TỪ NGỮ ĐIỂN CỐ CAO ĐÀI

 

 

Danh mục vần L

 

LA

La

La đà

La làng

La lết

La lối

La Mã

La võng

 

Lá bối

Lá hồng

Lá lành đùm lá rách

Lá ngọc cành vàng

Lá ngô

Lá ngô đồng

Lá thắm

 

Là đà

 

LẢ

Lả lơi

 

Lã chã

 

LẠ

Lạ

Lạ lùng

Lạ thường

 

LÁC

Lác đác

 

LẠC

Lạc

Lạc bước

Lạc cung

Lạc đạo an bần

Lạc đường

Lạc hậu

Lạc hoan

Lạc Hồng

Lạc hứng

Lạc lầm

Lạc loài

Lạc Long

Lạc nẻo

Lạc nẻo đường

Lạc nghiệp

Lạc nhạn ngư trầm

Lạc quan

Lạc quyên

Lạc thơ

Lạc thú

Lạc xiêu

 

LÁCH

Lách tách

 

LẠCH

Lạch

 

LAI

Lai

Lai láng

Lai rai

Lai vãng

 

LÁI

Lái

Lái buôn

 

LẠI

Lại

Lại nhũng quan gian

Lại Viện

 

LAY

Lay

Lay chuyển

Lay động

 

LÁY

Láy

 

LẠY

Lạy

Lạy là gì

Lạy Vong Phàm

 

LAM

Lam

Lam điền

Lam lũ

Lam lụ

Lam sơn chướng khí

 

LÀM

Làm

Làm ăn

Làm biếng

Làm bộ

Làm chủ

Làm gương

Làm lành

Làm lành lánh dữ

Làm lụng

Làm mướn

Làm nhục

Làm phải làm lành

Làm phước có khi mắc nạn

Làm phước khỏi hao khỏi tốn

Làm quan hai miệng

Làm reo

Làm thinh

 

LÃM

Lãm thuý

 

LẠM

Lạm

Lạm dụng

Lạm dự

Lạm quyền

 

LAN

Lan

Lan can

Lan đình

Lan quế

Lan thất

Lan tràn

 

LÀN

Làn

 

LÃN

Lãn Ông

 

LẠN

Lạn Tương Như

 

LANG

Lang

Lang quân

Lang Sa

Lang thang

 

LÁNG

Láng giềng

 

LÀNG

Làng

Làng văn

Làng xóm

 

LẢNG

Lảng

Lảng trí

Lảng xẹt

 

LÃNG

Lãng

Lãng phí

Lãng quên

Lãng tử

Lãng Uyển

Lãng xao

 

LANH

Lanh

Lanh lẹ

Lanh lợi

 

LÁNH

Lánh

Lánh bợn tục

Lánh chơn

Lánh dữ làm lành

Lánh giả tầm chân

Lánh Hớn Tử Phòng chưa phải dại

Lánh tục

Lánh thân

Lánh thế

Lánh trần

Lánh xa

 

LÀNH

Lành

Lành dữ

Lành dữ nơi minh chiêu phước hoạ

Lành mạnh

Lành phước

Lành siêu dữ đoạ

Lành thăng dữ đoạ

Lành vay trả

 

LẢNH

Lảnh lót

 

LÃNH

Lãnh

Lãnh cung

Lãnh đạm

Lãnh đạo

Lãnh hội

Lãnh lịnh

Lãnh mạng

Lãnh noãn

Lãnh tụ

Lãnh thất

Lãnh thổ

 

LẠNH

Lạnh

Lạnh lẽo

Lạnh lùng

Lạnh nồng

Lạnh ngắt

Lạnh tanh

 

LAO

Lao

Lao công hạn mã

Lao đao

Lao động

Lao khổ

Lao khổ phận

Lao lý

Lao lung

Lao lực

Lao nhao

Lao nhọc

Lao rao

Lao tâm

Lao tâm trí

Lao tâm tiêu tứ

Lao tù

Lao thân

Lao xá

Lao xao

 

LÁO

Láo

Láo táo

Láo xược

 

LÃO

Lão

Lão bạng sinh châu

Lão Đam

Lão giáo

Lão Lai

Lão luyện

Lão Quân

Lão Tô

Lão Tử

Lão thành

Lão Trang

 

LÁT

Lát

 

LẠT

Lạt

Lạt lẽo

 

LAU

Lau

Lau thanh trái chủ

 

LÀU

Làu

Làu làu

 

LẢU

Lảu

Lảu thuộc

Lảu thông

 

LẮC

Lắc lẻo

Lắc lở

 

LĂM

Lăm

 

LẮM

Lắm

Lắm lúc

Lắm phen

 

LĂN

Lăn líu

Lăn lóc

Lăn lộn

 

LẰN

Lằn

Lằn mưa đạn

 

LẶN

Lặn

Lặn hụp

Lặn lội

Lặn suối trèo non

 

LĂNG

Lăng điện

Lăng líu

Lăng loàn

Lăng miếu

Lăng xăng

 

LẮNG

Lắng

 

LẰNG

Lằng xanh

 

LẲNG

Lẳng lặng

 

LẶNG

Lặng

Lặng lẽ

Lặng nước êm thuyền

Lặng trang

 

LẮT

Lắt lẻo

 

LẤC

Lấc khấc

 

LẤY

Lấy

Lấy khảo trừ công

Lấy ngao lường biển

Lấy thúng úp voi

 

LẪY

Lẫy

Lẫy lừng

 

LÂM

Lâm bịnh

Lâm chung

Lâm dâm

Lâm Hương Thanh

Lâm ly

Lâm nàn

Lâm nguy

Lâm phàm

Lâm toàn

Lâm tuyền

 

LẤM

Lấm

 

LẦM

Lầm

Lầm đàng

Lầm đường

Lầm đường lạc nẻo

Lầm lạc

Lầm lỗi

Lầm lỡ

Lầm lũi

Lầm mê

Lầm tưởng

Lầm than

 

LẪM

Lẫm đẫm

Lẫm liệt

 

LẬM

Lậm

 

LÂN

Lân

Lân ái

Lân bang

Lân cận

Lân la

Lân lý

Lân mẫn

Lân Ngọc

Lân ra ắt có Thánh Quân

Lân tuất thương sanh

 

LẤN

Lấn

Lấn chen

Lấn hiếp

Lấn lướt

 

LẦN

Lần

Lần chuỗi

Lần dò

Lần hồi

Lần lựa

Lần mò

 

LẨN

Lẩn

Lẩn bẩn

Lẩn quẩn

Lẩn tránh

 

LẪN

Lẫn

Lẫn lộ

Lẫn lộn

 

LẬN

Lận

Lận đận

 

LÂNG

Lâng

Lâng lâng

 

LẤP

Lấp

Lấp bể

Lấp chôn

Lấp ló

Lấp lóe

Lấp lửng

Lấp ngõ tài hiền

Lấp thảm vùi sầu

 

LẬP

Lập

Lập công

Lập công bồi đức

Lập công tạo đức

Lập công chiết quả

Lập công chiết tội

Lập công chuộc tội

Lập chí

Lập Đạo

Lập đức

Lập đức bồi công

Lập kế

Lập lệ

Lập loà

Lập luận

Lập luật

Lập ngôn

Lập nghiệp

Lập pháp

Lập quốc

Lập Tiên gia xưng Lão Tử

Lập thân

Lập thân danh

Lập thân hành đạo

Lập thân trả hiếu

Lập thệ

Lập trường

Lập vị

 

LẬT

Lật bật

Lật đật

 

LÂU

Lâu

 

LẦU

Lầu

Lầu các

Lầu đài

Lầu hồng

Lầu phụng

Lầu son

Lầu Tần quán Sở

Lầu xanh

 

LẬU

Lậu hạng

 

LE

Le lưỡi

 

Lè tè

 

LẺ

Lẻ

Lẻ loi

Lẻ tẻ

 

LẼ

Lẽ

 

LẸ

Lẹ

Lẹ làng

 

LEM

Lem luốc

 

LÉN

Lén

 

LEO

Leo

Leo nheo

Leo trèo

 

LÉO

Léo tới

 

LÈO

Lèo

Lèo lái

Lèo nhèo

 

LẺO

Lẻo lự

 

LẼO

Lẽo đẽo

 

LÉP

Lép

 

Lê dân

Lê hoắc

Lê Lễ rước Gia đình

Lê thứ

Lê Văn Lịch

Lê Văn Trung

 

LỀ

Lề

Lề lối

 

LỄ

Lễ

Lễ bái

Lễ bái thườnng hành

Lễ châm chước

Lễ Đạo triều

Lễ độ

Lễ đưa chư Thánh

Lễ giáo

Lễ Hôn phối

Lễ Kinh

Lễ muối dưa

Lễ nghi

Lễ nghi phong hoá

Lễ nghĩa

Lễ phép

Lễ Sanh

Lễ Sĩ

Lễ sính

Lễ thọ

Lễ triều Chí Linh

Lễ vật

Lễ Viện

Lễ Vu lan

 

LỆ

Lệ

Lệ châu

Lệ nô

Lệ ngọc

Lệ Quân

Lệ sa

Lệ thuộc

 

LỆCH

Lệch

 

LÊN

Lên

Lên ải xuống đèo

Lên voi xuống chó

Lên võng xuống dù

 

LÊNH

Lênh đênh

 

LỆNH

Lệnh

 

LẾT

Lết

 

LẾU

Lếu

 

LỀU

Lều cỏ

Lều tranh

Lều tranh ba lượt

 

LI

Li bì

 

Lí lắc

 

 

LIA

Lia lia

 

LÌA

Lìa

Lìa tan

Lìa trần

 

LỊCH

Lịch

Lịch duyệt

Lịch đại

Lịch lãm

Lịch sắc

Lịch Sơn

Lịch sử

Lịch sự

Lịch xinh

 

LIẾC

Liếc

 

LIÊM

Liêm

Liêm chính

Liêm khiết

Liêm sỉ

Liêm trực

 

LIẾM

Liếm láp

 

LIÊN

Liên can

Liên chi

Liên đài

Liên hiệp

Liên hoa

Liên hoà

Liên hoan

Liên huê

Liên lạc

Liên ngâm

Liên quan

Liên tiếp

Liên toà

Liên toạ

Liên thần

Liên trì

 

LIẾN

Liến

 

LIỀN

Liền

Liền cánh liền cành

Liền liền

Liền nhành

 

LIỄN

Liễn

 

LIỆNG

Liệng

 

LIỆT

Liệt

Liệt cường

Liệt nữ

Liệt quốc

Liệt sĩ

Liệt Thánh

 

LIỀU

Liều

Liều mạng

Liều mình

Liều thân

 

LIỄU

Liễu

Liễu bồ

Liễu Chương Đài

Liễu đạo

Liễu hoa

Liễu yếu

Liễu yếu đào thơ

Liễu mai

Liễu ngõ hoa tường

Liễu trần

 

LIỆU

Liệu

Liệu biện

Liệu chừng

Liệu chước

Liệu định

Liệu lường

Liệu lượng

Liệu phương

Liệu phương thế

Liệu sức

Liệu tính

Liệu toan

Liệu thế

 

LỊM

Lịm

 

LINH

Linh

Linh cảm

Linh căn

Linh cữu

Linh chinh

Linh diệu

Linh dược

Linh đài

Linh địa

Linh đinh

Linh đình

Linh đơn

Linh Đức

Linh hiển

Linh hồn

Linh hồn Thiên tứ

Linh khí

Linh oai

Linh oai mạc trắc

Linh phan

Linh phù

Linh phụng gáy Tây Chu

Linh quang

Linh quang chiếu diệu

Linh sàng

Linh Sơn

Linh tâm

Linh Tiêu Điện

Linh tánh

Linh toạ

Linh thiêng

Linh thông

Linh ư phụng lãnh

Linh ứng

Linh vị

Linh xa

 

LỊNH

Lịnh

Lịnh bài

 

LIU

Liu hiu

 

LÍU

Líu lo

 

LY

Ly

Ly biệt

Ly cung

Ly gia

Ly gia cát ái

Ly gián

Ly hận

Ly hiệp

Ly hương

Ly loạn

Ly rượu trăm thi

Ly tán

Ly tình

Ly trần

 

Lý Bạch

Lý Đại Tiên Trưởng

Lý đoán

Lý Đỗ

Lý Lão Quân

Lý lẽ

Lý Ngư Tinh

Lý Ngưng Dương

Lý Nhĩ

Lý tài

Lý tưởng

Lý Thiên Vương

Lý thú

Lý Uyên

 

LỲ

Lỳ

 

LO

Lo

Lo âu

Lo cúng kiếng thường

Lo lắng

Lo liệu

Lo lót

Lo lường

Lo ngại

Lo sợ

Lo tính

Lo toan

Lo xa

 

 

Lò cừ

Lò Hoá công

 

LỌ

Lọ

 

LOÀ

Loà

 

LOÃ

Loã lồ

 

LOÀI

Loài

Loài ong tay áo

 

LOẠI

Loại

 

LOAN

Loan

Loan chạ

Loan chung phụng chạ

Loan phòng

Loan phụng

Loan phụng chia lìa

Loan phượng

 

LOÁN

Loán

 

LOẠN

Loạn

Loạn gia

Loạn hàng thất thứ

Loạn lạc

Loạn ly

Loạn luân

Loạn quốc khuynh thành

Loạn thần

 

LOANG

Loang

 

LỌC

Lọc

Lọc lừa

Lọc trược lưu thanh

 

LOÈ

Loè loẹt

 

LÒI

Lòi

 

LOM

Lom lom

 

LÒN

Lòn

Lòn cúi

Lòn lỏi

Lòn thân

Lòn trôn

 

LONG

Long

Long ám hạc quy

Long bào

Long cu

Long cung

Long chu

Long đong

Long Hoa Hội

Long Mã phụ Hà Đồ

Long Mã và Ngọc Kỳ Lân

Long mạch

Long Nữ

Long Tu

Long Tuyền

Long trọng

Long vân

Long vị

Long vương

 

LÓNG

Lóng

Lóng kình

Lóng phèn

 

LÒNG

Lòng

Lòng cha mẹ

Lòng dạ

Lòng đơn

Lòng háo sanh

Lòng lang

Lòng lành

Lòng nhơn

Lòng quỳ

Lòng son

Lòng tà

Lòng tin

Lòng tục

Lòng từ bi

Lòng thành

Lòng thành tín

Lòng thương ghét

Lòng trần

Lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh

 

LỎNG

Lỏng chỏng

Lỏng lẻo

 

LỌNG

Lọng tàn

 

LÓT

Lót

Lót tót

 

LỌT

Lọt

Lọt lòng

Lọt sổ

 

LỐ

Lố

Lố mòi

Lố nhố

Lố xố

 

LỔ

Lổ đổ

 

LỖ

Lỗ

Lỗ Ban

Lỗ bộ

Lỗ mãng

Lỗ vốn

 

LỘ

Lộ

Lộ bất thập di

Lộ Hộ Pháp

Lộ thượng

Lộ trình

 

LỘC

Lộc

Lộc Hơn từ vinh

Lộc quyền

Lộc thế

Lộc vị

 

LÔI

Lôi

Lôi Âm

Lôi Âm Cổ

Lôi Âm Cổ Đài

Lôi Âm Tự phá cổ

Lôi Công

Lôi cuốn

Lôi Chấn Tử cứu cha thoát nạn

Lôi điển

Lôi đình

Lôi kéo

Lôi thôi

 

LỐI

Lối

 

LỖI

Lỗi

Lỗi bậc cung cầm

Lỗi đạo

Lỗi lạc

Lỗi lầm

Lỗi mọn chớ nghi chẳng hại

Lỗi thệ

Lỗi thời

 

LỘI

Lội

Lội lặn

 

LỘN

Lộn

Lộn chồng

Lộn mèo

Lộn ngầu

Lộn nhào

Lộn xộn

 

LÔNG

Lông

Lông hồng

Lông ngỗng

Lông sừng

 

LỒNG

Lồng

Lồng lộng

 

LỘNG

Lộng

Lộng chương

Lộng lẫy

Lộng lộng

Lộng ngôn

Lộng quyền

Lộng sắc

 

LỐP

Lốp cốp

 

LỐT

Lốt

Lốt cọp

 

LỘT

Lột

 

Lơ là

Lơ lãng

Lơ láo

Lơ lửng

 

LỜ

Lờ

 

LỞ

Lở

 

LỠ

Lỡ

Lỡ bước

Lỡ dở

Lỡ duyên

Lỡ đường

Lỡ làng

Lỡ lầm

Lỡ lối

Lỡ lời

Lỡ nhịp

Lỡ phận

Lỡ thì

Lỡ thời

 

LƠI

Lơi

Lơi bước

Lơi dạ

 

LỜI

Lời

Lời châu ngọc

Lời dạy

Lời nguyền

Lời nói

Lời ra phải nhìn

Lời răn

Lời thệ

Lời vàng tiếng ngọc

 

LỢI

Lợi

Lợi danh

Lợi dụng

Lợi khí

Lợi lấn danh chen

Lợi lộc

Lợi mượn danh mua

Lợi quyền

Lợi sanh

Lợi toả danh cương

 

LỚN

Lớn

Lớn khôn

Lớn lao

Lớn tiếng

Lớn tuổi

 

LỜN

Lờn

Lờn dể

Lờn mặt

 

LỢN

Lợn

 

LỚP

Lớp

Lớp lang

 

LỢP

Lợp

 

LỢT

Lợt

 

Lù mù

 

Lũ kiến chòm ong

Lũ lụt

Lũ lượt

Lũ truyền bửu kinh

 

LÚA

Lúa

Lúa đầy phận gà lồng

Lúa gạo

Lúa làm hạt giống đức tin

 

LÙA

Lùa

 

LỤA

Lụa

 

LUÂN

Luân

Luân chuyển

Luân hồi

Luân lý

Luân thường

 

LUẬN

Luận

Luận bàn

Luận biện

Luận đàm

Luận lý

Luận nhảm bàn khùng

Luận thuyết

 

LUẬT

Luật

Luật Đạo

Luật điều

Luật định

Luật đời

Luật hình

Luật lệ

Luật lịnh

Luật nhơn quả

Luật pháp

Luật sự

Luật thương yêu

 

LÚC

Lúc

Lúc thúc

 

LỤC

Lục

Lục căn

Lục dục

Lục đạo

Lục độ

Lục hình

Lục Kinh

Lục lạc

Lục Lâm

Lục long

Lục long phò ấn

Lục Nương Diêu Trì Cung

Lục nga

Lục phủ

Lục tặc

Lục Tích

Lục Tổ

Lục tuần

Lục thân quyến thuộc

Lục thông

Lục thức

Lục trầm

Lục trần

 

LUI

Lui

Lui bước

Lui gót

Lui tới

 

LỤI

Lụi hụi

 

LUY

Luy tiết

 

LŨY

Lũy

Luỹ đồn

Luỹ hào

 

LUỴ

Luỵ

Luỵ đến sông Tương

Luỵ mình

Luỵ ngọc

Luỵ phiền

Luỵ sa

Luỵ tình

 

LUYẾN

Luyến ái

Luyến thế

Luyến trần

 

LUYỆN

Luyện

Luyện đạo

Luyện đơn

Luyện tập

 

LÚM

Lúm khúm

 

LỤM

Lụm cụm

 

LỤN

Lụn

Lụn canh gà

 

LUNG

Lung

Lung kê

Lung lạc

Lung lay

Lung lăng

Lung linh

 

LÚNG

Lúng

Lúng túng

 

LỦNG

Lủng

Lủng lẳng

 

LUỘC

Luộc

 

LUỒN

Luồn cúi

 

LUÔNG

Luông tuồng

 

LUỐNG

Luống

 

LỤT

Lụt

 

Lư hương

Lư ngọc

 

LỪ

Lừ nhừ

 

LỮ

Lữ Đồng Tân

Lữ hành

Lữ khách

Lữ Mông

Lữ thứ

Lữ Vi

Lữ Vọng

 

LỰ

Lự

 

LỨA

Lứa đôi

 

LỪA

Lừa

Lừa đảo

Lừa lọc

Lừa phỉnh

 

LỬA

Lửa

Lửa binh

Lửa hương

Lửa lòng

Lửa lòng dập tắt

Lửa phiền

Lửa thành cá ao

Lửa tinh trung thiêu mình Võ Tánh

 

LỰA

Lựa

Lựa chọn

Lựa dèo

Lựa là

 

LỰC

Lực

Lực bất tòng tâm

Lực quyền

Lực Sĩ tháo hài

 

LƯNG

Lưng

Lưng cong

Lưng vơi

 

LỪNG

Lừng

Lừng danh

Lừng lẫy

 

LỬNG

Lửng

Lửng lơ

 

LỮNG

Lững chững

Lững đững

Lững thững

 

LƯỢC

Lược

Lược giải

Lược thao

 

LƯỚI

Lưới

Lưới rập

Lưới Thang

Lưới thưới

Lưới trần

Lưới trời

 

LƯỜI

Lười biếng

 

LƯỠI

Lưỡi

Lưỡi câu

Lưỡi không xương

Lưỡi liềm

Lưỡi thọc tay đâm

 

LƯỢM

Lượm

Lượm lặt

 

LƯỜN

Lườn

 

LƯỢN

Lượn sóng

 

LƯƠNG

Lương

Lương bổng

Lương dân

Lương điền

Lương Hạo

Lương y

Lương y từ mẫu

Lương Mạnh

Lương mộc

Lương năng

Lương nhân

Lương sanh

Lương tâm

Lương tể

Lương tháng

Lương thần

Lương thiện

Lương tri

Lương tri lương năng

Lương vật

Lương viện

Lương Vương

 

LƯỜNG

Lường

Lường cân tráo đấu

Lường gạt

Lường tài cân sắc

 

LƯỠNG

Lưỡng

Lưỡng nghi

Lưỡng phái

Lưỡng toàn

Lưỡng thiệt

 

LƯỢNG

Lượng

 

LƯỚT

Lướt

 

LƯỢT

Lượt

 

LƯU

Lưu

Lưu Bang

Lưu chiếu

Lưu danh

Lưu đày

Lưu hại

Lưu hồng bạch cốt

Lưu Huyền Đức

Lưu ý

Lưu Khoan

Lưu lạc

Lưu ly

Lưu linh

Lưu luyến

Lưu nhiệm

Lưu oan

Lưu Quan Trương

Lưu sa tây độ

Lưu tâm

Lưu thông

Lưu thuỷ

Lưu thủy cao sơn

Lưu trú

Lưu truyền

 

LỰU

Lựu

 

 

 

 

 

 

 

 

L

 

LA

1.- La là kêu ó hay phát ra những tiếng rất to. Như: La làng, la xóm, hoảng sợ la thất thanh.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Còn bây giờ đã có dạy dỗ khuyên lơn, rầy la thì kỳ cào, quạo quọ, ở trong cửa Đạo nầy Bần Đạo xin đứt cả thảy mấy em thanh niên rán giữ chữ Hiếu làm gương mẫu.

Thây người máu chảy dầm dề,

Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.

(Kinh Sám Hối).

Đừng thấy lẫn rầy la mà phụ,

Phải nhớ hồi còn bú tới thôi nôi.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- La là tấm lưới. Như: Thiên la địa võng, Đại la.

Người xưa thường quan niệm rằng Trời như một tấm lưới tròn, rộng lớn phủ xuống thế gian, bao trùm cả nhựt, nguyệt, tinh, nên gọi Trời là Đại La, và Thánh hiệu Đức Chí Tôn là Đại La Thiên Đế.

Thiên la trên án màu u ám,

Địa võng dưới giăng gió chập chùng.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

LA ĐÀ

La đà, như chữ “Là đà”, là sà xuống thấp một cách nhẹ nhàng, lả lướt.

La đà còn dùng để chỉ là lảo đảo, choáng váng vì uống rượu say.

Như: Bướm lượn la đà, rượu say la đà.

Xem: Là đà.

Rạng vẻ yêu kiều dáng thướt tha,

Nhẹ nhàng chiếc bướm lượn la đà.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LA LÀNG

La: kêu ó hay phát ra những tiếng rất to. Làng: Một khu vực tự trị của dân, cấp xã, có lý trưởng hay xã trưởng đứng đầu.

La làng là cất tiếng thật to để kêu cứu với làng xóm.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo còn nhớ cái năm 9 tuổi, không biết thất mùa ra sao, mà cả thảy thiên hạ đều đói, Bần Đạo nghe được một cái tình trạng rất khổ não lương tâm là có một gia đình con nhiều lắm không đủ nuôi con, bị lúa cao gạo kém, buổi nọ con nó đã nhịn đói đôi ba bữa, mà thứ con nít nhịn đói thử như thế đó không la làng la xóm sao được.

Đừng để ai ỷ của làm ngang,

Hễ quá phép la làng đến bắt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LA LẾT

La lết, như chữ “Lê lết”, là không nhắc nổi thân mình, phải lê chân đi từng bước một cách nặng nhọc.

La lết còn có nghĩa là đến chỗ nầy hay chỗ khác, bạ chỗ nào cũng đến, không có chủ định.

La lết mà theo cũng cuối đường,

Thấy người tâm Ðạo chạnh lòng thương.

(Đạo Sử).

 

 

LA LỐI

La: Kêu ó hay phát ra những tiếng rất to.

La lối là kêu la, làm ầm ĩ lên.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chậm rải từng bước một, nhưng đi được bước nào vững bước nấy, không ham tranh giành, không muốn phô trương, không la lối để khoe danh, không ham quyền chác lợi, không thấy việc làm của người rồi bắt chước chạy theo, vì Hội Thánh quan niệm sứ mạng cứu độ người nơi bể khổ là cao trọng hơn cả mọi việc khác.

Tôn giáo không có thể xoay chuyển vận nước được, cũng như Chánh quyền không thể điều khiển Tôn giáo, thế thì chúng ta kêu gọi, la lối để làm gì?

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LA MÃ

羅 馬

La Mã, do tiếng Tàu dịch nguyên âm chữ “Roma”, là tên nước ngày xưa, gốc ở Ý Đại Lợi, đầu là vương quốc, sau thành nước cộng hoà, sau nữa thành nước đế quốc, đến khi suy chia ra hai đế quốc đông và tây.

Tây đế quốc lại chia thành các nước Pháp, Đức. Đông đế quốc bị người Thổ Nhĩ Kỳ đánh diệt.

Hiện nay La Mã (Rome) là thủ đô Ý Đại Lợi.

Giu Đa nghịch Đạo dân ly loạn,

La Mã tùng chơn nước thạnh hành.

(Thơ Phạm Mộc Bổn).

 

 

LA VÕNG

羅 網

La: Lưới đánh chim. Võng: Lưới bẫy thú.

La võng, do chữ “Thiên la địa võng 天 羅 地 網” là lưới giăng trên trời và bẫy dưới đất. Nghĩa bóng chỉ những điều người ta bày ra để đánh bẫy mình.

Trong Đạo Cao Đài, bài Kệ Chuông U minh, lời nguyện thứ 12 có câu: Phi cầm tẩu thứ la võng bất phùng 飛 禽 走 獸 羅 網 不 逢, nghĩa là loài chim bay, loài thú chạy không gặp lưới giăng trên trời, dưới đất đánh bắt.

Phi cầm tẩu thứ la võng bất phùng.

(Kệ U Minh).

 

 

1.- Lá là bộ phận của cây, mọc ở cành con, hình dáng to nhỏ mỏng, dày tuỳ theo loại cây. Như: Lá chuối, lá cam.

Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Cội sởn sơ mới có đâm chồi trổ tược, nhành sum sê, hoa đơm sắc sảo, rồi mới đến trái oằn sai mà thành kết quả xứng đáng.

Biệt cành rụng đầy rừng,

Con thuyền Bát Nhã lỡ chừng độ duyên.

(Ngụ Đời).

2.- Lá lấy từ một loại cây dùng để kết thành tấm để lợp nhà, làm vách hoặc chằm thành giỏ xách, hay nón đội.

Như: Chòi lá, nhà lá, cột tre mái lá, nhà tranh vách lá, nón lá bài thơ.

Đạp giày cỏ nương cây gậy bá,

Mặc áo tơi nón che thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Con gậy tay cầm, râu tóc bạc,

Cái nhà lợp, cửa song thưa.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Dầu mình có thiếp hầu trăm ả,

Cũng nhớ nơi chòi mẹ ru con.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Lá là từ dùng để chỉ từng đơn vị vật có hình tấm, mảnh nhẹ hoặc giống như hình chiếc lá. Như: Lá cờ, lá gan, lá thư, là bùa.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Ngay chỗ bàn ngự của Thầy, phải để một cái ghế trước ngôi ba vị Ðầu Sư, vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy: “Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hoá Thiên Tôn”, lại vẽ thêm một bùa “Kim Quang Tiên” để thòng ngay giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng.

Chức Nữ khóc thầm biệt Ngưu Lang,

Trăng soi thêm chạnh gan vàng.

(Đạo Sử).

 

 

LÁ BỐI

Lá: Bộ phận của cây mọc ở cành con hay ở trên ngọn, mỏng và phẳng, sắc xanh. Bối: Cây bối đa.

Ngày xưa ở bên xứ Ấn Độ khi chưa có giấy viết, kinh điển của Phật giáo được ghi chép trên lá bối.

Do vậy, lá bối được dùng để chỉ kinh sách, ngoài ra còn gọi là “Bối kinh”, “Bối văn” hay “Bối diệp”.

Nắng giọi tờ mờ kinh Lá bối,

Mưa sa ướt át cốt Thần tiên.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LÁ HỒNG

Lá: Bộ phận của cây mọc ở cành con hay ở trên ngọn, mỏng và phẳng, sắc xanh. Hồng: Màu đỏ.

Lá hồng, như chữ “Hồng diệp 紅 葉” là lá đỏ, hay lá thắm dùng để chỉ nhân duyên vợ chồng.

Do tích: Đời Đường có cung nữ họ Hàn, viết vào chiếc lá đỏ một bài thơ, rồi thả theo dòng nước trong cung cho trôi ra. Vu Hựu nhặt được, hoạ lại bài thơ viết vào chiếc lá khác, rồi thả cho trôi trở vào, cung nữ họ Hàn cũng nhặt được.

Về sau vua Hy Tông thả hơn ba ngàn cung nữ, trong đó có nàng cung nữ họ Hàn, khi về nhà nàng tình cờ kết duyên với Vu Hựu. Trong đêm thành hôn hai người trao lá cho nhau xem mới biết nhơn duyên do chiếc lá kia làm mối. Người cung nữ họ Hàn có câu thơ như sau: Phương tri hồng diệp thị lương môi 方 知 紅 葉 是 良 媒, nghĩa là mới biết lá thắm là người mối tốt.

Xem: Thả lá doành câu.

Trông tin nhạn về đông mòn mỏi,

Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LÁ LÀNH ĐÙM LÁ RÁCH

Lá lành: Lá cây còn nguyên, ý chỉ người khá giả. Đùm: Cưu mang, che chở. Lá rách: Lá cây bị rách nát, chỉ người nghèo khó.

Lá lành đùm lá rách là câu tục ngữ Việt Nam, có nghĩa người khá giả, giàu có giúp đỡ, đùm bọc người đói rách, nghèo hèn.

Nhớ chữ lá lành đùm lá rách,

Xin người lòng thiện mở lòng nhơn.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

LÁ NGỌC CÀNH VÀNG

Lá cành: Những bộ phận của cây. Ngọc vàng: Ý chỉ sự quý phái.

Lá ngọc cành vàng, bởi câu thành ngữ “Kim chi ngọc điệp 金 枝 玉 葉”, là cành vàng lá ngọc, dùng để chỉ người trong dòng họ nhà vua, hay người quý phái.

Sách Tiêu Phong Nhạc Từ có câu: Kim chi phồn mậu, Ngọc diệp diên trường 金 枝 繁 茂, 玉 葉 延 長, nghĩa là cành vàng sum sê, lá ngọc dài tốt.

Lá ngọc cành vàng, đáng tiếc thay,

Vì sao nên nỗi phải lưu đày?

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LÁ NGÔ

Lá: Bộ phận của cây mọc ở cành con hay ở trên ngọn, mỏng và phẳng, sắc xanh. Ngô: Cây ngô đồng.

Lá ngô, cùng nghĩa với “Lá đồng”, tức chỉ lá cây ngô đồng, một loại cây có thân cao, cành lá xanh biếc, nhưng đến mùa thu thì lá vàng rụng.

Lá ngô chỉ thời gian dần trôi qua, hay chỉ mủa thu.

Xem: Ngô đồng.

Chiếc lá ngô rơi khắp phố phường,

Tin thu như nhắc cảnh phong sương.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LÁ NGÔ ĐỒNG

Lá: Bộ phận của cây mọc ở cành con hay ở trên ngọn, mỏng và phẳng, sắc xanh. Ngô đồng: Cây ngô đồng, một loại cây có thân cao, cành lá xanh biếc, nhưng đến mùa thu thì lá vàng rụng.

Lá ngô đồng là lá cây ngô đồng, chỉ thời gian trôi qua hay chỉ mùa thu.

Xem: Ngô đồng.

Sông mai lạc lối dặm hồng,

Đề thơ cậy lá ngô đồng rơi tin.

(Nhứt Nương Giáng Bút).

 

 

LÁ THẮM

Lá: Bộ phận của cây mọc ở cành hay ở trên ngọn, mỏng và phẳng, màu xanh. Thắm: Đỏ.

Lá thắm, cũng như “Lá hồng”, do chữ “Hồng diệp 紅 葉”, lấy tích Vưu Hựu đời Đường, kết duyên với cung nữ họ Hàn Thị, mới biết rằng nhân duyên hai người do chiếc lá kia làm mối.

Xem: Lá hồng.

Lá thắm vớt nhằm duyên túc trái,

Lời vàng trót hẹn buổi ban sơ.

(Thơ Hoàng Nguyên).

Khéo đề lá thắm thơ Vu Hựu,

Khen chọn vợ hiền gái Mạnh Quang.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

, tiếng dùng để chỉ nghĩa gì, ra sao, hoặc người hay sự vật thế nào.

Như: Cao Đài là một tôn giáo mới khai sinh, ông ấy là vị chức sắc Hiệp Thiên Đài.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Ðạo quý, của quý chẳng bán nài, các con đừng thối chí.

Chín Trời mười Phật cũng Ta,

Truyền Ðạo chia ra nhánh nhóc ba.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Danh vốn bùa mê muội thế,

Thế không đạo đức thế không thành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÀ ĐÀ

Là đà là sà xuống thấp một cách nhẹ nhàng, lả lướt.

Như: Cành liễu là đà trên mặt hồ, Khói bay là đà.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ðạo và Ðời khác nhau ở chỗ một cao, một thấp, một trắng một đen. Nếu Ðạo cũng là đà nơi chỗ thấp hèn như ở bến chợ đời thì Ðạo có ích gì cho chúng sanh? Và Ðạo lấy gì để làm gương mẫu và cảnh tỉnh thiên hạ?

Nhánh cây đáp xuống là đà,

Vội vàng chào hỏi gọi là bạn thân.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LẢ LƠI

Lả lơi là tỏ ra suồng sã, không đứng đắn trong quan hệ nam nữ, hoặc đùa cợt có tính cách khêu dâm.

Dạy về Tứ đức, trong Giáo Lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Bởi có tư tưởng trong lòng mới tỏ ra ngoài lời nói, thành thử, lời nói năng phải cẩn thận. Không nói lả lơi, không nói hoa nguyệt, không nói xằng, không nói bậy; không ngồi lê, đôi mách, không nói dối.

Ngăn ngừa cái thói lả lơi tình,

Ðừng động tâm mình thấy sắc xinh.

(Đạo Sử).

 

 

LÃ CHÃ

Lã chã là tiếng dùng để chỉ nước mắt hay mồ hôi rơi, chảy thành giọt nhiều và không dứt.

Ví dụ: Mồ hôi lã chã trên trán, nước mắt tuôn rơi hai hàng lã chã.

Nuốt tiếng than đôi hàng lã chã,

Tưởng đến điều nhơn quả mà đau.

(Kinh Thế Đạo).

Hạt châu lã chã vừa tan tạnh,

Tiếng nhạn kêu chầm vẳng vẳng xa.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LẠ

1.- Lạ là không quen, chưa từng biết.

Như: Khách lạ, đi con đường lạ, nhà lạ khó ngủ, trước lạ sau quen.

Không cha mẹ như người đi cảnh lạ.

Thân cô đơn lạc ngả bơ vơ,

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lạ còn có nghĩa khác thường, ít có, không thường có, không thường trông thấy.

Thánh giáo Thầy có câu: Ngôi vị Bạch Ngọc Kinh chẳng ưa chứa kẻ hung hăng, mà lạ một điều là kẻ hung hăng đạo đức thường phá cửa lúng đặng vào, địa vị phần nhiều đoạt bởi kẻ ấy.

Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,

Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.

(Kinh Sám Hối).

Thấy mọi vẻ của đời mới lạ,

Bán mẹ cha rẻ giá sắm cho vừa.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẠ LÙNG

Lạ: Khác thường, không quen biết.

Lạ lùng là rất lạ, khác thường, thấy khó hiểu, hoặc làm cho phải ngạc nhiên.

Lạ lùng còn có nghĩa là chưa từng quen biết, xa lạ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Phái nam được hưởng một đặc ân của Đức Chí Tôn, ngày nay lập quyền Cửu Trùng Đài nam phái là nhờ đức tin lạ lùng của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt buổi nọ lưu lại họ hưởng đó vậy.

Dìu dắt tìm ra lối lạ lùng,

Bóng Trời xúm xít đỡ nương chung.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tình lãnh noãn lạ lùng thay,

Càng lắm gần nhau lắm dể mày.

(Bát Nương Giáng Bút).

