lao lý, mấy lúc vang mày...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÀNG

1.- Vàng là một thứ kim loại quý, màu vàng óng ánh, không rỉ, thường dùng làm đồ trang sức. Như: Vòng vàng, nhẫn vàng, vàng ngọc.

Thánh giáo Đức Chí Tôn bằng Pháp Văn được Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có đoạn dạy: Còn tài sản là tổng quát các vật quý giá của con người đã thu nhặt trên thế gian nầy. Của cải ấy gồm những gì? Vàng bạc chỉ là loại kim khí tầm thường.

Thiệt vàng gặp lửa tuổi càng cao,

Dầu gọi mình khờ cũng chẳng nao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vựa vàng chưa ắt để cho con,

Chứa đức muôn năm hưởng cũng còn.

(Đạo Sử).

Mừng nay đường Ðạo đã êm chơn,

Vàng ngọc công khanh chẳng dám hơn.

(Lục Nương Giáng Bút).

2.- Vàng là có màu sắc như màu của hoa mướp, của nghệ, của lúa đã chín.

Như: Lá vàng rơi rụng ngoài sân, hoa mai vàng rực rỡ, lúa ngoài đồng đã chín vàng.

Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,

Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bước cảnh tịnh đã đành để cẳng,

Tóc quy y nửa trắng nửa vàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Vàng ý chỉ cái rất đáng quý trọng, ví như vàng. Như: Tấm lòng vàng, lời vàng tiếng ngọc, bạn vàng.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Cái tình thân ái đậm đà đó đã đến mức siêu nhiên, nếu chí dũng cảm hy sinh không phải được gội nhuần trong cửa Ðạo, nếu tâm chân thành thương yêu không phải do đức háo sanh của Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ chan rưới thì trên cõi trần nầy không thể có những tấm lòng vàng quý báu đó được.

Lời vàng nhắn hỏi khách trần gian,

Một nẻo đường Tiên đáng mấy ngàn?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thấy ai thảm lòng vàng xót xáy,

Nghe kẻ sầu như cháy tâm can.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Lời vàng trau đổi từ đây dứt,

Giấc mộng hoạ chờ gặp gỡ nhau.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

VÀNG ĐÁ

Vàng: Một thứ kim loại quý, dùng làm trang sức. Đá: Một thứ khoáng vật rắn, dùng lót đường, xây nhà.

Vàng đá, dịch từ chữ “Kim thạch 金 石”, tức vàng và đá, là hai vật cứng rắn dùng để đúc chuông và tạc bia, gọi là chuông đồng bia đá để khắc ghi công đức lưu truyền mãi mãi về sau.

Vàng đá còn dùng để chỉ sự kiên trinh, trung thành giữa tình vợ chồng và bè bạn.

Xem: Kim thạch.

Chia gương căn dặn buổi trường đình,

Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nước non vùng vẫy đem thân gởi,

Vàng đá làu làu tấm thiết tha.

(Đạo Sử).

Gió mưa đành phận ba thu lụn,

Vàng đá vì ai một kiếp chờ.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VÀNG TRUI LỬA

Vàng: Kim loại quý. Trui lửa: Tôi luyện trong lửa.

Vàng trui lửa, bởi câu “Chân kim bất phạ hoả 真 金 不 怕 火”, tức là vàng thiệt không sợ lửa.

Vàng là một thứ kim loại quý được thử hay trui bằng lửa, độ nóng chảy của vàng rất cao, nên ta có thể nói vàng thật gặp lửa không sợ.

Nghĩa bóng: Người anh hùng, gái tiết liệt không sợ thử thách.

Vạ gió tai Trời trót tháng qua,

Như vàng trui lửa tuổi thêm già.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VÀNG SON

Vàng: Một loại kim quý, chỉ sự quý giá. Son: Màu đỏ, chỉ sự rực rỡ.

Vàng son là dùng để chỉ những cái đẹp rực rỡ, quý giá. Ví dụ: Thời kỳ vàng son.

Vàng son, còn đồng nghĩa với sắt son chỉ lòng không phai lợt và bền chặt.

Ấm lạnh không phai lòng sắt đá,

Đắng cay chẳng đổi tấm vàng son.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VÀNG THAU

Vàng: Một thứ kim loại quý. Thau: Kim loại thường, có bề ngoài giống như vàng.

Vàng thau là hai thứ kim loại giống nhau, nhưng vàng quý thau rẻ, nên người ta thường tráo đổi lẫn lộn hai thứ, khó phân biệt được bằng mắt thường (nhưng có thể định bằng tuổi vàng).

Vàng thau chỉ sự quý tiện, sang hèn và chỉ sự lẫn lộn khó phân.

Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông có dạy: Hiền hữu đã lãnh trách nhiệm nặng nề giáo hoá thì khá dạy sanh chúng biết lẽ Chánh Tà mà toan độ rỗi, còn mưu chước của Quỷ quái tinh ma là mưu của Lão để phân biệt chơn giả, vàng thau, cho phẩm giá trọng khinh.

Xem: Vàng thau ngọc đá.

Đừng mong cậy chỗ sang giàu,

Khuyên đừng so sánh vàng thau phụ tình.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Vàng thau rõ mặt chánh tà,

Quyền xưa định Phật với ma khác đường.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

VÀNG THAU NGỌC THẠCH

Vàng thau: Chất vàng và chất thâu, dùng chỉ sự quý giá và sự tầm thường. Ngọc thạch: Ngọc đá. Nhiều loại đá cũng như ngọc, nhưng không có giá trị.

Vàng thau ngọc thạch ý chỉ người đạo đức, kẻ hung tàn hay kẻ quý, người tiện lẫn lộn nhau khó phân biệt, như câu: “Vàng thau lẫn lộn”.

Vàng thau lẫn lộn không người thổi,

Ngọc thạch bất phân thiếu kẻ trau.

(Thơ Đức Hộ Pháp).

 

 

VÀNG XI

Vàng: Một thứ kim loại quý. Xi: Mạ, áo ở ngoài một lớp mỏng, cho đẹp, hoặc để chống sét.

Vàng xi là không phải vàng thiệt, mà loại vàng chỉ mạ lên một lớp mỏng.

Như: Chiếc đồng hồ nầy bằng vàng xi, đôi bông tai thấy ánh nhưng nó bằng vàng xi.

Gặp đặng Thần Tiên khuyên nhủ rán,

Vàng mười chớ để lẫn vàng xi.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VÃNG

1.- Vãng là đi, qua, đi đến.

Như: Nhứt vãng nhứt lai, đi vãng cảnh chùa, vùng nầy ít thấy bóng người lai vãng.

Chủ âm quang thường tùng Thiên mạng,

Ðộ chơn thần nhứt vãng nhứt lai.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Xưa Toà Thánh dập dìu lai vãng,

Nay Bửu Ðình hiu quạnh lụy nhìn.

(Thơ Thượng Phẩm).

2.- Vãng là đã qua, về trước.

Như: Câu chuyện dĩ vãng, người đã quá vãng, tiền vãng hậu vãng, cổ vãng kim lai, vãng sự, vãng nhựt.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Theo quan niệm của nhà hiền triết thời xưa, thì ngày Tết Nguyên Ðán không phải là ngày để chơi Tết, hay chơi Xuân mà chính là một dịp để cho con người lo tròn bổn phận trong gia đình, tưởng nhớ đến những đấng Tổ Tiên Phụ Mẫu đã khuất bóng, kính cẩn bái lễ trước bàn thờ, giữ tròn đạo hiếu đúng theo Nho giáo tức là thờ người quá vãng cũng như người còn tại thế.

Còn Thánh vị của chư môn đệ đã dĩ vãng thì tuỳ theo phái nó mà sắp kế theo bàn thờ Thầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÃNG LAI

往 來

Vãng: Đi, qua, đã qua. Lai: Đến.

Vãng lai là đi đi lại lại, tức qua lại. Như: Khách vãng lai, tuyến đường nầy xe bus thường vãng lai.

Trong Tân Luật, Điều thứ ba về phần Tịnh Thất có quy định: Cấm không đặng thư tín vãng lai với người ngoài, trừ ra thân nhân, song phải có người “Tịnh chủ” xem trước.

Thấy con trần thế có lòng,

Thành tâm cầu khẩn Mẹ hòng vãng lai.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

VÃNG SANH

Vãng: Đi qua. Sanh: Còn đọc “Sinh”, là sống.

1.- Vãng sanh, như chữ “Vãng sinh 往 生”, là chết ở thế giới này để chuyển sanh qua thế giới khác tốt đẹp hơn, nghĩa là bỏ thế giới trần tục để vãng sanh về Cực Lạc Quốc của Phật Di Đà.

Khổ bệnh thấy trêu người đã quá,

Buổi vãng sanh giục giã kêu hồn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Vãng Sanh (sinh) còn là tên một bài chú của Phật A Di Đà, gọi là “Vãng Sinh Thần Chú 往 生 神 咒” hay nói tắt là “Vãng Sanh”, dùng để tụng cầu cho chúng sinh khi chết được thoát sanh về cõi Cực Lạc.

Những thảng mảng tháng thâu năm lụn,

Sớm công phu, tối tụng Vãng sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VÀNH

1.- Vành là vòng tròn bao quanh miệng hay ở phần ngoài cùng của một số vật để giữ cho chắc.

Như: Vành thúng, vành nón, vành bánh xe bò.

Huống gia tài cha mẹ sẵn dành,

Công co cỏm tấm manh vành sắt.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Vành, nghĩa rộng chỉ hình vòng tròn. Như: Vành khăn, vành tròn, vành trăng.

Trong truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Đêm thu gió lọt song đào, Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.

Trà mi đã ngậm nửa vành rồi,

Một kiếp nhơn sanh đến đó thôi.

(Đạo Sử).

Khuôn mặt ngọc đầy vành trăng sáng,

Gợn thu ba lấp loáng đôi ngươi.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

VÀO

1.- Vào là di chuyển đến một vị trí ở phía trong. Như vào nhà, vào cõi Thiên.

Thánh giáo Thầy có câu: Chẳng luật lệ thì trái phép, mà trái phép thì thế nào vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng.

Lo lường nền hạnh đặng lên cao,

Cao đức nguồn Tiên mới bước vào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Vào là dự vào, tham gia, hoặc bắt đầu trở thành người ở trong một tổ chức nào đó. Như: Vào đường đạo đức, vào hội, vào đảng, vào Đạo Cao Đài.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nhơn loại đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh đức trong một lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng.

Vào đặng Tam Kỳ Trời cứu khổ,

Khổ thêm gắng chịu tánh năng trau.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tìm vào nẻo Ðạo mới tri cơ,

Cơ Tạo huyền vi chớ hững hờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dự vào đường Ðạo hạnh tua trau,

Ðừng đợi người kêu mới tỉnh màu.

(Đạo Sử).

 

 

VÀO LÒN RA CÚI

Vào ra: Ý chỉ lui tới nơi quyền quý cao sang. Lòn cúi: Hạ mình cầu cạnh một cách đê hèn.

Vào lòn ra cúi ý chỉ kẻ nịnh hót, lòn cúi, quỵ luỵ người giàu có hay kẻ quyền quý.

Như: Đối với kẻ quyền thế nó vào lòn ra cúi một cách hèn hạ.

Đừng tập tục vào lòn ra cúi,

Nổi nợ duyên may rủi phú tay mai.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VĂN

Văn là hình thức ngôn ngữ được trau chuốt cho hay cho đẹp. Như: Văn chương chữ nghĩa, văn hay chữ tốt.

Ngài Thái Thơ Thanh hỏi về in Thánh Ngôn, Thánh giáo Thầy có dạy: Ðược, nhưng Thánh Ngôn và văn thi đều phải trích lục cho kỹ càng, phải có Hội Thánh phê nhận rồi sẽ in thì khỏi điều sơ sót quan hệ.

Muốn lấy đạo làm đao hại thế,

Toan dùng văn gọi kế sinh nhai.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các,

Xót bạn tri âm cõi dạ đài.

(Thơ Thượng Phẩm).

 

 

VĂN BAN VÕ BÁ

文 班 武 百

Văn ban: Hàng thứ bực của quan văn, tức là những vị quan lớn nhỏ coi về chính trị, văn hoá, giáo dục... Võ bá: Trăm quan võ, tức là các quan lo về võ bị, quốc phòng, an ninh trật tự.

Văn ban võ bá là tiếng chỉ chung các quan văn võ nơi triều đình trong chế độ quân chủ.

Giúp dân hưởng chữ thái bình,

Văn ban võ bá triều đình đặc an.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

VĂN CHƯƠNG

文 章

Văn: Lời văn. Chương: Từng bài.

Văn chương là lời văn viết thành từng bài, tức là dùng câu để diễn tả thành bài ghi lại những sự việc đã xảy ra, hay do trí tưởng tượng viết nên.

Trong quyển Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có câu: Chấp cơ mà mê Chơn thần xuất trọn (Chơn thần vốn còn dính với phách bởi sợi từ khí) khỏi phách, tiếp được rõ ràng tư tưởng của Thần Tiên, nên diễn ra nhiều thi phú văn chương tuyệt diệu, hoặc nhiều bài đạo lý cao thâm, nhưng mãn đàn, Chơn thần phải mệt mỏi.

Văn chương bạc tóc biến thêm nhiều,

Võ lực nửa đời võ phải tiêu.

(Đạo Sử).

Cẩm tú thêu oan thành khí giới,

Văn chương khảo tội hoá côn quờn.

(Lục Nương Giáng Bút).

Văn chương nếm thử mùi ngào ngọt,

Thi phú trầm ngâm ý mặn nồng.

(Thơ Thông Quang).

 

 

VĂN CHƯƠNG QUỐC ÂM

文 章 國 音

Văn chương: Nói chung về bài văn. Quốc âm: Tiếng nói của một dân tộc trong một nước, chỉ tiếng Việt.

Văn chương quốc âm là văn chương theo ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam.

Như: Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm văn chương quốc âm.

Hiền hữu lúc nầy chuyên về văn chương quốc âm nhiều lắm há?

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VĂN ĐÀN

文 壇

Văn: Văn chương. Đàn: Một cái nền cao để hội hè.

Văn đàn là nơi các văn nhân, thi sĩ tụ họp để bàn luận văn chương hay làm thi phú.

Đạo đức chuyên tâm lo khảo cứu,

Văn đàn rỗi việc cố dồi mài.

(Thơ Thượng Thời Thanh).

 

 

VĂN ĐẰNG

文 謄

Văn: Văn chương, chữ nghĩa. Đằng: Sao chép lại.

Văn Đằng là tên một cái mão, tục gọi là mão cánh chuồng, loại mão của các quan văn thời xưa.

Tuỳ theo chức quan, ở cấp thấp thì hai cánh của mão Văn đằng ngang nhau, ở bậc cao thì hai cánh dựng đứng hoặc xiêng. Mão Văn đằng đây gần giống như mão Thừa tướng ngày xưa.

Trong đạo Cao Đài mão Văn đằng có màu đỏ, dành cho Ngọc Chưởng Pháp đội. Trên mão trước trán có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng minh khí và trên có sao Bắc Đẩu Tinh Quân.

Đầu đội mão Văn đằng màu hồng, trên mão ngay trước trán có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng minh khí, và trên có sao Bắc Đẩu Tinh Quân.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

VĂN HÀO

文 豪

Văn: Vẻ đẹp, lời văn. Hào: Tài trí hơn người.

Văn hào là chỉ nhà văn có tài năng lỗi lạc.

Như: Trong đạo Cao Đài, văn hào Victor Hugo là một vị Thánh nơi Bạch Vân Động, về cơ xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.

Nhà triết lý Fichte người Đức và văn hào Tolstoi người Nga, cũng đồng khuyên chúng sanh thương người như thương mình...

(Thiên Đạo).

 

 

VĂN HIẾN

文 獻

Văn: Chỉ sách sử. Hiến: Chỉ người hiền tài.

Văn hiến là truyền thống văn hoá lâu đời và tốt đẹp.

Một quốc gia có nhiều bậc hiền tài và có nhiều sử sách thì được gọi là nước văn hiến.

Đức Khổng Tử có nói trong Luận Ngư rằng: Lễ của nhà Hạ, ta có thể nói được nước Kỷ không đủ làm chứng. Đó là vì văn hiến không đủ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Với ai thì sợ chớ với nòi giống Việt Nam mình đã có sẵn văn hiến bốn ngàn năm làm bổn.

Văn Hiến bốn ngàn năm có sẵn,

Chi cần dị chủng đến dâng công.

(Đạo Sử).

Nam Giao vắng vẻ đường cung kiếm,

Văn Hiến khô khan ngọn bút thần.

(Đạo Sử).

Văn hiến tạo nền còn chói rạng,

Lạc Hồng roi dấu há khinh thường.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

VĂN HOÁ

文 化

Văn: Vẻ đẹp. Hoá: Biến đổi.

Văn hoá là tất cả những công trình vật chất và tinh thần của con người đã sáng tạo ra để phục vụ cho con người có cuộc sống tốt đẹp hơn. Như: Kho tàng văn hoá dân tộc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Chí Tôn dạy chúng ta lấy Nho Tông chuyển thế đặng xây dựng lại nền phong hoá ưu tú của nước nhà hầu tạo lập một nền Văn hoá tương lai cho toàn thể quốc gia trên thế giới.

Dụng văn hoá trau tria nữ phách,

Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VĂN KIỆN

文 件

Văn: Thuộc về giấy tờ. Kiện: Một cái vật gì hay một việc gì.

Văn kiện là thư từ hoặc công văn, nói chung tất cả những loại giấy tờ thuộc bất cứ lãnh vực nào.

Như: Những văn kiện của cuộc hội nghị hai bên được lưu giữ.

Chỉ thi hành những việc do Hội Thánh ra lịnh bằng bằng văn kiện chính thức...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VĂN MIẾU

文 廟

Văn: Văn chương, chữ nghĩa. Miếu: Ngôi thờ.

Văn miếu là những ngôi nhà thờ ở kinh đô hay các tỉnh thành, do triều đình lập ra để thờ Đức Khổng Tử, còn tại các làng xã hay quận huyện, nếu chỉ xây cái nền đất không thì gọi là Văn chỉ 文 址, nếu có cất nhà thờ thì gọi Văn từ 文 祠.

Văn từ hay văn chỉ để thờ riêng những bậc khoa hoạn trong làng.

Hoa Tiên đổ đẹp xinh Văn miếu,

Gót Tiên đưa yểu điệu nữ dung.

(Nhứt Nương Giáng Bút).

Rộn rực Nam giao bầy chúa quỷ,

Chàng ràng Văn miếu lũ thương ma.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VĂN MINH

文 明

Văn: Văn hoá, văn chương, chữ nghĩa. Minh: Sáng.

Văn minh, theo nghĩa đen là cái tia sáng do đạo đức, lễ nhạc giáo hoá mà có vẻ đẹp đẽ rõ rệt, gọi là văn minh.

Theo nghĩa bóng, văn minh là trình độ phát triển văn hoá về vật chất lẫn tinh thần của một quốc gia hay của một dân tộc.

Như: Nền văn minh Ai Cập, văn minh nhân loại.

Giúp xã tắc tôi trung ra mặt,

Dẫy xe thơ trỗi nhặt văn minh.

(Kinh Thế Đạo).

Học cho thấu máy linh cơ tạo,

Học cho toàn trí xảo văn minh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VĂN NGHỆ

文 藝

Văn: Văn chương, văn học. Nghệ: Nghệ thuật.

Văn nghệ là văn học và nghệ thuật, chỉ chung về các ngành nghệ thuật.

Như: Hội văn nghệ, đêm liên quan văn nghệ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Lúc ban sơ Cơ quan phải tạm mượn vài căn phòng Hiệp Thiên Ðài làm nơi thu thanh và tập dượt văn nghệ, vì chỗ chật hẹp thiếu tiện nghi nên công việc của Cơ quan không thể phát triển theo ý muốn, nhờ sự tận tâm hoạt động của Ngài Khai Ðạo Hiệp Thiên Ðài, kiêm Giám Ðốc Cơ quan. Nhờ sự hưởng ứng của những bạn đạo giàu lòng háo nghĩa, ra tay trợ giúp về mặt tài chánh mà ngày nay Hội Thánh được có một ngôi biệt thự cao đẹp để làm cơ sở vĩnh viễn cho Ðài Phát Thanh tiếng nói của Ðại Ðạo.

Trên đường văn nghệ dìu nhau bước,

Mấy vận chơn thành cảm xiết bao.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VĂN NHƠN

Hay “Văn nhân”.

Văn: Hình thức ngôn ngữ được trau chuốt cho hay, đẹp. Nhơn (nhân): Người.

Văn nhơn, như chữ “Văn nhân 文 人”, chỉ người có học thức, hoặc người biết làm văn chương, thi phú.

Như: Khách văn nhơn tao nhã.

Khi dắt trẻ đi chơi lựa chỗ,

văn nhơn thái độ tài tình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VĂN NHÂN TÀI TỬ

文 人 才 子

Văn nhân: Người có tài về văn chương. Tài tử: Người có tài năng.

Văn nhân tài tử là nói những người tài ba, có tài văn chương, học thuật.

Như: Khách văn nhân tài tử.

Hễ phải mặt văn nhân tài tử,

Dạy con nên vẹn giữ nhơn luân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VĂN PHÁP

文 法

Văn Pháp tức là Bảo Văn Pháp Quân, là một phẩm chức sắc trong Thập Nhị Bảo Quân thuộc Hiệp Thiên Đài.

Bảo Văn Pháp Quân được Đức Chí Tôn phong Ngài Cao Quỳnh Diêu vào năm 1930.

Xem: Bảo Văn Pháp Quân.

Nhìn lại Trung Tông cảnh đượm sầu,

Cao Quân Văn Pháp có còn đâu!

(Thơ Thượng Sanh).

Nhơn sanh thất thập cổ lai hy,

Văn Pháp về Tiên quá nhiệm kỳ.

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

VĂN QUÂN

文 君

Văn Quân là con gái của Trác Vương, người ở đất Lâm Ngang. Văn Quân là một quả phụ, hiểu rành về âm nhạc, nên sau khi nghe được bản “Phụng Cầu Hoàng” của Tư Mã Tương Như gảy lên để trêu ghẹo, nàng liền bỏ nhà theo Tương Như. Trác Vương Tôn tức giận không nhìn Văn Quân nữa.

Về với Tương Như, vợ chồng sống hoà hợp, nhưng sau Tương Như đòi cưới vợ bé, Văn Quân buồn, làm bài Bạch Đầu Ngâm tự huỷ đời mình, Tương Như hối hận liền thôi.

Tư Mã Văn Quân đời vẫn nhắc,

Câu đờn ràng buộc dải đồng tâm.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

VĂN TÀI

文 才

Văn: Văn chương, văn học. Tài: Tài năng.

1.- Văn tài là chỉ văn chương và sự tài giỏi.

Như: Anh ấy văn tài đều gồm đủ, người giỏi văn chương lại có tài về võ nghệ.

Hai lẽ văn tài đồng đức tánh,

Chẳng ngồi bệ ngọc cũng lầu son.

(Đạo Sử).

2.- Văn tài còn dùng để chỉ người có tài năng về văn chương và học thuật.

Như: Từ nhỏ đã nổi tiếng là một văn tài.

Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,

Một kiếp sanh của bậc văn tài.

(Nư Trung Tùng Phận).

Lựa cho học các công các nghệ,

Tính cho hay mọi vẻ văn tài.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VĂN TẢI ĐẠO

文 載 道

Văn: Văn chương. Tải: Chở. Đạo: Đạo lý.

Văn tải đạo, bởi câu “Văn dĩ tải đạo 文 以 載 道”, tức là lấy văn chở đạo.

Đối với Nho giáo, mục đích của văn chương là văn dĩ tải đạo tức là mượn văn chương để chở đạo lý. Vì thế, tất cả các sách của Thánh hiền xưa ra đời không ngoài việc giáo hoá con người.

Đức Khổng Tử thường bôn ba lo việc cứu đời trong thời kỳ đạo đức suy đồi, nên Ngài mới đem cái đạo Thánh Hiền của đời trước, phát huy thêm để viết lại thành những kinh sách dạy đời mà lưu truyền mãi về sau cho các dân tộc Á đông. Vì thế, trong Luận Ngữ mới có câu: Thiên hạ chi vô đạo giả cửu hỹ, Thiên tương dĩ Khổng Tử vi mộc đạc 天 下 之 無 道 者 久 矣, 天 將 以 孔 子 為 木 鐸, nghĩa là thiên hạ không Đạo đã lâu rồi, Trời cho Khổng Tử ra làm cái mõ khuya để cảnh tỉnh nhơn tâm.

Giác thế phương tu thức tỉnh đời,

Dụng văn tải đạo hợp lòng Trời.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VĂN TUYÊN

文 宣

Văn Tuyên là tên thụy của Đức Khổng Tử do các vị vua Trung Hoa đời trước truy tặng cho.

- Năm Khai Nguyên thứ 27 (739), vua Đường Huyền Tông truy phong làm “Văn Tuyên Vương 文 宣 王”.

- Năm Đại Trung Tường Phù nguyên niên (1008), vua Tống Chân Tông gia thụy là “Đại Thánh Văn Tuyên Vương 大 聖 文 宣 王”.

- Năm Đại Đức thứ 10 (1306), vua Nguyên Thành Tông gia hiệu “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương 大 成 至 聖 文 宣 王”.

- Năm Gia Tĩnh thứ 9 (1530), Minh Thế Tông phong làm “Chí Thánh Tiên Sư 至 聖 先 師”.

- Năm Thuận Trị thứ 2 (1645), Thanh Thế Tổ phong làm “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Tiên Thánh Sư 大 成 至 聖 文 宣 王 先 聖 師”.

Xem: Khổng Thánh.

Đạo Nho truyền dạy nghĩa nhơn,

Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời.

(Xưng Tụng Công Đức).

Thái Thượng Lão Quân cây phất chủ,

Văn Tuyên Khổng Thánh bộ Xuân Thu.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VĂN TỪ

文 詞

Văn: Lời văn, văn vẻ. Từ: Lời nói, lời văn.

Văn từ là lối văn, cách hành văn sao cho lời đẹp đẽ để viết thành bài.

Văn từ đồng nghĩa với chữ “Văn chương 文 章”, chỉ văn chương chữ nghĩa.

Thánh giáo Đức Lý Thái Bạch trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có đoạn: Toàn thâu. Chư Hiền Hữu văn từ dở lắm, trưa bữa nào cũng cầu Lão dạy.

Nguyện các Đấng đương chầu Bạch Ngọc,

Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.

(Kinh Thế Đạo).

Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,

Câu văn từ luận biện thật thà.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VĂN THI

文 詩

Văn: Hình thức ngôn ngữ được trau chuốt cho hay, đẹp. Thi: Thơ, văn vần.

Văn thi, như chữ “Thi văn 詩 文”, là chỉ chung các bài văn và thơ có vần điệu.

Như: Trong đạo Cao Đài Hội Thánh tuyển lựa văn thi của các Đấng in thành tập, gọi là Thi Văn Dạy Đạo.

Ðược, nhưng Thánh Ngôn và Văn thi đều phải trích lục cho kỹ càng, phải có Hội Thánh phê nhận rồi sẽ in thì khỏi điều sơ sót quan hệ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VĂN THÙ BỒ TÁT

文 殊 菩 薩

Văn Thù Bồ Tát theo Phật giáo Đại thừa là biểu trưng cho trí tuệ, nên còn gọi là “Đại trí Văn Thù”, bởi vì Ngài đã chứng được thực trí, liễu ngộ Phật tánh. Ngài còn có tên là Diệu Âm Bồ Tát.

Trong các chùa thường thờ Ngài ngồi trên bảo toà liên hoa, cỡi con sư tử xanh, tay mặt cầm gươm trí tuệ đoạn trừ phiền não, tay trái cầm hoa sen xanh, mình mang chiếc giáp nhẫn nhục. Ngài đứng bên trái tượng Phật Thích Ca, Bồ Tát Phổ Hiền đứng bên phải.

Vậy Thầy cũng nói luôn để cho anh em nhìn nhau, thương yêu nhau. Nó là Văn Thù Bồ Tát tái thế.

(Đạo Sử).

 

 

VĂN UYỂN

文 苑

Văn: Văn chương, chữ nghĩa. Uyển: Vườn.

Văn uyển là vườn văn, tức khu vườn văn chương.

Văn uyển thường dùng làm tên gọi mục chuyên đăng thơ trên báo chí thời trước.

Văn uyển vầy đàn nhiều nỗi cảm,

Quỳnh tương chuốc chén mấy vần say.

(Thơ Thái Phong).

Giai chương lồng giữa trang thơ mới,

Văn uyển kết thêm hạt giống lành.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

VĂN VƯƠNG

文 王

Văn Vương họ Cơ tên Xương, nguyên là chư hầu của nhà Ân (tức vua Trụ). Sau Võ Vương đem binh diệt nhà Ân, rồi lên ngôi mới tôn là Văn Vương.

Lúc còn là chư hầu, Văn Vương thi hành nhân chính nên các chư hầu khác theo về rất đông. Văn Vương bị vua Trụ bắt giam tại ngục Dũ Lý 7 năm, vì bị Sùng Hầu Hổ gièm pha. Tán Nghi Sanh đem gái đẹp, ngọc ngà châu báu dâng cho vua Trụ để xin tha cho Văn Vương, vua Trụ chấp thuận. Khi thiên đô về đất Phong, hai phần ba thiên hạ theo về với Văn Vương.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cái đời thái bình thịnh trị đó là đời Thánh đức của nhà Châu dưới quyền thống trị của vua Văn Vương ở vào năm 1120 trước Tây lịch.

Xem: Tây Bá Hầu.

Gương đạo noi theo đời Thuấn Ðế,

Ðế dân vẹn giữ lối Văn Vương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Non xanh vắng gót anh hùng,

Rõ cơn Võ Kiết lánh vòng Văn Vương.

(Ngụ Đời).

Khương Thượng đi câu ra trí Chúa,

Văn Vương ngồi ngục mới đồ vương.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

VẮN

Vắn là ngắn, như quần dài áo vắn, giấy vắn tình dài.

Ca dao ta có câu: “Sông sâu sào vắn khó dò, muốn qua thăm bậu sợ đò không đưa”.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Nếu các con hiểu đặng hết thì đường đi của các con sẽ thâu vắn lại, mau đoạt cơ bí mật của Trời Đất.

Chẳng qua khách ăn nằm quán tục,

Vắn một ngày, lâu chút trọn đời.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Dài vắn tư bề ngăn đủ chín,

Thấp cao ba bực nóc chia hai.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Sầu dài ngày vắn dễ chi vui,

Toan tính thâu đêm ruột rối nùi.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

VẮN NGỦN

Vắn: Rất ngắn, không có chiều dài tương xứng với yêu cầu.

Vắn ngủn, như chữ “Ngắn ngủn”, là quá ngắn, ngắn ngoài dự kiến, ngắn không thể nào ngờ được.

Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,

Kiếp phù sinh đặng thất nơi thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VẮN TẮT

Vắn: Rất ngắn, không có chiều dài tương xứng với yêu cầu. Tắt: Không theo đường chính, đi theo lối ngắn hơn.

Vắn tắt là ngắn gọn, chỉ nói những điểm chính.

Như: Nói vắn tắt mấy lời, kể lại văn tắt câu chuyện.

Nóc tả hữu xin phân vắn tắt,

Có bầu linh gậy sắt đôi nơi.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

VẮN VỎI

Vắn: Ngắn, không có chiều dài tương xứng yêu cầu.

Vắn vỏi là ngắn ngủi, không được lâu dài so với yêu cầu. Thí dụ như: Cuộc đời vắn vỏi.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Phối Thánh Phạm Văn Màng có câu: May mắn một thời gian vắn vỏi mà thấy đặng trọn điều tốt đẹp mạnh mẽ của cuộc chiến đấu chánh tà, lại còn hừng chí thích tình xem đặng trận trung quyết thắng, các bạn mừng chăng?

Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại,

Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Quốc tuý trung thần xem vắn vỏi,

Đỡ nâng sao khỏi cảnh điêu tàn.

(Thơ Mỹ Ngọc).

 

 

VẰN VỆN

Vằn: Những vệt màu, lượn song song trên lông một số loài thú. Vện: Có vằn, có sọc.

Vằn vện là có nhiều vệt màu trông tựa như những đường vằn trên bộ lông một số loài thú.

Như: Lông mèo vằn vện, gương mặt anh ta dính lọ vằn vện.

Mặt yêu vằn vện dường Tiêu Diện Sĩ

le lưỡi trấn Tây phương,

Mày chằn nhăn nhíu tợ Quỷ Dạ Xoa

đẩy xe vào Âm phủ.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

VẶN

Vặn là xoắn lại nhiều vòng, tức làm chuyển động theo một chiều nào đó của vòng quay. Như: Vặn đây đờn, vặn bù lon, vặn cổ.

Kể lại lúc thiếu thời, Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Nhắc lại khi Bần Đạo lúc còn thiếu sinh đi học tại Trường Tây Ninh, buổi đi về đang ngồi ăn cơm Bà Mẹ mới hỏi Ông thân của Bần Đạo, Ông cho cả con cái theo bên võ, không cho đứa nào theo bên văn sao? Ông thân trả lời: Võ nó không biết kiếm thế hà lạm, bên văn nó hay hà lạm tôi không chịu, Bà già chỉ Bần Đạo và nói, còn thằng nhỏ này yếu ớt bạc nhược, thôi cho nó theo văn đi, Ông thân của Bần Đạo nói: Được nếu nó theo bên văn mà tham quan ô lại thì tôi vặn họng nó.

Đờn hay vặn lắm trục lờn,

Đổi hơi cầm sắt ra trường ca xang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VĂNG

Văng là bắn, quăng ra, búng ra. Như: Văng lưới, văng mực, văng mất đồng xu.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ðức Chí Tôn tạo cho con cái của Ngài một cửa nhỏ tuy khó đi mà Bần Ðạo chắc rằng, những hạng con cái dám chết vì Ngài thì chúng nó dám đạp văng cửa ra chúng nó đi sấn đến.

Dày công đếm số mề đay,

Mực văng nhuộm tánh, viết mài tiêu tâm.

(Ngụ Đời).

 

 

VĂNG VẲNG

Vẳng: Âm thanh đưa lại từ xa, thoang thoáng ở xa, không rõ lắm.

Văng vẳng là âm thanh nghe từ Xa vọng lại, lúc cao lúc thấp, không thật rõ lắm. Như: Văng vẳng tiếng đờn vọng lại từ xa.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trong khi ta đang ngẩn ngơ trước một sắc đẹp mỹ nhơn hoặc ta đương dùng thẳng trước một món lợi lớn của người đem hiến cho ta đặng dục ta làm chuyện phi pháp, thì một tiếng nói văng vẳng bên tai ta, nghe dịu dàng, chơn chánh và siêu kỳ...

Lầu phụng mơ màng nghe quyển địch,

Cung Tần văng vẳng lóng tơ đồng.

(Bát Nương Giáng Bút).

Văng vẳng bên tai lời chỉ giáo,

Mơ màng trong mộng Đấng uy nghi.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VẮNG

1.- Vắng là quạnh quẽ, lặng lẽ. Như: Khoảng vắng đêm trường. đêm thanh cảnh vắng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Vậy gắng khổ tâm giữ lòng đạo đức mà vẽ bước cho đời sau, lập công quả đặng chờ ngày chung cuộc, phủi nợ trần ai, đem tấm lòng thiện niệm đến Tam Giáo Ðài mà phục hồi cảnh cũ, rừng vắng non nhàn, suối chảy tòng đưa, lánh chốn đoạ đày đã bấy lâu ràng buộc.

Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,

Mà dể duôi sanh biến lăng loàn.

(Kinh Sám Hối).

Ðường dài vắng bước nỗi quanh co,

Ðường bước từ nơi rán chí dò.

(Đạo Sử).

2.- Vắng là không có mặt ở chỗ nào, khuất mặt. Như: Đi vắng, vắng trộm cướp, cô ấy vắng bóng từ lâu.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Ðời có Ðạo, tức là có kỷ cương trật tự, người quân tử đều ra ứng dụng, đem cái hay cái biết của mình mà thật hành cho đời nhờ. Vì đó mà được chúa Thánh tôi Hiền, muôn dân cảm mến, nên cần mẫn chơn chánh, biết lo nghĩa vụ giữ liêm sỉ. Trong nước trên thương dưới, dưới kính trên, vắng trộm cướp, khỏi luật hình, vì quốc dân đặng bảo bọc giúp đỡ cho có nghề sanh nhai. Ðường không lượm của rơi, nhà không đóng cửa, ấy là đời thạnh trị của Nghiêu Thuấn vậy.

Gặp cơn rảnh nhà lan vắng khách,

Công chỉ kim đèn sách học hay.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Ðứng trước tháp cao ngờ dạng vắng,

Thấy xe vừa cận trỗi cười dài.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

VẮNG BẶT

Vắng: Quạnh quẽ, lặng lẽ, không có mặt. Bặt: Không để lại dư âm hoặc tin tức gì.

Vắng bặt là không thấy điều gì đưa đến.

Vắng bặt, như chữ “Bặt tăm” có nghĩa là vắng nhà đi xa lâu mà không có tin tức, tiếng tăm gì.

Như: Đi đâu mà vắng bặt, vắng bặt tin tức đã lâu.

Chờ về vắng bặt tiết thu qua,

Tiếng nhạn kêu sầu tiếng thiết tha.

(Bát Nương Giáng Bút).

Tiêu tức hôm mai đành vắng bặt,

Ngâm thi giải muộn, muộn thêm càng...

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VẮNG BÓNG

Vắng: Không có mặt ở một nơi nào đó như bình thường. Bóng: Hình bóng.

Vắng bóng là không thấy hình bóng. Vắng bóng còn dùng để chỉ sự chết.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngài trở về nước dạy học cho đến năm 51 tuổi, vua nước Lỗ mới dùng ngài làm quan Trung Ðô Tể. Cách một năm Ngài được thăng Ðại Tư Khấu. Ngài đặt ra luật lệ cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc lớn nhỏ phân biệt, trai gái đều có bổn phận, ngoài đường không lượm của rơi, kẻ gian phi vắng bóng, hình pháp có đặt ra mà không dùng đến.

Ngắm vật nhớ người đà vắng bóng,

Nhìn pho bửu ảnh vẫn mơ hình.

(Thơ Hiến Pháp).

Sương mơi còn đọng khắp ngàn cây,

Trí Huệ về thăm vắng bóng thầy!

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VẮNG DẠNG

Vắng: Không có mặt ở một nơi nào đó như bình thường. Dạng: Hình thể trông bên ngoài.

Vắng dạng, như chữ “Vắng bóng”, là không thấy hình dạng hay hình bóng.

Như: Từ lâu chị ấy vắng dạng ở vùng nầy.

Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,

Phụng lầu gác quyển đợi hoà thinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ẵm bồng nhớ bầy con vắng dạng,

Ngồi, đứng, trông tin nhạn mỏi mòn.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

VẮNG HOE

Vắng: Không thấy hoặc ít thấy bóng người qua lại, lui tới hoạt động.

Vắng hoe, như chữ “Vắng tanh”, rất vắng, không có biểu hiện nào hoạt động, không có lấy một bóng người, không còn ai hết.

Như: Người nhà đi đâu hết, mở cửa ra thấy vắng hoe.

Chừ sao để lụn canh gà,

Vắng hoe gối phụng, nguyệt tà hoa thưa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Ngồi mà đợi vắng hoe cũng ức,

Mới mang hàng lấy lực ra rao.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẮNG MẶT

Vắng: Không có mặt ở một nơi nào đó như bình thường. Mặt: Phần trước đầu gồm mắt mũi.

Vắng mặt là không có mặt, tức không có sự hiện diện ở một nơi nào đó. Như: Xin phép được vắng mặt.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Thầy vì thấy nhiều người vắng mặt nên phải đợi đủ mới phong chức. Lâm Hương Thanh hiền muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm nầy, Thầy đến phong chức lập thành Nữ phái, nghe à!

Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,

Dinh đảo nghiêng vai Thánh khảy đờn.

(Lục Nương Giáng Bút).

Chị vắng mặt vô rờ ông táo,

Bốc tay dơ trã cháo trách canh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẮNG VẺ

Vắng: Không thấy có người qua lại, lui tới hoạt động. Vẻ: Trạng thái bề ngoài.

Vắng vẻ là quạnh quẽ, vắng lặng, không thấy có bóng người, bóng vật.

Như: Khoảng đường nầy rất vắng vẻ, ít người đi.

Ngồi vắng vẻ càng thêm luyến ái,

Muốn toan đem trẻ dại đến đường tu,

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Nam giao vắng vẻ đường cung kiếm,

Văn Hiến khô khan ngọn bút thần.

(Đạo Sử).

Còn anh lại tìm nơi vắng vẻ,

Chôn cuộc đời son trẻ tài hoa.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VẮT

1.- Vắt là một lượng cơm hoặc xôi được vắt thành từng nắm nhỏ.

Như: Mang vài vắt cơm đem theo, vắt xôi nếp than.

Dầu chẳng kẻ tay trao cơm vắt,

Trông có người biết mặt hỏi han mình.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Vắt là bóp mạnh hoặc vặn xoắn bằng bàn tay để làm chảy ra nước ở vật có chứa nước.

Như: Vắt chanh bỏ vỏ, vắt quần áo, vắt sữa bò.

Diễm Tử hiếu, mẹ người loà mắt,

Đội lốt nai để vắt sữa nai.

(Báo Ân Từ).

3.- Vắt chỉ những vật gì có tính trong suốt, hay cong nhọn, sắc bén.

Như: Nước trong vắt, cây cong vắt, móc nhọn vắt.

Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh,

Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VÂY

Vây là bao kín chung quanh. Như: Ngồi vây chung quanh, bao vây quân giặc, vòng vây.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người tu sĩ Cao Ðài phải biết vì Ðời mà chịu khổ, thật hành chủ nghĩa vị tha dám quên mình thì mới thật là xả thân cầu Ðạo, đem đời sống hiến trọn cho Ðạo và cho nhân sanh, sự quả quyết hy sinh do nơi lòng trắc ẩn trước mọi đau khổ trên thế gian tình thương phải được lan tràn vây kín đám nhân sanh là đám dân bần hàn khốn khổ để thực hiện câu đem Ðạo cứu Ðời.

Cương toả đương thời đã giải vây,

Ðừng mơ oan nghiệt một đời nầy.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VÂY CÁNH

Vây: Bộ phận dùng để bơi của cá. Cánh: Bộ phận trong thân thể loài chim, dùng để bay.

Vây cánh, bởi chữ “Vũ dực 羽 翼”, tức là vi loài cá và cánh loài chim.

Vây cánh, do câu: Thiên sanh vũ dực, vị huynh đệ chi tương thân 天 生 羽 翼, 謂 兄 弟 之 相 親, nghĩa là trời sinh vây cánh, là nói anh em thân thiết nhau.

Vây cánh nghĩa rộng dùng để chỉ sức mạnh, hay sự đoàn kết.

Xưa trùm Đức Quốc trương vây cánh,

Nay giúp Việt Nam trổ mặt mày.

(Thơ Cao Liên Tử).

 

 

VẤY

Vấy là dính vào, bết vào, làm cho dơ, cho bẩn.

Như: Quần áo vấy máu, bàn tay vấy đầy bùn, mặt mày vấy lọ nghẹ.

Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,

Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.

(Kinh Sám Hối).

Hồng cấu đã chui thân phải vấy,

Hơn thua cười kẻ biết nơi tiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẦY

1.- Vầy là thế nầy, từ dùng để khẳng định, xác định cái được đề cập tiếp sau đó.

Trong, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu Thầy quá thương dìu dẫn cho các con khỏi chốn khó khăn ấy, thì các con phải đem mình trở xuống mấy lần như vầy nữa mới được công quả hoàn toàn, hầu trở về ngôi vị đặng.

Biết phận già không chờ chống gậy,

Nương theo con dại mới ra vầy.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thà xuống Âm Cung chia khổ tội,

Cha vầy, ai nỡ ngự đài cao!

(Thất Nương Giáng Bút).

Cõi tục can qua dầu phải rứa,

Xứ thần tai ách có vầy sao?

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Vầy là tiếng trợ từ, nghĩa cũng như chữ “Vậy”, từ dùng để chỉ điều như đã biết, điều được nói đến, hoặc đang là thực tế.

Như: Anh em sao giống nhau dữ vầy nè.

Các con, Hội Thánh là vầy các con há?

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

3.- Vầy là dùng tay chân quấy, hoặc vò, giẫm nhẹ, theo hướng nầy hướng khác, làm cho bẩn, nhàu nát.

Như: Vầy bừa, vầy đạp, vầy vò.

Chớ giống cỏ chạ lan mọc bên đường, ví có bị bước tục vầy bừa cũng không ai màng ngó tới.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

4.- Vầy là bày ra, tổ chức, làm những gì cần thiết để tiến hành một hoạt động nào đó.

Như: Vầy tiệc ngoài sân, vầy thuyền.

Vầy thuyền chi sợ cơn giông tố,

Hiệp chủng còn hơn cuộc chiến tranh.

(Đạo Sử).

5.- Vầy là sum họp, đoàn tụ, nhóm họp lại.

Như: Vầy hội, vầy duyên cá nước, vầy cuộc cầm sắc, vui vầy, sum vầy.

Cờ thần nhớ buổi vầy đôi bạn,

Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Một nhà vầy hội rất mừng thay,

Ðạo Thánh từ đây đặng vẹn ngay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẦY BỪA

Vầy (vày): Dùng tay chân vò hoặc giẫm, làm cho nhàu nát. Bừa: Không kể gì đúng sai, hậu quả.

Vầy bừa, hay “Vày bừa”, tức có hành động, cung cách đối xử tệ hại với một ai đó.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ðời người qua thấm thoát, thoạt còn thoạt mất như vầng mây nổi, như giọt sương tan. Những cảnh ruột đứt châu rơi hằng diễn ra để đày đoạ vầy bừa con người giữa chốn sông mê biển khổ.

Xương thịt cũng đồng nhân loại thế,

Vầy bừa há chẳng hổ sông non?

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

VẦY ĐẠP

Hay “Vày đạp”.

Vầy (vày): Dùng tay chân vò hoặc giẫm, làm cho nhàu nát. Đạp: Dùng bàn chân đẩy mạnh.

Vầy đạp, hay “Vày đạp”, là giày xéo, hay giẫm lên làm cho nhàu nát, thường dùng để ví hành động vi phạm một cách hết sức thô bạo.

Nhưng dòm Thiên thơ, thì tám phần mười đã sa ngay vào chơn của Quỷ vương vầy đạp...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VẦY ĐÔNG

Vầy: Sum họp, đoàn tụ, nhóm họp lại. Đông: Nhiều người, vật tụ lại lại một nơi.

Vầy đông là nhóm họp, tụ tập tại một nơi nào đó rất nhiều, rất đông.

Như: Vầy duyên cá nước, vầy đoàn để ra đi.

Anh em bạn tác vầy đông,

Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Quan khách vầy đông khắp mọi miền,

Về cùng chiêm bái vọng Ân Thiên.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

VẦY HIỆP

Hay “Vầy hợp”.

Vầy: Sum họp, đoàn tụ. Hiệp (hợp): Kết hợp, sum họp, gộp chung lại.

Vầy hiệp, cũng như “Vầy hợp” là vầy đoàn, sum hợp với nhau.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Xưa đã lắm phen nhơn sanh phải khổ tâm hy sinh vì nền Ðạo, nhưng mà tàn lối ngưỡng trông rồi thì phân vân dời đổi, tang biến thương dồn, rốt cuộc lại mối thân ái của sanh linh chưa vầy hiệp đặng.

Nương dựa con tua vầy hiệp bạn,

Đường đời cũng thế chẳng bao xa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vầy hiệp đồng tâm liên ái kết,

Cường quyền sức mọn dễ chi sờn.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

VẦY VÃ

Hay “Vày vã”.

Vầy (vày): Vò, dùng tay chà xát. Vã: Vỗ nhẹ, đập nhẹ cho thấm ướt.

Vầy vã là chà đạp thô bạo, ý chỉ đối xử một cách tàn tệ với người mình yêu.

Thánh giáo Thầy có dạy: Có vì chúng sanh mà khổ tâm hành đạo, có khó nhọc, có dãi dầu sương mơi nắng xế, mà quên bậc phẩm vô vị ở cõi trần nầy, có vầy vã nẻo gai chông lần theo bước đường hạnh đức, mới có ngày vui vẻ bất tận, mới có buổi an hưởng địa vị thiêng liêng, tránh điều phiền não, thoát đoạ luân hồi, mới có lúc rảnh nợ phong trần, nhàn xem sự thế, non cao suối lặng, động mát rừng thanh, là chỗ con lấy đạo đức làm thang để bước lên cho cùng tột.

Con đừng thấy phụ nhân nan hoá,

Cầm hồn hoa vầy vã thân hoa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VẦY VÒ

Hay “Vày vò”.

Vầy (vày): Vò, dùng tay chà xát. Vò: Xát, chà, bóp cho nát, cho sạch.

Vầy vò, hay “Vày vò”, là dùng hai tay tác động lên một vật làm cho nhàu nát. Nghĩa bóng chỉ tả tơi, tan nát.

Thánh giáo Chí Tôn dạy: Kiếp trần ai lắm nỗi vày vò, các con ở nhằm thời đại nầy, đặng lắm cuộc tân toan, nên mới để ý vào đường đạo đức. Nếu chẳng vậy thì các con cũng đã như ai, đem thân vùi dập trong chốn lợi quyền, tranh tranh cạnh cạnh, biết ngày nào rồi?

Ðường tân khổ lắm vày vò, buổi an nhàn đâu kẻ hưởng, tuồng thế cũng gay go, mà bước trần càng khốn đốn.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VẪY VÙNG

Vẫy vùng là tung hoành ngang dọc.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thầy có dạy: Tay chơn chưa cử động, hình thể còn tiêu mòn, mắt chưa muốn thấy, tai chưa muốn nghe, ngũ tạng lục phủ chưa thông đồng mà muốn vẫy vùng, lấn lướt thế nào đặng. Cũng như các con bề trong cấu xé, tâm một nơi đức một ngả, mà ham đi dìu dắt người ngoài, biểu hiệp đồng sao được.

Hồ thỉ vẫy vùng đáng phận trai,

Trời chiều nay đã rạng cân đai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hổ cử Nam San vắt vẫy vùng,

Cân đai rạng vẻ giữa trời không.

(Đạo Sử).

Vẫy vùng lắm lúc vùi tro bụi,

Nghiệp cả roi truyền mới đến ta.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

VÂN

1.- Vân là một từ cổ, có nghĩa vậy.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tuy vân Đức Chí Tôn đến kêu người phải về cùng Thầy mà sự thật ra tâm Đạo của chị từ bé tới lớn chỉ theo chơn Đức Phật Thích Ca mà thôi, nếu xét đoán ra đã biết Đạo thì sự ấy không chi là lạ.

Nên người khá vẹn nợ quân thần,

Nghèo khó tuy vân đã phải phần.

(Đạo Sử).

2.- Vân là mây. Như: Vân cẩu, vân đài, phong vân.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Sự khó khăn cao cả ấy nếu các con nhứt quyết thành công thì tên tuổi các con mới ghi tạc nơi Đài Vân mà lưu lại những trang sử uy hùng cho hậu thế.

Hữu vân hữu võ hữu phong ba,

Nhựt Nguyệt Âm Dương tứ quý hoà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phong vân phải thế buổi bay rồng,

Nanh vấu bây chừ đủ cánh lông.

(Bát Nương Giáng Bút).

3.- Vân là “phân vân 紛 紜”, tức ở trạng thái đang nghĩ ngợi nhiều, chưa biết nên quyết định như thế nào.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Xưa đã lắm phen nhơn sanh phải khổ tâm hy sinh vì nền Ðạo, nhưng mà tàn lối ngưỡng trông rồi thì phân vân dời đổi, tang biến thương dồn, rốt cuộc lại mối thân ái của sanh linh chưa vầy hiệp đặng.

Ðòi lúc phân vân đời vẫn thế,

Màng chi miệng độc để chê khen.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VÂN ÁM ĐẢNH HỒ

雲 暗 鼎 瓠

Vân ám: Mây che. Đảnh hồ: Vua Hoàng Đế truyền đúc một cái đỉnh ở dưới núi Kinh Sơn. Đỉnh đúc vừa xong, nhà vua cỡi rồng bay lên cõi Tiên. Về sau người ta đặt tên nơi đúc đỉnh là “Đỉnh hồ”, dùng để chỉ sự chết.