Biển trần đắm khách nhiều trôi nổi,

Đường Đạo thương ai bước lạ lùng.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LẠ THƯỜNG

Lạ: Khác thường, ít có, hiếm, không thường có. Thường: Luôn luôn, không đổi, bình thường.

Lạ thường là khác thường đến mức phải ngạc nhiên.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo của Thất Nương Diêu Trì Cung có dạy: Em mới để dạ lo lường, cả lòng lân ái đến đó. Em đã chán thấy nhiều tội tình chẳng trọng hệ, song có hồn chịu sầu thảm lạ thường. Em đã liệu nhiều phương thế cho từ đây mấy chơn hồn có bề dễ tránh khỏi cửa Âm quang hãm tội.

Trong ngày mười tám vẫn an khương,

Tối lại bão to rất lạ thường.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Dừng chân thưởng ngoạn quanh sau trước,

Dị thảo kỳ hoa đẹp lạ thường.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

LÁC ĐÁC

Lác đác là thưa thớt, rải rác đó đây, tức thưa và rời nhau, mỗi chỗ, mỗi lần có một ít, không tập trung, không gom lại thành cụm.

Như: Xóm nầy nhà cửa lác đác, chắc là ít dân cư lắm.

Mặt trời lố mọc nhành dương,

Mưa sa lác đác mùi hương nực nồng.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Cành dương lác đác sương sa,

Bóng quang âm ướm thoát qua biển trần.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LẠC

1.- Lạc là lầm, lạc, mất, không theo được đúng đường, đúng hướng phải đi. Như: Lạc lối, đánh lạc hướng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu dạy: Nếu chẳng phải do theo Ðạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm.

Rừng thiền ngàn dặm Trời soi bước,

Biển khổ muôn chia khách lạc đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Khỏi vòng mê tín lại đường ngay,

Lạc nẻo mau chơn liệu trở quày.

(Đạo Sử).

2.- Lạc là rơi xuống, rơi rụng. Như: Bay hồn lạc phách, truỵ lạc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thương người như thế tức là thương mình đó. Chí ư thương mình theo đời phù phiếm xa hoa tức là để cho dục vọng lôi cuốn theo mồi danh bả lợi, thâu của hoạnh tài làm điều phi nghĩa đễ rồi sa vào cảnh trụy lạc vướng lấy tội tình, rốt cuộc thân thể bị đoạ đày nơi hang sâu vực thẳm.

Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đoạ lạc.

(Kinh Tận Độ).

3.- Lạc là vui. Như: Khoái lạc, nhàn lạc, hoan lạc.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế Giái nếu biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở về cùng Thầy đặng. Mà hại thay, mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc thấy đặng kẻ ấy.

Bạch Vân nhàn lạc khoẻ thân già,

Thương kẻ nặng mang nợ quốc gia.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cảnh vui thú đẹp người hiền hậu,

Nghiệp khéo nghề hay nước lạc nhàn.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LẠC BƯỚC

Lạc: Không theo đúng đường, đúng hướng phải đi. Bước: Đi, bước đi.

Lạc bước là đi lạc, đi sai đường, sai hướng. Như: Sa chân lạc bước.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Nếu chẳng phải do theo Ðạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm.

Hay là lạc bước nguồn Đào,

Để thương cho mặt anh hào đeo mang.

(Kinh Thế Đạo).

Tây đoài ác xế chín chiều,

Rừng hoang lạc bước ắt nhiều thú hung.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

Thương người lạc bước lỡ đường,

Tìm nơi Cung Tốt, lạc đường Bích Cung.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

LẠC CUNG

Lạc: Đi lệch ra. Cung: Cung đàn.

Lạc cung là cung đàn lạc điệu, tức cung điệu của tiếng đàn bị lỗi nhịp, ý chỉ vợ chồng đổ vỡ, không hoà hợp với nhau.

Phòng đào giữ rủi rơi trâm,

Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẠC ĐẠO AN BẦN

樂 道 安 貧

Lạc đạo: Vui với mùi đạo. An bần: An vui với cảnh nghèo nàn.

Lạc đạo an bần là nói người vui theo mùi đạo và yên phận với cảnh nghèo.

Như: Người tu lúc nào cũng lạc đạo an bần.

Tranh danh đoạt lợi cho rằng trí,

Lạc đạo an bần cũng chẳng ngu.

(Thơ Thành Toại).

Lạc đạo an bần noi Thánh triết,

Chữ nghèo thanh bạch, chẳng phân trần.

(Thơ Tử Quy).

 

 

LẠC ĐƯỜNG

Lạc: Không theo đúng đường, đúng hướng phải đi. Đường: Lộ, nẻo đi.

Lạc đường là đi không đúng đường, tức đi sai đường.

Lạc đường còn có nghĩa là đi sai chánh pháp, theo đường tà giáo.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Gặp được mối Ðạo mầu, chúng ta rất hữu phước được Ðức Chí Tôn dìu dắt và giáo hoá, chúng ta nên gắng công trau giồi tâm chí hầu nâng cao danh thể Ðạo và thức tỉnh những kẻ sai bước lạc đường.

Đỉnh chung là miếng treo gương,

Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.

(Tán Tụng Công Đức).

Rừng thiền ngàn dặm Trời soi bước,

Biển khổ muôn chia khách lạc đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LẠC HẬU

落 後

Lạc: Rơi, rớt. Hậu: Phía sau.

Lạc hậu là đi phía sau người, ý nói kém văn minh, chậm tiến bộ hơn người.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ở thế nầy dầu một vị Phật cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen, vì Phật đã biết con đường đi trước kia, dầu ai phàm, dầu ai lạc hậu cũng tới sau, họ chỉ biết một điều là chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho bạn đi cùng đường đạt lên Phật vị.

Lại cùng sống trên quả địa cầu, tại sao dân nầy văn minh, dân tộc kia lạc hậu?

(Thiên Đạo).

 

 

LẠC HOAN

樂 歡

Lạc: Vui vẻ. Hoan: Mừng vui.

Lạc hoan, như chữ “Hoan lạc 歡 樂”, dùng để chỉ việc rất vui mừng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Dưới tiềm lực yêu thương, những gì đắng cay đều biến thành dịu ngọt, những sự đau khổ sẽ biến thành nguồn lạc hoan.

Lạc hoan chưa phải buổi cho mình,

Nghĩa mặn tình nồng chớ dể khinh.

(Đạo Sử).

 

 

LẠC HỒNG

貉 鴻

Lạc: Lạc Long Quân. Hồng: Họ Hồng Bàng.

Lạc Hồng, do chữ “Hồng Lạc 鴻 貉”, tức là họ Hồng Bàng sinh ra Lạc Long Quân là vị vua đầu tiên nhất của nước Việt Nam.

Lạc Long Quân mới lấy bà Âu Cơ đẻ ra một trăm người con (có sách nói đẻ ra trăm cái trứng) là giòng giống của dân tộc ta, nên ghép chung “Lạc Long Quân” và “Hồng Bàng” là “Lạc Hồng”.

Xem: Hồng Lạc

Nước nhà ta có tiếng anh phong,

Vẻ đẹp trời Ðông sắc Lạc Hồng.

(Đạo Sử).

Máu xương ví để tô Nam đảnh,

Tình nghĩa hằng nâng đỡ Lạc Hồng.

(Thơ Hộ Pháp).

Dày công dựng nghiệp giữa trời đông,

Non nước xinh tươi vẻ Lạc Hồng.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

LẠC HỨNG

樂 興

Lạc: Vui mừng. Hứng: Lòng phấn phát.

Lạc hứng là hứng thú vui mừng.

Thánh giáo Lục Nương Diêu Trì Cung có câu: Phải có dạ chí thành, phải có tâm cương quyết, muôn việc đồng thanh tương ứng, hiệp với nhau làm một khối khư chặt, một như mười, mười như một, sớt thảm chia nồng với nhau mỗi khi lạc hứng, khuyên đừng tư kỷ, chi chi cũng có cậy nhờ Bề trên chỉ dẫn.

Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ,

Thoát tai bá tánh ngưỡng Ân sinh.

(Bài Dâng Rượu).

Lương tâm thơ thới chí an bần,

Lạc hứng đạo mầu đặng khoẻ thân.

(Thơ Mai Ngọc Nhiễu).

 

 

LẠC LẦM

Lạc: Sái đường. Lầm: Làm sai, nghĩ không đúng.

Lạc lầm là phạm lỗi lầm do không nhận ra lẽ phải, tức là lầm đường lạc bước, ý nói đi không đúng đường.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chừng ấy không phương thuốc gì trị được cả, tâm lý phải chia lìa thì tình kia phải xa cách, mới dễ bỏ nhau thay chồng đổi vợ, con cái sanh ra thấy tấn tuồng ấy tập tánh học theo, biểu sao tương lai không hư hèn và tánh đức không lạc lầm phàm tâm lìa đạo đức.

Phong trần quen thú cung âm,

Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô.

(Kinh Tận Độ).

Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,

Biết lạc lầm sám hối tội căn.

(Kinh Sám Hối).

Chúng ta từ thử bạn đồng tâm,

Dìu bước nhơn sanh khỏi lạc lầm.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LẠC LOÀI

Lạc: Lầm, lầm đường. Loài: Giống, đồng loại.

Lạc loài chỉ sự bơ vơ, không có chỗ dựa, do cuộc sống bị tách khỏi thân thích, đồng loại.

Như: Kiếp sống cô ta lạc loài tha phương cầu thực.

Máy linh cơ tạo nơi tay,

Giác mê cứu đám lạc loài nguyên nhân.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Gành Nam nêu đặng người tên tuổi,

Ðất Bắc mừng an bước lạc loài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tẻ vui đã hưởng mùi dưa muối,

Nơi thế dường như khách lạc loài.

(Đạo Sử).

 

 

LẠC LONG

貉 龍

Lạc Long tức là “Lạc Long Quân 貉 龍 君”, ý chỉ tổ tiên của dân tộc Việt Nam.

Theo truyền thuyết: Vua Đế Minh cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh, tỉnh Hồ Nam gặp một nàng tiên lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục. Đế Minh có hai người con: Con lớn là Đế Nghi được cho làm vua ở phương bắc, còn Lộc Tục làm vua phương nam, lấy hiệu là Kinh Dương Vương.

Kinh Dương Vương lấy nàng long nữ, con gái Động Đình Quân, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi hiệu là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân mới lấy bà Âu Cơ, con của Đế Lai, sinh ra một trăm trứng, nở ra trăm người con trai, là tổ tiên nòi giống của dân tộc ta, nên được coi như “Cha rồng mẹ tiên” (Long phụ tiên mẫu).

Xem: Con rồng cháu tiên.

Bảo tồn giống Lạc Long chuyển thế,

Ánh sao Khuê đã xế sân rồng.

(Xuân Hương Giáng Bút).

Lạc Long tạc để non sông Việt,

Thanh sử nêu loà khắp tứ phương.

(Thơ Huỳnh Bá Tòng).

 

 

LẠC NẺO

Lạc: Lầm, mất. Nẻo: Đường đi.

Lạc nẻo là lầm đường, tức là đi không đúng đường.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Thượng Phẩm có câu: Nhưng chừng bỏ xác phàm, được nhãn huệ quang rồi, Em lại thương đau thương đớn, dường như sợ cho họ sái đường lạc nẻo, thì phải mất một bạn thiêng liêng rất quý trọng vậy.

Khỏi vòng mê tín lại đường ngay,

Lạc nẻo mau chơn liệu trở quày.

(Đạo Sử).

Dụ khách phồn hoa xa nẻo tục,

Dẫn đường cho lạc nẻo về Trời.

(Đạo Sử).

 

 

LẠC NẺO ĐƯỜNG

Lạc: Lầm, mất. Nẻo đường: Đường đi.

Lạc nẻo đường, như chữ “Lạc nẻo”, là lầm đường, tức là đi không đúng đường.

Như: Đi lạc nẻo đường tồi phải quay trở lại.

Xem: Lạc nẻo.

Nam kia ví bẳng nhiều hàng mặc,

Ðạo đức chưa ai lạc nẻo đường.

(Đạo Sử).

 

 

LẠC NGHIỆP

樂 業

Lạc: Vui vẻ. Nghiệp: Nghề nghiệp.

Lạc nghiệp là cùng nhau vui với nghề nghiệp.

Trong Sớ Văn có câu: Phục hồi thượng cổ Thánh đức, lạc nghiệp âu ca, cộng hưởng thanh bình, an ninh hạnh phước 復 回 上 古 聖 德, 樂 業 謳 歌, 共 享 清 平, 安 寧 幸 福, nghĩa là xây dựng lại đời Thượng cổ Thánh đức, cùng ca hát để xuy tụng lạc nghiệp, cùng nhau hưởng cảnh thanh bình, an ninh hạnh phước.

Đất đai rộng mở cõi bờ,

Muôn dân lạc nghiệp may nhờ phước trên.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

LẠC NHẠN NGƯ TRẦM

落 雁 魚 沉

Lạc nhạn: Con nhạn bị rơi xuống. Ngư trầm: Con cá bị chìm xuống nước.

Lạc nhạn ngư trầm là chim nhạn bị rơi, con cá bị chìm dưới nước, ý nói bị chìm đắm nơi biển khổ, biết bao giờ mới thoát ra được.

Ta than lỗi bậc cung cầm,

Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẠC QUAN

樂 觀

Lạc: Vui vẻ. Quan: Xem, nhìn.

Lạc quan là nhìn đời bằng con mắt tin yêu, vui vẻ, tức có thái độ tin tưởng ở tương lai tốt đẹp.

Như: Nhìn cô gái thấy vẻ lạc quan yêu đời, tình hình hiện tại rất lạc quan.

Nhà lan cửa hạnh vui đoàn tụ,

Vườn đạo hoa lòng nở lạc quan.

(Thơ Thuần Đức).

Sum vầy cửa Đạo tâm thư thới,

Hội hiệp đường Đời chí lạc quan.

(Thơ Ngọc Triệu Thanh).

 

 

LẠC QUYÊN

樂 捐

Lạc: Vui vẻ. Quyên: Vận động người giúp đỡ tiền bạc, vật hạng.

Lạc quyên là vui vẻ bỏ tiền ra giúp đỡ người, hoặc tổ chức vận động mọi người đóng góp tiền bạc, vật chất để giúp đỡ người tàn tật, hay đói khổ.

Như: Lạc quyên để giúp đồng bào bị nạn.

Ty giáo huấn nên lập cuốn sổ lạc quyên dưới quyền của Thượng Chánh Phối Sư...

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

LẠC THƠ

Hay “Lạc thư”.

Lạc: Sông Lạc bên Trung Hoa. Thơ (thư): Sách.

Lạc thơ, như chữ “Lạc thư 洛 書”, là cuốn sách ghi những dấu chấm trên lưng con rùa linh xuất hiện khi vua Hạ Võ trị thuỷ ở nơi sông Lạc.

Theo truyền thuyết, khi vua Hạ Võ trị thuỷ, nước lụt có con rùa nổi lên, trên mai rùa có vằn số từ 1 đến 9, do đó Thánh nhân mới vạch ra cửu trù hồng phạm.

Hệ Từ Thượng Truyện viết: Thư xuất hiện ở sông Lạc, đến đời nhà Tống, noi theo đó người ta mới vẽ ra lạc thư hay “Lạc thơ”.

Sau Trần Đoàn, căn cứ theo Hà đồ và Lạc thư mà soạn thành một quyển lý số, gọi là Hà đồ lạc thư.

Bảy năm Dũ lý nhọc nhằn,

Hà Ðồ Bát Quái dịch thành Lạc Thơ.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LẠC THÚ

樂 趣

Lạc: Vui vẻ. Thú: Điều làm cho mình ưa thích.

Lạc thú là những cái cái thú vui làm cho lòng mình cảm thấy ham thích, vui vẻ.

Nói về mục đích của nhạc, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có câu: Tả đặng tánh tình u ẩn của con người, vì hễ lòng phiền muộn thì tiếng nhạc ai oán bi thương, còn lòng thơ thới vui vẻ, thì tiếng nhạc ôn hoà lạc thú.

Bỗng chợt thấy anh gà bạn cũ,

Đắm chìm trong lạc thú xa hoa.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LẠC XIÊU

Lạc: Thất lạc, mất. Xiêu: Nghiêng lệch.

Lạc xiêu, như chữ “Xiêu lạc”, có nghĩa là xiêu bạt, xiêu giạt, tức bị hoàn cảnh bắt buộc phải rời bỏ quê nhà đến những nơi xa lạ.

Đã mê đắm tục quen chừng,

Lạc xiêu ngoại đạo máng chưn bẫy dò.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LÁCH TÁCH

Lách tách là từ mô phỏng những tiếng nhỏ, gọn, liên tiếp, như tiếng nổ của muối rang.

Thí dụ: Mưa rơi lách tách trên mái hiên, than nổ lách tách trong bếp.

Lách tách mưa thưa đêm bứt rứt,

Bùi ngùi trống gióng tiếng đìu hiu.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

LẠCH

Lạch là đường nước chảy hẹp và nông, ít dốc, thông được ra sông hồ. Như: con lạch ven xóm.

Lạch còn có nghĩa là chỗ sâu nhứt trong dòng sông. Như: Lội sống mới biết lạch nào cạn sâu.

Thông tường nguồn lạch cội nhành,

Là phương hoà hiệp mới rành trước sau.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LAI

Lai là lại, tới. Như: Lai kinh, lai lịch, lai sinh, hậu lai, tương lai.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy há chẳng có lời tiên tri rằng Thần Linh Học là một nền đạo tương lai sao?

Giữ cho trong sạch linh hồn,

Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LAI LÁNG

1.- Lai láng là tràn đầy khắp cả như đâu cũng đều có.

Như: Nước nguồn đổ về lai láng, trời mưa lớn hôm qua ngập sân lai láng.

Càng hung lai láng cả hoàn cầu,

Nhơn loại lao mình xuống hố sâu.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Lai láng còn dùng để chỉ tinh thần, tình cảm dâng đến mức chứa chan, tràn ngập.

Trong Đạo Sử, bài Bia Kỷ niệm Đức Cao Thượng Phẩm có đoạn: Thương thay! Tiếc thay! Song nghĩ lại, tuy thể phách tách rời trần thế mà tinh thần còn lai láng như xưa, muôn năm theo độ rỗi chúng sanh, ngàn thuở vẫn mặc phò Ðại Ðạo.

Ve dáo dác xa gần rủ bạn,

Nhớ chị em lai láng lòng trông.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Tình tôi lai láng lụy tuôn dầm,

Vừa ngoái lại nhìn cảnh tối tăm.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LAI RAI

Lai rai là vừa vừa, chừng chừng, tức không tập trung vào một thời gian mà rải ra mỗi lúc một ít, kéo dài như không muốn dứt.

Như: Trước sân chùa lai rai vài chú đạo, mưa lai rai suốt ngày trời, ngồi lai ra với xị rượu.

Trước Ðiện lai rai ba chú Ðạo,

Sau hiên meo mốc mấy pho kinh.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

LAI VÃNG

來 往

Lai: Đến, tới. Vãng: Đi

Lai vãng là qua lại, lui tới.

Như: Nơi đây ít người lai vãng, nơi cấm không ai được lai vãng.

Xưa Toà Thánh dập dìu lai vãng,

Nay Bửu Ðình hiu quạnh lụy nhìn.

(Thơ Thượng Phẩm).

 

 

LÁI

1.- Lái là bộ phận dùng để điều khiển các phương tiện vận tải làm cho đi đúng hướng.

Như: Bánh lái, thuyền đi đúng hướng nhờ tay lái.

Cười như Lữ Vọng lúc suy thời,

Chẳng lái chẳng chèo khó nổi bơi.

(Đạo Sử).

Phải noi gương cha giữ lái giữ lèo,

Phương tiện tặn làm theo đâu thốn thiếu.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lái còn có nghĩa điều khiển các phương tiện vận tải. Như: Lái xe, lái thuyền, lái tàu.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngày nay về đảm đương việc Ðạo, chúng tôi quyết tôn trọng tinh thần tập thể, nghĩa là sẽ chung trí mà lái con thuyền Ðạo giữa cơn sóng gió bão bùng.

Bát Nhã từ đây vững lái thuyền,

Tuông pha khổ hải độ nhơn duyên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cười như Lữ Vọng lúc suy thời,

Chẳng lái chẳng chèo khó nổi bơi.

(Đạo Sử).

Thanh bạch quyết gìn ra sức lái,

Sắc son bao quản nhọc công dò.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

LÁI BUÔN

Lái: Người chuyên buôn chuyến một loại hàng hoá nhứt định. Buôn: Mua hàng rồi bán lại kiếm tiền lời.

Lái buôn là người chuyên nghề buôn bán lớn và buôn bán đường dài.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Nếu Bần Ðạo không vi chủ đặng đè nén con vật nầy, chỉ biết sống như con vật thì đã quên hẳn mình là gì, chẳng cần luận, đương nhiên nhơn loại lâm vào cảnh vay trả như anh lái buôn bị gian lận nhiều nên bán lỗ, ấy là nhơn.

Nếu lái buôn biết kế đút lòn,

Hại lúa phải nảy con ra mộng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẠI

1.- Lại là tới, trở về. Như: Khách lại nhà chơi, kẻ qua người lại, hắn sẽ trở lại.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Bởi thế nên nay chính Thầy phải đến để đem lại cho các con nền hoà bình đã từng hứa hẹn.

Tình ái nhành dương đem rưới tắt,

Nắm tay dìu lại cõi Tiên bang.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngày lại tháng qua đời chóng chạy,

Chạy quanh chưa mệt đã qua ngày.

(Đạo Sử).

2.- Lại là thêm một lần nữa. Như: Đã nói rồi lại nói nữa, Anh ấy đi rồi lại đi nữa.

Thánh giáo Thầy có câu: Vậy thì các con phải hết lòng hết sức mà gìn giữ lấy mình, đã chẳng phải giữ mình các con mà thôi, lại còn gìn giữ cả môn đệ Thầy nữa.

Ðào Nguyên lại trổ trái hai lần,

Ai ngỡ Việt Thường đã thấy lân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Vui nhơn vui Ðạo lại vui thiền,

Vui một bước đường một bước yên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Lại là người ty thuộc ở các nha môn ngày xưa.

Như: Quan lại, quan tham lại nhũng.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Về phần quan lại, Phụ mẫu chi dân quyền hành rất rộng rãi, một tay sanh sát, ra có kẻ bẩm, người trình, đối với dân đen là bậc thánh thần bất khả xâm phạm, nếu chẳng giữ tâm chánh, để dục vọng lôi cuốn, thì trăm họ lầm than muôn dân khổ sở.

Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,

Tớ phản thầy, quan lại bất trung.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LẠI NHŨNG QUAN GIAN

吏 冗 官 奸

Lại nhũng: Chức lại quấy rối, nhũng nhiễu dân, như câu: Quan tham lại nhũng. Quan gian: Chức quan gian tham.

Lại nhũng quan gian là nói quan lại gian dối, tham nhũng tiền của và nhiễu hại nhân dân.

Thất xã tắc, dân mình nghịch chủng,

Quen nghề tham, lại nhũng quan gian.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẠI VIỆN

吏 院

Lại: Quan lại, làm việc quan. Viện: Nơi làm việc.

Theo đạo Cao Đài, Lại Viện là một cơ quan trong Cửu Viện Cửu Trùng Đài, có nhiệm vụ thuyên bổ Chức sắc đi hành đạo ở các địa phương, ban hành các luật lịnh của Hội Thánh, tiếp nhận văn thư của các địa phương gửi về, quản lý hồ sơ hành chánh của các Chức sắc.

Nắm quyền Lại Viện là một vị Thượng Thống, phẩm Phối Sư phái Ngọc, có các vị Phụ Thống, Quản Văn Phòng và Thư ký giúp việc. Lại Viện chịu dưới hệ thống của Ngọc Chánh Phối Sư.

Còn Lại Viện nữ phái do vị Nữ Chánh Phối Sư đứng đầu, chỉ điều hành bên nữ phái mà thôi.

Nhưng có lần Bần đạo luận rằng, Ngọc Chánh Phối Sư phải có làm Lại Viện mới được công cử, điều ấy mâu thuẫn với luật định do quyền Đức Lý Giáo Tông.

(Thánh Giáo Hộ Pháp).

 

 

LAY

Lay là làm rung động, tức ở trạng thái lắc qua lắc lại, không còn giữ được thế ổn định ở một vị trí.

Như: Gió lay cành cây, lay bật cọc hàng rào, không lay nổi ý chí sắt đá.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Rèn trau cho thuần tâm mỹ tánh rồi mới lần đến bề ngoài, trọn cả ngoài lẫn trong thì chừng ấy thân hình tâm trí chắc khư nào ai chuyển lay cho được.

Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,

Gió lay đèn tắt, nguyệt làu làu.

(Giới Tâm Kinh).

Ðức trước hưởng thừa tâm vẹn giữ,

Nhân sau để dấu chí đừng lay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LAY CHUYỂN

Lay: Làm rung rinh, không còn giữ được thế ổn định ở một vị trí. Chuyển: Rung, động đậy, thay đổi.

Lay chuyển là làm rung động, cảm động, tức làm cho không còn giữ được nguyên vị trí, trạng thái ổn định.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo nói quả quyết mỗi sự khó khăn gay trở, mọi sự khổ hạnh, mà Thánh Thể Đức Chí Tôn đã chịu mà có thể thắng được mọi trở lực là nhờ khối thương yêu của Đức Chí Tôn đã dành để cho chúng ta, nếu chúng ta lấy khối thương yêu cứng rắn ấy làm căn bản, thì không có quyền năng nào dưới thế gian nầy làm cho khối ấy lay chuyển, tiêu diệt được.

Dũng là giữ niềm hoà khí, lúc nào cũng sống với đạo lý của mình, ý chí không thể bị lay chuyển dù là lúc bình thường hay trong hồi nguy biến.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LAY ĐỘNG

Lay: Làm rung chuyển. Động: Động đậy, nhúc nhích.

Lay động là làm rung động, hay chuyển động.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Mấy chuyện con tính đều được. Tâm chí các con lay động ưu tư tất là Thần, Thánh dẫn đường để chỉ cho con ra khỏi lối mịt mờ, nhưng đặng cùng không, nên hay hư, đều tại nơi tấc thành của mỗi đứa nữa.

Những sự tranh tụng là những nét của phàm tâm, chẳng đủ chi lay động chí của các đấng chân thành vì Ðạo.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LÁY

Láy là nói đi nói lại nhiều lần. Như: Láy lại mãi câu chuyện xưa cũ.

Láy còn dùng để chỉ làm dấu hiệu để người khác nhận biết một điều gì đó.

Như: Nó láy tôi ra ngoài.

Thừa dịp đặng treo giò chú Lía,

Láy vợ hiền người xỉa miệng vô.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẠY

Lạy là chắp tay, quỳ gối và cúi gập mình để tỏ lòng cung kính, theo lễ nghi tôn giáo. Như: Lạy Thần, Thánh, Tiên, Phật, cúi lạy, lạy bốn lạy.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Phải thường hỏi lấy mình, khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa, mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng?

Danh hư đáng trọng cũng đôi khi,

Chưa phải cân đai chịu lạy quỳ.

(Đạo Sử).

Đừng chê tánh già hay thờ lạy,

Bởi nuôi con khấn vái biết bao phen.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẠY LÀ GÌ

Lạy là gì, câu hỏi nầy có nghĩa là lạy như thế nào, nhằm mục đích gì.

Cách lạy:

Theo nghi thức đạo, lạy là chấp hai bàn tay, quỳ gối và cúi đầu xuống thật thấp để tỏ lòng thành kỉnh.

Trong Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn dạy về cách lạy như sau: Chấp hai tay lạy là tại sao? Tả là nhựt, hữu là nguyệt, vị chi âm dương. Âm dương hiệp nhứt phát khởi Càn khôn, sanh sanh hoá hoá, tức là Ðạo.

Lạy kẻ sống 2 lạy là tại sao? Là nguồn cội của nhơn sanh lưỡng hiệp âm dương mà ra. Ấy là Ðạo.

Vong phàm lạy 4 lạy là tại sao? Là vì hai lạy của phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Ðịa.

Lạy Thần, lạy Thánh 3 lạy là tại sao? Là lạy Ðấng vào hàng thứ ba của Trời và cũng chỉ rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Ấy là Ðạo.

Lạy Tiên, lạy Phật 9 lạy là tại sao? Là tại chín Ðấng Cửu Thiên Khai Hoá.

Còn lạy Thầy 12 lạy là tại sao?

Các con không hiểu đâu.

Thập nhị Khai Thiên là Thầy, chúa cả Càn khôn Thế giới, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy.

Ý nghĩa:

Có nhiều người trong xã hội, vì không có đức tin với tôn giáo thấy ai tin Trời tưởng Phật, thường đi cúng lạy thì cho là mê tín. Tại sao phải quỳ lạy làm mất đi cái nhân cách của mình.

Chúng ta nên biết, cử chỉ bên ngoài của chúng ta có ảnh hưởng đến tâm hồn chúng ta sâu xa vì cái cử chỉ hành động bên ngoài gắn liền, kết hợp với cái ý nghĩa chứa đựng bên trong tâm hồn. Do đó, nếu cử chỉ bên ngoài chúng ta trang nghiêm thì tâm hồn chúng ta cũng trang nghiêm và nếu bên ngoài ngưỡng mộ, tôn kính thì tâm hồn chúng ta cũng ngưỡng mộ, tôn kính.

Ngược lại, tâm hồn bên trong cũng ảnh hưởng đến cử chỉ hành động bên ngoài chúng ta. Hai điều ấy luôn đi đôi mật thiết nhau. Thế nên, nếu chỉ có lòng kính trọng bên trong tâm hồn mà không có thể hiện cử chỉ bên ngoài thì rồi sự kính trọng ấy cũng mất đi.

Do vậy, để tỏ lòng ngưỡng mộ tôn kính, cảm tạ cái ân đức bao la của Đức Chí Tôn hay các bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật, chúng ta có thể giữ sự cung kính chí thành nơi tâm hay dùng lời nói để thể hiện không? Chắc hẳn là không, vì nếu chỉ dùng lời nói suông thôi thì e rằng chưa đủ, còn nếu chúng ta chỉ ngưỡng mộ cung kính nơi tâm chúng ta thôi thì người ta không thấy rõ cái tâm ấy ra sao. Theo ý người xưa thì chỉ có dùng lễ bái mới thấy rõ được sự tôn kính bên trong tâm đó.

Chính sách Phật có câu: Lễ Phật giả kính Phật chi đức 禮 佛 者 敬 佛 之 德, nghĩa là lạy Phật là kỉnh cái đức của Phật.

Và trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn cũng có dạy: Lạy là tỏ ra bên ngoài, lễ kỉnh trong lòng.

Vậy lạy Đức Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật là nhằm biểu lộ đức tính khiêm tốn và để tỏ bày lòng tôn kính tri ân, tưởng niệm ân đức cao dày và phát nguyện hướng về các Đấng để tiến tu đạo nghiệp, kính trọng hạnh nguyện, tâm lượng từ bi hỷ xả, trí huệ rộng lớn của các Đấng ấy.

Mục đích của lễ bái các Đấng thiêng liêng không vì van xin tha tội, không vì cầu mong ban ơn được giàu sang phú quý... Chỉ ví kính công đức tròn lành, giác ngộ trí huệ từ bi viên mãn. Lễ bái các Đấng chính vì chúng ta muốn học tập noi theo gương của các Đấng ấy để được giác ngộ, giải thoát và đồng thời cũng là cơ hội để chúng ta dẹp bỏ tâm ngạo mạn và những ngã chấp của thế gian nhằm diệt phiền não, loại bỏ tánh kiêu mạn, tăng trưởng đạo lực trong nội tâm của người tu tập.

Khi cúi mình xuống lạy cũng là để mình nhìn sâu vào nội tâm, quán chiếu vô thường, vô ngã hầu cải hối những lỗi lầm đã phạm phải như lời Đức Chí Tôn đã dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau:

“Phải thường hỏi lấy mình, khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa, mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng?

Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa đặng yên tịnh thì phải biết cải quá, ráng sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con có lo chi chẳng bì bực Chí Thánh”.

Như vậy việc lễ bái hằng ngày cũng là một phương pháp để chúng ta xét nét những hành vi xấu xa của mình để cải quá mà trở nên cao thượng. Nhờ lễ bái hằng ngày mà chúng ta tự thánh hoá con người mình và làm cho đạo tâm của mình được phát triển, như câu: “Lễ bái thường hành tâm đạo khởi 禮 拜 常 行 心 道 起”.

Tóm lại, lạy Đức Chí Tôn hay các Đấng Thần Thánh Tiên Phật là vì cung kính các đức hạnh của các Đấng ấy và cũng nhằm để biểu lộ lòng thành kính, tri ân Người đã chỉ dạy và soi sáng cho mình con đường dẫn đến hạnh phúc thật sự là giải thoát.

Lạy là gì? Là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong lòng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LẠY VONG PHÀM

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đàn cơ ngày 13 tháng 1 năm Bính Dần (Dl. 25/2/1926), Đức Chí Tôn có dạy Ngài Lê Văn Trung cách bái lễ như sau: Khi bái lễ, hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.

Điều nầy, mặc dù Đức Chí Tôn không nói, nhưng chúng ta nghĩ rằng trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, người đạo Cao Đài khi lạy phải bắt ấn Tý, nói cách khác ấn Tý là cái ấn đặc biệt của thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Cũng trong bài Thánh giáo trên, khi dạy về cách lạy, Đức Chí Tôn có giải thích ý nghĩa từng trường hợp lạy:

“Lạy là gì? Là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong lòng.

Chấp hai tay lạy là tại sao? Tả là nhựt, hữu là nguyệt, vị chi âm dương. Âm dương hiệp nhứt phát khởi Càn khôn, sanh sanh hóa hóa, tức là Ðạo.

Lạy kẻ sống hai lạy là tại sao? Là nguồn cội của nhơn sanh lưỡng hiệp âm dương mà ra. Ấy là Ðạo.

Vong phàm lạy bốn lạy là tại sao? Là vì hai lạy của phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Ðịa.

Lạy Thần, lạy Thánh ba lạy là tại sao? Là lạy Ðấng vào hàng thứ ba của Trời và cũng chỉ rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Ấy là Ðạo.

Lạy Tiên, lạy Phật chín lạy là tại sao? Là tại chín Ðấng Cửu Thiên Khai Hóa.

Còn lạy Thầy mười hai lạy là tại sao?

Các con không hiểu đâu.

Thập nhị Khai Thiên là Thầy, chúa cả Càn khôn Thế giới, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy”.

Như vậy, qua những lời Thánh giáo trên, chúng ta nhận thấy Đức Chí Tôn dạy về cách bắt ấn Tý, rồi giải thích chung cách lạy người sống, vong phàm, Thần, Thánh, Tiên, Phật và Đức Chí Tôn mà Ngài không phân biệt việc có bắt ấn Tý hay không giữa lạy vong phàm và các Đấng Thiêng Liêng.

Thế mà trong Đạo có người phân biệt cách lạy vong phàm và các Đấng Thiêng Liêng. Theo những người nầy, ấn Tý chỉ dành để lễ bái Đức Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mà thôi, còn vong phàm không bắt ấn Tý, mà hai tay nắm lại, hai ngón cái đặt song song nhau.

Chúng tôi còn nhớ, vào những năm 1960, khi đi cúng liên gia, thường được nghe các vị chức việc dạy: Ấn Tý dùng để lạy Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, và các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, còn lạy vong phàm thì không bắt ấn Tý.

Sau nầy chúng tôi có thấy được một văn bản, không biết có phải thực lời dạy của Đức Hộ Pháp hay không, trong đó, có lời dạy như sau: Xá người sống hay lạy vong phàm không bắt Ấn Tý. Ấn Tý dành để lạy chư Thần, Thánh, Tiên, Phật hoặc Chí Tôn mà thôi.

Do vậy, trước đây khi lạy vong phàm (hay lạy ông bà) có một số người bắt ấn Tý, một số khác lại không.

Chính vì quan niệm lạy vong không bắt ấn Tý, nên những người nầy trong nghi lễ Cầu Siêu các vong linh, họ chỉ đứng khoanh tay mà thôi (tay không bắt ấn Tý).

Sự việc nầy kéo dài rất nhiều năm trước đây trong đạo Cao Đài. Mãi đến năm 1970, Hội Thánh muốn nghi lễ được đồng nhứt, bèn cử ra một Ủy Ban Hỗn Hợp Tu Chỉnh để soạn thảo Quan Hôn Tang Lễ thống nhứt.

Quyển Quan Hôn Tang Lễ nầy do các Quyết Nghị Hội Thánh Lưỡng Đài theo các vi bằng như sau:

1. Vi Bằng số 6/VB ngày 29 tháng Giêng, mùng 4 và mùng 6 tháng 2 Nhâm Tý (Dl. 14, 18 và 20.3.1972).

2. Vi Bằng số 3/VB ngày mùng 7 tháng 11 Nhâm Tý (Dl. 12.12.1972).

3. Vi Bằng số 11/VB ngày mùng 8 và mùng 9 tháng 5 Ất Mão (Dl. 17 và 18.6.1975).

4. Vi Bằng số 17/VB ngày mùng 4 tháng 9 Ất Mão (Dl. 8.10.1975).

5. Vi Bằng số 1/VB ngày mùng 7 tháng 11 Ất Mão (Dl. 9.12.1975).

Sau cùng quyển Quan Hôn Tang Lễ nầy được sự chung quyết của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài gồm có quý vị:

- Thời Quân Hiến Pháp

- Thời Quân Bảo Đạo

- Thời Quân Hiến Đạo

- Thời Quân Khai Đạo

- Chưởng Ấn Nguyễn Văn Hợi

- Cải Trạng Huỳnh Hữu Lợi

- Cải Trạng Nguyễn Văn Kiết.