Vân ám đảnh hồ là nói vua Hoàng Đế chết. Sau nầy, gọi chung cho tất cả mọi người chết.

Cổ thi có câu: Vân ám đỉnh hồ, long khứ viễn nguyệt minh hoa biểu hạc quy trì 雲 暗 鼎 湖 龍 去 遠, 月 明 花 表 鶴 歸 遲, nghĩa là mây phủ đỉnh hồ rồng bay khuất bóng, trăng soi trụ hoa, hạc trở lại muộn.

Xem: Đảnh hồ.

Hiến tuần sơ, hề hiến tuần sơ,

Vân ám đảnh hồ, long viễn tựu.

(Thài Tuần Sơ).

 

 

VÂN CẨU

雲 狗

Vân: Mây. Cẩu: Chó.

Vân cẩu là mây và chó, do câu Thơ của Đỗ Phủ đời nhà Đường: Thiên thượng phù vân như bạch y, tu du hốt biến vi thương cẩu 天 上 浮 雲 如 白 衣, 須 庾 忽 變 為 蒼 狗, nghĩa là mây nổi trên trời như áo trắng, chốc lát rồi lại hoá chó xanh.

Vì vậy, chữ “Vân cẩu” dùng để chỉ cuộc đời thường hay biến hoá, thay đổi luôn.

Xem: Bạch vân thương cẩu.

Khoác áo thiên thanh ngời vẻ đẹp,

Treo tranh vân cẩu tặng đời chơi.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

VÂN DU

雲 遊

Vân: Mây. Du: Đi chơi.

Vân du là đám mây bay nay đây mai đó, dùng để nói những kẻ lữ hành đi không nhất định, rày đây mai đó.

Vân du thường dùng cho các thầy tu đi từ chùa này qua chùa khác, hay truyền giáo, khất thực không có chỗ nhất định.

Vân du thế giái vui mùi Ðạo,

Mơi viếng kỳ sơn tối cẩm san.

(Đạo Sử).

Tách trần tính lại đã là đâu,

Thế giới vân du chỉn một bầu.

(Quyền Giáo Tông).

 

 

VÂN DU THIÊN NGOẠI

雲 遊 天 外

Vân du: Đi chơi như mây nhẹ nhàng bay. Thiên ngoại: Ngoài bầu trời.

Vân du Thiên ngoại là đi chơi nhẹ nhàng, thong thả như đám mây bay, ngoài bầu Trời, tức một thế giới khác.

Bậc chơn tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du thiên ngoại.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÂN ĐÀI

雲 臺

Vân: Mây. Đài: Cái đài cất cao.

1.- Vân đài là tên một cái cung đời nhà Hán được xây rất cao, nên gọi là vân đài, tức là đài mây.

Đời vua Hiền Tông, vua nghĩ đến công ân của những kẻ đời trước mới truyền cho vẽ tượng của 28 công thần vào vách ở phía nam cung vân đài.

Trong văn học, chữ Vân đài, Đài vân, Đài mây, Gác mây dùng để chỉ những bậc trung thần của đất nước.

Khí phách hùng anh nòi giống Việt,

Hiệp nên cảnh trí tạo vân đài.

(Thơ Tây Sơn Đạo).

2.- Đối với Tôn giáo, Vân đài dùng để chỉ người đạt được phẩm cao trọng nơi cõi thiêng liêng hay đắc đạo.

Dìu dắt sanh linh lo tế độ,

Thiên niên danh tạc chốn Vân Ðài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vân đài có thuở đặng nêu tên,

Nghèo khổ hiền lương giữ dạ bền.

(Đạo Sử).

 

 

VÂN LÔI

雲 雷

Vân: Mây. Lôi: Sấm sét.

Vân lôi là mây và sấm sét, nghĩa bóng dùng để chỉ cảnh loạn lạc.

Vân lôi thời tiết 雲 雷 時 節 nghĩa là thời buổi làm mây làm sấm, chỉ anh hùng gặp dịp, quân tử đắc thời, làm nên sự nghiệp lớn lao.

Áo đỏ chưa hay thân dựa bệ,

Gót son đã sạch bước vân lôi.

(Đoàn Thị Điểm Giáng).

 

 

VÂN TRÌNH

雲 程

Vân: Mây. Trình: Con đường.

Vân trình là đường mây, đường công danh, thi cử, tức nói cái tiền đồ rộng rãi bằng phẳng, chỉ sự thi đỗ, hiển đạt làm quan.

Đối với tôn giáo, vân trình dùng để chỉ con đường tu tập để đạt pháp.

Thiên tính hồi nguyên quy chánh quả,

Vân trình đạt pháp độ quần sanh.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

VÂN XA

雲 車

Vân: Mây. Xa: Xe.

Vân xa là xe mây, tức dùng mây làm xe bay đi, hay cỡi mây.

Đây là pháp bửu của các vị Tiên, Phật, còn có thể gọi là “Đằng vân”.

Trong “Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống”, Đức Hộ Pháp có nói về chiếc “Vân xa” như sau: Buổi ấy, Bần-Đạo đi với cái Pháp bửu bằng Vân xa, đi ngang qua từ Ngọc Hư Cung đến Cực Lạc Thế Giới.

Lên Vân Xa ngồi nhìn thấy rõ,

Hữu Ngọc Nữ tả có Tiên Ðồng.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

Sớm nương giá hạc qua Bồng đảo,

Chiều ngự vân xa đến Phật đài.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

VẤN

1.- Vấn là quấn lại thành vòng.

Như: Cổ vấn mảnh khăn hồng, đầu tóc vấn khăn, vấn điếu thuốc lá.

Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,

Bận lòng con lại vấn nô y.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Vấn là hỏi. Như: Vấn đáp, vấn danh, vấn an, vấn nạn, tự vấn lương tâm.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo đã vấn nạn Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn một vấn đề khó giải mà từ xưa đến nay chắc chưa có vị Giáo Chủ nào đã hỏi như Bần Ðạo.

Ngã vấn chư nhu hà thủ tạo?

Kỉnh Ngô vi chủ, Ðạo như hà?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Gái nồi cơm bát nước đói no,

Trai thang thuốc ngày lo an vấn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẤN AN

問 安

Vấn: Hỏi. An: Yên, yên ổn.

Vấn an là nói về kẻ dưới hỏi thăm sức khoẻ người trên hay ông bà, cha mẹ.

Do tích Vua Văn Vương là người con hiếu thảo, khi còn là thế tử, mỗi buổi sáng, ăn mặc áo quần chỉnh tề để vào chầu, hễ nghe thái giám nói vua yên giấc thì Văn Vương mừng rỡ, hễ nói vua không yên thì lòng Văn Vương rất lo lắng.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Mai chiều chúng ta đến thăm viếng Ðức Mẹ như Từ thân chúng ta vậy, mộ khang là: đến thăm mai chiều gọi là vấn an Ðức Mẹ đó vậy.

Thư song mấy lượt vui tin nhạn,

Khách quý nhọc lòng đến vấn an.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

VẤN DANH

問 名

Vấn: Hỏi. Danh: Tên.

Vấn danh là hỏi tên họ người con gái, là một trong sáu lễ của hôn nhân.

Lễ này được tiến hành trước nhất trong lục lễ, còn gọi là lễ dạm hỏi, tức người nhà trai đem lễ vật đến hỏi tên tuổi của người con gái.

Lễ Vấn danh là lễ hỏi cho biết tên họ và tuổi tác cô gái coi có trúng tên cha mẹ ông bà bên chồng chăng?

(Quan Hôn Tang Lễ).

 

 

VẤN ĐỀ

問 題

Vấn: Hỏi. Đề: Đề mục, nêu lên.

Vấn đề là đề mục của câu hỏi, tức những điều cần được xem xét, nghiên cứu, giải quyết.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Còn việc các Ðấng phú thác cho mình, hoặc yêu cầu mình thi hành một vấn đề nào, nếu mình trọn tin mạng pháp thì các Ðấng cũng ghi công cho. Nhược bằng mình không tuân hoặc lười biếng trễ nãi, thì các Ðấng lại ghi tội cho.

Nhớ vấn đề mình luận còn nhiều,

Bần Đạo nói bao nhiêu là đủ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẤN NẠN

Vấn: Hỏi, hỏi thăm. Nạn: Khó khăn.

Vấn nạn là đặt ra nhiều câu hỏi khó khăn để hỏi cho thấu suốt mọi vần đề phức tạp.

Như: Vấn nạn ông thầy những điều ngờ vực.

Bần Ðạo vấn nạn: “Tại sao Ngài nói linh hồn đói, linh hồn có ăn sao mà đói?“.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VẤN VƯƠNG

Vấn: Quấn quít. Vương: Mắc phải.

Vấn vương là ràng buộc, không thoát ra đặng.

Thánh giáo Bát Nương có câu: Giờ đây Đức Hộ Pháp đã yên phận, nhẹ tách bến trần với lòng man mác, buồn vì Đại nghiệp chưa hoàn thành trọn vẹn, vì nợ áo cơm chưa vẹn trả cho non sông, vì cơ đồ đang nguy cấp, nên mặc dầu rảnh rang sự thế, về ngôi xưa quê cũ, nhưng lòng hoài vọng vẫn vấn vương theo tổ nghiệp và đại gia đình thiêng liêng, nơi chen chúc con cái của Đại Từ Phụ.

Phải coi lấy tinh thần là trọng,

Đừng vấn vương theo bóng trời mai.

(Tứ Nương Giáng Bút).

Thương cho kẻ ngậm ngùi lỡ phận,

Tìm kiếm đôi lại vấn vương oan.

(Thất Nương Giáng Bút).

Phấn son để thẹn lời giao ước,

Tơ tóc thêm buồn nỗi vấn vương.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VẦN

1.- Vần, do chữ “Vận 韻” nói trại ra, để chỉ những tiếng cùng một thanh với nhau.

Như: Vần bằng, bài thơ vần trắc, gieo vần lơi, chữ tài liền với chữ tai một vần.

Đối với trẻ cho tròn phận Mẹ,

Mượn vần thơ thỏ thẻ đêm khuya.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Gắng cầm viết nín hơi sống rốt,

Đề năm vần khắc cốt nữ lưu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Vần là chữ cái đứng đầu khi viết một từ, để căn cứ vào đó xếp thành một danh sách.

Như: Bảng vần quốc ngữ, ghép vần ngược, tập đánh vần, vần T trong từ điển.

Muốn dạy con học đặng chữ vần,

Có một thế nên cần mượn cách.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Vần là xoay, là cho chuyển đi, hay chuyển mạnh theo nhiều chiều, hướng.

Như: Gió vần như bão táp, mây vần gió chuyển, xoay vần, chuyển vần.

Biển Bắc mặc dầu cơn sóng bủa,

Non Nam chi quản đám mây vần.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VẦN NGƯỢC

Vần: Chữ cái đứng đầu khi viết một từ, để căn cứ vào đó xếp thành một danh sách. Ngược: Nghịch lại.

Vần ngược là vần ghép con chữ phụ âm sau các con chữ nguyên âm trong quốc ngữ. Như: Am, ám, vần ngược.

Hễ A B thuộc lảu tới nơi,

Làm vần ngược vần xuôi ráp lại.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẦN VŨ

Vần: Xoay chuyển mạnh theo nhiều hướng khác nhau. Vũ: Mưa.

Vần vũ là mây trời chuyển động cuồn cuộn, báo hiệu sắp có cơn mưa, tức trời chuyển mưa.

Như: Bầu trời đang trong xanh, bỗng mây đen kéo đến vần vũ.

Vần vũ suối bờ Thần tiếp Thánh,

Ồn ào Bến Nghé quỷ xô quân.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Trước nghi án mây sầu vần vũ,

Bấm nốt tay xem thử máy trời.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

 

 

VẦN XÂY

Vần: Xoay, làm chuyển đi một vật nặng. Xây (xoay): Quây, quây tròn.

Vần xây hay vần xoay, do chữ “Xây vần” (xoay vần), quây tròn, thay đổi.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy nắm máy huyền vi, hằng lấy cân thiêng liêng mà day trở máy Càn khôn, vì vậy thế cuộc phải tuần hoàn, bầu nhơn sự phải luân chuyển vần xây phiêu linh cho đến buổi nhơn loại được vẹn toàn, thế giới cũng vì đó mà phải đổi thay, gạn đục lóng trong mà tạo thành miền Cực Lạc.

Nhiệm mầu Tạo hoá cuộc vần xây,

Thưởng phạt cũng do một buổi nầy.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Buộc ràng túng tíu cõi Nam Châu,

Trị loạn vần xây cuộc bể dâu.

(Đạo Sử).

Vần xây trước án bụi công danh,

Gương bể đành cam khó đặng lành.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

VẦN XUÔI

Vần: Chữ cái đứng đầu khi viết một từ, để căn cứ vào đó xếp thành một danh sách. Xuôi: Thuận theo.

Vần xuôi là vần ghép con chữ phụ âm trước các con chữ nguyên âm trong chữ Quốc ngữ. Như: Ba, bé, đi là vần xuôi.

Hễ A B thuộc lảu tới nơi,

Làm vần ngược vần xuôi ráp lại.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẨN

1.- Vẩn là đục, ý chỉ nước nổi lên chất bẩn làm mất sự trong lắng. Như: Vẩn đục, ngọc vẩn, cá quẫy nước làm bùn vẩn lên, bầu trời không vẩn một gợn mây.

Truyện Kiều có câu: Tiếc thay nước đã đánh phèn, Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!

Than xong, ngọc vẩn châu trầm,

Lượng triều tung toé, sóng gầm nước reo.

(Phù Kiều Hận Sử).

2.- Vẩn nghĩa bóng là quẩn, rối rít, tức nhiều mối, nhiều chuyện không đâu.

Như: Tính vẩn, lo quanh nghĩ vẩn, vơ vẩn.

Nhẫng vơ vẩn vào ra bến khổ,

Trước mặt xem những chỗ sầu than.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Từ thứ dân cho đến viên quan,

vẩn thấy cùng đàng lấp ngõ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẨN VƠ

Vẩn: Vớ vẩn, không có nghĩa lý, tác dụng gì thiết thực. Vơ: Biết là có thể không đúng, không có cơ sở gì cả, nhưng vẫn cứ làm.

Vẩn vơ là ở trạng thái suy nghĩ, nói năng hay đi lại không có ý thức rõ mình muốn gì, nhằm cái gì.

Khi Thuyết về Khổng Phu Tử, Đức Thượng Sanh có câu: Hai năm sau, đến tháng tư năm Nhâm Tuất đời vua Kinh Vương tức là năm 478 trước Tây lịch kỷ nguyên, một hôm Ðức Khổng Tử dậy sớm, đi vẩn vơ trước cửa, tay kéo lê cây gậy mà hát rằng: “Núi Thái Sơn có lẽ đổ chăng? Người triết nhân có lẽ nguy chăng? Cây lương mộc có lẽ nát chăng?

Nhàn dạo vẩn vơ theo Nhựt Nguyệt,

Rảnh ngồi chậm rãi tụng Huỳnh Đình.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Kìa cá giỡn vẩn vơ đáy nước,

Nọ kết đôi cưu thước ven trời.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VẪN

Vẫn là cứ như thế, tiếp tục, tiếp diễn, chứ không có gì thay đổi. Như: Nó vẫn làm, trời vẫn mưa.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ngày nầy năm trước, các con vẫn còn mơ màng trong giấc mộng trần, đường co duỗi vẫn đã lấp kín chút bợn trần, mà màn thế tục cũng chưa trông khoả vén.

Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,

Chốn quyền môn nữ lại vẫn không.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VẬN

1.- Vận là mặc quần áo.

Như: Ăn vận, vận bộ đồ bà ba đen, đàn bà thì yếm mang quần vận.

Dạy em phận yếm mang quần vận,

Phải buộc mình núp lẩn dưới tay chồng.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Vận là vần, chuyển đi. Như: Vận lương, vận chuyển, vận dụng, vận động, vận hành.

Trong Giảng Đạo Yếu Ngôn của Nguyễn Văn Kinh có câu: Đạo vẫn có một phần dương, một phần âm, hiệp thành kiền khôn thế-giới, thì âm dương chuyển vận tuần huờn mà sanh sanh hoá hoá mới có đêm tối ngày sáng.

Xem: Vận chuyển.

Dịch lý luôn luôn chuyển vận không ngừng, cũng như nước sông chảy đi kia vậy.

(Giáo Lý).

3.- Vận là số mệnh xoay vần đến. Như: Vận may, vận rủi, vận thịnh, vận suy, vận đỏ vận đen.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Có người được thời may, có kẻ gặp vận rủi và bởi nơi số kiếp nên biết bao nhiêu khách trần phải ngậm đắng nuốt cay, gian truân vất vả vì gánh nợ đời.

Trước mắt thấy Trời còn chẳng sợ,

Cứ lo đổ lỗi vận cùng thời.

(Đạo Sử).

4.- Vận là vần trong thơ ca, là những tiếng đồng thanh với nhau.

Như: Trắc vận, yêu vận, làm thơ xuất vận, hoạ vận bài thơ.

Mượn vận lương nhân xin nhắn nhủ,

Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẬN BĨ

運 否

Vận: Số mệnh xoay vần đến. Bĩ: Xấu, một quẻ trong Kinh dịch, nghĩa là bế tắc, không thông.

Vận bĩ, như chữ “Bĩ vận 否 運”, là mạng xấu, làm gì cũng không nên, lúc không hanh thông.

Là sách quý thời nào cũng quý,

Kẻ thanh cao vận bĩ cũng cao.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

VẬN CÙNG

運 窮

Vận: Khí số, số mệnh. Cùng: Cuối hết, không còn gì nữa, nghèo, túng quẫn.

Vận cùng là số mạng cùng, tức khí số túng quẫn nghèo khổ, cùng cực.

Như: Người vận cùng thường bị khinh rẻ.

Yến Tử Hà xưa lúc vận cùng,

Còn mang dép rách đến Quan Trung.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẬN CÙNG THÔNG

運 窮 通

Vận: Khí số, số mệnh. Cùng: Cuối hết, không còn gì nữa, nghèo, túng quẫn. Thông: Suốt.

Vận cùng thông là vận mạng khi cùng khi thông, ý chỉ lúc suy vi, lúc thạnh đạt.

Chừ gặp cố nhân lời dám hỏi,

Hỏi ra cho biết vận cùng thông.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VẬN CHUYỂN

運 轉

Vận: Xoay động. Chuyển: Lay động, không đứng yên một chỗ.

Vận chuyển là xê dịch, xoay vần, không đứng yên một chỗ.

Vận chuyển còn có nghĩa là chuyên chở đồ vật từ nơi này đến nơi khác, bằng phương tiện hay bằng sức loài vật.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cơ quan Hành Chánh Ðạo ví như một động cơ, các bộ phận phải hoạt động đồng đều thì động cơ mới vận chuyển suông sẻ, nếu một bộ phận bị hỏng, tức nhiên động cơ phải ngưng hẳn, không vận chuyển được.

Càn Khôn sản xuất hữu hình,

Bát hồn vận chuyển hoá thành chúng sinh.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,

Tạo Hoá Thiên sanh biến vô cùng.

(Kinh Tận Độ).

Ngũ hành vận chuyển đoạt huyền Thiên,

Nương níu đôi năm khoẻ tự nhiên.

(Đạo Sử).

 

 

VẬN ĐỘNG

運 動

Vận: Chuyển động. Động: Không nằm yên.

Vận động là dùng động tác khiến cơ thể chuyển vận, huyết mạch lưu thông, vận động còn được hiểu là hoạt động để làm việc.

Ngoài ra, vận động còn là tuyên truyền một việc gì trong quần chúng đê đạt được mục đích.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Hình chất con người vẫn là thú, phải ăn uống mới nuôi sự sống. Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào ngũ tạng lục phủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng, mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng.

Thân vận động trong trường thế sự,

Đạo nhơn luân cư xử cùng đời.

(Kinh Thế Đạo).

Quyết chí công phu thân vận động,

Đường Tiên nẻo Phật mới mong gần.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VẬN HÀNH

運 行

Vận: Chuyên chở. Hành: Đi, làm.

Vận hành là xoay động, đi quanh.

Những vật thể luôn luôn xoay vòng, không đứng dừng, gọi là vận hành.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Như chúng ta thấy cơ quan sanh hoá vạn vật và loài người là do âm dương phối hợp mà biến tướng, Phật chiết tánh biến ra Pháp là Ngôi thứ nhì thuộc Âm, là Phật Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái bí mật ấy là khí âm dương phối hiệp biến hình, mà Phật Mẫu dùng gì để tạo nên cơ quan hữu vi nầy, vì bởi Phật Mẫu dùng khối sanh quang có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được.

Noi vận hành quảng đại Chí linh,

Góp nhơn loại vào tình cốt nhục.

(Thơ Hộ Pháp).

Có sen, bông, ngó, lá, gương,

Tượng hình Thái Cực Âm Dương vận hành.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

VẬN HỘI

運 會

Vận: Khí số, số mạng. Hội: Gặp gỡ, cơ hội.

Vận hội là lúc thịnh suy, may rủi, ý muốn nói cái khí số tốt xấu đang trải qua, đang gặp phải.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Những bậc hiền thời xưa là những người tài kinh bang tế thế và có một tiết tháo đáng kính. Phần nhiều là những trang chán đời, có chí ẩn dật, nhưng nếu gặp vận hội được ra gánh vác việc đời thì làm nên sự việc phi thường, đổi loạn ra trị, đổi nguy thành an, như Trương Tử Phòng đời Hớn, Kiển Thúc, Phạm Lãi đời Xuân Thu, Ðịch Nhơn Kiệt đời Ðường, Châu Công Ðáng đời Châu, Triệu Phổ đời Tống.

Tập tâm cầu Ðạo chớ sơ sai,

Chí ấy sau nhờ vận hội may.

(Đạo Sử).

Vận hội đến đã xây thời thế,

Bởi hung tàn mà chưa dễ thoát lệ nô.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Tao phùng vận hội gắng tìm phương,

Thành bại xưa nay ấy lẽ thường.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

VẬN MẠNG

運 命

Hay “Vận mệnh”.

Vận: Khí số, số mạng. Mạng (mệnh): Số mạng.

Vận mạng là số mệnh, tức cuộc sống nói chung về mặt những điều hay dở, được mất đang đón chờ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Chơn Cực Lão Sư có dạy: Chư đạo hữu đã có nghe lời Thánh giáo về vận mạng nên hư của nền Ðạo. Vậy có hiểu rõ tôn chỉ chánh đáng của Ðạo là sao chưa?

Xem: Vận mệnh.

Ngặt còn bóng trời nam chiếu sáng,

Vận mạng chờ ác tản sương mơi.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

May rủi khôn lường câu vận mạng,

Chống chèo đã lướt trận phong ba.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VẬN MỆNH

運 命

Vận: Khí số, số mạng. Mệnh (mạnh): Số mạng.

Những việc xảy đến với mình như an nguy, cùng đạt, giàu nghèo... mà mình không ngờ được, hay không tránh được, đó là vận mệnh hay vận mạng.

Như: Ngày xưa, vua là bậc đế vương cầm vận mạng của toàn dân trong nước.

Đừng đem vận mệnh so tài trí,

Đức Khổng vì đời phải khóc lân.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VẬN RỦI

Vận: Khí số, số mạng. Rủi: Điều không lành, không tốt bất ngờ xảy ra.

Vận rủi là số mạng gặp lúc rủi ro, trái với “vận may”.

Như: Năm nay gặp vận rủi, thường xảy ra điều không may cho mình.

Có người được thời may, có kẻ gặp vận rủi và bởi nơi số kiếp nên biết bao nhiêu khách trần phải ngậm đắng nuốt cay...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VẬN SUY

運 衰

Vận: Vận mệnh, khí số. Suy: Sút kém, bại.

Vận suy, đồng nghĩa với “Vận bĩ 運 否”, là vận mệnh gặp lúc xấu, kém.

Như: Việc kinh doanh của con người thường bị thất bại khi gặp vận suy.

Kinh Châu thất thủ nơi Thiên định,

Khiến Hớn vận suy mới đổi thay.

(Đạo Sử).

Chừng nào Chi Pháp đã ra đi,

Là lúc Đạo Trời gặp vận suy.

(Thanh Sơn Đạo Sĩ).

 

 

VẬN TẢI

運 載

Vận: Chuyên chở. Tải: Chở.

Vận tải là chuyên chở từ nơi này đến nơi khác.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Vậy các con phải biết rằng: Ðạo là vô vi, hạo nhiên chi khí, vận tải châu lưu trước khi sanh Trời, Ðất. Trời, Ðất phải bẩm thọ khí hạo nhiên sanh ra rồi phân định Nhựt, Nguyệt, Tinh cùng muôn loài vạn vật.

Thuỷ triều vận tải biển đông,

Lòng hằng dường ấy phước đồng ăn chay.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VẬN TỬ HỒI MÔN

運 子 回 門

Vận: Chuyển, dời đi. Tử: Con. Hồi môn: Cửa, nhà.

Vận tử hồi môn là chuyển con cái về ngôi nhà xưa là nơi cõi thiêng liêng.

Vận tử hồi môn ý chỉ lúc nào Đức Phật Mẫu cũng mong muốn mang con trở về với ngôi xưa vị cũ.

Nghiệp hồng vận tử hồi môn,

Chí công định vị vĩnh tồn Thiên cung.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

VẬN THỚI

運 泰

Vận: Vận mệnh hay khí số. Thới: Tốt, yên vui.

Vận thới hay “vận thái” là vận mạng gặp lúc hanh thông, tức khí số tốt.

Vận thới trái với vận bĩ, vận suy.

Khi vận thới lung lăng chẳng kể,

Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.

(Kinh Sám Hối).

Ngũ phúc hoa khai mừng vận thới,

Tam dương liễn chúc đẹp hình lân.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VẬN THỜI

運 時

Vận: Khí số. Thời: Chỉ một khoảng thời gian

Vận thời, bởi chữ “Thời vận 時 運”, tức là nói vận may hay rủi trong một thời gian nào đó.

Vận thời đồng nghĩa với “Vận mệnh 運 命”, để chỉ về mạng số của một người hay khí số của một nước.

Chua cay đã chịu lắm mùi đời,

Bán thế gỡ chưa khỏi vận thời.

(Đạo Sử).

Cuộc nên hư nào tránh đặng vận thời,

Nếu không mẹ ai hơi đâu lo cứu vớt.

(Phương Tu Đại Đạo).

Giống rồng lại gặp hội mây rồng,

Xuân đến vận thời chẳng lẽ không.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VẬN TRÙ

運 籌

Vận: Vận dụng. Trù: Tính toán.

Vận trù là tính toán trù liệu để hành động cho có kết quả tốt đẹp.

Vận trù học còn là một ngành khoa học vận dụng phương pháp toán học và các phương pháp khoa học khác để nghiên cứu và phân tích các vấn đề về sắp xếp, tổ chức.

Tiền căn đã có sẵn công tu,

Biết đạo lý cao khá vận trù.

(Đạo Sử).

Tịnh tâm con khá gắng công tu,

Cái nợ duyên kia chớ vận trù.

(Đạo Sử).

Con cũng đứng mày râu dưới thế,

Nếu kém phương thiếu thế vận trù.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VÂNG

Vâng là tuân theo, nghe theo lời sai bảo, hoặc dạy bảo. Như: Vâng lời cha mẹ, vâng lệnh thi hành.

Thần Hoàng Bổn Cảnh trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Từ thuở ta vâng chiếu chỉ đến trấn nhậm nơi đây, ta một tấm lòng lo cho lê thứ đặng an cư lạc nghiệp, thạnh vượng mùa màng, mỗi mỗi đều hằng lo lắng cho chúng sanh nơi phần trách nhậm.

Vâng lời Thánh ắt đặng siêu phàm,

Trần thế là chi để dạ tham.

(Đạo Sử).

Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng,

Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Nếu khéo giữ trí mưu sắp đặt,

Dạy muôn điều nhắm nhắc vâng theo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÂNG LỜI

Vâng: Nghe theo, tuân theo lời sai bảo, dạy bảo. Lời: Câu nói, lời dạy.

Vâng lời là tuân theo lời chỉ bảo. Như: Vâng lời chỉ bảo của cha mẹ.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Ối! Đáng kiếp cho bây lắm hử! Con thì đứa trắng đứa đen, lại bị lũ tà quyền xông đột thì cũng tại nơi các con chẳng biết vâng lời Thầy dạy dỗ, mà cũng chẳng hết dạ thương Thầy mới ra thế ấy.

Giữ khuôn phép vào ra thủ lễ,

Nghe lịnh trên nhặm lẹ vâng lời.

(Phương Tu Đại Đạo).

Chừng nên sáu dạy con phải buổi,

Tập lần con lòn cúi biết vâng lời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÂNG PHỤC

Vâng: Nghe theo, tuân theo lời sai bảo, dạy bảo. Phục: Cho là tài giỏi, là đáng tôn trọng, thuận theo.

Vâng phục là tuân theo lời dạy, hay lời khuyên bảo vì có lòng kính phục.

Như: Lời dạy của cha mẹ rất đúng, phải vâng phục.

Đờn bà thường có phép hiển linh,

Người vâng phục vì tình dạy dỗ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẦNG

Vầng, nay đọc “Vừng”, là từ dùng để chỉ từng đơn vị một số vật thể hình tròn. Như: Vầng trăng, vầng mây.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðời người qua thắm thoát, thoạt còn thoạt mất như vầng mây nổi, như giọt sương tan.

Lời hẹn xưa còn vầng nguyệt chứng,

Hương thề nay thả giữa dòng trôi.

(Thất Nương Giáng Bút).

Xa xuôi chiều ngóng mấy vầng mây,

Thắc thẻo dường như nhạn lạc bầy.

(Thơ Huệ Giác).

Đời có chi mà phải ước mong,

Thoạt còn thoạt mất dưới vầng hồng.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VẦNG Ô

Vầng (vừng): Từ dùng để chỉ từng đơn vị một số vật thể hình tròn, khối tròn. Ô: Con chim quạ, do tích Kim ô là con quạ vàng, chỉ mặt trời.

Vầng ô tức là vầng kim ô, chỉ mặt Trời. Như: Vầng ô vừa lố dạng ở phương đông.

Thấp thoáng vầng ô chìm khuất dạng,

Thập thò gương thỏ ghé dòm song.

(Thơ Hoàng Nguyên).

Vầng ô bóng rọi phô gương ngọc,

Giòng bích tay đưa nhẹ mái chèo.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VẤP

1.- Vấp là va chân vào một vật do vô ý lúc đang đi.

Như: Vô ý vấp phải chân ghế, chạy nhanh quá vấp phải rễ cây ven đường.

Ðường quanh ngựa chạy coi chừng vấp,

Nhớ chữ từ tâm phận cúi lòn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

2.- Vấp còn có nghĩa là gặp phải trở ngại hoặc những lỗi lầm do mình gây ra.

Như: Nó vấp phải tính kiêu ngạo mà công việc thất bại, vấp phải sai lầm rất lớn.

Chỉ trích thành tự kiêu tự đại,

Tu đừng cho vấp phải điều này.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

VẤT VƠ

Vất vơ, như chữ “Vất vưởng”, là ở tình trạng bị bỏ trơ trọi một nơi, không ai ngó ngàng đến. Như: Chiếc xe bị hư bỏ nằm vất vơ sau hè nhà.

Vất vơ còn có nghĩa ở tình trạng đời sống không có gì bảo đảm, ổn định, sống ngày nào hết ngày nấy. Như: Cuộc sống vất vơ, lang thang bên hè phố.

Thấy cuộc đời mà muốn bỏ lơ,

Nhưng không lẽ để vất vơ cho chủng loại.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VẬT

1.- Vật là tiếng chỉ chung các loài, các thứ ở trong trời đất. Như: Muôn vật, đồ vật, vật ăn.

Thánh giáo Thầy có lời dạy: Một điểm quang minh là một hồn người, là vật tối linh của Thầy trân trọng. Nếu con muốn làm lành thì gắng dạy mấy hồn ấy đặng hiền.

Lưỡi lừa miếng nhai cơm lũ trẻ,

Kiêng vật ăn đặng để nuôi con.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Muốn ra mặt là người xử phải,

Vật ít tiền đừng ngại cho không.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Vật là tiếng chỉ chung các loài động vật. Như: Người khôn hơn vật, thú vật, nhân vật.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Sanh đứng làm người được có tánh linh hơn muôn vật là nhờ Trời phú cho có Lương Tâm, có trí xét đoán, biết phân biệt điều phải lẽ quấy, điều chánh, lẽ tà thì đáng lẽ ai cũng đều có Lòng Nhân mới phải.

Vật còn biết mến ngày thong thả,

Mình há đâu quên chỗ cội nguồn.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

VẬT CHẤT

物 質

Vật: Những cái có trong khoảng trời đất. Chất: Vật thể, tính chất.

1.- Những vật ở thế gian có hình thể, sờ mó được gọi là vật chất. Vật chất thiên tạo như đất, đá..., vật chất nhân tạo như các thứ vật dụng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi, từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.

Khối vật chất vô hồn viết tử,

Đất biến hình tự thử quy căn.

(Kinh Tận Độ).

2.- Vật chất trái với tinh thần, chỉ các thứ tạm bợ, không bền vững ở thế gian.

Như: Tu hành mà còn ham mê vật chất.

Vợ tốt rượu ngon và thịt béo,

Ham ưa vật chất chẳng hề kiêng.

(Đạo Sử).

Phường tục ngỡ lần về vật chất,

Bồng Lai dầu mộng đến tinh thần.

(Lục Nương Giáng Bút).

Khuyên con ưa trân trọng tinh thần,

Khinh vật chất ắt thân bền giữ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẬT CHẤT LỢI DANH

物 質 利 名

Vật chất: Trái với tinh thần, chỉ các thứ tạm bợ, không bền vững ở thế gian. Lợi danh: Danh vị là lợi ích cá nhân.

Vật chất lợi danh chỉ tất cả những thứ tạm bợ, không bền vững ở thế gian, như vật chất và danh lợi hão huyền.

Tôi không thích ngựa trâu ruộng đất,

Chán sắc tài vật chất lợi danh.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VẬT CHƠI

Vật: Tiếng chỉ chung các loài, các thứ đồ có trong thế gian. Chơi: Hoạt động giải trí.

Vật chơi, như chữ “Đồ chơi”, là những dụng cụ hay hình thức dùng để giải trí, tiêu khiển.

Vật chơi ở chốn khuê phòng,

Đã cam phận vợ để chồng cầm duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Rồi lựa thứ vật chơi con hảo,

Giả như tuồng khuyên bảo đem cho.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẬT DỤC

物 欲

Vật: Vật chất. Dục: Ham muốn.

Vật dục là lòng ham muốn về vật chất. Lòng ham muốn này nằm trong năm thứ dục vọng, gọi ngũ dục: Tài 財 là Tiền của và tài sản, Sắc 色 là Sắc đẹp, thuộc về ái dục, tình dục, Danh 名 là Danh vọng, địa vị, Thực 食 là Ăn uống, ham thích cao lương mỹ vị, Thụy 睡 là Ngủ nhiều, ham ngủ.

Ngoài ra, ngũ dục còn được hiểu là năm đối tượng ham muốn của con người ở thế gian này:

a.- Sắc 色: Sắc đẹp. Đối tượng tham dục của mắt, gọi là sắc dục.

b.- Thanh 聲: Âm thanh êm ái. Đối tượng tham dục của tai, gọi là thanh dục.

c.- Hương 香: Mùi hương thơm. Đối tượng tham dục của mũi, gọi là hương dục.

d.- Vị 味: Mùi vị thơm ngon. Đối tượng tham dục của lưỡi, gọi là vị dục.

e.- Xúc 觸: Đụng chạm của da thịt. Đối tượng tham dục của thân, gọi là xúc dục.

Ngũ dục hay vật dục là sợi dây trói buộc bản thân con người. Để dứt trừ được tâm tham nhiễm vật dục, người tu phải nhìn sâu vào thân, tâm, cảnh đều là bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã. Người chưa biết Đạo thì buông lung năm căn, chạy theo mê đắm ngũ dục, còn người biết Đạo rồi thì cố tìm cách xa lìa khỏi nó.

Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Kịp đến tâm hồn bất hoà thì thất tình lục dục đều phát khởi tranh ngôi với thần lương tâm, nếu kém lực thì con người ấy duy có sanh hoạt trong vòng vật dục, chớ chẳng hề biết Thiên lý là gì?

Các vật dục xảy qua một buổi,

Cả hành vi lầm lỗi khôn ngừa.

(Kinh Thế Đạo).

Thắng nổi quyền vật dục,

Xứng đáng mặt khách trần.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VẬT DỤNG

物 用

Vật: Những cái có trong khoảng trời đất. Dụng: Đem dùng, dùng.

Vật dụng là những đồ đạc có thể dùng được, hoặc những món đồ dùng hằng ngày. Như: Sản xuất vật dụng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Sống không quyền lực tinh thần vi chủ, không thể nào nhơn loại tự bảo tồn cho dân chúng đặng mà tránh khỏi nạn tiêu diệt, họ coi mạng sống của loài người là một vật dụng, để hưởng hạnh phúc sung sướng, lường gạt, buộc tinh thần loài người làm nô lệ cho vật hình, chúng ta thấy tấn tuồng nguy ngập, xô đẩy loài người đi đến diệt vong.

Công làm vật dụng đừng thô kệch,

Ngôn thốt lời ra chớ cộc cằn.

(Bát Nương Giáng Bút).

Chẳng khác nào vật dụng dưới màn,

Vì đẹp mắt món hàng ra quý lạ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẬT ĐỔI SAO DỜI

Vật đổi: Vạn vật thay đổi. Sao dời: Sao chuyển dời.

Vật đổi sao dời, như câu “Vật hoán tinh di 物 換 星 移”, là một thành ngữ dùng để chỉ vạn vật trong vũ trụ thường biến chuyển, và việc đời thường đổi thay.

Xem: Vật hoán tinh di.

Kìa coi vật đổi sao dời,

Vững vàng chỉ một Ðạo Trời chẳng lay.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Cửa Đạo từng chia sớt tẻ vui,

Vì ai vật đổi với sao dời.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VẬT HOÁN TINH DI

物 換 星 移

Vật hoán: Vật đổi. Tinh di: Sao dời.

Vật hoán tinh di là vật đổi sao dời, dùng để chỉ vạn vật thay đổi, biến dịch.

Thi sĩ Vương Bột nhà Đường có câu thơ: Nhàn vân đàm ảnh nhật du du, Vật hoán tinh di kỷ độ thu 閒 雲 潭 影 日 悠 悠, 物 換 星 移 幾 度 秋, nghĩa là mây lơ lửng đầm nước lồng bóng, ngày tháng dằng dặc trôi, vật đổi sao dời qua mấy độ.

Xem: Vật đổi sao dời.

Chung thuỷ tâm thành nguyện khắc ghi,

Cho dù vật hoán với tinh di.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

VẬT HỮU LINH

物 有 靈

Vật: Vạn vật, chỉ muôn loài. Hữu linh: Có tánh linh.

Vật hữu linh là vật có tánh linh.

Theo triết lý Cao Đài, mọi vật dù lớn nhỏ đều có một điểm Chơn linh của Đức Chí Tôn phân tánh, nên đều có tánh linh như nhau, đều được Đức Thượng Đế thương đều như nhau, trong Kinh Sám Hối có viết: “Lòng Trời đất thương đều muôn vật”, hoặc: “Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh”.

Vì thế người tu hành, phải noi theo đức hiếu sinh của Thượng Đế, mà thương yêu sự sống của muôn loài.

Gót chơn đưa rủi như sát mạng,

Vật hữu linh phàm nhãn khôn soi.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

VẬT LIỆU

物 料

Vật: Những cái có trong trời đất đều gọi là vật. Liệu: Vật để dùng làm việc gì.

Vật liệu là nói chung về những vật chất dùng để làm một công trình gì.

Như: Vật liệu xây dựng, tìm vật liệu để làm bánh.

Sắm vật liệu trong nhà đẹp đẽ,

Đừng kịch thô mất vẻ thanh nhàn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẬT LOẠI

Vật: Những cái có trong khoảng trời đất. Loại: Loài, giống nòi.

Vật loại là nói chung về những loài vật có trong khoảng trời đất.

Thánh giáo Thầy trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có câu: Thầy nói chúng sanh là nói toàn cả vật loại hữu sanh, nghĩa là vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, vật loại hữu sanh, thú cầm hữu sanh, nhơn kiếp hữu sanh, hiểu à.

Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp,

Lập Tam Tài định kiếp hoà căn.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại,

Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VẬT TỐI LINH

物 最 靈

Vật: Vạn vật, chỉ về muôn loài. Tối linh: Rất linh.

Vật tối linh là vật có tánh linh hơn hết trong các loài, ý chỉ con người.

Thật vậy, vạn vật đều bẩm thụ Chơn linh của Đức Chí Tôn phân tính ra, nên các loài vật đều có linh tánh. Tánh linh này tuỳ trình độ tiến hoá của mỗi loài, trong đó, con người là có tánh linh hơn hết, hay nói một cách khác, con người là vật tối linh.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Một điểm quang minh là một hồn người, là vật tối linh của Thầy trân trọng.

Vật tối linh thiên hạ là người,

Cha mẹ vốn là Trời phần xác thịt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẬT THỰC

物 食

Vật: Tiếng chỉ chung các loài, các thứ trong trời đất. Thực: Ăn, đồ ăn.

Vật thực, như chữ “Thực phẩm 食 品”, là đồ ăn, các thứ dùng làm món ăn, như thịt, cá, trứng...

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Các vật thực vào tỳ vị, lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết. Chẳng cần nói, các con cũng biết cái chơn linh khí huyết là thế nào? Nó có thể huờn ra nhơn hình, mới có sanh sanh tử tử của kiếp nhơn loại.

Vật thực đủ mùi không khí hứng,

Có ăn có mặc rất thong dong.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

VẤU

Vấu, như chữ “Quấu”, cong mấy ngón tay lại để quắp vào một vật gì. Như: Quào vấu, vấu vào lưng.

Vấu còn có nghĩa là vuốt, móng nhọn của loài cầm, loài thú. Như: Vấu cọp, vấu chân chim cắt, vấu ó.

Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,

Gặp tội nhơn quào quấu xé thây.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VE

1.- Ve có khi kêu là “Ve sầu”, một loại bọ có hai cánh dài, trong suốt, cứ đầu mùa hè thì đậu trên cây mà kêu ve ve.

Như: Tiếng ve kêu sầu, mình gầy xác ve.

Ve dáo dác xa gần rủ bạn,

Nhớ chị em lai láng lòng trông.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Ve kêu hạ như dường trêu thảm,

Mưa sầu tuôn mấy dặm biệt ly.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Ve là lọ nhỏ, chai nhỏ bằng thủy tinh.

Như: Ve rượu, ve chè, ve mực, ve thuốc đỏ.

Anh vừa sang cho mực một ve,

Đi học đánh đeo xe đổ ráo.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Ve là tán tỉnh, dỗ dành, làm cho xiêu lòng.

Như: Ve vãn những người khó tánh, nó ra đường gặp gái là chạy theo ve.

Dạy đừng tụ nay chòm mai khóm,

Thấy con người la lỏm chạy theo ve.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẺ

Vẻ là hình dáng, trạng thái bề ngoài. Như: Vẻ xinh đẹp, vẻ buồn rầu, ra vẻ con người.

Thánh giáo Thầy có câu: Lăng xăng xạo xự mùi chung đỉnh, vẻ cân đai, rốt cuộc cũng chẳng khác chi một giấc huỳnh lương mộng.

Tranh thế bớt pha lằn bợn trược,

Cuộc đời thêm rạng vẻ thanh bai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðiều hay lẽ phải khá gìn lời,

Một điểm đức dồi một vẻ tươi.

(Đạo Sử).

 

 

VẺ ĐẸP

Vẻ: Hình dáng, trạng thái bề ngoài. Đẹp: Gây được cảm giác thích thú.

Vẻ đẹp là cái dáng vẻ của người hay cảnh vật bên ngoài nhìn trên đại thể được đánh giá xinh đẹp.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Tâm Thánh là ngôi vị của Ðấng thiêng liêng, không lo trau dồi thì cũng còn tự nhiên vì vẻ đẹp, còn vẻ đẹp thiên nhiên đã mang nặng thi hài nơi khổ cảnh nầy mà không mất thì đoạt vị đã đặng rồi, lại cần ai nâng đỡ.

Hễ cát đằng nhảy lá xanh chồi,

Thân tòng bá càng tươi thêm vẻ đẹp.

(Phương Tu Đại Đạo).

Thường cho xem vẻ đẹp non sông,

Đặng con trẻ thề lòng thương tưởng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẺ NGỌC

Vẻ: Hình dáng, trạng thái bề ngoài, vẻ đẹp. Ngọc: Ngọc ngà, chỉ phụ nữ.

Vẻ ngọc, như chữ “Ngọc nhan 玉 顏”, chỉ dung nhan phụ nữ đẹp đẽ, sáng sủa như ngọc.

Linh oai vẻ ngọc là gươm sắc,

Mềm mỏng hình hoa ấy phép tài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VẺ VANG

Vẻ: Hình dáng, trạng thái bề ngoài. Vang: Dội lại, truyền đi.

Vẻ vang là vinh hiển rỡ ràng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Sanh ra nơi trần thế, người hữu học có công thập niên đăng hoả thì ai cũng muốn chen vào trường ốc, mong chiếm bảng vàng hầu lập nên sự nghiệp vẻ vang, làm đẹp mặt nở mày cho cha mẹ.

Sen Quốc Đạo vẻ vang thơm tiếng,

Giữ chơn linh đặng kiến Như Lai.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Danh Bùi Ái Thoại đẹp muôn vàn,

Đắc Thánh nhờ công rất vẻ vang.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

Trấn Đạo vẻ vang nhờ tín hữu,

Thuần phong tô điểm sẵn Nho gia.

(Thơ Thượng Cảnh Thanh).

 

 

VẼ

1.- Vẽ là dùng bút mà tả hình ảnh các sự vật cho được như thật, Như: Vẽ tranh, vẽ bản đồ, vẽ cảnh đẹp.

Thánh giáo Thầy dạy về thờ Thiên Nhãn có câu: Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng Con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh: Nhãn thị chủ tâm, Lưỡng quang chủ tể, Quang thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả Ngã dã.

Mai đeo tuyết ngọc biết bao lần,

Tuyết vẽ mày mai thắm thía xuân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thêu phụng chưa quen nét vẽ hay,

Hạnh kia dầu đặng cũng hơn tài.

(Đạo Sử).

Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,

Vẽ cho hay mày liễu má đào.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Vẽ còn có nghĩa là chỉ, vạch. Như: Vẽ đường, vẽ lối, vẽ đường đi nước bước, chỉ vẽ.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Các con trước đã vì Thiên mạng phải bỏ các ngôi cao đặng đem mình vào nơi khổ não, Thầy chỉ đường vẽ bước, dạy từ nét, dẫn từ dặm đường mà đem các con về chốn Cực Lạc xưa, các con chẳng chịu vầy hiệp nhau cho đặng bền, cho thân ái, đặng tiến bước đường, thì Thầy cũng lắm nỗi thương đau mà nắm cân công bình ngó xem một phần trong các con sa nơi u hiểm.

Con nên để ý nhiều vào lời Thầy dạy dỗ, và cũng có nhiều Thánh Ngôn của chư Tiên vì thương con chỉ vẽ mà con chẳng để ý vào đó.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

Vừa viết tới đây tay vọp bẻ,

Ngòi viết rè khó vẽ nên điều.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Vẽ nghĩa bóng là bày đặt thêm ra cái không cần thiết. Như: Bày vẽ, vẽ vời, vẽ truyện, vẽ lắm trò.

Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão Sư trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu dạy: Hành lễ do Thánh giáo lúc nơi đàn Cầu Kho, chẳng nên bày vẽ nhiều.

Sang hèn bọt nước hay bày vẽ,

Vinh nhục đám mây khéo cợt trò.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

VEN

Ven là bên, một bên, tức chỉ phần đất chạy dọc theo sát một bên.

Như: Nhà ở ven sông, xác voi chết ở ven rừng, người đứng chờ ở ven đường.

Đại Từ Phụ oai linh bảo hộ,

Những chông gai quét ngõ ven đường.

(Kinh Thế Đạo).

Ven Trời gởi chút tình thâm,

Động lòng thương nhớ tuôn dầm lệ sa.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

VÉN

Vén là kéo phần buông xủ lên phía trên, hoặc vẹt sang một bên.

Vén còn có nghĩa thu xếp, tức dồn gọn lại, tập trung vào một chỗ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Ngày nầy năm trước, các con vẫn còn mơ màng trong giấc mộng trần, đường co duỗi vẫn đã lấp kín chút bợn trần, mà màn thế tục cũng chưa trông khoả vén.

Thương ai thổn thức canh tràng,

Dở phòng phòng vắng, vén màn màn côi.

(Thất Nương Giáng Bút).

Phất phướn chiêu hồn quy lối cũ,

Vén màn mờ ám cứu nhơn sanh.

(Bát Nương Giáng Bút).

Vén ngút mây xanh dò nẻo Thánh,

Đưa thuyền Bát nhã độ mê tân.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

VẸN

Vẹn là trọn, tức còn giữ được nguyên, không bị mất mát, bị biến đổi.

Vẹn còn có nghĩa là toàn, đầy đủ không thiếu sót.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy: Hễ Ðạo trọng thì tức nhiên chư hiền hữu trọng. Vậy thì chư hiền hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời.

Lộc nước gắng đền công chín tháng,

Nợ nhà tua vẹn gánh hai vai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ấm lạnh dốc tròn gương phấn đại,

Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn huyên.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

VẸN GÌN

Vẹn: Tròn, toàn. Gìn: Giữ.

Vẹn gìn, như chữ “Vẹn giữ”, là giữ gìn cho được hoàn toàn trọn vẹn.

Như: Người tu hành phải vẹn gìn nết hạnh.

Mối đạo từ đây rán vẹn gìn,

Tu là khổ hạnh khá đinh ninh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rừng thung bóng nhựt đã hầu chinh,

Tỏ rạng gần nơi bước vẹn gìn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tứ đức vẹn gìn trau phận gái,

Tam tùng trọn giữ giũa hồn thơ.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

VẸN GIỮ

Vẹn: Tròn, toàn. Giữ: Gìn giữ.

Vẹn giữ là gìn giữ một cách toàn vẹn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thấy có dạy: Các con hãy suy đó mà gìn trọn phẩm hạnh, vẹn giữ bước đường, chậm rãi từ năm từ hồi thì tự nhiên được lương tâm yên tịnh.

Gìn lòng chẳng khá lăng loàn.

Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.

(Kinh Sám Hối).

Còn gánh đồ thơ tua vẹn giữ,

Dứt dây oan trái chớ riêng thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Khuyên con nhớ hằng ngày tự xử,

Ấy là phương vẹn giữ nhơn luân.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẸN PHẬN

Vẹn: Tròn, toàn. Phận: Bổn phận, thân phận.

Vẹn phận là cái thân phận của mình phải lo làm cho toàn vẹn. Như: Cô ấy đã vẹn phận dâu con.

Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có dạy: Mang trọng trách nơi mình mà mấy em lại không hiểu, biểu sao cho vẹn phận.

Trách nhiệm thiệt hành cho vẹn phận,

Hồng ân chung hưởng buổi âu ca.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chữ hiếu phải lo vẹn phận người,

Sanh thành đạo trọng há đâu chơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Yểu điệu trau mình nên giá ngọc,

Thuyền quyên vẹn phận đẹp thân ngà.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

VẸN TOÀN

Vẹn: Còn giữ được nguyên, không bị mất mát, biến đổi. Toàn (tròn): Tất cả.

Vẹn toàn là còn đầy đủ tất cả, không bị thiếu hụt, hay mất mát một thứ gì. Như: Tình nghĩa vẹn toàn.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy nắm máy huyền vi, hằng lấy cân thiêng liêng mà day trở máy Càn khôn, vì vậy thế cuộc phải tuần hoàn, bầu nhơn sự phải luân chuyển vần xây phiêu linh cho đến buổi nhơn loại được vẹn toàn, thế giới cũng vì đó mà phải đổi thay, gạn đục lóng trong mà tạo thành miền Cực Lạc.

Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,

Tùng theo Chơn pháp độ lần chúng sanh.