Cuối cùng, Hội Thánh lưỡng Đài Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện có dâng lên Đức Lý Đại Tiên kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Ký Phổ Độ phê chuẩn.

Hội Thánh Cửu Trùng Đài do ba vị Đầu Sư Thái Bộ Thanh, Thượng Sáng Thanh, Ngọc Nhượn Thanh ký tên đóng ấn ban hành ra toàn Đạo.

Nội dung quyển Quan Hôn Tang Lễ nầy, có điều nói về lạy vong phàm được ghi như sau:

LỄ BÁI CHÍ TÔN, THẦN, THÁNH, TIÊN, PHẬT VÀ VONG PHÀM (xin chép lại nguyên văn).

Người Đạo Cao Đài hễ khi lạy thì tay chấp bắt ấn Tý.

Lạy Thần, Thánh, Tiên, Phật hay vong phàm tay cũng đều bắt ấn Tý.

Lạy Chí Tôn 12 lạy, lấy dấu Phật, Pháp, Tăng (3 lạy, mỗi lạy 4 gật).

Lạy Phật, Tiên 9 lạy, không lấy dấu Phật, Pháp, Tăng (3 lạy, mỗi lạy 3 gật).

Lạy Thánh, Thần 3 lạy suông (không có gật).

Lạy Vong Phàm 4 lạy (2 lạy quỳ, 2 lạy đứng).

Lạy người sống 2 lạy (lạy đứng).

Khi quyển Quan Hôn Tang Lễ được ban hành, thì phần đông Hương Đạo, Tộc Đạo ở các địa phương áp dụng theo, tức là cầu siêu hay lạy vong phàm đều phải bắt Ấn Tý.

Nhưng hiện nay, trong lễ Cầu Siêu tại tư gia một số địa phương hay tại Châu Thành Thánh Địa, tại Khách Đình hoặc Báo Ân Từ, chúng ta vẫn thấy có một số đông người chỉ đứng khoanh tay Cầu Siêu, chứ không bắt ấn Tý.

Điều nầy, chính ông Tiếp Lễ Nhạc Quân, Nhạc Sư Võ Thành Tươi có một văn bản thỉnh giáo có nội dung như sau:

Theo thông lệ mỗi khi có cầu siêu nơi Đền Thánh thì toàn thể chức sắc và Đạo Hữu đều bắt Ấn Tý.

Riêng tại Báo Ân Từ và Khách Đình cả thảy đều khoanh tay đọc kinh, đến khi dứt kinh, niệm câu chú Thầy cả thảy mới bắt Ấn Tý.

Hai trường hợp nêu trên có được đúng hết hay không?

Dưới văn bản, có Lời phê của Ngài Ngọc Đầu Sư, Ngọc Nhượn Thanh như sau đây:

Kính chuyển đến Hiền Huynh Bảo Đạo Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài xin có ý kiến.

Hội Đồng Chưởng Quản hôm phiên họp ngày 18 tháng 12 năm Kỷ Mùi có ý kiến: Tạm thời đình lại chờ khi điều chỉnh và bổ túc thêm quyển Tang Lễ thống nhất sẽ quyết định. Hiện tại cứ giữ theo tình trạng cũ.

Ngày 19 tháng 12 năm Kỷ Mùi. (Dl. 05/02/1980).

Ngọc Đầu Sư. (Ấn Ký).

Sau cùng Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài cũng phê như sau:

Đồng ý với Hiền huynh Ngọc Đầu Sư Cửu Trùng Đài. Sự việc nầy là một thủ tục từ khi tôi mới về Đạo đến nay.

Vậy chờ khi bổ túc quyển tang lễ hoặc khi có cơ bút thỉnh giáo sự quyết định sau.

Ngày 21 tháng 12 năm Kỷ Mùi.

Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa.

Tóm lại, theo những văn bản pháp lý trên, hiện nay việc Cầu Siêu cho vong linh giữ nguyên theo tình trạng cũ, nghĩa là đứng khoanh tay hay bắt Ấn Tý gì cũng được. Chờ Hội Thánh chỉnh đốn lại quyển Tang Lễ hay sau nầy cầu hỏi các Đấng Thiêng Liêng.

Lạy Vong Phàm 4 lạy (2 lạy quỳ, 2 lạy đứng).

(Quan Hôn Tang Lễ).

 

 

LAM

1.- Lam là tham lam, tức có lòng tham đến mức muốn lấy hết về cho mình.

Thánh giáo Thầy có câu: Công Thầy bố hoá bị lũ học trò tham lam ngu xuẩn dục lợi cầu danh, làm cho Tà quái lẫn vào, dìu dắt vào chốn hang sâu vực thẳm.

Chớ oán chạ tham lam ngược ngạo,

Bội nghĩa ân trở tráo chước sâu.

(Kinh Sám Hối).

2.- Lam là cái giỏ xách tay để đựng các thứ đồ mua bán cho tiện.

Như: Hoa lam là cái giỏ đựng hoa, còn là một bửu bối của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh.

Múa kiếm thư linh che chủng loại,

Quăng Hoa Lam báu cứu đồng bào.

(Quyền Giáo Tông Giáng).

3.- Lam là màu xanh. Lam do chữ “Dà lam”, dùng để chỉ nơi thờ Phật, hoặc chỉ một quả vị Phật.

Như: Nương chốn Dà lam, danh lam thắng cảnh, Phật Dà Lam, Dà Lam Chơn Tể.

Ao Thất Bửu gội mình sạch tục,

Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.

(Kinh Tận Độ).

4.- Lam là khí độc bốc lên ở vùng rừng núi, khiến người dễ sinh bịnh sốt rét.

Như: Lam khí, lam chướng, lam sơn chướng khí.

Biết bao điều nguy hiểm trong sự phá rừng và sự khai thác: nào lam sơn chướng khí, nào nước độc muỗi mòng, nào thú dữ chực hờ...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LAM ĐIỀN

Lam điền, do câu “Lam điền chủng ngọc 藍 田 種 玉, tức là ruộng Lam trồng ngọc.

Tích trong Bộ Sưu Thần Ký chép: Nhà Dương Ung Bá có để một lu nước làm nghĩa, giúp người đi đường đỡ khát. Một hôm, có người bộ hành uống xong nước, lấy ở trong bọc đưa ra một thăng hạt giống cho Ung Bá và nói: Trồng hạt ngọc này, sẽ sinh ra ngọc tốt, sau lại được vợ đẹp. Ung Bá đem trồng hạt đó.

Về sau, Ung Bá cầu hôn con gái nhà họ Từ ở xứ Bắc Bình. Nhà họ Từ nói: Nếu có đôi bạch bích (ngọc trắng), sẽ gả cho. Ung Bá về nhà, tình cờ đến chỗ trồng ngọc thì thấy được năm đôi bạch bích, đem làm lễ nói con gái nhà họ Từ. Vua nghe chuyện cho là kỳ dị, triệu Ung Bá vào cung, phong làm quan Đại phu và đặt tên chỗ đất ấy là “ngọc điền” (Ruộng ngọc).

Tỷ nhạc thân đòi ngọc Lam Điền,

Mình phải đủ phép Tiên trồng đặng ngọc.

(Phương Tu Đại Đạo).

Đấu ngọc Lam Điền nghiêng mắt ghé,

Nhành hoa Thượng Uyển ướm tay vin.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LAM LŨ

襤 褸

Lam lũ là quần áo rách rưới, hôi hám.

Lam lũ chỉ người chịu đựng sự rách rưới, khổ sở, và vất vả để lo kiếm tiền nuôi sống.

Thơ Bàng Đức Công dạy về cờ bạc có câu: Y sam lam lũ thân bằng tiếu 衣 衫 襤 褸 親 朋 笑, nghĩa là quần áo tả tơi bạn bè cười nhạo.

Thà tiết kiệm hằng ngày no đủ,

Tánh siêng năng lam lũ làm ăn.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LAM LỤ

Lam lụ, như chữ “Lam lũ 襤 褸”, là ăn mặc rách rưới, bẩn thỉu, hôi hám.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo còn nhớ lại Đức Quyền Giáo Tông có nói với Bần Đạo một chuyện rất ngộ nghĩnh, Bần Đạo minh tả ra đây cho tất cả bên phái nữ để ý cho lắm, để làm một bài học hay, khi Bà thân của Người đã qua đời, thì cả trong làng thương yêu một cách không thể nói được, Chức Sắc làm bàn đưa linh mà trong bài châm ấy để mấy chữ như vầy: “Tích Mạnh Mẫu” tức nhiên toàn thể nhận tang cả, chẳng khác gì Mạnh Mẫu cho lắm, chỉ biết mình là hạng bần hàn nên con mắt của người không bao giờ ngó đến kẻ nghèo khổ, lam lụ như Ngài thuở ấu xuân vậy.

Xem: Lam lũ.

Nên hư trối mặc đời phi thị,

Lam lụ buồn cười bấy lũ trâu.

(Lục Nương Giáng Bút).

Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,

Ở thôn quê lam lụ làm ăn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Rủi nghèo hèn đói khó hỏi ai xin,

Cũng một mảnh thân hình chồng lam lụ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LAM SƠN CHƯỚNG KHÍ

嵐 山 瘴 氣

Lam sơn: Khí độc ở rừng núi bốc lên. Chướng khí: Cái khí thấp nhiệt ở rừng núi có thể làm cho người sinh bịnh.

Lam sơn chướng khí ý chỉ khí thấp độc ở rừng núi thường làm cho người ta sinh bịnh.

Biết bao điều nguy hiểm trong sự phá rừng và sự khai thác: Nào là lam sơn chướng khí, nào nước độc muỗi mòng...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LÀM

1.- Làm là hành động, tạo tác.

Như: Làm ăn, làm việc, việc làm ổn định, tay làm hàm nhai, nói mà không làm.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thầy có dạy: Lại nữa, buổi loạn thần ấy, để cửa trống cho Tà mị xung đột vào, giục các con làm việc tội tình mà phải chịu phận luân hồi muôn kiếp.

Miệng ăn quá sức tay làm,

Thê nhi thiếu kém thân phàm chẳng no.

(Ngụ Đời).

2.- Làm là gây dựng nên, tức dùng công sức tạo ra cái trước đó không có. Như: Làm nhà, làm hang, chim làm tổ, làm loạn, làm phúc, làm ân gây oán, làm điều ác độc.

Thánh giáo có đoạn: Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật, muốn cho đắc đạo phải có công quả.

Làm lành sau cũng lành vay trả,

Chác dữ âu hay dữ vốn lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,

Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Làm là chuyên về một nghề gì. Như: Làm quan, làm thợ, làm thầy, làm đạo sĩ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Làm vua, làm thầy, làm công nghệ, làm đạo sĩ, cũng cần phải có cái chí lớn mới mong thành tựu đặng.

Làm quan tính kế đảo điên,

Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.

(Kinh Sám Hối).

Mẹ dầu phải suối vàng nhắm mắt,

Vui thấy con đáng mặt làm trai.

(Nữ Trung Tùng Phận).

4.- Làm là tỏ ra thái độ.

Như: Làm dáng, làm cao, nó có tiền hay làm phách, thấy bất công khó mà làm thinh.

Giao thân cứ gần kề kẻ thiết,

Ép nhớ thương làm điếc làm đui.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Thương Ðạo mến Thầy xin sớm liệu,

Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.

(Thơ Thượng Phẩm).

5.- Làm là làm những việc thuộc nhiệm vụ hoặc quyền hạn gắn với một tư cách, địa vị, chức vụ nào đó nói chung. Như: Làm chủ, làm mẹ, làm con, làm dâu, làm rể, làm môn đệ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Những kẻ nào đã làm môn đệ của Tà Thần Tinh Quái thì không thế gì làm môn đệ Thầy đặng.

Làm con phải trau dồi hiếu đạo,

Trước là lo trả thảo mẹ cha.

(Kinh Sám Hối).

Phận làm tớ thật thà trung tín,

Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.

(Kinh Sám Hối).

Khanh Tể sao bằng tên Ðạo Sĩ,

Hết đời ai giữ chức làm ông.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

LÀM ĂN

Làm: Dùng công sức vào những việc nhứt định để đổi lại có được những gì cần thiết cho đời sống. Ăn: Tự cho vào cơ thể những thức ăn để nuôi sống.

Làm ăn là làm việc, lao động để kiếm tiền sinh sống.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Ví dụ cờ bạc gây ra cái quả thiếu hụt, nợ nần, vì thiếu hụt phải lường gạt hay trộm cắp; trộm cắp gây ra cái quả lao tù. Bây giờ bỏ dứt sự cờ bạc, lo làm ăn lương thiện thì tất nhiên phải được an thân, khoẻ trí.

Về ai một cái nghiệp nhà tan,

Chẳng chịu làm ăn cứ điếm đàng.

(Đạo Sử).

Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,

Ở thôn quê lam lụ làm ăn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LÀM BIẾNG

Làm: Tỏ thái độ. Biếng: Lười, không thiết làm việc.

Làm biếng, như chữ “Lười biếng”, là lười, ở trạng thái không thích, không muốn làm việc, ít chịu cố gắng.

Làm biếng còn có nghĩa làm cầm chừng lấy có.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ðạo là trường học đạt đại gia đình, Ðạo là trường thi lập vị, sao lại làm không được? Tại làm biếng học! Học đặng hành. Nên hư do tại mình, không phải do Chí Tôn và cũng không phải tại Ðạo.

Xem: Lười biếng.

Muốn sửa bịnh các em làm biếng,

Thì toan bề sai khiến lượng phương làm.

(Phương Tu Đại Đạo).

Dụ ăn học đừng cho làm biếng,

Lập thân danh nên tiếng con nhà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÀM BỘ

Làm: Tỏ thái độ. Bộ: Những cái lộ ra bên ngoài của một người qua cử chỉ, dáng vẻ...

Làm bộ là giả bộ, giả vờ, làm ra vẻ như thế nào đó, để người khác tưởng thật là như vậy.

Làm bộ còn có nghĩa là ra dáng vẻ, ra điệu bộ, ra kiểu cách. Như: Làm bộ vất vả.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Bề ngoài họ cũng làm bộ thương nước thương dân để lừa dối bề trên mà bên trong thì họ lo cho đầy túi tham là đủ!

Trước mặt thì làm bộ sụt sè,

Sau lưng vốn cua ngoe đi ngược.

(Phương Tu Đại Đạo).

Ghét có người làm bộ giả đò,

Ra giễu cợt làm trò thương hết ghét.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÀM CHỦ

Làm: Ý chỉ ở vào địa vị nào, như làm chủ, làm con. Chủ: Người đứng đầu, người cai quản.

Làm chủ là thể hiện quyền hành, hoặc hành vi với tư cách của người chủ.

Thánh giáo Thầy có câu: Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu.

Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,

Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LÀM GƯƠNG

Làm: Có tác dụng hoặc dùng như là, coi như là. Gương: Việc để cho người sau trông vào mà noi theo.

Làm gương là làm cái mẫu mực để cho người khác, hoặc người sau nầy trông vào đó mà noi theo.

Thánh giáo Thầy có câu: Phải giồi lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương soi mình hằng bữa, phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau dường như con một nhà, rồi cái thương yêu, sự giúp lẫn ấy sẽ dìu chung các con vào tận chốn Cực Lạc thiêng liêng, để tránh khỏi nơi khổ cùng tiều tuỵ.

Ngoài nữa còn cha còn chú bác,

Làm gương cho đáng mới nên trò.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trau hạnh làm gương dắt kẻ sau,

Một nhà đạo đức khá thương nhau.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÀM LÀNH

Làm: Gây dựng nên. Lành: Hiền lành, tốt.

Làm lành, đồng nghĩa với chữ “Làm thiện”, là làm những việc thiện, việc tốt.

Làm lành còn có nghĩa là làm cho quan hệ trở lại thân thiết như cũ, sau khi giận dỗi.

Thánh giáo Thầy có câu: Một điểm quang minh là một hồn người, là vật tối linh của Thầy trân trọng. Nếu con muốn làm lành thì gắng dạy mấy hồn ấy đặng hiền.

Làm lành sau cũng lành vay trả,

Chác dữ âu hay dữ vốn lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÀM LÀNH LÁNH DỮ

Làm lành: Làm việc thiện lành. Lánh dữ: Xa lánh điều dữ.

Làm lành lánh dữ là nói người tu hành, chuyên làm việc hiền lành, lánh điều hung dữ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trên bước đường hành sự, chúng ta phải làm thế nào cho Ðạo đời tương đắc, nhứt là giúp ích cho quê hương xứ sở về mặt tinh thần, lo giáo hoá nhơn sanh tiến tới đường đạo đức, làm lành lánh dữ, mến chuộng công lý, biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau đặng cùng xây dựng hạnh phúc chung cho đồng bào, chúng ta mới cộng hưởng cảnh thái bình an cư lạc nghiệp.

Làm lành lánh dữ ấy phương tu,

Khổ hạnh dày công cá hoá cù.

(Thơ Bảo Pháp).

Khuyên ai thức tỉnh lo tu,

Làm lành lánh dữ nghìn thu thanh nhàn.

(Thơ Thông Quang).

 

 

LÀM LỤNG

Làm: Thực hành các công việc.

Làm lụng là làm việc có vẻ vất vả. Như: Ở nhà anh ta làm lụng tối ngày.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nhà giàu làm lụng cực nhọc cốt yếu làm cho có của tô điểm danh giá của mình; tôi không được sang mà đều tôi có của tôi làm oai cũng được vậy.

Làm lụng công trình ra sức trẻ,

Giữ gìn cho vẹn đạo tào khương.

(Đạo Sử).

Nhịn ăn mặc ngừa cơn thiếu thốn,

Làm lụng nhiều nuôi dưỡng sắp con.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Tập em dại biết ham làm lụng,

Đừng nêu gương phóng túng chơi bời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÀM MƯỚN

Làm: Thực hành các công việc. Mướn: Thuê, hoặc cho thuê sức lao động.

Làm mướn, như chữ “Làm thuê”, là làm việc cho người khác để lấy tiền công. Như: Làm mướn kiếm tiền.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nhà Đại Minh Hùng Võ có một người học trò khó mẹ goá con côi học giỏi lắm, duy có nghèo, lớp nào lo học, lớp nào lo làm mướn nuôi mẹ với nuôi thân.

Dạy căn cớ làm thân cực sướng,

Người ngồi ăn người làm mướn bởi nơi nào.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÀM NHỤC

Làm: Gây tạo ra. Nhục: Xấu hổ đến mức chịu đựng không nổi vì bị xúc phạm danh dự.

Làm nhục là làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Gia đình là một phần nhỏ trong xã hội, nếu biết gìn giữ thân thể, tôn trọng danh giá cha mẹ, anh em thảng có đứa du côn không kể gia pháp, làm rối loạn gia đình thì kẻ đó ai cũng muốn bỏ, muốn đưa ra khỏi gia đình tông tổ. Sợ e gia đình nào mực thước, thảng có điều vô phúc ấy sẽ xử đứa làm nhục đó, hình phạt nặng nề hơn kẻ tha nhơn.

Dạy đừng dùng tiếng ngọt lời ngon,

Làm nhục kẻ lòng son gìn tiết hạnh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÀM PHẢI LÀM LÀNH

Làm phải: Làm việc phải, lấy luân thường đạo đức làm căn bản để ứng xử với đời. Làm lành: Làm những điều thiện.

Làm phải làm lành là không làm những điều tà quấy, mà làm những việc thiện lành.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tiếc thay cho nhơn sanh, chớ chi trong thời kỳ Ðại Ðạo hoằng khai, mà để tâm tín ngưỡng chung thờ một Tôn Giáo, tròn giữ theo Luật Pháp của Ðạo, lo trau giồi đức hạnh, làm phải làm lành, liên lạc thương yêu, thuận hoà cùng chung, thì nay đâu có lâm nạn đao binh như thế.

Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy,

Gốc bởi lòng làm phải làm lành.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

LÀM PHƯỚC CÓ KHI MẮC NẠN

Làm phước: Làm những việc thiện, việc có tính cách tạo ra phước đức. Có khi: Có lúc. Mắc nạn: Bị tai nạn.

Con người sống ở thế gian, ai cũng bị chi phối của luật nhơn quả. Hễ có nguyên nhân tất nhiên phải có kết quả tương thích với nguyên nhân ấy, đó là luật nhân nào quả nấy.

Luật nhân quả không bị hạn chế bởi thời gian, có khi nhanh cũng có khi chậm. Có nhiều loại nhân quả:

Nhân quả hiện tại gọi là Hiện báo 現 報: Nghiệp nhân trong đời này đưa đến quả báo ở hiện kiếp.

Nhân quả trong hai đời gọi là Sanh báo 生 報: Đời trước tạo nhân đời nay mới thọ quả. Đời này gây nhân đời sau nhận quả.

Nhân quả trong nhiều đời gọi là Hậu báo 後 報: Từ rất nhiều đời trước gây nhân, đời nay mới gặt quả, hoặc đời này tạo nhân nhưng mãi nhiều đời sau mới thọ quả.

Hiện báo thì dễ thấy, dễ hiểu, nhưng hậu báo là quả báo do nghiệp nhân tạo ra từ những kiếp sống trước, đến nay mới có kết quả thì khó tin, khó hiểu. Ví dụ người lương thiện mà vẫn gặp chuyện không may.

Người làm phước có khi mắc nạn cho ta thấy việc tai nạn, khổ sở là bởi nghiệp quả, tức do kiếp trước hay nhiều đời trước gây nhân, kiếp này phải đền trả. Việc làm phước làm lành trong hiện kiếp chưa đủ trả những oan nghiệt đã tạo ra ở tiền kiếp.

Như vậy, không phải người làm phước mà mắc nạn, nếu không làm phước thì người ấy vẫn phải mắc nạn, có thể tai nạn còn nhiều và nặng hơn nữa, bởi việc làm phước có thể làm giảm bớt một số tai nạn.

Còn những kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang là vì kiếp nầy tuy có những hành vi không tốt, nhưng nhờ còn hưởng phước đức từ nơi kiếp trước, khi nào phước đức của người ấy hết thì họ sẽ lãnh những quả báo ngay.

Chúng ta đừng tưởng rằng làm những hành vi hung ác mà vẫn được giàu sang đâu, vì bởi quả báo chưa đến. Luật nhân quả như lưới Trời lồng lộng, quả báo như mũi kim không bao giờ lọt đặng.

Trong sách Minh Tâm Bảo Giám, Từ Thần Ông có nói rằng: Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo; nhược hoàn bất báo, thời thần vị đáo 善 有 善 報, 惡 有 惡 報; 若 還 不 報, 時 辰 未 到, nghĩa là làm lành có lành báo, làm ác có ác báo, hiện thời chưa thấy báo là chưa đến lúc vậy.

Thực vậy, Thánh xưa có câu: Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì 善 惡 到 頭 終 有 報, 只 爭 來 早 與 來 遲, nghĩa là việc lành việc dữ chung cuộc rồi cũng có báo, có điều là trả kíp hay chầy mà thôi.

Câu chuyện sau đây cho ta thấy một nhà từ thiện suốt đời làm việc lành mà vẫn không siêu thoát là do bởi tội lỗi kiếp trước nặng hơn việc làm phước của ông nên còn trả quả.

Ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gariel Gobron là một người Pháp, vào một hôm ngồi chấp bút có một chơn linh giáng cơ xưng tên họ và nhờ ông tiến dẫn về Hội Thánh Cao Đài để cầu rỗi cho ông, vì ông chưa được siêu thoát.

Ông Gobron nghe qua tên tuổi của vị này thì biết ngay, vì sanh tiền vị này là một nhà từ thiện nổi tiếng trong nước mà ai cũng biết. Cả một đời người chuyên đi bán đồ chơi trẻ em và đem số tiền lời được về giúp các trại cô nhi. Ông lại thường xin những đứa bé bị bỏ rơi đem về viện cô nhi để nuôi dưỡng. Những đứa bé do ông đem về thì ông lãnh phần trợ cấp cho trại cô nhi. Chính việc làm cao cả ấy, công nghiệp dường ấy mà lại không được siêu thoát làm cho ông Gobron thêm thắc mắc, mới hỏi: Xin mạn phép hỏi ông: Cả một đời làm việc thiện như ông, thế sao không được siêu rỗi vậy?

Chơn linh ấy bùi ngùi trả lời rằng: Nhiều kiếp trước, tôi vốn là một quan đại thần, có quyền lực lớn, luôn luôn kề cận bên vua. Vì tôi có một thành kiến đối với phụ nữ là kẻ ngoại tình, người làm điếm hoặc không chồng mà có con, gái lang chạ. Tôi không muốn những đứa trẻ vốn sanh ra do những bà mẹ như vậy, nên quyết định diệt cho tuyệt; tôi cũng nghĩ những đứa trẻ ấy có sống cũng không làm lợi ích gì.

Tôi tâu cùng đức vua và dâng bản luật ban hành khắp nơi bài trừ cho sạch cái nạn tồi bại nói trên để giữ nền đạo đức cho đất nước. Sau khi vua ký và đóng ấn ban hành; vì bản luật quá khắc nghiệt nên có nhiều phụ nữ có thai sợ quá mà phá bỏ thai nhi. Chính vì thế mà cả một kiếp sanh của tôi phải đi lượm và tìm trẻ mồ côi để nuôi. Tất cả việc làm của kiếp ấy, không có ngày nào nghỉ, vậy mà cũng chưa đủ đền trả tội lỗi của tiền kiếp đã gây ra, vì còn thiếu nên chưa siêu rỗi được; lại không còn dịp để tái sanh làm người nữa. Nay tôi nhờ Ngài cầu xin với Hội Thánh mà siêu độ giúp cho tôi.

Khi hiểu rõ việc như thế, ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn biên thư kể rõ nội dung và cầu xin Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông từ bi độ dẫn cho chơn linh ấy được sớm siêu rỗi.

Câu chuyện trên cho ta thấy rằng “Người làm phước có khi mắc nạn”, vì bởi công đức làm từ thiện suốt đời của Chơn linh trên không đủ tiêu trừ những tội lỗi mà chơn linh ấy đã gây ra ở nhiều kiếp trước.

Người làm phước có khi mắc nạn,

Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LÀM PHƯỚC KHỎI HAO KHỎI TỐN

Làm phước: Làm những việc thiện, việc có tính cách tạo ra phước đức. Khỏi hao khỏi tốn: Nghĩa là không tốn hao gì hết.

Sống trên đời này có nhiều cách làm việc để tạo ra phước đức, trong đó có cách làm phước mà chẳng hao tốn về tiền bạc, của cải chi hết, chỉ lấy công sức ra để giúp đỡ cho người mà thôi. Ví dụ như khi đi trên đường gặp miểng bát miểng chai... hoặc là có những vật bén nhọn, chông gai thì nên lượm lấy để tránh những người đi sau đạp phải. Đó là làm phước khỏi hao khỏi tốn.

Ngoài ra còn có thể bắc cầu qua kênh rạch hay đắp sửa đường đi cho liền lạc bằng phẳng để người qua lại cho được yên ổn thuận lợi.

Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,

Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LÀM QUAN HAI MIỆNG

Làm quan: Làm một viên chức có quyền hành trong bộ máy nhà nước. Hai miệng: Ý nói hai lời phán quyết.

Làm quan hai miệng ý muốn nói kẻ làm quan phán quyết một vụ việc theo mình và đôi khi, do sự hối lộ còn phán quyết theo lời của vợ.

Lời tục ví: Làm quan hai miệng,

Ngoài miệng ông trong khiến miệng bà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÀM REO

Làm reo là một hình thức đấu tranh có tổ chức bằng cách nghỉ việc, ngưng việc, bãi công, bãi khóa...

Như: Công nhân làm reo phản đối chủ, thằng bé làm reo với cha mẹ nó.

Đem lòng ghét ngõ ghen hiền,

Đồn ra ngưng chức ngưng quyền làm reo.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

LÀM THINH

Làm: Tự tạo cho mình một dáng vẻ như thế nào đó để tỏ thái độ. Thinh: Tiếng.

Làm thinh là cố ý im lặng, không nói năng hay bày tỏ thái độ gì.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: có một vị Vương Hầu đi săn, rượt theo con nai, con nai chạy ngang gần chỗ Ngài (chỉ Đức Thích Ca) ngồi, nó tách qua nơi khác, vị Vương Hầu ấy rượt đến không thấy con nai, chỉ thấy Ngài ngồi dưới gốc Bồ Ðề mà thôi. Vị Vương Hầu ấy mới hỏi Ngài có thấy con nai chạy ngang qua đây không? Ngài suy nghĩ nếu ta chỉ chỗ thì vị hung thần nầy giết nó, thì ta có liên quan tới sát sanh, nếu ta nói không thấy thì ta nói dối tốt hơn là ta làm thinh.

Dạy không nghe chẳng đặng làm thinh,

Can chẳng đặng nài xin em phải thuận.

(Phương Tu Đại Đạo).

Rường cột Ðạo mầu bao thuở dựng,

Sụt sùi để bước khó làm thinh.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

LÃM THUÝ

覽 翠

Lãm: Xem. Thuý: Xanh lục, chỉ cây cỏ.

Lãm thuý là ngắm cỏ hoa. Hiên Lãm thuý là mái hiên để đến đó ngắm cảnh tươi tốt của hoa cỏ.

Mái Vân lâu vắng lạnh lùng,

Buồn hiên Lãm thuý, nhạc trùng tiếng tơ.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

LẠM

Lạm là vượt lấn quá phạm vi, giới hạn được quy định hoặc cho phép.

Như: Lạm quyền, lạm phát, lạm dụng, anh ấy chi tiêu lạm tiền công quỷ.

Ông thân trả lời: Võ nó không biết kiếm thế hà lạm, bên văn nó hay hà lạm tôi không chịu...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LẠM DỤNG

濫 用

Lạm: Vượt lấn quá phạm vi, giới hạn được quy định hoặc cho phép. Dụng: Dùng.

Lạm dụng là dùng hay sử dụng quá mức hoặc quá giới hạn đã được quy định.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta đã ngó thấy các nền Tôn Giáo xưng mình là Đạo, chúng ta thấy họ lạm dụng Đạo quá lẽ, nhưng chúng ta không thể gì cải chối được tại lý do nào?

Tu lập đức bồi công độ chúng,

Tu khuyên đừng lạm dụng Phật tông.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LẠM DỰ

濫 預

Lạm: Vượt lấn quá phạm vi, giới hạn được quy định hoặc cho phép. Dự: Tham dự vào.

Lạm dự là lạm dụng để tham dự vào, tức không đủ tư cách mà lại tham dự vào.

Vì phần nhiều người lạm dự vào cuộc Thiên phong, lấy tà tâm bả bai, biếm nhẻ,...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LẠM QUYỀN

濫 權

Lạm: Lấn vào, làm quá giới hạn. Quyền: Quyền hành, tức những thứ mình được phép làm.

Lạm quyền là làm những việc vượt quá quyền hạn của mình.

Thuyết về Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Hộ Pháp có câu: Bần Đạo tưởng toàn cả Quốc dân giờ phút này, họ khôn ngoan không để cho kẻ nào lạm quyền hạng ấy nữa.

Vì đó một người mà nắm trọn quyền thống nhất trong tay thế nào tránh khỏi lạm quyền và độc đoán là điều tối kỵ đối với Ðạo.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LAN

1.- Lan là rải rộng ra, ăn rộng ra, tức mở rộng phạm vi ra trên một bề mặt.

Như: Cỏ mọc lan ra đường, lửa cháy lan sang nhà kế bên, phổ biến lan rộng ra ngoài.

Chớ giống cỏ chạ lan mọc bên đường, ví có bị bước tục vầy bừa cũng không ai màng ngó tới.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

2.- Lan là một thứ cỏ quý có hoa thường dài và hẹp, cánh hoa không đều, có loại có hương thơm.

Như: Hoa lan, quế trạo lan tương.

Huệ lan chung đứng mái Tây hiên,

Biết phải cùng nhau dữ hoá hiền.

(Đạo Sử).

Cúc, Trước, Mai, Lan hầu thiết đãi,

Tiêu thiều nhạc trổi khách nâng ly.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LAN CAN

闌 干

Lan can là hàng rào thấp có tay vịn, thường đặt ở hiên, ban công, hoặc hai bên thành cầu... để giữ cho người khỏi ngã ra ngoài.

Như: Chung quanh Toà Thánh, hai bên có hai dải lan can, ngồi trên lan can trước hiên nhà.

Khoan khoan noi thềm quế bước vào, thưa rằng thiếp đến chầu quân tử.

Rón rén dựa lan can ngồi xuống, hỏi sao chàng nỡ phụ cố nhơn.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

LAN ĐÌNH

蘭 亭

Lan: Hoa lan, loại hoa quý, đẹp và có mùi rất thơm. Đình: Nhà để nghỉ mát.

Lan Đình là một cái đình ở trên sông Lam Chử, thuộc phía Tây nam tỉnh Triết Giang, Trung Quốc.

Xưa ông Vương Hy Chi cùng mấy bạn tụ họp ở đấy (Lan Đình) để ngâm thơ uống rượu, có làm bài “Lan Đình Tập Tự”.

Vương Hy Chi vốn là người viết chữ rất đẹp, nên những tờ thiếp ghi chép bài “Lan Đình Tập Tự” được người đời sau truyền tụng là “Thiếp Lan Đình”.

Chữ Lan đình cũng có nghĩa là chữ viết đẹp.

Đôi sợi đờn lòng run một nhịp,

Duyên thơ mơ ước hội Lan đình.

(Thơ Thuần Đức).

Chào mai nguyên đán tươi hồn nước,

Mở thiếp Lan đình đẹp ý dân.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

LAN QUẾ

蘭 桂

Lan: Hoa lan, loại hoa quý, đẹp và có mùi rất thơm. Quế: Thứ cây quý, võ thơm cay, dùng làm thuốc.

Lan quế, do câu “Lan tôn tử quế 蘭 孫 桂 子”, nghĩa là con cháu thơm tho, ví với con cháu đông và hiển đạt.

Lại có câu: Tử tôn phát đạt, vị chi lan quế đằng phương 子 孫 發 達, 謂 之 蘭 桂 騰 芳, nghĩa là con cháu phát đạt, gọi là cành lan, cành quế thơm tho.

Lan quế còn được hiểu là con cháu quý giá.

Sách Lễ Ký viết: Ông Tạ Huyền lấy cỏ chi, cỏ lan ví với con cháu. Năm người con ông Đậu Quân hiển đạt, được người đời gọi là ngũ quế. Vì vậy, con cháu được vinh hiển gọi là “Lan quế đằng phương”.

Xem: Quế lan.

Lan quế sớm sanh nhuần phúc hậu,

Tương lai ngưỡng cửa huệ quang ngần.

(Thơ Huệ Phong).

Hoà ái trăm năm xin kính chúc,

Đầy sân lan quế trỗ sum sê.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LAN THẤT

蘭 室

Lan: Hoa lan, loại hoa quý, đẹp và có mùi rất thơm. Thất: Nhà, phòng.

Lan thất tức là nhà lan, có ý nói nhà đức vọng, thơm tho như chi lan, còn ví với người có tài đức.

Sách Gia Ngữ chép: Dữ thiện nhân cư, như nhập chi lan chi thất, cửu nhi bất văn kỳ hương, tức dữ chi hoá hỹ 與 善 人 居, 如 入 芝 蘭 之 室, 久 而 不 聞 其 香, 即 與 之 化 矣, nghĩa là ở với người tốt, như vào nhà có cỏ chi lan, ở lâu đến lúc không thấy mùi thơm, thì tức đã cùng hoá với nó.

Gió trăng kho tạo để dành riêng,

Lan thất xa nghe tiếng cửa hiền.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LAN TRÀN

Lan: Mở rộng dần phạm vi ra trên một bề mặt. Tràn: Di chuyển từ nơi khác đến với số lượng lớn trên diện rộng.

Lan tràn là ăn rộng ra, tức là lan nhanh và mạnh trên phạm vi rộng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chủ nghĩa duy vật đã lan tràn khắp trong đất nước và đầu độc hết chín phần mười dân tộc Việt Nam, nền luân lý cổ truyền đã đổ vỡ, người ta đã vứt bỏ hết mọi căn bản đạo đức và họ đã chơi vơi lưu lạc trong đêm dài mờ mịt, chỉ vì đời sống của họ thiếu hẳn quân bình giữa vật chất và tinh thần, tức là thiếu luồng điện hoà hợp, thiếu cái biết trí tri của tâm linh hay là ánh sáng dẫn đến trực giác.

Hận nước lan tràn nợ máu xương,

Đem thân đày đoạ luống can trường.

(Quyền Giáo Tông Giáng).

Nạn tương sát Thần sầu quỷ khốc,

Nạn thuỷ tai động đất lan tràn.

(Nguyễn Trung Trực Giáng).

 

 

LÀN

Làn là lớp, tức chỉ những loại có bề mặt phẳng di chuyển nối tiếp nhau liên tục và đều đặn.

Như: Làn sóng biển, làn mây bay, làn khói bốc lên cao, làn gió đưa mát mẻ, làn ác khí.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngày nay từ Âu sang Á, làn sóng văn minh tràn ngập khắp nơi, vật chất lấn áp tinh thần khiến cho nền luân lý cổ truyền cõi Á đông phải luân lạc.

Buông ngọn viết vào làn mây trắng,

Hễ có thương nhớ dạng là hơn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Một làn ác khí bao ràng rịt,

Muôn xác tinh ma nhảy dập dìu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LÃN ÔNG

懶 翁

Lãn Ông là hiệu của vị danh y đời nhà Lê của Việt Nam, tên thật là Lê Hữu Huân hay Lê Hữu Trác.

Ông là tác giả pho sách giá trị khảo cứu về y học, đó là bộ: Tân Huê Hải Thượng Y Tông Tâm Tỉnh, gọi tắc là “Lãn Ông Y Tập”.