(Kinh Thế Đạo).

Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,

Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.

(Kinh Tận Độ).

Lợi không ích kỷ lợi Trời ban,

Phải tính trí kia xử vẹn toàn.

(Đạo Sử).

 

 

VẸN TRÒN

Vẹn: Còn giữ được nguyên, không bị mất mát, biến đổi. Tròn: Trọn vẹn.

Vẹn tròn, như chữ “Trọn vẹn”, là hoàn toàn đầy đủ, không thiếu mặt nào.

Như: Thực hiện vẹn tròn nhiệm vụ.

Ơn trợ giúp khá lo đền báo,

Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời.

(Kinh Sám Hối).

Ơn Trên xây chuyển xin cầu nguyện,

Hoà hiệp đệ huynh nghĩa vẹn tròn.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

VẸN VẼ

Vẹn: Tròn, toàn. Vẽ: Dùng bút mà chấm nên hình.

Vẹn vẽ, đồng nghĩa với chữ “Vẹn toàn”, là tròn vẹn, hoàn toàn và đầy đủ. Như: Giữ vẹn vẽ lời thề nguyền.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Các con nghe lời dặn cần yếu nầy mà làm phận sự các con cho vẹn vẽ cùng Thái Bạch.

Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,

Ðạo người vẹn vẽ mới thành Tiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dồi trí thức tinh thần đẹp đẽ,

Trau tài ba vẹn vẽ anh thư.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Nho nhã phương tu giáo lý truyền,

Đạo người vẹn vẽ phước huờn nguyên.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VÈO

1.- Vèo là nhanh, lẹ lắm, vụt qua mất.

Như: Gió thổi vèo trước sân, chiếc lá bay vèo xuống đất, vèo một cái đã biến mất.

Canh thâu rúc rắc mưa tuôn nhặt,

Ngày vắng xơ rơ gió thổi vèo.

(Thơ Huệ Giác).

Âm thầm tự sự ai hay biết,

Lật bật đông phong tối thổi vèo.

(Thơ Huệ Giác).

2.- Vèo là thế, tình cảnh, cuộc bày ra.

Như: Coi vèo tình hình mà làm, quen vèo, lựa vèo lựa thế độ nhân sanh.

Trong đôi tuần coi đã quen vèo,

Con ham học vui theo chúng bạn.

(Phương Tu Đại Đạo).

Chia gồng sang gánh hiểm nghèo,

Thương yêu khắng khít lựa vèo độ nhơn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VẸO

Vẹo là bị nghiêng, bị lệch hẳn về một phía, không thẳng, không cân đối như bình thường.

Như: Xách nặng vẹo cả người, chân đi xiêu bên nọ vẹo bên kia.

Bảy lão nhắc tình già vẹo cẳng,

Ba bà hỏi việc mụ ham thi.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

VẸT

Vẹt là vạch ra, tức gạt, vén hay đẩy sang hai bên. Như: Vẹt gai mà đi.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ðạo mở chủ ý dìu dắt những kẻ hữu phần, đặng ráng cùng nhau dắt lên khỏi con đường trắc trở, vẹt nẻo chông gai, bước tận đến thang Trời hội hiệp cùng Thầy trong buổi chung quy.

Trăm hạnh để lần sanh chúng dẫn,

Non Thần vẹt ngút tới tìm phương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đờn nhắn khách năm cung nhặt trỗi,

Vẹt mây đen gió thổi chiều hôm.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

VẸT NGÚT MÂY XANH

Vẹt: Vạch ra, tức gạt, vén hay đẩy sang hai bên. Ngút: Bốt lên cao. Mây xanh: Mây màu xanh trên trời.

Vẹt ngút mây xanh, nghĩa đen là vén mây xanh trên bầu trời cao để cho trống đường lên trời. Ý nói dọn đường cho người tu hành đắc đạo.

Thánh giáo Thầy có câu: Lằn tang thương gần khởi, đường đạo đức chớ dần dà, công vẹt ngút mây xanh của các con sẽ làm cho sáng sủa bạch minh, cho bước đàng sau nầy do theo dấu ấy mà lần đến cõi vô ưu, để bước khỏi lối nhọc nhằn ban sơ khai dẫn.

Vẹt ngút mây xanh Trời tỏ rõ,

Quét lằn bụi đỏ thế phui pha.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VỀ

1.- Về là di chuyển trở lại chỗ cũ của mình khi mới xuất phát.

Như: Về nhà, sống gởi thác về, học sinh về chỗ ngồi.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy lại thấy nhiều đứa chưa hiểu thấu huyền diệu là gì, bị người chê, rồi về còn biếm nhẻ nữa. Phải nghịch chánh lý chăng?

Cảm tạ ơn trên đầu dìu đỡ,

Từ khi đi khi trở lộn về.

(Kinh Thế Đạo).

Dỗ con chỉ bóng giải sầu,

Rằng khuya đèn thắp cha hầu về thăm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Về là ở vào trong khoảng thời gian nào đó.

Như: Trời đã về chiều, về mùa đông thường lạnh lẽo, từ nay về sau, năm năm về trước.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Biển khổ đã lắm nổi chìm, mà nhành dương liễu chẳng mau vói níu, đoạ trầm luân chưa chịu thoát, mà điều tình tội lại chác thêm, buộc thảm đeo phiền, cũng tự mình tác tệ, chờ ăn năn rất muộn về sau. Khá hiểu lấy.

Thôi rồi một giấc biệt ngàn thu,

Thu muốn xuân về phải rán tu.

(Đạo Sử).

3.- Về là thuộc vào. Như: Phần thưởng nầy về tay ai, bàn về việc học, tâm an vui có lợi về tinh thần.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật, muốn cho đắc đạo phải có công quả.

Về ai một cái nghiệp nhà tan,

Chẳng chịu làm ăn cứ điếm đàng.

(Đạo Sử).

 

 

VỆ

1.- Vệ là giữ gìn. Như: Bảo vệ, hộ vệ, vệ sinh, tự vệ.

Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong quyển Giáo Lý có viết: Nghĩa là hành động theo lẽ phải, theo Đạo lý. Đối với bổn thân thì Nghĩa là phương pháp bảo vệ lòng nhân, tức là gìn giữ tâm linh được chánh trực và giúp cho lòng nhân, được tự do phát triển cái lành tự nhiên của nó.

Muốn thắng nó đặng thì trí lự tìm phương quyết thắng, tạo ra súng ống đặng tự vệ lấy mình, nên làm chủ nó được.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Vệ là một nước chư hầu trong thời Chiến Quốc.

Như: Nước Vệ, Vệ quốc.

Nói về Khổng Thánh, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Từ đó Ngài châu du khắp thiên hạ, Ngài sang nước Vệ, đến nước Khuông, nước Trần, bị thất bại Ngài trở về nước Vệ rồi qua nước Tống, nước Sở, nước Tần, nước Diệp, nước Thái.

Dân chúng nào hơn Lỗ, Vệ, Trần,

Gương xưa Khổng Tử chịu gian truân.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

VỆ SINH

衛 生

Vệ: Giữ gìn, che chở. Sinh: Đời sống, sống.

Vệ sinh là giữ gìn cho sức khoẻ. Như: Vệ sinh răng miệng, Ăn ở hợp vệ sinh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Muốn kiện toàn sức khoẻ, phải giữ vệ sinh thân mình, phải ăn uống có điều độ, tránh xa tửu sắc làm cho thân thể con người phải tiều tuỵ.

Sự mạnh giỏi phép nhà khá biết,

Giữ vệ sinh cho thiệt nhặt nghiêm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VẾT

Vết là ngấn, dấu. Như: Vết chân trên cát, vết mực loang trên áo trắng, vết thương trong lòng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Những kẻ đau khổ chán chường, đó là những vết đen tối của bức tranh xã hội, những vai tuồng bẩn thỉu của sân khấu đời.

Biến chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,

Trả vay cho sạch vết oan khiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mưa gió liên miên trời bão tố,

Non sông oằn oại vết thương tang...

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VỆT

Vệt là hình dài nổi rõ trên bề mặt một vật.

Như: Một vệt máu dính trên áo, mồ hôi chảy thành vệt trên gương mặt, Vệt khói bay bốc lên trên bầu trời.

Từng ngọn lá rung rinh bóng nguyệt,

Trên trời cao từng vệt khói bay.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

VI

1.- Vi là vẩy, là những mảnh nhỏ và cứng bằng chất sừng hay xương úp lên ngoài da một số động vật như rồng, cá, cá sấu.

Như: Rồng trương vi, trầy vi tróc vẩy, làm sạch kỳ vi con cá lóc để kho tiêu.

Khoa võ môn dầu nhào qua khỏi,

Trương vi rồng học hỏi nơi ai.

(Kinh Thế Đạo).

Ai là trí phân minh lẽ chánh,

Văn chương đem làm cánh làm vi.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Tới khi cù đủ gạc vi rồng,

Còn đợi một ngày tiếp sắc phong.

(Đạo Sử).

2.- Vi là khu đất có tường vách bao bọc chung quanh bên ngoài.

Như: Trường thi ngày xưa chia làm bốn vi, nhà xây hướng đông, tường bào tứ vi.

Trường thi đã đỗ bốn vi ngoài,

Phải rán khi nên chức Tú tài.

(Đạo Sử).

3.- Vi là nhỏ, nhỏ nhặt. Như: Dùng kính để quan sát vi trùng, kính hiển vi, vi diệu pháp.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy cũng phải đau lòng mà nắm máy huyền vi để cơ Trời xây đổi. Các con liệu lấy.

Tìm vào nẻo Ðạo mới tri cơ,

Cơ Tạo huyền vi chớ hững hờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Các con vốn trong vòng Thánh thể,

Phép tu vi là kế tu hành.

(Kinh Thế Đạo).

4.- Vi là, làm, không dùng một mình. Như: Vô vi, hành vi, vi chủ.

Thánh giáo Thầy có dạy: Của vô vi chưa chắc ai muốn lấy thì lấy tuỳ ý. Nếu làm Tiên, Phật đặng dễ dàng thì cả thế gian, miễn có học chút ít thì đã đặng làm Tiên, Phật rồi, vì luân hồi đâu có phòng sanh sanh tử tử.

Các vật dục xảy qua một buổi,

Cả hành vi lầm lỗi khôn ngừa.

(Kinh Thế Đạo).

Đã không tuân luật hữu hình,

vi trừng trị ai binh đặng nào.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

VI BẰNG

為 憑

Vi: Làm. Bằng: Bằng cớ, bằng chứng.

Vi bằng là dùng làm bằng cớ.

Trong Đạo Cao Đài, vi bằng đồng nghĩa với biên bản, dùng để ghi những ý kiến quyết nghị trong phiên họp để làm pháp lý thi hành.

Trong Đạo Luật Mậu Dần có câu: Cuộc công cử nầy phải có mặt Đầu Họ, Đầu Quận, Chủ Toạ và Sĩ Tải hay Luật Sự chứng kiến. Mỗi khi công cử phải lập Vi bằng.

Vi bằng nào rõ chánh ra ngoài,

Hơn phép cao xanh thiệt rất hay.

(Đạo Sử).

 

 

VI CHỦ

為 主

Vi: Làm. Chủ: Người làm chủ.

Vi chủ là người làm chủ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ấy vậy mấy em phải rán sức, định tâm lấy tinh thần vi chủ nêu gương cho mấy em sau nầy đi theo.

Ngã vấn chư nhu hà thủ tạo?

Kỉnh Ngô vi chủ, Ðạo như hà?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VI CHỨNG

為 證

Vi: Làm. Chứng: Nhận thực.

Vi chứng là làm chứng để nhận đó là sự thật.

Theo quyển Cẩm Nang Hành Đạo của Lại Viện Cửu Trùng Đài thì những văn thư chứng nhận trong đạo Cao Đài theo hệ thống hành chánh như sau:

Cấp thứ nhứt: CHỨNG THẬT.

Cấp thứ nhì: CHỨNG KIẾN

Cấp thứ ba: VI CHỨNG.

Ví dụ như: Khi nhân đơn từ của Đạo hữu thì Ban Trị Sự “Chứng thật”, chuyển lên Đầu Tộc đạo thì “Chứng kiến”, rồi dâng lên Khâm Châu đạo thì “Vi chứng”.

Trái lại, khi nhận văn thư của Ban Trị sự thì Đầu Tộc đạo “chứng thật”, chuyển lên “Khâm Châu đạo thì “Chứng kiến”, rồi dâng lên Lại Viện Cửu Trùng Đài.

Nếu như có bận việc chi, buộc mình vắng mặt thì phải có tờ giấy chức sắc thiên phong vi chứng...

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

VI DIỆU PHÁP

微 妙 法

Vi: Cái pháp thể sâu kín. Diệu: Tinh thông khéo léo, không thể dùng ý mà xét, dùng lời mà bàn. Pháp: Giáo thuyết của Đức Phật, hay giáo lý các Tôn giáo.

Vi diệu pháp là nói cái giáo pháp của Đạo Phật hay các tôn giáo rất huyền vi, mầu nhiệm.

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

VI HỘ

韋 護

Vi Hộ là học trò của Đạo Hạnh Thiên Tôn ở núi Kim Đỉnh, động Ngọc Ốc. Vi Hộ thường sử dụng cây Giáng Ma Xử và sau tu thành Hộ Pháp nên bên Phật Giáo gọi là Vi Hộ Pháp.

Vi Hộ là một trong Thất Thánh, được khắc tượng nơi bao lam phía tả chánh Điện Toà Thánh.

Vi Hộ có công xuống núi phò tá Khương Tử Nha giúp nhà Châu đánh đuổi vua Trụ để đem đời lại thái bình thịnh trị cho đất nước.

Xem: Thất Thánh.

Kim Tra, Mộc tra, Na Tra,

Chấn Tử, Vi Hộ, cùng là họ Dương.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

VI HỘ PHÁP

韋 護 法

Vi: Họ Vi. Hộ: Che chỡ, giữ gìn. Pháp: Pháp luật, giáo pháp.

Vi Hộ Pháp là vị Hộ Pháp họ Vi, tức là Vi Hộ, một vị Thánh trong Thất Thánh sau tu đắc thành Hộ Pháp.

Căn cứ theo tiểu sử của Thất Thánh được thờ trên tấm diềm bên phía nam phái tại Đền Thánh, thì Vi Hộ là vị Thánh, học trò của Đạo Hạnh Thiên Tôn, ở núi Kim Đỉnh, động Ngọc Ốc, thường sử dụng cây Giáng Ma Xử lập công thời Phong Thần nên được đắc hàng Thánh, sau về núi tu hành mà đắc Phật Hộ Pháp, gọi là Vi Hộ Pháp.

Đến thời Tam Kỳ Phổ Độ, Vi Hộ Pháp đắc lệnh Đức Chí Tôn giáng chơn linh xuống nhập Ngài Phạm Công Tắc làm Hộ Pháp, là một phẩm chức sắc Đại Thiên phong, chưởng quản Hiệp Thiên Đài, nên trong đạo Cao Đài còn gọi là Phạm Hộ Pháp.

Điều nầy được Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ giáng cơ ngày 15 tháng 8 năm Bính Thân (Dl. 19/9/1956) nói với Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc như sau:

“Thiên tôn nhớ lại, khi lập thành Phong Thần bảng, những người đứng vào hàng Thất Thánh là ai?

Hộ Pháp bạch: Lý Thiên Vương, Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử.

Phải! Thì trước đầu kiếp vào “nhà họ Vi”, còn nay vào “nhà họ Phạm”. Điều đó có chi khó hiểu mà phỏng đoán. Tiên tri của Bần Tăng đã nhiều và chỉ rõ Việt Nam xuất Thánh thì đã hẳn rồi, còn chi không rõ rệt, hơn nữa còn một điều trọng hệ hơn là Di Lạc giáng linh thì Thiên Tôn đã thấy rằng tiên tri vốn không sai sót đủ điều”.

Qua lời dạy của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ thì Vi Hộ Pháp, cũng như Phạm Hộ Pháp đều là vị Phật Hộ Pháp, có điều xác thể được giáng linh vào hai thời kỳ khác nhau.

Ðến bàn Vi Hộ Pháp cũng quỳ xuống, vái y vậy, điều câu sau thì như vầy:“như ngày sau phạm Thiên điều, thề có Hộ Pháp đoạ tam đồ bất năng thoát tục.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VI LỊNH

Hay “Vi lệnh”.

Vi: Lìa xa, trái ngược. Lịnh (lệnh): Mệnh lệnh, hay mạng lịnh.

Vi lịnh, như chữ “Vi lệnh 違 令”, là làm trái mạng lịnh của cấp trên.

Đức Quyền Giáo Tông dạy người Tín đồ có câu: Dầu bậc Thiên Phong mà tài sơ tuổi nhỏ hơn mình đi nữa, hàng Tín Ðồ cũng chẳng nên hổ mình tùng sự, hoặc là vượt bực khinh khi ganh gổ tức là buộc vào mình một cái tội vi lịnh cùng Thượng Ðế vậy.

Thế mà một phần chẳng chịu sửa cải đường ngay cho khỏi lâm vào nẻo tà mị, đã vi lịnh Thầy mà dìu dắt các con lạc bước.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VI NHÂN BẤT PHÚ

為 仁 不 富

Vi nhân: Làm điều nhân nghĩa. Bất phú: Không thể giàu có được.

Vi nhân bất phú tức là người làm điều nhơn nghĩa thì không sao giàu có được.

Theo sách Mạnh Tử, Dương Hổ nói: Vi phú bất nhân hỹ, vi nhân bất phú hỹ 為 富 不 仁 矣, 為 仁 不 富 矣, tức là lo làm giàu không thể có lòng nhân ái, lo làm nhân nghĩa thì không thể làm giàu.

Hơn nữa, họ cũng quan niệm hễ vi phú thì bất nhân, thà vi nhân bất phú.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VI NHƠN NAN

為 人 難

Vi: Làm. Nhơn (nhân): Người. Nan: Khó, khó khăn.

Vi nhơn nan là làm người rất khó.

Trong Minh Tâm Bửu Giám, sách Cảnh Hành Lục có viết rằng: Vi nhân nan, vi nhân nan,Tả đắc chỉ tận bút đầu can, Cánh tả kỷ cá vi nhân nan 為 人 難, 為 人 難, 寫 得 纸 盡 筆 頭 乾, 更 寫 幾 個 為 人 難, nghĩa là làm người khó, làm người thật khó, Viết đặng hết giấy, ngọn bút khô, Lại viết mấy câu: Làm người rất khó.

Văn minh Nho giáo hiểu giá trị làm người ấy khó khăn lắm, khó mà minh biện được: “Vi nhơn nan, vi nhơn nan. Tố tố vi nhơn nan”.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VI PHÚ BẤT NHÂN

為 富 不 仁

Vi phú: Làm giàu. Bất nhân: Chẳng có nhân nghĩa.

Vi phú bất nhân tức là làm giàu thì không làm sao giữ được điều nhân nghĩa.

Hơn nữa, họ cũng quan niệm hễ vi phú thì bất nhân, thà vi nhân bất phú.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VI RỒNG

Vi: Vây, bộ phận mành nhỏ và cứng bằng chất sừng hay xương úp lên nhau ở ngoài da một số động vật có xương sống, có chức năng bảo vệ cơ thể. Rồng: Loài đứng đầu trong tứ linh.

Vi rồng là cái vây hay cái kỳ của loài rồng ý nói đã được đầy đủ khả năng.

Khoa võ môn dầu nhào qua khỏi,

Trương vi rồng học hỏi nơi ai.

(Kinh Thế Đạo).

Tới khi cù đủ gạc vi rồng,

Còn đợi một ngày tiếp sắc phong.

(Đạo Sử).

 

 

VI THÁNH THẦN TIÊN PHẬT CHI CHỦ

為 聖 神 仙 佛 之 主

Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ có nghĩa là Đức Chí Tôn làm chủ của Thần Thánh Tiên Phật.

Đây là một câu trong bài Ngọc Hoàng Kinh.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn đã dạy như sau: “Khai Thiên địa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy. Thầy nói một chơn thần mà biến Càn Khôn Thế Giới và cả nhơn loại”.

Lại nữa, Ngài là vị Thiên Đế, làm chúa tể chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Như vậy, Ngài làm chủ chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Nãi Nhựt Nguyệt Tinh Thần chi quân,

Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

1.- Ví là so sánh, tức đem cái giống nhau về mặt tính chất nhất định với cái cụ thể nào đó để tạo thành một hình ảnh gợi tả.

Như: Công ơn ví như trời biển, cõi thế gian Phật ví như Biển khổ.

Ngôi hiền khó đoạt ngôi vua,

Nhà của ông Ngô quá nóc chùa.

(Đạo Sử).

2.- Ví còn là từ dùng để nêu một giả thiết, thường về điều không thể có, hoặc khó có thể có.

Như: Ví đổi phận làm trai được, tôi sẽ ra chiến trường giết giặc.

Ðức kia đặng đầy nồi gạo,

Ăn mãn đời con cũng đủ no.

(Đạo Sử).

3.- Ví là lấy chuyện nầy để ví hay gợi chuyện khác.

Như: Vì chàng thiếp phải mò cua, Ví như thân thiếp thì mua mấy đồng (ca dao).

Thánh giáo Thầy có dạy: Vốn Thầy tạo lập nền Chánh giáo cho dân Nam Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu. Các con biết Ðạo là quý thì phải ân cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu, các con mới thấy rõ Thiên cơ, thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng, vì mỗi việc khó khăn trắc trở là lúc sơ khai.

Nhơn tình chẳng mưu thâu phục,

Thế giới mong chi phép độ lường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thoát tục ai tìm nẻo Thánh,

Bến mê lướt sóng đến ven Trời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VÍ BẰNG

Ví: Từ dùng để nêu một giả thiết, thường khó có thể có. Bằng: Không kém, như.

Ví bằng, như chữ “Ví dù”, dùng để nêu một giả thiết về trường hợp khác với trường hợp vừa nói đến.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ví bằng bản tâm để cho mờ ám vọng động bởi sức quyến rũ bên ngoài thì người tu biết bao giờ kiến tánh mà tầm lối giải thoát.

Ví bằng ai hỏi sao bao nả?

Rằng trẻ noi sau biến hoá già.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VÍ DẦU

Hay “Ví dù”.

Ví: Từ dùng để nêu một giả thiết, thường về điều không thể có hoặc khó có thể có. Dầu (dù): Ví, nếu.

Ví dầu, như chữ “Ví dù”, là tổ hợp dùng để nêu một giả định, hay một trường hợp không bình thường để khẳng định một ý hướng giải quyết nào đó có tính chủ động phù hợp với tình huống vừa được nhắc tới.

Như: Ví dầu có phải hy sinh, thì cũng cam tâm.

Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Xin quý anh quý chị ráng nắm gốc cây cho chắc, kẻo gió lớn thổi bay đa! Ví dầu có thổi thế nào thì em xin quý anh quý chị ráng bịn gốc lại nghe.

Tình chung thuỷ ví dầu nồng mặn,

Lại nhờ ai lên thẳng mối tơ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÍ DỤ

Ví: So sánh. Dụ: Ví, thường dùng với tiếng khác như tỷ dụ, thí dụ.

Ví dụ, như chữ “Thí dụ”, là đưa ra một cái gì để so sánh cho biết.

Bần Đạo viết tới đây buồn ngủ,

Để mấy cô ví dụ xét lẽ nào.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÍ NHƯ

Ví: Từ dùng để nêu một giả thiết, thường về điều không thể có hoặc khó có thể có. Như: Từ biểu thị quan hệ tương đồng, cái nầy không khác cái kia.

Ví như là nếu như, hoặc ví dụ như.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Thầy thấy mấy con Thầy cũng đau lòng cho đó. Các con ví như gà lứa lạc bầy chiu chít vì nỗi diều bay khắp cả trên không mà hăm he muốn vớt bầy gà không mẹ.

Lòng thương ví như dưòng hà hải,

Đem dung nghi làm giải trừ mê.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

1.- Vì, bởi chữ “Vị 位”, là chỗ ngồi đọc trại ra, có nghĩa là ngôi, hay ngôi vị.

Như: Vua mới lên ngôi trị vì.

Cửu Trùng không kế an thiên hạ,

Phải để Hiệp Thiên đứng trị .

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Vì, do chữ “Vị 為” đọc trại ra để chỉ cái duyên cớ, tại, bởi. Như: Vì ai, vì đâu, vì cớ gì.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có lời dạy: Bởi vậy cho nên, Thầy chẳng ghét mà không lời khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai quỷ dỗ dành.

Ra vòng thế tục ít người toan,

chẳng ưa mua một chữ nhàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trời lo đâu nệ nhọc công trình,

Nhọc sức thương đám chúng sanh.

(Đạo Sử).

3.- Vì còn có nghĩa là nể, kiêng dè.

Như: Người có đức hạnh được nể vì, kẻ kiêng người vì, kẻ nể người vì.

Anh em bằng hữu kết nguyền,

Một lòng tin cậy phải kiêng phải .

(Kinh Sám Hối).

Khi nào anh được kiêng ,

Thì anh nên nhớ những khi tan hình.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VÌ CHƯNG

Vì chưng là tại vì, tại ở.

Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có đoạn: Thế thì ở đâu cũng là tu được. Tu tại gia mà giữ vẹn công phu còn hơn ẩn non ẩn núi, vì chưng ở chốn phồn ba náo nhiệt là chỗ dễ khích thích dục tình đê tiện, mà đạo tâm bền vững không nhiễm bợn nhơ, tỷ như hoa sen sanh chốn bùn lầy mà vượt lên tốt tươi trong sạch.

Vì chưng tựu thiểu thành đa,

Hoạ tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

(Kinh Sám Hối).

Vì chưng chẳng rõ nhiệm mầu,

Coi danh là trọng, coi giàu là sang.

(Cửu Nương Giáng Bút).

 

 

VĨ ĐẠI

偉 大

Vĩ: To. Đại: Lớn.

Vĩ đại là to lớn. Như: Công trình vĩ đại.

Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có dạy: Phàm Pháp luật lập thành đều tuỳ sở dụng, buộc kẻ chung công hiệp trí tác thành một cơ sở vĩ đại, đông tây tương thân tương ái.

Công vĩ đại lưu truyền nhơn loại,

Cả nữ nam lưỡng phái bình quyền.

(Văn Tế Quyền Giáo Tông).

Nhật nguyệt cùng chung nơi cõi thọ,

Nghiệt trần vĩ đại hoá quần sinh.

(Thơ Thượng Tuy Thanh).

Công trạng dìu đời ơn vĩ đại,

Nay về quê cũ hưởng hồng ân.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

VĨ NHÂN

偉 人

Vĩ: To lớn. Nhân: Người.

Người có tài đức, đã từng làm nên một sự nghiệp to lớn, gọi là vĩ nhân. Như: Khổng Tử là một vĩ nhân.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Những bậc vĩ nhân ấy là cái tinh hoa của trời đất để làm gương mẫu cho đời. Cái chí lập quốc cứu dân của họ sánh với bực Thần Tiên, mồi danh bả lợi không lay chuyển được.

Xem lịch sử vĩ nhân mấy mặt,

Đại trượng phu trước giặc vong thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VỊ

1.- Vị là ngôi, chỗ ngồi.

Như: Những bậc nguyên nhân đều có ngôi vị trên cõi thiêng liêng, anh ấy là người có địa vị trong xã hội.

Theo làm âm chất may bồi đắp,

Thì sẽ trở về chỗ vị xưa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Vị là từ dùng để chỉ từng người có danh hiệu hoặc chức vị, với sự kính trọng. Như: Chư liệt vị.

Thánh giáo Thầy có dạy: Không chuyện chi cần, Thầy không muốn làm nhọc chư Tiên và chư Thần, mỗi vị đều có trách nhiệm riêng, con hiểu à! Xem đó thì các con khá dè dặt, kỉnh Thần, Thánh cho lắm, vì Thầy là bực Chí Tôn, lòng hay quảng đại mà tha thứ, chớ Thần, Thánh, hễ các con có lỗi thì cứ Thiên điều mà quở phạt các con.

Chiếc ngai quý báu nhứt trên thế gian nầy hiện là chiếc ngai của vị đệ nhứt cao đồ của Người.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

3.- Vị là vì, bởi.

Như: Vị tình mà tha tội, vị nghĩa vong thân, vị công danh phú quý mà hai thân.

Ðường trào hạ thế hưởng Tam quan,

Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.

(Lý Giáo Tông Giáng).

4.- Vị còn dùng để chỉ bụng thiên về việc gì.

Như: Người vị kỷ chỉ biết lo cho bản thân mình mà thôi, tu hành phải có lòng vị tha.

Chớ thấy khó mà khi mà thị,

Gặp người giàu mà vị mà nâng.

(Kinh Sám Hối).

5.- Vị là mùi vị.

Như: Vị cay nồng, hương vị của các thực phẩm, cao lương mỹ vị.

Nếu muốn an vui theo lẽ đạo,

Từ từ đừng vọng vị cao lương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VỊ BÀI

位 牌

Vị: Chỗ ngồi. Bài: Cái thẻ, cái bảng, bài vị.

Vị bài tức là “Bài vị 牌 位”, là một tấm giấy hoặc gỗ dày, có đế đặt đứng được. Trên mặt giấy hoặc gỗ có viết tên họ, ngày sinh, ngày mất của người chết...

Vị bài còn được gọi là Thần chủ, Mộc chủ, hay Linh vị được đặt trên bàn thờ của người chết.

Xem: Bài vị.

Hương thề để trước vị bài,

Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VỊ KỶ

為 己

Vị: Vì. Kỷ: Mình, ta.

Vị kỷ là vì ta, vì mình.

Trong Đạo Sử, Đức Quyền Giáo Tông giải nghĩa về Đức Chí Thành có đoạn: Trên mặt địa cầu nầy, nhơn loại phần nhiều cũng bởi cái lòng vị kỷ mà gây ra lắm điều bạo ngược. Kẻ tham trộm là bởi quý trọng của mình mà không quý trọng của thiên hạ, vì vậy nên tính lấy của người đặng bổ thêm của mình.

Không vị kỷ nào sờn luật lịnh,

Tỉ không mua ai tính đòi tiền.

(Phương Tu Đại Đạo).

Phép tu vị tha đừng vị kỷ,

Vạn vật đồng nguyên lý tạo đoan.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

VỊ NỂ

Vị: Vì, thiên về cái gì. Nể: Kiêng dè.

Vị nể là kiêng dè, nể nang. Như: Ông là người đạo đức nên được mọi người trong đạo vị nể.

Trong bài Tuyên dương Bà Hương Hiếu trong cuộc lễ Tấn phong Nữ Đầu Sư, Đức Sanh có dạy: Phải sợ Đức Chí Tôn và Phật Mẫu hơn sợ mích lòng người thì mới hẳn là vô tư, còn vị nể cá nhân hơn tôn trọng luật Đạo thì chẳng phải là tư cách của người cầm quyền.

Bần Đạo xin để lời cầu khẩn cùng Giáo Tông và Hộ Pháp cũng để lòng lo phương thế trừ hại, đừng vì bác ái từ bi vị nể.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VỊ QUỐC

為 國

Vị: Vì. Quốc: Nước.

Vị quốc là vì đất nước. Như: Vị quốc vong thân.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong những cái hay, cái đẹp đó đáng treo gương nhất là tinh thần vị quốc xả thân dầu đến thác cũng không đổi dời tiết tháo.

Mấy ai vị quốc đó người ôi,

Chống mắt mà xem bắt thảm thôi.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VỊ QUỐC VONG THÂN

為 國 亡 身

Vị quốc: Vì quốc gia, vì đất nước. Vong thân: Bỏ thân mình.

Vị quốc vong thân là vì nước bỏ mình, tức là hy sinh thân mình cho đất nước.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Đó là gương cao đẹp nhứt của những Đấng anh hùng vị quốc vong thân đáng để cho muôn đời ca tụng.

Chư chiến sĩ trung thành dõng cảm, vị quốc vong thân, dĩ chí toàn thể lê dân thống khổ...

(Sớ Văn).

 

 

VỊ QUỐC VONG XU

為 國 亡 軀

Vị quốc: Vì quốc gia, vì đất nước. Vong xu (khu): Quên mất thân mình.

Vị quốc vong xu, như câu “Vị quốc vong thân 為 國 亡 身”, là vì nước mà bỏ mình, tức hy sinh thân mình cho đất nước.

Xem: Vị quốc vong thân.

Trước kia là ai mà dám để chí vị quốc vong xu, còn nay gặp đứa thất phu lại ngại ngùng chiến đấu.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

VỊ SANH

Hay “Vị sinh”.

Vị: Chưa. Sanh (sinh): Sanh ra, đẻ ra.

Vị sanh, như chữ “Vị sinh 未 生”, là chưa được đẻ ra, chưa được sanh ra.

Nhược nhơn đương sanh, nhược nhơn vị sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn vô kiếp,...

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

VỊ TẤT

未 必

Vị: Chưa, không. Tất: Hẳn như thế, ắt hẳn.

Vị tất là chưa chắc, chắc gì, chưa hẳn như thế, từ biểu thị ý nghi ngờ. Như: Làm như thế vị tất là đúng.

Trong Phương Tu Đại Đạo Đức Hộ Pháp có viết: Còn cái điều thứ ba khi hôm Bần Ðạo đã tả hình trạng của cải mà từ trước Tiên Nho để lại câu: Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ, Tích thơ dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc, Bất như tích âm đức ư minh minh chi trung dĩ trường cửu chi kế.

Có người thông minh, việc gì cũng hiểu, ấy là khí thanh, nhưng đến việc làm thì vị tất việc gì cũng đúng lý, ấy là bởi Khí không thuần.

(Giáo Lý).

 

 

VỊ TÌNH

為 情

Vị: Vì. Tình: Mối khắc khít thương yêu.

Vị tình, đồng nghĩa với chữ “Nể tình”, tức là vì tình thương yêu. Như: Hắn không vị tình một ai hết.

Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông có câu: Vậy thì hàng phẩm Chức sắc Thiên phong do Ngọc Hư Cung định vị, nên chính mình Lão cũng khó vị tình, để nơi Thiên thơ định liệu.

Luật điều Cổ Phật không chừa tội,

Hình phạt Chí Tôn chẳng vị tình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chờ xem Thiên luật không tư kỷ,

Mới rõ Thần minh chẳng vị tình.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

VỊ THA

為 他

Vị: Vì. Tha: Người khác.

Vị tha là vì người khác, tức là vì ích lợi của mọi người, chứ không vì ích lợi của riêng mình.

Các tôn giáo đều chủ trương thuyết vị tha, dựa trên nguyên tắc đạo đức, đòi hỏi mọi người biết chăm lo đến người khác.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh dạy: Lo làm để cho kẻ khác hưởng, cho người sau hưởng, đó là vị tha, đó là chánh nghĩa.

Thoát trần vẹn để gương từ ái,

Lãnh đạo năng gìn thuyết vị tha.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VỊ THÁNH

1.- Vị: Ngôi vị, tức chỗ ngồi. Thánh: Bậc Thánh.

Vị Thánh, như chữ “Thánh vị 聖 位”, là ngôi vị hàng Thánh, tức người tu đắc quả hàng Thánh.

Như: Ngai Thần vị Thánh.

Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo,

Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời.

(Thất Nương Giáng Bút).

Đạo dụng từ bi đời dụng đức,

Đời nên vị Thánh, đạo ngôi Tiên.

(Thơ Huệ Giác).

2.- Vị: Từ dùng để chỉ từng người có danh hiệu, hoặc chức vị. Thánh: Bậc Thánh, hàng Thánh.

Vị Thánh là một ông Thánh. Như: Đức Khổng Tử là một vị Thánh của nhân loại.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thầy có câu: Như thế đủ chứng tỏ cho con tin rằng Thầy là Ðức Jéhovah của dân Hébreux, vị chủ tể của quân lực dân Israel, vị Thánh vô danh của dân Do Thái, vị Ðại Từ Phụ của Chúa Jésus Cứu Thế, con chỉ cần cầu nguyện Thầy với danh hiệu CAO ÐÀI thì sẽ có sự cảm ứng chấp thuận.

Hễ thoát ly đặng cái thú tánh ấy tức nhiên họ sẽ định tâm sáng suốt thành ra một vị Thánh tại thế gian này.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VỊ XƯA

Vị: Ngôi vị, tức chỗ ngồi. Xưa: Thửa trước, đời đã trải qua.

Vị xưa, như chữ “Cựu vị 舊 位”, tức ngôi vị cũ.

Vị xưa, cùng nghĩa với chữ “Vị cũ”, dùng để chỉ ngôi vị trở về của chơn linh đắc Đạo.

Xem: Ngôi xưa vị cũ.

Theo làm âm chất may bồi đắp,

Thì sẽ trở về chỗ vị xưa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VÍA

1.- Vía, còn gọi “Phách 魄”, là thể chơn thần, là đệ nhị xác thân.

Như: Hồn vía, ba hồn bảy vía, tai nạn xảy ra khiến nó tiêu tan hồn vía.

Khi luận về Món Ăn Của Linh Hồn, Đức Hộ Pháp có giảng: Luôn đó Ngài lấy triết lý cao siêu mà dạy Bần Ðạo trong một con người có ba xác thân gọi là tam hồn và bảy vía gọi là thất phách liên hệ mật thiết cùng nhau.

Chơn thần chúng ta, thiên hạ kêu là phách, vía cả thảy đều có.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Vía là lễ sanh nhựt, lễ kỷ niệm ngày sanh của một Đấng Thiêng liêng. Như: Vía Đức Quan Âm Bồ Tát.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ba ngày Tết Nguyên Ðán đã thoát qua, hương vị của Tân Xuân còn phưởng phất trong cảnh ấm áp, đoàn tụ, gia đình thì đã đến ngày phần nhiều Chức sắc, Chức việc từ nơi tứ phương phải quay gót trở về nơi Thánh Ðịa Trung Ương để được hiện diện trong Lễ Vía Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ.

Sanh nhựt Hà hoa vía Cái Thiên,

Cung nghinh hương Phật ngát đàn tiền.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VICTOR HUGO

Victor Hugo sanh ngày 26 tháng 2 năm 1802 tại Besancon nước Pháp. Cha Ngài là Léopold Hugo, gốc ở Loraine, làm chức Đại tá trong quân đội dưới triều vua Napoléon, mẹ Ngài là Sophie Tresbuchet, gốc ở Bretagne.

Lúc còn thiếu thời Ngài thường châu lưu ở nước Italie (Ý Đại Lợi), ở nước Espagne (Tây Ban Nha) kế trở về Paris.

Khi lên 10 tuổi thì Ngài đã sẵn có tài thi văn đến lúc trưởng thành thì những văn từ thi phú Ngài làm đều là những tác phẩm lỗi lạc hoạt bát tình tứ cao thâm, nên trong trường đời Ngài đã nổi danh là thi bá, đứng đầu trong các bậc kỳ nhân trong thời buổi ấy. Lần hồi tên tuổi của Ngài đã nêu danh nơi Hàn Lâm Viện và Ngài trở nên một Đại Công Thần danh dự của Pháp Triều buổi ấy.

Đến sau cuộc cách mạng 1848 tại nước Pháp, Ngài đắc cử vào Hạ Nghị Viện lớn lao để bảo tồn nền chánh trị và luật pháp trong nước. Lúc Ngài lãnh trách nhiệm trọng yếu ấy, Ngài đã lắm phen trổ tài hùng biện và binh vực quyền lợi cho dân Pháp với những lẽ công chánh nhứt là sự tự do. Nước Pháp trong buổi ấy chưa yên, nên cách 3 năm sau ngày 2 tháng 12 năm 1851 lại có cuộc nội biến. Ngài phải buộc lòng từ giã Paris ra ngoại quốc, mãi đến năm 1870 ngày 4 tháng 9 Ngài mới trở lại trường chánh trị. Lúc đó Ngài đặng 68 tuổi, từ ấy đến sau Ngài đã đem hết nhiệt tâm mà chuyên lo cần mẫn vì nước vì dân cho đến ngày quy vị.

Ngày 22 tháng 5 năm 1885, Ngài bị sưng phổi rồi mất, thọ 83 tuổi. Nước Pháp làm lễ quốc tang cho Ngài, quan tài được đặt tại Khải Hoàn Môn và được an táng trong Đền Panthéon, nơi an nghỉ của những danh nhân có công lớn với dân tộc Pha

Đức Victor Hugo tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là một Đấng Thiêng Liêng tại Quảng Hàn Cung.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VIỆC

Việc là công chuyện phải lo, phải làm.Như: Việc nhà, việc nước, bận việc.

Thánh giáo Thầy có dạy: Ðặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi chớ vội buồn, vì sự mừng vui và buồn tủi thường pha lẫn kế cận nhau.

Ðừng quá so đo việc phú bần,

Bần hàn trong sạch mới nên thân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,

Ðạo đời muôn việc khỏi sai lầm.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

VIỆC LÀNH NHỎ NHÍT CŨNG LÀ CÔNG PHU

Viêc lành: Việc làm lành, làm phước. Nhỏ nhít: Nhỏ bé, ít ỏi. Cũng là công phu: Cũng mất nhiều công sức bỏ ra để làm nên việc.

Việc lành nhỏ nhít cũng là công phu ý muốn nói việc làm lành tuy nhỏ nhưng vẫn phải dụng công phu.

Trên đời có một vài hành động dù nhỏ, cũng có thể tạo ra một lượng lớn hạnh phúc. Ngay cả những hành vi cực nhỏ cũng có thể đưa đến kết quả khổng lồ, cũng như một hạt giống nhỏ có thể trở thành một cây lớn. Vì thế chúng ta không nên bỏ qua những hành vi thiện nhỏ trong khi ta đang cố gắng tạo nghiệp tốt, dù nhỏ nhặt nhưng tập hợp nhiều việc lại thì trở thành lớn lao.

Kinh Pháp Cú Phật có dạy rằng: “Chớ khinh điều lành nhỏ, cho rằng: Chẳng đưa lại quả báo cho ta. Phải biết giọt nước nhiểu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ trí sở dĩ toàn thiện bởi chứa dồn từng khi ít mà nên”.

Việc lành chẳng khá bỏ qua,

Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VIÊM ĐẾ

炎 帝

Theo Thượng Thư Đại Truyện, Viêm Đế là hiệu của Thần Nông, một vị vua thứ ba trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân, Phục Hy và Thần Nông.

Thần Nông là vị vua thời Thượng cổ, trị vì sau vua Phục Hy. Ngài có công dạy dân đẽo gỗ chế ra cày bừa để làm ruộng, hợp chợ búa để dân trao đổi hoá vật, nếm các thứ cây cỏ để làm vị thuốc cho dân trị bịnh.

Đến thời vua Thần Nông con người mới biết định cư, sống hợp quần theo nông nghiệp. Ngài có công lớn trong việc tìm các loại ngũ cốc, khoai củ để làm lương thực cho dân chúng thời bấy giờ và mãi mãi sau này.

Xem: Thần Nông.

Nhờ Viêm Đế đức cao ơn nặng,

Tìm lúa khoai người đặng no lòng.

(Kinh Sám Hối).

Trời đất xoay vần mùa lại đến,

Mới tường Viêm Đế chước cao sâu.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

VIÊM LƯƠNG

炎 涼

Viêm: Nóng. Lương: Mát.

Viêm lương là nói về khí hậu nóng nhiệt hay mát mẻ.

Viêm lương còn dùng để chỉ nhân tình thế thái hay thay đổi, khi thì nồng nàn, khi thì lạnh nhạt.

Lý Bạch có câu: Nhất biệt cách thiên lý, Vinh khô dị viêm lương 一 別 隔 千 里, 榮 枯 易 炎 涼, nghĩa là khi cách xa nghìn dặm, viêm lương đã khác rồi, ý nói thái độ thay đổi bất thường.

Lòng người nham hiểm,nên ngừa trước,

Thế thái viêm lương, chẳng độ lường.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

VIÊN

1.- Viên là tiếng để gọi hoặc để chỉ người giữ một chức nhỏ. Như: Viên chức, viên quan, viên tri phủ, viên chức sắc.

Thần Hoàng Bổn Cảnh trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Còn phần viên chức sắc cúng tế, bảo lên quỳ trước đại điện cho ta tỏ lòng thi ân cho chúng nó.

Phòng cơn biển nọ hoá cồn dâu,

Chưa hết quan viên há hết chầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trống gông nô lệ sao ham muốn?

Hình bóng quan viên xúm giựt giành.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Binh khí quanh mình khua rổn rổn,

Mỗi viên hầu hạ một vài trai.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Viên là tròn. Như: Viên mãn, viên thông, công viên quả mãn.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Có nhiều khó nhọc mới có sự thành công trong vinh hạnh mới xứng đáng vui hưởng ân huệ thiêng liêng ngày công viên quả mãn.

Ngôi xưa đã sẵn có nơi,

Công viên quả mãn thảnh thơi trở về.

(Thất Nương Giáng bút).

3.- Viên là vườn, không dùng một mình. Như: Hoa viên, điền viên, đào viên kết nghĩa.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Kể từ Ðào viên kết tình bằng hữu cùng nhau, từ thuở bần hàn cho đến khi vinh huê phú quý sang trọng Ngài (Quan Thánh) vẫn một mực không hề thay đổi tâm đức bao giờ.

Ðiền viên đất nổi lên vàng,

Oằn vai nông chịu muôn ngàn thuế sưu.

(Ngụ Đời).

 

 

VIÊN GẠCH KHỞI CÔNG

Viên gạch: Một thứ vật liệu dùng để xây dựng. Khởi công: Bắt đầu công việc.

Viên gạch khởi công tức là một buổi lễ đặt viên gạch đầu tiên để khởi công xây dựng.

Trong tôn giáo Cao Đài, ở các địa phương, nơi nào muốn xây dựng Thánh Thất hay Điện Thờ Phật Mẫu, trước nhứt thường tổ chức buổi lễ đặt viên gạch đầu tiên để khởi công xây dựng, rồi tiếp đến là lễ An vị, sau cùng là lễ Khánh thành Thánh Thất hay Điện Thờ.

Viên gạch đầu tiên đặt khởi công,

Anh em lớn nhỏ thảy chung lòng.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VIÊN MÃN

圓 滿

Viên: Tròn. Mãn: Đầy.

Viên mãn là tròn đầy, trọn vẹn, thành tựu.

Như: Công đức viên mãn là công đức đầy đủ, trọn vẹn, tu hành viên mãn là tu hành có chứng ngộ, đạt được kết quả hoàn toàn.

Ngày nay công quả vừa viên mãn,

Mừng đặng Thiên Ðình sắc chỉ phong.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Bảy mươi tuổi thọ công viên mãn,

Đáng liệt vào hàng bậc vĩ nhân.

(Thơ Thượng Trí Thanh).

 

 

VIÊN QUAN

員 官

Viên: Viên chức, người giữ một chức việc. Quan: Người có chức vị trong nước.

Viên quan, do chữ “Quan viên 官 員”, là chỉ người có làm việc quan.

Xem: Quan viên.

Từ thứ dân cho đến viên quan,

Vơ vẩn thấy cùng đàng lấp ngõ.

(Phương tu Đại Đạo).

Xiêm áo chỉnh tề tân học giả,

Dung nghi hào phóng cựu viên quan.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

VIÊN TỊCH

圓 寂

Viên: Tròn. Tịch: Yên lặng, chết.

Viên tịch, Hán dịch là Bát Niết Bàn, còn gọi là Nhập Niết Bàn, Diệt Độ, hay Nhập Diệt.

Viên là viên mãn các công đức, tịch là tịch diệt các nghiệp chướng. Như vậy, Viên tịch là một từ chỉ cho sự qua đời của một vị cao tăng, chỉ cho sự lìa khổ sinh tử, được niềm vui tịch tịnh của Niết Bàn.

Kỷ niệm ngày viên tịch Giáo Tông,

Đăng Tiên kỵ hạc trở về tòng.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VIỀN

Viền là khâu thêm vào một miếng vải cho kín và làm nổi rõ lên một đường mép. Như: Viền cổ áo, đường viền.

Ca dao có câu: Áo anh ai cắt, ai may, Đường tà ai đột, cửa tay ai viền.

Áo cổ trịt viền chỉ kim tuyến vàng, nơi tay trái có ba sắc đạo...

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

VIỂN VÔNG

Viển vông là vu vơ không có bằng chứng gì cả, xa rời thực tế, không thiết thực.

Như: Nó không lo làm ăn chỉ ngồi mơ ước viển vông, chuyện viển vông mà kể lại làm gì.

Thói đời nhiều sự dị đoan,

Làm mê hoặc chúng mơ màng viển vông.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VIỄN CẬN

遠 近

Viễn: Xa, cách xa, trái với gần. Cận: Gần.

Viễn cận là xa gần.

Như: Làm chức việc tại địa phương, tín đồ hữu sự, viễn cận gì cũng phải thăm.

Viễn cận đàn na tăng viên phước thọ.

(Kệ U Minh).

 

 

VIỄN TRẤN

遠 鎮

Viễn: Xa xôi. Trấn: Cai trị, coi giữ.

Viễn trấn là trấn nhậm ở phương xa, tức là được bổ nhiệm đi coi giữ ở một vùng xa xôi.

Hiến thân cửa Thánh đã bao ngày,

Viễn trấn mừng em gặp hội nay.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

VIỄN VỌNG

遠 望

Viễn: Xa, cách xa, trái với cận. Vọng: Trông, mong.

Viễn vọng là nhìn xa, trông xa, ý chỉ con đương trông xa diệu vợi.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Kể từ đêm nay nền chơn giáo của Đức Chí Tôn lại thêm một tuổi nữa, tức nhiên đã đặng 28 tuổi. Con đường viễn vọng trên 28 năm ngó lại như giấc chiêm bao ngắn ngủi.

Xuyên sơn viễn vọng đến nơi đây,

Lẽ phải khuyên em rán đợi Thầy.

(Đạo Sử).

 

 

VIỄN XỨ

遠 處

Viễn: Xa xôi. Xứ: Khu vực địa lý có chung một số đặc điểm tự nhiên, hoặc xã hội nào đó.

Viễn xứ là xứ xa. Như: Tha hương viễn xứ, đồ lưu viễn xứ.

Chén rượu trường đình mơ nghĩa cũ,

Hồi chuông viễn xứ thức đời say.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VIỄN XỨ THA HƯƠNG

遠 處 他 鄉

Viễn xứ: Xứ sở ở xa xôi. Tha hương: Nơi xa lạ không phải là quê hương mình.

Viễn xứ tha hương là xứ lạ quê người. Như: Lưu lạc miền viễn xứ tha hương hơn mười năm rồi.

Viễn xứ tha hương sầu quạnh quẽ,

Mây vầng Tần lãnh buổi chiều hôm.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

VIẾNG

Viếng là thăm, thăm hỏi. Như: Sớm thăm tối viếng, viếng cảnh chùa.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Xưa kia, một ông Quan học thành tài dự chiếm khoa trường và được vinh quy bái tổ, thì bổn phận trước nhất là khăn áo chỉnh tề mang lễ vật đến viếng ông Thầy dạy cũ để tỏ sự kính mến biết ơn, vì nhờ thầy mở trí lúc ban sơ mà ngày nay mình mới được đai vàng thẻ bạc.

Vân du thế giới vui mùi đạo,

Mơi viếng Kỳ Sơn tối Cẩm San.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lừa dịp đình chơn viếng cố nhân,

Cảm tình trông đợi dạ ân cần.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

VIẾNG SỚM THĂM HÔM

Viếng sớm: Buổi sáng vào thăm cha hoặc mẹ. Thăm hôm: Buổi tối vào viếng hai thân.

Viếng sớm thăm hôm, do câu “Hôn định thần tỉnh 昏 定 晨 省”, nghĩa là tối vào hầu hạ cha mẹ xem giấc ngủ có yên không, sáng thăm cha mẹ xem có khoẻ không, ý nói bổn phận của người con hiếu thảo.

Kiến thân viếng sớm thăm hôm,

Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VIẾNG THĂM

Viếng: Đi đến thăm. Thăm: Đến xem, dò xem cho biết rõ tình hình.

Viếng thăm, như chữ “Thăm viếng”, là đến viếng, thăm hỏi sức khoẻ, tin tức.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo không thể đi cùng mỗi nhà của toàn cả Chức Sắc Thiên Phong và mấy em Nam Nữ đặng viếng thăm trong ba ngày xuân nhựt. Một mảnh thân muốn biến hoá ra cả muôn hình xác, nhưng không thể đặng.