Xem: Hải Thượng.

Tay nghề chúc được nâng cao mãi,

Nối nghiệp Lãn Ông giúp xóm làng.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

LẠN TƯƠNG NHƯ

Lạn Tương Như là một chính khách nước Triệu thời Chiến Quốc, nổi tiếng là người giỏi ứng xử để giữ uy tín của nước Triệu trong chư hầu.

Vào đời Chiến Quốc, Vua Tần sai sứ giả sang nước Triệu đề nghị Vua Triệu đổi viên ngọc Biện Hoà (viên ngọc quý) lấy mười lăm thành của Tần. Vua Triệu đồng ý đổi, nhưng sợ Tần nuốt lời không giao thành, nên chẳng biết phải sai người nào nhận nhiệm vụ đó.

Lạn Tương Như vốn là người nước Triệu, đang làm xá nhân cho viên Thái giám trưởng là Mậu Hiền.

Có một hôm, Mậu Hiền bị tội, định chạy trốn sang nước Yên. Khi đó Lạn Tương Như can rằng: Ngài làm sao mà biết vua Yên?

Mậu Hiền đáp: Ta từng theo vua Triệu họp với vua Yên ở biên giới, vua Yên nắm tay ta mà nói: “Xin kết làm bạn!” Vì vậy ta biết, nên muốn trốn sang nước ấy.

Tương Như bảo Mậu Hiền: Vì nước Triệu mạnh, nước Yên yếu, cho nên vua Yên muốn kết bạn với ngài. Nay ngài bỏ Triệu trốn sang Yên thì Yên sợ Triệu, nhất định không dám giữ ngài mà sẽ trói ngài nộp cho Triệu. Chi bằng ngài hãy cởi trần, phục bên lưỡi rìu mà xin tha tội, may ra được thoát thân!

Mậu Hiền nghe lời Lạn Tương Như, đến tạ tội với Triệu Huệ Văn Vương, được vua Triệu tha tội.

Khi Mậu Hiền đứng ra tiến dẫn Lạn Tương Như lên cho vua Triệu để đem ngọc bích đổi lấy mười lăm thành của Tần.

Vua Triệu liền cho mời ông đến, hỏi: Vua Tần đem 15 thành đổi lấy viên ngọc của quả nhân, nên cho hay không?

Tương Như nói: Tần mạnh, Triệu yếu, không cho không được.

Vua Triệu nói: Họ lấy ngọc ta mà không cho ta thành thì làm thế nào?

Lạn Tương Như nói: Tần đem thành đổi lấy ngọc mà Triệu không cho, thì điều trái là ở Triệu. Triệu cho ngọc mà Tần chẳng cho thành thì điều trái là ở Tần. Xét lại kế đó thì thà cho ngọc để Tần chịu phần trái.

Vua Triệu hỏi: Ai có thể sai đi sứ?

Lạn Tương Như nói: Nếu nhà vua thiếu người, thần xin mang ngọc bích đi sứ. Thành có về tay nước Triệu thì ngọc mới ở lại đất Tần. Nếu thành không về, thần xin giữ nguyên vẹn viên ngọc đem về Triệu.

Triệu Vương bèn sai Tương Như mang ngọc sang đất Tần.

Vua Tần đón tiếp Tương Như ở Chương đài. Ông mang ngọc bích dâng vua Tần. Vua Tần nhận ngọc nhưng không có ý giao thành, Tương Như phải dùng mưu đánh lừa được vua Tần, lấy lại ngọc bích đem về trả cho Triệu. Nhờ có công ấy, khi về triều Lạn Tương Như được thăng chức Thượng khanh.

Cùng triều với Lạn Tương Như lúc đó có viên võ tướng là Liêm Pha, đã từng đánh nam dẹp bắc mà chức nhỏ hơn Tương Như, nên lòng không phục, thường mong gặp mặt Tương Như để mắng cho đã giận, Tương Như biết được, nên thường xuyên tìm cách lánh mặt.

Kẻ thủ hạ của Lạn Tương Như thấy thế mới hỏi, thì Tương Như nói rằng: Uy quyền như vua Tần mà ta còn chưa sợ, ta há lại sợ Liêm Pha hay sao? Sở dĩ Ta tránh mặt Liêm Pha là sợ Tần, nhân dịp ta và Liêm tướng quân hiềm khích và ăn thua nhau như lưỡng hổ cộng đấu, thế bất cụ toàn, sau này việc nước hư thì có phải tại việc oán vặt thù riêng của ta chăng?

Liêm Pha nghe được câu chuyện, biết Lạn Tương Như nhẫn nhục là vì muốn bảo toàn đất nước, nên ông ăn năn hối hận, đến xin tạ tội, và kết làm anh em với Lạn Tương Như.

Chẳng vẹn nghiệp nhà đừng thối chí,

Ðợi thời noi chước Lạn Tương Như.

(Đạo Sử).

 

 

LANG

1.- Lang là chó sói, loài chó rất hung dữ ở trong rừng. Thường dùng để ví với kẻ độc ác, tàn bạo, mất hết tính người. Như: Hổ lang, lòng lang dạ thú.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con.

Lòng lang độc vui cười hớn hở,

Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.

(Kinh Sám Hối).

2.- Lang là dãy nhà chạy dài ở đền đài cung điện.

Như: Đông lang, Tây lang, hành lang, lang miếu.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chùa Từ Lâm Tự chưa xong gì hết, có Chánh điện, còn Đông lang, Tây lang thì chưa có, đàng này mấy anh Lớn họp nhau xuất tiền ra làm cho xong.

Đầu Sư nam nữ cân phân,

Tây lang một tháp, tháp gần Đông lang.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

LANG QUÂN

郎 君

Lang: Con trai, đàn ông. Quân: Tiếng dùng để gọi nhau như: Con gọi cha mẹ, cháu gọi ông bà, vợ gọi chồng, ngang hàng gọi nhau bằng “Quân” đều được cả.

Lang quân dùng để tôn xưng con em người khác, hoặc tiếng vợ gọi chồng, hoặc chỉ người chồng.

Đừng chê chồng phận thiệt thòi,

Đáng danh quân tử phải người lang quân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Tơ đỏ nhờ tay Nguyệt lão,

Cửa vàng trộm sánh Lang quân.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

Ví được lang quân chiều chuộng lắm,

Chữ tòng khuyên gắng chớ bê tha.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LANG SA

郎 沙

Người Trung Hoa dịch âm chữ “Françe” ra là “郎 沙”. Người mình phiên âm hai chữ “郎 沙” sang quốc ngữ là “Lang sa”.

Như vậy, Lang Sa là một danh từ riêng dùng để chỉ nước Pháp hay người Pháp.

Còn tiếng Lang Sa có nghĩa là tiếng Pháp. Thước Lang Sa là thước Tây.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Lão lại dặn, từ cây nọc bên phía miếng đất, phải đo vô Bàu Cà Na 27 thước Lang Sa, nghe à!

Các con phần nhiều biết tiếng Lang Sa.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LANG THANG

Lang thang là đến chỗ nầy rồi lại bỏ đi chỗ khác, không dừng lại ở một nơi nào nhất định.

Như: Lang thang đầu đường xó chợ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nếu Cửu Trùng Ðài là cơ quan hành chánh có nhiệm vụ đem Ðạo đến cho nhơn sanh, độ người cải tà quy chánh, thức tỉnh kẻ mê luyến hồng trần thì cơ quan Phước Thiện có sứ mạng cứu giúp những kẻ vô phước ở cõi đời, tức là những kẻ cô độc tật nguyền, những cô nhi quả phụ, những kẻ thất vận nhứt thời phải chịu vất vả lang thang bị mọi người ruồng bỏ.

Một gánh một bưng chi tưởng dễ,

Ðeo mình cho nặng lết lang thang.

(Đạo Sử).

 

 

LÁNG GIỀNG

Láng giềng là những nhà chung quanh ở gần ngôi nhà mình, tức nhà hàng xóm.

Như: Bán anh em xa mua láng giềng gần, quan hệ láng giềng giữa hai nước.

Trái đất này chúng ta sánh lại với Càn Khôn Vũ Trụ, dám chắc không có bằng hàng xóm láng giềng chớ đừng nói đến một thành thị hay một xã hội gì được.

(Con Đường Thiêng Liêng).

 

 

LÀNG

1.- Làng là xã, một khu vực tự trị của dân ở nông thôn, là đơn vị hành chánh thấp nhất trong nước.

Như: Phép vua thua lệ làng, luỹ tre quanh làng, người cùng xóm làng.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương, vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh, dạy dỗ dân về Ðạo, Thầy ban trọn quyền thưởng phạt đặng răn làng ấy cho đến ngày biết ăn năn cải quá...

Quý là tánh hạnh chẳng khoe khoang,

Cười kẻ trong lân tới cửa làng.

(Đạo Sử).

Kìa cuối xóm mấy hàng trước tử,

Nọ đầu làng chày lữ phơi sương.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Làng chỉ những người cùng một nghề nghiệp, hay cùng làm chung một việc nào đó.

Như: Làng báo, làng thơ, làng văn, làng chơi.

Ðồ thơ oằn oại gánh nghiêng vai,

Mặc khách làng văn nhọc chớ nài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thuần văn chất Ðức tài cao,

Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.

(Đạo Sử).

3.- Làng là mắt mờ trông không được rõ.

Như: Già cả đôi mắt đã làng, coi sách không được rõ.

Già mập mờ đôi mắt có làng,

Dâu rán chỉ rõ ràng cho thấy thiệt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÀNG VĂN

Làng: Địa hạt theo nghề nghiệp của một nhóm người, như làng báo, làng thơ. Văn: Văn chương.

Làng văn là địa hạt của người viết văn, tức chỉ nơi của một nhóm người viết văn.

Ðồ thơ oằn oại gánh nghiêng vai,

Mặc khách làng văn nhọc chớ nài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Học hỏi làng văn rất nhọc nhằn,

Cũng như đường Ðạo bước xung xăng.

(Đạo Sử).

 

 

LÀNG XÓM

Làng: Xã, một khu vực tự trị của dân ở nông thôn, là đơn vị hành chánh thấp nhất trong nước. Xóm: Khu dân cư nhỏ nhất ở nông thôn, gồm nhiều nhà ở liền với nhau.

Làng xóm là làng và xóm, nghĩa bóng chỉ những người cùng ở chung trong làng và xóm với mình.

Như: Ở đây làng xóm thưa thớt.

Chưa phải thời lai con ẩn nhẫn,

Dầu sao làng xóm cũng ngồi trên.

(Đạo Sử).

 

 

LẢNG

1.- Lảng là lẩn đi, lén đi, hoặc có nghĩa chuyển sang chuyện khác nhằm tránh việc gì đó hoặc làm ra vẻ không nhìn thấy, không hay biết gì.

Như: Lơ lảng, đuối lý tìm cách nói lảng đi, lảng sang chuyện khác.

...dầu đứa con có lơ lảng không nghe đi nữa, chớ rồi nó cũng hằng để vào tâm cái huyền diệu vô đoán ấy...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

2.- Lảng là nghễnh ngãng, tai không còn thính nữa vì tuổi đã già, hay đau bịnh.

Như: Lảng tai, ông ấy nghe không rõ tai hơi lảng.

Mắt mờ thêm nỗi lảng tai,

Thất tuần đã quá từ ngày ấu xuân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẢNG TRÍ

Lảng: Chuyển sang chuyện khác nhằm tránh việc gì đó. Trí: Khả năng về nhận thức, suy nghĩ, phán đoán.

Lảng trí, như chữ “Đãng trí”, là hay quên, không để trí đến, tức không tập trung chú ý vào việc trước mắt, do mãi nghĩ về những việc nào khác.

Trong quyển Giảng Đạo Yếu Ngôn, Nguyễn Văn Kinh có viết: Còn người phò cơ chấp bút cũng bị cái thần điển nó nhập vào choán cái chơn thần của đồng tử, thì chơn thần của người phò cơ chấp bút, càng ngày càng suy giảm thối vị lần lần. Có khi nó choán hết chơn thần, còn lại thức-thần phải điên cuồng lảng trí là khác nữa.

Chính giữa ba quân không lảng trí,

Việc nhà lại chịu nỗi tầm phào.

(Đạo Sử).

 

 

LẢNG XẸT

Lảng: Vô duyên, vớ vẩn, không hợp lý hợp tình.

Lảng xẹt là rất lảng, chen vào một việc gì không thích hợp với chung quanh.

Lảng xẹt đồng nghĩa với các chữ: Lảng nhách, lảng òm, lảng ồ.

Tình chồng vợ ra mòi lảng xẹt,

Muôn sự chi hễ mét xử chìm xuồng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÃNG

1.- Lãng là lợt (lạt), mờ dần.

Như: Chuyện cũ tôi đã quên lãng từ lâu rồi, mối tình đầu đã phai lãng trong tôi.

Các con phải tự đặt nhiệm vụ của mình cho phải phép, đừng phai lãng lập trường đã sẵn có.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

2.- Lãng là sóng, không dùng một mình. Như: Lãng mạn, lãng nhân, lãng tử, lãng bạc.

Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong quyển Giáo Lý có viết: Có người không giữ được Chơn tâm thanh tịnh, để cho Vọng tâm phóng túng theo cơ duyên bên ngoài, sanh vật dục thấp hèn; tư tưởng lãng mạn lại đổ tội cho Tâm là một năng lực bất chánh?

Thạch đảo lãng xâm phong khí hoại,

Từ tâm đức vượng thạnh kỳ phòng.

(Đạo Sử).

Đem lòng lãng tử vui trăng gió,

Lấy tứ phong trần cợt bướm hoa.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

LÃNG PHÍ

浪 費

Lãng: Phóng túng. Phí: Tiêu xài.

Lãng phí là tiêu xài một cách phóng túng, tức là ăn mặc, tiêu pha hoang phí, không tiết kiệm.

Thánh giáo Thầy có dạy: Vì bô vải là tấm gương đạo đức, các con đã rõ đạo thì biết đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian nầy. Như sự lãng phí se sua ở đời nầy, Thầy cũng cho là một việc tổn đức vậy.

Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,

Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.

(Kinh Sám Hối).

Đức tin đánh đổ dị đoan,

Khỏi điều lãng phí tiền ngàn bạc muôn.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LÃNG QUÊN

Lãng: Lợt, lạt. Quên: Không còn nhớ, không còn lưu giữ lại trong trí nhớ nữa.

Lãng quên, như chữ “Quên lãng”, là quên mất đi, không còn chú ý đến nữa.

Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn viết: Còn một lẽ nữa, chúng ta cũng chẳng khá lãng quên là: Văn tự chỉ ghi chép được những tư tưởng thô sơ, thiển cận mà thôi. Trên đường học vấn chúng ta dùng kinh sách để khỏi màn suy gẫm cho mình, còn biết được Chơn lý là nhờ công phu suy gẫm.

Chúng ta lãng quên nền phong hoá tốt đẹp của ta mặc dầu, nhưng tự cổ chí kim chưa nước nào có đặng.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LÃNG TỬ

浪 子

Lãng: Sóng, chỉ sự phóng túng. Tử: Người.

Lãng tử là chỉ người sống tự do, không có nghề nghiệp, đi chơi nay đây mai đó chẳng có gì ràng buộc.

Trong Kệ chuông U minh có câu: Lãng tử, cô nhi tảo hồi hương lý, nghĩa là kẻ lang thang, trẻ mồ côi sớm trở về với quê hương, xóm làng.

Kìa đường cũ bước mòn lãng tử,

Đám thú nhà dụ dự bước chiều.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Kẻo kẹt luỹ tre đàn lãng tử,

Dập đồn dặm liễu khách nhàn du.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LÃNG UYỂN

閬 苑

Đời nhà Đường, Vương Nguyên Anh trấn nhậm Lãng Châu, có xây một cái vườn rất đẹp đẽ, gọi là Long Uyên, về sau vì tránh tên huý của vua Đường Minh Hoàng là Long Cơ, nên đổi tên ngôi vườn ấy thành Lãng Uyển.

Ngôi vườn nầy có phong cảnh u tịch, nên người sau cho là nơi thần tiên ở.

Lý Thương Ẩn đời Đường có câu: Bồng đảo yên hà Lãng Uyển chung 蓬 島 煙 霞 閬 苑 鐘, nghĩa là khói mù Bồng đảo, tiếng chuông Lãng Uyển.

Nghĩa bóng: Cảnh tiên ở.

Dừng chân du khách say nhìn,

Tưởng chừng Lãng uyển phô hình cửa không.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

LÃNG XAO

Lãng: Lợt, lạt. Xao: Chao động, lay động, động nhẹ.

Lãng xao, bởi chữ “Xao lãng”, có nghĩa là quên đi, không chú ý tới nhiều, không dồn công sức vào công việc.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Thầy Tăng Tử xưa là một bậc hiền triết mà còn “Nhứt nhựt tam tỉnh ngộ thân”, tức là hằng ngày xét mình trong ba điều:

– Một là lo việc cho người không hết lòng bằng việc mình, có thế chăng?

– Hai là giao du với bạn bè mà đem lòng giả dối, có vậy chăng?

– Ba là nghe lời Thầy dạy bảo mà hay lãng xao, có thế chăng?

Ước mong mỗi Chức Sắc hằng ngày chỉ xét mình trong một điều duy nhứt thì nền Ðại Ðạo lấy làm may mắn mà nhơn sanh cũng lấy làm hữu phước.

Xem: Xao lãng.

Đặng xong phận sự mọi bề,

Tâm tu lại vững chẳng hề lãng xao.

(Kinh Thế Đạo).

Ðã cùng nhau trót mấy lời giao,

Cách mặt mà lòng chẳng lãng xao.

(Đạo Sử).

 

 

LANH

1.- Lanh là nhanh nhẹn có tốc độ, nhịp độ trên mức trung bình, tinh ranh, sắc sảo.

Như: Tay chèo rất lanh, làm việc lanh lợi, lanh chân chạy mất.

Nếu cầm chèo đẩy mái không lanh,

Thì cũng chịu đã đành phận dốt.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lanh còn có nghĩa là ranh, lắm mồm, hay nói và có lý lẽ trong nói năng.

Như: Khuôn mặt trông rất lanh, cặp mắt lanh, cô ấy lanh mồm mép.

Nho nhã con tua tập tánh tình,

Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Sách dầu muôn cuốn dạy câu lành,

Nào kẻ học cao gọi thế lanh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LANH LẸ

Lanh: Lẹ làng, nhanh, mau hiểu, thông minh. Lẹ: Mau, nhanh.

Lanh lẹ, cũng như chữ “Mau lẹ”, có nghĩa là nhanh và gọn, chỉ một thoáng là đâu đã vào đấy hết.

Lanh lẹ còn có nghĩa là thông minh, hiểu biết mau lẹ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Nếu trí các con chẳng lanh lẹ, hạnh các con chẳng hoàn toàn, cách cư xử các con chưa hoà hiệp, đường Ðạo các con chưa liệu chung, nét khiêm cung các con chưa trọn vẹn, cách đối đãi các con chưa ôn hoà, thì nền Ðạo sau nầy e khi phải vì đó mà để một trò cười, dầu đức từ bi của Thầy cũng khó gỡ rối rắm được.

Phải chiều tánh trí con lanh lẹ,

Hay tối tăm giải lẽ cho vừa.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LANH LỢI

Lanh: Lẹ làng, nhanh, mau hiểu, thông minh.

Lanh lợi là linh lợi, nhanh nhẹn, sắc sảo, có sự tháo vát, khôn khéo trong cuộc sống.

Như: Thằng bé bị bịnh ban từ nhỏ, tưởng nó lù khù nhưng lanh lợi lắm.

Ðời lanh lợi khôn ngoan mau chết,

Ðời chừng nào diệt hết oan khiên.

 

 

LÁNH

Lánh là tránh xa, rời xa. Như: Lánh xa kẻ xấu.

Thánh giáo Thầy có câu: Sanh đứng vào vòng thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng đặng chờ lúc kết quả, hồn quy Thiên ngoại, lánh khỏi xác phàm, trở về nơi khởi hành mà phục các điều đã thi hành giữa sân khấu là chốn trần ai khốn đốn nầy.

Thành pháp dìu đời qua nẻo khổ,

Nên công giúp thế lánh cơn nguy.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lánh đường trần tục đến non Tiên,

Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÁNH BỢN TỤC

Lánh: Tránh xa. Bợn tục: Những thứ dơ bẩn, ô trược nơi trần tục, chỉ cõi thế gian.

Lánh bợn tục là lánh xa những thứ bụi trần ô trược của cõi thế tục.

Lánh bợn tục tình thâm cũng tránh,

Trốn đau thương xa cảnh trần gian.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LÁNH CHƠN

Hay “Lánh chân”.

Lánh: Rời xa đi để tránh một cái gì đó coi là không hay cho mình. Chơn (chân): Bộ phận dưới cùng của con người dùng để đi, đứng.

Lánh chơn, như chữ “Lánh chân”, đồng nghĩa với chữ “Lánh thân”, là bước chân đi để tránh xa một nơi nào đó.

Đưa tay vịn phép diệu huyền,

Ngọc Hư lập vị Cửu tuyền lánh chơn.

(Kinh Tận Độ).

Ðịnh thế nên hư lòng chẳng đổi,

Ðoán thời cách bức lánh chơn ra.

(Đạo Sử).

Riêng lo tài sắc hồng quần,

Không nhơ bợn tục nợ trần lánh chơn.

(Tứ Nương Giáng Bút).

 

 

LÁNH DỮ LÀM LÀNH

Lánh dữ: Gặp điều ác thì tránh. Làm lành: Thấy điều lành thì làm.

Lánh dữ làm lành, như câu thành ngữ “Tỵ ác hành thiện 避 惡 行 善”, là tránh những điều hung dữ, tích cực làm các việc lành.

Như: Người tín đồ phải lánh dữ làm lành, giữ gìn tam quy ngũ giới và còn phải lập công bồi đức.

Lời Thầy dạy Thánh ngôn ghi chữ,

Biểu chúng ta lánh dữ làm lành.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

Khá tua lánh dữ làm lành,

Đừng toan mưu độc chớ ganh tôi hiền.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

LÁNH GIẢ TẦM CHÂN

Hay “Lánh giả tầm chơn”.

Lánh giả: Tránh những điều giả dối, tạm bợ. Tầm chân 尋 真: Hay tầm chơn, tìm những thứ chơn thật.

Lánh giả tầm chân ý chỉ người tu hành nên lánh xa vật chất hay cõi trần là những thứ giả tạm, mà phải tạo công đức để được về cõi Thiêng liêng là thứ chân thật và vĩnh hằng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh dạy: Chúng ta sống trong vòng đạo đức nghĩa nhơn dưới bóng yêu thương của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, một đời sống của kẻ lánh giả tầm chơn, tuy đạm bạc trong bữa dưa muối nhưng nồng nhuộm nét trong sạch thanh cao.

Cõi trần là chốn mê tân,

Dìu nhau lánh giả tầm chân tiếc gì.

(Thất Nương Giáng bút).

 

 

LÁNH HỚN TỬ PHÒNG CHƯA PHẢI DẠI

Lánh Hớn (Hán), Tử Phòng chưa phải dại ý muốn nói đến Trương Tử Phòng lánh hoạ giết hại công thần của nhà Hán là một điều khôn.

Do tích Tử Phòng tức Trương Lương theo phò Lưu Bang để chống Tần và Sở Bá Vương Hạng Võ để lập nên nhà Hán. Sau khi diệt được Sở, Lưu Bang lên ngôi, xưng hiệu là Hán Cao Tổ, rồi phong cho Trương Lương lãnh chức Lưu Hầu.

Trương Lương là người theo Đạo giáo, hiểu rõ triết lý “Công thành thân thối 功 成 身 退”, nên xin trả chức để trở về ẩn dật. Đó là mưu kế khôn ngoan của Trương Tử Phòng lánh hoạ nhà Hán giết hại công thần.

Xem: Phòng xưa lánh Hán.

Lánh Hớn, Tử Phòng chưa phải dại,

Về Tào, Từ Thứ cũng là khôn.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LÁNH TỤC

Lánh: Tránh xa. Tục: Chỉ cõi phàm tục.

Lánh tục là lánh khỏi cảnh trần tục, tức tránh xa cõi có nhiều bụi bặm, ô trược.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tu tâm, Luyện tánh là thuyết của Lão Giáo dạy người mộ đạo muốn tầm tiên lánh tục.

Kỳ ba Ðại Ðạo mở đưa lời,

Lánh tục đem thân đến cảnh Trời.

(Đạo Sử).

Thương người lánh tục tìm nhàn,

Trễ chơn mà bị phụ phàng tình duyên.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

LÁNH THÂN

Lánh: Rời xa để tránh người nào hay vật gì. Thân: Chỉ thân mình, xác thân.

Lánh thân là đem thân mình tránh xa một nơi nào đó. Hay có thể hiểu: Đem thân mình vào nơi nào đó để tránh xa một việc gì.

Như: Về quê lánh thân một thời gian.

Lánh thân khóm bá rừng tòng,

Tiều chưa thoát khỏi trong vòng tôi con.

(Ngụ Đời).

 

 

LÁNH THẾ

Lánh: Rời xa để tránh người nào hay vật gì. Thế: Đời, cõi thế gian.

1.- Lánh thế là xa lánh đời, tức là lìa bỏ cõi đời (thế gian) để đi theo đường tu niệm.

Như: Vào chùa tu tức là lánh thế.

Thay đạo phục bước xăng lánh thế,

Mơi thì kinh, tối kệ giải lòng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Lánh thế còn có nghĩa là lìa bỏ cõi thế gian, tức chỉ sự chết, sự qua đời.

Như: Người tu khi lánh thế, mong trở về với cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Từ lánh thế theo Thầy về Bạch Ngọc, lúc ấy thơ thới cảnh Tiên, nhìn lại cõi trần rồi thêm chán ngán.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LÁNH TRẦN

Lánh: Rời xa để tránh người nào hay vật gì. Trần: Cõi trần, là cõi của con người đang sống.

1.- Lánh trần, đồng nghĩa với chữ “Lánh tục”, là xa lánh cõi trần tục, tức cõi thế gian.

Khổ hạnh để lòng công quả gắng,

Lánh trần chi nệ nỗi cay chua.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lánh trần còn là tiếng dùng để chỉ sự chết.

Như: Những vị chức sắc Đại Thiên phong đã làm tròn phận sự đều đã lánh trần hết.

Ðã từng cực nhọc đắp nền nhân,

Chưa toại ước mong vội lánh trần.

(Thơ Thượng Sanh).

Chánh Đức Tiên Sanh đã lánh trần,

Vườn thơ ngùi nhớ bóng thi nhân.

(Thơ Huệ Ngàn).

 

 

LÁNH XA

Lánh: Rời xa, lìa khỏi để tránh. Xa: Ở trong khoảng cách về không gian, thời gian tương đối lớn, trái với gần.

Lánh xa, như chữ “Xa lánh”, có nghĩa là tránh xa, tránh mọi sự tiếp xúc, mọi quan hệ.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Càn khôn càng náo nhiệt, ngày tận diệt đã hầu kề. Kẻ hữu phần đặng nắm mối Ðạo Trời, dựa chiếc thuyền sen lần vào non cao suối lặng, để rửa bớt chút bợn trần, dưỡng tánh tu thân, để nâng lên địa vị thanh cao, lánh xa đoạ luân hồi trong lúc hồn lìa khỏi xác.

Xem: Xa lánh.

Lánh xa trược chất bụi hồng,

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung.

(Kinh Thế Đạo).

Việc chi cũng có chánh tà,

Làm điều phải nghĩa lánh xa vạy vò.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LÀNH

1.- Lành là tốt, thiện, hiền từ, trái với ác dữ. Như: Người lành, nước lành, làm điều lành.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Nhơn loại đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh đức trong một lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng.

Làm lành sau cũng lành vay trả,

Chác dữ âu hay dữ vốn lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tiếng đời hằng nói phước do lành,

Con chẳng biết tu cứ cạnh tranh.

(Đạo Sử).

2.- Lành là không rách, không vỡ, không hỏng, nguyên vẹn. Như: Áo lành, bát lành, ngọc lành.

Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Thầy sanh ra các con thì phải yêu trọng các con chẳng cùng, mà Thầy cho các con đến thế giới nầy với một Thánh thể thiêng liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con lại không chịu, nghe điều cám dỗ, mê luyến hồng trần, ăn cho phải bị đọa, dâm cho phải bị đày, nên chịu nạn áo cơm, dục quyền cầu lợi.

Ngọc lành đáng giá biết bao lăm,

Ðể mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nhàn trung kiểm điểm sự bình sanh,

Gương bể chưa ai kết đặng lành.

(Đạo Sử).

 

 

LÀNH DỮ

Lành: Thiện, hiền, tốt. Dữ: Hung tợn, dữ, người hay gây việc ác.

Lành dữ là điều thiện hay điều ác, hoặc việc tốt hay việc xấu.

Trên đời chỉ có hai đường để đi: Lành dữ, tốt xấu để cho con người tuỳ ý chọn lựa, song muốn con người có tư cách, phẩm hạnh tốt thì phải thi hành theo việc lành, lẽ phải, hay lẽ đạo đức.

Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Ta phải mở lòng bác ái, thương xuống đến các vật yếu hèn, một là tránh khỏi sa vào luật quả báo, vì luật Thiên điều chẳng hề vị ai. Tuy mắt thịt không bao giờ thấy được, chớ kỳ thiệt, một mảy lành dữ không qua được.

Lành dữ hai đường vừa ý chọn,

Lành như tòng, dữ tợ hoa tươi.

(Giới Tâm Kinh).

Nhà nên cũng tại gái lòng lành,

Lành dữ khuyên ai chớ cạnh tranh.

(Đạo Sử).

 

 

LÀNH DỮ NƠI MÌNH CHIÊU PHƯỚC HOẠ

Lành dữ nơi mình: Việc lành, việc dữ là do tự nơi mình gây ra. Chiêu phước hoạ 招 禍 福: Rước lấy hoạ hay phước.

Lành dữ nơi minh chiêu phước hoạ, bởi trong Tả Truyện có câu: Hoạ phước vô môn duy nhân tự triệu 禍 福 無 門, 惟 人 自 召, nghĩa là việc hoạ, việc phước không có cửa, chính do người vời nó đến.

Lành dữ nơi mình chiêu phước hoạ ý nói lành dữ mà mình nhận được là do mình tự rước nó đến mà thôi.

Lành dữ nơi mình chiêu phước hoạ,

Thành tâm ắt thấy hết thần minh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÀNH MẠNH

Lành: Không bịnh, tốt, không có khả năng hại đến người, vật. Mạnh: Có sức lực, không đau ốm.

Lành mạnh là ở trạng thái không có bệnh tật.

Lành mạnh còn có nghĩa là không có những mặt, những biểu hiện xấu.

Trong Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Lại như những người trường trai rủi lâm bịnh hoạn mà lương y buộc phải dùng sữa và trứng thì cũng nên tạm dùng trong lúc bịnh, đợi lành mạnh sẽ thôi, chẳng nên quá câu chấp mà hại thân.

Vẫn gánh non sông đến tuổi già,

Đơn tâm lành mạnh thế tài ba.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LÀNH PHƯỚC

Hay “Lành phúc”.

Lành: Hiền lành, tốt. Phước (phúc): Phước đức, tức điều hay, điều tốt.

Lành phước, như chữ “Phước lành”, là điều lành và điều phước.

Lành phước ý muốn nói hễ làm lành thì hưởng phước, do câu nói của Đức Khổng Tử: Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phúc, 為 善 者 天 報 之 以 福, nghĩa là người làm việc lành thì Trời ban phước đức.

Như nhiên lành phước dữ tai ương,

Một trả một vay cũng lẽ thường.

(Đạo Sử).

 

 

LÀNH SIÊU DỮ ĐOẠ

Lành siêu: Làm lành được siêu thăng. Dữ đoạ: Làm dữ bị đoạ.

Chơn linh siêu đoạ là do nơi hành vi thiện ác của người ấy trên thế gian, nếu người ấy mãn kiếp làm việc lành thì sẽ được siêu thăng thoát hoá, nếu người ấy làm điều hung dữ thì sẽ bị đoạ vào cõi Âm Quang, đó gọi là “Lành siêu dữ đoạ”.

Hoá công xem xét đền bồi,

Lành siêu dữ đoạ thêm nhồi tội căn.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LÀNH THĂNG DỮ ĐOẠ

Lành thăng: Làm lành được siêu thăng. Dữ đoạ: Làm dữ bị đoạ.

Lành thăng dữ đoạ, đồng nghĩa với “Lành siêu dữ đoạ”, nghĩa là làm lành thì được siêu thăng làm dữ thì bị đoạ lạc.

Xem: Lành siêu dữ đoạ.

Nghĩa là phải tương đắc cùng nhau đặng định quyết phép công bình lành thăng dữ đoạ.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LÀNH VAY TRẢ

Lành: Điều thiện, điều tốt. Vay trả: Hễ có vay (mượn) thì phải có trả.

Lành vay trả tức là làm lành quả báo điều lành.

Sách Nho có câu: Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phúc 為 善 者 天 報 之 以 福, nghĩa là người làm lành thì trời sẽ ban cho điều phước.

Hoặc: Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo 善 有 善 報, 惡 有 惡 報, nghĩa là lành có lành báo, dữ có dữ báo.

Như vậy, hễ chúng ta làm việc lành thì sẽ được báo trả điều thiện, tức lành vay trả.

Làm lành sau cũng lành vay trả,

Chác dữ âu hay dữ vốn lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LẢNH LÓT

Lảnh: Như lanh lảnh, âm thanh cao, trong và vang, phát ra với giọng gắt.

Lảnh lót là nói về âm thanh có giọng cao, trong và âm vang xa. Như: Tiếng ca lảnh lót, chim kêu lảnh lót.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Tai nghe giọng phù trầm, lảnh lót thanh tao mà lòng không vọng động. Mắt thấy việc lạ lùng, xinh đẹp, tốt tươi mà ý chẳng say mê.

Cảnh trí dập dìu bầy én luyện,

Rừng thiêng lảnh lót tiếng oanh vàng.

(Thơ Thượng Cảnh Thanh).

 

 

LÃNH

1.- Lãnh là lĩnh, hàng dệt bằng tơ nõn, mặt bóng mịn, các sợi dọc phủ kín sợi ngang nên nhìn rất bóng và mịn.

Như: Người sang thì quần hàng áo lãnh, quần lãnh đen bóng mượt.

Hễ họ muốn hay so hay sánh,

Mình lại thường khoe lãnh, khoe hàng.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lãnh , còn đọc “Lĩnh”, là nhận lấy. Như: Lãnh lịnh, lãnh ý, lãnh tiền, lãnh lương.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy ước sao các con biết tự lập thì Thầy mới vui lòng, chớ các con nhập môn cho đông, lãnh Thiên phong cho nhiều mà không đủ tư cách thì các con phải tự hỏi mình coi có bổ ích vào đâu chăng?

Lãnh chức Lễ Sanh lo phận sự,

Ngày sau chức trọng sẽ dành ban.

(Đạo Sử).

3.- Lãnh là lạnh, có nhiệt độ thấp, trái với nóng.

Như: Anh ta đối xử người khác hết sức lãnh đạm, bị đày vào lãnh cung.

Nay tuyết đóng song hồ động lãnh,

Đành cửa không gởi mảnh tâm hồn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LÃNH CUNG

冷 宮

Lãnh: Lạnh lẽo. Cung: Cung điện, nơi vua ở.

Lãnh cung là một cái cung mà vua không bao giờ đi đến, nên nơi đó vắng vẻ, lạnh lẽo.

Lãnh cung dùng để chỉ nơi ở của các vị phi, tần bị vua ghét bỏ, hoặc nơi đó dùng để giam lỏng các cung phi phạm tội.

Như: Cung phi có tội bị đày vào lãnh cung.

Còn con ô thước bắc cầu,

Mất con là cửa vô lầu lãnh cung.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đường về, bỗng sáng hôm sau,

Chiếu theo gọi bắt giam vào lãnh cung.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

LÃNH ĐẠM

冷 淡

Lãnh: Lạnh lẽo. Đạm: Lạt, trái với nồng.

Lãnh đạm là lạnh lùng và lạt lẽo, ý chỉ không có biểu hiện tình cảm, tỏ ra không muốn quan tâm đến.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Lão Tử thì coi thường mọi việc thế tình, cho công danh phú quý là phù vân, nên chủ trương cái thái độ hờ hững lãnh đạm với ngoại giới.

Cặp liễn tang còn câu long ám,

Hạc quy hồi lãnh đạm trần ai.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Khoe nét huy hoàng, khoe nét mới,

Biết ai lãnh đạm, biết ai màng?!

(Thơ Hoài Tân).

 

 

LÃNH ĐẠO

Hay “Lĩnh đạo”.

Lãnh (lĩnh): Nhận lấy, thống suất cả. Đạo: Đem đường, mở lối.

Lãnh đạo, như chữ “Lĩnh đạo 領 導”, là dẫn đường, dìu dắt, tức đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện.

Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy cho nữ phái có câu: Chỉ ở trong cửa Đạo Cao Đài mới đào tạo và lãnh đạo phong trào nữ phái được thuần tuý và chánh đáng mà thôi.

Thọ mệnh... lo tròn vai lãnh đạo,

Xây nền phổ độ lắm gian lao.

(Thơ Huệ Ngàn).

Thoát trần vẹn để gương từ ái,

Lãnh đạo năng gìn thuyết vị tha.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LÃNH HỘI

Hay “Lĩnh hội”.

Lãnh (lĩnh): Nhận lấy. Hội: Hiểu.

Lãnh hội, như chữ “Lĩnh hội 領 會”, là nhận được và hiểu thấu, tức tiếp thu và hiểu rõ một cách thấu đáo.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Một chơn linh cao trọng tự nhiên có một chơn thần cao trọng, bởi cả hai vẫn đi đôi đồng đường với nhau, cùng tấn triển trong con đường Thánh đức của Chí Tôn, cả hai có liên quan mật thiết, nên hễ chừng nào đạt pháp đặng có đủ quyền năng định vận mạng, nghĩa là nó đã tấn tới đúng mức rồi, dầu quyền của Ngọc Hư Cung cũng không còn lãnh hội nó nữa, quyền tự chủ đã đạt đặng như các cơ quan hiển vi tấn triển tới mục đích tới giới định hiển nhiên ta thấy nơi mặt thế đây vậy.

Nếu biết là sự học hỏi không có phạm vi giới hạn, trí huệ càng mở mang thì sự học càng tiến thêm mãi và nếu được lãnh hội mau chóng là nhờ có suy nghĩ nhiều.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LÃNH LỊNH

Hay “Lĩnh lệnh”.

Lãnh (lĩnh): Nhận lấy cái được ban cho, phát cho. Lịnh (lệnh): Điều cấp trên truyền xuống cấp dưới phải thi hành.

Lãnh lịnh, như chữ “Lĩnh lệnh 領 令”, là nhận lấy mệnh lệnh.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Những đạo hữu nào không vì hạnh đức mà chung hiệp nhau lo hành Chánh giáo, thì đã có Thần, Thánh lãnh lịnh biên ghi vào Sổ Công Quả, đợi ngày chung quy đặng đem vào cân Thiên điều mà phán đoán.

Một chức giáo dân tua lãnh lịnh,

Làm cho đời tệ hoá ra hay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÃNH MẠNG

Hay “Lĩnh mệnh”.

Lãnh (lĩnh): Quản lý, nhận lấy. Mạng (mệnh): Lịnh của cấp trên.

Lãnh mạng, như chữ “Lĩnh mệnh 領 命”, là nhận lãnh mạng lịnh của cấp trên truyền xuống.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Trước khi lãnh mạng Tam Giáo Toà xuống chịu mình với chúng sanh lúc Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, đều có cam đoan hứa làm tròn phận sự.

Ðạo Thánh mở phú một tay truyền bá,

Lãnh mạng Trời bố hoá khắp hoàn cầu.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

LÃNH NOÃN

冷 暖

Lãnh (lĩnh): Lạnh. Noãn: Ấm.

Lãnh noãn là lạnh và ấm, ý chỉ lòng người thay đổi như thời tiết khi lạnh lúc nồng.

Tình lãnh noãn lạ lùng thay,

Càng lắm gần nhau lắm dể mày.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LÃNH TỤ

Hay “Lĩnh tụ”.

Lãnh (Lĩnh): Cổ áo. Tụ: Tay áo.

Lãnh tụ, như chữ “Lĩnh tụ 領 袖”, là cổ áo và tay áo, là hai bộ phận quan trọng nhứt của chiếc áo, được dùng để ví với “Lãnh tụ” là người đứng đầu một đoàn thể hay một đảng phái.

Như: Ông ấy là lãnh tụ của phong trào.

Vậy có câu: “Dĩ đức phục nhơn” lập hoà bình bằng nhơn đức, mà chính các vị lãnh tụ không thật hành được mảy may nào cả...

(Thánh Giáo Thượng Phẩm).

 

 

LÃNH THẤT

冷 室

Lãnh: Lạnh, lạnh lẽo. Thất: Cái nhà.

Lãnh thất là ngôi nhà lạnh lẽo.

Sớm tối thừa nhàn nơi lãnh thất,

Năm cung thường trỗi giọng Hồ cầm.

(Thơ Bảo Văn Pháp Quân).

 

 

LÃNH THỔ

Hay “Lĩnh thổ”.

Lãnh (lĩnh): Trông coi tất cả. Thổ: Đất đai.

Lãnh thổ, như chữ “Lĩnh thổ 領 土”, là đất đai do một quốc gia trông coi tất cả, tức là đất thuộc quyền của một quốc gia.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Cái nạn qua phân lãnh thổ, Bần Đạo nói sẽ làm cho nhơn loại đau khổ và nguy hiểm không thể tưởng tượng vì năng lực tàn phá của võ khí tối tân nhứt là bom nguyên tử.

Tạo oán đồng bào giành lãnh thổ,

Gây thù huynh đệ hại quê hương.

(Thượng Trí Thanh).

Dư đồ xẻ nửa buồn pha hận,

Lãnh thổ chia đôi sử thúc trang.

(Thơ Thượng Tuy Thanh).

 

 

LẠNH

Lạnh là không có hơi nóng, tức có nhiệt độ thấp hơn so với mức được coi là trung bình.

Như: Trời lạnh, tay lạnh cóng, không khí lạnh tràn về, bị cảm lạnh.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ấy là hình tướng thiên nhiên của tạo đoan, nên Chí Tôn nói có Âm ắt có Dương, có nóng ắt có lạnh.

Ngồi ngai biết phận ấy ngồi chông,

Giữa tuyết lạnh đông buộc tưởng nồng.

(Đạo Sử).

Mơ hồn hồ điệp đêm trăng lạnh,

Thương cái dã tràng bãi cát xây.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LẠNH LẼO

Lạnh: Thiếu hơi ấm, có nhiệt độ thấp hơn trung bình, tỏ ra không chút tình cảm trong quan hệ với người.

Lạnh lẽo là rất lạnh, làm cho con người cảm giác muốn run.

Lạnh lẽo còn có nghĩa là tỏ ra không chút tình cảm, trong quan hệ đối xử. Như: Thái độ lạnh lẽo.

Áo trâu đắp đông sương lạnh lẽo,

Cửa hấp gà mở nẻo tiễn phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Lạnh lẽo đã từng ở cảnh Thiên,

Trần gian âu rửa thử ưu phiền.

(Đoàn Thị Điểm Giáng).

 

 

LẠNH LÙNG

Lạnh: Có cảm giác lạnh, tỏ ra không chút tình cảm trong quan hệ với người.

Lạnh lùng là lạnh, làm tác động mạnh đến tâm hồn hay tình cảm.

Lạnh lùng còn có nghĩa là tỏ ra thiếu hẳn tình cảm trong quan hệ tiếp xúc với người, với việc.

Thấy cơn tử biệt não nùng,

Hương thề tắt ngọn lạnh lùng tơ duyên.

(Kinh Thế Đạo).

Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng,

Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Cuộc thế lạnh lùng làn gió lọt,

Ðường đời ngán ngẩm bụi trần lồng.

(Thơ Quý Cao).

 

 

LẠNH NỒNG

Lạnh: Có nhiệt độ thấp, gây cảm giác khó chịu. Nồng: Nóng ẩm, lặng gió, cảm giác ngột ngạt.

Lạnh nồng, bởi chữ “Hàn ôn 寒 溫”, là lạnh và ấm, ý chỉ thăm hỏi về sức khoẻ, tức có sự quan tâm với nhau.

Khi tối sớm lạnh nồng có kẻ,

Thân mật con đặng dễ giữ con.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẠNH NGẮT

Lạnh: Có nhiệt độ thấp, gây cảm giác khó chịu. Ngắt: Từ dùng để chỉ một tính chất có cảm giác không ưa thích.

Lạnh ngắt là lạnh đến mức có cảm giác như không có một chút hơi ấm nào hết. Như: Bàn tay lạnh ngắt.

Trong Thuyết Đạo Hộ Pháp nói về Bà Lâm Hương Thanh có câu: Hay là Đạo của Phật Thích Ca và công nghiệp của Bà Nữ Đầu Sư bị có cơn mưa rồi lạnh ngắt, đã lạnh trước rồi bị trận mưa nữa nó lạnh luôn.

Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,

Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LẠNH TANH

Lạnh: Có nhiệt độ thấp hơn nhiều so với mức trung bình gây cảm giác khó chịu.

Lạnh tanh là rất lạnh lẽo, không thấy có một chút hơi ấm nào cả, hoặc không thấy có một bóng người hết.

Như: Ngôi nhà lạnh tanh, không có bóng người.

Thương người đeo thảm chác phiền,

Nỗi duyên lỡ dở hương nguyền lạnh tanh.

(Thất Nương Giáng Bút).

Còn ta luống những đoạn trường,

Gối chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LAO

1.- Lao là khó nhọc. Như: Lao động, lao khổ, lao tâm, lao lực, công lao, cù lao.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Thầy biết có những chơn linh, vì lãnh mạng tá phàm, mà dìu dắt các con của Thầy, nên chẳng nại công lao khó nhọc, yêu cầu cùng Tam Giáo nới tay cho Thầy cứu rỗi các con.

Cơn nghèo khó chia lao sớt nhọc,

Cuộc tử sanh kết tóc chẳng rời.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lao là nhà giam, nhà ngục, khám nhốt tù tội. Như: Lao lý, nhốt vào lao.

Thánh giáo Thầy có câu: Than ôi! Ðiều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi uốn lưỡi, mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.

Ðai cân đã có vẻ chi chưa,

Hay phận tù lao kiếp sống thừa.

(Đạo Sử).

Phải thường viếng tù lao nơi khám,

Mà khuyên lơn kẻ phạm răn mình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LAO CÔNG HẠN MÃ

勞 功 汗 馬

Lao công: Công lao khó nhọc. Hạn (hãn) mã: Ngựa đổ mồ hôi, ý chỉ nhọc nhằn vì đánh giặc nơi chiến trường.

Lao công hạn (hãn) là nói công lao cực nhọc của các tướng sĩ ra dẹp giặc nơi chiến trường.

Nào tật đố hiền tài, hữu thỉ vô chung, nghe lời sàm tấu, giết người lao công hạn mã...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LAO ĐAO

Lao đao là choáng váng vì mệt nhọc.

Lao đao còn có nghĩa là lận đận, vất vả vì gặp phải mạng vận khổ cực.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã cho hay trước rằng: Thầy thương bấy nhiêu thì cũng cho chư Tiên, chư Thánh thử bấy nhiêu, chịu khổ tâm, song đạo hạnh gìn tròn, còn trái lại ham sung sướng trong một thời gian ngắn ngủi, đến khi hưởng tận, thân phải chịu khổ não lao đao.

Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,

Không quản lao đao giữ tiếng lành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phàm thân thương kẻ lắm lao đao,

Bởi kiếp tiền khiên trả chớ sao.

(Đạo Sử).

 

 

LAO ĐỘNG

勞 動

Lao: Khó nhọc. Động: Hoạt động.

Lao động là lấy sức lực đem ra làm việc. Lao động còn có nghĩa là người làm thuê cho nhà tư bản.

Thánh giáo Thầy dạy về “Bất tửu nhục” có câu: Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào ngũ tạng lục phủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng, mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng.

Hồn trí ngao du trên đảnh núi,

Xác linh lao động cuối đầu triền.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LAO KHỔ

勞 苦

Lao: Nhọc mệt. Khổ: Lo lắng, cực nhọc.

Lao khổ là nhọc mệt lo lắng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Vì cớ cho nên mỗi đứa chúng ta, dầu lao khổ, truân chuyên, dầu nhiều phen bị khảo đảo khổ hạnh, mà dường như tinh thần ta thấy khoái lạc hơn nữa, là tại sao vậy? Tại ta biết rằng sự khảo đảo hình xác nầy không phương gì mà động chạm đến phạm vi đại nghiệp của ta kia đặng, bất quá là bóng dáng mà thôi...

Cõi trần trung giái thinh thinh,

Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.

(Xưng Tụng Công Đức).

Dưỡng nuôi lao khổ đắng cay,

Lửa hương chỉn ước có ngày nối xa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LAO KHỔ PHẬN

勞 苦 分

Lao khổ: Vất vả, cực nhọc. Phận: Phần trời định cho mỗi người.

Lao khổ phận, như chữ “Khổ phận 苦 分”, là cái số phần khó nhọc vất vả, tức là cái số phận do Trời định phải chịu nhọc nhằn, khổ sở.

Xem: Khổ phận.

Thạnh bỏ suy đương lao khổ phận,

Cũng như Bạch Khỉ đến hôn mê.

(Thánh Thi Hiệp tuyển).

 

 

LAO LÝ

牢 裏

Lao: Nhà giam, nhà ngục. Lý: Chỗ, nơi, trong.

Lao lý là chỉ nơi giam cầm, đồng nghĩa với Lao lung.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Từ khai Thiên lập Ðịa, Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao nhiêu điều khổ hạnh, mấy lần lao lý, mấy lúc vang mày, nuôi nấng các con hầu lập nền Ðạo, cũng tưởng cho các con lấy đó làm đuốc soi mình đặng cải tà quy chánh.

Nhìn thấy trẻ trong vòng lao lý,

Muốn các con một ý một lòng.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Thầy còn đang chịu cơn lao lý,

Tớ lại màng chi phận thảm sầu.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LAO LUNG

牢 籠

Lao: Chuồng nuôi thú, nhà ngục. Lung: Cái lồng nhốt súc vật.

Lao lung là cái chuồng và cái lồng để nhốt súc vật. Nghĩa bóng chỉ sự giam cầm tù tội, sự mất tự do.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu trong nước mà cầu lợi như thế, thì bá tánh phải chịu lao lung, muôn dân đồ thán, trong nước thế nào bình trị được?

Thượng Hoàng sánh đức Chí Công,

Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.

(Kinh Thế Đạo).

Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,

Chẳng quản lao lung giữ tiếng lành.

(Đạo Sử).

Trong đục hỏi lòng, lòng khá gội,

Chờ ngày lánh gót thoát lao lung.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LAO LỰC

勞 力

Lao: Nhọc mệt. Lực: Sức lực.

Lao lực là sức chịu sự mệt nhọc.

Thánh Giáo Thầy có câu: Có nhiễm trần, có lăn lóc mơi sương chiều gió, có kim mã ngọc đàng, có đai cân rực rỡ, có lấn lướt tranh đua, có ích kỷ hại nhân, có vui vẻ với mùi đỉnh chung lao lực, mới thấy đặng tỏ rõ bước đời gai chông khốn đốn, mới thấy cuộc nhục vinh, buồn vui không mấy chốc, chẳng qua là trả vay vay trả đồng cân, chung cuộc lại thì mối trái oan còn nắm, mà cũng vì đó mới thấy đặng đường hạnh đức trau mình, trò đời chẳng qua một giấc huỳnh lương.

Lao lực thế tình chi xạo xự,

Rửa tai chờ lóng nhạc năm cung.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chưa thành tua gắng chút công lao,

Lao lực đem nhau cảnh tịnh vào.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LAO NHAO

Lao nhao là đông đúc, ồn ào lên tiếng cùng một lúc, gây sự lộn xộn, mất trật tự.

Như: Mọi người cười nói lao nhao.

Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Trước khác, nay thì khác, đã mang Thiên mạng nơi mình, phải so quyền liệu sức mà hành chánh, cả chúng sanh đương lao nhao lố nhố trông cậy nơi chư hiền hữu, phải làm sao cho xứng phận thì làm.

Thầy cũng buồn lòng mà thấy bầy con lao nhao lố nhố lặn hụp chìm đắm giữa cõi hư sanh nầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LAO NHỌC

Lao: Khó nhọc. Nhọc: Mệt.

Lao nhọc là lao khổ và nhọc mệt.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chức sắc đã hiến thân cho Đạo, quyết xả thân để phụng sự nhơn loại thì bản thân không còn là của mình nữa, phải chết về mặt đời, sống về mặt Đạo, tận tuỵ với nhiệm vụ, không nệ khó khăn lao nhọc thì mới đúng với sự hiến thân của mình.

Gắng chí tu hành đã lắm phen,

Không nề lao nhọc tấm thân hèn.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LAO RAO

Lao rao là từ mô phỏng âm thanh tiếng gió thổi tương đối mạnh, tạo thành tiếng lào xào qua cành cây kẽ lá.

Ca dao Việt Nam có câu: Gió lao rao tàu cau nhỏng nhảnh, Em thương anh rồi thọ lãnh đôi bông.

Đợi chừng gió bấc thổi lao rao,

Em chắp cánh bay đến nước Tàu.

(Quyền Giáo Tông).

Rúc rắc mưa sa run bất luận,

Lao rao gió thổi rét vô phương.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

LAO TÂM

勞 心

Hay “Lao tâm trí”.

Lao: Nhọc mệt. Tâm: Phần tinh thần, lòng.

Lao tâm là nhọc mệt trong lòng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Có nghề đòi hỏi sự lao lực, có việc cần nơi sự lao tâm. Lập công quả bằng sự lao tâm hay lao lực đều có giá trị như nhau và đều hướng về chủ đích phụng sự cho Đạo và cho chúng sanh.

Ðã nhiều danh lợi bước đua tranh,

Nhọc xác lao tâm hỏi có thành?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Gặp cảnh khổ cho con bớt khổ,

Dầu lao tâm ấy số tiền căn.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

LAO TÂM TRÍ

智 勞 心

Lao: Nhọc mệt. Tâm trí: Phần tinh thần và trí não.

Lao tâm trí, như chữ “lao tâm 勞 心”, là nói người làm việc quá sức về trí óc gây sự căng thẳng, hay người gặp cảnh lo lắng, buồn rầu.

Như: Anh bị lao tâm trí vì phải lo mẹ già.

Thương đời chẳng quản lao tâm trí,

Tùng vận lòng thành tặng mấy câu.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

LAO TÂM TIÊU TỨ

勞 心 消 思

Lao tâm: Nhọc mệt trong lòng. ý chỉ mệt nhọc về tinh thần. Tiêu tứ: Trí óc hao mòn.

Lao tâm tiêu tứ lòng lo lắng vất vả, trí não hao mòn, ý chỉ nhọc mệt về tinh thần.

Thuyết Đạo Đức Quyền Giáo Tông có câu: Ấy vậy, dầu cho sự xung đột của quyền Ðạo với quyền Ðời thoảng đã làm cho lao tâm tiêu tứ của những trang chấp chánh Ðạo quyền đi nữa, là phương chước tô điểm vẽ vời cho lịch xinh mặt Ðạo.

Thầy mầng cho các con đã chịu lao tâm tiêu tứ mà vun đắp nền Ðạo, làm cho mối tương thân tương ái càng khắng khít vững bền,...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LAO TÙ

牢 囚

Lao: Nhà giam, nhà ngục, khám nhốt tù tội. Tù: Bị cần hãm một chỗ, không được tự do.

Lao tù là khám, nhà giam, nhà ngục.

Lao tù còn có nghĩa là bị giam hãm trong khám, không được tự do đi lại.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ví dụ cờ bạc gây ra cái quả thiếu hụt, nợ nần, vì thiếu hụt phải lường gạt hay trộm cắp; trộm cắp gây ra cái quả lao tù.

Chịu trong khám tối mây mù,

Sa chơn vào chỗ lao tù ngàn năm.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LAO THÂN

勞 身

Lao: Khó nhọc, vất vả, mệt nhọc. Thân: Xác thân, thân mình.

Lao thân ý nói thân thể người gặp hoàn cảnh khổ sở, vất vả mà sinh ra mệt nhọc.

Một đổi lao thân mà đắc Ðạo,

Thương giùm người kiếp trước bơ thờ.

(Đạo Sử).

Mẹ cả đời chịu phận cửi canh,

Cha mãn kiếp lao thân, thuê mướn.

(Phương Tu Đại Đạo).

Lao thân khổ phận là bao nả?

Lỡ bước sa chơn giỏi mặc dầu.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LAO XÁ

牢 舍

Lao: Chuồng nuôi súc vật, nhà ngục. Xá: Nhà.

Lao xá là nhà giam, tức nơi nhốt những người phạm luật pháp nhà nước.

Giam chức sắc mưu toan đe dọa,

Nhốt môn đồ lao xá Tây Ninh.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LAO XAO

1.- Lao xao là từ gợi tả những âm thanh, tiếng động nhỏ, rộn lên xen lẫn với nhau không đều.

Như: Tiếng cành lá lao xao ngoài đồng.

Thương trời rạng lao xao cánh nhạn,

Đến đưa tin cửa Hán Chiêu Quân.

(Thất Nương Giáng Bút).

Bầy hồng nhạn lao xao vịnh liễu,

Đám cò ngà bận bịu gành khơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Lao xao còn có nghĩa là lay động.

Như: Mặt nước hồ gợn lao xao, bức màn ngoài hiên lao xao trước gió.

Chẳng biết tu tâm thân đến thế,

Như ao mắc gió mặt lao xao.

(Đạo Sử).

 

 

LÁO

1.- Láo là hổn, sấc, vô lễ, không kể gì với khuôn phép trong quan hệ đối với người trên.

Như: Kẻ dưới không được láo với người trên, nói láo là mang tội vọng ngữ.

Kẻ biết Ðạo Ðời thì ít mặt,

Những quân xảo láo hiếm phàm phu.

(Đạo Sử).

2.- Láo còn có nghĩa là bậy, không thực.

Như: Đặt điều nói láo, làm láo để kiếm công, làm thì láo báo cáo thì hay.

Đừng ỷ mình trứng mỏng mẹ cha,

Bị đòn bọng thiết tha méc láo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÁO TÁO

Láo táo là nghịch ngợm, rắn mắt, có những hành động, cử chỉ biểu hiện sự tinh nghịch, thường dùng để chỉ tính của trẻ nhỏ.

Như: Nó ở nhà thì láo táo ra đường tỏ ra nhu mì, tánh tình thằng bé láo táo khó dạy.

Tánh con nít thì hay láo táo,

Hễ nghe cha chế nhạo nổi hành hung.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÁO XƯỢC

Láo: Bậy, không thực. Xược: Láo, hỗn hào.

Láo xược là vô lễ, xúc phạm đến người khác.

Như: Thằng đó ăn nói láo xược lắm, hành động nó thách thức láo xược.

Cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người,...

(Tân Luật).

 

 

LÃO

1.- Lão là người già, thường chỉ người vào khoảng bảy mươi tuổi trở lên.

Như: Ông lão, bà lão, sống lâu lên lão làng.

Thà đọc sách xưa hiền bảy Lão,

Tại nơi rừng trước hưởng khương bình.

(Đạo Sử).

Từ xanh tóc đến khi ra lão,

Phải cùng nhau hoà hảo cho bền.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lão là tiếng tự xưng của người già. Như: Con trai lão đã từ trần hôm qua, ngày mai lão sẽ ra đi.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Nghe dạy: Lão giao luật nầy cho Nhị vị Chưởng Pháp xem xét lại nữa, trong một tháng phải rồi mà giao lại cho Hộ Pháp cầu Lão sửa Luật.

Thổi thẳng cánh buồm thì Lão thủ,

Nâng an lòng bản cậy Thần, Tiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thử để hỏi tâm, tâm sẽ dạy,

Rằng trong thế giới Lão cao quyền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Lão dùng để chỉ những người thuộc lớp người già trong các ngành nghề, hoặc có hàm ý coi trọng.

Như: Lão nông, lão mục, lão tiều, lão nghệ nhân, các cụ lão ông lão bà.

Thân trâu phải chịu nhọc nhằn,

Ðòn roi lão mục, tiếng dằn thằng chăn.

(Ngụ Đời).

 

 

LÃO BẠNG SINH CHÂU

老 蚌 生 珠

Lão bạng: Con trai già, loài vật sống ở đáy nước có vỏ cứng gồm hai mảnh. Sinh châu: Sanh ra ngọc.

Lão bạng sinh châu là con trai già sinh ra ngọc.

Thành ngữ nầy dùng để chỉ những người tuổi già mới sinh ra con quý.

Xem: Trai già nở châu.

Lão bạng sanh châu” lời mến chúc,

Cảnh già đầm ấm nợ ba sinh.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LÃO ĐAM

老 聃

Lão Đam là tên thụy của Đức Lão Tử. Ngài họ Lý, tên Nhĩ, tự là Bá Dương làm quan giữ Tàng thất (Kho sách) ở Kinh đô Lạc Dương của nhà Châu.

Về gia thế thì sử sách không có nói đến, nhưng theo truyền thuyết thì nói rằng mẹ của Lão Tử mang thai có đến 80 năm mới sinh ông do hông bên trái dưới cội cây lý. khi ông được sinh ra thì râu tóc dài và bạc trắng, mới gọi ông là Lão Tử. Lão Tử chỉ cây lý mà bảo rằng đó là họ của ông.

Ở tại Lạc Dương phía đông nhà Châu một thời gian lâu, sau thấy nhà Châu suy, nên Lão Tử cỡi trâu đi về hướng tây, khi đi đến cửa ải Hàm Cốc, quan lệnh là Doãn Hỷ. Biết Lão Tử là một Thánh nhân nên quan Doãn tôn ông là Thầy để xin theo học Đạo.

Lão Tử ở lại Hàm Cốc dạy Đạo cho Doãn Hỷ và soạn ra bộ sách nói về Đạo Đức, sách phân làm hai thiên, gồm có trên 5000 chữ. Sau này được gọi là “Đạo Đức Kinh”.

Rồi từ đó, Lão Tử cỡi trâu đi về hướng tây mất dạng, người ta không biết ông đi về đâu.

Theo Kinh Tiên Giáo, Lão Tử là chơn linh của Đức Thái Thượng Đạo Quân hoá sinh ra, là giáo chủ của Đạo Tiên.

Xem: Lão Tử.

Liên đài may nở thêm hoa,

Lão Đam cũng biết, Thích Già cũng quen.

(Kinh Tận Độ).

Kẻ gọi là Nhan, kẻ gọi Tăng,

Lão Đam nghèo khó cũng chưa bằng.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LÃO GIÁO

老 教

Lão: Chỉ Đức Lão Tử. Giáo: Tôn giáo.

Lão giáo là một tôn giáo thờ Đức Lão Tử làm Giáo chủ, có mục đích tu luyện thành Tiên. Vì thế, Lão giáo còn gọi là Tiên giáo hay Đạo giáo.

Xem: Đạo giáo.

Thay Lão Giáo cầm quyền Nhứt Trấn,

Kiêm Giáo Tông độ dẫn nguyên nhân.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

LÃO LAI

老 萊

Lão Lai, hay “Lão Lai Tử 老 萊 子”, là một trong hai mươi bốn người con hiếu thảo. Ông là người nước Sở đời Xuân Thu, đã quá 70 tuổi hãy còn cha mẹ.

Ông thờ cha mẹ rất có hiếu, không muốn để cha mẹ thấy ông đã già mà lo buồn, ông thường mặc áo sặc sỡ, nhảy múa trước cha mẹ, lại có khi giả bộ té, rồi khóc oà lên, làm như đứa trẻ lên ba vậy. Ý ông là cốt làm cho cha mẹ lúc nào cũng vui vẻ trong lòng.

Lão Lai mặc áo quần như trẻ,

Hát múa cho cha mẹ nôn cười.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Lão Lai tuổi vào hàng thất thập,

Cha mẹ còn, tràn ngập hiếu ân.

(Báo Ân Từ).

 

 

LÃO LUYỆN

老 煉

Lão: Già, già dặn. Luyện: Rèn, ý chỉ từng trải nhiều lần để nâng cao dần khả năng, kỹ năng.

Lão luyện là từng trải, sành sỏi, tức có nhiều kinh nghiệm, già dặn, thành thạo trong nghề nghiệp hay trong chuyên môn.

Như: Anh ta có tay nghề thuộc hàng lão luyện.

Lão luyện chơn thân huờn chánh giác,

Tổ truyền tâm pháp khả cần phanh.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LÃO QUÂN

老 君

Lão Quân tức Thái Thượng Lão Quân, là vị tổ của Đạo Giáo, hay Tiên giáo.

Tương truyền, Lý Nhĩ, thuỵ là Đam, tự là Bá Dương, là hậu thân của của Thái Thượng Lão Quân, vì mới sinh ra đã đầu bạc, nên người đương thời mới gọi là Lão Tử.

Kỵ kim quang kiến Lão Quân,

Dựa xe Như Ý oai thần tiễn thăng.

(Kinh Tận Độ).

Lão Quân ứng hoá Tam thanh,

Khuyến răn nhơn vật lòng lành chớ xao.

(Xưng Tụng Công Đức).

 

 

LÃO TÔ

老 蘇

Lão: Ông già. Tô: Họ Tô, chỉ Tô Đông Pha.

Lão Tô tức là ông già họ Tô.

Ở đây muốn nói đến Tô Thức, tự là Tử Chiêm, biệt hiệu là Đông Pha, quán Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, người đời Tống. Thân phụ ông là Tô Tuân, em là Tô Triệt, tất cả đều nổi tiếng hay chữ, người đương thời gọi ba người là “Tô gia tam kiệt 蘇 家 三 傑” hay Tam Tô.

Năm 20 tuổi, Tô Thức đậu Tiến sĩ. Lúc Vương An Thạch lên cầm quyền, thi hành cải cách chính trị, Tô Thức công kích biến pháp, nên bị đổi ra đất Hàng Châu, tỉnh Hồ Bắc. Ông làm một cái nhà ở bãi phía đông và lấy biệt hiệu là Đông Pha cư sĩ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lão Tô là Tô Ðông Pha, ông Tổ của nòi giống Phù Tang, ai dè ngoài biển có Tô Ðông Pha nghĩa là có sắc dân bên Phù Tang. Ai từng gặp mà gặp là có đa.

Xem: Đông Pha.

Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,

Giữa biển ai từng gặp Lão Tô?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÃO TỬ

老 子

Theo sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử là người nước Sở, huyện khổ, làng Lệ, xóm Khúc nhân, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ.

Ông họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam, làm quan giữ Tàng thất (Kho sách) ở Kinh đô Lạc Dương của nhà Châu.

Về gia thế thì sử sách không có nói đến, nhưng theo truyền thuyết thì nói rằng mẹ của Lão Tử mang thai có đến 80 năm mới sinh ông do hông bên trái dưới cội cây lý. khi ông được sinh ra thì râu tóc dài và bạc trắng, mới gọi ông là Lão Tử. Lão Tử chỉ cây lý mà bảo rằng đó là họ của ông.

Ở tại Lạc Dương phía đông nhà Châu một thời gian lâu, sau thấy nhà Châu suy, nên Lão Tử cỡi trâu đi về hướng tây, khi đi đến cửa ải Hàm Cốc, quan lệnh là Doãn Hỷ. Biết Lão Tử là một Thánh nhân nên quan Doãn tôn ông là Thầy để xin theo học Đạo.

Lão Tử ở lại Hàm Cốc dạy Đạo cho Doãn Hỷ và soạn ra bộ sách nói về Đạo Đức, sách phân làm hai thiên, gồm có trên 5000 chữ. Sau này được gọi là “Đạo Đức Kinh”. Rồi từ đó, Lão Tử cỡi trâu đi về hướng tây mất dạng, người ta không biết ông đi về đâu.

Nơi hành lang Báo Ân Từ có vẽ khuôn hình lấy tích “Lão Tử giáng sinh 老 子 降 生”.

Xưa lập Tiên gia xưng Lão Tử,

Buổi truyền Thích Giáo tá Như Lai.

(Thơ Cao Liên Tử).

Lọt lòng mẹ khuya rằm nhị ngoạt,

Dưới cội lý tóc bạc tai dài.

Lão Tử Lý Nhĩ danh Ngài,

Hoá độ Doãn Hỷ đông lai còn truyền.

(Báo Ân Từ).

 

 

LÃO THÀNH

老 成

Lão: Người già. Thành: Nên, nên người.

Lão thành là người tuổi cao, già cả nhưng có nhiều kinh nghiệm và từng trải trong đường đời.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Lê Văn Trung có câu: Con phải cậy hai vị lão thành Minh Ðường hầu trong đặng tiếp lễ Thượng Ðàn, Ngọc Ðàn thì Kinh và Chương, còn Thái Ðàn ngày ấy Thầy lựa.

Tuổi xanh con đặng trí già,

Còn thơ con học hoá ra lão thành.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LÃO TRANG

老 莊

Lão Trang là Lão Tử và Trang Tử.

Lão Tử, người nước Sở, tỉnh Hồ Bắc, họ Lý tên Nhĩ, tự Bá Dương, còn gọi là Lý Đam. Lão Tử làm quan tới chức Trụ hạ sử,, khi nhà Châu suy, Ngài bỏ chức về soạn bộ Đạo Đức Kinh, cả thảy hơn năm nghìn chữ. Lão Tử là người truyền ba ra Đạo giáo.

Trang Tử tự là Tử Hưu, biệt hiệu là Tất Viên, cũng gọi là Trang Châu, người đời Chiến Quốc, thường giao du với Huệ Tử. Ông là người chịu ảnh hưởng tư tưởng của Lão Tử và Dương Tử, nên có đời sống thanh bạch, ghét danh lợi, chủ trương trở về với tự nhiên.

Trang Tử có một tư tưởng rất lãng mạn, lại là người không màng thế tục, không ham sống cũng chẳng sợ chết, coi cuộc đời như một giấc mộng lớn, chết đi là tỉnh giấc mộng. Ông có soạn ra bộ Nam Hoa Kinh.

Triết lý của Lão và Trang có ảnh hưởng rất lớn đối với văn gia, tư tưởng gia sau nầy. Có thể nói các nhà Nho lỗi lạc như Đào Uyên Minh, Lý Bạch ở Trung Hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến ở Việt Nam là những người tiêm nhiễm vào tâm hồn về thú say sưa bên chén ruợu cuộc cờ, hay cảnh hưởng nhàn của phong, hoa, tuyết, nguyệt.

Mầm nhân, giống nghĩa gieo rồi gặt,

Co duỗi bốn mùa thú Lão Trang.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

LÁT

Lát chỉ một khoảng thời gian rất ngắn. Như: Lát nữa sẽ đi, làm lát nữa sẽ rồi, đi không mấy lát là trở về.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Chung đỉnh mảng tranh giành, lợi danh thường chác buộc, kiếp phù sanh không mấy lát, đời giả dối chẳng là bao.

Bể hoạn đã từng vinh mấy lát,

Cõi trần chi dễ sống trăm năm.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Một kiếp phù sinh không mấy lát,

Thật hành cho vẹn Thích Tiên Nho.

(Thơ Đỗ Quang Hiển).

 

 

LẠT

1.- Lạt, như chữ “Nhạt”, là có hàm lượng đường, muối ít, có độ ngọt, mặn thấp, so với khẩu vị bình thường. Như: Canh nấu lạt, cam lạt, mắm lạt, chén rượu lạt.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Ôi! Hai chữ Quốc Ðạo là một vật mà Bần Ðạo tiềm tàng rồi mới hiểu, khởi điểm biết thương nòi giống, biết thương tổ quốc, đeo đuổi mất còn với cái điều khát khao từ buổi thanh xuân đó vậy. Tự biết khôn dĩ chí gặp Ðạo, năm 35 tuổi, Bần Ðạo thấy sao mà phải khao khát thèm lạt, tại làm sao Chí Tôn biết thiếu thốn nơi tinh thần điều ấy mà cho Bần Ðạo.

Dầu gặp cơn lạt mắm tèm hem,

Phải biết chước biến quyền khi túng tíu.

(Phương Tu Đại Đạo).

Nghèo dầu lễ cưới nhau sơ sịa,

Miếng trầu thô chung rượu lạt cũng nên tình.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lạt, còn đọc là “Lợt”, là nói cái độ đậm của màu sắc không như màu bình thường mà bị phai dần đi.

Như: Lạt (lợt) phấn phai hương, màu sắc lạt (lợt) bớt.

Chừng cơn phấn lạt hương tàn,

Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Lạt còn dùng để chỉ những thực phẩm chế biến bằng rau đậu, không dùng thịt, trứng động vật, dành cho người tu hành.

Như: Ngày rằm ăn lạt, tu hành phải chay lạt.

Nhơn đạo rày đã suy vi,

Chay lạt dời đổi còn chi tu hành.

(Thất Nương Giáng Bút).

Chay lạt đặng ngừa lằn khí độc,

Mê man bất tỉnh trận kỳ ba.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LẠT LẼO

Lạt: Có độ mặn, hoặc ngọt thấp so với khẩu vị, không còn nồng ấm mặn mà.

Lạt lẽo, như chữ “Nhạt nhẽo”, có cảm giác vô vị, buồn chán.

Lạt lẽo còn có nghĩa là không có chút biểu hiện nào của tình cảm.

Đủ hiểu tâm phàm lòng lạt lẽo,

Dư xem bước tục chí cao sâu.

(Quyền Giáo Tông).

 

 

LAU

Lau là dùng khăn chùi cho ráo, cho sạch.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy lau giọt nước mắt mừng lòng tâm Ðạo của các con, vậy các con ôi! Ðạo Thánh ba lượt khai, quỷ mị muôn lần phá, Thầy đau lòng biết mấy!

Nước mắt chưa lau cơn kiếp trái,

Có công phổ độ giải tiền khiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lau giọt lệ, giải tai ương,

Chia cơm nhịn muối đỡ đường khó khăn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LAU THANH TRÁI CHỦ

Lau thanh: Lau sạch. Trái chủ 債 主: Chủ nợ.

Lau thanh trái chủ là rửa sạch những nợ nần oan gia nghiệp báo từ một hay nhiều kiếp trước.

Từ bi hứng giọt nhành dương,

Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LÀU

1.- Làu, hay “Lảu” có nghĩa là đọc thuộc lòng một cách trơn tru, không chút vấp váp.

Như: Tôi thuộc làu Nữ Trung Tùng Phận từ đầu đến cuối, Nó làu thông kinh sử.

Viết thuộc làu với tấm bảng sân,

Mình mới dạy viết lần vô giấy.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Làu ở tình trạng sáng trong, không gợn một vết nhơ hay một chút bẩn nào.

Như: Nước sông sạch làu, hình ảnh làu trong gương, vẻ trinh bạch làu làu một áng.