Chẳng từ ô trược dương gian,

Vì thương trẻ mới băng ngàn viếng thăm.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Cha chả hèn lâu chẳng viếng thăm,

E chư huynh trưởng trách em thầm.

(Lục Nương Giáng Bút).

Như nghèo khó toan phương giúp đỡ,

Sự viếng thăm bụng chớ lơ là.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VIẾNG THĂM HÔM SỚM

Viếng thăm: Đến thăm hỏi sức khoẻ, tin tức. Hôm sớm: Buổi sáng và buổi tối.

Viếng thăm hôm sớm, đồng nghĩa với câu: “Viếng sớm thăm hôm” là nói bổn phận của người con hiếu thảo, tối vào hầu hạ cha mẹ cho định giấc ngủ, sáng thăm cha mẹ xem có yên không.

Xem: Viếng sớm thăm hôm.

Viếng thăm hôm sớm song thân,

Trọn câu thần tỉnh ân cần cung Tiên.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

VIẾT

1.- Viết là vạch ra những đường nét tạo thành chữ. Như: Tập viết, viết lên bảng, viết thảo.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hai chữ Quốc Ðạo lần đầu, Chí Tôn viết ra làm cho Bần Ðạo mờ mịt, cũng vì hai chữ Quốc Ðạo ấy mà Phạm Công Tắc chết năm 35 tuổi, thí thân đeo đuổi làm cho ra thiệt tướng.

Viết thử Thiên thơ với nét trần,

Hầu sau bền giữ nghiệp Hồng Quân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,

Vạch lưng con viết chữ để dành.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Viết, nghĩa rộng là soạn, làm ra. Như: Viết sách, viết văn, viết thư, viết truyện.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh có đoạn: Lâm Hương Thanh hiền muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm nầy, Thầy đến phong chức lập thành Nữ phái, nghe à!

Tính để viết khuyên rào tiết ngọc,

Thì sợ e ghẹo chọc si tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Viết là bút, dụng cụ dùng để vạch ra chữ. Như: Cây viết, viết chì, viết mực.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, nội trưa nầy phải cắm một cây viết vào đầu cơ, lấy một miếng giấy lớn vào Ðiện phò loan cho Lão vẽ.

Mượn thế đặng toan phương giác thế,

Cũng như nương viết của chàng Hồ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Như cầm viết, viết ra cũng ngặt,

Lắm đờn bà tốt mặt xấu lòng.

(Phương Tu Đại Đạo).

4.- Viết là rằng. Như: Khổng Tử viết, nhất nam viết hữu thập nữ viết vô.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, các bài Thánh giáo Đức Chí Tôn giáng cơ thường có câu: Ngọc Hoàng Thượng Ðế viết Cao Ðài giáo đạo Nam phương.

Khối vật chất vô hồn viết tử,

Đất biến hình tự thử quy căn,

(Kinh Tận Độ).

Viết Thiên viết Ðịa viết nhơn hoà,

Mộng mị thế tình ngữ thập đa

(Đạo Sử).

 

 

VIẾT CHÀNG HỒ

Viết: Cây viết, cây bút. Chàng Hồ: Đổng Hồ. Viết chàng Hồ, do tích “Đổng Hồ bút”, là cây viết của quan Thái sử nước Tấn đời Xuân Thu.

Vua Tấn Linh Công bị Triệu Xuyên giết, trong lúc Triệu Thuẫn cầm quyền chính trong nước lại chạy trốn định qua nước khác, nhưng vừa qua khỏi thành thì nghe tin vua chết, bèn trở về triều.

Đổng Hồ bèn chép vào sử: Triệu Thuẫn giết vua. Thuẫn xin Đổng Hồ sửa lại, Đổng Hồ không chịu, Thuẫn dùng quyền lực cưỡng bức, Đổng Hồ nói: Giết tôi thì được nhưng sửa bút tôi không được. Khổng Tử khen Đổng Hồ là một sử gia giỏi.

Xem: Đổng Hồ.

Mượn thế đặng toan phương giác thế,

Cũng như nương viết của chàng Hồ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VIỆT

1.- Việt là tên viết tắt của nước Việt Nam. Như: Nước Việt, người Việt, dân tộc Việt, Việt thường.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Dân tộc Pháp Việt là hai giống dân được nhiều huệ phúc nhất. Thầy muốn sao cả hai được hoà hiệp nhau mãi mãi. Giáo lý của Thầy có mục đích dạy dỗ các con hoà hợp nhau trong sự sống chung cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt.

Cẩm Tú giang san đổ máu đào,

Vì dân nước Việt chẳng thương nhau.

(Nhị Nương Giáng Bút).

Vì sợ e bụng gái không chừng,

Giận Nam Việt vùng ưng Ngoại quốc.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Việt là cái búa lớn. Như: Mao việt, phủ việt, mao trừ loạn tặc, việt sát phản thần.

Búa việt là một vật dùng để xử tử kẻ phạm tội trong quân đội ngày xưa, nên trên lưỡi của búa việt có khắc bốn chữ “Việt sát phản thần 鉞 殺 反 臣”.

Xem: Búa việt cờ mao.

Đỡ nâng vạc cả dành tay Đạo,

Búa Việt phải toan gắng giữ gìn.

(Quyền Giáo Tông).

 

 

VIỆT CHỦNG

越 種

Việt: Từ viết tắt của tên nước Việt Nam. Chủng: Giống, nòi.

Việt chủng là gống người Việt.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trên vùng Thánh Ðịa nầy, hôm nay Ðời và Ðạo đã gặp nhau và thông cảm nhau trong dịp tỏ lòng tôn kính và sùng bái những nhơn vật trong hàng vương giả, đã lấy chủ nghĩa quốc gia dân tộc làm chuẩn đích, đem thân thế điểm tô cho non sông Việt chủng được vững bền trên cõi Á Ðông, lắm khi phải trọn đời hy sinh vì giống nòi Hồng Lạc.

Non sông Việt chủng ngày êm lặng,

Chung sức cùng nhau đức lập quyền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Kiếp ngựa trâu Việt chủng vận kêu gào,

Đá tinh vệ chừ bao cho lấp bể.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Việt chủng vì chưng rõ gốc nguồn,

Ðua nhau lễ giỗ Ðức Hùng Vương.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

VIỆT ĐẢNH

Việt: Nói tắt của nước Việt Nam. Đảnh (đỉnh): Cái vạc, vật để truyền quốc.

Việt đảnh, như chữ “Việt đỉnh 越 鼎”, cái vạc là vật quan trọng để truyền quốc, tượng trưng cho Nước Việt.

Việt đảnh chỉ đất nước Việt Nam.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Việt đảnh là lư đảnh để thờ Hoàng tộc, ai thâu đặng bá tánh thì bá tánh là con cái của Hoàng tộc, sau lập tổ miếu mà thờ gọi là “Lư hương đảnh Việt”.

Xem: Đỉnh Việt.

Ân đượm sơn hà trùm Việt đảnh,

Huệ loà thế giới rạng Nam phong.

(Thơ Tiếp Đạo).

Phương Nam Việt đảnh hiện Cao Đài,

Thiên tượng Càn Khôn Pháp Nhãn khai.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VIỆT HỒ

越 胡

Việt: Một nước ở phương nam. Hồ: Rợ Hồ ở phương bắc, chỉ Hung Nô.

Việt Hồ là nước Việt và nước Hồ, hai nước cách xa nhau. Nước Việt ở miền nam Trung Hoa, còn nước Hồ ở miền bắc Trung Hoa.

Việt Hồ dùng để chỉ sự xa cách nhau như kẻ ở nước Hồ người nước Việt.

Ra đi muôn dặm trường đồ,

Khác gì xa cách Việt Hồ đôi nơi.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

VIỆT KIỀU

越 僑

Việt: Việt Nam. Kiều: Người ở đậu.

Việt kiều là người Việt Nam ở tại nước ngoài. Như Việt kiều Mỹ là người Việt ở nước Mỹ, Việt kiều Pháp là người Việt ở nước Pháp.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cuộc biến chuyển tại Cam Bốt từ mấy tháng nay làm cho đồng bào Việt kiều nơi đó trải qua không biết bao nhiêu điều tai hại thảm khốc.

Tương lai gởi lại tay tha chủng,

Mai một thương cho đám Việt kiều.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VIỆT PHONG

越 風

Việt: Nước Việt Nam. Phong: Phong tục tập quán.

Việt phong tức là phong tục của nước Việt.

Bóng trời soi nụ đào hoa,

Thơm tho quốc tuý, điều hoà Việt phong.

(Xuân Hương Giáng Bút).

 

 

VIỆT THƯỜNG

越 裳

Việt Thường là tên nước Việt Nam ngày xưa, vào đời vua Hùng Vương, chỉ miền đất từ Thanh Hoá vào Nam.

Huấn từ Đức Thượng Sanh có câu: Trong khi chào đón xuân mới, người đạo Cao Đài hy vọng và cầu nguyện Đức Chí Tôn mở lượng từ bi xoay trở thế cuộc, ban ơn huệ cho dân tộc Việt Thường chóng thoát nạn chiến tranh, sớm vui hưởng đời thái bình vĩnh cửu.

Ðào Nguyên lại trổ trái hai lần,

Ai ngỡ Việt Thường đã thấy lân.

(Bát Nương Giáng Bút).

Nước Việt Thường ghi tạc mặt tài danh,

Nòi Hồng Lạc roi truyền gương tiết nghĩa.

(Văn Tế Tiểu Tường).

Giang san gấm vóc bền chơn vạc,

Đảnh tộ Việt Thường vững bốn phương.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

VIỆT VƯƠNG

越 王

Việt: Nước Việt đời Xuân Thu. Vương: Vua.

Việt Vương là vua nước Việt, đời Đông Châu, tên là Câu Tiễn 句 踐, bị vua Ngô Phù Sai bắt cầm tù ở Thạch Thất để chăn ngựa cho vua Ngô. Nhờ lo lót và giả ngu khờ để nếm phẩn của vua Ngô, nên Phù Sai không nghi ngờ mà tha cho về nước.

Nhớ mối thù xưa, Câu Tiễn miệng thường nếm mật đắng, thân thường nằm trên gai để nhắc nhở mối hận ở Cối Kê mà tìm cách báo thù.

Trong bài Tìm Chơn Lý, đăng trên bán tuần báo Duy Tân, Huệ Giác (Thượng Sanh) có câu: Bởi vậy, khi làm cho nên nước Ngô rồi thì Tôn Võ Tử ẩn sĩ từ quan, giúp Việt Vương được nghiệp cả trùng hưng thì Phạm Lãi dạo chơi Ngũ hồ, gầy dựng xong cho Lưu Bang thì Trương Tử Phòng ẩn chốn núi non, vui cùng tứ hạo.

Xem: Câu Tiễn.

Nếm mật Việt Vương còn để tiếng,

Gian nan hết lúc đến tao phùng.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

VIN

Vin là với tay mà kéo, níu. Như: Vin cành cây để hái quả. Nghĩa bóng: Dựa vào, níu lấy. Như: Vin lẽ mà cãi.

Ca dao có câu: Công anh đắp nấm trồng chanh, chẳng được ăn quả, vin cành cho cam.

Trên chẳng đặng nương vin khúc giữa,

Ðừng cho sụt giá bán nài hàng.

(Đạo Sử).

 

 

VIN NHÀNH QUẾ

Vin: Với tay mà kéo, níu. Nhành quế: Cành, nhánh cây quế.

Vin nhành quế, đồng nghĩa với chữ “Chiết quế 折 桂” (bẻ cành quế), đều có nghĩa chỉ sự thi đỗ.

Thơ Đỗ Phủ đời nhà Đường có câu: Chuyển bồng hành địa viễn, Phan quế ngưỡng thiên cao 轉 蓬 行 地 遠, 攀 桂 仰 天 高, nghĩa là dưới đất chuyển bồng lăn xa tít, trên trời vin quế ngữa nhìn cao.

Xem: Chiết quế.

Tay vin nhành quế khá khen ai,

Luật Sự khoa thi đã trổ tài.

(Thơ Chơn Tâm).

Tay tiên trẻ khéo vin nhành quế,

Nét gấm giờ đây tạm món quà.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VỊN

Vịn là đặt bàn tay tựa vào để có được thế vững.

Như: Vịn vào cột, bắt thang để vịn vào tường cho khỏi ngã, người còn yếu phải vịn vai bạn mà đi.

Kinh Bạch Ngọc muôn lằn điển chiếu,

Kêu Chơn hồn vịn níu Chơn linh.

(Kinh Tận Độ).

Tường quang chói rạng góc Trời Nam,

Phải vịn dấu Tiên, bỏ nết phàm.

(Đạo Sử).

Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,

Vịn lấy nhành dương hưởng Ðạo nhàn.

(Đạo Sử).

 

 

VINH

1.- Vinh, như chữ “Vênh”, là cong lên một bên. Như: Tấm ván bị vinh (vênh).

Vinh, có nghĩa rộng: Đưa cao lên. Như: Vinh (vênh) mặt lên, vinh váo.

Lễ Nhạc chẳng hoàn toàn, nhiều đứa cậy tài học giỏi, lượm lặt sách xả rác hủ nho, mong bài bác đặng vinh mặt.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2.- Vinh là vẻ vang. Như: Vinh hoa, vinh hiển, vinh nhục, vinh sang.

Thánh giáo Thầy có câu: Môn đệ của Thầy nhiều đứa muốn bỏ đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi bước Ðạo gập ghình khó tới nên mới ra cớ đỗi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi phú quí, mê chữ vinh sang mà ngán đạo.

Lộc Hớn từ vinh Trương học chước,

Cầm đường tiếng hạc phủi muôn chung.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lịch sử chép biên bao vẻ đẹp,

Ai từng đem nhục đổi làm vinh.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

VINH DIỆU

榮 耀

Vinh: Vẻ vang. Diệu: Sáng, rực rỡ.

Vinh diệu là vẻ vang rực rỡ. Như: Lấy làm vinh diệu.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Xôn xao gió bụi, mờ mệt tuồng đời, mồi phú quý bả công khanh, mấy kẻ biết nhuộm nét nâu sồng, lánh cả muôn sự não phiền mà khách trần đều gọi là vinh diệu.

Trọn một đời người vinh diệu đai cân.

Thường suy cổ nghiệm kim,

Đủ trí thức an bang tế thế.

(Văn Tế Tiểu Tường).

Hào Quang chói rực càn Khôn,

Vinh diệu các đấng bảo tồn triều nghi.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

VINH HẠNH

榮 幸

Vinh: Vẻ vang. Hạnh: May mắn.

Vinh hạnh là vẻ vang may mắn. Như: Anh ta có vinh hạnh nhận giải thưởng.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Có nhiều khó nhọc mới có sự thành công trong vinh hạnh, mới xứng đáng vui hưởng ân huệ thiêng liêng ngày công viên quả mãn.

Ơn lòng huệ cố đầy vinh hạnh,

Cho một vần thơ miễn tặng quà.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VINH HIỂN

榮 顯

Vinh: Vẻ vang. Hiển: Tiếng tăm, được ngưỡng mộ.

Vinh hiển là vẻ vang, có tiếng tăm, danh vọng được ngưỡng mộ. Như: Một đời vinh hiển.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đức Ngài Khai Pháp trong buổi sanh tiền chưa có hưởng hạnh phúc hay thú vị gì cả, vì sự nghiệp giàu sang vinh hiển của Ngài mà Ngài cũng không màng, chỉ nguyện đem cái xác thân nầy hiến trọn vẹn với cửa Đạo.

Chàng dầu vinh hiển cảnh Thần,

Gởi trong giấc mộng đặng gần cùng nhau.

(Kinh Thế Đạo).

Cơ đồ nếu muốn ngày vinh hiển,

Cứu nước toàn dân phải trổ tài.

(Thơ Hộ Pháp).

Buồn chia thảm sớt chẳng nên hồi,

Vinh hiển nay mình đã đặng ngôi.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

VINH HOA

榮 華

Vinh: Vẻ vang. Hoa: Tốt, thịnh vượng.

Vinh hoa là vẻ vang và thịnh vượng, nói chung là hiển đạt. Kinh Lễ có câu: Thảo mộc vinh hoa 草 木 榮 華, nghĩa là cây cỏ đơm bông tươi tốt.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Mùi chung đỉnh, bả vinh hoa có khác chi ngọn cỏ phơi sương, vừng mây giữa gió.

Xem: Vinh hoa lợi lộc.

Vinh hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,

Khổ cực các con chớ bỏ trường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tẻ vui thú vị riêng mùi hưởng,

Ðừng tưởng vinh hoa khó phụ phàng.

(Đạo Sử).

Vợ rẽ nghĩa trước mai lánh bước,

Sau đắc thời ông được vinh hoa.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

VINH HOA LỢI LỘC

榮 華 利 祿

Vinh hoa: Chỉ cây cỏ đơm bông, ý nói vinh hiển. Lợi lộc: Ý nói thu thêm vào tiền bạc hay phẩm vật.

Vinh hoa lợi lộc là nói người vinh hiển, lại có đầy đủ về tiền tài vật chất.

Cứ mến vinh hoa cùng lợi lộc,

Chẳng lo kiếp thác đến gần nơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VINH HUÊ

Hay “Vinh hoa”.

Vinh: Vẻ vang. Huê (hoa): Tốt, thịnh vượng.

Vinh huê, như chữ “Vinh hoa 榮 華”, là vẻ vang và được hưởng sung sướng về vật chất.

Thuyết về Đức Quan Thánh Đế Quân, Hộ Pháp viết: Kể từ Ðào Viên kết tình bằng hữu cùng nhau, từ thuở bần hàn cho đến khi vinh huê phú quý sang trọng Ngài vẫn một mực không hề thay đổi tâm đức bao giờ.

Rồng rắn cùng đời, rồng hoá rắn,

Vinh huê ngó lại, giấc mơ màng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nhượng vinh huê trong buổi sang giàu,

Khuyên học khách ăn rau chê bệ ngọc.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VINH NHỤC

榮 辱

Vinh: Vẻ vang. Nhục: Chịu cảnh xấu hổ.

Vinh nhục là hai cảnh đời trái nhau, khi thì vẻ vang, vinh hiển, lúc thì xấu xa, nhục nhã.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Vậy trong đời nầy, sự buồn vui, vinh nhục, phước hoạ, cũng chẳng khác nào mấy ngọn sông, mấy hòn núi của Thầy lấy luật thiêng liêng mà tạo. Sông có thể thành ruộng, núi có thể diệt tiêu mà làm biển cả, cũng như sự buồn lắm lúc hoá ra vui, sự vinh thành nên nhục, cái phước đổi cái hoạ vậy.

Vinh nhục đòi phen vui lẫn khóc,

Ghét thương lắm lúc giận pha cười.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tôi không nhiễm bợn trần lao,

Thạnh suy vinh nhục nghèo giàu khỏi lo.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VINH QUANG

榮 光

Vinh: Vẻ vang. Quang: Sáng rỡ.

Vinh quang là vẻ vang, sáng sủa, tức có giá trị tinh thần cao, đem lại niềm tự hào chính đáng. Như: Nhiệm vụ vinh quang của nhà giáo.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nhiều khi chúng ta thấy một đứa con trong gia đình kia, nếu người anh cả vinh quang phú quí, quyền tước cao sang về tới nhà lại hiếp đáp đàn em buộc phải tôn sùng, thì bà mẹ chẳng hề vui lòng bao giờ.

Khởi điểm vinh quang đã vẽ màu,

Giang san đất Việt giá là bao.

(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).

Hữu hạnh gặp kỳ khai Đại Đạo,

Gìn lòng thiện niệm hưởng vinh quang.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

VINH QUY

榮 歸

Vinh: Vẻ vang. Quy: Trở về làng.

Vinh quy là vinh hiển trở về làng.

Vinh quy, do chữ chữ “Vinh quy bái tổ 榮 歸 拜 祖”, là làm nên sự vẻ vang như thi đỗ, làm quan rồi trở về làng để lạy tổ tiên.

Xem: Vinh quy bái tổ.

Mong thấy vinh quy trường khổ hạnh,

Chờ xem bảng hổ hội lương tài.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

VINH QUY BÁI TỔ

榮 歸 拜 祖

Vinh quy: Vẻ vang trở về. Bái tổ: Lạy tổ tiên.

Vinh quy bái tổ là trở về quê một cách vẻ vang để lạy tổ tiên ông bà.

Ngày xưa, các sĩ tử thi đỗ làm quan được triều đình ban cho áo mão, dù lọng để trở về quê lạy tổ tiên, ông bà một cách vẻ vang, gọi là Vinh quy bái tổ.

Xưa kia, một ông quan học thành tài dự chiếm khoa trường và được vinh quy bái tổ...

(Thuyết Đạo Thương Sanh).

 

 

VINH SANG

Vinh: Vẻ vang. Sang: Cao quý, vinh hiển.

Vinh sang là vinh hiển và sang trọng.

Thánh giáo Thầy có câu: Môn đệ của Thầy nhiều đứa muốn bỏ đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi bước Ðạo gập ghình khó tới nên mới ra cớ đỗi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi phú quý, mê chữ vinh sang mà ngán đạo.

Trần tục là nơi lo lấy của,

Cảnh Tiên là chốn hưởng vinh sang.

(Đạo Sử).

Dạo chơi gác tía lầu huờng,

Vinh sang phú quý gia đường ấm no.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VINH TÔNG

榮 宗

Vinh: Vẻ vang. Tông: Dòng họ.

Vinh tông là làm rạng rỡ cho cả dòng họ.

Thành ngữ Việt Hán có câu: “Hiển tổ vinh tông 顯 祖 榮 宗” nghĩa là làm vẻ vang tổ tiên, làm rạng rỡ dòng họ.

Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu,

Học cho hay trọng yếu miếu đường.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VINH THÂN

榮 身

Vinh: Vẻ vang. Thân: Thân mình.

Vinh thân là tấm thân mình được vẻ vang. Như: Vinh thân phì gia.

Tìm người tri kỷ chưa bao mặt,

Mưu cuộc vinh thân biết mấy phường.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VINH THÊ ẤM TỬ

榮 妻 蔭 子

Vinh thê: Vợ được vẻ vang. Ấm tử: Con được tập ấm của ông cha, tức là cha ông làm quan to, con cháu được hưởng hàm phẩm.

Vinh thê ấm tử là vợ con vẻ vang vì được hưởng tập ấm của chồng, hoặc cha có công nghiệp.

Phú hữu thiên gia bất thoát trần,

Vinh thê ấm tử độ cô thân.

(Đạo Sử).

 

 

VINH XÚ

榮 醜

Vinh: Vẻ vang. Xú: Xấu, ác.

Vinh xú là vẻ vang và xấu xa, ý muốn nói làm cho tiếng tăm được vinh hiển hay làm cho tiếng tăm bị nhơ nhuốc, xấu xa.

Như: Ghi tên một nhân vật vào lịch sử chỉ có hai điều vinh xú mà thôi.

Phải hiểu rõ hai điều vinh xú,

Hiển tông môn quy củ nghiệp nhà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VĨNH

Vĩnh là mãi mãi, lâu dài.

Như: Vĩnh viễn không thấy mặt, được trở về cõi vĩnh hằng, những vật có giá trị vĩnh cửu.

Cao thượng tâm truyền cơ xuất thế,

Tiên Thiên phản bổn vĩnh an tồn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VĨNH BIỆT

永 別

Vĩnh: Mãi mãi. Biệt: Xa cách, ly biệt.

Vĩnh biệt là xa cách mãi mãi, hay nói khác đi, là vĩnh viễn ly biệt nhau.

Vĩnh biệt còn có thể hiểu là chết. Như: Vĩnh biệt người ra ra đi mãi mãi.

Thánh giáo Thầy có dạy: Cái xuân kia chẳng đợi người mà bước đời càng gay trở, lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều quang nhặt thúc, con đường hy vọng chẳng biết đâu là tột cùng mà bước đời xem đà mòn mỏi, sự thác vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sanh ly pha màu tử biệt, làm cho sự vui vẻ giàu sang danh vọng đều thành ra một giấc huỳnh lương, rồi đây vĩnh biệt ngàn năm, tội tình muôn kiếp.

Niềm thủ túc đã đành vĩnh biệt,

Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.

(Kinh Thế Đạo).

Nhớ mẹ ngậm ngùi khi vĩnh biệt,

Sầu cha áo não cuộc tồn vong.

(Thơ Cao Hương Cường).

 

 

VĨNH BIỆT NGÀN THU

Vĩnh biệt: Xa cách mãi mãi, hay nói khác đi, là vĩnh viễn ly biệt nhau. Ngàn thu: Ngàn năm.

Vĩnh biệt ngàn thu, như chữ “Thiên thu vĩnh biệt 千 秋 永 別”, là cách biệt nhau mãi mãi, ý chỉ sự chết rồi.

Như: Nàng đã ra đi là vĩnh biệt ngàn thu.

Xem: Thiên thu.

Thiên phong kỳ cựu gương còn tạc,

Vĩnh biệt ngàn thu đức rạng ngần.

(Thơ Phạm Mộc Bổn).

 

 

VĨNH CỬU

永 久

Vĩnh: Mãi mãi. Cửu: Lâu.

Vĩnh cửu là lâu dài, tựa như sẽ còn mãi mãi. Như: Những giá trị vĩnh cửu.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong khi chào đón Xuân mới, người Ðạo Cao Ðài hy vọng và cầu nguyện Ðức Chí Tôn mở lượng từ bi xoay trở thế cuộc, ban ân huệ cho dân tộc Việt Thường chóng thoát nạn chiến tranh, sớm vui hưởng đời thanh bình vĩnh cửu, người có sứ mạng Thể Thiên hành hoá mới có cơ thuận tiện tận tâm lo dìu dắt nhơn sanh trên đường giải thoát.

Các con nên tìm sự giàu đức tính của Trời. Chỉ có cách đó mới gọi là vĩnh cửu. Của quý ấy không ai ăn cướp đặng cả.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VĨNH HẰNG

永 恆

Vĩnh: Lâu dài, mãi mãi. Hằng: Luôn luôn.

Vĩnh hằng là tồn tại mãi mãi, không bao giờ mất.

Nơi thế gian là cõi hữu hình, tương đối nên không có gì tồn tại mãi mãi, chỉ có nơi Thiêng liêng mới là cõi trường cửu, vĩnh hằng.

Vì vậy, Vĩnh hằng, cũng như “Hằng sanh 恆 生”, là chỉ cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Mấy ai lột vỏ sống đời chăng?

Thác ấy là lên cõi vĩnh hằng.

(Thơ Hoàn Nguyên).

Cùng anh liên kết mối duyên văn,

Thương chị về vui cõi vĩnh hằng.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VĨNH KIẾP

永 劫

Vĩnh: Lâu dài, mãi mãi. Kiếp: Đời, thời gian sống của một con người.

Vĩnh kiếp là đời đời kiếp kiếp, ý chỉ lâu dài mãi mãi.

Như: Hồng ân của Chí Tôn, Phật Mẫu nguyện vĩnh kiếp mãi ghi tâm.

Nấng nuôi vĩnh kiếp trường tồn,

Làm cho xác thịt linh hồn an vui.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VĨNH KIẾP QUẦN SANH NGƯỠNG KỲ HUỆ ĐỨC

永 劫 群 生 仰 其 惠 德

Vĩnh: Vĩnh viễn, mãi mãi, đời đời. Kiếp chỉ một kiếp. Quần sanh: Chúng sanh. Ngưỡng: Ngửa mặt lên với sự tôn kính. Huệ đức: Ân đức.

Vĩnh kiếp quần sanh, ngưỡng kỳ huệ đức là chúng sanh mãi mãi ngưỡng nhờ công đức của Ngài.

Đây là một câu trong Tiên giáo Tâm Kinh, nói công đức và lòng kính ngưởng của chúng sanh đối với Thái Thượng Đạo Quân.

Đức Thái Thượng Đạo Quân do Tiên thiên khí hoá sanh, từ thời hồng mông cho đến nay, công đức Ngài phủ trùm các cõi giới, trong đó, có cõi Ta Bà Thế giới của chúng sanh. Đạo của Ngài chan rưới ân đức, không khác nào nắng hạn gặp mưa, cây khô được nước, chúng sanh nhờ đó noi theo mà giác ngộ, thoát cõi luân hồi, siêu phàm nhập Thánh, nênChúng sanh mãi mãi ngưỡng nhờ công đức của Ngài.

Đại thiên Thế giới, dương tụng từ ân,

Vĩnh kiếp quần sanh, ngưỡng kỳ huệ đức.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

VĨNH MỘC TỪ ÂN

永 沐 慈 恩

Vĩnh: Lâu dài, mãi mãi. Mộc: Gội, tắm gội. Từ ân: Ơn huệ của bề trên ban xuống cho kẻ dưới vì thương yêu.

Vĩnh mộc Từ ân là mãi mãi gội nhuần ân huệ của Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng ban xuống.

Đàn tràng viên mãn, Chức sắc quy nguyên.

Vĩnh mộc từ ân, phong điều võ thuận,

(Kệ Chuông).

 

 

VĨNH NGUYÊN TỰ

永 源 寺

Vĩnh Nguyên Tự là một ngôi chùa do Thái Lão Sư Lê Đạo Long, thuộc chi Minh Sư sáng lập vào năm 1908 tại làng Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn, Nam phần Việt Nam, ngày nay thuộc huyện Cần Giuộc tỉnh Long An.

Nguyên Thái Lão Sư Lê Đạo Long, tục danh là Lê Văn Tiểng, sanh ngày 23 tháng 10 năm Quý Mão, 1843, tại làng Long An, Chợ Lớn, con của ông Lê Phước Nghệ và bà Nguyễn Thị Nguyện. Ngài được Đức Di Minh Tử Ngô Đạo Chánh truyền thừa mối Đạo Minh Đường năm 1876. Từ đó, Ngài chuyên tâm tu luyện, đến phẩm Thái Lão Sư, đạo hiệu là Lê Đạo Long. Tại đây, Ngài dạy Đạo cho nhiều môn đệ, tu đến phẩm Thái Lão Sư có các vị: Trần Đạo Minh, Nguyễn Chánh Sắc, Trương Thiện Thành, Nguyễn Đạo Chí, Nguyễn Đạo Cần...

Thái Lão Sư Lê Đạo Long tu chứng tại tiền, rất linh thông biết hết mọi việc nên trước ngày quy Thiên, Ngài tắm gội tinh khiết, đến làm lễ Thiêng liêng, rồi cho vời con cháu và các môn đệ tự tề tựu để dạy lời di chúc, ký thác mọi việc. Đến 7 giờ ngày 3 tháng 12 năm Quý Sửu, 1913, Ngài đăng Tiên tại Vĩnh Nguyên Tự.

Lúc sanh tiền, Ngài có tiên tri rằng: “Vĩnh Nguyên Tự là nơi Thập Nhị Khai Thiên làm cơ quan của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hoằng dương chánh pháp chơn truyền, sau trong môn đệ có người ra thọ nhận Thiên ân mà mở cơ Tận độ”.

Ngày 4 tháng 3 năm 1926, chư vị Tiền Khai Đại Đạo là Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc được lệnh Ơn trên đến lập đàn cơ tại Vĩnh Nguyên Tự, Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn, tức Ngài Lê Đạo Long giáng đàn nhắc lại lời tiên tri xưa và khuyên bổn đạo tại chùa Vĩnh Nguyên quy nhập Cao Đài.

Tuân theo lời dạy, Thái Lão Sư Trần Đạo Minh cùng Ngài Lê Văn Lịch quy hiệp về Cao Đài, Ngài Trần Đạo Minh thọ Thiên ân Ngọc Chưởng Pháp và Ngài Lê Văn Lịch thọ Thiên phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.

Trải qua nhiều năm tháng, lại gặp phải nhiều cuộc biến thiên của thời cuộc, ngôi Vĩnh Nguyên Tự bị xuống cấp nặng nề, nên Ban Cai Quản và toàn đạo nơi chùa nầy đứng ra vận động để tái thiết ngôi thờ mới, khởi công vào ngày 10 tháng 4 năm Tân Hợi (Dl. 4/5/1971) và khánh thành ngày 15 tháng 3 năm Quý Sửu (17/4/1973).

Vĩnh Nguyên Tự trở thành di tích lịch sử của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Nhơn, con phải khởi sự kể từ ngày nay cho tới bữa Ngọc Ðàn Vĩnh Nguyên Tự, tập nhạc đủ lại hết.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VĨNH QUYẾT

永 決

Vĩnh: Lâu dài, mãi mãi. Quyết: Ly biệt.

Vĩnh quyết là vĩnh biệt người đời, một từ dùng để nói sự ly biệt với người chết, tức là sự cách biệt mãi mãi.

Như: Anh ấy có để lại một bức thư vĩnh quyết.

Không còn bao nhiêu bước nữa nên liệu mà tính xong bổn phận làm người trước ngày vĩnh quyết.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VĨNH SANH

Vĩnh: Hằng, mãi mãi. Sanh (sinh): Sống.

Vĩnh sanh, như chữ “Vĩnh sinh 永 生”, là hằng sống, sống mãi.

Vĩnh sanh còn dùng để chỉ nơi sống hạnh phúc mãi mãi của linh hồn, nói khác hơn là cõi Tiên, hay cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có viết: Hình ảnh trước mắt ta thấy cả trường đời đi đến con đường tự diệt, chớ không phải con đường vĩnh sanh.

Xem: Hằng sanh.

Nhớ ơn bảo mạng Huyền Thiên,

Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh.

(Kinh Thế Đạo).

Tiếng chuông thức giấc huỳnh lương,

Toan nương thuyền huệ vào đường vĩnh sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,

Dọn đường quốc thể định phong vân.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

VĨNH SÙNG CHÁNH GIÁO

永 崇 正 教

Vĩnh sùng: Mãi mãi tin theo. Chánh giáo: Một nền tôn giáo chơn chánh, tức chánh Đạo.

Vĩnh sùng chánh giáo là vĩnh viễn sùng tín một nền chánh giáo, tức là mãi mãi tin và thờ một nền chánh Đạo của Đức Chí Tôn.

Hiệp trí hoà tâm, tinh thần quy nhứt, vĩnh sùng Chánh Giáo, giải thoát tiền khiên, triêm ngưỡng Mẫu Ân tứ phước.

(Sớ Văn).

 

 

VĨNH TỒN

永 存

Vĩnh: Mãi mãi. Tồn: Còn.

Vĩnh tồn là tồn tại lâu dài, tức còn mãi mãi.

Trong Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Cao Đài giáo xét như một Tôn giáo tổng hợp đã quy định những tôn giáo chính thống trên một căn bản chung và đặt giữa chúng nó những liên hệ tương xứng như muốn xác định rằng các tôn giáo chỉ là những lối thể hiện khác nhau của cùng một cái Đạo duy nhứt, vĩnh tồn.

Nghiệp hồng vận tử hồi môn,

Chí công định vị vĩnh tồn Thiên cung.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Trụ tâm nâng đỡ quốc hồn,

Giữ bền đảnh nghiệp vĩnh tồn hậu lai.

(Kinh Thế Đạo).

Vĩnh tồn mạng số tới chừng nầy,

Tu kịp cùng chăng mó đến đây.

(Đạo Sử).

 

 

VĨNH TRƯỜNG

永 長

Vĩnh: Lâu dài, mãi mãi. Trường: Dài.

Vĩnh trường là lâu dài mãi mãi.

Như: Xây dựng một công trình không kiên cố mà đòi hỏi sử dụng vĩnh trường thì không bao giờ được.

Trăm năm thọ khảo vĩnh trường,

Thuận căn thuận mạng đôi đường cao thăng.

(Kinh Tận Độ).

 

 

VĨNH VIỄN

永 遠

Vĩnh: Lâu dài, mãi mãi. Viễn: Xa xôi.

Vĩnh viễn là lâu dài, mãi mãi, tức có sự tồn tại ngoài thời gian hoặc trong mọi thời gian, không có bắt đầu cũng không có kết thúc.

Như: Ở cõi thế gian không có gì là vĩnh viễn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Các con hãy tìm tước phẩm nơi cõi thiêng liêng, tước phẩm ấy mới là vĩnh viễn.

Vĩnh viễn chi chi cái cuộc đời,

Mà lo gánh vác đã mòn hơi.

(Đạo Sử).

 

 

VỊNH

1,- Vịnh là vùng biển, đại dương hoặc hồ lớn ăn sâu vào trong đất liền.

Như: Vịnh Hạ Long, Vịnh Bắc Bộ.

Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,

Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.

(Đạo Sử).

Sớm vượt lên doi, chiều xuống vịnh,

Trưa tung chài lưới, tối câu thòng.

(Thơ Thông Quang).

2.- Vịnh là làm thơ về phong cảnh hoặc về những sự vật trước mắt. Như: Vịnh rừng thu.

Vịnh còn có nghĩa là ngâm đọc thơ ca. Như: Ngâm thơ vịnh nguyệt.

Bầy hồng nhạn lao xao vịnh liễu,

Đám cò ngà bận bịu gành khơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VỊT

Vịt là loài gia cầm, mỏ dẹp và rộng, chân thấp có màng da giữa các ngón, bơi giỏi, bay kém.

Như: Vịt Tàu, vịt bầu, giữ đàn vịt đang thả đồng, rủa gà mắng vịt.

Dường như con vịt mẹ gà,

Trẻ thơ vội phản, mụ già kinh tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Hay bày điều nói quỷ nói ma,

Dùng những tiếng rủa gà mắng vịt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỸ SINH

Vỹ Sinh là một nhân vật ở nước Lỗ, thời Xuân Thu, có hẹn với người tình gặp nhau ở dưới cầu.

Đúng giờ, Sinh ra chỗ hẹn mà chờ đợi. Nước dưới sông càng lúc càng lớn, mà người tình vẫn không tới,

Vỹ Sinh cứ ở dưới cầu, ôm vào trụ cầu mà đợi. Nước ngập thì chịu chết, chớ không chịu bỏ chỗ hẹn để giữ chữ tín với người tình.

Từ Hải luỵ mình thân bách chiến,

Vỹ Sinh ôm hận, trận ba đào.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VÓ CÂU

Vó: Bàn chân có móng của loài thú như ngựa, lừa. Câu 駒 (cu): Một loại ngựa nhỏ và hay, như ngựa long câu.

Vó câu tức là vó ngựa, hay bước chân ngựa, chỉ ngựa chạy nhanh.

Vó câu, do chữ “Vó câu qua cửa sổ”, nên còn dùng để chỉ bóng thời gian qua mau.

Xem: Vó ngựa.

Ngại nỗi đời hoa đang độ thắm,

Vó câu giục thúc bóng qua mau.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VÓ CÂU CỬA SỔ

Vó câu (cu): Vó ngựa, bước chân ngựa. Cửa sổ: Cửa ở lưng chừng tường, vách để lấy ánh sáng và thoáng khí.

Vó câu cửa sổ có nghĩa là bóng con ngựa câu chạy nhanh qua cửa sổ.

Do chữ “Bạch câu quá khích 白 駒 過 隙”,tức là bóng ngựa trắng qua khe hở, ý chỉ thời gian trôi nhanh.

Thoạt vó câu vừa qua cửa sổ,

Chợt đài thơ úa vỡ hoa tim.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

VÓ CU

Hay “Vó câu”.

Vó: Bàn chân có móng của loài thú như ngựa, lừa. Cu: Còn đọc là “Câu 駒”, một loại ngựa nhỏ con và chạy hay, như ngựa long cu.

Vó cu là vó ngựa, hay bước chân ngựa, dùng để chỉ ngựa chạy nhanh.

Những tưởng vó cu còn đợi,

Nào hay máy tạo khôn ngừa.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

VÓ KÝ

Vó: Bàn chân có móng của loài thú như ngựa, lừa. Ký: Con kỳ ký 騏 驥, giống ngựa thuần một màu lông xanh đậm, là một loại ngựa tốt, có thể chạy hằng nghìn dặm, gọi là thiên lý mã.

Vó ký là vó câu của ngựa ký, tức con ngựa kỳ ký, chỉ ngựa giỏi, tốt.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Một giấc thiên thu, ngàn năm vĩnh biệt, tiếng hơi lặng lẽ, hình bóng mờ xa, vó ký giục đường mây, giông đùa chia bóng nhạn.

Vó ký nài chi vạn dặm dài,

Càng dồi càng dẻo chí càng hay.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Vó ký ngàn dâu khuất dặm đường,

Bàn hoàn lòng khách giục quày cương.

(Thơ Cao Quỳnh Cư).

 

 

VÓ KỲ

Vó: Bàn chân có móng của loài thú như ngựa, lừa. Kỳ: Con kỳ ký 騏 驥, giống ngựa thuần một màu lông xanh đậm, là một loại ngựa tốt, có thể chạy hằng nghìn dặm, gọi là thiên lý mã.

Vó Kỳ, cũng như “Vó Ký”, là vó câu của con ngựa Kỳ Ký 騏 驥, một loại ngựa tốt, chạy giỏi, có thể đi cả ngàn dặm đường.

Xem: Vó Ký.

Vó kỳ từng trải đường nguy hiểm,

Cánh hộc quen chiều gió ngược xuôi.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VÓ NGỰA

Vó: Bàn chân có móng của loài thú như lừa, ngựa. Ngựa: Con ngựa, loài vật dùng để cỡi.

Vó ngựa là bước chân ngựa. Như: Nơi bãi chiến trường, vang rền tiếng vó ngựa.

Xem: Vó câu.

Ðường dài vó ngựa tua bền sức,

Sức yếu lòng người khéo để gương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đoái xem lại trần dường thể tuyết mù,

Nhìn cuộc thế tợ bóng cu vó ngựa,

(Giác Mê Khải Ngộ).

Cuồn cuộn mây vầng bay thoát thoát,

Lia lia vó ngựa nhảy mau mau.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

1.- Vò là hũ lớn, một loại vật bằng sành, sứ dùng để chứa đựng đồ vật.

Như: Vò rượu đế, vò tương.

Ðức tin như thể cái ,

Bị hư lủng đáy chứa đồ chảy ra.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

2.- Vò là lấy tay hoặc chân mà làm cho nhầu, cho nát, cho rối. Như: Vò đầu, vò giấy, vò tơ, vày vò.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Các con nếu biết đời khổ tâm, biết vày tình thế, biết chịu kém sút trong nẻo lợi đường danh, biết thiệt mình mà đặng cho kẻ khác, biết đổ lụy cho kẻ vui cười, biết nhọc nhằn trong kế sinh nhai, biết giữ tâm chí cho thanh bạch, đừng nhơ bợn của chẳng nên dùng, biết động mối thương tâm, thương người hơn kể mình, thì là các con được tắm gội hồn trong mà về cùng Thầy đó.

Buồn than thở khi trưa lúc tối,

Quặn chín chiều ruột rối tơ.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Trăng lò thấy đó có buồn lo,

Lòng rối khác chi tợ chỉ .

(Thánh Giáo Minh Thiện).

 

 

VỎ

Vỏ là phần bọc bên ngoài một vật.

Như: Vỏ cây quế dùng làm thuốc, đi trợt vỏ chuối, vỏ ốc bén nhọn, mình đeo vỏ kiếm.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ông Trương Vĩnh Ký cùng năm người nữa dẫn nhau lại chỗ Bà già Chàm, đến nơi thì thấy Bà đang quỳ lạy, xoay lưng ra ngoài cửa, ở mé trong có một cái tượng cốt một Ông Chàm mà chỉ có cái đầu không mà thôi. Còn chân tay mình đều không có, chỉ một khúc cây còn vỏ mà thôi.

Mượn men sưởi mãi hồn băng tuyết,

Đem ngọc giấu vào vỏ ốc bươu.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

1.- Võ, còn đọc là “ 雨”, là mưa.

Như: Phong võ, đảo võ, phong điều võ thuận.

Đức Chơn Cực Lão Sư trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Chư đạo hữu phải lọc lừa lại, tìm người có tâm chí kết liên thân ái, chung hiệp nhau, bỏ sự lãng phí, dụng đồng tài nơi giọt mồ hôi, được tích thiểu thành đa, gầy dựng một cái nhà chung, để ngày phong nương dựa được thung dung, ngồi ngắm thế sự và chấn hưng mối Ðạo quý hoá.

Hữu vân hữu hữu phong ba,

Nhựt Nguyệt Âm Dương tứ quý hoà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Võ, còn đọc là “ 武”, dùng uy lực mà làm cho người khác phục, trái với văn.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Ước mong đoàn em của Ngài biết cái lập trường quý báu của mình đứng trong lập trường ấy thế nào đặng vững tinh thần, giữ danh thể, giữ cái oai của mình cho toàn vẹn giá trị mình.

Văn chương bạc tóc biến thêm nhiều,

lực nửa đời võ phải tiêu.

(Đạo Sử).

Văn là thượng sĩ danh thần,

thì bạt tuỵ siêu quần quân trung.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Võ, còn đọc “ 禹”, là tên một vì vua khai sáng nhà Hạ về đời Tam đại bên Trung Hoa.

Như: Hạ vũ, vũ môn tam cấp, vua Vũ trị thuỷ.

Ái vật Thành Thang quên dở ná,

Thương dân Hạ mặc hài gai.

(Bát Nương Giáng Bút).

4.- Võ, còn đọc “ 宇”, là khắp hết cả không gian.

Như: Càn khôn võ trụ.

Trong trụ mình người sanh đứng đợt,

Ai hiểu mình phòng sang bớt gánh đồ thơ.

(Phương Tu Đại Đạo).

5.- Võ, còn đọc “ 宇”, tức là toà nhà, không dùng một mình.

Như: Miếu võ, đình võ, thổ võ.

Từ ái làm nền an thổ ,

Đức ân dụng phép tạo nhơn duyên.

(Thơ Thượng Sanh).

Hồi trống truy hồn nâng thổ ,

Câu kinh cứu khổ dựng tinh thần.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

VÕ BỊ

Hay “Vũ bị”.

(vũ): Trái với văn, tức là dùng sức để bắt người phục, đều gọi là võ. Bị: Phòng giữ, dự trước.

Võ bị, như chữ “Vũ bị 武 備”, là sắp sẵn về quân sự.

Trường võ bị là trường dạy về quân sự để sẵn sàng ra trận chiến đấu. Như: Rèn luyện võ bị.

Lo chọn lấy thanh niên dũng chí,

Gởi sang trường võ bị Nhật hoàng.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

VÕ ĐÀI

Hay “Vũ đài”.

(vũ): Dùng sức bắt người phục. Đài: Bục làm cao để có thể trông từ xa.

Võ đài, như chữ “Vũ đài 武 臺, là cái đài dành để các võ sĩ lên đó đấu nhau để tranh giải hơn thua.

Võ đài, nghĩa bóng dùng để chỉ trường đời, nơi mà con người vào đó tranh đấu hơn thua với nhau.

Trong tôn giáo, Võ đài là nơi thử thách các bậc tu hành, phải tranh thắng để vượt lên địa vị cao thượng.

Võ đài chờ trả rồi oan trái,

Xủ áo phồn hoa lại cảnh Thiên.

(Lục Nương Giáng bút).

Nhập vi cử sởi bao nhiêu mặt,

Đến trước Bát Nương chiếm võ đài.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

VÕ ĐÔNG SƠ THU HÀ

武 東 初 秋 河

Võ Đông Sơ là con của Hoài Quốc Công Võ Tánh và công chúa Ngọc Du. Khi thành Bình Định mất về Tây Sơn, Võ Tánh cùng vợ là công chúa Ngọc Du tự thiêu mình thì lúc đó Võ Đông Sơ hãy còn thơ ấu. Lớn lên, Đông Sơ thông minh, tài kiêm văn võ, đậu thủ khoa cả hai môn văn võ, được vua Gia Long nhận là Tiến sĩ, bổ làm Trung Uý, cho tùng sự với Tổng Trấn Bắc Hà là Quận Công Lê Văn Duyệt.

Võ Đông Sơ đã từng ước hẹn với nàng Bạch Thu Hà, con gái của một vị Binh Bộ Thượng Thơ tại triều. Hai người yêu nhau, chờ ngày nên danh sẽ vầy duyên cá nước, nhưng khi Đông Sơ làm quan thì được lịnh của Quận Công Lê Văn Duyệt phải đi bình hải khấu ở vùng ven biển. Đôi lứa gặp nhau, nàng Thu Hà trao cho chiếc áo hồ cừu để làm tin và cũng để tỏ lòng thiết thạch.

Trong lúc Đông Sơ vượt trùng dương để bình hải khấu, thì Bạch Thu Hà ở nhà bị người anh là Bạch Xuân Phương vì tham tiền ép gả Thu Hà cho một tên công tử ăn chơi là Vương Bích, khiến Thu Hà phải chịu lưu lạc tha phương. Đến khi Võ Đông Sơ dẹp yên giặc biển trở về thì nàng đã ra đi biệt dạng. Sau nhiều nỗi truân chuyên, chết sống đến với Thu Hà, nàng lại được hội ngộ cùng Võ Đông Sơ, song chưa kịp nên duyên cầm sắc thì Đông Sơ lại được lịnh ra biên giới trừ giặc Tàu xâm lăng.

Trong chuyến từ giã nhau lần này của đôi tài tử giai nhân, Võ Đông Sơ đã vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại. Có về chăng là cỗ áo quan của người chiến sĩ ở sa trường. Lòng nàng Bạch Thu Hà đã lịm chết bên bàn hương án, rồi cũng chọn cho số phận mình một sự ra mãi mãi bằng lưỡi dao oan nghiệt.

Trước lòng trung trinh của chàng Võ Đông Sơ và gương tiết liệt của nàng Bạch Thu Hà, Hoàng Đế nhà Nguyễn bèn đứng ra tứ hôn cho hai người và sắc phong Võ Đông Sơ là Võ Hiền Hầu, Bạch Thu Hà là Tiết Liệt Nhứt Phẩm Phu Nhân, rồi sắp đặt việc tang chế và định ngày an táng cho hai người trung trinh và tiết liệt.

Để nêu tấm gương trung liệt, bên trong hành lang Báo Ân Từ có vẽ bức tranh lấy tích “Võ Đông Sơ bình Hải khấu 武 東 初 平 海 寇” nghĩa là Võ Đông Sơ dẹp yên bọn cướp biển.

Võ Đông Sơ trổ tài tranh đấu,

Thừa lịnh trên hải khấu giao chinh.

Trên đường sứ mạng hy sinh,

Thu Hà tuẫn tiết trọn tình hứa duyên.

(Báo Ân Từ).

 

 

VÕ HẦU

Hay “Vũ hầu”.

Võ hầu, hay “Vũ hầu 武 侯”, tức Võ Hương Hầu, là tước phong của Gia Cát Khổng Minh.

Khổng Minh giúp Lưu Bị đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định Ích Châu, Hán Trung,, dựng nước ở đất Thục, cũng với Ngụy và Ngô làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Không Minh giữ chức Thừa tướng. Khi Lưu Bị mất, ông nhận di chiếu giúp tân quân, được phông tước là “Võ Hương hầu”.

Đường thi có câu: Nam nhi vị liễu công danh trái, tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu 男 兒 未 了 功 名 債, 須 聽 人 間 說 武 侯, nghĩa là phận làm trai chưa dứt nợ công danh, nên nghe chốn nhân gian nói về Võ Hầu.

Tri âm chưa tiện làm Chung Tử,

Sự nghiệp càng thêm thẹn Võ Hầu.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

VÕ KIẾT

武 吉

Võ: Họ Võ hay Vũ. Kiết: Tên người dân đốn củi đời vua Văn Vương.

Võ Kiết là người tiều phu, quê ở Tây Kỳ còn mẹ già, nhà nghèo, nhưng rất hiếu thảo. Hằng ngày, ông vào rừng kiếm củi đem tiền về đổi gạo nuôi mẹ.

Một ngày nọ, sau khi gánh củi về, vô tình gánh củi đụng phải một người chết, ông bị bắt giam. Nhờ Khương Thượng bày kế, ông mới thoát chết, vì vậy vua Văn Vương mới biết được Khương Thượng là bậc hiền tài, ngồi câu ở trên sông Vị, nên thỉnh về phong chức.

Non xanh vắng gót anh hùng,

Rõ cơn Võ Kiết lánh vòng Văn Vương.

(Ngụ Đời).

Võ Kiết gánh củi đang về,

Gặp nhau vấn đáp vấn đề sâu xa.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

VÕ LỘ

Hay “Vũ lộ”.

(vũ): Mưa. Lộ: Móc.

Võ lộ, như chữ “Vũ lộ 雨 露”, là hạt mưa, hạt móc, dùng để chỉ ân trạch của người trên ban xuống.

Bạch Cư Dị có câu: Võ lộ thi ân vô hậu bạc, Bồng cao tuỳ phận hữu vinh khô 雨 露 施 恩 無 簿 厚, 蓬 蒿 隨 分 有 榮 枯, nghĩa là ơn mưa móc không nhiều không ít, Cỏ bồng cao tuỳ phận vinh khô.

Văn Tế Đức Cao Thượng Phẩm của Chức sắc Hiệp Thiên Đài có câu: Giọt sương gieo vì trăm họ khát khao, vưng Thánh chỉ rưới ban ân võ lộ.

Xem: Vũ lộ.

Rưới chan võ lộ nhuần nguơn hạ,

Đại Đạo Tam Kỳ thậm chí cao.

(Thơ Cao Liên Tử).

Vườn hạnh đượm nhuần ân võ lộ,

Rừng thiên mát mẻ cội thung huyên.

(Thơ Thái Phong).

 

 

VÕ LỰC

Hay “Vũ lực”.

Võ: Dùng sức mạnh và luyện tập thân thể để thắng kẻ địch. Lực: Sức mạnh.

Võ lực, như chữ “Vũ lực 武 力”, là sức mạnh hoặc nói sức mạnh về binh bị.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Muốn định vận mạng tương lai cho nước Việt Nam, cho nhơn loại, phải có một tinh thần đạo đức cao trọng chớ không phải thâu phục thiên hạ nơi mặt địa cầu nầy bằng võ lực được.

Thế đời càng dữ càng kiêng đức,

Võ lực hùng oai cũng chẳng màng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Văn chương bạc tóc biến thêm nhiều,

Võ lực nửa đời võ phải tiêu.

(Đạo Sử).

Võ lực gây bao tang tóc lại,

Nhuộm màu hoà giải nghiệt oan tiêu.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VÕ MÔN

Hay “Vũ môn”.

(vũ): Vua Võ (vua Vũ). Môn: Cửa.

Võ môn, như chữ “Vũ môn 禹 門”, là cửa Võ, một cái cửa do vua Võ đào để trị thuỷ, nên gọi là Võ môn. Hằng năm vào tháng 7, mưa đổ xuống, cá sắp thành hàng, nhảy lên núi cao. Con nào nhảy được, tức là thi đỗ, được hoá thành rồng. Vì vậy, người ta dùng chữ “Vũ môn” để chỉ việc thi đỗ. Sách Tàu có câu: “Vũ môn tam cấp lãng 禹 門 三 級 浪”, nghĩa là Cửa Vũ có ba bực sóng, dùng để chỉ việc thi cử, tuyển lựa người tài giỏi.

Nước Việt Nam huyện Hương Khê tỉnh Hà Tỉnh và Nghệ An, trên chót núi cũng có một cái hồ ba bực, không khác gì nơi sông Trường giang.

Xem: Long môn.

Khoa võ môn dầu nhào qua khỏi,

Trương vi rồng học hỏi nơi ai.

(Kinh Thế Đạo).

Võ môn mấy lượt đã từng qua,

Nên nghiệp giang san bởi chữ hoà.

(Đạo Sử).

Võ môn định cấp tài hiền ngõ,

Văn miếu huờn hình đức Thánh nhân.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VÕ PHU

1. VÕ PHU

Hay “Vũ phu”.

(vũ): Dùng sức để bắt người phục. Phu: Người đàn ông.

Võ phu, như chữ “Vũ phu 武 夫”, là người đàn ông thô tục, chỉ biết dùng sức mạnh đối với người khác.

Như: Anh ấy là người chồng võ phu.

Nghĩa là làm thế nào trị kẻ võ phu đó với phương pháp đặc sắc hơn định luật của nó...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

2. VÕ PHU

Võ phu, như chữ “Vũ phu 碔 砆”, là một loại đá giống như ngọc. Ở Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu thì viết vũ phu bằng bộ ngọc (玉).

Võ phu theo nghĩa một loại đá giống như ngọc, hay nói cách khác là ngọc giả, tức là một loại đá khi nhìn thì giống như ngọc thật, dùng để chỉ những giới hay bọn người chuyên giả dối, lừa đảo, hay chuyên lường gạt người khác.

Trong đời rất hiếm võ phu,

Lường cân, tráo đấu, dối tu cúng chùa.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VÕ TẮC THIÊN

武 則 天

Võ Tắc Thiên tức Võ Hậu, là vợ của vua Đường Cao Tông, người ở đất Hứa Châu. Trước làm Tài nhân vua Đường Thái Tông, khi Thái Tông mất, Cao Tông lên ngôi, bà được đưa vào cung làm Hoàng hậu.

Vua Cao Tông bị bịnh nên mọi việc trong triều đều do Võ Hậu quyết định cả, đến khi Cao Tông mất, một mình Võ Hậu đứng ra chắp chánh, phế vua Trung Tông, lên ngôi cải hiệu nước là Châu. Võ Hậu tánh người dâm đãng, nhưng có tài, biết dùng người. Về sau trong triều nổi loạn, bọn Trương Giản Chi nhân lúc Võ Hậu bịnh, ép phải nhường ngôi lại cho vua Trung Tông.

Chẳng bao lâu Võ Hậu mất, thuỵ là Tắc Thiên.

Võ Tắc Thiên hoang dâm thái thậm, Tuỳ Dương Ðế lỗi đạo muôn phần...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÕ TRANG

Hay “Vũ trang”.

(vũ): Dùng sức bắt người phục. Trang: Đồ ăn mặc, như cải trang, hành trang.

Võ trang, như chữ “Vũ trang 武 裝” là trang bị vũ khí, phương tiện để chiến đấu, đấu tranh.

Võ trang còn nghĩa là có tính quân sự, phải dùng tới vũ khí để đấu tranh.

Như: Võ trang cho lực lượng tự vệ.

Kế Mỹ võ trang cho kẻ mạnh,

Mưu Nga lòn lỏi giúp dân cùng.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VÕ TRỤ

Hay “Vũ trụ”.

(vũ): Khoảng không gian bốn phương trên dưới. Trụ: Thời gian xưa qua nay.

Võ trụ, như chữ “Vũ trụ 宇 宙”, là nói không gian bốn phương trên dưới, và thời gian xưa nay.

Càn khôn võ trụ là nói khắp cả không gian là trời đất, và khắp cả thời gian là từ xưa tới nay.

Xem: Vũ trụ.

Chuyển nổi Càn khôn xây võ trụ,

Nhẹ nâng nhựt nguyệt chiếu Ðài Vân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nhiều ít có danh trên võ trụ,

Kẻo mà thẹn với mấy bầy trâu.

(Đạo Sử).

Trong võ trụ mình người sanh đứng đợt,

Ai hiểu mình phòng sang bớt gánh đồ thơ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÕ VƯƠNG

武 王

Hay “Vũ vương”.

Võ Vương là con của vua Châu Văn Vương, tên Phát, cuối đời nhà Ân, kế vị cha giữ chức Tây Bá.

Vua Trụ bạo ngược, Võ vương thống lãnh quân chư hầu đông chinh, đánh bại vua Trụ ở Mục Dã, diệt nhà Ân, dựng nghiệp nhà Châu.

Sau khi Trụ vương mất, Võ vương lên ngôi vua, đóng đô ở đất Cảo, trị vì được mười chín năm, đất nước được cường thịnh, thiên hạ được thái bình.

Võ Vương là vị vua nhơn nghĩa, thích làm điều lành, nên người xưa cho rằng: Võ Vương văn thiện ngôn tắc bái 武 王 聞 善 言 則 拜, nghĩa là Vua Võ Vương nhà Châu nghe một lời nói phải thì bái phục.

Xưa Võ Vương nhà Châu nghe một lời nói phải thì bái phục.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VÓC

1.- Vóc là hàng dệt bằng tơ, bóng mịn.

Như: Yếm vóc, gấm vóc, quần hàng áo vóc, một dải giang san gấm vóc.

Một giang sơn gấm vóc như thế nên buộc chúng ta phải hy sinh xương máu, từ cổ chí kim vẫn vậy.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Vóc là thân thể người hay loài vật, xét về mặt to nhỏ, cao thấp. Như: Vóc người ốm thấp, lớn người to vóc, mình vàng vóc ngọc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngày kia nhơn mời ngài đi phó yến, Tào Tháo thấy ngựa cũa Ðức Ngài quá ốm, bèn khiến kẻ tuỳ tùng dắt đến một con ngựa sắc đỏ như than lửa, vóc cao sức lực mạnh mẽ, rồi sai thắng đủ yên lạc mà ban cho Ðức Ngài,...

Vóc Thánh thanh cao treo khó vói,

Khách phàm ao ước ngắm mà chơi.

(Thơ Hoàng Nguyên).

Cơn bịnh nặng bao nhiêu thuốc đắng,

Vóc hình teo dai dẳng bơ phờ.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

VÓC NGỌC

Vóc: Thân người trông bên ngoài. Ngọc: Châu ngọc, chỉ người phụ nữ.

Vóc ngọc là thân mình như châu ngọc, chỉ thân thể ngọc ngà của người con gái.

Như: Vóc ngọc mình ngà.

Vóc ngọc thà gieo dòng nước bích,

Thề vàng chứng có lượng cao xanh.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VỌC

Vọc là vầy, mò, thò tay chân vào mà bốc, quấy, làm những động tác chỉ để chơi, nghịch.

Như: Lũ trẻ ngồi vọc đất, thằng bé không chịu tắm ngồi vọc nước hằng giờ.

Cho hương sắc diễm kiều tàn tạ,

Cho tay phàm vọc đoá mẫu đơn...

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

VOI

Voi là thú rất to sống ở vùng nhiệt đới, mũi dài thành vòi, răng nanh dài thành ngà, da dầy, tai lớn.

Như: Quản tượng cưỡi voi, khoẻ như voi, hai bà Trưng cưỡi voi ra trận.

Rước voi phá mã đào lăng miếu,

Thả rắn xua ong nhiểu điện tà.

(Đạo Sử).

Quân lịnh nghiêm trang hàng ngũ chỉnh,

Ngựa voi rần rộ trót giờ lâu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Hiếu con dầu ví kẻ cày voi,

Không đạo hạnh đừng coi là trọng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VOI CÀY CHIM CẤY

Voi cày: Voi giúp cày ruộng. Chim cấy: Chim phụ cấy lúa.

Voi cày chim cấy nói về sự tích vua Thuấn bị bà mẹ ghẻ xúi cha là Cổ Tẩu, sai Thuấn đi cày ở đất Lịch Sơn, là nơi có nhiều thú dữ.

Vua Thuấn vẫn nghe lời. Lòng hiếu thảo cảm động trời cao, khiến voi ra cày đất, chim ra nhặt cỏ.

Xem: Chim cấy voi cày.

Xưa ruộng Thuấn voi cày chim cấy,

Vì hiếu thân nổi dậy tuổi tên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Voi cày chim cấy xôn xao,

Đường Nghiêu cảm đức bèn trao ngai vàng.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

VOI VÀY MẢ TỔ

Voi vày: Voi vày vò, chà đạp. Mả Tổ: Mồ mả ông bà, tổ tiên.

Voi vày mả tổ là để voi vày bừa mồ mả tổ tiên, ý chỉ kẻ không biết nguồn cội để người ngoài phá hoại miếu đường của tôn tộc.

Nghĩa bóng: Đem ngoại bang về giày xéo đất nước.

Vì các cuộc biến thiên làm cho xiêu mồ lạc mả, chẳng những trong thời kỳ trước mà hiện giờ nầy còn xiêu lạc vì nạn voi vày mả tổ.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VÓI

1.- Vói là với, tức đưa tay ra cho tới một vật ở hơi quá tầm tay của mình mà vịn, mà lấy.

Như: Vói tay hái trái mận.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Biển khổ đã lắm nổi chìm, mà nhành dương liễu chẳng mau vói níu, đoạ trầm luân chưa chịu thoát, mà điều tình tội lại chác thêm, buộc thảm đeo phiền, cũng tự mình tác tệ, chờ ăn năn rất muộn về sau. Khá hiểu lấy.

Tuy không cao mấy mà không vói,

Biết rõ cơ quan ắt biết đời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thầy dặn chừng mô nghe tiếng hạc,

Thì đưa tay vói níu khuôn linh.

(Đạo Sử).

2.- Vói còn là từ biểu thị hướng của hành động, nhằm tới một đối tượng ở khoảng cách hơi quá tầm.

Như: Nhắn vói, kêu vói theo.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thời cuộc biến thiên thể nào không biết mà cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn dầu Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy đã bị thiên hạ lợi dụng quá lẽ, lợi dụng về xương máu, lợi dụng về tài sản cho tới nước, lợi dụng tâm đức hiền lương của họ rồi lại còn kêu vói lên chẳng biết Thánh Thể của Đức Chí Tôn kia họ có mở con mắt Thánh đặng họ thấy hay chăng hay họ đã mù quáng.

Vói nhắn khách Dạ đài có tưởng,

Vậy bóng hình để tướng nơi nao?

(Kinh Thế Đạo).

 

 

VÒI VỌI

Vòi vọi là ở quá tầm nhìn của mắt, như không thấy đâu là cùng.

Vòi vọi còn dùng để chỉ cao lắm.

Như: Đường xa vòi vọi, bầu trời cao vòi vọi, đỉnh núi cao vòi vọi.

Hình Bào lạc cột đồng vòi vọi,

Đốt lửa hồng ánh giọi chói loà.

(Kinh Sám Hối).

Hoá chủng thênh thang so tợ biển,

Thi ân vòi vọi ví bằng non.

(Thơ Thượng Cảnh Thanh).

 

 

VỌI VỌI

Vọi vọi, như chữ “Vòi vọi”, là từ dùng để chỉ sự xa quá tầm nhìn của mắt, như không thấy đâu là tận cùng.

Như: Đường xa vọi vọi (vòi vọi).

Vọi vọi còn có nghĩa là nhiều, sừng sững, chỉ dáng đứng im như bị chôn chặt một chỗ, chắn ngang tầm nhìn.

Như: Cột cờ cao vọi vọi (vòi vọi).

Kìa Thiên cảnh con đường vọi vọi,

Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu.

(Kinh Tận Độ).

 

 

VONG

1.- Vong là mất, chết. Như: Vong quốc, vong nhân, vong hồn, vong gia thất thổ.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Nước có trị loạn, đời có hưng vong, thì Ðạo tất phải có dùn thẳng quanh co, rồi mới đến thẳng rẳng đường ngay mà lập nên thể thống.

Lửa đời chưa mãn ba nhang lụn,

Xác thịt tiêu hao nghiệp cũng vong.

(Đạo Sử).

2.- Vong là quên.

Như: Vong bản, anh ta là kẻ vong tình, người đạo thì không nên vong ân bội nghĩa.

Ngày ngày vọng niệm chớ vong,

Chẳng nên huỷ hoại mới phòng khỏi hoang.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VONG ÂN

忘 恩

Vong: Quên. Ân: Ơn.

Vong ân là quên ơn, tức là nói kẻ thọ ơn người mà không lo đền báo. Như: Vong ân bội nghĩa.

Trong Thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp có dạy: Trái lại, nếu ta vô tình lãnh đạm để cho họ phải chịu mai một thân thể lẫn tâm hồn, thì cái tội của ta vong ân bội nghĩa không cải chối.

Bội nghĩa vong ân khinh đạo đức,

Tham danh trục lợi loạn luân thường.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

VONG HỒN

亡 魂

Vong: Chết, mất. Hồn: Linh hồn.

Vong hồn, đồng nghĩa với chữ “Vong linh 亡 靈”, là linh hồn của người đã chết.

Như: Cúng cầu nguyện vong hồn các Thánh Tử Đạo.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát,

Bố từ bi tế bạt vong hồn.

(Kinh Tận Độ).

Đừng quen tánh tôi loàn con giặc,

Cưu hờn xưa mà khúc mắc mắng vong hồn.

(Phương Tu Đạo Đạo).

Vụ xác chỉ xem trường hữu tướng,

Vong hồn nào nghĩ cõi hư vô.

(Thơ Chánh Đức).

 

 

VONG HỒN TIẾN HOÁ

亡 魂 進 化

Vong hồn: Hồn người chết. Tiến hoá: Biến đổi mà tiến lên cao.

Theo nhân sinh quan của đạo Cao Đài, ở cõi thế gian này, Chí Tôn chiết chơn linh để Đức Phật Mẫu tạo ra tám loại chúng sinh, gọi là bát phẩm chơn hồn: Vật chất hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn. Điều này Thánh giáo có dạy: “Thầy phân tánh Thầy sinh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng, gọi là chúng sanh”.

Do mỗi chơn linh đều có điểm Linh quang của Thượng Đế, gọi là thiên tánh, nên chúng sanh luôn luôn lúc nào cũng có tính hướng thượng hay cầu sự tiến hoá. Từ vật chất hồn là nấc thang cuối cùng trong vạn vật, mà tiến hoá lên đến thảo mộc, thú cầm, rồi nhơn loại. Nhơn hồn còn phải tu nhiều kiếp nữa để đạt được ngôi vị Thiêng Liêng như Thần, Thánh, Tiên, Phật. Cuối cùng còn phải tu nữa để trở về hoà nhập với Thượng Đế. Đây là vòng xây chuyển của các vong hồn tiến hoá.

Vòng xây chuyển vong hồn tiến hoá,

Nương xác thân hiệp ngả Càn khôn.

(Kinh Tận Độ).

 

 

VONG LINH

亡 靈

Vong: Mất. Linh: Linh hồn.

Vong linh là linh hồn của người chết. Vong linh đồng nghĩa với vong hồn, hay linh hồn.

Thánh giáo Đức Quan Âm Bồ Tát có câu: Từ đây, thiện tín khá luôn luôn tụng Di-Lạc Chơn Kinh cho người, phải luôn tụng Cầu siêu và Cầu hồn đặng rửa bớt sự nặng nề cho vong linh.

Độ cho hết các hồn địa giới,

Độ vong linh từ ngoại càn khôn.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Liên quan các cảnh vô hình,

Đặng mà cầu rỗi vong linh siêu phàm.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

VONG NHƯ TỒN

亡 如 存

Vong: Mất, chết. Như Tồn: Như còn nơi đó.

Vong như tồn là mất như còn, ý muốn nói thờ phượng người đã mất như người còn sống tại nơi đó.

Do câu nói của Đức Khổng Tử: Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn 事 死 如 事 生, 事 亡 如 事 存, nghĩa là thờ người chết như khi còn sống, thờ người mất cũng như lúc người còn.

Tử như sanh, vong như tồn, lòng kỉnh thành hữu cảm tắc thông,

Sanh như ký, tử như quy, tâm ngưỡng vọng hữu cầu tắc ứng.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

VONG PHÀM

亡 凡

Vong: Mất, chết. Phàm: Người tầm thường, người không tu hành.

Vong phàm là vong hồn của người phàm tục, tức vong của người chết, khi còn sanh tiền không trọn giữ trai giới của Đạo.

Luật đạo buộc, một tín đồ đã nhập môn cầu đạo rồi phải giữ giới luật và ăn chay 10 ngày trở lên được coi là Đạo hữu, còn ăn chay dưới 10 ngày, khi chết thì được xem như vong phàm.

Vong phàm lạy 4 lạy là tại sao? Là vì hai lạy của phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Ðịa.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VONG PHẾ

亡 廢

Vong: Mất. Phế: Bỏ.

Vong phế là bỏ mất, hay bỏ cho tiêu tan.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đối với nhơn loại kể từ ngày hôm nay tức nhiên từ ngày mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho mãi mãi tới tận thế cái địa ngục dưới kia đã bị tiêu diệt rồi, Thập Điện Diêm Cung đến rước mấy em nó đã vong phế rồi, mấy em không còn sa xuống cửa Địa ngục, mấy em không còn chịu dưới quyền của Thập Điện Diêm Cung, cái đó là hệ trọng hơn hết.

Ghen sợ nỗi nghiệp nhà vong phế,

Ghen sợ mê chẳng kể vợ con.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VONG QUỐC

亡 國

Vong: Mất. Quốc: Nước.

Vong quốc là mất nước. Như: Dân tộc Chiêm thành còn mãi hận vong quốc.

Một đi ngâm khúc hờn vong quốc,

Chốn ấy vùi thân ở hý trường.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

VONG THÂN

忘 身

Vong: Quên. Thân: Thân mình.

Vong thân là quên không nghĩ đến thân mình.

Thành ngữ Việt Hán có câu: “Vị quốc vong thân 為 國 忘 身”, tức vì nước quên mình.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Những danh nhân chí sĩ, vị quốc vong thân ta chỉ được quý danh quý tánh thờ phụng tôn sùng đã đành, còn những vị anh hùng vô danh vị quốc, có lẽ ta phải mang một tội tình cùng họ vì ta không nghĩ đến việc hy sinh công danh và xương máu cao cả của họ.

Xem lịch sử vĩ nhân mấy mặt,

Đại trượng phu trước giặc vong thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VONG XU

Hay “Vong khu”.

Vong: Chết, mất. Xu (hay khu): Thân thể, xác thịt.

Vong xu, như chữ “Vong khu 亡 軀”, là quên thân mình, bỏ cái thân mình.

Thành ngữ Việt Hán có câu “Vị quốc vong khu 為 國 亡 軀” là vì nước bỏ mình.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ngài (Khương Thái Công) nhờ thấy bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nghĩa của nhà Châu vua Văn Vương và Võ Vương dục khai “bổn thiện” nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn, mà dám chịu nhọc nhằn khổ cực giúp đạo đức, khử bạo tàn, thâu cơ nghiệp Thành Thang, cứu dân đen trong nước lửa, tuy đôi bên Thương, Châu khác giá mà đối với lực trung can trí dũng, vị quốc vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô tư trong Thần vị, chỉ ngó mặt công phong tước phẩm.

Vong xu trọn cả một Càn Khôn,

Hết kiếp thịt xương tới kiếp hồn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Khá nên quyết sách vận trù,

Nền Nam có lúc vong xu mãn phần.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

VÒNG

1.- Vòng là vật tạo ra có hình một đường tròn. Như: đôi vòng đeo tai, vòng hoa, vòng minh khí, vòng xích đạo.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Lúc trước thế giới mới chưa có, xung quanh vòng xích đạo (Equateur) lúc bấy giờ là toàn biển cả hoá cồn như vùng sa mạc Sahara ngày nay, nơi dân Atlantéenné tối cổ.

Trên chót Phương Thiên ngang đầu tóc có Thiên nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí, đi giày Vô ưu màu trắng, trên chót để chữ Hương.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2.- Vòng là chỉ phạm vi về mặt giới hạn không thể vượt qua của hoạt động, sự việc nào đó.

Như: Việc xảy ra trong vòng một phút, không thoát được vòng danh lợi, sống ngoài vòng pháp luật.

Thánh giáo Thầy có câu: Khắp trong nhân loại trên mặt địa cầu nầy, phần đông vì kính thờ Tà quái, mà Tà quái vốn chứa sự chết, thì tức nhiên chúng nó ở trong vòng sự chết là phải tiêu diệt, thì bao giờ biết đặng sự hằng sống là gì.

Lánh xa trược chất bụi hồng,

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung.

(Kinh Thế Đạo).

Vào vòng huynh đệ khá thương nhau,

Một đức trổi hơn một phẩm cao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Toan để bút ngăn vòng chồng vợ,

Thì lại e nghịch nợ tiền khiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VÒNG HẮC ÁM

Vòng: Chỉ phạm vi về mặt giới hạn không thể vượt qua của hoạt động, sự việc nào đó. Hắc ám: Đen tối.

Vòng hắc ám là vòng khép kín của những sự đen tối xảy đến, như tinh thần đạo đức sụp đổ, ách nước tai trời xảy đến mọi nơi, chiến tranh tràn lan khắp thế giới.

Như: Cuộc sống của nó bị rơi vào vòng hắc ám.

Từ nay thế giới phải chịu trong vòng hắc ám.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÒNG LÝ KHỔ

Vòng: Chỉ phạm vi về mặt giới hạn không thể vượt qua của hoạt động, sự việc nào đó. Ly khổ: Chia lìa và khổ sở.

Vòng ly khổ là vòng khép kín của những cảnh chia lìa và khổ sở, không vượt thoát được.

Thánh giáo Thầy có dạy: Con có ngày giờ suy nghĩ đã lâu, Thầy cho con xét thêm nữa đặng có đức tánh hoàn toàn, chừng ấy con là ái nữ của Thầy, sẽ dụng làm tay chơn, đem rưới giọt nhành dương để cứu thoát nhơn sanh nơi vòng ly khổ từ đây.

Ðại Ðạo Tam Kỳ hoằng khai tại cõi Nam, đã chiếu theo Thiên thơ, Hội Tam giáo, mà vớt chúng sanh thoát vòng ly khổ...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÒNG MINH KHÍ

Vòng: Vật tạo ra có hình một đường tròn. Minh khí: Màu bạc trắng sáng có các tia tủa rá chung quanh.

Vòng minh khí là vòng tròn bao chung quanh Thiên nhãn Thầy có những tia sáng tủa ra.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy dạy về bộ Đại phục của Phối Sư nữ phái có câu: Phối Sư cũng mặc y như vậy, song không có mão Phương Thiên, áo ba dải, nhưng trước ngực có thêu Thiên nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí, nghe à!

Cái Kim Cô có choàng từ đầu tới gót, đội mão Phương Thiên, trên chót Phương Thiên ngang đầu tóc có Thiên nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí...

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

VÒNG TRẦN

Hay “Vòng trần tục”.

Vòng: Phạm vi bị vây bọc, không thể vượt qua được. Trần (trần tục): Chỉ cõi thế gian.

Vòng trần hay “Vòng trần tục”, là chỉ vòng khép kín của cõi trần tục, không thể vượt thoát ra được.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Ngày giờ thôi thúc mà các con còn dụ dự giữa chừng. Nền Ðạo cao thâm là mấy, chí phàm không thấu lý sâu, nếu các con chẳng ra khỏi vòng trần tục thì các con chẳng là luống công theo Thầy kể đã đầy năm.

Vòng trần chìm nổi từ đây dứt,

Công quả tua bền độ chúng sinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cũng muốn lẫy lừng xây thế cuộc,

Vòng trần ngặt đã bước chân ra.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

VÒNG XÂY CHUYỂN

Vòng: Phạm vi bị vây bọc, không thể vượt qua được. Xây chuyển: Vừa xoay và vừa chuyển.

Vòng xây chuyển, như chữ “Vòng luân chuyển”, tức là vòng luân hồi chuyển kiếp của chúng sanh trong tam đồ lục đạo.

Theo Phật, chúng sanh bị nghiệp lực cuốn hút vào vòng sinh tử, lên xuống không bao giờ ra khỏi các cõi và không bao giờ dừng nghỉ. Nghiệp là động cơ lôi chúng sanh đi trong sáu cảnh giới: Cõi người, Cõi trời, Cõi A tu la, Cõi địa ngục, Cõi ngạ quỷ và Cõi súc sanh. Tuy vậy, người tu hành phải nhờ con đường của vòng xây chuyển để được tiến hoá cho đến khi đạt giải thoát.

Vòng xây chuyển vong hồn tiến hoá,

Nương xác thân hiệp ngả Càn khôn.

(Kinh Tận Độ).

 

 

VÕNG DÙ

Võng: Vật bện bằng sợi, hoặc làm bằng vải, hai đầu treo lên cao, giữa chùng xuống, có thể nằm, ngồi được. Dù: Đồ cầm tay, dùng để che mưa nắng.

Võng dù là chiếc võng và cây dù (cây lọng), là hai vật mà người xưa mỗi khi thi đậu làm quan đều được nằm võng khiên, che dù lọng để vinh quy bái tổ.

Võng dù dùng để chỉ sự làm quan, sang cả.

Quý sang mặc kẻ võng dù riêng,

Phận bạc lo cho hết kiếp khiên.

(Đạo Sử).

Sớm chiều hai buổi công phu,

Lánh xa cuộc sống võng dù đua bơi.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VỌNG BÁI

望 拜

Vọng: Trông xa, mong mỏi, ngưỡng mộ. Bái: Lạy.

Vọng bái ý nói đứng xa hướng về nơi thờ phụng mà lạy, tức là lạy từ xa.

Trước khi khai Đạo, vào ngày 30 tháng 10 năm Ất Sửu (Dl. 15/12/1925), ba vị Đại Thiên Phong là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang cầu Đấng AĂÂ thì Đấng AĂÂ giáng dạy rằng: Ngày mùng 1 tháng 11 nầy (Dl. 16-12-1925), tam vị phải Vọng Thiên Cầu Đạo. Ba vị tắm gội cho tinh khiết, ra quỳ giữa Trời, mỗi vị cầm 9 cây nhang mà vái rằng:“Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, vọng bái Cao Đài Thượng Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà quy chánh.”

Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,

A Di Đà Phật độ chúng dân.

(Kinh Tận Độ).

Lòng thành kỉnh khẩn cầu vọng bái,

Biết các con phận gái chưa an.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

VỌNG CẦU

妄 求

Vọng: Viển vông, càn bậy. Cầu: Xin, mong, tìm.

Vọng cầu là cầu mong việc viển vông. Như: Mua vé số là vọng cầu của hoạnh tài.

Sách Giáo Lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Tri túc là biết đủ, tức cầu cho mình đủ ăn, đủ mặc thì thôi chớ chẳng nên vọng cầu những của phi nghĩa. Nếu chẳng biết đủ thì lòng tham nổi lên mà xúi chúng ta vơ vét của cải về cho mình, để rồi lại cho con cháu mình nữa.

Nhiều bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật cam lòng thủ phận, chẳng dám vọng cầu đem thân vào cảnh đoạ...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VỌNG ĐỘNG

妄 動

Vọng: Viễn vông, càn bậy. Động: Làm, chuyển động, lay động.

Vọng động là tâm bị dao động một cách vô lối, tức là lòng toan tính những điều càn bậy, vô ích.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ví bằng bản tâm để cho mờ ám vọng động bởi sức quyến rũ bên ngoài thì người tu biết bao giờ kiến tánh mà tầm lối giải thoát.

Con khuyên chúng đừng vọng động tà tâm lắm vậy mà phải bị tội với Thiên Ðình nghe.

(Đạo Sử).

 

 

VỌNG NIỆM

1. VỌNG NIỆM

妄 念

Vọng: Viễn vông, càn bậy. Niệm: Nhớ, tưởng nghĩ.

Vọng niệm là tâm niệm hư vọng tức là sự tưởng, nghĩ những điều viễn vông, càn bậy, trái với chánh niệm. Vọng niệm là những ý, tư tưởng, tình cảm phát sinh khí sáu căn tiếp xúc với sáu trần cảnh. Khi một niệm khởi lên, chúng ta biết nó là vọng, không thật, thì không cần đoạn trừ tiêu diệt, chỉ không chạy theo nó, nó liền biến mất, tức thì ngay đó tâm được an định.

Người tu hành muốn thấy chân tâm Phật tánh, trước tiên phải dừng vọng niệm. Vọng niệm đã dừng thì tâm thể lặng lẽ tròn đầy trong sáng hiện tiền.

Phàm phu tưởng lầm vọng niệm là thật nên dung niệm, chạy theo niệm, từ đó mãi chịu trầm luân sanh tử.

Kiến tánh tức là cùng Phật đồng tánh, thấy sáng Đạo nhiệm mầu, các điều vọng niệm thảy điều tiêu tan, sống ở chơn tâm hoàn toàn giải thoát.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

2. VỌNG NIỆM

望 念

Vọng: Trông ngóng, mong mỏi, ngưỡng mộ. Niệm: Nhớ, tưởng nghĩ đến.

Vọng niệm là mong mỏi và tưởng niệm, có nghĩa là trông về hướng các Đấng mà tưởng nghĩ đến công đức.

Ngày ngày vọng niệm chớ vong,

Chẳng nên huỷ hoại mới phòng khỏi hoang.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VỌNG NGUYỆT

望 月

Vọng: Ngày rằm hay trông ngóng. Nguyệt: Trăng.

Vọng nguyệt là trăng đêm rằm, tức là chỉ đêm rằm Âm lịch mỗi tháng.

Vọng nguyệt còn có nghĩa là ngắm trăng.

Đài vọng nguyệt tức là một toà lâu đài để lên đó thưởng trăng.

Lung linh giải ánh trăng ngà,

Đây lầu Vọng nguyệt đây toà Nghinh phong.

(Phù Kiều Hận Sử).

Mở lòng sẵn dựng nghinh phong các,

Mỏi mắt thêm buồn vọng nguyệt lâu.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

VỌNG NGOẠI

望 外

Vọng: Trông, ngóng. Ngoại: Ngoài, nước ngoài.

Vọng ngoại là trông ngóng nước ngoài, ý nói những người chỉ trông chờ ở ngoại quốc, hay người nước ngoài.

Quân vọng ngoại hàm hồ nối giáo,

Bọn xâm lăng ngụy tạo giấy tờ.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

VỌNG NGỮ

妄 語

Vọng: Viễn vông, càn bậy. Ngữ: Lời mói.

Vọng ngữ là lời nói dối, nói láo, nói không đúng sự thật nói hai lời. Như: Răn điều vọng ngữ.

Trong Ngũ giới cấm, điều thứ năm, giải về Vọng ngữ như sau: là cấm xảo trá, láo xược, gạt gẫm người, khoe mình bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng thô tục, chửi rủa người, huỷ báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa.

Bần Đạo đâu vọng ngữ nói chơi,

Dạy vợ chửa tức thời dạy trẻ.

(Phương Tu Đại Đạo).

Vọng ngữ tưởng rằng chuyện nói chơi,

Chẳng dè tội báo dối cùng Trời.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

VỌNG NGƯỠNG

望 仰

Vọng: Trông ngóng, mong mỏi. Ngưỡng: Ngửa mặt trông chờ.

Vọng ngưỡng, như chữ “Ngưỡng vọng 仰 望”, là ngửa mặt trông chờ Ơn Chí Tôn, Phật Mẫu và các Đấng Thiêng liêng chiếu cố.

Bần Đạo khuyên khá hết dạ kỉnh thành mà vọng ngưỡng nơi Ðấng Chí Tôn...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VỌNG NHỰT

Hay “Vọng nhật”.

Vọng: Ngày rằm âm lịch. Nhựt: Ngày.

Vọng nhựt, như chữ “Vọng nhật 望 日”, là ngày rằm âm lịch, tức ngày mười lăm mỗi tháng, trái với sóc nhựt là ngày mùng một mỗi tháng.

Như: Vọng nhựt lương thần.

Kim vì Vọng nhựt lương thần, chánh thị Đức Thái Thượng Lão Quân Thánh Đán.

(Sớ Văn).

 

 

VỌNG PHU

望 夫

Vọng: Trông ngóng, mong mỏi. Phu: Chồng.

Vọng phu là trông chồng.

Núi Vọng phu là hòn núi đá có tượng giống như người đàn bà ôm con đứng trông chồng.

Tương truyền có hai anh em ruột với nhau, lúc nhỏ khi giỡn chơi nhau, người anh vô tình chém nhằm đầu người em gái một nhát dao, sợ quá trốn đi mất tích. Về sau, cả hai lớn lên lầm kết duyên vợ chồng với nhau. Một hôm, người chồng phát hiện vợ mình có vết thẹo nơi đầu, hỏi rõ căn nguyên, mới biết là em ruột mình.

Người chồng cảm thấy tội lỗi, bỏ đi biệt tích. Người vợ không biết gì, cứ bồng con lên đỉnh núi trông chồng. Lâu ngày hai mẹ con đều hoá đá. Người đời bèn gọi tượng đá đó là hòn Vọng phu.

Chẳng nài tuyết lạnh với sương mù,

Mưa nắng dạn dày núi Vọng phu.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

VỌNG TÂM

妄 心

Vọng: Viễn vông, càn bậy. Tâm: Tâm con người.

Vọng tâm, trái với với “Chân tâm”, là tâm hư vọng, tức là cái tâm luôn luôn lo nghĩ, chạy theo ngoại cảnh, ngoại trần, bị các dục vọng chi phối, bị ngoại trần sai xử, điều khiển.

Vọng tâm thúc đẩy con người chạy theo ngũ dục làm cho con người phiền não khổ đau. Chỉ khi nào diệt trừ được vọng tâm thì chơn tâm mới tỏ lộ, mà chơn tâm chính là trí tuệ Bát nhã.

Phật học dạy xoá bỏ vọng tâm thường lôi cuốn con người vào đường tội lỗi.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VỌNG TƯỞNG

妄 想

Vọng: Viễn vông, càn bậy. Tưởng: Ý nghĩ.

Vọng tưởng là nghĩ tưởng những điều sai trái.

Vọng tưởng tức có tri giác sai lầm, nhận thức hư dối. Niệm tưởng dấy lên khởi lăng xăng trong tâm nghĩ thế nầy thế kia. Vì nhận cái suy nghĩ phân biệt đó là tâm của mình, cho nên chúng ta cả ngày cứ sống trong vọng tưởng.

Tu hành là tự mình phải dẹp bỏ tất cả những điên đảo, vọng tưởng, vì đó là bệnh chung của tất cả chúng sanh, muốn ngăn chặn nó trước phải dùng phương pháp thiền. Khi Thiền thấy một vọng tưởng vừa dấy lên, chúng ta nhất quyết không theo đó, thì tự nhiên vọng tưởng ấy sẽ lặng, tự dứt hết.

Tấn hóa tự nhiên đừng vọng tưởng,

Tưởng đều hình bóng đó là sai.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VỌNG THIÊN

望 天

Vọng: Trông xa, mong mỏi, ngưỡng mộ. Thiên: Trời. Vọng Thiên là ngửa trông lên Trời.

Vọng Thiên còn là ngưỡng trông Chí Tôn, Phật Mẫu và các Đấng Thiêng liêng ban ơn cho.

Bàn vọng Thiên là chiếc bàn sắp đặt hoa quả nhang đèn để cầu Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu.

Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn,

Chơn thần khoái lạc lên đàng vọng Thiên.

(Kinh Tận Độ).

 

 

VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO

望 天 求 道

Vọng Thiên: Ngưỡng vọng Đức Chí Tôn. Cầu Đạo: Cầu xin ban cho nền Đại Đạo.

Vọng Thiên cầu đạo là ngưỡng vọng Đức Chí Tôn để cầu xin ban cho nền Đại Đạo để cứu độ toàn chúng sanh.

Theo quyển Đạo Sử Xây Bàn của bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, thì ba Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang phò loan thì có Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng cơ bảo rằng:: Mùng một nầy tam vị Đạo hữu Vọng Thiên Cầu Đạo”. Khi Ba Cửu Thiên thăng rồi ba Ngài thắc mắc họp nhau bàn giải, không biết Vọng Thiên Cầu Đạo là gì và phải làm sao.

Ngày hôm sao, ba Ngài lập đàn cầu hỏi Bà Thất Nương xem cầu Đạo là gì và phải làm sao? Bà Thất Nương trả lời: Không phải phận sự của em, xin hỏi Ông A Ă Â.

Ngày sau nữa, có các Đấng thiêng liêng giáng cơ, ba Ngài hỏi nữa thì các Đấng cũng nói: Không phải là phận sự, yêu cầu ba Ngài hỏi ông A Ă Â.

Đến ngày 30 tháng 10 năm Ất Sửu, Đấng A Ă Â giáng cơ, ba Ngài hỏi thì được dạy như sau: Ngày mùng 1 tháng 11 nầy tam vị phải Vọng Thiên Cầu Đạo, tức là phải tắm gội cho tinh khiết rồi ra quỳ ở ngoài sân, cầm chín cây nhang mà vái rằng: Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang vọng bái Cao Đài Thượng Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà quy chánh.

Đến ngày 01 11 năm Ất Sửu (Dl. 16-12-1925), sáng sớm Ngài Cao Quỳnh Cư đi mượn Đại Ngọc Cơ của ông Phán Tý ở ngang nhà (đường Bourdais).

Sau đó, ba Ngài mới cầm chín cây nhang quỳ trước bàn Vọng Thiên Cầu Đạo ngoài sân nhà của Đức Cao Thượng Phẩm tại địa chỉ số 134 Bourdais thuộc Quận nhất Sài Gòn.

Ba Ngài tịnh tâm quỳ trước sân cỏ để cầu nguyện Đức Thượng Đế ban cho toàn nhơn loại một nền Đại Đạo hầu cứu vớt sanh chúng trong thời Hạ nguơn mạt pháp. Trong khi đó, ngoài đường có kẻ qua người lại dập dìu, lớp thì xe cộ đi chơi, đi coi hát về, nhiều người hiếu kỳ xúm lại coi ba Ngài quỳ cúng vái ngoài sân cỏ.

Ai coi mặc ai, ba Ngài cứ quỳ đó cầu khẩn van vái cho đến tàn hết chín cây nhang mới dứt.

Ngay hôm ấy lại có ông Bồng Dinh, một thi sĩ thời bấy giờ, đến vịn cái bàn, chỗ ba Ngài đương quỳ mà ngâm thi. Thiên hạ đang đi ngoài đường, nghe tiếng ngâm thơ của Bồng Dinh, nên họ xúm lại coi càng đông thêm.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có thuật lại cuộc Vọng Thiên Cầu Đạo vào buổi ấy như sau: Bần Đạo nói đây có Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu là người bạn của Cao Thượng Phẩm, và Bần Đạo buổi ban sơ thấu hiểu điều ấy. Ngài đến với một tình cảm đáo để, một đức tin vững vàng làm sao đâu! Không thể sợ đặng, không còn biết vị kỷ nhục nhã chi hết.

Giữa khoảng đường nơi châu thành Sài Gòn, thiên hạ tấp nập, mà Đức Chí Tôn buộc phải quỳ ngoài đường, dựa bên lề ấy, quỳ đặng cầu nguyện xin đạo cho chúng sanh, tội nghiệp thay! Ngài thử thách cho đến nước, thoảng như mình quỳ đó mà thiên hạ không hiểu mình quỳ làm gì thì cũng ít mắc cỡ chút, mà cũng có thể quì, còn làm mà người ta biết thì nhột nhạt khó chịu lắm, nhưng sợ Đức Chí Tôn, phải ráng mà làm.

Ngoài ra có ông bạn, ai cũng đều biết danh của người là nhà thi sĩ danh tiếng. Bần Đạo dám chắc nội trong Nam Bộ chúng ta đây, chưa có ai bằng, nổi danh thi sĩ đứng đầu hết thảy là người ấy, không biết chứng cớ gì mà người mê thi phú của Đức Chí Tôn quá chừng đỗi, đến nước người thuộc lòng thi phú của Đức Chí Tôn, rồi người hoạ lại với Đức Chí Tôn, người làm như mê man vậy. Bần Đạo thì nhột nhạt, duy có sợ mà vâng mạng lịnh thi hành quyền giáo hoá của Đức Chí Tôn, còn người thi sĩ Bồng Dinh hoạ theo đó mà ngâm. Thiên hạ thấy tấn tuồng dị hợm tụ lại xem đông lắm.

Trước để một cái bàn Vọng Thiên cầu Đạo, ngay chính giữa coi bộ dị hợm lắm, Bần Đạo phải gác hai tay lên bàn cho đỡ mắc cỡ...

Sau khi cúng vái xong rồi, ba Ngài vô nhà lấy Đại Ngọc cơ ra cầu, Đức Cao Đài giáng cơ cho bài thi tứ cú bằng chữ Nho như sau:

Vọng niệm phân thùy sự sự phi,

 

望 念 分 其 事 事 非

Cá lý thiên tâm thường thế nhẫn.

 

個 理 天 心 常 勢 忍

Thiên tâm tu hướng cá trung cầu,

 

天 心 須 向 個 中 求

Quân vấn thiên tâm mạc tri tường.

 

君 問 天 心 莫 知 詳

Ba Ngài không hiểu, nên khi Đức Cao Đài thăng rồi thì ba Ngài thỉnh cái bàn ra cầu Đấng A Ă Â xin giải nghĩa bài thi của Đức Cao Đài.

Đấng A Ă Â giải nghĩa từ chữ bài thi đó như sau:

Cầu ước, phần thửa, việc việc, chẳng phải,

Mỗi, lẽ, trời, lòng, thường, thế, nhịn.

Trời, lòng, tua, ngó theo, mỗi, giữa, khẩn,

Bây, hỏi trời, lòng, chẳng, biết rõ.

Rồi giải nghĩa từng câu như sau:

Việc cầu ước đều chẳng phải,

Mỗi lẽ do lòng Trời, phải đợi lịnh.

Lòng Trời tua ngó theo mỗi việc đều cầu khẩn,

Bây hỏi lương tâm chưa biết rõ sao?

Đấng A Ă Â dạy: - Đấng Cao Đài Thượng Đế muốn nói tam vị chưa đủ đức tin về Ngài nên hỏi gạn lại. Tam vị phải nghĩ cho thấu, rồi Đấng A Ă Â ban cho một bài thi như sau:

Cứ níu theo phan Ðức Thượng Hoàng,

Tự nhiên tu tánh đặng bình an.

Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,

Vịn lấy nhành dương hưởng Ðạo nhàn.

Cho đến ngày Noel, 24 tháng 12 năm 1925, Đức Cao Đài đã hiểu lòng của ba Đệ tử Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Ngài đã giáng cơ cho biết đêm nay

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viế
CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
Giáo đạo Nam phương

Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,

Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.

Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,

Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

Ðêm nay, 24 Décembre, phải vui mầng vì là ngày của Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây (Europe).

Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy.

Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta. (Nhà của M. C...).

Giờ ngày gần đến, đợi lịnh nơi Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.

Tóm lại, ngày “Vọng Thiên Cầu Đạo” là ngày 1 tháng 11 năm Ất Sửu (Dl. 16-12-1925), một ngày lịch sử trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, vì đó là ngày mà ba vị Thiên sứ Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, lập bàn cầu nguyện với Đức Thượng Đế, ban cho nhơn loại một mối Đạo để cứu vớt nhơn sanh trong buổi đời Hạ nguơn mạt pháp nầy.

Mùng một nầy Vọng thiên cầu Đạo,

Cửu Thiên Nương lịnh báo thăng liền.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

Hội yến Bàn đào, đào thưởng thức,

Vọng Thiên cầu Đạo, Đạo hoằng khai.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VỌP BẺ

Vọp bẻ là sự co cơ đột ngột khi vận động, tức có hiện tượng co cứng chân tay và đau bắp thịt, khi làm việc quá sức, hoặc bị lạnh.

Vọp bẻ đồng nghĩa với chữ “Chuột rút”.

Vừa viết tới đây tay vọp bẻ,

Ngòi viết rè khó vẽ nên điều.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỌT

Vọt là cây roi, vật hình que dài, dẻo, bằng nhánh cây, mây, tre, dùng để đánh đòn.

Như: Trị bằng roi vọt, thương cho roi cho vọt ghét cho ngọt cho bùi.

Cậy kẻ dạy con cũng lẽ thường,

Cho roi cho vọt mới là thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

1.- Vô là vào, đi vào, trái với ra. Như: Bỏ tiền vô tủ, vô trường học, vô Nam.

Thánh giáo Chí Tôn có đoạn dạy: Cửa Bạch Ngọc Kinh chẳng phải ai cũng đặng. Mỗi đứa con đều có tên trong Thiên thơ cả, chức phận cũng đã tiền định, chớ chẳng phải tước hàm trần thế dâng cho kẻ lễ nhiều.

Ðừng tưởng mờ hồ hỏi thử,

Phạt không thành tín bắt lên đồng.

(Đạo Sử).

Đất nhà cảnh vật ruộng vườn,

Hình chàng như gắn nẻo đường ra.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Vô là không. Như: Vô duyên, vô nghĩa, vô tình, vô lượng, vô biên, vô cực.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Cầm cả quyền hành lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép công bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy. Ấy cũng là cơ mầu nhiệm cho các con có thế lập công quả.

Hoạ phước môn, chỉ tại người,

Thỉnh mời rồi đổ bởi nơi Trời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tưới hoa chạ bên đường chủ,

Đậy giậu thưa cúc xủ mai xào.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VÔ BIÊN

無 邊

Vô: Không có. Biên: Giới hạn.

Vô biên là không có giới hạn, không cùng tận. Như: Đạo pháp vô biên.

Thánh giáo của Đức Quan Âm dạy: Vì vạn vật do Ðức Từ Bi mà sanh hoá trong cả thế gian. Vậy vạn vật đồng nhứt thể. Tánh háo sanh của Ðức Ðại Từ Bi cũng nhân đó mà vô biên vô giới.

Chạm thanh sử cho dời danh bất hủ,

Gội hồng ân nhờ đạo phước vô biên.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

VÔ CAN

無 干

Vô: Không, chẳng. Can: Can dự, dính líu đến.

Vô can có nghĩa là không liên can đến, không dính líu đến một việc gì.

Như: Mới nghe tưởng vô can, nhưng thực ra nó có quan hệ chặt chẽ.

Vô can quản thúc tại Nhàn Du,

Hoạ bởi ai đưa đến cảnh tù.

(Thơ Thái Bộ Thanh).

 

 

VÔ CAN SÁT MẠNG

無 干 殺 命

Vô can: Không can dự tới, không dính líu tới. Sát mạng: Hay sát mệnh là giết chết mạng sống.

Vô can sát mạng ý muốn nói những loài vật không can dự đến mình, nghĩa là không hại mình, mà mình lại giết hại mạng sống nó thì thật oan uổng cho.

Mỗi sinh vật dù lớn nhỏ đều thọ một điểm Chơn linh của Đức Thượng Đế, đều được Ngài thương yêu đồng đều như nhau, đều được quyền sống ở cõi thế gian như nhau.

Lại nữa, do bản năng sinh tồn mà mọi loài đều ham sống sợ chết. Vì thế, ai sát hại sinh mạng của một loài vật thì sẽ bị ác báo, người nào cứu mạng một sinh vật sẽ được thiện báo.

Bền công kinh sách xem coi,

Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VÔ CĂN

無 根

Vô: Không, chẳng. Căn: Gốc, rể.

Vô căn là không có nguồn gốc.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có dạy: Vậy thì chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong Ðô Ðịa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các Chơn hồn

Rằng xin lỗi hỏi ra cho rõ,

Lời vô căn dậy gió phù ngôn.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

VÔ CÙNG

無 窮

Vô: Không, chẳng. Cùng: Cuối, hết.

Vô cùng là không có chỗ tận cùng, không có giới hạn. Như: Biển rộng vô cùng, thương yêu vô cùng.

Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Cái Chơn thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật là huyền diệu vô cùng, bất tiêu bất diệt. Bậc chơn tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái Chơn thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy.

Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,

Tạo Hoá Thiên sanh biến vô cùng.

(Kinh Tận Độ).

Có ngày hư nát cửa nhà,

Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

VÔ CÙNG VÔ TẬN

無 窮 無 盡

Vô cùng: Không cùng. Vô tận: không hết, không dứt.

Vô cùng vô tận là không có chỗ tận cùng, không có giới hạn. Như: Sự hiểu biết vô cùng vô tận.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu cả mấy em biết nghe theo chơn lý vô cùng vô tận của thiêng liêng hằng sống ấy, bảo trọng được cái cảnh thiệt tướng ấy thì hay hơn là trọng cái sống của thế tình mơ mộng.

Ôi! Xuân tàn xuân đến, cái xuân của người đã sắp lụn hao, mà rồi cái xuân của Trời Ðất nước non cũng chưa chắc là vô cùng vô tận.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ CỰC

無 極

Vô: Không, chẳng. Cực: Cái đầu cùng.

1.- Vô cực là không có chỗ nào cuối cùng, hay chẳng có cái nào ở ngoài đầu cùng.

Như: Xét về cái lý vô cực của Trời đất.

Đạo cao vô cực,

Giáo xiển hư linh.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

2.- Theo Dịch học, Vô Cực là trước Thái Cực, tức là còn trong thời kỳ hỗn độn.

Từ Vô Cực vào trong giới cảnh,

Mới để tâm so sánh Tiên, phàm.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

VÔ CỰC VÔ THƯỢNG

無 極 無 上

Vô cực: Không cùng, không giới hạn. Vô thượng: Cao hơn hết, không gì cao hơn.

Vô cực vô thượng ý nói Đức Thượng Đế là Đấng vô cực vô thượng, không có bậc nào sánh bằng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Khi Kim Bàn sản xuất, bát phẩm chơn hồn đi ra chính mình Đức Phật Mẫu tạo dựng hình ảnh vạn linh, vì cớ cho nên Đức Chí Tôn quyền năng vô đối, Ngài muốn thế nào cho toàn thể bát phẩm chơn hồn tức nhiên toàn thể vạn linh được hưởng một gia tài dành để là: Toàn thiện toàn năng toàn tri của Ngài về tinh thần, về hình thể, Ngài muốn quyền năng con cái của Ngài, tức nhiên vạn linh có đủ quyền năng vô cực vô thượng của Ngài, đặng điều đình Tam thập lục thiên, Tam thiên thế giái, và Tứ đại bộ châu.