Làu soi gương hạnh rạng Nam hoa,

Sau trước rồi đây cũng một nhà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tranh khoe nguyệt rọi làu sông Vị,

Mây toả sương phơi bạc đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÀU LÀU

Làu làu là có thể thuộc lòng thật trơn tru, không chút ngập ngừng, vấp váp.

Làu làu còn có nghĩa là sáng rỡ, không chút mây đen, hoặc sạch trơn, không gợn chút bẩn.

Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,

Gió lay đèn tắt, nguyệt làu làu.

(Giới Tâm Kinh).

Làu làu một tấm tợ đài gương,

Trung, hiếu, tiết, trinh vẹn mọi đường.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

LẢU

Lảu. như chữ “Làu”, là thuộc lòng một cách trơn tru, không ngập ngừng, vấp váp.

Như: Lảu thuộc tất cả thi thơ, đọc sách nhiều nên lảu thông kinh sử.

Xem: Làu.

Hễ A, B thuộc lảu tới nơi,

Làm vần ngược vần xuôi ráp lại.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẢU THUỘC

Lảu (làu): Có thể đọc lại một cách trơn tru, không bị vấp. Thuộc: Ghi nhớ trong trí có thể nhắc lại hay nhận ra dễ dàng và đầy đủ.

Lảu thuộc, như chữ “Thuộc làu”, là thuộc, không vấp không quên từ đầu chí cuối, chỉ sự học hiểu thông suốt.

Nguyện các Đấng đương chầu Bạch Ngọc,

Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.

(Kinh Thế Đạo).

Dạy gắng học sử kinh lảu thuộc,

Thấy gương hay trau chuốt lấy thân mình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẢU THÔNG

Lảu (làu): Có thể đọc lại một cách trơn tru, không bị vấp. Thông: Hiểu biết thông suốt.

Lảu thông, như chữ “Làu thông”, là hiểu biết một cách thông suốt, không bao giờ quên.

Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Con đường “Công quả” là dễ đi hơn hết. Người hành đạo không buộc phải thông minh trí thức, không buộc lảu thông kinh điển, miển là chí thành với đạo sẵn lòng phụng sự chúng sanh mà không cầu danh cầu lợi. Chỉ cần có đức tin và kiên tâm trì chí là chắc được đến nơi cứu cánh, khỏi sợ lầm đường lạc nẻo.

Muốn phổ thông chơn Đạo của Thầy, buộc Giáo Hữu phải học cho lảu thông chơn Đạo của Thầy.

(Pháp Chánh Truyền CG).

Ai là bực anh hào quân tử?

Ai lảu thông kinh sử Thánh-Hiền?

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LẮC LẺO

Lắc: Làm chuyển động qua lại nhiều lần trong khoảng cách ngắn.

Lắc lẻo là chao đảo, nghiêng qua nghiêng lại đều đều và liên tục. Như: Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi.

Điếu văn của Bà Nữ Đầu Sư đọc trước Liên đài Đức Thượng Sanh có câu: Ðến lúc sau nầy, khi thuyền Ðạo gặp buổi chinh nghiêng, Ðức Hộ Pháp quy Thiên nơi Miên Quốc, nền Ðạo thiếu người lèo lái con thuyền Bát Nhã lắm chịu sóng dập gió dồi bao phen lắc lẻo, nhơn sanh không biết nương nơi đâu tìm cơ giải khổ, thì Ðức Ngài chẳng nệ khổ nhọc nguy nan, tái thủ Ðạo quyền, đưa tay giữ lái con thuyền Ðại Ðạo, lướt qua bao sóng to gió lớn, lần lần đem vào bến vinh quang, dẫn dắt chúng sanh an vui trên nẻo Ðạo cho đến ngày hôm nay đã trót 45 năm dư.

Biển mê lắc lẻo con thuyền,

Chở che khách tục cửu tuyền ngăn sông.

(Tam Nương Giáng Bút).

Đường thế gập ghềnh chí cả,

Thuyền từ lắc lẻo vững tay chèo.

(Văn Tế Quyền Giáo Tông).

 

 

LẮC LỞ

Lắc: Làm chuyển động qua lại nhiều lần trong khoảng cách ngắn.

Lắc lở, như chữ “Lắc lư”, là nghiêng qua nghiêng lại đều đều và liên tục.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Gương sáng đã dồi nên, mà con thuyền Bát Nhã phải tuỳ máy Thiên cơ lắm phen lắc lở, đắm chìm biết bao khách. Ấy là những môn đệ vô phần, đã chẳng giữ nét thanh cao lại mượn thói vạy tà để làm cho bợn nhơ mối Ðạo quý báu của Thầy đã lấy đức háo sanh mà khai hoá.

Dập dồi bể hoạn thương bầy trẻ,

Lắc lở thuyền du hổ phận già.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LĂM

Lăm là rắp, toan, tức có ý định và sẵn sàng, có dịp là làm ngay.

Nguyễn Đình Chiểu trong Lục Vân Tiên có câu: Chí lăm bắn nhạn vén mây.

Lăm còn có nghĩa là năm, từ dùng để đếm, sau số hàng chục. Như: Mười lăm, hai mươi lăm.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo chỉ sợ có một điều là ách nô lệ 80 năm, với một quốc dân hai mươi lăm triệu này chưa có thể chiến thắng đặng, sợ e cho những kẻ quả quyết dùng thuyết duy vật ngoại bang đem vào đây cho nòi giống Việt Nam phải điêu tàn, sẽ trở nên người Mườn, Mán, Mọi hay là Lô Lô chẳng hạn.

Hễ thuộc đặng hăm lăm chữ cái,

Muôn điều chi cũng phải vào vòng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẮM

Lắm là nhiều, rất, tức có số lượng lớn, nhiều. Như: Lắm của nhiều tiền, lắm lời, lắm con.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ, vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước.

Chưa rồi nửa kiếp lắm lo lường,

Thấy kẻ lòng thành Lão cũng thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phàm thân thương kẻ lắm lao đao,

Bởi kiếp tiền khiên trả chớ sao.

(Đạo Sử).

 

 

LẮM LÚC

Lắm: Có số lượng được đánh giá là lớn, nhiều. Lúc: Thời, buổi.

Lắm lúc, đồng nghĩa với “Lắm phen”, là nhiều lần, nhiều lúc, nhiều phen.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy đã lắm lúc nhọc nhằn chiều theo thế mà dẫn bước đường, nhưng nhiều đứa dụng thời thế ở trần mà phạm thượng đến Thầy, và dằn thúc chư môn đệ và chư chúng sanh.

Tìm hiền lắm lúc gieo nguồn đạo,

Cải dữ đòi phen cổi mạch sầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lắm lúc ngậm ngùi bầy trẻ dại,

Đòi phen nhắc nhở đám con Rồng.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Phép nước đòi cơn mây gió thảm,

Nghiệp nhà lắm lúc nước non sầu.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LẮM PHEN

Lắm: Có số lượng được đánh giá là lớn, nhiều. Phen: Lần, lượt.

Lắm phen là nhiều phen, nhiều lần, nhiều lượt.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Thầy đã thường nói: Hai đầu cân không song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý. Luật công bình thiêng liêng buộc phải vậy. Thầy lắm phen bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.

Biết bao Thánh đức tâm hèn,

Trời đã buộc lắm phen cứu độ.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Lừa lọc lắm phen tìm cảnh quý,

Rộn ràng nhiều buổi kiếm đường mây.

(Đạo Sử).

 

 

LĂN LÍU

Lăn líu có nghĩa là dan díu, có quan hệ yêu đương với nhau thường là không chính thức.

Trong Ca dao Việt nam có câu: Chẳng ưng thì nói buổi đầu, Để chi lăn líu nửa chầu lại thôi.

Lăn líu còn là từ chỉ chim hót, hoặc chỉ sự nói năng huyên thuyên, tỏ vẻ thích, mến nhau.

Ca dao cũng có câu: Chim quyên lăn líu nhành dâu, Đêm nằm thăm thẳm canh thâu nhớ chàng.

Tích phước cho con, Tích hởi con,

Con còn lăn líu lắm nghe con!

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đầu gành lăn líu chim ca hát,

Kẹt đá ro re suối khảy đờn.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LĂN LÓC

Lăn: Xông vào, như lăn vào cuộc đời. Lóc: Nhảy.

Lăn lóc là dấn mình vào, lăn lộn khắp mọi nơi.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Có nhiễm trần, có lăn lóc mơi sương chiều gió, có kim mã ngọc đàng, có đai cân rực rỡ, có lấn lướt tranh đua, có ích kỷ hại nhân, có vui vẻ với mùi đỉnh chung lao lực, mới thấy đặng tỏ rõ bước đời gai chông khốn đốn, mới thấy cuộc nhục vinh, buồn vui không mấy chốc, chẳng qua là trả vay vay trả đồng cân, chung cuộc lại thì mối trái oan còn nắm, mà cũng vì đó mới thấy đặng đường hạnh đức trau mình, trò đời chẳng qua một giấc huỳnh lương.

Mới lạ bước trẻ thường sợ khóc,

Nhờ mẹ thương lăn lóc đi theo.

(Phương Tu Đại Đạo).

Đã từng lăn lóc khắp Đông Dương,

Gác tía lầu son bước tới thường.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LĂN LỘN

Lăn: Di chuyển bằng cách quay vòng toàn khối trên bề mặt, nghĩa bóng: Xông vào. Lộn: Đảo ngược.

Lăn lộn là lăn qua lật lại nhiều lần.

Lăn lộn còn dùng để chỉ lao vào để làm, vật lộn với khó khăn vất vả.

Như: Nằm lăn lộn trên giường, lăn lộn nhiều năm trong nghiệp.

Càn Khôn đặng rạng danh khắp chốn,

Chẳng uổng công lăn lộn cơ đời.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Vận hành mãi trở day lăn lộn,

Soi sáng cùng chốn chốn nơi nơi.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LẰN

Lằn là vệt dài in hoặc nổi trên bề mặt một vật do tác động nào đó.

Như: Lằm roi, những lằn chớp nháng trên bầu trời, lằn bụi trên tủ kiếng.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Lằn Âm khí ấy là Diêu Trì Cung chứa để tinh vi vạn vật, tỷ như cái Âm quang của phụ nữ có trứng cho loài người.

Kinh Bạch Ngọc muôn lằn điển chiếu,

Kêu Chơn hồn vịn níu Chơn linh.

(Kinh Tận Độ).

Vẹt ngút mây xanh Trời tỏ rõ,

Quét lằn bụi đỏ thế phui pha.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ác lố rọi tan lằn gió bụi,

Nguyệt lờ soi gượng bước công khanh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LẰN MƯA ĐẠN

Lằn: Vệt dài in hoặc nổi trên bề mặt một vật do tác động nào đó. Mưa đạn: Đạn bắn ra như mưa.

Lằn mưa đạn là những đường đạn bay ra như mưa, ý nói đạn bay khắp nơi khó mà tránh khỏi.

Như: Nơi chiến trường ai có phước đức mới tránh khỏi lằn mưa đạn.

Mua danh cột buộc lằn mưa đạn,

Chác lợi là phăng mối chỉ sầu.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

 

 

LẶN

1.- Lặn là hụp sâu và di chuyển dưới mặt nước.

Như: Lặn một hơi dài là tới bờ, thợ lặn tìm ngọc trai, chiếc tàu lặn.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Giá trị của nhơn loại thử trong cảnh khổ của họ tìm, Bần Đạo không chối là do sự cố gắng miệt mài của họ, đã đo được bước đường tấn hoá, họ đạt đến thời đại văn minh, thời kỳ nguyên tử lực, họ bay lên Trời được, lặn xuống nước được, họ có thể tiêu diệt trái địa cầu này được.

Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,

Xô người vào, lội lặn nhờm thay!

(Kinh Sám Hối).

2.- Lặn, nghĩa rộng là khuất đi, biến đi. Như: Trăng lặn, lặn mất tiêu, mặt trời lặn khuất núi, thỏ lặn ác tà.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Nỗi đau thương bề ấm lạnh, nào tiếng khóc đến câu cười, co duỗi duỗi co, dở bước đến cảnh sầu, thì thấy chẳng lạ chi hơn là mồ hoang cỏ loán, đồng trống sương gieo, thỏ lặn ác tà, khách trần nào ai lánh khỏi.

Rừng chiều ác lặn con trăng lố,

Chậm rãi đường về bước trở thu.

(Đạo Sử).

Nguyệt tà bóng lặn ngã Tây hiên,

Hỏi cớ gì đâu chịu nỗi phiền.

(Đạo Sử).

 

 

LẶN HỤP

Lặn: Lội xuống dưới mặt nước sâu. Hụp: Tự làm cho chìm hẳn đầu xuống dưới mặt nước.

Lặn hụp, như chữ “Lặn ngụp”, là ngoi lên hụp xuống dưới nước sâu để tắm sông, hoặc vì không biết lội.

Lặn hụp còn có nghĩa là làm ăn chật vật, lúc được lúc không, lúc lên lúc xuống.

Thánh giáo Nhàn Âm Đạo Trưởng có dạy: Cũng nơi Thiên tai, ách nước, nhưng rất đau lòng dòm thấy muôn ngàn nhơn loại lặn hụp chới với nơi vực thẳm hang sâu kia, mà con thuyền Bát Nhã cũng còn sóng dập gió dồi, linh đinh trên biển khổ sông mê, khó vớt người bị đắm.

Thầy cũng buồn lòng mà thấy bầy con lao nhao lố nhố lặn hụp chìm đắm giữa cõi hư sanh nầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LẶN LỘI

Lặn: Hụp xuống nước, nghĩa rộng khuất đi, biến đi. Lội: Đi dưới nước.

Lặn lội là làm việc vất vả nơi ruộng đồng sông nước.

Lặn lội còn dùng để chỉ vượt khoảng đường xa, khó khăn vất vả.

Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Sanh ra như cây bá cây tùng, những cây danh mộc, hoặc kỳ hoa dị thảo mới thật có ích trên thế gian, dù ở chốn non cao rừng thẳm cũng có kẻ lặn lội đi tìm, chớ giống cỏ chạ lan mọc bên đường, ví có bị bước tục vầy bừa cũng không ai màng ngó tới.

Cõi trần tục hỡi ai còn lặn lội,

Kíp quày đầu trở lại bến xưa.

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

LẶN SUỐI TRÈO NON

Lặn suối: Lặn lội qua dòng suối, ý chỉ đi xa xôi vất vả. Trèo non: leo trèo qua non, ý chỉ đường đi thăm thẳm, gian nan.

Lặn suối trèo non là lặn lội qua suối, leo trèo lên non, một thành ngữ dùng để diễn tả đường đi xa xôi, gặp cảnh gian nan vất vả.

Đâu màng lặn suối với trèo non,

Nguyệt rạng trời thu nửa phiến tròn.

(Thơ Cao Liên Tử).

 

 

LĂNG ĐIỆN

陵 殿

Lăng: Mồ mả người quyền quý chết, chỉ mồ mả vua, hay các quan đại thần. Điện: Cung điện.

Lăng điện là nơi điện thờ vua đã mất và nơi chôn cất nhà vua.

Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,

Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn.

(Ngụ Đời).

 

 

LĂNG LÍU

Lăng líu dùng để chỉ tiếng nói hay giọng hót có nhiều âm thanh cao và trong lẫn vào nhau nghe vui tai.

Lăng líu đồng nghĩa với “Líu lo”.

Như: Chim trên cành lăng líu hót vang, giọng em bé lăng líu suốt ngày.

Đầu gành lăng líu chim ca hát,

Kẹt núi ro re suối học đờn.

(Thơ Hộ Pháp).

Ác lố vầng đông ánh rọi làu,

Chim cành lăng líu giọng thanh tao.

(Thơ Cao Liên Tử).

 

 

LĂNG LOÀN

Lăng: Xúc phạm đến. Loàn: Chống cự lại, làm loạn, làm rối trật tự.

Lăng loàn, do chữ “Lăng loạn 凌 亂”, là không chịu phục tùng ai, chống cự lại một cách hỗn xược.

Như: Dâu lăng loàn với mẹ chồng, thói lăng loàn.

Dầu chồng sanh thói lăng loàn,

Thay đen đổi trắng làm đàng mây mưa.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Người làm phước có khi mắc nạn,

Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LĂNG MIẾU

陵 廟

Lăng: Mồ mả của vua chúa. Miếu: Nơi thờ Thần, hoặc chỉ Tông miếu là nơi thờ các đấng tiền nhân của vua.

Lăng miếu nơi chôn vua, hoặc chỉ nơi chôn và thờ người chết.

Như: Lăng miếu các vịn vua nhà Nguyễn.

Rước voi phá mả đào lăng miếu,

Thả rắn xua ong nhiễu điện tà.

(Đạo Sử).

 

 

LĂNG XĂNG

Lăng xăng là quấn quít, chộn rộn. Lăng xăng còn có nghĩa làm ra vẻ bận rộn, vội vã.

Như: Làm điệu bộ lăng xăng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Trò đời lăng xăng, cõi thế biết bao người chìm đắm vào biển khổ, mang nặng xác phàm, miếng đỉnh chung, mồi danh lợi, giành giựt phân chia, mà chẳng kể đạo lý, luân thường, khiến cho mối Ðạo quý báu ngàn năm, đã thành nấc thang để dắt người xuống hang sâu vực thẳm.

Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,

Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.

(Kinh Sám Hối).

Nực cười kẻ dại lăng xăng múa,

Thánh đức đành đem đổi hận sầu.

(Lý Giáo Tông).

Vòng cương toả buộc ràng danh lợi,

Chốn hý trường lui tới lăng xăng.

(Đại Đạo Truy Nguyên).

 

 

LẮNG

Lắng là để yên cho cặn, bã chìm xuống đáy.

Như: Đánh phèn để lắng nước, để cho bột lắng rồi hãy chắt bỏ nước.

Bổn tâm Thầy ngự người trau hạnh,

Nguyên lý đạo khai nước lắng phèn.

(Thơ Huệ Phong).

2.- Lắng, nghĩa bóng là để tai mà nghe.

Như: Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha, lắng nghe tiếng gào thét của sóng biển.

Rừng tòng tìm đến lánh cay chua,

Đêm lặng lắng nghe tiếng khánh chùa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LẰNG XANH

Lằng: Ruồi, vật nhỏ bay đậu thức ăn, hay chỗ dơ bẩn. Xanh: Màu xanh.

Lằng xanh, như chữ “Thương nhặng 蒼 蠅”, là ruồi xanh, một loại côn trùng bay nhanh, thường có tiếng vang dậy nơi chúng bu đậu, nơi chỗ sình lầy hôi thúi.

Trong Kinh Thi có câu: Thương nhặng chi thanh 蒼 蠅 之 聲, nghĩa là tiếng con ruồi xanh, dùng để ví với kẻ tiểu nhân, ty tiện, có tánh tham lam, nhỏ mọn.

Lằng xanh ưa hửi mùi đồng,

Ham thân nô lệ mến vòng tôi con.

(Ngụ Đời).

 

 

LẲNG LẶNG

Lặng: Ở trạng thái yên tĩnh, không động.

Lẳng lặng là một cách lặng lẽ, không nói một tiếng, không một tiếng động.

Như: Thằng bé lẳng lặng mà bước ra khỏi phòng, vợ tôi cứ ngồi lẳng lặng suy nghĩ.

Dâu ngọc nát châu chìm cũng gắng,

Tổ Đình đang lẳng lặng chờ mong.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LẶNG

Lặng là ở trạng thái yên, tĩnh, không động, như biển lặng, gió lặng, đêm lặng, nín lặng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Có vì chúng sanh mà khổ tâm hành đạo, có khó nhọc, có dãi dầu sương mơi nắng xế, mà quên bậc phẩm vô vị ở cõi trần nầy, có vày vã nẻo gai chông lần theo bước đường hạnh đức, mới có ngày vui vẻ bất tận, mới có buổi an hưởng địa vị thiêng liêng, tránh điều phiền não, thoát đoạ luân hồi, mới có lúc rảnh nợ phong trần, nhàn xem sự thế, non cao suối lặng, động mát rừng thanh, là chỗ con lấy đạo đức làm thang để bước lên cho cùng tột.

Công khanh xạo xự cũng vai tuồng,

Ðêm lặng rừng thiền lóng tiếng chuông.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Còn am tự, còn chùa mây,

Mà chàng đâu vắng, chốn nầy lặng trang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẶNG LẼ

Lặng: Ở trạng thái yên tĩnh, không động.

Lặng lẽ là không có tiếng động, hoặc còn dùng để chỉ không lên tiếng.

Trong Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Bổn tánh của Đạo là hư không lặng lẽ, xem chẳng thấy, lóng chẳng nghe, rờ chẳng đụng, không thể dùng lời nói mà diễn được, hoặc đem sự vật mà so sánh. Đạo hoá sanh trời đất, lưu hành trong võ trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào cũng có phần linh diệu bên trong để điều hoà trưởng dưỡng cho nó.

Dòng là ánh nguyệt chiếu trong veo,

Lặng lẽ thuyền côi lỡ nhịp chèo.

(Bát Nương Giáng Bút).

Mảng vui say khách thảy về nhà,

Riêng lặng lẽ mình ta ngồi đấy.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

LẶNG NƯỚC ÊM THUYỀN

Lặng nước: Nước chảy êm, không xao động. Êm thuyền: Thuyền đi êm ả.

Lặng nước êm thuyền là nước sông chảy một cách yên lặng, thuyền lướt đi êm ả, ý muốn ví với công việc được êm xuôi, trôi chảy.

May gặp cơn lặng nước êm thuyền,

Mình dễ thế giao nguyền cùng thục nữ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẶNG TRANG

Lặng: Ở vào tình trạng yên tĩnh, không nói năng, cử động gì. Trang: Nghiêm trang.

Lặng trang là im lặng và trang nghiêm.

Lặng trang còn có nghĩa là im phăng phắc, không có một tiếng động nhỏ, tức im lặng hoàn toàn.

Còn am tự, còn chùa mây,

Mà chàng đâu vắng, chốn nầy lặng trang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẮT LẺO

Lắt lẻo là ở trạng thái đung đưa trên cao hoặc dưới nước, do không được cố định chắc vào điểm tựa.

Thí dụ: Con thuyền lắt lẻo, cầu tre lắt lẻo, ngồi lắt lẻo ở trên ngọn cây.

Biển mê lắt lẻo con thuyền,

Chở che khách tục, cửu tuyền ngăn sông.

(Tam Nương Giáng Bút).

Giữa biển khơi lắt lẻo chiếc thuyền con,

Cơn sóng gió liệu cho còn hay để mất.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LẤC KHẤC

Lấc khấc, như chữ “Lấc cấc”, tỏ ra thiếu lễ độ, vô lễ, hoặc chỉ người có tính tình không bình thường, có dấu hiệu khật khùng.

Như: Anh ấy có tính lấc khấc, gặp thằng lấc khấc đó hơi sức đâu chấp nhứt.

Bần Đạo cũng là còn giữ tật,

Quen ba lơn lấc khấc ghẹo đời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẤY

1.- Lấy là cầm, nắm trong tay cái đã sẵn có và đem để ở đâu đó. Như: Lấy tiền trong ví, lấy bút viết thư.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy hai Ngài Hộ Pháp và Thượng Phẩm có câu: Nội trưa nầy phải cắm một cây viết vào đầu cơ, lấy một miếng giấy lớn vào Ðiện phò loan cho Lão vẽ.

Hòn ngọc khó đem trau Thánh chất,

Cân vàng khôn lấy nện chày kình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trần tục là nơi lo lấy của,

Cảnh Tiên là chốn hưởng vinh sang.

(Đạo Sử).

2.- Lấy là dùng cái vốn có hoặc có thể có ở đâu đó để xử dụng. Như: Lấy tài liệu để viết bài, lấy ý kiến, lấy ý riêng phán đoán, lấy chữ ký.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy dặn các con một điều, nhứt nhứt đều đợi lịnh Thầy, chẳng nên lấy tứ riêng mà phán đoán chi hết.

Lánh đường trần tục đến non Tiên,

Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Lấy là tự mình, chính mình hành động do chủ thể tự làm bằng sức lực khả năng của riêng mình. Như: Tôi làm lấy, giữ gìn lấy mình, tự lo lấy, dặn lấy mình.

Thánh giáo Thầy có câu: Vậy thì các con phải hết lòng hết sức mà gìn giữ lấy mình, đã chẳng phải giữ mình các con mà thôi, lại còn gìn giữ cả môn đệ Thầy nữa.

Mình dặn lấy mình, mình lại biết,

Mặc ai chung hưởng phận cao sang.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thường kỉnh lấy thân thì kỉnh kẻ,

Chẳng ưa nhiều khóc với nhiều cười.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LẤY KHẢO TRỪ CÔNG

Lấy khảo: Lấy sự khảo đảo. Trừ công: Trừ bớt đi công quả.

Lấy khảo trừ công có nghĩa là thay vì có tội trong kiếp sống trước mà bị khảo đảo cho đau đớn khổ sở ở kiếp sống nầy, nhưng vì lòng thương, Ðức Chí Tôn hay các Đấng thiêng liêng chỉ lấy bớt công quả để trừ tội mà thôi.

Trong trường hợp nầy “Lấy khảo trừ công” đồng nghĩa: “Lấy công chuộc tội”, hay “Tương công chiết tội”.

Thầy lại thương con nên đã lắm phen lấy khảo trừ công cho con trở lại phẩm cũ...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LẤY NGAO LƯỜNG BIỂN

Lấy: Dùng. Ngao: Hến, loài sống ở bãi cát ven biển. Lường: Đong chẩt lỏng bằng vật đựng. Biển: Bể.

Lấy ngao lường biển là dùng vỏ con ngao để đo lường nước biển.

Như ta biết, vỏ ngao nhỏ, chứa rất ít nước mà nước biển thì mênh mông không bao giờ lường hết được.

Lấy ngao lường biển ý nói làm cái việc mất thời giờ, thất công vô ích.

Ðạo Trời khó dễ lường đo,

Lấy ngao lường biển để cho mãn ngày.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LẤY THÚNG ÚP VOI

Lấy thúng: Xử dụng cái thúng. Úp voi: Đậy hoặc che khuất con voi.

Lấy thúng úp voi là một câu tục ngữ ví như lấy vật nhỏ mà che đậy vật lớn thì không thể nào kín được, ý nói hành động cố che đậy, bưng bít một cách vô ích, vì việc đã quá lộ liễu.

Làm bên gái mẹ cha nghi bụng,

Sợ khó bề lấy thúng úp voi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẪY

Lẫy là dỗi, hờn dỗi. Như: Giận lẫy, nói lẫy.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Chí Tôn có lời dạy: Các con có trách nhậm thắp đuốc dẫn đường cho kẻ u ám, nếu lẫy mà tắt đuốc thì còn dẫn ai nữa. Các con hiểu chăng?

Cha chẳng phép để lòng hờn giận,

lẫy đương bỏ lẫn con hư.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẪY LỪNG

Lừng: Chỉ tiếng tăm vang xa, ai cũng biết đến.

1.- Lẫy lừng dùng để chỉ mùi thơm hoặc mùi hôi thúi xông lên nồng nặc.

Như: Trong phòng mùi nước hoa lẫy lừng, chiến trường lẫy lừng mùi thuốc súng.

Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,

Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.

(Kinh Sám hối).

2. Lẫy lừng, như chữ “Lừng lẫy”, là nói tiếng tăm (xấu hoặc tốt) vang lên khắp mọi nơi, ai nấy đều biết.

Như: Thi kỳ nầy cô ấy lẫy lừng tên tuổi, tiếng xấu xa lẫy lừng khắp thôn xóm.

Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,

Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.

(Kinh Sám Hối).

Chí nam nhi dầu đặng lẫy lừng,

Cũng nhờ cậy dưới chân nâng bởi vợ.

(Phương Tu Đại Đạo).

3. Lẫy lừng, còn có nghĩa như chữ “Dữ dội”, hết sức mạnh mẽ, có tác động đáng sợ.

Như: Chí khí anh hùng lẫy lừng trong trận chiến.

Đem chơn chánh phô bày trừ mị,

Nâng niu cho dân khí lẫy lừng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Hễ lẫy lừng làm dữ cho vừa,

Cha mẹ giận không ưa ra để bỏ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÂM BỊNH

Hay “Lâm bệnh”.

Lâm: Đang lúc, sắp sửa. Bịnh (bệnh): Trạng thái cơ thể hoạt động không bình thường.

Lâm bịnh, như chữ “Lâm bệnh 臨 病”, là mắc bệnh.

Như: Anh ấy mấy tháng nay không đi làm được vì lâm bịnh nặng.

Người người lâm bịnh ngây ngô,

Chúng ta hiệp lại lấp xô khó gì!

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LÂM CHUNG

臨 終

Lâm: Đang lúc, sắp sửa. Chung: Trọn, chết.

Lâm chung là sắp chết, gần chết.

Khi rước di hài cụ Cường Để, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thê thảm thay! Trước nửa giờ lâm chung, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cùng tất cả Thanh Niên Việt Nam hãy cương quyết phục cường cứu quốc, rồi Ngài nằm thiêm thiếp.

Hồi trống Lôi Âm vội điểm thùng,

Báo tin rằng chị sớm lâm chung.

(Thơ Hoàn Nguyên).

Hạc nội reo vang thấu chín trùng,

Mừng Ngài Bảo Pháp buổi lâm chung.

(Thơ Thiện Tâm).

 

 

LÂM DÂM

Lâm dâm, như chữ “Lâm râm”, là từ mô phỏng tiếng nói nhỏ, đều đều, nghe không rõ lời.

Lâm dâm (râm) là chỉ đau ầm ỉ và kéo dài thành cơn.

Lâm dâm (râm) còn dùng để chỉ mưa nhỏ hạt và kéo dài, không thành cơn.

Lòng sở vọng lâm dâm tụng niệm,

Xin giải nàn Nam Thiệm Bộ Châu.

(Xưng Tụng Công Đức).

 

 

LÂM HƯƠNG THANH

林 香 清

Lâm Hương Thanh tức Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh, tên là Lâm Ngọc Thanh, sinh năm Giáp Tuất (1874) tại làng Trung Tín, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

Bà Lâm Ngọc Thanh kết hôn với ông huyện Huỳnh Ngọc Xây, nên người đương thời gọi bà Huyên Xây. Bà là một nghiệp chủ giàu có, tiếng tăm tại Vũng Liêm.

Sau đó, ông huyện Xây chết, bà gá nghĩa với ông Nguyễn Ngọc Thơ là một vị huyện hàm, cũng là một nghiệp chủ lớn ở Sài Gòn. Hai ông bà đều quy y theo Phật, thọ giáo với Hoà Thượng Như Nhãn tại chùa Giác Hải, ở Phú Lâm Chợ Lớn.

Khi Đức Chí Tôn giáng cơ khai nền Đại Đạo, bà Lâm Ngọc Thanh được độ nhập môn vào đạo ngày 6 tháng 6 năm Bính Dần (Dl. 16-7-1926). Từ đó, bà thường xuất tiền bạc giúp đỡ cho Đạo trong buổi sơ khai để có điều kiện hoằng dương mối đạo Trời.

Nhờ hai ông bà Lâm Ngọc Thanh, nên Hoà Thượng Như Nhãn bằng lòng hiến ngôi chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén, Tây Ninh cho đạo Cao Đài để làm Thánh Thất tạm.

Bà Lâm Ngọc Thanh trong đàn cơ ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần (Dl. 19-11-1926) được Thiên phong Nữ Giáo Sư, Thánh danh là Hương Thanh. Sau đó trong đàn cơ phong Thánh nữ phái lần thứ I ngày 14 tháng 1 năm Đinh Mão (Dl. 15-2-1927), Đức Chí Tôn giáng cơ thăng lên phẩm Nữ Phối Sư, cầm đầu Nữ phái.

Sau khi Hoà Thượng Như Nhãn đòi chùa Từ Lâm lại, hai ông bà Lâm Hương Thanh cho Hội Thánh mượn số tiền 25.000 đồng để mua thủa đất rừng, rồi khai phá, cất Toà Thánh tạm bằng cây ván.

Ngày mùng 9 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (Dl. 16- 4-1929), bà được thăng lên Nữ Chánh Phối Sư, làm Chưởng Quản Nữ Phái.

Bà có công trong việc thay mặt Hội Thánh giao thiệp với chánh quyền Pháp. Những thánh thất nào trước đây bị chánh quyền áp chế đóng cửa, bà liên hệ với chánh quyền đều được mở cửa lại.

Bà quy vị tại quê nhà ở Vũng Liêm vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Sửu (Dl. 17-5-1937), hưởng thọ 64 tuổi. Sau đó trong đàn cơ ngày 25 tháng 4 năm Đinh Sửu (Dl. 3-6-1937) bà được Đức Chí Tôn ân tứ lên phẩm Nữ Đầu Sư.

Về sau Hội Thánh di hài cốt của bà từ Vũng Liêm về Tây Ninh, đặt vào bửu tháp Nữ Đầu Sư xây ở phía Tây Lang Toà Thánh, và tạc tượng của bà ở mặt tiền Đền Thánh, phía Lôi Âm Cổ Đài để nhơn sanh chiêm ngưỡng một bậc đại công với nền Đạo.

Phối Sư chánh vị, Lâm Hương Thanh,

Hộ Pháp truy phong phẩm trọn lành.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LÂM LY

淋 漓

Lâm: Rải nước lên trên. Ly: Nước Thấm vào đất.

Lâm ly là thấm dần, nước chảy có giọt xuống.

Như: Giọt nước mắt chảy lâm ly.

Lâm ly còn dùng để chỉ thấm thía, buồn thảm, gây thương cảm. Như: Tiếng khóc nghe lâm ly não nuột.

Thương đồng chủng lâm ly giọt ngọc,

Luống vì đời phải nhọc thân mai.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LÂM NÀN

Lâm: Đang lúc. Nàn (nạn): Tai nạn.

Lâm nàn, như chữ “Lâm nạn 臨 難”, là gặp tai nạn.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thầy có đoạn: Các con ôi! Các con sầu một, Thầy đây lại thương mười. Thương thương ghét ghét, các con đặng biết, trong khi các con lâm nàn tai ách, các con vì Đạo mà phải buộc ràng tay chân trong quan lại.

Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,

Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LÂM NGUY

臨 危

Lâm: Đang lúc. Nguy: Hiểm nguy.

Lâm nguy nghĩa là đang lúc nguy hiểm.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có dạy: Phải vui xuân với ý nghĩa thanh bai trong tinh thần đạo đức và trong mặc tưởng hướng về tổ quốc đang lâm nguy và nhơn sanh đang quằn quại khổ đau khắp trên đất nước.

Lâm nguy nguyện vái làm lành,

Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.

(Kinh Sám Hối).

Chẳng vì gót ngọc phân vân,

Mảng lo cho kẻ thế trần lâm nguy.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LÂM PHÀM

臨 凡

Lâm: Đang xuống. Phàm: Cõi phàm tục.

Lâm phàm là xuống phàm gian, ý nói việc các Đấng Thiêng liêng nơi thượng giới lãnh nhiệm vụ xuống cõi phàm (thế gian) để cứu giúp chúng sanh.

Như: Các Đấng lâm phàm để cứu dân độ thế.

Mấy kiếp lâm phàm mấy kiếp xong,

Vẹn lời nguyện ước đặng thành công.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Cơ Thánh lâm phàm từ giải thể,

Đức Ngài trị loạn chuyển Kim tiên.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LÂM TOÀN

Lâm: Rừng. Toàn (tuyền): Suối.

Lâm toàn, như chữ “lâm tuyền 林 泉”, là rừng cây và khe suối, là nơi tĩnh mịch, thanh cao, dành làm nơi ẩn dật.

Như: vui thú lâm toàn.

Xem: Lâm tuyền.

Lợi danh chung đỉnh nhộn nhàng,

Rốt cuộc tầm chốn lâm toàn lo tu.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

LÂM TUYỀN

林 泉

Lâm: Rừng. Tuyền: Còn đọc “Toàn”, là suối.

Lâm tuyền là rừng cây và khe suối, chỗ thanh nhàn của bậc trốn đời, nơi trú ngụ của những kẻ ẩn dật, lánh nơi phồn hoa, thành thị.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nếu không gặp thời thì chịu mai một, sống đời ẩn dật, vui thú lâm tuyền bạn với gió trăng, thi gan cùng tuế nguyệt, chớ không màng đến danh lợi đen tối.

Vun trồng cội Đạo, lấy chí trượng phu,

Trẩy sạch lâm tuyền, dựng toà Thánh Tổ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

LẤM

Lấm là bị dính dơ vì bùn, đất hay các loại vật gây nhơ bẩn như lọ nồi, dầu nhớt.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tỷ như hạng gái kia đi ra đường mà có một bệt lọ lấm trên mặt thì nó đã dị hợm khó coi rồi.

Ngôi Tiên đã lấm gót phàm,

Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.

(Ngụ Đời).

Đừng cho nhiễm lấm thân thục nữ,

Chốn phòng the cứ xủ rèm là.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẦM

Lầm là làm sai, sai lầm, nghĩ không đúng, lẫn lộn. Như: Hành động lầm, nghe lầm.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Sự chết, thường thế gian gọi chết là hết, là vì dốt không biết đạo nên tưởng lầm.

Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,

Lối mòn động Bích chớ lầm đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cao niên biết tuyển hiền đáng mặt,

Khỏi lầm mưu kẻ giặc phong tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẦM ĐÀNG

Lầm: Nhận thức không đúng, do sơ ý hay không biết. Đàng (đường): Nẻo, con lộ.

Lầm đàng, như chữ “Lầm đường”, là đi sai đường, hoặc vì lầm lạc mà đi vào con đường sai trái, tội lỗi. Như: Lầm đàng lạc nẻo.

Xem: Lầm đường.

Sĩ mê hoạn lộ sĩ lầm đàng,

Cái bóng dáng đời há phải quan.