Hồng oai hồng từ vô cực vô thượng,

Đại Thánh Đại Nguyện, Đại Tạo Đại Bi.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

VÔ DUYÊN

無 緣

1.- Vô: Không, chẳng. Duyên: Duyên dáng, đẹp đẽ.

Vô duyên là không có duyên, thiếu những gì tế nhị, đáng yêu, làm cho không có gì hấp dẫn.

Như: Mặt vô duyên, kiếp sống vô duyên, vô vị.

Một kiếp sống vô duyên vô vị,

Tuy nghèo mà tâm trí nhàn du.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Vô: Không, chẳng. Duyên: Mối dây ràng buộc vô hình từ kiếp trước, cái bổ trợ cho cái nhân thành cái quả, cái nguyên do.

Vô duyên là không có duyên trời định để có thể có được quan hệ tình duyên gắn bó với nhau.

Như: Anh và chị vô duyên, nên không thể gắn bó cùng nhau được.

Dạy cho chán thân hầu phận thiếp,

Kiếp chia chồng là kiếp vô duyên.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Vô duyên là không có duyên phần, tức không có số tốt, số phận dành cho toàn những chuyện không may.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Người mà biết Ðạo, ấy kẻ hữu phần, còn người chưa thấu đáo nền Ðạo, ấy là kẻ vô duyên.

Tôi nay bạc phước vô duyên,

Không nhà không cửa gạo tiền cũng không.

(Thơ Hộ Pháp).

Hữu phần đến cảnh Bồng Lai,

Vô duyên chẳng khỏi đoạ ngay A tỳ.

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

VÔ DỤNG

無 用

Vô: Không, chẳng. Dụng: Dùng.

Vô dụng là không dùng được vào việc gì cả, không ích lợi cho ai. Như: Các thứ nầy trở thành vô dụng.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Than ôi! Có hình thể xương thịt mà chơn hồn phưởng phất nơi xa, thì cái thân vô dụng ấy trơ trơ như khối đá dựa đường, như khúc cây bên trũng.

Anh là kẻ bất tài vô dụng,

Tôi là người anh dũng tài ba.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VÔ ĐẠO

無 道

Vô: Không, chẳng. Đạo: Đạo đức, tôn giáo.

1.- Vô đạo là chẳng có đạo đức.

Thánh giáo Thầy có dạy: Trong các con, nhiều đứa muốn chư Thần, Thánh hành phạt những tánh bất lương của bọn vô đạo kia đặng làm cho đường đạo vững bền, nền Ðạo mau thành tựu.

Sáu tia lục dục đó mà,

Tích vua vô đạo ấy là Phò Dư.

(Lược Thuật Toà Thánh).

2.- Vô đạo là người không có đạo, tức không có tín ngưỡng tôn giáo.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu nói kẻ kia vô Đạo, người nọ thất Đạo hay là họ chối Đạo. Họ làm sao chối cái sống của họ được?

Hữu đạo, hữu công du tự khả,

Vô công, vô đạo tổng đồ nhiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ ĐỊA NGỤC

無 地 獄

Vô: Không, chẳng. Địa ngục: Nơi đày đoạ linh hồn người có tội ở dưới Âm phủ.

Vô Địa ngục là không có Địa ngục, ý chỉ đóng cửa các Địa ngục trong thời Ân xá kỳ ba.

Vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn khai nền Đại Đạo, đóng các cõi Địa ngục và đại ân xá cho tất cả chúng sanh được giải hết oan nghiệt để tu một kiếp mà có thể trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống đặng. Còn các vong hồn có tội tình thì vào cõi Âm quang, chờ ngày thoát hoá.

Thất Nưong Diêu Trì Cung giải thích về cõi Âm quang như sau: “Âm quang là nơi Thần linh học gọi là Trường đình của chư hồn giải thể hay nhập thể. Đại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là Tịnh Tâm Xá, nghĩa là nơi của chư hồn đến đó đặng tịnh tâm xét mình, coi trong kiếp sanh bao nhiêu phước tội. Vậy thì nơi ấy là nơi xét mình. Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm quang”.

Vô Địa ngục, vô Quỷ quan,

Chí Tôn Đại xá nhứt trường quy nguyên.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

VÔ ĐỐI

無 對

Vô: Không, chẳng. Đối: Sánh nhau, ngang bằng.

Vô đối là không so sanh được, không có gì ngang bằng với đó được.

Trong bài “Vì sao Đức Chí Tôn đến và đến để làm gì?”, Đức Hộ Pháp có nói: Ai đời móc cả cái óc não, cả cái khôn ngoan, cái hay biết ra đặng tìm cái năng lực vô đối tức là nguyên tử lực, rồi còn tò mò kiếm một cái mạnh hơn nguyên tử lực ấy nữa, mấy thứ bom đương nhiên bây giờ nó giết hại nhơn mạng coi như con muỗi, con kiến.

Bần Ðạo tưởng, nếu cả thảy đồng thật hành đúng theo lời thuyết văn mới vừa đọc đây thì mối đạo sẽ lan tràn tốt tươi vô đối.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VÔ GIÁ

無 價

Vô: Không, chẳng có. Giá: Giá trị của một vật.

Vô giá là rất quý giá đến mức không thể định được một giá trị nào cho xứng đáng.

Như: Những bài học kinh nghiệm vô giá.

Thánh giáo Thầy có câu: Nơi trần khổ nầy, dầu cho bậc Chí Thánh cũng khó tránh sự lỗi lầm đặng, nhưng sự ăn năn tự hối là quý báu vô giá.

Tâm trung cẩm đắc phù vô giá,

Khải chiết mai chi hữu diệt trần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chí bửu nhơn sanh vô giá định,

Năng tri giác thế sắc cao ban.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ HẬU KẾ ĐẠI

無 後 繼 代

Vô hậu: Không có người nối dòng. Kế đại: Nối tiếp những đời sau.

Vô hậu kế đại là không có con trai nối dòng cho những đời sau.

Câu trên trích trong câu nói của Mạnh Tử: Bất hiếu hữu tam vô hậu kế đại 不 孝 有 三, 無 後 繼 代, nghĩa là có ba điều bất hiếu, trong đó không con nối dòng.

Trong Tứ Thư Tập Chú, Chu Hy chú giải về điều bất hiếu thứ ba là: Không lấy vợ đẻ con, làm tuyệt nòi giống của cha mẹ, ấy là điều bất hiếu thứ ba.

“Bất hiếu hữu tam vô hậu kế đại” luật thiên nhiên đã định vậy, vì lo nhơn luân tối trọng là thế nào, Qua nói cho mấy em thấu đáo.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VÔ HÌNH

無 形

Vô: Không, chẳng có. Hình: Hình thể.

Vô hình là không có hình thể, không thấy được. Như: Một sức mạnh vô hình.

Thế giới vô hình là thế giới của linh hồn, hay cõi Thiêng Liêng.

Khi giải thích về Chơn thần, Thánh giáo Thầy có đoạn: Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh, Khí, Thần mà luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn không khí. Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh xác phàm như khuôn in rập.

Giao lưu thế giới vô hình,

Thi văn trao đổi cao minh khôn lường.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

Liên quan các cảnh vô hình,

Đặng mà cầu rỗi vong linh siêu phàm.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

VÔ HÌNH VÔ ẢNH

無 形 無 影

Vô hình: Chẳng xác thể. Vô ảnh: Không có hình ảnh.

Vô hình vô ảnh tức không có hình ảnh, có nghĩa là không thể thấy được.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Tìm đựơc mối Ðạo mầu tức là chúng ta đã nắm vào tay một báu vật vô giá. Cái báu vật đó không hề mất được vì nó vô hình vô ảnh và chúng ta có thể chia nó ra làm muôn ngàn phần mà không hề sứt mẻ. Ta lại có bổn phận đem nó trao lại cho tất cả mọi người để.

Nào dè nhiều đứa lại coi thế trọng hơn Thầy, coi Thầy dường như kẻ vô hình vô ảnh.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ HỒN VIẾT TỬ

無 魂 曰 死

Vô hồn: Không có hồn thể. Viết tử: Gọi là chết.

Vô hồn viết tử là nói người, vật không có linh hồn ngự trị thì gọi là chết.

Thân xác con người là xương thịt do tinh cha huyết mẹ tạo ra nơi cõi thế, nhờ thực vật và động vật là những nguồn được sinh ra từ đất nuôi dưỡng, do vậy, người ta xem như là một khối vật chất do đất biến thành hình hài con người.

Khối vật chất nầy sống được là nhờ linh hồn, chính linh hồn làm chủ thể xác. Một khi linh hồn xuất ra khỏi khối vật chất đó thì thể xác sẽ ngưng trệ các cơ quan trong con người, gọi là chết.

Khối vật chất vô hồn viết tử,

Đất biến hình tự thử quy căn.

(Kinh Tận Độ).

 

 

VÔ ÍCH

無 益

Vô: Không, chẳng. Ích: Lợi, thêm.

Vô ích là không có ích lợi gì, không được việc gì. Như: Một việc làm vô ích.

Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngày qua thật đáng tiếc, nhất là khi sức đã mòn, tâm trí đã cằn cỗi mà công nghiệp đối với Ðạo và nhơn sanh vẫn còn là một con số không thì dầu có ân hận bao nhiêu cũng chỉ vô ích mà thôi.

Cần thì mới lập, còn vô ích thì bỏ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ KIẾP

無 劫

Vô: Không, chẳng. Kiếp: Một đời sống của con người ở thế gian.

Vô kiếp là không có kiếp sống ở thế gian.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Vậy thì chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong Ðô Ðịa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các Chơn hồn giải thân định trí.

Nhược nhơn đương sanh, nhược nhơn vị sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn vô kiếp,...

(Di Lạc Chơn Kinh).

 

 

VÔ LAO BẤT PHỤC HỒI

無 勞 不 復 回

Vô lao: Không có công lao. Bất phục hồi: Không thể trở về, ý nói về với ngôi xưa vị cũ.

Vô lao bất phục hồi nghĩa là trong cửa Đạo không có công lao khổ hạnh thì không thể nào trở về ngôi xưa vị cũ cho được.

Vô lao bất phục hồi chơn mạng,

Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ LỐI

Vô: Không, chẳng. Lối: Đường lối, cách thức.

Vô lối là không theo một cái lẽ nào cả, ý chỉ trái lẽ. Như: Sao lại chửi người vô lối như thế.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hiện giờ cùng chung chịu cảnh thanh bần của Đạo, chúng tôi phải tiết kiệm đồng tiền của Đạo hết sức cân phân lợi hại trước khi tiêu phí, vì đó là huyết mạch của nhơn sanh, chúng ta không có quyền phung phí vô lối.

Nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành đạo và Bày biện nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau đây, sẽ trở nên một mối Tả đạo, mà các con đã từng thấy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ LƯƠNG

無 良

Vô: Không. Lương: Hiền lành, lương thiện.

Vô lương là không lương thiện.

Kẻ vô lương là người không có lương tâm. Như: Không nên giao tiếp với kẻ vô lương.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Các con cùng Thầy, vì lòng bác ái, chẳng nài khó nhọc đến truyền Chánh đạo, mặc tình những đứa vô lương, các con cứ một đường đi tới, sự phải quấy sau nầy chúng nó sẽ rõ.

Cũng vì lòng dạ vô lương,

Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.

(Kinh Sám Hối).

Quỷ giận, Thần hờn, Tiên Phật ghét,

Ngũ Lôi tru diệt lũ vô lương.

(Vô Danh Cư Sĩ).

 

 

VÔ LƯỢNG

無 量

Vô: Không, chẳng. Lượng: Lường, đo lường.

Vô lượng là nhiều đến mức không thể đo lường được. Như: Công đức vô lượng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Chí Tôn lập Ðạo cốt yếu là đem tình thương vô lượng chan rưới cho nhân loại, làm cho nhơn loại nhìn nhau cùng một nguồn cội Thiêng Liêng để cùng nhau hoà hợp trong tình huynh đệ Ðại Ðồng hầu tạo hoà bình cho thế giới.

Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép công bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ LƯỢNG ĐỘ NHƠN

Hay “Vô lượng độ nhân”.

Vô lượng: Không lường được. Độ nhơn (nhân): Cứu giúp người đời.

Vô lượng độ nhơn, như chữ “Vô lượng độ nhân 無 量 度 人”, là cứu giúp người đời, nhiều không thể lường được.

Đây là một câu kinh trong Phật Giáo Tâm Kinh, ý xưng tụng Đức Nhiên Đăng Cổ Phật cứu độ nhơn sanh không thể đo lường hết được, công đức thật vô lượng, vô biên, sánh bằng Trời đất.

Đa thi huệ trạch,

Vô lượng độ nhơn.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

VÔ MINH

無 明

Vô minh là không sáng suốt, tức là còn mê muội, tối tăm, không thấy được cái lẽ thật của sự vật, nhận hiểu sai lầm về con người và muôn vật.

Vô minh gây ra lầm lỗi, tạo nên oan nghiệt, phải chịu nhiều phiền não. Vô minh căn bản nhất là nhận lầm ngũ uẩn, mà cho cái Ta là thật (Ngã chấp), chấp tâm vọng tưởng sinh diệt là tâm mình. Đó là nguyên nhân căn bản của khổ đau.

Kinh Viên Giác nói: Chúng sanh chấp thân tứ đại này là thật, tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là thật, đó là vô minh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Chí Tôn đã dạy rằng: Ðường tu nhiều nỗi gay go, trên trường thi công quả, số dự thí quá nhiều mà chấm đậu thật ít, chỉ vì cuộc thử thách nặng nề, người tu sĩ bởi chiều theo vọng tâm tức là vô minh mà không lướt qua khỏi.

Cũng vì lỗi đạo cang thường,

Ngũ luân mất hết theo đường vô minh.

(Thơ Thông Quang).

 

 

VÔ NGÃ

無 我

Vô: Không, chẳng. Ngã: Cái ta, cái bản ngã.

Vô ngã là không vì ta, đừng nghĩ đến cái ta.

Nghĩa theo Phật giáo, vô ngã là không có cái ta, không có một bản ngã tự nó tồn tại; không có một hiện hữu nào có thể tồn tại độc lập như một thực thể đơn nhứt. Không có một bản chất bất diệt, không có một chủ thể tuyệt đối vì mọi sự vật đều do nhân duyên tạo thành sinh khởi và hoại diệt.

Người tu tập phải quán chiếu vô ngã, nghĩa là phải thấy mình và người là một, thực tại không có cái ta riêng biệt. Cái ta là nguồn gốc của vô minh và sinh tử luân hồi.

Giác ngộ lý vô ngã, người tu sẽ không bị phiền não trói buộc, tự tại an lạc trước những cuộc thăng trầm, vinh nhục hay khen chê của người đời.

Đó là chuyển được thất tình lên đến chỗ cao siêu vô ngã vậy.

(Thiên Đạo).

 

 

VÔ NGẰN

Vô: Không, chẳng. Ngằn: Số lượng, mức độ được xác định trong chừng mực.

Vô ngằn là không có số lượng, không có mức độ xác định là bao nhiêu.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ta thấy tuồng đời, các bậc nhơn sanh vô ngằn đẳng cấp, nếu làm thống kê định phẩm giá thì con số vốn vô cùng tận, bao nhiêu người, bao nhiêu tâm lý, khác hẳn cùng nhau, tại sao?

Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ NGẦN

Vô: Không, chẳng. Ngần (Ngằn): Số lượng, mức độ được xác định trong chừng mực.

Vô ngần có nghĩa là cực kỳ, không có gì sanh kịp. Như: Da cô ấy trắng vô ngần, bức tranh đẹp vô ngần.

Mỗi khi nhơn loại tấn triển lên thì Vườn Ngạn Uyển nó sẽ đổi hình đổi tướng một cách đẹp đẽ vô ngần.

(Con Đường Thiêng Liêng).

 

 

VÔ NHÂN

無 仁

Vô: Không. Nhân (nhơn): Lòng thương người.

Vô nhân, như chữ “Bất nhân 不 仁”, là chỉ người không có lòng nhơn. Như: Bọn vô nhân thất đức.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Bên trong tuy có năng lực thiêng liêng nhưng bên ngoài có thất tình lục dục, nếu tâm không có phương gì làm chuẩn đích thì thường hay bị cám dỗ, ngã theo điều tà vạy, tạo ra việc bất đức vô nhân.

Biết đời, hiểu Đạo lòng đoan chánh,

Thiếu đức, vô nhân chúng dể khinh.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

Ân huệ rộng ban người hữu đức,

Chưởng quyền trừng trị kẻ vô nhân.

(Thơ Thông Quang).

 

 

VÔ PHẦN

無 份

Vô: Không. Phần: Số mạng, số phận.

Vô phần là nói người không có số hưởng.

Thánh giáo Thầy dạy: Thảm thay! mà cũng tiếc thay! Gió khuất thuyền đưa, nhạn về rừng cũ. Con đường đạo hạnh đợi buổi khuất dấu, mờ mệt nét rêu phong, mới sửa soạn lần chơn, âu dễ biết vô phần hay hữu phúc.

Ấy là những môn đệ vô phần, đã chẳng giữ nét thanh cao lại mượn thói vạy tà để làm cho bợn nhơ mối Ðạo quý báu của Thầy...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ PHƯỚC

Hay “Vô phúc”.

Vô: Không, chẳng. Phước (phúc): Điều may lớn, điều mang lại những sự tốt lành.

Vô phước, như chữ “Vô phúc 無 福”, là không có hay không được hưởng phúc đức (do ông cha để lại, nên không tử tế hoặc không được may mắn).

Vô phước còn có nghĩa như không may đã xảy ra việc gì đó.

Thánh giáo Thầy có câu: Kẻ vô phước dụng tà tâm làm một món lợi riêng, quên cả điều hành phạt đã kế bên mình, chới với cả muôn triệu giữa dòng, mà chẳng chịu sớm tự hối đặng gỡ lần mối hoạ sau.

Vì thân gái không cùng vô phước,

Mắc tội xưa chẳng được thảnh thơi.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Vô phước chịu trồng bầu ra bí,

Chẳng khác nào mua khỉ làm chồn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÔ PHƯƠNG

無 方

Vô: Không có. Phương: Phương cách, cách thức.

Vô phương là không có cách gì khác. Như: Bệnh của nó vô phương cứu chữa.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Quý vị đã thọ lãnh sứ mạng Thể Thiên Hành hoá thì mỗi việc làm của Quý vị đều có Thánh Thần chứng kiến sự tận trung với Ðạo sẽ đem đến cho quý vị một phần thưởng Thiêng Liêng xứng đáng. Nếu vì một lẽ nào mà quý vị “bán đồ nhi phế” hoặc chịu làm dụng cụ cho kẻ khác phá Ðạo, tức là quý vị sẽ thất thệ và sự thất thệ là một trọng tội vô phương cứu chửa “hoạch tội ư thiên vô khả đảo giã”.

Rúc rắc mưa sa run bất luận,

Lao rao gió thổi rét vô phương.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

VÔ QUẢ

無 果

Vô: Không, chẳng. Quả: Kết quả, trái.

Vô quả là nói người không có quả. Nói khác hơn là người không có gieo nhân, thành thử không có quả báo.

Người vô quả thì không có nghiệp để đền trả.

Ai là khách hữu phần, ai là người vô quả, tánh thiêng liêng đã vì công lý mà ra tay tế độ, vớt kẻ giữa bến trần.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ QUỶ QUAN

無 鬼 關

Vô: Không, chẳng. Quỷ quan: Tức Quỷ môn quan 鬼 門 關, là cái cửa vào cõi Diêm Đình hay Địa ngục.

Vô quỷ quan ý nói không có cõi Địa ngục, cũng không có cõi A tỳ.

Vô Địa ngục, vô Quỷ quan,

Chí Tôn Đại xá nhứt trường quy nguyên.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

VÔ SÁCH

無 策

Vô: Không, chẳng. Sách: Kế hoạch.

Vô sách là không có kế hoạch, ý muốn nói không có cách để giải quyết một công việc gì đó.

Như: Thúc thủ vô sách.

Đó thật là điều khó khăn, nhưng không phải là một sự khó khăn làm cho ta phải thúc thủ vô sách.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VÔ SỰ TIỂU THẦN TIÊN

無 事 小 神 仙

Vô sự: Không có việc gì cả. Tiểu thần tiên: Vị thần tiên nho nhỏ.

Vô sự tiểu thần tiên ý muốn nói người không có việc phiền não, khổ đau, hoặc những nạn tai xảy đến là vị thần tiên nho nhỏ.

Như: Sống trong cõi khổ nầy ai được vô sự là tiểu thần tiên vậy.

Lở làng câu:

Hữu danh nhàn phú quý,

Vô sự tiểu Thần Tiên.

(Thơ Lan Chi).

 

 

VÔ TÂM

無 心

Vô: Không, chẳng. Tâm: Lòng, dạ.

Vô tâm là do vô ý mà làm, hay việc xảy ra thình lình.

Vô tâm còn có nghĩa là không có lương tâm, ý nói lòng dạ bất lương.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy vì thương nhơn loại, muốn cứu hết nên thường thâu thập nhiều đứa vô tâm, cũng muốn cho chúng nó ăn năn chừa lỗi, ngõ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao mong rỗi đặng.

Kẻ vô tâm trở lòng phá nền Ðạo bao nhiêu thì hành phạt sẽ chất đầy bấy nhiêu.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ TẬN

Vô: Không, chẳng. Tận: Hết, dứt.

Vô tận là không bao giờ hết được. Như: Được hưởng nguồn vui vô tận.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ôi! Xuân tàn xuân đến, cái xuân của người đã sắp lụn hao, mà rồi cái xuân của Trời Ðất nước non cũng chưa chắc là vô cùng vô tận.

Từ mẫu xem qua bắt động lòng,

Tình thương vô tận, đứng ngồi, trông.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

VÔ TÌNH

無 情

Vô: Không, chẳng. Tình: Tình cảm.

1.- Vô tình là lãnh đạm, lạt lẽo, không để ý đến, không có chủ định làm.

Như: Vô tình làm hỏng công việc, vô tình mà sai đường lạc nẻo.

Bèn cất tiếng thưa ngay anh hạc,

Tôi vô tình đi lạc không hay.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Vô tình còn có nghĩa là không có tình cảm, không có tình nghĩa, phụ bạc.

Thánh giáo Lý Thái Bạch có câu: Sự ghét lẫn và sự vô tình, nếu đem vào nền Ðạo mà gieo truyền cho nhau, thay vì làm cho sanh linh thương mến dìu dắt nhau, lại làm cho chúng sanh càng hềm thù nhau, rồi rốt cuộc lại thì một trường náo nhiệt phải làm cho tánh mạng của chúng nó vì đó mà phải bỏ liều, đem giọt máu vô tâm nhuộm cả tinh thần, bị đày vào biển khổ đời đời kiếp kiếp đó.

Người vô tình, kẻ bạc tình,

Ba anh chẳng nghĩ nghĩa đồng thinh.

(Thất Nương Giang Bút).

 

 

VÔ TƯ

無 私

Vô: Không. Tư: Riêng tây.

Vô tư là không riêng tây, tức chẳng tư vị một ai. Như: Nguyện giữ lòng dạ vô tư.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Con đường vô tư để tìm cứu khổ cho chúng sanh là con đường đạo đức, ngọn đèn thiêng liêng sẽ chực soi tỏ bước của các con, khác với con đường ấy là đường của Quỷ vương đem lối.

Mặt sắt vô tư đã tiếng đồn,

Khai nên cơ nghiệp định kim môn.

(Đạo Sử).

Khai đường chánh lý độ quần linh,

Pháp luật vô tư chẳng vị tình.

(Thái Đến Thanh).

 

 

VÔ TƯ VÔ VỊ

無 私 無 為

Vô tư: Không riêng tây. Vô vị: Chẳng vị nể.

Vô tư vô vị là không có lòng riêng, cũng như không có vị nể ai mà làm mất lẽ công bằng.

Vô tư vô vị ý muốn nói là người chí công vô tư.

Trách nhiệm trọng hệ hơn hết của Toà Đạo là vô tư vô vị.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

VÔ THẦN

無 神

Vô: Không, chẳng. Thần: Thần Thánh.

Vô thần là không có Thần Thánh, chỉ “Thuyết vô thần” hay “Chủ nghĩa vô thần”, tức là thuyết hay chủ nghĩa không tin Thần Thánh, Thượng Đế hoặc tôn giáo.

Diễn văn Thượng Sanh có câu: Theo trào lưu tiến bộ của văn minh vật chất hiện tại, nhứt là trước hiểm hoạ của lằn sóng vô thần quá khích, con người dù là hạng trí thức dễ bị lôi cuốn vào cảnh bê tha truỵ lạc, hoặc bị đưa đẩy vào vòng lợi danh đen tối, làm tôi tớ cho thế lực kim tiền, bán rẻ lương tâm, không còn kể nhơn nghĩa và lẽ phải nữa.

Duy có theo lối vô thần thì mới chối đạo nhơn luân đặng, nếu không chối đạo nhơn luân, tức không chối đạo gia đình...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VÔ THƯỜNG

無 常

Vô thường là một quan niệm căn bản của Đạo Phật. Vô thường là không thường còn, không thường hằng, tức là tất cả các pháp, mọi sự vật đều không phải là nằm yên bất biến, mà chúng luôn luôn thay đổi, nghĩa là có dòng sanh diệt liên tục. Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật, từ thân tâm cho đến mọi hoàn cảnh.

Kinh Pháp cú nói: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường”. Vô thường đồng nghĩa với chết, là một đặc ngữ dùng riêng trong kinh văn nhà Phật.

Vô thường theo sự tín ngưỡng của Phật giáo trong dân gian còn có nghĩa như quỷ vô thường, một loại quỷ dẫn hồn người chết xuống Diêm Vương.

Nặng lo sự thế vô thường,

Nỗi thương quân tử đôi đường thê nhi.

(Bát Nương Giáng Bút).

Nào hay đâu sự thế vô thường,

Thầy trò chịu âm dương phân lưỡng lộ.

(Văn Tế Đốc Học).

Biết đời bào ảnh gìn thần sắc,

Biết kiếp vô thường giữ khí tinh.

(Cao Tiếp Đạo).

 

 

VÔ ƯU

無 憂

Hay “Cõi Vô ưu”.

Vô: Không, chẳng. Ưu: Lo nghĩ, tức phiền não.

1,- Vô ưu là không lo nghĩ, không phiền não, hay không gây lo buồn cho ai.

Lễ bái thường hành tâm đạo khởi,

Nhân từ tái thế tử vô ưu.

(Bài Thài Thất Nương).

2.- Vô ưu còn dùng để chỉ cõi Thiêng liêng.

Theo Phật, thế gian là cõi phiền não, khổ sở, muốn không bị phiền não, nghĩa là Vô ưu thì phải đến cõi Niết Bàn, hay cõi Cực Lạc Thế Giới.

Vậy “Vô ưu” là chỉ cõi Niết Bàn hay cõi Tây Phương Cực Lạc.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Lằn tang thương gần khởi, đường đạo đức chớ dần dà, công vẹt ngút mây xanh của các con sẽ làm cho sáng sủa bạch minh, cho bước đàng sau nầy do theo dấu ấy mà lần đến cõi vô ưu, để bước khỏi lối nhọc nhằn ban sơ khai dẫn.

Vẹn nhơn đạo, đi lần nẻo chánh,

Đến vô ưu đặng lánh nhơn luân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VÔ VI

無 為

Vô: Không. Vi: Làm.

Vô vi là không làm gì hết.

Đạo “Vô vi” của Đức Lão Tử là Đạo thường, tức là Đạo trường cửu bất biến. Đạo nầy nếu được đem thi hành thì thấy dường như không làm gì cả, nhưng không có cái gì là Đạo không làm, tức là việc làm của Đạo đâu đâu cũng có, nhưng không ai thấy được việc làm ấy, vì vậy mới được gọi là Đạo “vô vi”.

Tỷ dụ: Hằng ngày, mặt Trời hiện lên từ phương đông, ta tưởng dường như không làm gì cả, nhưng trong vạn vật không có vật nào mà không thọ ánh sáng của mặt Trời. Thái dương chiếu rọi tia ấm cho muôn loài mà không biết mình đang giúp muôn loài, thảo mộc lớn lên nhờ ánh mặt Trời mà vẫn không biết mình đã thọ. Đây là “việc làm mà không làm” của Đạo Vô vi. Đạo Đức Kinh có câu: Đạo thường vô vi, nhi vô bất vi 道 常 無 為 而 無 不 為, nghĩa là Đạo thường không làm, nhưng không gì không làm.

Hay có thể nói “Đạo vô vi nhi vi 無 為 而 為”, nghĩa là Trời đất vô vi mà sinh vạn vật, nhật nguyệt vô vi mà vận hành bốn mùa, Thánh nhân vô vi mà cai trị thiên hạ, tất cả thấy đều không làm mà làm, tự nhiên mà như thế.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Lão nên nói rằng, cơ thưởng phạt của Thiên thơ thì lắm điều trái hẳn với trí người tưởng tượng. Có nhiều khi thưởng hữu hình mà làm hình phạt vô vi, mà cũng có khi lấy hình phạt hữu vi mà thưởng thiêng liêng công nghiệp.

Đã không tuân luật hữu hình,

Vô vi trừng trị ai binh đặng nào.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

Vô vi chưa dễ bày chân tướng,

Bất chánh thường hay lộ giả hình.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VÔ VI CƯ THÁI CỰC CHI TIỀN

無 為 居 太 極 之 前

Vô vi cư Thái cực chi tiền là Đạo Vô vi của Đức Thái Thượng Lão Quân có trước Trời đất (Thái cực).

Đạo Vô vi của Lão Tử là Thiên Đạo, là cái tổng nguyên hay cái bản căn mà muôn vật sinh ra. Đạo cũng là đường lối để muôn vật noi theo. là cái tổng quy luật chi phối sự sinh thành, biến hoá của Trời đất và vạn vật.

Theo Nguyễn Hiến Lê, (Đại cương triết học Trung Quốc, nhà xb Cảo Thơm), “Xưa kia, ai cũng nghĩ rằng Trời sinh ra muôn vật, làm chủ cả muôn vật, và cái sinh ra trước hết thảy là Trời. Khổng Tử không chối cải điều đó, Mặc Tử xác tín điều đó, Mạnh Tử, sau này, cũng một phần thừa nhận điều đó. Lão Tử thì khác hẳn, Lão tử không thừa nhận Trời sinh ra trước hết thảy, trong Đạo Đức Kinh có nói: “Có một vật trộn lộn mà thành, sinh ra trước Trời đất...Ta không biết tên nó là gì, nên mới cho nó cái tên riêng là Đạo, gượng gọi nó là Đại” (Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh... Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết Đạo, cưỡng vi chi danh viết Đại 有 物 混 成, 先 天 地 生... 吾 不 知 其 名, 字 之 曰 道, 強 為 之 名 曰 大).

Đạo của Lão Tử là Đạo không hình thể, tức là Đạo Vô vi, mà muôn vật có hình sắc lại do Đạo sinh ra, như vậy về thể, Đạo vốn không, không hình tướng, về mặt dụng, thì Đạo là có, vì là nguồn gốc sinh ra muôn vật. Hay nói khác đi, khi Đạo còn ở trạng thái hư vô, thanh tĩnh thì Đạo là không, khi Đạo đã sinh ra vạn vật thì Đạo là có. Trong Đạo Đức kinh có câu: “Không, là tên cái đầu tiên của Trời đất, có là tên gọi mẹ muôn vật” (Vô danh thiên địa chi thuỷ; hữu danh vạn vật chi mẫu 無 名, 天 地 之 始, 有 名, 萬 物 之 母).

Vô vi cư Thái cực chi tiền,

Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

VÔ VI NHI DỊCH SỬ QUẦN LINH

Vô vi: Không làm gì, nhưng không phải là không hoạt động. Lão Tử trong Đạo Đức Kinh đã nói về Đạo vô vi như sau: Đạo thường vô vi nhi vô bất vi 道 常 無 為 而 無 不 為, nghĩa là Đạo thường không làm gì nhưng không gì là không làm. Nhi dịch sử: Mà sai khiến. Quần linh: Vạn chơn linh, tất cả mọi chơn linh trong bát hồn: kim thạch, thảo mộc, thú cầm, nhơn loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Vô vi nhi dịch sử quần linh 無 為 而 役 使 群 靈 là Trời đất rất huyền diệu, không ai thấy làm gì hết, nhưng trong Càn Khôn Vũ Trụ mọi sanh linh đều do Trời sai khiến và vận hành. Mọi sự việc cũng đều do Thượng Đế an bài.

Sách Mạnh Tử có thuật lại câu chuyện sau: Vạn Chương hỏi Mạnh Tử: “Vua Nghiêu đem thiên hạ cho vua Thuấn, có vậy không?” Mạnh Tử nói: “Không, thiên tử không thể đem thiên hạ cho người khác”. “Vậy thì vua Thuấn có thiên hạ là do ai cho?” Mạnh Tử nói: “Trời cho”. “Trời cho, Trời bảo rõ ư?”. Mạnh Tử đáp: “Không, Trời không nói, Trời chỉ lấy đức hạnh và việc làm của vua Thuấn mà bảo ý thôi”.

Vạn Chương hỏi: “Dĩ hành dữ sự thị chi giả, như chi hà? Mạnh Tử viết:..Tích giả Nghiêu tiến Thuấn ư Thiên, nhi Thiên thụ chi, bộc chi ư dân, nhi dân thụ chi; cố viết: Thiên bất ngôn, dĩ hành dữ sự thị chi nhi dĩ hỹ 萬 彰 問 曰: 以 行 與 事 示 之 者, 如 之 何? 孟 子 曰: 昔 者 堯 薦 舜 於 天, 而 天 受 之, 暴 之 於 民, 而 民 受 之, 故 曰: 天 不 言, 以 行 與 事 示 之 而 已 矣 nghĩa là Trời lấy đức hạnh và việc làm của vua Thuấn mà bảo cho biết, thì như thế nào? Mạnh Tử đáp: Ngày xưa vua Nghiêu tiến cử vua Thuấn lên Trời, thì Trời chấp thuận, đưa vua Thuấn ra tiếp xúc với dân, thì dân chấp nhận; cho nên nói: Trời không nói, chỉ lấy đức hạnh và việc làm của vua Thuấn mà bảo ý cho biết mà thôi vậy.

Thị không thị sắc,

Vô vi nhi dịch sử quần linh.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

VÔ VỊ

1. VÔ VỊ

無 味

Vô: Không, chẳng. Vị: Mùi vị, hứng thú.

Vô vị là không có thú vị, không có ý nghĩa, không hay ho gì cả, hoặc không có mùi vị.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Thánh giáo Thầy có dạy: Trong mấy đứa phò loan cũng có đứa không dè dặt, tưởng cơ bút là việc khinh thường, làm thế nào cũng đặng, rồi lấy đó mà cầu hỏi những điều vô vị, nên cũng có nhiều khi vì đó mà sanh biến trong Ðạo.

Một kiếp sống vô duyên vô vị,

Tuy nghèo mà tâm trí nhàn du.

(Thơ Hộ Pháp).

 

2. VÔ VỊ

無 位

Vô: Không, chẳng. Vị: Ngôi vị, chỗ ngồi.

Vô vị là chỉ người không có ngôi vị, hay tước vị gì. Vô vị còn dùng để chỉ kẻ ở chỗ điền dã.

Xem Thiên tước của Thầy ban dường như một chức vô vị ở cõi trần...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

3. VÔ VỊ

無 謂

Vô: Không, chẳng. Vị: Nói, bảo cho, bảo rằng.

Vô vị là không thể nói rằng, hay không thể cho rằng.

Thí dụ: “Vô vị Đạo dã 無 謂 道 也” nghĩa là không thể gọi là Đạo vậy, hoặc “Vô vị bần 無 謂 貧” là không thể gọi rằng nghèo được.

Ðức tánh tàng thơ vô vị bần,

Lộ hành an bộ Ðạo tuỳ thân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VÔI

Vôi là chất nung ra từ đá vôi, màu trắng, thường dung làm vật liệu xây dựng. Như: Nung vôi, bạc như vôi, vôi ăn trầu, tường quét vôi.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ðền Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là một khối đức tin của toàn con cái của Ðức Chí Tôn đã tượng nên hình vậy.

Nhiều cơn sóng dập gió thêm dồi,

Cái kiếp gì xem bạc quá vôi.

(Đạo Sử).

Đừng than rằng mạng bạc như vôi,

Mua vung chẳng nhắm nồi miệng méo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỘI

Vội là lật đật, hấp tấp, cảm thấy có sự thúc bách về thời gian, phải làm hết sức nhanh cho kịp.

Như: Ăn vội vài bát cơm, Việc cần gấp lắm, phải làm vội mới được.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Vậy, cái thưởng và cái phạt của Lão dùng điều đình Thánh giáo, nhiều khi chư hiền hữu, chư hiền muội không phương thấy lý đặng. Nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm bàn khùng mà mang tội thiêng liêng rất uổng, nghe!

Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ,

Cõi Xích Thiên vội mở ải quan.

(Kinh Tận Độ).

Ðời qua thấm thoát cõi nhơn gian,

Sớm nở hoa kia, chiều vội tàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ân xưa chưa vẹn vội đi đâu,

Thà nhắm mắt xem sự đáo đầu.

(Đạo Sử).

 

 

VỘI VÃ

Vội: Cảm thấy có sự thúc bách về thời gian, phải làm hết sức nhanh mới kịp.

Vội vã là tỏ ra rất vội, hết sức muốn tranh thủ thời gian cho kịp, hoặc không có sự suy nghĩ, cân nhắc. Như: Ăn xong nó vội vã đi liền.

Thánh giáo của Lục Nương Diêu Trì Cung có câu: Em chào mấy anh. Em đương ở Ngự Quan Cung, Bát Nương đến cho hay rằng mấy anh đương ngưỡng nghĩa, nên vội vã đến hầu.

Trai đừng thấy đỗ hoa vội vã,

Thả con ong nút phá nhụy hồng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỘI VÀNG

Vội: Gấp, cảm thấy phải làm sớm hơn bình thường vì không muốn chờ hoặc sợ để chậm.

Vội vàng là tỏ ra vội, muốn tranh thủ thời gian cho kịp, hoặc không kịp có sự suy nghĩ.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có dạy: Cả Diêu Trì Cung đều mừng cho danh thể Hiệp Thiên Đài, nhứt là Phật Mẫu thì hơn hết, nên vội vàng tư mật ý qua Thái Thượng Lão Quân cám ơn người đã đệ ý chí vào Ngọc Hư Cung lúc trước.

Lẽ nhục vinh tính tính bàn bàn,

Em làm phải vội vàng khen hết tiếng.

(Phương Tu Đại Đạo).

Nghĩ chán kiếp phù sinh giả dối,

Hạc vội vàng tìm kế thoát thân.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VỐN

1.- Vốn là tiền gốc, tiền bỏ ra để làm cho có lãi. Như: Một vốn bốn lời, giá vốn, vốn liếng.

Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Công nghiệp nhiều ít ấy, tính lời vốn với Toà thiêng liêng, hoặc ghi tên tuổi vào thanh sử thiên niên, chớ chẳng phải để kể công trình với chúa tể ấy.

Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,

Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.

(Kinh Sám Hối).

Làm lành sau cũng lành vay trả,

Chác dữ âu hay dữ vốn lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Vốn là cái sẵn có hoặc được tích luỹ, cần thiết cho hoạt động có hiệu quả. Như: Vốn kiến thức, vốn từ ngữ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Vì đó, lòng nhân ái là cái vốn vô hình của người hành Ðạo, cái vốn đó rất cần thiết, vì người tu hành mà thiếu cái vốn nhân ái thì cũng như người muốn đi buôn mà trong tay không có sẳn tiền, người muốn làm ruộng mà không có sẳn hạt giống, người muốn đi biển mà không có sẳn ghe...

Cái vốn đạo đức mà quý vị cố gắng góp nhặt và dành dụm, ngày sau sẽ giúp quý vị được mãn nguyện...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

3.- Vốn có nghĩa là vốn từ trước, nguyên trước kia. Như: Anh ấy vốn là nhà thơ, vốn thân nhau từ lúc đi học.

Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai có dạy: Vốn từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành.

Trước vốn thương sau cũng thương,

Một lòng nhơn đức giữ cho thường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tu như cỏ úa gặp mù sương,

Ðạo vốn cây che mát mẻ đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VỐN LIẾNG

Vốn: Tiền gốc, tiền bỏ ra để làm cho có lãi.

Vốn liếng là nói chung về vốn để sinh ra lãi, hoặc sinh ra những cái cần thiết để hoạt động có hiệu quả. Như: Vốn liếng làm ăn, vốn liếng về đạo đức.

Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Ráng lo Đạo buổi nầy để kiếm thêm vốn liếng hầu sau nầy toại hưởng. Đạo có khó mới có hay, Đời có gay mới có thuận.

Chức sắc trong Hội Thánh không tính sổ chung niên để biết lộc vị tấn hay thối, vốn liếng lỗ hay lời...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VỐN LỜI

Vốn: Tiền và tài sản gốc để kinh doanh cho có lãi. Lời: Tiền lãi, tức tiền do vốn sinh ra.

Vốn lời là nguồn vốn và tiền lời do vốn ấy sinh ra.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Nếu không trả vốn lời nhơn loại không định phận được, thì tấn tuồng quỷ vị, Phật Vị bất công kia không phương gì định vị cho các đẳng chơn hồn, mà chính cửa thiêng liêng hằng sống muốn cho có một mực thước, chánh đáng tức nhiên phải xử, phải xử án cuối cùng mới được.

Làm lành sau cũng lành vay trả,

Chác dữ âu hay dữ vốn lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tài hay tom góp một đời,

Cho con chẳng kể vốn lời hơn thua.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

1.- Vơ là lấy hết, nhận hết về mình không kể nên hay không nên, đúng hay sai.

Như: Việc gì cũng vơ lấy cả, vơ quàng vơ xiên.

Ôm nết quàng lo khống khứ,

Cũng như chú dốt đến trường thi.

(Đạo Sử).

2.- Vơ là không đích xác. Như: Bá vơ, vu vơ, vơ vẩn, oán chạ thù vơ, nết chạ lòng vơ.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Các vật sắp bày trên mặt đất nó hư hoại chẳng vững bền mà con người cứ tham chạ, tưởng , cứ bỏ chỗ không mà tìm nơi chỗ có.

Đừng tính kế độc sâu trong dạ,

Mà gổ ganh oán chạ thù .

(Kinh Sám Hối).

Tập cho hiểu trọng lề cưới gả,

Tập cho ghê nết chạ lòng .

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VƠ VẨN

Vơ: Biết có thể không đúng, không có cơ sở gì cả, nhưng vẫn cứ làm. Vẩn: Không có nghĩa lý, tác dụng thiết thực.

Vơ vẩn, như chữ “Vẩn vơ”, là không nhứt định, tức ở trạng thái suy nghĩ, nói năng hay đi lại mà không có ý thức rõ mình muốn gì, nhằm cái gì, tại sao.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta thử thấy một buổi chiều kia trời hầu khuất, vạn vật đìu hiu, giữa không trung một con nhạn lạc nào nó bay vơ vẩn một mình, đời nó chích đôi lìa bạn không có đoàn thể gì cái tâm hồn của ta nó cảm khích thế nào?

Nhẫng vơ vẩn vào ra bến khổ,

Trước mặt xem những chỗ sầu than.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đừng nghe tiếng mối mang vơ vẩn,

Phải trước rõ người cho tận mới ưng tình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VƠ VÉT

Vơ: Quơ, quào lấy, tức lấy hết về mình những thứ rải rác ở nhiều nơi, không kể như thế nào, nên hay không nên. Vét: Lấy cho kỳ hết những gì còn sót lại.

Vơ vét là quơ sạch hết, không để lại tí gì và chẳng sót một thứ nào.

Như: Lòng tham không đáy nên nó vơ vét hết không chừa một thứ gì.

Nếu chẳng biết đủ thì lòng tham nổi lên mà xúi chúng ta vơ vét của cải về cho mình...

(Giáo Lý).

 

 

VỞ

Vở là tập giấy đóng lại để viết chữ, thường có bìa bao ngoài, như tập vở, sách vở, bài vở.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chủ Nghĩa thương đời hoá chúng của Ngài (Khổng Tử), tuy kiếp sanh không được toại, nhưng lý thuyết sách vở của Ngài được lưu truyền cho đời sau mấy ngàn năm hưởng nhờ thì công nghiệp ấy đáng được tôn thờ sùng bái.

Sách vở xưa đặt đọc cho kêu,

Mình lớn tiếng lời nhiều ai cũng sợ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỠ

1.- Vỡ là bể ra, nói vật cứng, giòn rời ra thành từng mảnh do tác động từ bên ngoài, không còn nguyên khối nữa. Như: Vỡ bát, vỡ đê, chuông vỡ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong gia đình, vì lời nói mà có khi cang thường tan vỡ, cốt nhục chia lìa.

Nhà tranh xiêu sập cùng lân ấp,

Tường gạch vỡ tan khắp phố phường.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Thoạt vó câu vừa qua cửa sổ,

Chợt đài thơ úa vỡ hoa tim.

(Thơ Hoàn Nguyên).

2.- Vỡ là lộ ra, bung ra, dùng để chỉ bắt đầu hiểu ra.

Như: Vỡ giọng, bàn cãi mãi mới vỡ lẽ, bây giờ mọi người mới vỡ chuyện.

Có điều mình chẳng suy nghĩ, nhưng suy nghĩ mà không vỡ lẽ thì suy nghĩ mãi.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

3.- Vỡ là mở ra, khai phá.

Như: Ong bay vỡ chợ, vỡ đất hoang, vỡ rừng, vỡ lối đi vào nhà.

Vỡ lối đường xưa ngăn đón khách,

Thương sanh dạy lẫn Ðạo đưa lời.

(Đạo Sử).

 

 

VỠ ĐẦU

Vỡ: Bể, rời ra từng mảnh. Đầu: Phần trên nhứt trong thân thể người ta và các loài vật.

Vỡ đầu là bể đầu, ý chỉ ở tình trạng suy nghĩ rất khó xử, khó giải quyết.

Nhơn tâm gầy khối đều nên mặt,

Tình thế trau nên kiểu vỡ đầu.

(Quyền Giáo Tông Giáng).

 

 

VỠ LÒNG

Vỡ: Bắt đầu hiểu ra. Lòng: Bụng, biểu tượng cho tình cảm, ý chí, tinh thần.

Vỡ lòng chỉ sự bắt đầu học chữ. Như: Lớp vỡ lòng.

Vỡ lòng còn dùng để chỉ phần đầu của một môn học, hay bắt đầu một nghề nào đó.

Như: Âm nhạc vỡ lòng.

Ấy kế hay dạy trẻ vỡ lòng,

Rồi mới dắt vào trong trường học.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỠ LỞ

Vỡ: Câu chuyện không còn giấu được nữa, mà bị lộ ra nhiều người biết tới. Lở: Nứt vỡ và sụt đổ.

Vỡ lở là tung toé tan hoang, ý nói bị lộ ra làm nhiều người biết, không còn có thể giấu giếm được nữa.

Như: Câu chuyện bí mật bị vỡ lở ra hết.

Đừng chụp giựt thành ra hốt mớ,

Rủi một hồi làm vỡ lở đến trăm năm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỢ

Vợ là chỉ người phụ nữ đã kết hôn, trong quan hệ với chồng. Như: Cưới vợ, vợ cả, chồng của vợ công.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Theo thế thường thì giàu đổi bạn sang đổi vợ, con người khi gặp nơi đắc dụng được kẻ biết trọng đãi kính nể mình, ban cho vàng bạc đủ đầy gái tốt hầu hạ sớm khuya, yến tiệc linh đình, tước cao lộc quý thì cho anh em ruột cũng quên được, vợ mình tấm mẳn cũng dứt tình, chúa cũ cũng không màng huống chi là kết nghĩa giao bằng hữu.

Cao chức vợ nhiều ăn lớn đũa,

Thầm lo lự tứ với ưu tam.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Gìn dạ nhớ chồng là chúa vợ,

Ðừng lời phạm thượng thói nghinh ngang.

(Đạo Sử).

 

 

VỢ CON KHÁM NGỤC

Vợ con: Vợ và con. Khám ngục: Nhà tù, nơi giam hãm con người có tội.

Vợ con khám ngục ý nói vợ con như cái nhà giam trói buộc người chồng lại, không để cho tự do.

Vui theo nẻo vạy đường tà,

Vợ con khám ngục cửa nhà xiềng gông.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VỢ CHÂU CÔNG CANH CỮI

Vợ Châu Công tức là vợ của Châu Công Đán, con của vua Văn Vương, em của vua Võ Vương và chú của vua Thành Vương nhà Châu bên nước Trung Hoa.

Châu Công Đán có công giúp cho Võ Vương an trị đất nước và chế ra nghi lễ để dạy dỗ nhơn dân được trật tự, đạo đức. Đến khi vua Thành Vương lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi, Châu Công Đán phải cầm quyền nhiếp chánh.

Vợ Châu Công là một mạng phụ đảm đang, một người vợ hiền thục, không ỷ chồng làm quan tột phẩm, có đời sống giản dị, lo bề canh cữi.

Thường ngày ngoài việc lo lắng và săn sóc cho chồng, bà còn giúp chồng chỉnh sửa áo mão trước khi Châu Công vào chầu vua; lo tháo dải và xếp cất áo mão khi Châu Công triều bái trở về nhà. Với sự chu toàn về nội trợ của bà, khiến cho Châu Công có thời giờ lo cho triều đình và nhơn dân để trọn đạo hiền thần.

Trên hành làng Báo Ân Từ về phía nam phái có khuôn hình lấy tích “Vợ Châu Công canh cữi”.

Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,

Ở thôn quê lam lụ làm ăn.

Chồng thì triều nội cao sang,

Vợ lo canh cữi cơ hàn khổ thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Phẩm mệnh phụ phu nhân trọng đại,

Vợ Châu Công sửa dải mũ chồng.

Trong khi triều kiến bệ rồng,

Ở nhà canh cữi tỏ lòng an vui.

(Báo Ân Từ).

 

 

VỢ CHỒNG

Vợ: Người phụ nữ đã kết hôn trong quan hệ với chồng. Chồng: Người đàn ông phối hợp với người đàn bà.

Vợ chồng là bà vợ, ông chồng, tức chỉ hai người đàn ông và đàn bà kết thành đôi với nhau.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Trừ ra vợ chồng hay là chị em ruột, anh em ruột đặng chuyện vãn nhau nơi Tịnh đàn. Còn kỳ dư, như hai đàng muốn chuyện vãn nhau, phải có hai người chứng, một bên Nam, một bên Nữ.

Đặt ra có họ, có dòng,

Vua, thầy, cha mẹ, vợ chồng, cháu con.

(Giới Tâm Kinh).

Nơi tửu điếm nhà lang khác hẳn,

Vợ chồng thường ít sẵn chiều thương.

(Nư Trung Tùng Phận).

Đạo vợ chồng dạy chớ xem thường,

Hễ kén bạn độ lường nhà đạo đức.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỢ HIỀN TRỌN TRINH

Vợ hiền: Người vợ hiền đức. Trọn trinh: Giữ gìn trọn vẹn lòng trinh tiết.

Vợ hiền trọn trinh tức là người vợ hiền đức phải giữ trọn vẹn lòng trong sạch, ngay thẳng với người chồng.

Trăm năm khá nhớ hương nguyền,

Chồng hay trọn nghĩa, vợ hiền trọn trinh.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

VỢ TẾ CHỒNG

Vợ tế chồng là chồng chết, người vợ quỳ tế trước linh cữu hay bàn linh của chồng.

Theo triết lý Nho giáo, Trời đất có âm dương, con người có vợ chồng. Sách Lễ Ký viết: Cô âm tắc bất sinh, độc dương tắc bất trưởng, cố thiên địa phối dĩ âm dương, nam dĩ nữ vi thất, nữ dĩ nam vi gia, cố nhân sinh ngẫu dĩ phu phụ 孤 陰 則 不 生, 獨 陽 則 不 長, 故 天 地 配 以 陰 陽; 男 以 女 為 室, 女 以 男 為 家, 故 人 生 偶 以 夫 婦, nghĩa là một âm thì không sinh, một dương thì không lớn, cho nên Trời đất phối hợp âm dương; nam dùng nữ lập gia thất, nữ dùng nam tạo gia đình, cho nên nhân sinh sánh đôi bởi vợ chồng.