(Đạo Sử).

 

 

LẦM ĐƯỜNG

Lầm: Nhận thức không đúng, do sơ ý hay không biết. Đường: Nẻo, con lộ.

Lầm đường là lạc đường, đi không dúng đường.

Lầm đường là vì lầm lạc mà đi vào con đường sai trái, tội lỗi.

Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,

Lối mòn động Bích chớ lầm đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thảm cho con dại lầm đường,

Nay Thầy mở Đạo, buồm trương rước về.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

LẦM ĐƯỜNG LẠC NẺO

Lầm đường: Đi vào con đường sai lầm. Lạc nẻo: Lạc bước vào nẻo khác.

Lầm đường lạc nẻo là đi vào con đường lầm lạc, tức là đi vào nẻo đường đầy lỗi lầm do đã không nhận ra sự thật, lẽ phải.

Nói về đức chí thành, Đức Thượng Sanh có dạy: Người hành Ðạo mà thiếu chí thành cũng chẳng khác chi người băng rừng lúc ban đêm mà trong tay không có ngọn đuốc để chỉ đường dẫn hướng, vì chí thành là căn bản của con người thuần tuý. Có cái căn bản đó, người ta mới mong trau dồi hạnh đức chí quyết tự giác nhi giác tha, không thể lầm đường lạc nẻo.

Lầm đường lạc nẻo, bởi vô minh,

Gây tạo oan gia, lắm tội tình.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LẦM LẠC

Lầm: Làm sai, nghĩ không đúng. Lạc: Lầm.

Lầm lạc là phạm lỗi lầm do không nhận ra lẽ phải. Lầm lạc cũng có nghĩa là lầm đường lạc nẻo.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy đã chỉ rõ hai nẻo Tà Chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi cho khỏi lầm lạc.

Xem: Lầm đường lạc nẻo.

Thiệt thiệt hư hư thế lộn hoài,

Từ xưa lầm lạc dễ ai hay.

(Đạo Sử).

 

 

LẦM LỖI

Lầm: Làm sai, nghĩ không đúng. Lỗi: Sai lầm, tội.

Lầm lỗi, như chữ “Lỗi lầm” là làm điều sai lầm.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Trần là cõi khổ để đoạ bậc Thánh Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả phải mất cả chơn linh là luân hồi.

Xem: Lỗi lầm.

Trai trung hiếu sửa trau ba mối,

Đừng buông lung lầm lỗi năm hằng.

(Kinh Sám Hối).

Từ bỏ lần hồi lầm lỗi trước,

Tự nhiên bể khổ lánh xa vời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LẦM LỠ

Lầm: Làm sai, nghĩ không đúng. Lỡ: Do sơ suất làm xảy ra điều không hay, phải lấy làm tiếc, làm ân hận.

Lầm lỡ là phạm điều sai lầm do thiếu thận trọng.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên có đoạn: Cây trường tráng mộc, tục gọi là cây trai dầu để trăm ngàn năm đem ra dùng thì nó vẫn còn tươi như khi mới đốn. Người Thổ nhơn gốc con cái nhà Tần, biết Ðạo Phật, chẳng biết Ðạo Nho, một phen lầm lỡ phải đoạ muôn đời.

Dầu lầm lỡ phận anh ở sái,

Cứ chơn thành đừng ngại thọ tội hình.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẦM LŨI

Lầm lũi là cúi đầu, hay cắm cúi trong im lặng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ðứa thì mê tài, đứa thì ham cận sắc, đứa bị biếm vào lối lợi quyền, đứa bị xô vào nơi thất đức. Mỗi đứa mỗi nẻo, đều quăng sạch chất thiêng liêng, lầm lũi đưa tay theo mấy mươi động.

Như: Nó lầm lũi đi, không thèm ngó lại.

Lầm lũi ai đi mình cũng bước,

Mau chơn tới trước chửa chi cao.

(Đạo Sử).

Hít vào thì ngây cuồng mê muội,

Mất trí khôn lầm lũi đường tà.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LẦM MÊ

Lầm: Nhận thức cái đó ra cái kia, do sơ ý hay không biết. Mê: Say sưa, mãi đắm theo việc gì.

Lầm mê, như chữ “Mê lầm”, là mê muội và lầm lạc. tức phạm lỗi lầm do sự mê muội, không nhận ra được lẽ phải, trái, chánh tà.

Tức thì bờ giác cận kề,

Tức nhiên nghiệp chướng lầm mê chẳng còn.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LẦM TƯỞNG

Lầm: Do sơ ý hay không biết mà nhận thức sai. Tưởng: Nghĩ và tin chắc.

Lầm tưởng là tưởng, nghĩ một cách sai lầm.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Trong các con có nhiều đứa lầm tưởng, hễ vào Ðạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện đạo.

Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,

Mà dể duôi sanh biến lăng loàn.

(Kinh Sám Hối).

Thấy đi ngang mắt chẳng dám nhìn,

Sợ lầm tưởng bù nhìn ghê gớm mắt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẦM THAN

Lầm: Bùn hay bụi cuộn lên làm đục, làm bẩn. Than: Than nóng.

Lầm than, như chữ “Đồ thán 塗 炭”, là bùn và than nóng, chỉ cảnh bùn lầy than lửa để nói lên nỗi cơ cực, vất vả của người dân trong nước.

Trong Kinh Thư có câu: Hữu hạ hôn đức, dân truỵ đồ thán 有 夏 昏 德, 民 墜 塗 炭, nghĩa là nhà Hữu Hạ đức tối tăm, khiến dân phải rơi vào cảnh bùn than.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Vì vậy mà người hành chánh dầu có tài mà thiếu phần đạo đức thì nước cũng loạn lạc, dân cũng lầm than.

Trị theo đời mà dân chúng vẫn lầm than,

Đó là dìu chúng đến con đàng tự diệt.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Đời còn lắm lúc lầm than,

Đạo thì lắm lúc hân hoan tinh thần.

(Thơ Hộ Pháp).

An vui sao đặng buổi lầm than,

Nhìn thấy nhơn sanh luỵ ứa tràn.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

LẪM ĐẪM

Lẫm đẫm, như chữ “Lẫm chẫm”, là đi chưa vững, đi bước ngắn và không đều.

Như: Thằng bé bắt đầu đi lẫm đẫm.

Lẫm đẫm còn cùng nghĩa với chữ “Lẩm rẩm”, là thấm thoát, chẳng mấy chốc. Như: Lẫm đẫm mà mình học đã được hai năm rồi.

Như mỏi gối chân đi lẫm đẫm,

Dâu chuyển gân chẩm hẩm dắt dìu.

(Phương Tu Đại Đạo).

Chừng đến lúc biết đi lẫm đẫm,

Có tập đi đừng nắm mạnh tay chơn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẪM LIỆT

凜 冽

Lẫm: Lạnh lẽo, run sợ. Liệt: Mạnh, hung dữ.

Lẫm liệt nghĩa đen là rất lạnh, nghĩa bóng chỉ người có dáng bộ oai nghiêm, khiến người khác phải sợ sệt mà kính trọng. Như: Oai phong lẫm liệt.

Xem: Oai phong lẫm liệt.

Khói toả chập chờn gương khí phách,

Tượng thờ lẫm liệt nét dung nhan.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

LẬM

Lậm là tích luỹ lâu ngày dần dần thành thói quen, hoặc nặng thêm.

Như: Bệnh lâu ngày đã lậm vào tạng phủ, uống hoài coi chừng lậm thuốc.

Huệ phong nguyệt nhập vào nhung thắm,

Điệu phong ba đã lậm màu trần.

(Lục Nương Giáng Bút).

Bịnh trầm kha lâu ngày đã lậm,

Thuốc tiên hoàn gội tẩm cũng trơ trơ.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LÂN

1.- Lân là láng giềng, gần.

Như: Nhất cận lân, nhị cận thân, lân cận, lân gia, kết chặt tình lân bang.

Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,

Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Nhà tranh xiêu sập cùng lân ấp,

Tường gạch vỡ tan khắp phố phường.

(Thơ Thái Đến Thanh).

2.- Lân cũng đọc là “Liên” có nghĩa là thương xót, thương tiếc.

Như: Lân ái, lân mẫn, lân tuất 憐 恤 (thương xót).

Em mới để dạ lo lường, cả lòng lân ái đến đó.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

3.- Lân còn dùng để chỉ giống thú thuộc về loại tứ linh, mình huơu chân ngựa, đầu có sừng. Tục truyền khi có lân xuất hiện thì có thánh chúa ra đời.

Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,

Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÂN ÁI

憐 愛

Hay “Liên ái”.

Lân (liên): Thương hại, thương tiếc. Ái: Yêu, thương.

Lân (liên) ái là thương xót, thương tiếc.

Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo dẫn lời Đức Chí Tôn có đoạn: Các con đừng thầm tính rằng nên cầu Thầy cùng chư Phật Thánh Tiên mà nghe Thánh giáo dạy bảo cho rõ Thiên Cơ, ấy là ở trong đó, có một cái lẽ Đại hại ẩn vi, nó dìu dắt các con đi sai đường, lạc ngõ. Có phải vậy không các con? Vì cơ bút là cơ quan rất tối cao, tối trọng. Vả lại cơ bút là cơ vận chuyển, theo thời thế mà tấn hoá, dìu dắt các con chung hoà như một sợi dây để buộc đàng liên ái, đúng với luật thiên nhiên đó thôi.

Em mới để dạ lo lường, cả lòng lân ái đến đó. Em đã chán thấy nhiều tội tình chẳng trọng hệ, song có hồn chịu sầu thảm lạ thường.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LÂN BANG

鄰 邦

Lân: Láng giềng, gần. Bang: Nước.

Lân bang là nước ở bên cạnh đất nước mình, tức là nước láng giềng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo xin nghiêng mình chào các nước lân bang đã có tình thân hữu cho các vị lãnh sự Sứ thần đến dự cuộc lễ này, Bần Đạo xin để lời cảm tạ thâm tình ấy.

Lân bang ghe thuở nhường oai võ,

Dị quốc từng phen xếp giáp mâu.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

LÂN CẬN

鄰 近

Lân: Ở gần, hàng xóm. Cận: Kề nhau, gần.

Lân cận là ở gần, ở bên cạnh.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Nam nữ bất thân. Hai bên không lân cận nhau. Nam theo Nam, Nữ theo Nữ. Cấm cười cợt trửng giỡn với nhau.

Khi giao hoan có độ có lường,

Vợ bịnh yếu chớ thường lân cận.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÂN LA

Lân la là dần dần làm thân, tức tìm cách quan hệ, tiếp xúc, gần gũi để nhằm mục đích của mình.

Như: Lân la đến làm quen.

Trong Truyện Kiều Nguyễn Du có câu: Sớm đào tối mận lân la, Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.

Tu thì việc thế bỏ qua,

Tu thì mựa chớ lân la kẻ tà.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

LÂN LÝ

鄰 里

Lân: Láng giềng, lối xóm. Lý: Làng, thôn.

Lân lý là người hàng xóm, láng giềng.

Thánh giáo Đức Quan Âm Bồ Tát có câu: Còn gia đình chẳng hoà thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong lân lý chẳng hoà thì dân cư bất mục. Nước chẳng hoà thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất hoà thì nhơn loại đấu tranh.

Cùng lân lý, hay thương người thất thủ, hằng ra tay tế độ bạc tiền,

Với mẹ cha, thường để tấc lòng thành, gắng hết sức đáp đền ơn nhũ bộ.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

 

 

LÂN MẪN

憐 憫

Lân (liên): Thương xót, thương tiếc. Mẫn: Có lòng lành, thương người.

Lân mẫn là có lòng thương xót.

Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đoạ lạc.

(Kinh Tận Độ).

 

 

LÂN NGỌC

麟 玉

Lân: Kỳ lân, loài thú linh thời xưa, rất hiền lành, người ta gọi là nhân thú. Kỳ là con đực, Lân là con cái. Ngọc: Tiếng tôn xưng, chỉ sự quý báu.

Lân Ngọc tức là “Ngọc Kỳ Lân 玉 麒 麟”, là một con lân của đạo Cao Đài dùng trong nghi thức tiếp rước Hội Thánh và quan khách ở các địa phương, như lễ đặt viên gạch, lễ an vị hay lễ khánh thành Thánh Thất hoặc Điện Thờ Phật Mẫu ở các địa phương. Còn tại Nội Ô Toà Thánh, nghi thức tiếp rước Hội Thánh và quan khách thì dùng Long Mã.

Ngọc Kỳ Lân, cũng như con “Kỳ lân”, có hình dáng giống như con nai, mình dài, đuôi trâu, vú ngựa, có một sừng trên đầu. Trên lưng Ngọc Kỳ Lân có mang quyển Xuân Thu, do tích Kỳ lân xuất hiện hai lần trong cuộc đời Đức Khổng Tử.

Lần thứ nhất, mẹ Khổng Tử là Bà Nhan Thị còn đang mang thai, nằm mộng thấy con Kỳ lân nhả ra ngọc xích có chữ viết rằng: Con nhà Thuỷ Tinh nối đời suy Châu mà làm vua không ngai. Sau đó sanh ra Khổng Tử, tức là điềm báo: Thánh nhân ra đời.

Lần thứ nhì, Đức Khổng Tử đang viết quyển Xuân Thu, thì nghe tin người thợ săn bắt được Kỳ lân què một chân, Khổng Tử có đến xem rồi bưng mặt khóc. Về nhà Ngài than với học trò: Đạo ta cùng rồi. Ba năm sau đó Ngài mất.

Nhạc Tần đánh rước âm dồn dập,

Lân Ngọc múa nghinh điệu nhịp nhàng.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LÂN RA ẮT CÓ THÁNH QUÂN

Lân ra: Kỳ lân xuất hiện. Ắt có: Chắc chắn sẽ có. Thánh Quân: Vua Thánh.

Lân ra ắt có Thánh Quân có nghĩa là Kỳ lân ra đời thì có Thánh quân xuất hiện.

Người xưa cho rằng kỳ lân là một loài thú linh trong bốn loài: Long, lân, quy, phụng.

Kỳ lân rất quý hiếm, nên khi xuất hiện thì có điềm vua Thánh ra đời.

Khi Khổng Tử sắp ra đời thì có kỳ lân xuất hiện.

Lân ra ắt có Thánh quân ra,

Nhiều gốm vòng Nam hiệp một nhà.

(Đạo Sử).

 

 

LÂN TUẤT THƯƠNG SANH

Hay “Lân tuất thương sinh”.

Lân tuất: Đồng nghĩa với “Lân mẫn 憐 憫”, là thương xót. Thương sanh (sinh): Dân chúng nghèo khổ.

Lân tuất thương sanh, như chữ “Lân tuất thương sinh 憐 恤 蒼 生”, là thương xót những hạng dân chúng nghèo khổ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngài là chơn linh Thánh sống trước mắt cả thiên hạ đạt cả Ðạo Giáo, Ngài quan sát nơi mặt thế nầy, Ðức Jésus Christ không kém hơn ai trong hàng Giáo Chủ. Ngài để nhứt tâm lân tuất thương sanh, yêu ái người thật nồng nàn chơn chất.

Lân tuất thương sanh khách đón chờ,

Gặp thuyền tế độ cứ hò lơ.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LẤN

Lấn là mở rộng phạm vi, xâm chiếm phạm vi chỗ khác, việc khác. Như: Lấn bờ cõi, lấn đất, càng nhân nhượng càng lần tới.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Thầy nhớ xưa, kẻ mộ Ðạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhọc mình, giày gai áo bả, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giậu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy không bợn nhơ, mới có thể lập ngôi cho mình đặng; có đâu lấy của lấn nhân, mượn quyền xua đức, kẻ chân thành lánh mặt, đứa tà mị áp vào, rồi cúm núm mang hơi tà, lại đua nói rằng thờ Chánh giáo. Thầy hỏi: Ai chứng cho?

Lý diệp chờ xuân nhánh trổ bông,

Thị thành chen lấn lại rừng tòng.

(Đạo Sử).

Rủi gặp trẻ tranh lời lấn lẽ,

Phải nhớ em bập bẹ nói từ lời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẤN CHEN

Lấn: Xâm phạm, hay chen qua chỗ khác, việc khác, vượt quá. Chen: Len, lẫn vào giữa đám đông.

Lấn chen, như chữ “Chen lấn”, dùng sức hay quyết tâm chen vào để chiếm chỗ, chiếm lối.

Như: Lấn chen vào đám đông, tu hành vẫn còn lấn chen vào danh lợi.

Hơn thua trối mặc đời bao biếm,

Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.

(Đạo Sử).

Niên canh chẳng hiệp mạng nghèo hèn,

Bởi đạo đức nhiều mới lấn chen.

(Đạo Sử).

Đường hung ác, nẻo chông gai,

Lấn chen vào chốn nghiệt đài gọi ngoan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẤN HIẾP

Lấn: Hơn, xâm phạm, vượt quá. Hiếp: Dùng sức mạnh bắt người phải chịu.

Lấn hiếp là dựa vào sức mạnh mà hiếp đáp người.

Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu có câu: Chí Tôn có hứa khi ấy với Thiếp rằng: Thế nào cũng nâng đỡ chư hiền hữu mà chẳng cho ai ỷ thế lộng quyền lấn hiếp, Thiếp mới đến khai Đạo cho chúng sanh đặng phụ mẫu song toàn, nào dè vì lòng đại từ đại bi quá thương nhơn loại, đành để cho chư hiền hữu chịu hành hà đến đỗi.

Đừng mượn tiếng trai năm thê bảy thiếp,

Mà ép tình lấn hiếp thuyền quyên.

(Phương Tu Đại Đạo).

Trước ưng chịu duyên vầy Tần Tấn,

Hơn thua chi còn lấn hiếp nhau.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẤN LƯỚT

Lấn: Xâm phạm, hay chen qua chỗ khác, việc khác, vượt quá. Lướt: Đi qua, vượt.

Lấn lướt là xâm phạm, hoặc chen vào công việc của người khác.

Lấn lướt còn có nghĩa dựa vào tài sức, thế lực mà chèn ép người. Như: Cô ấy lấn lướt chồng.

Thánh giáo Thầy có câu: Cả thảy đều con của Thầy, trừ ra tôn ty thượng hạ nơi việc hành chánh, thì đồng một bậc cả, chẳng ai đặng vì quyền mà lấn lướt, chẳng ai đặng vì mạng lịnh mà đè ép xua đuổi ai.

Phải cho biết kỉnh vì trên trước,

Đừng buông lời lấn lướt hồ đồ.

(Kinh Sám Hối).

Lấn lướt đặng đời Trời ghét mặt,

Hình răn nào phải đợi người thưa.

(Đạo Sử).

Đừng cậy thế làm chồng lấn lướt,

Chẳng đoái thương chất nhược liễu bồ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẦN

1.- Lần là lượt. Như: Lần nầy, lần sau, đi lại nhiều lần, biết bao nhiêu lần.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy: Dầu cho sắt đá cỏ cây, mà nghe đến Thánh Ngôn nơi Thầy do con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người.

Ðào Nguyên lại trổ trái hai lần,

Ai ngỡ Việt Thường đã thấy lân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mai đeo tuyết ngọc biết bao lần,

Tuyết vẽ mày mai thắm thía xuân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mưa nắng thương thân chịu lắm lần,

Ðành đem đức gởi tại Chiêu Tân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lần là dò chừng, tức noi theo từng lượt, từng bước một. Như: Lần đi trong bóng tối, bước lần theo mé mương, lần nghe tiếng trống sang canh.

Thánh giáo Thầy có câu: Kẻ hữu phần đặng nắm mối Ðạo Trời, dựa chiếc thuyền sen lần vào non cao suối lặng, để rửa bớt chút bợn trần, dưỡng tánh tu thân, để nâng lên địa vị thanh cao, lánh xa đoạ luân hồi trong lúc hồn lìa khỏi xác.

Gai gốc lần đường công trước gắng,

Thảnh thơi có lúc buổi sau dành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðường gai gốc gắng lần qua khỏi,

Cảnh rạng ngần tua rán bước vào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Lần là dần, từ biểu thị cách thức diễn ra từ từ từng ít một.

Như: Mua lần các thứ cần dùng, trời ấm lần lên, lần lần mới hiểu ra, chết lần chết mòn.

Gội nhuần đức trước rạng thôn lân,

Ðạo Thánh dìu chơn bước khởi lần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Gắng chí tập lần thân cực nhọc,

Bền gan tu luyện mới là nên.

(Đạo Sử).

4.- Lần là nắn, sờ dần từng hột, từng phần một.

Như: Lần tràng hạt, lần lưng, lần túi tìm chìa khoá, lần đốt ngón tay tính ngày.

Lần chuổi hột từ bi cứu khổ,

Nương gió thanh trăng tỏ là nhà.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẦN CHUỖI

Lần: Lấy tay sờ dần từng hột một. Chuỗi: Lấy hạt xâu lại thành chuỗi, có loại 18 hạt, có loại 108 hạt.

Người ta thường lấy hạt cây Bồ đề xâu lại thành chuỗi, nên còn gọi là “Chuỗi Bồ đề”.

Người Phật tử niệm Phật thường hay lần chuỗi, cứ niệm một danh hiệu Phật thì lần một hạt.

Việc lần chuỗi giúp cho người tu tập tâm thần được an định.

Niệm hương tế độ hành tam lập,

Lần chuỗi từ bi tịnh lục trần.

(Thơ Thuần Đức).

Niệm kinh Cứu Khổ thông tinh huyết,

Lần chuỗi Di Đà trụ khí thần.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

LẦN DÒ

Lần: Dần, từ từ, từng chút một, từng ít một của quá trình, của sự việc. Dò: Đi một cách thận trọng, lần từng bước.

Lần dò là tìm hiểu, tìm biết dần dần từng bước một cách mò mẫm.

Lần dò còn có nghĩa là đi một cách thận trọng, lần từng bước.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Thầy có dạy: “Thầy lập Đạo cho toàn cả chúng sanh, ai tu nấy hưởng, nhưng đứa nào có tiền căn nhiều lần chuyển kiếp, kỳ nầy mới gặp. Các con khá trông vào mấy đứa kia, trước hành đạo ra lối nào, rốt cuộc sẽ ra sao?

Vậy cứ theo đường chánh đại lần dò bước tới mà lên cho đến tận chơn Thầy nghe”.

Trên đường Thánh đức lần dò,

Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hoá công.

(Kinh Thế Đạo).

Đường Tiên vẹn bước lần dò,

Đỡ nâng cho vững cơ đồ nhà Nam.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LẦN HỒI

Lần: Dần, từ từ, từng chút một, từng ít một của quá trình. Của sự việc. Hồi: Khoảng thời gian ngắn, coi là thời điểm diễn ra sự việc nào đó.

Lần hồi là dần dà cho qua ngày tháng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Thầy quyết lấy đức háo sanh mở Ðạo, cứu rỗi sanh linh cho kịp trước kỳ Hạ nguơn nầy, nhưng Ðạo chẳng hoàn toàn, con đường đi chưa cùng bước, là vì tại nơi lòng nhiều đứa chưa để hết tín ngưỡng mà nghe lời Thánh giáo, cho nên lần hồi, nền Ðạo phải ra tan tành manh mún.

Từ bỏ lần hồi lầm lỗi trước,

Tự nhiên bể khổ lánh xa vời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thương ai ráng giữ cao ngôi,

Đò Tiên chực sẵn lần hồi kẻo xê.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

LẦN LỰA

Lần: Dần dà qua ngày tháng. Lựa (lữa): Lâu ngày.

Lần lựa, như chữ “Lần lữa”, là kéo dài thời gian ra để trì hoãn.

Ví dụ như: Anh cứ lần lựa (hay lần lữa) mãi, không chịu trả nợ cho tôi.

Trong Thánh Ngôn, Đức Chí Tôn có dạy: Lần lựa cúc xủ sương tan, mai gầy sen nở, ngày tháng qua chẳng là bao mà thế thái nhơn tình biết bao thay đổi!

Chớ hiểm độc dạ lang lần lựa,

Nhơn thất mùa bế dựa gắt gao.

(Kinh Sám Hối).

Lần lựa cho đò xa bến Thánh,

Thánh tâm mấy kẻ vẹn trau thân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,

Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.

(Đạo Sử).

 

 

LẦN MÒ

Lần: Noi theo từng lượt, từng bước, từng độ. Mò: Sờ tìm khi không thể nhìn thấy được.

Lần mò là tìm kiếm, dò dẫm một cách hết sức khó khăn, vất vả.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ôi! Quốc Ðạo là thế nào? Quốc là nước, vậy nòi giống tín ngưỡng lập Quốc Ðạo, Bần Ðạo theo tới cùng coi lập nó ra thế nào, hình tướng nào cho biết, vì đó mà lần mò theo đuổi đến ngày nay, thấy hiện hữu cái hình trạng là Ðạo Cao Ðài rồi lại đoán xét coi nó biến hình Quốc Ðạo Việt Nam ra sao?

Đồng chí sẵn chờ tay hiệp tác,

Nương nhau dặm tối gắng lần mò.

(Thơ Thượng Sanh).

Chú trọng sanh linh gìn Thánh thể,

Nhắm ngay bến giác gắng lần mò.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

LẨN

Lẩn là tránh, trốn, tức lén đi nơi khác, nhân lúc không ai nhìn thấy. Như: Lẩn đi chơi, lẩn mất dạng.

Lẩn còn có nghĩa lẩn cùng những thứ khác khiến khó nhận ra, khó nhìn thấy. Như: chạy lẩn trong đám đông.

Dạy em phận yếm mang quần vận,

Phải buộc mình núp lẩn dưới tay chồng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẨN BẨN

Lẩn bẩn, cũng như chữ “Lẩn quẩn”, là quanh quẩn, không đi đâu xa.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Phối Thánh Phạm Văn Màng có đoạn: Em thấy chỗ hay của các bạn nên làm mà không làm, đi cỡi ngựa chuối chơi với lũ trẻ con, hơn là ngồi cầm quyền tề quốc, em thấy mấy bạn có chỗ hay mà không hay thiệt nên rất uổng. Còn nữ phái, ai mà chịu cho nổi, cứ lẩn bẩn hờn giận, búng rảy nhau hoài. Sư phụ rầy mà cũng không kể.

Lẩn bẩn cứ theo toan cám dỗ,

Làm cho nên nỗi Ðạo xa Thầy.

(Đạo Sử).

Con thì đứa đường đời lẩn bẩn,

Con thì hay day trở cơ mầu.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận,

Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẨN QUẨN

Lẩn quẩn là lui tới một chỗ, quanh quẩn một bên, không đi xa.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Các em đang ở trong vòng lẩn quẩn của thế tình mà chịu mọi khổ hận hầu tạo Minh đức Tân dân, lần hồi hoà bình chủng tộc, rồi mới ra vạn chủng.

Trăm năm lẩn quẩn đường nhơn nghĩa,

Một kiếp đeo đai mối nợ tình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đời lẩn quẩn không ngoài tứ khổ,

Đạo độ đời chỉ rõ trường sanh.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LẨN TRÁNH

Lẩn: Tránh, trốn, bỏ đi chỗ khác nhân lúc không ai nhìn thấy. Tránh: Lánh cho khỏi gặp.

Lẩn tránh là cố lánh đi để khỏi phải gặp, hoặc tránh đi để khỏi phải làm.

Như: Vì xấu hổ, cô ta cố tình lẩn tránh bạn bè.

Tựu trung cái tâm lý chung của người đời là sợ đau khổ và sợ cả sự nghĩ đến đau khổ, luôn luôn có thái độ lẩn tránh...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LẪN

1.- Lẫn là lộn, lầm cái này với cái kia, hoặc ở vào tình trạng hay nhầm, hay quên, không nhận đúng sự vật, hiện tượng do trí nhớ giảm sút.

Như: Lẫn lộn, lẫn tên người, già hay lẫn, nói hay lẫn.

Đừng thấy lẫn rầy la mà phụ,

Phải nhớ hồi còn bú tới thôi nôi.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lẫn còn có nghĩa là trao đổi qua lại, từ dùng phối hợp với nhau để biểu thị tác động qua lại, hai chiều. Như: Giúp đỡ lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.

Thánh giáo Thầy có câu: Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định quy nguyên phục nhứt.

Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,

Dạy lẫn nhau cho đặng chữ hoà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðời hiếp lẫn nhau nỡ chẳng thương,

Thương đời nên mới đến đem đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LẪN LỘ

Lẫn: Nhận lầm cái nọ ra cái kia, xen vào giữa những thứ khác, khiến khó phân biệt.

Lẫn lộ là lẫn lộn, nhầm lẫn, hay quên, không nhớ rõ sự vật, hay sự việc.

Hết ham danh, chẳng mến công,

Xem hình lẫn lộ, bùi nồng thế gian.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Già lụm cụm nói năng lẫn lộ,

Dâu có khôn phải độ nghĩa cho ngoan.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẪN LỘN

Lẫn: Lầm, nhận nhầm cái nọ ra cái kia, xen vào những thứ khác, nên khó phân biệt được. Lộn: Lẫn.

Lẫn lộn là lẫn vào với nhau, không còn phân biệt được nữa.

Lẫn lộn còn có nghĩa là nhận thức nhầm cái nọ với cái kia, không phân biệt được hai cái khác hẳn nhau, hay đối lập nhau.

Thánh giáo của Đức Thái Thượng Đạo Tổ dạy: Cái Tà vì Thiên thơ sử dụng, Tà vì cơ thử thách của Tam Giáo Toà, Tà vì những quỷ xác ma hồn lẫn lộn của Quỷ vương để làm cho công phu lỡ dở.

Vàng thau lẫn lộn không người thổi,

Ngọc thạch bất phân thiếu kẻ trau.

(Thơ Hộ Pháp).

Càng ngấm càng ghê cái cảnh đời,

Buồn vui lẫn lộn biết bao mươi.

(Thơ Thạnh Đức).

 

 

LẬN

Lận là lừa gạt. Như: Ăn gian ăn lận, mua gian bán lận, cờ gian bạc lận, đánh lận con đen.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Vì cơ quan tận độ chúng sanh Đức Chí Tôn đến lập thành quả nhiên cơ quan ấy hiện hữu hiển nhiên, nếu chúng ta không tưởng tới, ngày kia về Bạch Ngọc Kinh không còn hồn, chừng đó người ta vạch ra không thế mình gian lận được.

Cũng đừng bài bạc lận nhau,

Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.

(Kinh Sám Hối).

Tre tàn măng mọc cuộc đời in,

Ðánh lận mưu sâu khá giữ mình.

(Đạo Sử).

Quốc dân ăn thãi uống thừa,

Khôn ngăn bán lận khó ngừa buôn gian.

(Ngụ Đời).

 

 

LẬN ĐẬN

Lận đận là vất vả, chật vật vì phải trải qua nhiều trắc trở, gian lao.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Mỗi ngày Bần Đạo đang sống, có nhiều khi ngồi trên lầu Trí Huệ Cung dòm xuống thấy em út lận đận mỗi ngày tìm sống, kiếm sống, thì Bần Đạo lấy làm thương xót vô cùng nhưng luật Thiêng liêng để nó kiếm sống mà vui sống với đau khổ của nó, nếu không vui sống nó sẽ chết, phải để cho nó vui sống, nó sống trong đau khổ nó vẫn vui sống.

Lòng cảm xót dương trần lận đận,

Ra oai linh tiếp dẫn nhơn cầm.

(Xưng Tụng Công Đức).

Thường nhớ lúc mẹ cha lận đận,

Đủ khôn ngoan gắng phận lo lường.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÂNG

Lâng là từ dùng để chỉ trạng thái nhẹ nhỏm, khoan khoái, rất dễ chịu.

Như: Giải quyết được việc khó khăn cảm thấy tâm hồn nhẹ lâng, khúc củi nhẹ lâng.

Theo đời thể xác cam oằn gánh,

Nương Đạo tâm hồn được nhẹ lâng.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LÂNG LÂNG

Lâng lâng là ở trạng thái nhẹ nhỏm, khoan khoái, rất dễ chịu.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cứ an lòng giữ vững đời sống muối dưa thanh đạm, dưới bóng Từ Bi của Ðức Chí Tôn, lóng nghe hồi chuông cảnh tỉnh để lâng lâng giũ sạch bụi trần, ngày tháng công phu trau giồi tâm trí thế nào cho được thanh cao trong sạch.

Lâng lâng giũ sạch bụi trần,

Cứu nhân độ thế phước phần hậu lai.

(Cửu Nương Giáng Bút).

Cây cỏ diềm dà đượm vẻ xuân,

Lâng lâng giũ sạch áo phong trần.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LẤP

1.- Lấp là làm cho đầy, kín cái lỗ trũng, chỗ hổng hay chỗ trống. Như: Lấp ao, lấp sầu, lấp đường, lấp ngõ.

Thánh giáo Thầy có câu dạy: Ngày nầy năm trước, các con vẫn còn mơ màng trong giấc mộng trần, đường co duỗi vẫn đã lấp kín chút bợn trần, mà màn thế tục cũng chưa trông khoả vén.

Ðắp lũy Cổ Loa chưa mấy mặt,

Lấp Hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên.

(Đạo Sử).

Anh em bạn tác vầy đông,

Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Lấp là che đi, làm cho khuất đi. Như: Che lấp, cỏ mọc lấp đầy lối đi.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Màn Trời che lấp dấu trần, đạo Thánh dắt dìu bước tục. Cuối Hạ nguơn biết bao đời thay đổi.

Có chi khuất lấp đặng cơ Trời,

Nép của hại người há tưởng chơi.

(Đạo Sử).

Ngẩn bút hoà thi tủi phận ai,

Trời xanh vội lấp nữ anh tài.

(Thơ Hộ Pháp).

3.- Lấp còn dùng để chỉ làm cho át đi không còn nghe thấy, nhận thấy.

Như: Tiếng nhạc lấp cả giọng kinh, mây mù che lấp đỉnh núi.

Tiêu thiều lấp tiếng dục tình,

Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.

(Kinh Tận Độ).

 

 

LẤP BỂ

Lấp: Làm cho bằng lỗ thủng. Bể: Biển.

Lấp bể (biển), bởi tích chim tinh vệ ở biển ngậm đá ở núi Tây đem về để lấp biển Đông Hải.

Lấp bể còn dùng để nói người có chí lớn, thường làm công việc to tát.

Kiếp ngựa trâu Việt chủng vận kêu gào,

Đá tinh vệ chừ bao cho lấp bể.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Cứu thế độ đời tua gắng sức,

Vá trời lấp bể vượt Thiên môn.

(Thơ Thiện Nguyện).

 

 

LẤP CHÔN

Lấp: Làm cho bằng lỗ thủng. Chôn: Cho vào lỗ đào ở đất và lấp lại.

Lấp chôn, như chữ “Chôn lấp”, là chôn xuống và vùi lấp lại cho kín.

Lấp chôn còn có nghĩa là giấu kín những sự việc, không muốn khơi gợi lại.

Trôi nổi mãi không tầm vào bờ bến,

Sóng gió nhồi đành chịu lấp chôn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LẤP LÓ

Lấp: Che, làm cho khuất đi. Ló: Thò, lộ ra.

Lấp ló là ló thụt, tức khi ẩn khi hiện liên tiếp, chỉ sự lưỡng ước, lúc muốn xuất hiện, lúc muốn lui đi.

Lấp ló còn có nghĩa là bày ra một phần, một ít.

Phối Thánh Phạm Văn Màng trong Thánh Ngôn Sưu Tập có đoạn: Hôm nọ, gặp Đức Quyền Giáo Tông, Ngài than rằng: Ngày nào Cửu Trùng Đài biết mình, bớt hám quyền mới mong tạo ra thiệt tướng. Em căn dặn mấy bạn đừng lấp ló cửa quyền mà sanh điều đố kỵ. Xin nhớ.

Trường thương lấp ló ít người,

Nơi tay dị chủng như Trời nắng mưa.

(Ngụ Đời).

Lấp ló như người mang tội trộm,

Ta không nỡ để đến nhiều phen.

(Đạo Sử).

Hễ lấp ló vào buồng làm ngãi,

Thì làm tuồng gà mái, nằm nơi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẤP LÓE

Lấp: Che, làm cho khuất đi. Lóe: Phát sáng mạnh và chỉ trong giây lát.

Lấp lóe, như chữ “lấp lóa”, là có ánh sáng phát ra, khi lóe lên khi tắt.

Như: Những vì sao lấp lóe trên bầu trời.

Nhìn mặt nước lung linh bóng mẹ,

Ngó làn mây lấp lóe hình cha.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LẤP LỬNG

Lấp lửng là lừng chừng, do dự không dứt khoát.

Lấp lửng còn có nghĩa là mập mờ khó tin.

Thánh giáo Thầy có câu: Áo dà cũng muốn mặc, giày đạo cũng muốn mang, muốn đứng trước cả nhơn sanh để cho họ biết mình là hướng đạo. Ðường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng toan vào, mà thấy bạc rơi cũng chẳng bỏ, lợi mún chẳng từ, mượn danh Ðạo mà tạo danh mình, vô Thánh điện mà hơi tà còn phưởng phất.

Lôi thôi buổi trước nhiều ân xá,

Lấp lửng đừng làm tội bữa nay.

(Đạo Sử).

 

 

LẤP NGÕ TÀI HIỀN

Lấp ngõ: Làm bít đường, che lấp mất ngõ đi. Tài hiền: Hay hiền tài 賢 才, là người có tài có đức.

Lấp ngõ tài hiền là che lấp, ngăn chận không cho người tài đức tiến thân, yểm tài người.