Đạo Cao Đài lấy Nho Tông chuyển thế, nên con người cũng phải theo Đạo Trời mà sinh hoá, tức trai lớn thì phải lây vợ, gái lớn thì phải lấy chồng. Vợ chồng ăn ở nhau phải yêu thương, hoà hợp nhau, dù là hai người nhưng coi như là một.

Bài Kinh Tụng Khi Chồng Quy Vị có câu:

Niềm ân ái thân hoà làm một,

Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương.

Bộ Dịch Trình truyện viết: Sự tương cảm của muôn vật ở thế gian, không gì bằng nam nữ. Nam nữ tuy là hai cá thể nhưng khi kết hợp nhau, vì tình yêu vì bổn phận trở nên một thân vậy. Sách Ấu Học nói: Nam Nữ hữu tương cảm chi nghĩa; phu phụ vi nhất thể chi thân 男 女 有 相 感 之 義, 夫 婦 為 一 體 之 親, tức là nam nữ có cái nghĩa cảm kích nhau, vợ chồng là tình thân một cá thể.

Ngoài ra việc cư xử giữa vợ chồng với nhau đều được quy định theo một phép tắc hợp với luân thường đạo đức, đó là đạo vợ chồng, nằm trong ngũ luân.

Trong Kinh Thư viết: Vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho Thuấn, bèn gả hai nàng công chúa là Nga Hoàng và Nữ Anh cho, để xem cách tề gia và việc ứng xử của Thuấn. Ông Thuấn lấy ngũ điển ra đối đãi với vợ và mọi người, nên sau được vua Nghiêu chọn và nhường ngôi cho.

Đối với đạo Cao Đài, theo ngũ luân của Nho giáo, coi đạo vợ chồng là nền tảng của gia đình, bổn phận người vợ hoàn toàn gởi thân cho chồng, cho nên đạo vợ chồng phải lấy ơn nghĩa mà sống đời với nhau. Khi chồng chết, người nữ tín đồ phải giữ lòng trinh tiết mà thờ phượng và cúng tế chồng theo đạo nghĩa của người đàn bà.

Thành phục thì phải hành lễ Đức Chí Tôn, cáo Từ Tổ tế điện, đọc ai chúc (Vợ tế chồng, chồng tế vợ hay con tế cha...).

(Quan Hôn Tang Lễ).

 

 

VỢ TÔI CHỒNG CHÚA

Vợ tôi: Vợ là bề tôi, ý nói vợ phải dưới quyền chồng. Chồng chúa: Chồng là vua của vợ.

Quan niệm của người xưa là trọng nam khinh nữ, nên người đàn bà không có quyền hành trong gia đình, người chồng có toàn quyền đối với vợ, và quyết định mọi việc. Quan niệm đó được gọi là “Vợ tôi chồng chúa”.

Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,

Đạo phu thê như đũa nên đôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VƠI

1.- Vơi là không đầy, mà còn thiếu một ít nữa.

Như: Chai rượu còn vơi, bát cơm vơi, nước hồ còn vơi, mua đầy bán vơi.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tỷ như mặt hồ kia đầy nước, mà nếu ta múc nước trong hồ ấy ra thì hồ đầy ấy sẽ vơi một phần.

Nâng bầu nhựt nguyệt lưng vơi,

Dành gương liệt nữ để lời trinh phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Trêu thảm ngậm sầu khi thức ngủ,

Mưa chiều nắng sớm lệ đầy vơi.

(Thơ Huệ Giác).

2.- Vơi là ngoài khơi, chỉ vùng biển ở xa bờ, vị trí nước ở xa đất liền.

Ca dao có câu: Linh đinh thuyền đã ra vơi, Rồi thuyền vô cửa mấy đời gặp nhau.

Chim lồng bao thuở lại non xanh,

Ngóng mắt trông vơi chốn thoát mình.

(Đạo Sử).

3.- Vơi có nghĩa bóng là giảm đi, nhẹ đi, tức bớt dần đi, không còn đầy nữa.

Như: Bồ lúa vơi đi một nửa, lòng thương nhớ chẳng hề vơi, nợ vơi dần.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thanh danh của Ðạo là trọng hơn hết, chúng ta phải nâng cao cái thinh danh tôn quý ấy bằng việc làm thực tế chớ chẳng phải bằng lời nói suông và cái khổ của nhơn sanh càng được vơi bớt phần nào, chủ nghĩa Phước Thiện càng thêm bành trướng thì cái thinh danh của Ðạo càng được cao siêu và càng thêm chói rạng.

Bác ái làm phương vơi nỗi khổ,

Từ bi dụng chước tạo tâm hoà.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

VƠI VƠI

Vơi: Ngoài khơi, chỉ vùng biển ở xa bờ, vị trí nước ở xa đất liền.

Vơi vơi là rộng lớn mênh mông, bao la, bát ngát, không có bờ bến.

Biển trần khổ vơi vơi Trời nước,

Ánh Thái Dương giọi trước phương đông.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Chàng thì biển cả vơi vơi,

Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VỚI

1.- Với là đưa tay lên hoặc thẳng ra để cố níu vật gì. Như: Với tay lên xà nhà, với níu ngọn cây.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Người ta cho Lão Tử có tư tưởng yếm thế tiêu cực, hoặc tư tưởng của Ngài là độc thiện kỳ thân hay cá nhân chủ nghĩa. Nhưng xét ra, người học Ðạo nên tuỳ theo đẳng cấp và trí thức của mình, chọn lọc thuyết nào thuận tiện thi hành cho tâm tánh được nâng cao, tinh thần được cứng rắn. Ngoài ra phương pháp nào quá cao siêu ta chưa với tới được thì để lại cho bậc có quan niệm cao thượng hơn ta thực hành.

Trời Ðất chẳng cao và chẳng thấp,

Cũng như lỡ cổng với sào bơi.

(Đạo Sử).

2.- Với là cùng. Như: Tôi với anh cùng đi, với sự giúp đỡ của mọi người.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có đoạn: Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình. Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con.

Phú quý lớn là giành với giựt,

Lợi danh cao bởi mượn và xin.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Sanh đời nắng lửa với mưa dầu,

Tội là đâu, phước lại là đâu?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VỜI

1.- Vời là xa khơi, quá tầm con mắt, hoặc chỉ vùng nước rộng ngoài xa trên mặt sông hay mặt biển.

Như: Thuyền ra đến giữa vời, chim bay tuyệt vời.

Từ bỏ lần hồi lầm lỗi trước,

Tự nhiên bể khổ lánh xa vời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chiếc bá linh đinh thả giữa vời,

Thôi tìm bến Phạm đậu an nơi.

(Thất Nương Giáng Bút).

Chàng thì biển cả vơi vơi,

Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Vời là mời tới, đòi đến, triệu đến, cầu lấy.

Như: Triều đình sai sứ vời Ngài cho vua tiếp kiến, hoạ phước là do con người vời đến.

Điều hoạ phước không hay tìm tới,

Tại mình vời nên mới theo mình.

(Kinh Sám Hối).

 

 

VỜI VỢI

Vời vợi là từ gợi tả mức độ cao, xa hoặc sâu như không sao có thể tới được.

Như: Thuyền đi xa vời vợi, nàng ra đi để lại niềm thương vời vợi.

Từ dạo chào đời tiếng khổ a,

Biển trần vời vợi chiếc đò qua.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

VỜN

Vờn là lượn qua lại trước vật gì với những động tác như đùa giỡn.

Như: Mèo vờn chuột, cánh bướm ngoài vườn đang vờn những đoá hoa.

Sân ngô giao cánh loan vờn phượng,

Vườn hạnh chung bồn trúc tựa mai.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VỚT

1.- Vớt là lấy vật từ dưới nước lên.

Như: Vớt đứa trẻ bị chết đuối, vớt rong về cho cá ăn, vớt chiếc xuồng chìm, vớt nhân loại thoát khỏi bể khổ.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Đời đã thị chúng như cỏ rác, Đạo nên vớt chúng khỏi bùn lầy, chớ coi chúng như gỗ lăn tròn thì dựng thái bình nơi đâu, mấy bạn?

Thấy vậy thương tình cho kẻ vớt,

Ðem về làm cửa với làm song.

(Đạo Sử).

2.- Vớt, nghĩa bóng là cứu giúp người trong cơn hoạn nạn. Như: Vớt chúng sanh đang khổ nạn, chèo thuyền vớt người thoát khỏi biển khổ.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy vì đức háo sanh, nên chẳng kể bực Chí Tôn cầm quyền thế giới, đến lập Ðại Ðạo Tam Kỳ trong lúc hạ nguơn nầy mà vớt sanh linh khỏi vòng khổ hải.

Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đoạ lạc.

(Kinh Tận Độ).

Tìm Ðạo mà chi khá hỏi mình,

Bến mê mới vững vớt quần sinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,

Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

VU CÁO

誣 告

Vu: Chuyện không mà nói có để hại người. Cáo: Báo cho biết, tố cáo.

Vu cáo là bịa đặt chuyện để buộc tội người nào đó.

Như: Anh ấy bị bạn vu cáo về tội trộm cắp, bác bỏ lời vu cáo của kẻ xấu.

Vì không có căn bản tinh thần đạo đức mà chúng ta không thể chối và chịu thiệt thòi theo lời vu cáo.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VU HỰU

于 佑

Vu Hựu là một thư sinh đời nhà Đường, học rộng, giỏi thi ca. Một hôm đi dạo trên dòng ngự, tình cờ nhặt được một chiếc lá, trong đó có bài thơ do một cung nữ tên là Hàn Thuý Tần thả trôi ra.

Vu Hựu bèn hoạ lại bài thơ đó, rồi viết vào chiếc lá khác, thả cho trôi trở vào, cung nữ họ Hàn cũng nhặt được.

Về sau vua Hy Tông thả hơn ba ngàn cung nữ, trong đó có nàng Hàn Thuý Tần, khi về nhà nàng tình cờ kết duyên với Vu Hựu.

Trong đêm thành hôn hai người trao lá cho nhau xem mới biết nhơn duyên do chiếc lá kia làm mối. Người cung nữ họ Hàn có câu thơ như sau: Phương tri hồng diệp thị lương môi 方 知 紅 葉 是 良 媒, nghĩa là mới biết lá thắm là người mối tốt.

Khéo đề lá thắm thơ Vu Hựu,

Khen chọn vợ hiền gái Mạnh Quang.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VU LAN

盂 蘭

Hay “Vu lan bồn”.

Vu lan hay “Vu lan bồn 盂 蘭 盆”, là phiên âm từ Phạn ngữ “Ullambana”, Hán dịch “Giải đảo huyền 解 倒 懸” nghĩa là cởi trói cho người bị treo ngược, ý muốn nói cứu vớt cho những người đau khổ nặng nề nhứt.

Do điển Mục Kiều Liên, một vị đệ tử của Đức Phật Thích Ca, đã chứng được quả A La Hán, và đã đạt được lục thông. Ông có bà mẹ bị phạm tội nặng, chết đoạ vào Địa ngục, thức ăn vào miệng thì hoá ra lửa, không sao ăn được. Phật mới dạy Mục Liên: Muốn cứu độ cho bà mẹ thì vào đêm rằm tháng bảy mời thầy lập hội Vu lan bồn, vừa tụng kinh vừa bố thí mới có kết quả được. Rồi từ đó về sau, mỗi năm cứ đến rằm tháng bảy âm lịch, các vị Phật tử có hiếu đều thiết lễ Vu lan để đền đáp công ơn sinh dưỡng của cha mẹ.

1.- Vu lan:

Bớt mọi lẽ giựt giành bái phước,

Lấy Vu Lan cho được ấm no.

(Lục Nương Giáng Bút).

2.- Vu Lan Bồn:

Vu Lan Bồn đại lễ Trung nguơn,

Tích Mục Liên vì đạo hiếu ơn.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VU OAN

誣 冤

Vu: Không mà nói có, đặt chuyện để hại người khác. Oan: Ức, khuất, trái lẽ công bằng.

Vu oan là gia tội cho người nào đó, làm cho người ta bị mắc oan. Như: Vu oan giá hoạ.

Nói về Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bà là người điềm tỉnh, bởi thế cho nên Bà đầu kiếp người ta vu oan đủ mọi điều, nhưng tánh đức từ hoà nhẫn nại của Bà vẫn chịu nổi đủ phương diện khổ não và oan khúc, chịu nổi thế tình ấy là một vị Trạng Sư đắc lực và oai quyền nơi cảnh thiêng liêng hằng sống bảo vệ cả nữ phái vậy.

Hiềm thay kẻ lòng toan quấy rối,

Gieo những lời nói dối vu oan.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

VU QUY

于 歸

Vu quy, chỉ người con gái về nhà chống.

Do thiên “Đào yêu 桃 妖” trong Kinh Thi có câu: Đào chi yêu yêu, Chước chước kỳ hoa. Chi tử vu quy, Nghi kỳ thất gia 桃 之 夭 夭, 灼 灼 其 華. 之 子 于 歸, 宜 其 室 家, Dịch vần: Đào tơ mơn mởn xinh tươi, Hoa hồng đơm đặc dưới trời xuân trong. Hôm nay nàng đã theo chồng, Nên bề gia thất ấm nồng thuận vui (Tạ Quang Phát dịch).

Vu quy rày trẻ gác xe hoa,

Thân gái từ nay cảnh lạ nhà.

(Thơ Chơn Tâm).

Phiền người thôn nữ sắp vu quy,

Gặp buổi đao binh biết tính gì?

(Thơ Nguyễn Nga).

 

 

VU SAN

Hay “Vu sơn”.

Vu San, như chữ “Vu sơn 巫 山”, là tên dãy núi ở phía nam huyện Vu Sơn tỉnh Tứ Xuyên, thế núi giống hình chữ “巫” (Vu), nên gọi là Vu Sơn.

Dãy vu Sơn bị sông Trường giang chảy ngăn dãy núi ra làm hai, nên còn có tên là “Vu Giáp”, trên núi có miếu Thần Nữ.

Vu Sơn, do điển vua Sở nằm mộng giao hoan cùng Thần nữ, nên dùng để chỉ trai gái gặp gỡ ân ái với nhau, đồng nghĩa với chữ “Mây mưa”.

Tỉnh giấc Vu san gà óng ỏi,

Muôn trùng tâm sự dửng dừng dưng.

(Thơ Thuần Đức).

Chẳng mơ Thần nữ chốn Vu san,

Tri kỷ, tri âm nghĩa dịu dàng.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

1.- Vú là bộ phận cơ thể ở ngực của người nữ hay ở bụng của thú giống cái, là cơ quan tiết ra sữa để nuôi con.

Như: Con bú vú mẹ, cả vú lấp miệng em.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Loài thú, ta thấy hiển nhiên mới sanh ra tuy mắt còn nhắm híp mà vẫn tìm mẹ để sống, đến cỏ cây hễ sanh ra thì biết trải lá hứng sương tuyết, hấp thụ cái sanh khí mà nuôi sự sống, một vật có điểm linh quang ấy như thế khối linh quang ấy là Cha vậy.

mẹ chưa lìa đám trẻ con,

Ðộ sanh chưa rõ phận vuông tròn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tình chung nào trọng chung đôi ,

Nghĩa hiệp chi hơn hiệp một sàng.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Vú là người đàn bà hay đứa trẻ gái đi ở nuôi con cho chủ trong xã hội cũ.

Như:Vú nuôi, bà vú, mướn vú, đi ở vú cho người.

Phải dặn chừng con đứa chăn,

Chơi vui vẻ nói năng đằm thắm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VŨ BÃO

Vũ: Mưa. Bão: Mưa gió mạnh, cây cối gãy đổ.

Vũ bão là mưa và bão.

Vũ bão còn dùng để ví sự việc diễn ra với khí thế mạnh mẽ và dồn dập trên quy mô lớn.

Như: Miền Trung gặp cơn vũ bão, cuộc tiến quân thế như vũ bão.

Bồ Đề trước điện ngắm xinh tươi,

Vũ bão không nao ngại ý người.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

VŨ ĐÀI

武 臺

(võ): Dùng sức bắt người phục. Đài: Bục làm cao để có thể trông từ xa.

Vũ đài là nơi diễn ra công khai các cuộc tranh tài về võ thuật, tiết mục xiếc.

Vũ đài nghĩa bóng chỉ nơi mà người ta tranh đấu, giành giựt với nhau. Như: Hai vó sĩ giao đấu trên vũ đài, Bắt đầu nó bước lên vũ đài chính trị.

Tinh ba đất Việt trời roi để,

Nghiệp cả càng cao chốn vũ đài.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

VŨ LỘ

雨 露

(võ): Hạt mưa. Lộ: Hạt móc.

Vũ lộ hay Võ lộ, là mưa móc, chỉ ân huệ của vua hay Trời ban xuống như những hạt mưa, hạt móc thấm nhuần cho cây cỏ được xanh tươi.

Như: Chúng sanh mong nhờ ơn vũ lộ.

Xem: Mưa móc.

Cẩm tịch Diêu Cung Tiên vị đắc,

Hạnh phùng vũ lộ sắc Thiên ban.

(Nhị Nương Giáng Bút).

 

 

VŨ TRỤ

宇 宙

(võ): Không gian gồm bốn phương trên dưới. Trụ: Thời gian xưa nay qua lại.

Vũ trụ, hay võ trụ, là khoảng không gian bốn phương trên dưới và thời gian suốt xưa nay. Vũ trụ theo nghĩa hẹp chỉ thế giới của loài người.

Lục Cửu Uyên định nghĩa vũ trụ như sau: Thượng hạ tứ phương viết vũ, Cổ vãng kim lai viết trụ 上 下 四 方 曰 宇, 古 往 今 來 曰 宙, nghĩa là trên dưới bốn phương gọi là vũ, xưa qua nay lại gọi là trụ.

Càn khôn vũ trụ là nói khắp cả không gian là trời đất, và khắp cả thời gian là từ xưa tới nay.

Thánh giáo Thầy có câu: Hay ỷ sức mà chẳng dòm xem thời thế chẳng thâu phục nhân tâm, chẳng biết dùng khiêm từ mà đãi khách, là những nét của các bậc Vương Bá xưa dùng mà phải tan tành vũ trụ đó.

Trong vũ trụ hiệp hào là mạnh,

Phận đồ thơ phải gánh non sông.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VỤ

1.- Vụ là việc, công việc. Như: Sự vụ, nghĩa vụ, công vụ, vụ án hình sự.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Chí tôn có dạy: Mối Ðạo Thầy đưa cho các con phăng đầu hết, thì các con phải biết trách nhậm các con lớn lao, cao thượng là chừng nào! Nếu các con không biết nghĩa vụ của Ðạo thì sao cho xứng đáng?

Phải dạy biết những điều nghĩa vụ,

Gìn tục phong quy củ nước nhà.

(Phương Tu Đại Đạo).

Bảy bạn ai còn nơi cõi thế,

Đông du xin nhắc vụ Ông Lam.

(Thơ Hộ Pháp).

Còn sống đâu quên nhiệm vụ còn,

Bến mê độ khách tạc lòng son.

(Thơ Huệ Giác).

2.- Vụ là chuộng, ham, chuyên chú vào. Như: Vụ danh, vụ lợi, vụ tiếng khen, vụ quyền hành.

Thánh giáo Thầy dạy Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh có đoạn: Thầy giữ Nữ phái lại cũng vì con. Thầy kêu nó không đến, Thầy dạy nó không nghe, muốn phạt cho đáng kiếp mà bụng cũng chẳng đành. Con là chị, Thầy đến lập Tam Kỳ Phổ Ðộ chỉ vụ một chữ Hoà, con liệu đứa nên dùng đẹp lòng con, kêu tên cho Thầy phán đoán.

Mùi chua ngọt bả sang hèn,

Ðời chác một điều vụ tiếng khen.

(Đạo Sử).

Thầy phân chánh lý cho con hiểu,

Kẻ vụ thâu đa chẳng thoát phàm.

(Đạo Sử).

 

 

VỤ LỢI

務 利

Vụ: Chuộng, ham, chuyên chú vào. Lợi: Lợi lộc.

Vụ lợi là chỉ mưu cầu lợi ích riêng cho mình. Như: Người chức sắc nếu làm việc thì không vụ lợi.

Thánh giáo Đức Thượng Phẩm trong Đàn cơ tại Giáo Tông Đường, ngày 4 tháng 7 năm Quý Mão (Dl. 22/8/1963) có câu: Một thời gian sau xa nữa thì Đạo Cao Đài sẽ là một tôn giáo thuần tuý về mặt đạo đức tinh thần và sẽ được gội rửa hết những danh từ: Chánh trị, quân sự, tham quyền, vụ lợi, v.v...

Lo làm để cho chính mình hưởng đó là vụ lợi, tức là bất chánh, việc làm dù thành công cũng không tồn tại được.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VỤ TẤT

務 必

Vụ: Công việc, chuyên sức vào một việc. Tất: Hẳn như vậy, ắt là, nhứt định.

Vụ tất là nhứt thiết, cần phải, chuyên lo vào một việc.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Từ đây có đàn như mấy kỳ rồi đây, Thầy cho phép chẳng vụ tất đến, vì đã thất công mà chẳng bổ ích chi. Các đường nẻo mà các con sẽ đi đến, Thầy đã liệu biện.

Thầy cậy mượn ai không lòng vụ tất,

Mà làm công đoạt phẩm trật mình.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Đau đớn thế nắn ra tượng Phật,

Lánh khổ nên vụ tất cửa không.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VUA

Vua là người đứng đầu một nước trong chế độ quân chủ, thường lên cầm quyền bằng con đường kế vị. Như: Vua nhà Nam, ngôi vua, phép vua thua lệ làng.

Theo triết lý Cao Đài, Đức Thượng Đế làm chủ tể của Càn khôn thế giới, nên được coi là vị vua Trời.

Thánh giáo Thầy có câu: Làm vua, làm thầy, làm công nghệ, làm đạo sĩ, cũng cần phải có cái chí lớn mới mong thành tựu đặng.

Người trung trực lo âu nợ nước,

Hưởng lộc vua tìm chước an bang.

(Kinh Sám Hối).

Trên Điện Ngọc Vua Trời ngự giáng,

Trước đền vàng phán đoán phân minh.

(Xưng Tụng Công Đức).

Kìa là vua, nọ là quan,

Cũng như bọn hát hý tràng bán vui.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VUA CHÚA

Vua: Người đứng đầu nước quân chủ, thường lên cầm quâm quyền bằng con đường kế vị. Chúa: Người có quyền lực cao nhứt trong nước trong thời quân chủ. Như: Vua Lê Chúa Trịnh.

Vua chúa là người đứng đầu một nước, làm vua, làm chúa trong chế độ quân chủ ngày xưa.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Từ bậc vua chúa dĩ chí thứ dân, ai cũng lấy sự học để sửa mình làm gốc. Muốn sửa mình cho ra người có đức hạnh hoàn toàn, trước phải giữ gìn cái tâm cho chính, cái ý cho thành, sau mới cách vật trí tri, nghĩa là tìm hiểu rõ các sự vật và biết đến cho cùng cực của sự biết.

Hoá sanh đã sẵn mực công bình,

Vua chúa phàm dân cũng có sanh.

(Đạo Sử).

Khi dạy răn đòn bọng chớ sân si,

Hình vua chúa có khi còn phải kém.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VUA TRỜI

Vua: Người đứng đầu nước quân chủ, hay chỉ Thượng Đế. Trời: Chỉ cõi Thiên.

Vua Trời, như chữ “Hoàng Thiên 皇 天”, là vị vua trên cõi Thiên đình, theo tôn giáo Cao Đài là Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Trên Điện Ngọc Vua Trời ngự giáng,

Trước đền vàng phán đoán phân minh.

(Xưng Tụng Công Đức).

 

 

VÙA

Vùa là hùa, làm theo, đua theo.

Như: Nó vùa theo mọi người mà làm việc ấy, mọi người đều vùa theo để giúp anh.

Môi cầu chí quyết xua Hiền Thánh,

Lòn lõi vùa sang bụng chẳng đành.

(Đạo Sử).

 

 

VÙA GIÚP

Vùa: Gom lại, tập hợp lại. Giúp: Lấy tiền của hoặc sức lực để giúp cho ai khi thiếu thốn.

Vùa giúp là hợp sức lại để hỗ trợ, hay giúp đỡ.Như: Mọi người vùa giúp anh ta trong cơn hoạn nạn.

Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Chẳng phải nói các kinh điển của người trong đạo làm ra mà thôi, dầu cho người ngoại giáo làm ra đi nữa, nếu có thương phong bại tục thì buộc Hội Thánh phải vùa giúp Chưởng Pháp mà lo trừ diệt cho đặng.

Chước thế thiếu văn vùa giúp võ,

Phàm thân chịu nhọc lúc Tam phân.

(Đạo Sử).

 

 

VÙA SỨC

Vùa: Gom lại, tập hợp lại. Sức: Sự mạnh của thân thể hay cái khả năng của tinh thần, vật chất.

Vùa sức, như chữ “Vùa công”, là giúp công, giúp sức nhau để làm nên công việc.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy dạy về quyền hành của Chưởng Pháp có đoạn: Buộc cả tín đồ phải vùa sức mà hành sự trước mặt luật đời. Thầy khuyên các con ráng xúm nhau vùa giúp chúng nó.

Chánh trực kinh oai loài giả dối,

Công bình vùa sức kẻ chơn thành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VUI

Vui là hớn hở, thoả thích. Như: Vui lòng, vui miệng, vui về sự học, vui đạo, tiệc vui.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ðặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi chớ vội buồn, vì sự mừng vui và buồn tủi thường pha lẫn kế cận nhau.

Vân du thế giới vui mùi đạo,

Mơi viếng Kỳ Sơn tối Cẩm San.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,

Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VUI CƯỜI

Vui: Có tâm trạng thích thú của người đang gặp việc hợp nguyện vọng hoặc điều làm mình hài lòng. Cười: Nhếch môi hoặc miệng biểu lộ sự vui, thích thú.

Vui cười là vui vẻ và cười đùa.

Thánh giáo Thầy có câu: Các con nếu biết đời khổ tâm, biết vày vò tình thế, biết chịu kém sút trong nẻo lợi đường danh, biết thiệt mình mà đặng cho kẻ khác, biết đổ lụy cho kẻ vui cười, biết nhọc nhằn trong kế sinh nhai, biết giữ tâm chí cho thanh bạch, đừng nhơ bợn của chẳng nên dùng, biết động mối thương tâm, thương người hơn kể mình, thì là các con được tắm gội hồn trong mà về cùng Thầy đó.

Lòng lang độc vui cười hớn hở,

Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.

(Kinh Sám Hối).

Buổi bé thơ dầu buổi vui cười,

Đừng quen miệng thốt lời tục tĩu.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VUI CHƠI

Vui: Có tâm trạng hớn hở, thích thú. Chơi: Giải trí.

Vui chơi là hoạt động giải trí một cách thích thú. Như: Vừa làm việc vừa vui chơi giải trí.

Huấn từ của Đức Thượng Sanh trong lễ Bãi trường và Phát thưởng tại Đạo Đức Học Đường, niên khoá 1964-1965 có câu: Thì giờ thật quý báu, mấy cháu chớ bỏ ngày tháng trôi qua, vui chơi trong thói hoang đàng, phế công đèn sách thì sau nầy mấy cháu ăn năn rất muộn.

Ở với con như trẻ đồng thời,

Thường với trẻ vui chơi đặng dạy.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VUI HẠC CẦM

Vui: Có tâm trạng thích thú. Hạc cầm: Cây đàn và con hạc, nói cảnh thanh nhàn.

Vui hạc cầm, do tích Triệu Thanh Hiến, đời Tống, làm quan trấn giữ đất Thục, không vợ, không con, khi đi phó nhậm, ông chỉ đem theo con hạc và cây đàn.

Vui hạc cầm ý nói sống vui vẻ với đàn và hạc, không bận tâm đến cuộc đời.

Túi gió trăng thinh thinh rộng mở,

Vui hạc cầm hay dở thú riêng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VUI HỨNG

Vui: Có tâm trạng thích thú. Hứng: Sự vui thích do cảm hứng mà phát ra, tức có cảm giác thích thú thấy trong mình đang có một sức thôi thúc làm cái gì đó.

Vui hứng, như chữ “Vui thú”, là vui vẻ hứng thú. Như: Đi du lịch ngoạn cảnh lòng thấy vui hứng lắm.

Dòng nước bích tiếng cầm đêm nguyệt,

Vui hứng nhìn nước biếc non xanh.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

VUI LÒNG

Vui: Có tâm trạng thích thú khi gặp việc hài lòng. Lòng: Lòng dạ, chỉ tình cảm, tâm lý.

Vui lòng là vui vẻ trong lòng. Như: Dù có thiệt hại anh ấy cũng vui lòng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Rủi may, may rủi, khá biết có Thầy, có Ðạo, vui lòng thiện niệm, thì sự lo lắng mảy mún chi của con cũng có nơi thiêng liêng biết đến, nghe!

Túng cùng vay mượn của người,

Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.

(Kinh Sám Hối).

Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,

Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VUI MỪNG

Vui: Hớn hở, thoả thích. Mừng: Trong lòng vui sướng hiện ra sắc mặt.

Vui mừng là rất vui vì được như mong muốn.

Như: Vui mừng trước sự thắng lợi của con cái.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy vui mừng, Thầy khen tặng hết thảy bốn muôn môn đệ của Thầy.

Con nói thông cha giả khen um,

Làm như bộ vui mừng con học giỏi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VUI SAY

Vui: Hớn hở, thoả thích. Say: Yêu thích đến mức bị cuốn hút hoàn toàn.

Vui say là ở trạng thái vui đến mức bị cuốn hút hoàn toàn, không tha thiết đến những việc khác.

Như: Mãi vui say mà quên hết công việc.

Khuyên nhủ mãi sao đời không tự hối,

Mảng vui say hụp lội biển mê.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VUI TƯƠI

Vui: Vui vẻ, chỉ hớn hở trong lòng. Tươi: Biểu hiện sự vui vẻ, phấn khởi.

Vui tươi là vui vẻ phấn khởi.

Như: Hiện anh ấy có một cuộc sống vui tươi bên bà mẹ già ở quê.

Trót đã bao năm ở xứ người,

Đem thân đổi lấy phút vui tươi.

(Thài Hộ Pháp).

 

 

VUI THÚ

Vui: Vui vẻ, chỉ hớn hở trong lòng. Thú: Hứng thú, chỉ điều vui thích.

Vui thú là vui vẻ và hứng thú. Như: Đi chơi một mình chẳng vui thú gì.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tựu trung cái tâm lý chung của người đời là sợ đau khổ và sợ cả sự nghĩ đến đau khổ, luôn luôn có thái độ lẩn tránh, che đậy hay muốn quên đi bằng cách ẩn mình trong những vui thú nhất thời. Do đó, người đời ít khi muốn bàn đến đau khổ, vì ai cũng muốn sống trong sự vui tươi và ai cũng mong cầu hạnh phúc.

Nào hơn vui thú đức tài lo,

Sẵn gối sẵn chăn cứ xuống đò.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,

Đem tấm tình để ngụ đài sen.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Kìa những kẻ sơn lâm ẩn trú,

Một chữ nhàn vui thú thanh cao.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VUI VẦY

Vui: Có tâm trạng hớn hở, thích thú. Vầy: Sum họp, đoàn tụ.

Vui vầy là vui vẻ với nhau trong sự sum vầy. Như: Anh em gặp lại vui vầy bên mái ấm gia đình.

Trong Sách Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Gần đây, mới xuất hiện phong trào “Tự do kết hôn” nghĩa là trai gái tự do tác thành, chớ không cần hỏi đến ý kiến mẹ cha. Việc nầy có thể chấp thuận về nguyên tắc; bởi vì chồng vợ phải chung sống trọn đời: Từ tóc xanh đến đầu bạc; cho nên hai người cần có tâm đầu, ý hợp thì mới vui vầy.

Mến bạn còn chờ ngày hội ngộ,

Vui vầy chốn tịch hưởng an khương.

(Đạo Sử).

Hạc trắng bay về hội hướng Tây,

Cùng nhau hạnh hưởng cuộc vui vầy.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

VUI VẺ

Vui: Có tâm trạng thích thú, vì gặp việc hài lòng. Vẻ: Hình dáng, trạng thái bề ngoài.

Vui vẻ là có vẻ ngoài lộ rõ tâm trạng rất vui. Như: Buổi họp mặt bạn bè cũ rất vui vẻ.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy vì đó mà cải dẫn bước đường của các con, não phiền thành vui vẻ, đường gai gốc hoá ra nẻo êm đềm, lo lắng phải ra tươi cười, mỏi mòn thành phấn chấn.

Chẳng phải trăm năm vui vẻ mãi,

Có cơn cũng chịu sự đeo phiền.

(Đạo Sử).

Nhiều bạn hàng làm bảnh nói hơn,

Mình vui vẻ đừng hờn lại trọng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÙI

1.- Vùi là để vật gì xuống dưới lớp đất hay tro, trấu rồi cho lấp kín đi.

Như: Vùi hạt giống bắp xuống đất, củi đang cháy vùi vào dưới tro, sạt lở đất có mấy người bị chôn vùi.

Ðò đưa phút chịu vùi ba tấc,

Tay trắng phủi rồi một tuổi xuân.

(Đạo Sử).

Trong trần ai cũng để cho vùi,

Thân ô trược mình chùi sạch lại.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Vùi dùng để chỉ hành động đè nén hay chèn ép.

Như: Vùi sầu chất thảm, thanh danh anh ấy đã bị chôn vùi, tài năng bị vùi lấp.

Trong Bia Kỷ niệm của Đức Cao thượng Phẩm có đoạn: Ôi! Nhớ tiếng thốt giọng cười khôn vùi mạch thảm nghĩ công lao sự khổ khó lấp cơn sầu.

Sanh chúng ghi tạc dạ ơn sâu, đồng một dạ khắc mấy câu kỷ niệm.

Vùi sầu nay gắng chung vai gánh,

Hưởng phước sau may hiệp bước đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VÙI DẬP

Vùi: Để phía dưới rồi lấy đất cát lấp lại. Dập: Vùi, lấp lại.

Vùi dập là chôn lấp dưới sâu, dùng để chỉ sự đánh đập, hay cư xử tàn.

Như: Vùi hoa dập liễu, thuyền con bị sóng vùi dập.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Con người vì mồi danh bả lợi, vì miếng đỉnh chung, vì cảnh xa hoa phù phiếm mà lắm lúc phải đem thân vùi dập dưới vực thẳm ao tù.

Thơm tho giữ trọn ấy loài sen,

Vùi dập bùn nhơ cũng sạch bèn.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

VÙI LẤP

Vùi: Để phía dưới rối lấy đất cát lấp lại. Lấp: Đổ đất cho đầy lỗ, che cho khuất.

Vùi lấp là chôn vùi và lấp lại.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Là vì cái sáng suốt thiêng liêng ở nơi mình không khêu lên lại làm cho nó lu mờ và bị vùi lấp cho đến chỗ bế tắc.

Xuyên dương trăm bộ đấng nên tài,

Vùi lấp bấy chầy chí khí trai.

(Đạo Sử).

Càng xa càng lánh đạo Trời,

Đem thân vùi lấp vào nơi bụi trần.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

VÙI THÂN

Vùi: Để phía dưới rồi lấy đất cát lấp lại. Thân: Thân thể, thân mình.

Vùi thân là chôn vùi tấm thân, ý nói làm một việc gì đó cho mình hoặc cho người khác mà không quản ngại gì tấm thân. Như: Vùi thân học tập.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Than ôi! Kẻ trí hiếp người ngu, đứa khôn lừa lũ dại, mạnh còn yếu mất, nào để chút tâm ái vật yêu nhơn, miễn mặc đẹp, ăn no, vợ con phu phỉ, quên đường Ðạo-đức, nên chi phải tiều tuỵ tinh thần, con bao nả vùi thân lấp thể.

Có thương chúng ta mới phục vụ cho nhơn sanh, mới vùi thân khổ hạnh để rèn trau đức tính dìu dắt nâng đỡ lẫn nhau.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VUN

Vun là làm dồn lại một chỗ thành đống, hoặc bồi đắp vào gốc cây, ý chỉ làm cho ngày một phát triển.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Hai con đã có lòng vun nền đạo đức, phải khổ tâm thêm nữa mà giữ cho tròn phận sự.

Người phú túc vun nền âm đức,

Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.

(Kinh Sám Hối).

Trau tâm hiệp sức vun nền Thánh,

Dưỡng tánh chờ khi sạch bợn trần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VUN BỒI

Vun: Gom lại, đắp lên cao. Bồi: Phủ thêm.

Vun bồi là bồi đắp thêm cho ngày một tốt đẹp hay phát triển lên.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Biết thương yêu nhau thì nhiệm vụ của mỗi người được thực thi dễ dàng, vì trên thương dưới, dưới kỉnh trên, nếu có lỗi thì thành thật chỉ bảo cho nhau, đỡ nâng nhau như tình thủ túc, xúm nhau vun bồi nghiệp cả thì tưởng lại cái hạnh phúc của người tu trong cửa Ðại Ðạo không còn hạnh phúc nào sánh kịp.

Góp sức vun bồi nền đạo đức,

Ra công nâng đỡ bạn tu hành.

(Thơ Thượng Sanh).

Vun bồi nền Thánh nâng hồn trẻ,

Tô điểm rừng Nho khích hậu đàn.

(Thơ Thân Dân).

Vàng son tô điểm màu song hỷ,

Tài sắt vun bồi chữ bách niên.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

VUN ĐẮP

Vun: Gom lại, đắp lên cao. Đắp: Vun đất lên đắp.

Vun đắp là bồi đắp, làm cho ngày càng thêm phát triển, bền chắc.

Như: Vun đắp tình hữu nghị giữa hai quốc gia.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Từ đây Thầy đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Đạo. Vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng theo Thánh ý của Thầy, là bậc Chí Tôn đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh chúng.

Đạo Nhơn vun đắp nền nhân chính,

Phước Thiện gieo trồng giống thiện lương.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VUN QUÉN

Vun: Gom lại, đắp lên cao. Quén: Vén, dồn cho gọn lại, tập trung vào một chỗ.

Vun quén là giữ gìn chăm sóc. Như: Vun quén tài năng, vun quén cây cảnh.

Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Một đứa vun quén, mười đứa cản ngăn, lớn nhỏ chẳng phân minh, xem Thiên tước của Thầy ban dường như một chức vô vị ở cõi trần, lấy thế lớn lực to mà ép đè hạnh nhiều đứa.

Sửa cơ Tạo ra sang mới vẹn,

Lấy từ bi vun quén cây nhơn.

(Bát Nương Giáng Bút).

Đừng ghét già hay chọn kén,

Ấy là phương vun quén nên nhà.

(Phương Tu Đại Đạo).

Ruộng cày sáu mẫu lo vun quén,

Nhà ở bảy căn rán vẹn gìn.

(Cao Thượng Phẩm).

Hiệp sức đã cùng thệ nhứt tâm,

Đạo mầu vun quén há sai lầm.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

VUN TRỒNG

Vun: Gom lại, đắp lên cao. Trồng: Đặt cây xuống đất cho mọc rễ.

Vun trồng là vun và trồng trọt, tức chỉ sự gìn giữ cho tốt đẹp hơn.

Vun trồng cội phúc là chăm lo và tạo lập điều phúc đức. Vun trồng cội Đạo là gìn giữ và phát triển gốc Đạo (nền Đạo) cho vững bền tốt đẹp hơn.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có đoạn dạy: Ðấng Chí Tôn đã gieo giống quý hoá rồi, thì cần phải vun trồng cho cội sởn sơ. Cội sởn sơ mới có đâm chồi trổ tược, nhành lá sum sê, hoa đơm sắc sảo, rồi mới đến trái oằn sai mà thành kết quả xứng đáng.

Có hiệp đem đường nẻo mới thông,

Phân chia cội Ðạo uổng vun trồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,

Giong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VUN VÚT

Vút là nhanh, lẹ.

Vun vút là một từ láy, dùng để chỉ di chuyển rất nhanh, thẳng một đường và như mất hút tức thì.

Như: Đạn bay vun vút, lao vun vút như tên bắn, tiếng sáo vun vút tận trời cao.

Đôi chim vun vút trời xanh,

Cùng nhau liền cánh, liền cành líu lo.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

VÙN VỤT

Vùn vụt là từ gợi tả tốc độ di chuyển hoặc tăng tiến rất nhanh, đến mức như không kịp nhận biết được.

Như: Chiếc xe vùn vụt lao xuống đèo, thời gian trôi qua vùn vụt hết năm nầy tới năm khác.

Vùn vụt tiếng roi quơ nhấp nhoáng,

Mờ mờ cảnh vật thụt thùi lui.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

VỤN VẰN

Vụn: Nhỏ nhặt, rời rạc, tức ở trạng thái là những mảnh, mẩu vụn, do bị cắt xé, hoặc gãy vỡ ra.

Vụn vằn là nhỏ nhặt, không có giá trị đáng kể.

Như: Đống gạch bể vụn vằn, thợ may cắt không khéo khiến vải bị vụn vằn không dùng được.

Biết nguồn Ðạo đức tầm phăng,

Ðoạn tiêu dứt sạch vụn vằn cắt ra.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VUNG

Vung là nắp đậy nồi hay một số đồ dùng để đun nấu khác. Như: Vung nồi đồng, nồi nào úp vung nấy, coi trời bằng vung.

Ca dao ta có câu: “Chồng thấp mà lấy vợ cao, Nồi tròn vung méo úp sao cho vừa”.

Đừng than rằng mạng bạc như vôi,

Mua vung chẳng nhắm nồi miệng méo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÙNG

1,- Vùng là miền, khu vực rộng, một khoảng đất rộng. Như: Vùng quê, vùng Thánh địa, vùng ngoại ô.

Thánh giáo Chơn Cực Lão Sư có câu: Chư đạo hữu phải biết rằng, Ðạo trước khi gieo truyền cho ngoại quốc, phải dìu dắt kết chặt dân sanh nơi vùng Nam nầy, đặng cùng nhau chung hợp trên con đường hoà bình, chậm rãi lần ra khỏi lối khốn khổ lao lung nơi cõi trần nầy, rồi tự tại ngâm câu thái bình.

Nào khi đất Việt trời ngang dọc,

Chừ lúc vùng Nam phận cúi lòn.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Vùng Nam Hải uy linh nhứt quốc,

Cỏ rẽ hai chia đất rắp ranh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Vùng là cựa mạnh để chạy thoát khỏi tình trạng bị níu giữ, buộc trói.

Như: Vẫy vùng, nắm được tay tên trộm nó vẫn vùng thoát ra được, vùng đứt dây trói.

Cánh hồng quen với cuồng phong,

Nước non thế giới vẫy vùng tinh trăng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Vùng là bỗng, chợt, bỗng dưng, bỗng nhiên, không lường trước được.

Như: Nó đang ngủ mê vùng tỉnh giấc, anh ấy vùng bỏ chạy mất.

Vì sợ e bụng gái không chừng,

Giận Nam Việt vùng ưng Ngoại quốc.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VÙNG VẪY

Vùng: Động mạnh, cựa mạnh. Vẫy: Đưa đi đưa lại.

1.- Vùng vẫy là vùng mạnh liên tiếp cho thoát khỏi tình trạng bị giữ rất chặt.

Như: Càng vùng vẫy cá càng bị mắc sâu vào lưới.

Vùng vẫy khó toan với chữ bần,

Khuấy chơi chi cứ quẩn bên chân.

(Thơ Thuần Đức).

2.- Vùng vẫy, như chữ “Vẫy vùng”, chỉ người có chí tung hoành ngang dọc.

Như: Chim lồng vừa thả nó vùng vẫy trên trời cao.

Nước non vùng vẫy đem thân gởi,

Vàng đá làu làu tấm thiết tha.

(Đạo Sử).

Chậu lồng ràng buộc lối thung dung,

Vùng vẫy đòi phen chớp cánh hồng.

(Thơ Mỹ Ngọc).

 

 

VŨNG

Vũng là chỗ trũng nhỏ có chất lỏng đọng lại.

Như: Vũng nước trên trên sân cỏ, xe đâm vào vũng lầy, xác nằm trên vũng máu.

Trong quyển Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Biết bao người, ở đời, ngày đêm, cứ lo sao cho mình sung sướng, tìm hoài kiếm mãi, nhưng chẳng thấy chi đáng gọi là chơn hạnh phúc. Thì chẳng khác nào một hành khách bơ vơ trong sa mạc. Đương hồi nắng nôi khao khát thấy trước mặt một vũng nước, cố mau đến nơi mà giải khát. Song le, càng tiến tới, vũng nước càng cách xa.

Thị đời là vũng hôi tanh,

Nên chi lánh trược tầm thanh ẩn nhàn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VỤNG

1.- Vụng là trộm, lén lút, không để người khác biết.

Như: Mèo ăn vụng, yêu vụng nhớ thầm, hai đứa vụng trộm hẹn nhau ngoài đồng.

Thà cầm đèn thủ tiết tàn canh,

Hơn thụt ló như mèo rình ăn vụng.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Vụng là dở, kém, không khéo, không biết làm những động tác thích hợp trong hoạt động chân tay.

Như: Vụng nấu nướng, nghề thợ vụng, vụng múa, vụng tay.

Phải cho khéo mới ra tài khéo,

Liệu vụng đừng nắm kéo cắt đồ.

(Phương Tu Đại Đạo).

Nhiều gái lại tánh ưa vụng lựa,

Hong mặt hoa bếp lửa háp đen thui.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỤNG VỀ

Vụng: Dở, kém, không khéo.

Vụng về là tỏ ra dở, kém, tức chân tay không được khéo léo, không biết làm những việc cho thích hợp.

Như: Ăn nói vụng về, cô ta học đủ nghề nhưng đôi tay rất vụng về.

Cười khan cho kẻ ở nhà Lê,

Tiếc bấy cho ngươi tính vụng về.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

Ðời xa chơn lý giác mê,

Ðời sao quá đỗi vụng về chẳng lo.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

VUÔNG TRÒN

Vuông: Một hình tứ giác đều, hình có bốn cạnh bằng nhau. Tròn: Hình như quả bóng, đầy đặn.

Vuông tròn, bởi chữ “Phương viên 方 圓”, là hình vuông và hình tròn, nghĩa bóng nói về tốt đẹp mọi mặt.

Như: Sinh nở xong mẹ con được vuông tròn, tình duyên được vuông tròn.

Thánh giáo Thầy có câu: Thói vạy tà của nhiều đứa, ấy chẳng qua là những bẫy của Toà Tam Giáo để cho các con hơ hỏng mà phải vướng chơn lúc hành trình đó. Liệu mà bước, lo mà ngừa, thế nào cho vuông tròn đặng. Thà bỏ một hai đứa mà vớt cả muôn triệu, các con nên biết.

Vú mẹ chưa lìa đám trẻ con,

Ðộ sanh chưa rõ phận vuông tròn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðài các chưa từng miếng ngọt ngon,

Rán công hậu kiếp đặng vuông tròn.

(Đạo Sử).

Nại chi xác yếu thịt mòn,

Gia tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VUỐT

1.- Vuốt là móng nhọn, sắc và cong của một số loài vật như hổ, báo, diều hâu...

Như: Nanh vuốt, móng vuốt, hổ dùng vuốt để bắt người ăn thịt.

Rồng vùng Bắc Hải chờ vươn vuốt,

Lân hiện Châu U lập quốc triều.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Vuốt là áp lòng bàn tay lên vật gì và đưa nhẹ xuôi theo một chiều.

Như: Vuốt má em bé, vuốt nước mưa trên mặt, vuốt quần áo cho thẳng, vuốt râu.

Trước thềm có lão ưa nương gậy,

Bên cạnh thêm người đứng vuốt râu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

3.- Vuốt, nghĩa bóng là làm cho xuôi xuống, làm cho mất đi.

Như: Vuốt giận, vuốt dạ, vuốt đuôi, nói vuốt một câu để lấy lòng.

Vuốt dạ riêng đau người một cảnh,

Dằn thương cố nhớ buổi chung tình.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

VUỐT VE

Vuốt: Dùng tay để vào vật gì mà đưa thuận xuống một chiều cho thẳng, cho phẳng.

Vuốt ve là vuốt nhẹ nhiều lần để tỏ tình cảm yêu thương, trìu mến.

Vuốt ve còn có nghĩa dùng lời nói, việc làm tỏ vẻ quan tâm thông cảm nhằm chiếm cảm tình người khác.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hễ mỗi người chun ngang qua cái cơ làm như thế vuốt ve mơn trớn vậy.

Giọt rơi thánh thót: lời bay bướm,

Đèn lụn tờ mờ, gió vuốt ve.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VỤT

Vụt là từ biểu thị sự chuyển đổi trạng thái diễn ra rất nhanh và đột ngột.

Như: Đèn vụt tắt, vụt đứng dậy chạy ra ngoài sân, vụt có ý thay đổi lập trường.

Cơn gió vụt thuyền bong hải ngoại,

Phải lẹ tay bịn lấy dây lèo.

(Lục Nương Giáng Bút).

Hương còn bát ngát chốn Nam giao,

Thoạt thấy phong ba vụt thổi ào.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

VỪA

1.- Vừa là đúng độ, không nhiều, không ít, không cao không thấp, không thái quá, không bất cập. Như: Vừa khoảng, vừa đủ, vừa vặn.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Có người chịu lao lực vất vả suốt ngày, đầu tắt mặt tối để được hưởng một món tiền vừa đủ nuôi thân, nhưng vẫn bằng lòng với số phận.

Ðộng đình trở gót lại ngôi xưa,

Tuổi ấy quy y nhắm đã vừa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Liên trì mai nở sắc sen xưa,

Cải ác ngày nay nghĩ cũng vừa.

(Đạo Sử).

2.- Vừa là từ biểu thị sự việc xảy ra liền ngay trước thời điểm nói; thoạt mới. Như: Nó vừa đi thì anh đến.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: con chớ phiền muộn lo buồn chi, địa vị mỗi con Thầy đã lập thành, cái tai nạn kia vừa qua thì có lẽ một ngày Thầy sẽ thấy các con thung dung mà hiến cho Thầy một sự trông cậy chắc chắn.

Ly trần tuổi đã quá năm mươi,

Mi mới vừa lên ước đặng mười.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đừng để con quen thói giận hờn,

Vừa ré khóc khuyên lơn bồng dỗ.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Vừa còn dùng để chỉ đã thế nọ lại thế kia. Như: Vừa ăn cướp vừa la làng, vừa đi vừa hát.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Phước Thiện lại có nhiệm vụ tối cao, tối trọng của Ðức Chí Tôn: Giải khổ vừa xác vừa hồn, Ngài mượn mấy em nuôi nấng con cái của Ngài, nuôi đói, nuôi khát, bảo trợ giúp đỡ cho kẻ nghèo nàn cô độc.

4.- Vừa còn có nghĩa là thuận, hợp.

Như: Vừa nhau, món ăn nầy vừa miệng, việc làm của anh ấy tôi vừa lòng.

Nắng mưa kia vốn chưa vừa kẻ,

Phàm tục nhiều tay quá lỗi lời.

(Đạo Sử).

Cái nhục giống nòi kia chẳng rửa,

Xoi hang mạch nước ý chưa vừa.

(Đạo Sử).

 

 

VỪA Ý

Vừa: Ở mức đủ để thoả mãn được yêu cầu. Ý: Ý muốn, ý định.

Vừa ý, như chữ “Vừa lòng”, là bằng lòng, vì thấy hợp với ý muốn của mình. Như: Chọn mãi những không vừa ý cái nào hết.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bao giờ phàm tánh là vật tánh vẫn hoài bão tánh chất thú của nó, mỗi sự chi làm cho nó phải ham muốn, vừa ý thích của nó theo cái năng lực của nó mạnh mẽ thể nào nó thấy được sắc đẹp nó ham, nó mê.

Lành dữ hai đường vừa ý chọn,

Lành như tòng, dữ tợ hoa tươi.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

VỪA LÒNG

Vừa: Ở mức đủ để thoả mãn được yêu cầu. Lòng: Lòng dạ.

Vừa lòng là bằng lòng vì hợp với ý của mình. Như: Làm vừa lòng với mọi người.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Các con hằng muốn thấy kẻ ấy bị hành phạt nhãn tiền thì mới vừa lòng các con, nhưng Thánh ý Thầy không phải vậy đâu.

Dạy những điều chồng vợ mặn nồng,

Ở sao đặng vừa lòng trai quân tử.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỪA VẶN

Vừa: Khớp, đúng, hợp với kích thước, khả năng hay thời gian, không thái quá, không bất cập.

Vừa vặn là đúng hợp, vừa khớp, vừa đúng lúc. Như: Mặc bộ áo quần nầy vừa vặn, mua đồ xong vừa vặn hết tiền.

Chôn chơn vừa vặn cũng chôn hồn,

Chuông gióng u hồn nhẫn nhắc khôn.

(Đạo Sử).

 

 

VỰA VÀNG

Vựa: Chứa để dành. Vàng: Một thứ kim loại quý.

Vựa vàng, bởi chữ “Tích kim 積 金”, là chứa, tích trữ vàng bạc.

Tư Mã Ôn Công có câu: Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ 積 金 以 遺 子 孫, 子 孫 未 必 能 守, nghĩa là chứa vàng để lại cho con cháu, con cháu chưa ắt đã giữ được.

Theo ông, vàng chưa ắt giữ được là ý muốn nói không giữ được bền vững, chỉ có để lại âm đức mới là vĩnh viễn cho con cháu mà thôi.

Xem: Câu tích kim.

Vựa vàng chưa ắt để cho con,

Chứa đức muôn năm hưởng cũng còn.

(Đạo Sử).

 

 

VỨC

Hay “vực”.

Vức, như chữ “Vực ”, còn đọc là cõi, thường không dùng một mình. Như: Thánh vức, tây vức.

Thánh giáo Lý Giáo Tông có câu: Toà Thánh là cội nguồn, ngày nào được sừng sựng đứng vững nêu trên miền Tây vức nầy, ấy là ngày họ cầu thỉnh các đạo hữu đó.

Thiên Quân diêu động linh phan,

Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.

(Kinh Tận Độ).

 

 

VỰC

1.- Vực là chỗ nước sâu nhất ở sông, hồ hoặc biển.

Như: Cá ở vực, lặn xuống vực sâu, hang sâu vực thẳm, chìm xuống vực.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Phủi hết muôn sự ở cõi trần vô vị nầy, ấy là một sự khó thi hành của khách phàm tục. Mấy ai nong nả tìm đến cảnh thiêng liêng, mà nhiều kẻ lại tìm vào vực thẳm.

Chẳng khác chồi non xô đại mộc,

Cũng như lên vực sóng toan trèo.

(Đạo Sử).

2.- Vực là nâng, đỡ cho ngồi dậy, đứng dậy, hoặc giúp đỡ cho khắc phục tình trạng yếu kém.

Như: Vực người bệnh ngồi dậy, vực học sinh yếu kém, bênh vực kẻ cô thế.

Thánh giáo Thầy có câu: Lo về phần Ðạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất, đều xem sóc chư môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm Luật đến khổ khắc cho đặng.

Lời lỗ không người binh vực đỡ,

Than ôi! cô quạnh phận hồng nhan.

(Đạo Sử).

 

 

VỰC BINH

Vực: Giúp đỡ cho khắc phục tình trạng yếu kém để vươn lên. Binh (bênh): Đứng về cùng một phía để che chở, hoặc chống chế.

Vực binh, như chữ “Bênh vực”, là đứng về cùng phía để che chở, bảo vệ chống lại sự công kích, sự xâm phạm.

Xem: Binh vực.

Chở che khách tục hay tha thứ,

Yêu mến tăng đồ biết vực binh.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

VỰC NƯỚC

Vực: Giúp đỡ cho khắc phục tình trạng yếu kém để vươn lên. Nước: Xứ, quốc gia.

Vực nước là làm cho quốc gia trong tình trạng yếu kém được phồn thịnh vươn lên.

Như: Phò vua vực nước.

Một người thì đem tài bách chiến và khí phách anh hùng để phò vua vực nước...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VỰC SÂU

Vực: Chỗ nước sâu nhất ở sông, hồ hoặc biển. Sâu: Lõm xuống ở dưới, cách xa trên mặt.

Vực sâu là chỗ nước sâu, hoặc chỗ thung lũng sâu trong núi, hai bên có vách dựng đứng.

Như: Vực sâu hang thẳm, vực sâu giá mỏng.

Chỉ mành rối khá lo âu,

Liệu chơn thoát khỏi vực sâu sau nầy.

(Thanh Tâm Tài Nữ).

 

 

VỰC SÂU HANG THẲM

Vực sâu: chỗ nước sâu, hoặc chỗ thung lũng sâu trong núi, hai bên có vách dựng đứng. Hang thẳm: Hốc núi, hang lỗ ở đất sâu thẳm.

Vực sâu hang thẳm, như câu “Vực thẳm hang sâu”, là chỉ chỗ hang vực sâu thẳm, ý nói chỗ đày đoạ thấp kém, khó thoát ra được.

Xem: Hang sâu vực thẳm.

Tâm bất chánh loán vào xã hội tạo dây oan nghiệt, đưa đến cảnh tội tù, xô đẩy con người vào vực sâu hang thẳm.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VỰC THẲM HANG SÂU

Vực thẳm: chỗ nước sâu, hoặc chỗ thung lũng sâu thẳm trong núi, hai bên có vách dựng đứng. Hang sâu: Hốc núi, hang lỗ ở đất sâu.

Vực thẳm hang sâu là chỉ hang vực sâu thẳm, thường ví với nơi đoạ đày thấp kém, tối tăm, ô trược, khó mong vượt lên được.

Thánh giáo Thầy có câu: Cũng nơi Thiên tai, ách nước, nhưng rất đau lòng dòm thấy muôn ngàn nhơn loại lặn hụp chới với nơi vực thẳm hang sâu kia, mà con thuyền Bát Nhã cũng còn sóng dập gió dồi, linh đinh trên biển khổ sông mê, khó vớt người bị đắm.

Đời vì lợi vì quyền giành giựt,

Xô người vào vực thẳm hang sâu.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

VƯNG

Vưng, như chữ “Vâng”, là tuân lời, nghe theo lời chỉ dạy của người trên.

Như: Không vưng lời cha mẹ, Khi làm việc anh ấy chẳng vưng lịnh cấp trên bao giờ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Buổi nọ Chí Tôn dạy phải vưng, chớ chưa hiểu Pháp biến thân của Chí Tôn đã ban cho ra thể nào.

Xem: Vâng.

Vưng theo sở lượng của Thiên Công,

Cửa tuyết chen chơn lánh khỏi vòng.

(Đạo Sử).

Giọt sương gieo, vì trăm họ khát khao,

Vưng Thánh giáo rưới nhuần võ lộ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

VỪNG

Vừng, như chữ “Vầng”, là từ dùng để chỉ từng đơn vị một số vật thể hình tròn. Như: Vừng trăng, vừng ô.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Mùi chung đỉnh, bả vinh hoa có khác chi ngọn cỏ phơi sương, vừng mây giữa gió.

Xem: Vầng.

Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,

Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VỪNG ĐÔNG

Hay “Vầng đông”.

Vừng (vầng): Từ dùng để chỉ từng đơn vị một số vật thể hình tròn, khối tròn. Đông: Phương đông, hướng đông.

Vừng đông, như chữ “Vầng đông”, là vầng sáng ở phương đông, dùng để chỉ mặt trời buổi sáng sớm.

Đêm trường nghe đã tàn canh,

Vừng đông tin nhắn rất lành tự do.

(Xuân Hương Giáng Bút).

 

 

VỪNG ĐÔNG RẠNG

Vừng đông: là vầng sáng ở phương đông, dùng để chỉ mặt trời buổi sáng sớm. Rạng: Hé sáng, sáng.

Vừng đông rạng là vừng mặt trời ở hướng Đông vừa mới mọc, rạng sáng.

Vừng đông rạng là ánh sáng mặt trời, nguồn sống của mọi sinh vật và cũng là nguồn sáng phá tan những bóng tối bao trùm trên quả địa cầu nầy. Ánh Thái dương mọc ở phương Đông còn được hiểu Đạo đến từ Đông (Đạo xuất ư Đông 道 出 於 東), đem giáo pháp tiêu trừ, xoá tan những bóng tối khổ đau và tội lỗi của chúng sanh, và mang đến ánh sáng hạnh phúc cho nhơn loại ở cõi trần gian nầy.

Vừng đông rạng ánh vàng chói rực,

Lời pháp lành đánh thức chơn tâm.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VỮNG

Vững là chắc chắn, có khả năng chịu đựng những tác động từ bên ngoài mà vẫn không suy yếu, không biến đổi, hay không mất đi.

Vững còn có nghĩa là không lay chuyển, tức có năng lực đương đầu với hoàn cảnh bất lợi để thực hiện nhiệm vụ như bình thường.

Như: Vững lòng tin, bền tâm vững chí.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn dạy: Các con phải hiểu Thánh ý Thầy mà trau giồi chí lớn. Dầu đi lối nào cũng phải cần cái đèn thiêng liêng chiếu rõ mới đặng vững bước.

Nương chơn chưa biết chơn nào vững,

Níu thử cân đai thấy nặng trì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tâm thành ắt đạt đường tu vững,

Tâm chánh mới mong mối đạo cầm.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

VỮNG BỀN

Vững: Chắc chắn, khó lay chuyển. Bền: Chắc,kéo dài được lâu ngày.

Vững bền, như chữ “Bền vững”, tức là chắc chắn, không thể lay chuyển được.

Thánh giáo Thầy có dạy: Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ, vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước.

Xem: Bền vững.

Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng,

Ai giữ phong cương đặng vững bền.

(Thanh Sơn Đạo Sĩ).

Thân hay gánh vác nỗi nhà nên,

Chẳng chịu tìm ra kế vững bền.

(Đạo Sử).

 

 

VỮNG BƯỚC

Vững: Chắc chắn, khó lay chuyển. Bước: Dời chân, khoảng giữa chân trước và chân sau khi đi.

Vững bước là bước chân vững vàng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Các con phải hiểu Thánh ý Thầy mà trau giồi chí lớn. Dầu đi lối nào cũng phải cần cái đèn thiêng liêng chiếu rõ mới đặng vững bước.

Hễ nhỏ dại thì hay đầu cứng,

Nhớ thương em chưa vững bước đường đời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VỮNG CHÃI

Vững: Chắc chắn, khó lay chuyển.

Vững chãi là chắc chắn, bền vững, có khả năng chịu tác động mạnh từ bên ngoài, không lung lay, đổ ngã.

Huấn từ Đức Thượng Sanh có câu: Ðó là một nghĩa cử đáng khen. Người hành Ðạo được có chí thành vững chãi mới làm tròn sứ mạng.

Ngắm trẻ thang mây trèo vững chãi,

Bỏ hồi chén thuốc nguyện lâm râm.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

VỮNG CHẮC

Vững: Chắc chắn, khó lay chuyển. Chắc: Vững vàng.

Vững chắc là bền vững, chắc chắn, tức có khả năng chịu tác động mạnh từ bên ngoài mà vẫn giữ nguyên trạng thái, tính chất, không bị phá huỷ, đổ vỡ.

Như: Tường xây rất vững chắc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phần đông Chức sắc có đức tin vững chắc, có quan niệm rõ rệt về sứ mạng Thiêng liêng của mình nên nhứt quyết không để cho ai chi phối, mặc dù giọng kèn tiếng quyển vẫn luôn luôn to nhỏ bên tai để chực cuốn theo đường lối bất hảo.

Cửu Trùng Thiên nền xây vững chắc,

Hình chắp tay Xa Nặc bôn ba.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

VỮNG TÂM

Vững: Chắc chắn, khó lay chuyển, khó xao động. Tâm: Cái tâm con người.

Vững tâm là cảm thấy có được điều kiện để yên tâm làm việc, không có gì phải lo ngại, mặc dầu có khó khăn.

Như: Được người phụ giúp nên vững tâm mà làm.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Em phụng lịnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu đến ban phước lành cho tất cả quý anh cùng tất cả các bạn Hiệp Thiên Đài và để đôi lời cùng các bạn, cứ vững tâm lo tròn nhiệm vụ của mình là phải bác ái, từ tâm, công bình, chánh trực, hằng ngày gieo mối cảm tình với đồng chủng.

Khổ gay trăm quỷ ngàn ma,

Vững tâm bước tới thì tà mị dang.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Gắng lập nền nhân gìn giá ngọc,

Bền trau cội phúc vững tâm vàng.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

VỮNG VÀNG

Vững: Chắc chắn, khó lay chuyển.

Vững vàng là bền vững, chắc chắn. Như: Ngồi vững vàng trên ghế, khởi đầu công việc được vững vàng.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Từ đây Thầy đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Đạo. Vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng theo Thánh ý của Thầy, là bậc Chí Tôn đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh chúng.

Gìn lòng chẳng khá lăng loàn,

Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.

(Kinh Sám Hối).

Cho thanh tâm mạng mới vững vàng,

Ðến ngó Phật Trời khỏi thắp nhang.

(Đạo Sử).

Vững vàng ráng bén cội nhơn nhà,

Trời Ðất dầu qua Ðạo chẳng qua.

(Đạo Sử).

 

 

VƯỜN

Vườn là khu đất rộng để trồng cây cối có ích hoặc cây cảnh. Như: Vườn cam, vườn rau, vườn hoa.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Cây trong rừng hoặc trong vườn bị che khuất còn biết nghiêng mình, nảy chồi đâm tược. Hỏi tìm ai? Tìm Ðấng Tạo Ðoan.

Ðông tàn cảnh ướm trở nên xuân,

Xuân nở vườn mai há mấy lần?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vườn trước ngơ trông cây liễu rũ,

Non xưa chạnh nhớ bóng trăng tà.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

VƯỜN DÂU

Vườn: Khu đất rộng để trồng cây cối. Dâu: Cây dâu.

1.- Vườn dâu, do chữ “Bộc thượng tang gian 濮 上 桑 間”, tức chỉ trai gái hẹn hò nhau trong vườn dâu để tư tình nhau, nói thói dâm tà.

Thời Xuân Thu, trên bãi sông Bộc, trong ruộng dâu đều là nơi trai gái nước Trịnh, nước Vệ hẹn hò nhau làm thói dâm bôn.

Thiên định lẽ kia ai cũng chịu,

Hỏi người hổ mặt giữa vườn dâu.

(Đạo Sử).

2.- Vườn dâu, như chữ “Cồn dâu”, hay “Ruộng dâu”, do câu thành ngữ “Tang điền biến vi thương hải 桑 田 變 為 蒼 海” là ruộng dâu biến thành bể xanh, ý chỉ sự biến hoá, thay đổi của vạn vật.

Xem: Cồn dâu hoá bể.

Phòng cơn biển nọ hoá vườn dâu,

Chưa hết quan viên há hết chầu.

(Đạo Sử).

 

 

VƯỜN ĐÀO

Vườn: Khu đất rộng để trồng cây cối. Đào: Một loài cây có hoa đẹp, quả ăn ngon, hột có nhân.

Vườn Đào là vườn trồng cây Đào Tiên của Diêu Trì Kim Mẫu ở tầng Trời thứ hai Cửu Trung Thiên, do Nhị Nương Diêu Trì Cung coi sóc.

Tương truyền Đào Tiên là một loại cây có trái rất quý, chín ngàn năm mới có trái chín một lần, nên khi ăn được trái Đào Tiên thì được trường sanh bất tử.

Theo lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp tại Báo Ân Từ, ngày rằm tháng 8 năm Ðinh Hợi (1947): Nơi Diêu Trì Cung, Phật Mẫu trụ sanh quang lại thành một khối gọi là quả đào tiên, đủ phép sống vĩnh viễn trường tồn nơi cõi Hư linh.

Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,

Chén trường sanh có lịnh ngự ban,

(Kinh Tận Độ).

 

 

VƯỜN HỒNG

Vườn: Khu đất rộng để trồng cây cối. Hồng: Như chữ đào, chỉ màu đỏ của trái đào.

Vườn hồng là vườn đào Tiên của Tây Vương Mẫu.

Vườn hồng, do câu “Vườn hồng chim xanh”, dùng để chỉ thân phận của người con gái không dám ngăn cấm người mối lái.

Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Vẻ chi một đóa yêu đào, Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.

Cành biếc nặng gây tình quyến luyến,

Vườn hồng rộng mở lối vào ra.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

VƯỜN NGẠN UYỂN

Vườn Ngạn Uyển là một cái vườn hoa của Đức Diêu Trì Kim Mẫu ở tầng Trời thứ nhứt trong Cửu Trùng Thiên, do Nhứt Nương Diêu Trì Cung trông coi.

Theo Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp có cho biết vườn Ngạn Uyển như sau: Trong kinh luật có nói mỗi mạng sanh con người đều có hiện tượng một bông nở trong Vườn Ngạn Uyển, mỗi khi bông ấy héo rụng tức nhiên là có một người chết, tại thế này gọi là chết chớ không phải chết. Loài người không bao giờ chết cả, chết ấy là chúng ta thay một cái áo để ngoài, vào nhà tắm, tắm rồi ta mặc lại nữa, sự sống chết như thay đổi cái áo kia vậy thôi.

Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo,

Khối hình hài đã chịu rã tan.

(Kinh Tận Độ).

Đột ngột nghe tin chị mất rồi,

Trên Vườn Ngạn Uyển đoá hoa rơi.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

VƯỜN THU VẮNG KHÁCH

Vườn thu: Như chữ “Phòng thu”, chỉ người đàn ba luống tuổi. Vắng khách: Chỉ sự vắng bóng người.

Vườn thu vắng khách ý nói nơi ở của người đàn bà luống tuổi vắng vẻ, chồng đi vắng.

Chừ sao bướm cũ lìa huê,

Vườn thu vắng khách, ử ê canh tàn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

VƯỢN HÚ CHIM KÊU

Vượn hú: Loài khỉ có dạng giống người, không có đuôi, tay dài, có tiếng kêu vang to, kéo dài. Chim kêu: Chim cất tiếng hót.

Vượn hú chim kêu ý chỉ nơi rừng núi vắng vẻ, không có bóng người, chỉ nghe tiếng chim hót và vượn kêu.

Chỉ nghe vượn hú chim kêu,

Buồn teo vắng vẻ sớm chiều thân côi.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VƯƠNG

1.- Vương, như chữ “Đế 帝”, là vua, chúa, đứng đầu cai trị trong một nước.

Như: Đế vương, Sở Bá vương Hạng Võ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Lý Giáo Tông có đoạn dạy: Chưa có ngôi vị Ðế vương nào mà sánh với phẩm vị thiêng liêng đặng. Khá phân biệt trượng khinh mà giữ gìn, kẻo bị tà tâm rối loạn.

Oai hùm ai ví Hạng vương xưa,

Hớn đảnh gầy nên thế đón ngừa.

(Đạo Sử).

2.- Vương là vua, chúa, đứng đầu cai trị một loài vật.

Như: Quỷ vương, ma vương, hầu vương.

Thánh giáo Thầy có dạy: Con đường vô tư để tìm cứu khổ cho chúng sanh là con đường đạo đức, ngọn đèn thiêng liêng sẽ chực soi tỏ bước của các con, khác với con đường ấy là đường của Quỷ vương đem lối.

Thần thông trói chặt Ma vương quái,

Dìu bước vạn linh đến cảnh nhàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VƯƠNG BÁ

1. VƯƠNG BÁ

王 伯

Vương: Tước vương, một tước cao nhứt trong triều đình. Bá: Một trong năm tước hầu thời xưa, đó là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.

Vương bá là tước vương và tước bá, chỉ chung những người đạt được đỉnh cao trong danh vọng.

Thánh giáo Thầy có câu: Kiêu hãnh thái thậm, vào muốn có người trình, ra muốn có kẻ cúi, khoát nạt, đè ép, biết mình mà chẳng màng biết đến người, hay ỷ sức mà chẳng dòm xem thời thế chẳng thâu phục nhân tâm, chẳng biết dùng khiêm từ mà đãi khách, là những nét của các bậc Vương bá xưa dùng mà phải tan tành vũ trụ đó.

Xem: Vương bá công hầu.

Nên thời vương bá lúc ngồi câu,

Lựa phải cửa công đến chực hầu.

(Đạo Sử).

Vương bá bửu ngôi thị ngục hình,

Thiên lao như thử tấc công khanh.

(Pierre Pasquyer Giáng).

 

2. VƯƠNG BÁ

王 霸

Vương: Vua, cai trị cả thiên hạ. Bá: Nước lớn nhứt trong các nước chư Hầu.

Trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, các vì Vương thường dùng nhân nghĩa để cai trị, như các vua Hạ Võ, Thương Thang, Văn vương... còn các vị lấy sức mạnh để củng cố uy quyền, như ngũ bá: Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công...

Bởi vì hai gã tranh vương bá,

Gieo hoạ nhơn sanh chịu đoạ đày.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VƯƠNG BÁ CÔNG HẦU

王 伯 公 侯

Vương: Tước vương, một tước cao nhứt trong triều đình. Công, Hầu, Bá: Ba trong năm tước của triều đình quân chủ thời xưa, đó là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.

Vương bá công hầu nói chung về các tước vương hầu, hay dùng để chỉ về những người đạt được cao nhứt trong quyền uy, danh vọng.

Xem: Công hầu vương bá.

Mê tân là chốn đoạ con người,

Vương bá công hầu luỵ mấy mươi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

VƯƠNG DUY

王 維

Vương Duy, tự Ma Cật, là một nhà thơ, một hoạ sĩ, một nhà viết thư pháp nổi tiếng đời Đường. Ông còn được người đời gọi là thi Phật, cùng với thi Tiên và Đỗ Phủ thi Thánh, là ba người nổi tiếng về tài thơ ca thời Đường.

Vương Duy đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 9 thời Đường Huyền Tông, nhận chức quan đại nhạc thừa, sau phạm điều cấm, bị khiển trách và phải đến Tế Châu làm tham quân. Năm Thiên Bảo thứ 14, Vương Duy bị An Lộc Sơn bức bách ra làm quan, nhưng sau không được như ý, ông đã lui về sáng tác thơ ca. Ông nổi tiếng về thơ, hoạ.

Đỗ Phủ nguồn thơ sao đã vội,

Vương Duy nét hoạ biết tìm đâu?

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

VƯƠNG ĐẠO

王 道

Vương: Vua, đứng đầu một nước. Đạo: Đường lối chính sách phải theo.

Vương đạo, trái với Bá đạo, là con đường chơn chánh của bậc Thánh vương thời xưa dùng chính sách nhân trị để hoá dân trị nước, nghĩa là dùng đức nhân mà trị dân, dùng lễ nghĩa để giáo hoá dân, đó là sự nghiệp của bậc vương giả. Bậc vương giả là người có đạo đức hoàn toàn, lấy điều công chính nhân nghĩa mà trị thiên hạ.

Mạnh Tử đã định nghĩa Vương đạo và Bá đạo như sau: Dĩ lực giả nhân giả bá; bá tất hữu đại quốc. Dĩ đức hành nhân giả vương; vương bất đãi đại 以 力 假 仁 者 霸, 霸 必 有 大 國. 以 德 行 仁 者 王, 王 不 待 大 nghĩa là người dùng sức mạnh mà mượn tiếng làm điều nhân, là bá; người làm bá tất phải có nước lớn. Người lấy đức làm điều nhân là vương; người làm vương không đợi có nước lớn.

Tóm lại nghiệp Vương, Bá của thời xưa cũng thể hiện hai loại quyền: Quyền hành được xây dựng trên nhơn nghĩa, đạo đức và quyền hành được tạo lập bởi sức mạnh binh quyền.

Chúng ta thử tìm coi tại sao họ không định quyết giá trị, ai trọng ai khinh, nhà Vua xuất hiện lập nền Vương đạo đã 4.000 năm,...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

VƯƠNG GIẢ

王 者

Vương: Vua. Giả: Người.

Vương giả là tiếng dùng để chỉ hoa lan, một thứ hoa có mùi thơm vua chúa, ý chỉ người cao sang.

Đức Khổng Tử đi chu du các nước, lúc Ngài đi từ nước Vệ về nước Lỗ thấy trong núi cao, hang sâu có nhiều hoa lan. Ngài mới than rằng: Lan vi vương giả hương, kim dữ chúng thảo ngụ 蘭 為 王 者 香, 今 與 眾 草 寓, nghĩa là lan có mùi thơm của vua chúa, nay lại làm bạn với loài cỏ.

Anh được hưởng phúc hồng sang cả,

Anh là người vương giả công hầu.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

VƯƠNG KHẢI

王 愷

Vương Khải đời Tấn, ở đất Đông Hải, làm quan đến chức Hậu quân Tướng quân, có người chị làm Hoàng Hậu, nổi tiếng là giàu có, xa xỉ cũng vào bậc nhứt, thường cùng Thạch Sùng trang sức nhà cửa rất sang trọng và ăn mặc cực kỳ xài phí.

Tương truyền Vương Khải và Thạch Sùng thường bày trò thi của, Vương Khải dùng kế đem nồi bể ra đấu phú với Thạch Sùng, Thạch Sùng không có, Vương Khải nhờ đó mà được thắng.

Vương Khải đồn rân nghe nghĩ thiệt,

Thạch Sùng tiếng dậy tưởng thêm càng.

(Lý Thái Bạch Giáng).

Kìa Bá Di, Thúc Tề,

mượn cảnh không dứt rồi mối tệ,

Nọ Thạch Sùng, Vương Khải

cũng danh tiếng ai có kể ra gì?

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

VƯƠNG MANG

Vương: Mắc vào, dính vào. Mang: Đeo vào mình.

Vương mang là vướng mắc, đeo đẳng vào mình.

Như: Ăn chơi thái quá thân nó bị vương mang vào thuốc phiện.

Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,

Cho người hiền chịu lỗi vương mang.

(Kinh Sám Hối).

Nắng chiều ràn rụa buông rơi,

Trải bao tâm sự mấy người vương mang.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

VƯƠNG MẪU

王 母

Vương Mẫu tức bà Tây Vương Mẫu, một bà chúa Tiên ở cung Diêu Trì, nơi có vườn đào tiên.

Xưa vua Hán Võ Đế có sở nguyện muốn cầu bà Tây Vương Mẫu đến, nên nhờ vị Tiên là Đông Phương Sóc đến triều bái Vương Mẫu để tỏ mọi điều. Vương Mẫu hẹn đêm Trung thu sẽ giáng lâm xuống Hoa Điện, là ngôi đền do vua Võ Đế lập ra.

Vào nửa đêm Trung thu, bổng có chim thanh loan bay đậu trước sân, ông Đông Phương Sóc cho biết đó là tin của bà Tây Vương Mẫu sắp đến, rồi sau đó bà giáng lâm xuống Hoa Điện và ban cho vua Võ Đế bốn quả Đào Tiên.

Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,

Chén trường sanh có lịnh ngự ban.

(Kinh Tận Độ).

 

 

VƯƠNG TÂN SÁCH PHỤ

王 賓 策 輔

Vương tân: Vị tân khách của vua. Sách phụ: Giúp đỡ kế sách.

Vương tân sách phụ tức Đức Khổng Tử là bậc thượng khách của các vua chư hầu (vương tân), nên Ngài bày kế sách để giúp trị nước.

Lúc Đức Khổng Tử còn chu du khắp các chư hầu, vua các nước thường hỏi về kế sách trị an, hoặc thuật trị nước, Ngài đem cái vương đạo để làm phương cách trị bình trong thiên hạ.

Hễ nước chư hầu nào vô Đạo, không lấy dân làm trọng, chỉ say mê tửu sắc, thì Ngài bỏ nước đó mà đi. Còn nước chư hầu nào có vị vua là minh quân, biết thương dân mến nước, chuộng cái Đạo lý của Ngài thì Ngài ở lại giúp vua để trị nước, đem lại sự thái bình, thạnh trị cho đất nước, rồi các vua đó tôn Ngài như một vị khách quý, hay bậc thầy (tân sư 賓 師), hoặc xem Ngài là bậc thượng khách của nhà vua gọi là Vương tân 王 賓.

Vương Tân sách phụ,

Nho Tông khai hoá.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

VƯƠNG TÔN

王 孫

Vương: Bậc vương hầu. Tôn: cháu.

Vương tôn là tiếng dùng để gọi con cháu các nhà quý tộc, quyền quý, chữ dùng như chữ công tử.

Trong Sử Ký lời bà Phiếu mẫu giận nói với Hàn Tín như sau: Đại trượng phu bất năng tự thực, ngô ai vương tôn nhi tiến thực, khởi vọng báo hồ? 大 丈 夫 不 能 自 食, 吾 哀 王 孫 而 進 食, 豈 望 報 乎?, nghĩa là đại trượng phu không kiếm đủ miếng ăn, tôi thương tình cấp dưỡng, chứ đâu phải tôi mong đền đáp.

Mình dầu nên đáng mặt vương tôn,

Cũng nhớ mẹ mủng trôn vai gánh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VƯƠNG TƠ

Vương: Mắc phải. Tơ: Sợi tơ.

Vương tơ tức là con tằm mắc phải sợi dây tơ, ý chỉ tình nghĩa.

Do câu thơ của Lý Thường Ẩn đời nhà Đường: Xuân tàm đáo tử ty phương tận 春 蠶 到 死 絲 方 盡, nghĩa là con tằm đến chết cũng còn kéo tơ.

Cát bụi Kinh kỳ ngao ngán nhẽ?

Kiếp con tằm, chết vẫn vương tơ.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

VƯƠNG TƯỜNG

王 祥

Vương Tường là một trong hai mươi bốn người con hiếu thảo, người đời nhà Tấn, mồ côi mẹ, ở với cha, bị mẹ kế cay nghiệt, ngày thường xui giục làm cho cha ghét bỏ ông, nhưng ông vẫn một lòng hiếu kính. Mùa đông nước đóng băng, mẹ ghẻ muốn ăn cá tươi, ông cổi trần nằm trên giá để tìm bắt cá. Bỗng mảnh băng nứt làm đôi, từ dưới nước nhảy lên hai con cá, ông bắt đem về cho mẹ kế ăn. Thấy ông hiếu thảo như vậy, sau cha và mẹ kế ông cảm động, sinh ra yêu mến ông lắm.

Vương Tường được người xưa xếp vào một trong Nhị thập tứ hiếu và được vẽ lên mặt tiền Báo Ân Từ để nêu gương người con hiếu.

Vương Tường cổi trần người nằm giá,

Váng nước tan bắt cá chép dâng.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Vương Tường quyết đem thân nằm giá,

Kế mẫu thèm được cá chép dùng.

(Báo Ân Từ).

 

 

VƯƠNG THẦN LOẠN NGÔI

Vương thần 王 臣: Vua và bề tôi. Loạn ngôi: Đảo lộn về ngôi thứ, mất trật tự, mất đạo lý.

Vương thần loạn ngôi là làm đảo lộn ngôi thứ vua tôi, tức là làm đảo lộn phép tắc trong triều đình.

Lại e lỗi đạo nhơn luân,

Dở dang gia pháp, vương thần loạn ngôi.

(Nư Trung Tùng Phận).

 

 

VƯƠNG THỊ LỄ

王 氏 禮

Vương Thị Lễ là con gái ông Vương Quang Trân, cháu gọi ông Vương Quang Kỳ bằng chú và là cháu ngoại của ông Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương.

Cô Vương Thị Lễ sinh năm 1900 tại Chợ Lớn, mất năm 1918 sau cơn bệnh nặng, lúc ấy cô mới mười tám tuổi. Cô học tại trường Sainte Enfance, trình độ Brevet Élémentaire. Cô được chôn trong ngôi mộ ở vườn Bà Lớn cạnh đường Phan Thanh Giản Sai gòn.

Trong đêm xây bàn ngày mùng 10 tháng 06 năm Ất Sửu (30-07-1925), Cô Vương Thị Lễ mượn tên Đoàn Ngọc Quế giáng cho ba ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang bài thi rồi sau đó kết làm anh em với ba ông. Từ đó cô Vương Thị Lễ thường xuyên về để dẫn dắt ba ông theo đường Đạo đức.

Cô Vương Thị Lễ là một kiếp giáng trần của Thất Nương Diêu Trì Cung tại Việt Nam.

Đôi mắt dán hình Vương Thị Lễ,

Sáu tay sờ từng bệ đá mài.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

VƯƠNG THÔI

王 衰

Vương Thôi là một trong hai mươi bốn người con hiếu thảo.

Ông là người nước Nguỵ, đời Tam Quốc. Lúc Tây Tấn diệt Nguỵ, để thống nhất thiên hạ, cha ông bị Tây Tấn giết hại, ông thương xót ngồi bên mộ mà khóc thảm thiết, đến đỗi nước mắt chảy xuống làm cây trắc bên mồ tươi tốt lại. Suốt đời ông chẳng chịu ngoảnh mặt về tây, vì Tây Tấn ở vào hướng ấy, để tỏ ý không thần phục Tây Tấn. Mẹ ông lúc sinh thời hay sợ sấm sét, mỗi khi nghe có sấm, ông chạy đến mồ của mẹ khấn: có con đây rồi, để vong hồn mẹ khỏi sợ.

Vương Thôi là người tài, Vua Tây Tấn mời ra làm quan, ông nhất định từ khước, ở nhà mở trường dạy học. Khi giảng về thiên Lục Nga trong Kinh Thi, ông nhớ cha chảy nước mắt.

Vương Thôi hiếu cơn mưa nghe sấm,

Tiếng vang lên chạy cắm ra mồ.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Vương Thôi lắng bên tai sấm nổ,

Lo mẫu thân dưới mộ không yên.

(Báo Ân Từ).

 

 

VƯƠNG VẤN

Vương: Mắc phải. Vấn: Quấn.

Vương vấn là mắc mứu, hay vướng mắc nhau, ý nói thường phải nghĩ đến, nhớ đến trong khi làm bất cứ việc nào khác, không thể dứt đi được.

Như: Lòng còn vương vấn, đi học đừng vương vấn chuyện yêu đương.

Tơ tằm vương vấn tình ưu ái,

Thơ nhạn phô bày mối cảm thông.

(Thơ Thuần Đức).

Cũng là vương vấn kiếp trần ai,

Vui bả vinh hoa cảnh tạm nầy.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

VƯƠNG VÍU

Vương: Mắc vào, dính vào.

Vương víu, như chữ “Vương vấn”, là mắc míu, tức là cứ phải nghĩ đến, nhớ đến trong khi làm việc khác, không thể dứt đi được.

Như: Vương víu mối tình làm cho người thờ thẩn.

Xem: Vương vấn.

Nhớ thương vương víu trong hồn,

Chiều qua chầm chậm, hoàng hôn chết rồi.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

VƯỚNG

Vướng là mắc phải, tức bị cái gì đó cản lại, khiến cho không hoạt động dễ dàng, tự do được như bình thường.

Như: Vướng dây, bị vướng vào cờ bạc.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Nhiều đứa lại chẳng kể đến lời Thầy là gì? Ôi! Con ngỗ nghịch, trách sao chẳng vướng Thiên điều khổ nạn.

Tinh thần đầy xác mới tinh anh,

Ðừng vướng nẻo công với mối danh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Theo đặng bước nào gìn bước nấy,

Trở lui e vướng lúc nghiêng nghèo.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hay chi kiếp sướng xin vui mượn,

Mà phòng tham toan vướng nợ trần.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

VƯỚNG MẮC

Vướng: Mắc phải, tức bị cái gì đó cản lại, khiến cho không hoạt động dễ dàng, tự do được như bình thường. Mắc: Vướng phải, chẳng ra.

Vướng mắc là mắc bị cái gì đó làm cản trở trong quá trình hoạt động.

Vướng mắc còn dùng để chỉ có điều làm cho băn khoăn, suy nghĩ, tư tưởng không thoải mái.

Như: Công việc tiến hành trơn tru, chẳng hề vướng mắc. Còn vướng mắc về tư tưởng.

Đối với ngoại cảnh chẳng khởi vọng niệm, chẳng vướng mắc vật chất. Ấy gọi là Thiền.

(Giáo Lý).

 

 

VƯỢNG

Vượng là thịnh, sáng sủa, tốt đẹp.

Như: An khang thịnh vượng, vạn gia hưng vượng, vượng khí nơi Thăng Long thành.

Mục đích của chính trị là làm cho quốc gia hưng vượng, công lý thăng bằng, nhân dân no ấm,...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

VƯỢT

Vượt là đi từ bên nầy qua bên kia một cách khó khăn. Như: Vượt biện, vượt núi băng ngàn.

Vượt còn có nghĩa là đi quá lên trên, tiến nhanh hơn và bỏ lại phía sau. Như: Vượt lên, vượt qua.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trên cõi tạm nầy, những nỗi buồn, vui, đau khổ, nhục vinh, là những đoạn trường mà khách trần, ai cũng phải trải qua từ thanh mi chí bạch phát để nung đúc tâm hồn cho tới mức siêu nhiên và những ai đã vượt qua những cảnh bất thường ấy mà lòng vẫn minh chánh, chí vẫn thanh cao đó là những người biết sống, đáng sống và đã tìm ra con đường trở về với Ðấng Chí Tôn Thượng Đế.

Vượt gió hồng đương trở cánh về,

Chừng qua khỏi nạn hết hồn mê.

(Đạo Sử).

Thuyền Đạo vượt qua hồi cách trở,

Trời xuân đem lại cảnh vui vầy.

(Thơ Thái Phong).

 

 


 )
 )(
 __)_(__
 __(_____)__
(((_________)))
 )    ׀    (

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Danh mục vần V

 

Vá may

Vá trời

 

VẢ

Vả

Vả lại

Vả xiên ngắt xéo

 

VẠ

Vạ

Vạ gió tai trời

 

VÁC

Vác

 

VẠC

Vạc

Vạc ngã

Vạc ngã thành xiêu

 

VÁCH

Vách có âm thinh

 

VẠCH

Vạch

 

VAI

Vai

Vai tuồng

Vai trò

 

VÁI

Vái

Vái van

 

VÀI

Vài

 

VẢI

Vải

Vải bô

 

VÃI

Vãi

 

VAY

Vay

Vay mượn

Vay trả

 

VÁY

Váy

 

VẢY

Vảy

 

VẠY

Vạy

Vạy tà

Vạy vò

 

VÀM

Vàm

Vàm Cỏ Đông

 

VAN

Van

Van vái

 

VÁN

Ván

 

VÃN

Vãn hồi

 

VẠN

Vạn

Vạn ban

Vạn bang

Vạn bất đắc dĩ

Vạn bệnh hồi xuân

Vạn cổ

Vạn chủng

Vạn dặm trường

Vạn đại

Vạn hộ

Vạn hữu

Vạn kiếp

Vạn linh

Vạn lý

Vạn Lý Trường Thành

Vạn loại

Vạn loại thiện ác tất kiến

Vạn pháp

Vạn Pháp Cung

Vạn quốc

Vạn sự

Vạn sự do Thiên

Vạn sự do Thiên định

Vạn sự viết vô

Vạn tượng

Vạn thế

Vạn thù

Vạn trượng

Vạn vật

Vạn vật đồng nhứt thể

 

VANG

Vang

Vang dội

Vang rân

Vang rền

Vang mày

 

VÀNG

Vàng

Vàng đá

Vàng trui lửa

Vàng son

Vàng thau

Vàng thau ngọc thạch

Vàng xi

 

VÃNG

Vãng

Vãng lai

Vãng sanh

 

VÀNH

Vành

 

VÀO

Vào

Vào lòn ra cúi

 

VĂN

Văn

Văn ban võ bá

Văn chương

Văn chương quốc âm

Văn đàn

Văn đằng

Văn hào

Văn hiến

Văn hoá

Văn kiện

Văn miếu

Văn minh

Văn nghệ

Văn nhơn

Văn nhân tài tử

Văn Pháp

Văn Quân

Văn tài

Văn tải đạo

Văn Tuyên

Văn từ

Văn thi

Văn Thù Bồ Tát

Văn uyển

Văn Vương

 

VẮN

Vắn

Vắn ngủn

Vắn tắt

Vắn vỏi

 

VẰN

Vằn vện

 

VẶN

Vặn

 

VĂNG

Văng

Văng vẳng

 

VẮNG

Vắng

Vắng bặt

Vắng bóng

Vắng dạng

Vắng hoe

Vắng mặt

Vắng vẻ

 

VẮT

Vắt

 

VÂY

Vây

Vây cánh

 

VẤY

Vấy

 

VẦY

Vầy

Vầy bừa

Vầy đạp

Vầy đông

Vầy hiệp

Vầy vã

Vầy vò

 

VẪY

Vẫy vùng

 

VÂN

Vân

Vân ám đảnh hồ

Vân cẩu

Vân du

Vân du Thiên ngoại

Vân đài

Vân lôi

Vân trình

Vân xa

 

VẤN

Vấn

Vấn an

Vấn danh

Vấn đề

Vấn nạn

Vấn vương

 

VẦN

Vần

Vần ngược

Vần vũ

Vần xây

Vần xuôi

 

VẨN

Vẩn

Vẩn vơ

 

VẪN

Vẫn

 

VẬN

Vận

Vận bĩ

Vận cùng

Vận cùng thông

Vận chuyển

Vận động

Vận hành

Vận hội

Vận mạng

Vận mệnh

Vận rủi

Vận suy

Vận tải

Vận tử hồi môn

Vận thới

Vận thời

Vận trù

 

VÂNG

Vâng

Vâng lời

Vâng phục

 

VẦNG

Vầng

Vầng ô

 

VẤP

Vấp

 

VẤT

Vất vơ

 

VẬT

Vật

Vật chất

Vật chất lợi danh

Vật chơi

Vật dục

Vật dụng

Vật đổi sao dời

Vật hoán tinh di

Vật hữu linh

Vật liệu

Vật loại

Vật tối linh

Vật thực

 

VẤU

Vấu

 

VE

Ve

 

VẺ

Vẻ

Vẻ đẹp

Vẻ ngọc

Vẻ Vang

 

VẼ

Vẽ

 

VEN

Ven

 

VÉN

Vén

 

VẸN

Vẹn

Vẹn gìn

Vẹn giữ

Vẹn phận

Vẹn toàn

Vẹn tròn

Vẹn vẽ

 

VÈO

Vèo

 

VẸO

Vẹo

 

VẸT

Vẹt

Vẹt ngút mây xanh

 

VỀ

Về

 

VỆ

Vệ

Vệ sinh

 

VẾT

Vết

 

VỆT

Vệt

 

VI

Vi

Vi bằng

Vi chủ

Vi chứng

Vi diệu pháp

Vi Hộ

Vi Hộ Pháp

Vi lịnh

Vi nhân bất phú

Vi nhơn nan

Vi phú bất nhân

Vi rồng

Vi Thánh Thần Tiên Phật chi chủ

 

Ví bằng

Ví dầu

Ví dụ

Ví như

 

Vì chưng

 

Vĩ đại

Vĩ nhân

 

VỊ

Vị

Vị bài

Vị kỷ

Vị nể

Vị quốc

Vị quốc vong thân

Vị quốc vong xu

Vị sanh

Vị tất

Vị tình

Vị tha

Vị Thánh

Vị xưa

 

VÍA

Vía

 

VICTOR

Victor Hugo

 

VIỆC

Việc

Việc lành nhỏ nhít cũng là công phu

 

VIÊM

Viêm Đế

Viêm lương

 

VIÊN

Viên

Viên gạch khởi công

Viên mãn

Viên quan

Viên tịch

 

VIỀN

Viền

 

VIỂN

Viển vông

 

VIỄN

Viễn cận

Viễn trấn

Viễn vọng

Viễn xứ

Viễn xứ tha hương

 

VIẾNG

Viếng

Viếng sớm thăm hôm

Viếng thăm

Viếng thăm hôm sớm

 

VIẾT

Viết

Viết chàng Hồ

 

VIỆT

Việt

Việt chủng

Việt đảnh

Việt Hồ

Việt kiều

Việt phong

Việt Thường

Việt Vương

 

VIN

Vin

Vin nhành quế

 

VỊN

Vịn

 

VINH

Vinh

Vinh diệu

Vinh hạnh

Vinh hiển

Vinh hoa

Vinh hoa lợi lộc

Vinh huê

Vinh nhục

Vinh quang

Vinh quy

Vinh quy bái tổ

Vinh sang

Vinh tông

Vinh thân

Vinh thê ấm tử

Vinh xú

 

VĨNH

Vĩnh

Vĩnh biệt

Vĩnh biệt ngàn thu

Vĩnh cửu

Vĩnh hằng

Vĩnh kiếp

Vĩnh kiếp quần sanh ngưỡng kỳ huệ đức

Vĩnh mộc từ ân

Vĩnh Nguyên Tự

Vĩnh quyết

Vĩnh sanh

Vĩnh sùng chánh giáo

Vĩnh tồn

Vĩnh trường

Vĩnh viễn

 

VỊNH

Vịnh

 

VỊT

Vịt

 

VỸ

Vỹ Sinh

 

Vó câu

Vó câu cửa sổ

Vó cu

Vó ký

Vó kỳ

Vó ngựa

 

 

VỎ

Vỏ

 

Võ bị

Võ đài

Võ Đông Sơ Thu Hà

Võ Hầu

Võ Kiết

Võ lộ

Võ lực

Võ môn

Võ phu

Võ Tắc Thiên

Võ trang

Võ trụ

Võ Vương

 

VÓC

Vóc

Vóc ngọc

 

VỌC

Vọc

 

VOI

Voi

Voi cày chim cấy

Voi vày mả tổ

 

VÓI

Vói

 

VÒI

Vòi vọi

 

VỌI

Vọi vọi

 

VONG

Vong

Vong ân

Vong hồn

Vong hồn tiến hoá

Vong linh

Vong như tồn

Vong phàm

Vong phế

Vong quốc

Vong thân

Vong xu

 

VÒNG

Vòng

Vòng hắc ám

Vòng lý khổ

Vòng Minh Khí

Vòng trần

Vòng xây chuyển

 

VÕNG

Võng dù

 

VỌNG

Vọng bái

Vọng cầu

Vọng động

Vọng niệm

Vọng nguyệt

Vọng ngoại

Vọng ngữ

Vọng ngưỡng

Vọng nhựt

Vọng phu

Vọng tâm

Vọng tưởng

Vọng Thiên

Vọng Thiên cầu Đạo

 

VỌP

Vọp bẻ

 

VỌT

Vọt

 

Vô biên

Vô can

Vô can sát mạng

Vô căn

Vô cùng

Vô cùng vô tận

Vô cực

Vô cực vô thượng

Vô duyên

Vô dụng

Vô đạo

Vô Địa Ngục

Vô đối

Vô giá

Vô hậu kế đại

Vô hình

Vô hình vô ảnh

Vô hồn viết tử

Vô ích

Vô kiếp

Vô lao bất phục hồi

Vô lối

Vô lương

Vô lượng

Vô lượng độ nhơn

Vô minh

Vô ngã

Vô ngằn

Vô ngần

Vô nhân

Vô phần

Vô phước

Vô phương

Vô quả

Vô Quỷ quan

Vô sách

Vô sự tiểu thần tiên

Vô tâm

Vô tận

Vô tình

Vô tư

Vô tư vô vị

Vô thần

Vô thường

Vô ưu

Vô vi

Vô vi cư Thái cực chi tiền

Vô Vi nhi dịch sử quần linh

Vô vị

 

VÔI

Vôi

 

VỘI

Vội

Vội vã

Vội vàng

 

VỐN

Vốn

Vốn liếng

Vốn lời

 

Vơ vẩn

Vơ vét

 

VỞ

Vở

 

VỠ

Vỡ

Vỡ đầu

Vỡ lòng

Vỡ lở

 

VỢ

Vợ

Vợ con khám ngục

Vợ Châu Công canh cữi

Vợ chồng

Vợ hiền trọn trinh

Vợ tế chồng

Vợ tôi chồng chúa

 

VƠI

Vơi

Vơi vơi

 

VỚI

Với

 

VỜI

Vời

Vời vợi

 

VỜN

Vờn

 

VỚT

Vớt

 

VU

Vu cáo

Vu Hựu

Vu Lan

Vu oan

Vu quy

Vu san

 

 

Vũ bão

Vũ đài

Vũ lộ

Vũ trụ

 

VỤ

Vụ

Vụ lợi

Vụ tất

 

VUA

Vua

Vua chúa

Vua Trời

 

VÙA

Vùa

Vùa giúp

Vùa sức

 

VUI

Vui

Vui cười

Vui chơi

Vui hạc cầm

Vui hứng

Vui lòng

Vui mừng

Vui say

Vui tươi

Vui thú

Vui vầy

Vui vẻ

 

VÙI

Vùi

Vùi dập

Vùi lấp

Vùi thân

 

VUN

Vun

Vun bồi

Vun đắp

Vun quén

Vun trồng

Vun vút

 

VÙN

Vùn vụt

 

VỤN

Vụn vằn

 

VUNG

Vung

 

VÙNG

Vùng

Vùng vẫy

 

VŨNG

Vũng

 

VỤNG

Vụng

Vụng về

 

VUÔNG

Vuông tròn

 

VUỐT

Vuốt

Vuốt ve

 

VỤT

Vụt

 

VỪA

Vừa

Vừa ý

Vừa lòng

Vừa vặn

 

VỰA

Vựa vàng

 

VỨC

Vức

 

VỰC

Vực

Vực binh

Vực nước

Vực sâu

Vực sâu hang thẳm

Vực thẳm hang sâu

 

VƯNG

Vưng

 

VỪNG

Vừng

Vừng đông

Vừng đông rạng

 

VỮNG

Vững

Vững bền

Vững bước

Vững chãi

Vững chắc

Vững tâm

Vững vàng

 

VƯỜN

Vườn

Vườn dâu

Vườn đào

Vườn hồng

Vườn Ngạn Uyển

Vườn thu vắng khách

 

VƯỢN

Vượn hú chim kêu

 

VƯƠNG

Vương

Vương bá

Vương bá công hầu

Vương Duy

Vương đạo

Vương giả

Vương Khải

Vương mang

Vương Mẫu

Vương Tân sách phụ

Vương tôn

Vương tơ

Vương Tường

Vương thần loạn ngôi

Vương Thị Lễ

Vương Thôi

Vương vấn

Vương víu

 

VƯỚNG

Vướng

Vướng mắc

 

VƯỢNG

Vượng

 

VƯỢT

Vượt

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


| Vả | Vạ | Vác | Vạc | Vách | Vạch |
Vai | Vái | Vài | Vải | Vãi | Vay | Váy | Vảy | Vạy |
Vàm | Van | Ván | Vãn | Vạn |
Vang | Vàng | Vãng | Vành | Vào |
Văn | Vắn | Vằn | Vặn | Văng | Vắng | Vắt |
Vây | Vấy | Vầy | Vẫy |
Vân | Vấn | Vần | Vẩn | Vẫn | Vận | Vâng | Vầng |
Vấp | Vất | Vật | Vấu |

Ve | Vẻ | Vẽ |
Ven | Vén | Vẹn | Vèo | Vẹo | Vẹt |
Về | Vệ | Vết | Vệt |

Vi | | | | Vị | Vía | Victor |
Việc | Viêm | Viên | Viền | Viển | Viễn | Viếng |
Viết | Việt | Vin | Vịn | Vinh | Vĩnh | Vịnh | Vịt |

Vỹ |

| | Vỏ | |
Vóc | Vọc | Voi | Vói | Vòi | Vọi |
Vong | Vòng | Võng | Vọng | Vọp | Vọt |
| Vôi | Vội | Vốn |
| Vở | Vỡ | Vợ |
Vơi | Với | Vời | Vờn | Vớt |

Vu | | | Vụ |
Vua | Vùa | Vui | Vùi |
Vun | Vùn | Vụn | Vung | Vùng | Vũng | Vụng |
Vuông | Vuốt | Vụt |
Vừa | Vựa | Vức | Vực |
Vưng | Vừng | Vững |
Vườn | Vượn | Vương | Vướng | Vượng | Vượt |


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cập nhật ngày: 09-06-2020

VA | | | VE | | VI | VY | VO | | | VU |


A | B | C | CH | D | Đ | E | G | H | I-Y | K-KH | L | M | N | NG | NH | O | P | Q | R | S | T | TH | TR | U | V | X


[ MỤC LỤC ]

Ấn bản (v.2018)

TỪ NGỮ ĐIỂN CỐ CAO ĐÀI
Soạn giả: Hiền Tài Quách Văn Hoà

DOWNLOAD
E-book-PDF