Phàm con người ta có tính “tốt thì khoe, xấu thì che”, nhưng khi thấy người khác có điều gì hay tốt, đáng lý phải nêu danh, hay giới thiệu cho mọi người cùng biết, đàng này lại giấu đi, bưng bít, ấy là che cái hay tốt của người hiền vậy. Đức Khổng Tử có dạy: Nặc nhơn chi thiện sở vị tế hiền 匿 人 之 善 所 謂 蔽 賢. Nghĩa là giấu cái lành của người ta thì gọi là che bậc hiền tài vậy.

Mạnh Tử cũng nói rằng: Ngôn vô thực bất tường, bất tường chi thực, tế hiền giả đương chi 言 無 實 不 祥, 不 祥 之 實 蔽 賢 者 當 之, nghĩa là nói mà không chân thật, thì có sự tai hại, thực tai hại là những lời nói làm che lấp bậc hiền tài, khiến cho không tiến đạt được.

Hãy có dạ kỉnh già thương khó,

Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.

(Kinh Sấm Hối).

 

 

LẤP THẢM VÙI SẦU

Lấp thảm: Chôn kín những mối thảm. Vùi sầu: Dập sâu những nỗi sầu.

Lấp thảm vùi sầu tức là lấp kín những nỗi thảm, vùi sâu các mối sầu, ý nói làm cho hết nỗi sầu thảm.

Trong lễ Tấn phong Nữ Đầu Sư cho Bà Hương Hiếu, Bài Tuyên dương công nghiệp của Đức Thượng Sanh có câu: Nhưng may thay, Bà đã thâm nhiễm mùi Đạo, tự biết muôn sự ở đời đều là giả cuộc, kiếp phù sinh như cảnh hoa sớm nở tối tàn, nhứt là nhớ lời khuyên nhủ của các vị Tiên Nữ Diêu Trì Cung, nên bà tự an ủi lấp thảm vùi sầu, khuây khoả với tiếng kệ kinh, lấy chữ vị tha làm mục đích, tận tâm phục vụ dắt dìu nữ phái, quyết lòng hiến cả tâm hồn lẫn xác thân cho nền Đại Đạo.

Lấp thảm vùi sầu, gắng chí lo,

Sông mê vượt thoát, cậy con đò.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LẬP

1.- Lập là làm, dựng, gây dựng. Như: Lập công, lập đạo, lập mưu, lập nghiệp, lập quốc.

Thánh giáo Thầy có câu dạy: Thử nghĩ, lập một nước còn dễ hơn dạy một người dữ đặng hiền, huống chi trong Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, các con phải độ rỗi cả nhơn loại khắp cả Năm Châu, thì trách nhậm ấy lớn lao là bực nào.

Khai Thiên lập Ðịa, ai là chủ?

Thánh Phật là ai dám đón ngăn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chỉn cầu con gắng chí cho bền,

Lập danh phận cho thê vinh tử ấm.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lập còn có nghĩa là đứng.

Như: Độc lập (đứng một mình, không bị lệ thuộc), Lập tức (ngay tức thì).

Thảng như rủi năm nào thất bác, dân đói khó, thì lập tức mở kho ấy phát cho dân gọi là chẩn bần...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LẬP CÔNG

立 功

Lập: Tạo ra, dựng nên. Công: Công trạng, công đức.

Lập công là tạo lập công đức, tức là làm công quả để tạo dựng phước đức.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Các con ví biết Ðạo là quý thì phải ân cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu, các con mới thấy rõ Thiên cơ, thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng, vì mỗi việc khó khăn trắc trở là lúc sơ khai.

Siêng lo thì ắt đặng no lòng,

Siêng Ðạo thì đời phải lập công.

(Đạo Sử).

Lập công đem đổi nên Thiên vị,

Đèn sách bền theo nhọc chớ màng.

(Đức Quyền Giáo Tông).

Nguyên do kiếp trước không tu niệm,

Luân chuyển đời này gắng lập công.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

LẬP CÔNG BỒI ĐỨC

立 功 培 德

Lập công: Tạo lập nên công quả. Bồi đức: Vun bồi phước đức.

Lập công bồi đức, như câu “Lập công tạo đức”, là tạo lập công quả và vun bồi phước đức, tức làm những việc thiện như bố thí, trì giới, lễ bái, in kinh, làm chùa... có công năng tạo ra công đức.

Trong “Luật Tam Thể” của Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Vậy Đệ nhị xác thân là hình bóng đi lập công bồi đức, thoảng như nó trọn nghe lời của Đệ tam xác thân thì được trọn lành về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà chúng ta gọi là đắc quả.

Rày thời kíp phải liệu toan,

Lập Công bồi đức cứu an linh hồn.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

Chồng con ở lại trần gian,

Lập công bồi đức theo đàng nghĩa nhân.

(Thơ Thông Quang).

 

 

LẬP CÔNG TẠO ĐỨC

立 功 造 德

Lập công: Tạo lập công quả. Tạo đức: Gầy dựng phước đức.

Lập công tạo đức, đồng nghĩa với câu “Lập công bồi đức”, nghĩa là tạo lập công quả vun bồi phước đức.

Xem: Lập công bồi đức.

Lập công, quyết lấy công làm quả,

Tạo đức, hằng mong đức thế tiền.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

LẬP CÔNG CHIẾT QUẢ

立 功 折 果

Lập công: Tạo lập công đức. Chiết quả: Trừ bớt nghiệp quả do kiếp sống trước để lại.

Lập công chiết quả là kiếp sống nầy lo tạo lập công đức để trừ bớt những nghiệp quả, bởi tội lỗi của kiếp sống trước tạo thành.

Ai mau bước đặng gặp mối chánh dẫn truyền mà lần lập công chiết quả, để lánh cả muôn điều phiền não về sau.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LẬP CÔNG CHIẾT TỘI

立 功 折 罪

Lập công: Tạo lập công đức. Chiết tội: Trừ bớt những tội lỗi.

Lập công chiết tội, đồng nghĩa với câu “Lập công chuộc tội”, là tạo lập công đức để chuộc bớt tội lỗi.

Xem: Lập công chuộc tội.

Nếu Thầy chẳng vì thương tâm thì các Tiên Phật đã ghi lỗi rất trọng hệ của các con mà chẳng khứng cho lập công chiết tội.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LẬP CÔNG CHUỘC TỘI

Lập công: Tạo lập công đức. Chuộc tội: Lấy công quả bù lại để được tha thứ tội.

Lập công chuộc tội, đồng nghĩa với câu “Lập công chiết tội”, là tạo lập công đức để chuộc bớt tội lỗi.

Trong hiện kiếp lo tạo lập công đức bù lại để trừ bớt những tội lỗi đã gây ra nơi kiếp trước, hoặc để được hưởng sự tha thứ tội tình, gọi là “Lập công chiết tội”, hay “Lập công chuộc tội”.

Phước Thiện huyền diệu cao sâu,

Lập công chuộc tội mới hầu khỏi oan.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

LẬP CHÍ

立 志

Lập: Tạo ra, dựng nên. Chí: Ý chí, tức là ý quyết làm một việc gì.

Lập chí là xây dựng, hay theo đuổi một chí hướng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Mở rộng trường thi công quả để tiếp đón nhơn tài, Hội Thánh chỉ mong ước quý vị thấm nhuần đạo đức, lập chí tu thân, trước thì lo tròn bổn phận làm người, sau nữa có thể thi thố tài năng giúp đời trợ Ðạo tuỳ theo địa vị hoàn cảnh của mỗi người.

Lập chí ôn nhu là đắp lũy,

Nung lòng Đạo đức ấy xây đồn.

(Bát Nương Giáng Bút).

Ôn hoà lập chí gầy thân ái,

Nhơn nghĩa dồi trau dựng thới bường.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

Tránh điều đố kỵ gây thù hận,

Lập chí tương liên vững nước nhà.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

LẬP ĐẠO

立 道

Lập: Tạo ra, dựng nên. Đạo: Tôn giáo.

Lập Đạo là gầy dựng một nền Đạo, ý chỉ mở ra một nền tôn giáo mới.

Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dạy: Ngày nay, các Hiền đồ gặp hồi lập Đạo, phải nên biết cái chức trách của mình đối đãi với nhơn sanh.

Lập Ðạo dầu nên ngàn thuở để,

Nêu danh hậu thế tiếng bền dai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Góp mặt tầng nêu cơ lập Đạo,

Kém tài đâu dễ sức xây thành.

(Thơ Thanh Thuỷ).

 

 

LẬP ĐỨC

立 德

Lập: Tạo ra, dựng nên. Đức: Kết quả của những việc làm thiện, làm lành.

Lập đức là làm những việc có công đức. Đây là một trong Tam lập: Lập công, lập ngôn, lập đức.

Lập đức là làm những việc lành, việc thiện nhằm đem lại phước đức cho mình và cho người khác. Những việc như thí tài, thí công, thí pháp tức là giúp của, giúp công, in kinh, và làm chùa, hay ủng hộ những người tu hành chân chính, là những việc làm tạo nên công đức. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc tu hành vào thời Tam Kỳ Phổ Độ.

Thực vậy, vào thời hạ nguơn mạt Pháp, chúng sanh sống trong cảnh khổ đau của chiến tranh, thiên tai và bệnh tật, nên rất cần thiết có những tấm lòng, những bàn tay để xoa dịu những nỗi đau của sanh chúng. Lại nữa, Đức Chí Tôn mở Đạo lần này là lập một trường thi công quả. Thánh giáo dạy: “Người tu hành, nếu chưa trường trai trì giới nổi đặng thì hãy lo lập đức, bồi công để làm nền móng vững chắc cho việc luyện Đạo tương lai, chớ dục vọng mong sớm luyện Đạo để làm Tiên, Phật mà thiếu phần công quả, âm chất. Vì Thầy lập Đạo kỳ này là mở một trường thi công quả. Các con phải đi tại cửa này mới đến đặng Cực Lạc mà thôi”.

Phần nhiều, người tu hành thường thiếu công quả, mà công quả cũng là một phần của việc lập đức, vậy cần phải chuyên tâm lo về phần này, nên Chí Tôn thường nhắc nhở: “Người dưới thế này muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc Đạo, phải có công quả”.

Thong dong cõi thọ nương hồn,

Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

(Kinh Thế Đạo).

Xót phận nhiều năm lo lập đức,

Thương thân một thuở lỡ công phu.

(Thơ Thái Bộ Thanh).

 

 

LẬP ĐỨC BỒI CÔNG

立 功 培 德

Lập đức: Làm những việc có công đức. Bồi công: Vun bồi công quả.

Lập đức bồi công, như chữ “Bồi công lập đức 培 功 立 德”, là tạo lập phước đức vun bồi công quả.

Xem: Bồi công lập đức.

Khuyên nên trỗi bước đường tu tỉnh,

Lập đức bồi công hưởng lộc trời.

(Thượng Cảnh Thanh).

 

 

LẬP KẾ

立 計

Lập: Tạo ra, gầy dựng, đặt. Kế: Mưu chước.

Lập kế là đặt ra mưu kế. Như: Đồ mưu lập kế.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo của Bát Nương có đoạn: Luật Đạo lại có lời rẻ rúng, Phép nghiêm làm lợi dụng mưu gian. Nghĩa là: Luật Đạo, Luật Toà Thánh thì coi rẻ rúng, lấy phép nghiêm của Đạo đặng lo lập kế xảo mị. Khác nào giữa chợ nài hàng,...

Lập kế đồ mưu âm hại chúng,

Kiếp sau mang lấy lốt heo trâu.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

LẬP LỆ

立 例

Lập: Tạo ra, gầy dựng, đặt. Lệ: Lề lối quy định để mọi người noi theo.

Lập lệ là lập ra lề lối để mọi người noi theo.

Cũng chính mình Ngài đến lập lệ nam nữ phải phân biệt nhau.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

LẬP LOÀ

Loà: Không còn nhìn rõ nữa, mà chỉ còn nhìn thấy một vật lờ mờ, không rõ nét.

Lập loà, như chữ “Lập loè”, là có ánh sáng phát ra từ một điểm nhỏ (đèn mờ), khi loé lên khi mờ đi, lúc ẩn lúc hiện liên tiếp.

Như: Ngọn đèn trong nhà toả ra ánh sáng lập loà.

Bởi ham nguyệt rạng lánh nhà,

Đèn chong buồn bực lập loà rèm thu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẬP LUẬN

立 論

Lập: Tạo ra, gầy dựng, đặt. Luận: Bàn luận.

Lập luận là sắp đặt ý tứ và lý lẽ có hệ thống để trình bày, nhằm chứng minh cho người nghe nhận thấy vấn đề đưa ra là hợp lý.

Như: Lập luận vững một cách chặt chẽ.

Tam Giáo tuy lập luận khác nhau về danh từ, về cách học, về hình thức; nhưng tựu trung tinh thần thì Tôn Giáo nào cũng lấy Tâm Tánh làm căn bản học hành.

(Giáo Lý).

 

 

LẬP LUẬT

立 律

Lập: Dựng nên, lập ra. Luật: Luật pháp.

Lập luật là lập ra luật pháp.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Ðầu Sư có quyền cai trị phần Ðạo và phần Ðời của chư môn đệ. Nó đặng quyền lập luật, song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn.

(Chánh Phối Sư) có phép dâng luật lên cho Đầu Sư cầu xin chế giảm chớ không đặng phép lập luật.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

LẬP NGÔN

立 言

Lập: Tạo ra. Ngôn: Lời nói.

Lập ngôn là một trong Tam lập: Lập công, Lập đức và Lập ngôn.

Lập ngôn là ăn nói lời cho chân thật, chánh đáng và đạo đức để thuyết phục người nghe.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Muốn thực hành phép lập ngôn, chúng ta phải làm chủ khẩu khí, phải suy nghĩ kỹ trước khi thốt lời thì lời nói mới đoan trang, có mực thước.

Trong cửa Đạo Cao Đài này đã dạy tu rồi, nhứt là Bần Đạo đã giảng nhiều rồi, ấy là ta phải: Lập Đức, Lập Công và Lập Ngôn đó vậy.

(Con Đường Thiêng Liêng).

 

 

LẬP NGHIỆP

立 業

Lập: Tạo ra, gầy dựng. Nghiệp: Chỉ sự nghiệp.

Lập nghiệp là gầy dựng cơ nghiệp.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thưa cùng mấy chị, kiếp sống của chúng ta ở thế gian này đã đứng trong Thánh Thể của Ngài, mấy em giong ruổi trên con đường Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã sắp sẵn, mấy em đừng sợ nghèo, đừng sợ khổ, không phải vậy, nơi cửa Thiêng Liêng không phải giàu mà lập nghiệp được, còn nghèo mà không đâu, nhớ điều ấy chớ đừng quên.

Con muốn nên nhà lo lập nghiệp,

Muốn qua sông cả phải nương thuyền.

(Đạo Sử).

Ý quyết non sông lo lập nghiệp,

Thương thay chưa buổi đặng nương thời.

(Đạo Sử).

Quân trung ai rõ nữ anh hùng,

Lập nghiệp cho người đến hưởng chung.

(Đạo Sử).

 

 

LẬP PHÁP

立 法

Lập: Tạo ra, dựng nên. Pháp: Pháp luật.

Lập pháp là gầy dựng nên một hệ thống pháp luật để tổ chức và điều hành một quốc gia hay một nền tôn giáo cho được an ninh, trật tự tốt đẹp.

Trong Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn khai nền Đại Đạo và lập Pháp Chánh Truyền như bản Hiếp pháp làm căn bản để tổ chức nền Đạo với các phẩm chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài.

Còn những luật pháp tu hành trong thời kỳ nầy, gọi là Tân Luật, thì Đức Chí Tôn giao cho Quyền Vạn Linh lập ra các luật ấy để vừa với trình độ của nhơn sanh. Quyền Vạn Linh lập thành là do ba hội: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội.

Thầy tưởng chẳng còn nói, nếu ai là đạo đức, đọc đến cách lập pháp của Thầy mà chẳng mừng giùm cho nhơn loại.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LẬP QUỐC

立 國

Lập: Tạo ra, dựng nên. Quốc: Nước nhà.

Lập quốc là gầy dựng nên một đất nước.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Từ đời lập quốc đến giờ, trong phong hoá nhà Nam không thấy lúc nào sơ thất sự phụng tự, nếu đoán chắc là nhờ âm chất của tổ tiên ta biết phụng thờ Ðức Chí Tôn, cái thâm tình ấy còn lưu truyền lại mà ngày hôm nay Ngài mới đến đặng đền bồi ân nghĩa ấy lại có lẽ.

Cái chí lập quốc cứu dân của họ sánh với bực Thần Tiên, mồi danh bả lợi không lay chuyển được.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LẬP TIÊN GIA XƯNG LÃO TỬ

立 仙 家 稱 老 子

Lập Tiên gia xưng Lão Tử đại ý nói Đức Chí Tôn vào thời Nhị Kỳ Phổ Độ lập nền Tiên Giáo, xưng là Đức Lão Tử.

Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Nhiên Ðăng Cổ Phật thị Ngã, Thích Ca Mâu Ni thị Ngã, Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã, Kim viết Cao Ðài 燃 燈 古 佛 是 我, 釋 迦 牟 尼 是 我, 太 上 元 始 是 我, 今 曰 高 臺, nghĩa là Nhiên Đăng Cổ Phật là ta, Thích Ca Mâu Ni Phật là ta, Thái Thượng Nguơn Thỉ là ta, nay gọi là Đấng Cao Đài. Mà Lão Tử do Thái Thượng Đạo Tổ giáng linh.

Như vậy ta có thể nói rằng Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng Chơn linh xuống trần là Lão Tử, lập thành nền Tiên giáo.

Xưa lập Tiên Gia xưng Lão Tử,

Bán truyền Thích Giáo tá Như Lai.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

LẬP THÂN

立 身

Lập: Tạo ra, dựng nên. Thân: Thân mình.

Lập thân là học tập, tu dưỡng cho nên người có tài, có đạo đức, và có tiếng tăm trong xã hội.

Như: Lập thân trả hiếu, đến tuổi phải lập thân.

Xem: Lập thân trả hiếu.

Lập thân muốn tránh đường mưa gió,

Tìm Ðạo nương mình vững nghiệp sau.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dạy trẻ bỏ tánh tình biếng nhác,

Cần lập thân mới thoát phận tôi đòi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẬP THÂN DANH

立 身 名

Lập: Tạo ra, dựng nên. Thân danh: Cái danh của mình đang mang lấy.

Lập thân danh, như chữ “Lập thân”, là tạo lấy cuộc sống, sự nghiệp và tiếng tăm trong xã hội.

Xem: Lập thân.

Lựa là kiếm gia tài có sẵn,

Tính cậy nhờ cho đặng lập thân danh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẬP THÂN HÀNH ĐẠO

立 身 行 道

Lập thân: Học tập, tu dưỡng cho nên người có tài và có đạo đức. Hành đạo: Làm đạo, chỉ sự tu hành.

Lập thân hành đạo là cố gắng học hỏi, trau dồi cho nên người tài đức để phụng sự cho chúng sanh.

Sách Hiếu Kinh, lời Đức Khổng Tử nói: Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã 立 身 行 道 揚 名 於 後 世, 以 顯 父 母, 孝 之 終 也, nghĩa là lập thân hành đạo nức tiếng với đời sau để làm rạng danh cha mẹ, đó là trả trọn cái hiếu rốt cho cha mẹ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cái ơn thâm trọng đó là nhờ nơi đức háo sanh của Ðức Phật Mẫu chúng ta mới có hình hài tại thế và nhờ nơi Người ban cho khí Sanh Quang, chúng ta mới có kiếp sống nơi cõi trần nầy để lập thân hành Ðạo hầu diệt tiêu quả nghiệp tiền khiên trở về Thiêng Liêng vị.

Lập thân hành Đạo, chánh đại quang minh, thật hiện bác ái công bình.

(Sớ Văn).

 

 

LẬP THÂN TRẢ HIẾU

Hay “Lập thân trọn hiếu”.

Lập thân: Học tập, tu dưỡng cho nên người có tài và có đạo đức. Trả hiếu: Đáp trả công ơn cha mẹ.

Lập thân trả hiếu tức là học tập, tu dưỡng cho nên người tài đức, làm rạng danh ông bà, cha mẹ, đó là đền đáp công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Về nghiệp đạo đức tinh thần các bậc tiền bối của ta có nói rằng: “Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế”, ta có thể làm Đạo lập thân danh ta được mà phải có hiếu trước đã, do trọn hiếu mới làm được vậy.

Đừng làm nhục tổ hổ tông,

Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẬP THỆ

立 誓

Lập: Làm nên. Thệ: Thề.

Lập thệ là nói lời thề thốt.

Trong Tôn Giáo Cao Đài, Các Chức sắc, Chức việc đều phải Lập thệ trước khi hành quyền.

Riêng hàng tín đồ, lễ nhập môn cũng có lập thệ, tức là quỳ để thề nguyền trước các Đấng thiêng liêng chứng minh và các chức sắc hoặc bàn trị sự làm chứng.

Trong cuộc lễ Tấn phong Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Bài Tuyên dương Công Nghiệp của Đức Thượng Sanh có câu: Lễ Lập thệ đã cử hành xong, từ đây Chức sắc nữ phái Cửu Trùng Đài đã có vị Đầu Sư cầm quyền điều khiển dìu dắt trên đường Thánh đức để trau dồi đạo hạnh, lập chí vị tha cho xứng đáng là bậc Nữ Thánh nhơn trong cửa Đại Đạo.

Lập thệ nghiệt cơn phò, trí chúa,

Đồ mưu lỡ lúc đặng nên Thần.

(Thanh Sơn Giáng Bút).

 

 

LẬP TRƯỜNG

立 場

Lập: Đứng. Trường: Cái chỗ đứng.

Lập trường là cái chỗ mình đứng, hoặc thái độ, ý kiến của mình đối với vấn đề gì.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo xin nói qua về tôn chỉ của Cao Đài. Phải cần nhắc tới lập trường và tôn chỉ của Cao Đài lúc này vì tôn chỉ của Cao Đài có liên quan mật thiết với sự tồn vong của lãnh thổ, sự suy thịnh của Quốc Gia.

Cửu Nương vốn nhọc nhằn chẳng tiếc,

Chỉ trách con chưa biết lập trường.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Đoạ đày lũ trẻ gánh tai ương,

Do bởi phần đông phản lập trường.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LẬP VỊ

立 位

Lập: Dựng nên, tạo lập. Vị: Ngôi vị, chỗ ngồi.

Lập vị là tạo lập ngôi vị nơi cõi Thiêng liêng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn nói về lập vị như sau: Ðường đời khúc mắc chông gai là lẽ Thiên cơ đã định vậy, cái nơi để cho cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến kiến công lập vị.

Đưa tay vịn phép diệu huyền,

Ngọc Hư lập vị, Cửu tuyền lánh chơn.

(Kinh Tận Độ).

Lập đức, lập công, còn lập vị,

Kiếp sanh phước gặp đạo trời khai.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LẬT BẬT

Lật bật chỉ một cách mau chóng. Như: Lật bật mà đã hết ngày, lật bật tết lại đến nữa.

Lật bật chỉ sự run rảy. Như: Rung lật bật.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Sen tàn cúc nở, đông mãn kế xuân về. Ngày tháng thoát qua chẳng khác chi nước chảy dưới gầm cầu, lật bật năm Kỷ Dậu sắp cáo chung, trăm họ nô nức đón chào Xuân mới.

Âm thầm tự sự ai hay biết,

Lật bật đông phong tối thổi vèo.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

LẬT ĐẬT

Lật đật là tất tả, có dáng vẻ vội vã như lúc nào cũng sợ không kịp. Như: Bước đi lật đật.

Thuyết Đạo về Ngài Quan Thánh Đế Quân, Đức Thượng Sanh có câu: Sau khi Ðức Ngài giải vây thành Bạch Mã giết hai tướng Nhan Lương, Văn Xủ để trả ơn cho Tào Tháo, Ðức Ngài được hay tin Lưu Huyền Ðức đang ở Hà Bắc, Ðức Ngài lật đật đến từ giả Tào Tháo đặng lên đường.

Đầu mới tượng óc còn thiếu chất,

Phân thông minh lật đật bỏ vào.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÂU

1.- Lâu là phải nhiều thời giờ, trái với mau, chóng. Như: Làm đã lâu mà chưa xong, học lâu mới thuộc.

Thánh giáo Thầy có câu: Con có ngày giờ suy nghĩ đã lâu, Thầy cho con xét thêm nữa đặng có đức tánh hoàn toàn, chừng ấy con là ái nữ của Thầy, sẽ dụng làm tay chơn, đem rưới giọt nhành dương để cứu thoát nhơn sanh nơi vòng ly khổ từ đây.

Năng làm phải, nhựt nhu ngoạt nhiễm,

Lâu ngày dồn tính đếm có dư.

(Kinh Sám Hối).

Cha chả hèn lâu chẳng viếng thăm,

E chư huynh trưởng trách em thầm.

(Lục Nương Giáng Bút).

2.- Lâu là lầu, lầu đài, tức nhà có gác, có tầng.

Như: Thanh lâu, Hoàng hạc lâu, vọng nguyệt lâu, toà lâu đài nguy nga.

Hành đến chết huờn hồn sống lại,

Cho đầu thai ở tại thanh lâu.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LẦU

Lầu là nhà có gác, nhà tầng. Như: Xây lầu, phụng lầu, lầu son gác tía, phụng lầu gác quyển.

Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Phải làm thang lầu ngay Ðại Ðiện cho Hộ Pháp đi thẳng một đường từ Hiệp Thiên Ðài vào Ðại Ðiện hiểu à.

Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,

Phụng lầu gác quyển đợi hoà thinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thanh cao là biết ngon dưa muối,

Hơn ngự lầu Yên ngó đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ba hiệp trời vừa qua tối sáng,

Bốn phương mây lại biến thành lầu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LẦU CÁC

Lầu: Nhà hay dinh thự có từng. Các: Gác.

Lầu các, như chữ “Các lâu 閣 樓”, là lầu và gác, dùng để chỉ nhà quyền quý, sang trọng.

Như: Dinh thự lầu các.

Cửa ngục thất cũng bì lầu các,

Hổ nhục hay gội mát anh hùng.

(Xuân Hương Giáng Bút).

 

 

LẦU ĐÀI

Lầu: Nhà lầu, nhà có nhiều tầng. Đài: Nhà làm cao có thể đứng trông xa được.

Lầu đài, như chữ “Lâu đài 樓 臺”, là lầu đài, chỉ nhà có quy mô to lớn, cao rộng, đẹp và sang trọng, hơn hẳn nhà ở thường.

Lầu đài ý chỉ nhà quyền quý cao sang.

Người ta đạp đổ lầu đài tinh thần trong sự tranh giành quyền lợi, mưu hại lẫn nhau, chúng ta củng cố đạo tâm, vun trồng cội phúc.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LẦU HỒNG

Lầu: Nhà hay dinh thự có từng. Hồng: Màu đỏ.

Lầu hồng, như chữ “Hồng lâu 紅 樓”, chỉ nhà của hạng phụ nữ giàu sang, quyền quý.

Ngày xưa, những nhà quyền quý thường lấy màu hồng, màu son sơn nhà cửa để dành riêng cho con gái ở, nên “Lầu hồng” chỉ nơi ở con gái quý phái.

Thơ Lý Bạch có câu: Mỹ nhân nhất tiếu khiên châu bạc, dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia 美 人 一 笑 牽 珠 箔, 遙 指 紅 樓 是 妾 家, nghĩa là người đẹp mỉm cười, kéo bức rèm châu, chỉ lầu hồng nơi xa xôi và nói đó là của thiếp.

Xem: Hồng lâu.

Đến phồn hoa thân gần tục lự,

Chơi lầu hồng hỏi thử trái căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đừng học khách lầu hồng đánh bóng,

Nói với chồng dùng giọng cầu cao.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẦU PHỤNG

Lầu: Nhà hay dinh thự có từng. Phụng: Chim phượng.

Lầu phụng, dởi chữ “Phụng lâu 鳳 樓” hay “Phụng đài”, là một cái lầu đài của nàng Công chúa Lộng Ngọc, con gái của vua Tần Mục Công ở học thổi tiêu cùng chồng là Tiêu Sử.

Sau hai vợ chồng đang thổi tiêu trên Lầu phụng, bỗng thấy có rồng và chim phượng bay đến chở Tiêu Sử và Lộng Ngọc lên cõi tiên.

Xem: Phụng lầu.

Lầu phụng mơ màng nghe quyển địch,

Cung Tần văng vẳng lóng tơ đồng.

(Bát Nương Giáng Bút).

Cuộc mơ màng nọ lầu phụng, các lân,

Nơi phú quý như mây gần rã nước.

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

LẦU SON

Lầu: Nhà lầu, nhà có tầng cao. Son: Màu đỏ.

Lầu son là lầu sơn màu đỏ, như chữ “Chu môn 朱 門” là cửa đỏ hoặc cửa son, dùng để chỉ những nhà hào phú.

Do vậy, lầu son cũng dùng để chỉ những nhà quyền quý, sang trọng.

Hai lẽ văn tài đồng đức tánh,

Chẳng ngồi bệ ngọc cũng lầu son.

(Đạo Sử).

Thừa ân huệ chín từng uy đức,

Gác lầu son sực nức hương lan.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

LẦU TẦN QUÁN SỞ

Lầu Tần quán Sở, bởi thành ngữ “Tần lâu Sở quán 秦 樓 楚 館”, chỉ chung lầu gác cung điện nguy nga, hay những nơi ăn chơi ca vũ.

Bài thơ “Bạch Hạ” đời Tống có câu: Lai vãng không lao Bạch Hạ thuyền, Tần lâu Sở quán tổng mang nhiên. Duy dư nhất quyển tân thi thảo, thính vũ giang hồ thập nhị niên 來 往 空 勞 白 下 船, 秦 樓 楚 館 總 忙 然. 惟 餘 一 卷 新 詩 草, 聽 雨 江 湖 十 二 年, nghĩa là đi lại luống nhọc con thuyền ở xứ Bạch Hạ, những cảnh lầu Tần quán Sở phong lưu diêm giả thảy quên mang mác cả. Chỉ còn lại một tập thơ mới làm và một kỷ niệm bên tai là mười hai năm nghe mưa ở nơi giang hồ. Ý nói sự phong lưu đều quên hết, chỉ còn lưu tâm đến tập thơ mới làm và tinh thần là khi yên tịnh nghe mưa ban đêm đã mười hai năm qua.

Chừa mấy chốn lầu Tần quán Sở,

Thói trăng huê dầu lỡ đắm sa.

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

LẦU XANH

Lầu: Nhà lầu, nhà có tầng cao. Xanh: Màu xanh.

Lầu xanh, như chữ “Thanh lâu 青 樓”, là nhà cửa sơn màu xanh.

Ngày xưa, những nhà quyền quý sang trọng, nhà cửa thường sơn màu xanh, như Tào Thực đời nguỵ có viết: Thanh lâu lâm đại lộ, cao môn kết trùng quan 青 樓 臨 大 路, 高 門 結 重 關, nghĩa là lầu xanh cách đường cái, cửa cao hai lần then.

Sau nầy lầu xanh không còn là nơi cao sang quyền quý nữa mà là nơi dành cho kỵ nữ ở. Như Đỗ Mục đời Đường có câu: Thập niên nhất giác Dương châu mộng, Doanh đắc thanh lâu bạc hạnh danh 十 年 一 覺 楊 州 夢, 盈 得 青 樓 薄 倖 名, nghĩa là mười năm một giấc chiêm bao ở Dương Châu, mang tiếng người bạc bẽo ở lầu xanh.

Xem: Thanh lâu.

1.- Chỉ nhà quyền quý sang trọng:

Lầu xanh giặm, màu tu trở vẻ,

Cửa không môn mở hé chơn hồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Chỉ nơi kỹ nữ ở:

Không đành nói thác ra ma,

Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đừng học chiều rước yến mời anh,

Kìa nhục chốn lầu xanh xem những kẻ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LẬU HẠNG

陋 巷

Lậu: Chật hẹp. Hạng: Con đường nhỏ.

Lậu hạng là con đường nhỏ hẹp, ý chỉ chỗ ở của người nghèo khổ.

Nhan Hồi là một người học trò nghèo mà học giỏi của Đức Khổng Tử. Nhưng ông chỉ thích sống cuộc đời giản dị, ăn thì một giỏ cơm, uống thì một bầu nước, ở thì nơi ngõ hẹp, thế mà Nhan Hồi vẫn vui.

Đức Khổng Tử đã khen: Hiền tai! Hồi dã, nhất đan tự, nhất biều ẩm, tại lậu hạng, nhân bất kham kỳ ưu, Hồi dã bất cải kỳ lạc. Hiền tai! Hồi dã 賢 哉! 回 也. 一 簞 食, 一 瓢 飲, 在 陋 巷, 人 不 堪 其 憂, 回 也 不 改 其 樂. 賢 哉! 回 也, nghĩa là hiền thay Nhan Hồi! Một giỏ cơm, một bầu nước, ở nơi ngõ hẹp, người ta không chịu nổi cảnh nghèo hèn mà lo buồn, còn Nhan Hồi không thay đổi điều vui của mình. Hiền thay, Nhan Hồi!

Trong Giải Mê Khải Ngộ có câu: Sao bằng bực Nhan Uyên đai cơm bầu nước, ở thong thả nơi chốn chòi tranh, Miền lậu hạng, nẻo lợi danh, sánh như sóng đập gành khua lã chã.

Xem: Đai cơm bầu nước.

Tâm hồn thích hợp trung hoà,

Mấy năm lậu hạng mới là trượng phu.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LE LƯỠI

Le: Như chữ “”, là đưa lưỡi ra ngoài miệng. Lưỡi: Bộ phận ở miệng, dùng nếm thức ăn.

Le lưỡi là lưỡi thò ra ngoài miệng.

Như: Le lưỡi liếm mật ong, lắc đầu le lưỡi, lưỡi le dài gần một tấc.

Mặt yêu vằn vện dường Tiêu Diện Sĩ, le lưỡi trấn Tây phương,

Mày chằn nhăn nhíu tợ Quỷ Dạ Xoa, đẩy xe vào Âm phủ.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LÈ TÈ

Lè tè là tiếng dùng để chỉ vật thấp đến mức gần như sát mặt đất.

Như: Giống mít nầy ngon, ngọt nhưng thân nó thấp lè tè, trái sát đất.

Đường ngắn ngủn mà đường bít chịt,

Sậy lè tè khít rịt rậm ri.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LẺ

1.- Lẻ là thừa ra, tức có số dư, ngoài số tròn từ hàng chục trở lên.

Như: Một chục lẻ ba, ba trăm lẻ năm đồng, hai chục cam lẻ một trái.

Trăm năm lẻ như thoi nhặt thúc,

Ngảnh lại đời mà nhục thầm đời.

(Phương Tu Đại Đạo).

Thế giái ba ngàn qua có lớp,

Ðịa hoàn bảy lẻ đến từ tuần.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Lẻ là chia nhỏ ra, riêng ra một mình, tách rời ra một mình. Như: Đi lẻ từng người, chim lẻ bạn, lẻ đôi.

Thánh giáo Thầy có câu: Con khá hiểu lời Thầy và nên biết rằng, nếu con chẳng dụng quyền lực của Thầy ban cho con mà đương cự, dìu dắt các em thì một ngày kia, nó dẫn đi lần hồi hết, rồi còn một mình như chim lẻ bạn, như phụng lạc bầy, gặp cơn giông tố kia, cũng chẳng sức gì đởm đương cho khỏi sa nơi hắc ám.

Gối lẻ phòng thu quyên khóc bạn,

Hương phai lửa hạ lệ tròn dòng.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

LẺ LOI

Lẻ: Riêng ra một mình, tách rời ra một mình.

Lẻ loi là chỉ riêng có một mình, tách khỏi quan hệ với mọi người. Như: Đứng lẻ loi một mình giữa chợ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Vì đó, chúng ta không sợ Ðạo nghèo về tiền bạc mà chỉ sợ Ðạo nghèo về tình thương yêu, cái tình thương yêu quý báu mầu nhiệm rất cần thiết cho tâm hồn của người tu sĩ cũng như cơm gạo cần thiết cho mảnh xác thân và nếu thiếu hẵn đi thì dầu chúng ta có được con số đông đúc bao nhiêu, chúng ta cũng như bị lẻ loi côi quạnh và cơ phổ độ không còn biết dựa vào đâu mà thực hiện được.

Xem qua như chốn hý tràng,

Lẻ loi mặt nịnh lỡ làng phận trung.

(Ngụ Đời).

Cớ sao cảnh tịnh úa xào,

Hay là thấy thiếp mà sầu lẻ loi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẺ TẺ

Lẻ: Riêng ra một mình, tách rời ra một mình.

Lẻ tẻ là có rất ít và rời rạc, không tập trung lại, không đều khắp.

Như: Ý kiến lẻ tẻ, lúa chín còn lẻ tẻ chưa rộ.

Mối Đạo phân chia nơi đất Bắc,

Thương đời lẻ tẻ tại miền Tây.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LẼ

1.- Lẽ là lý, đạo phải, đường phải. Như: Lẽ ở đời, nói hợp lẽ, tìm lẽ mà cãi, không lẽ làm việc đó.

Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Nếu Thầy dùng quyền pháp Chí Tôn thì mất lẽ công bình thiêng liêng Tạo hoá. Con cứ lo lập luật, để công phổ độ cho chư đạo hữu con hưởng chút ít.

Lẽ Chánh tự nhiên có lẽ Tà,

Chánh Tà hai lẽ đoán sao ra.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hễ ghét người thì Trời ghét lại,

Ghét người Trời ghét lẽ nào hơn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lẽ là nói người vợ thứ, đối với người vợ cả.

Như: Ông ấy có hai vợ, vợ lẽ còn rất trẻ, kiếp lẽ mọn của cô ta thật là thảm hại.

Thân phụ Ngài là Thúc Lương Ngột, làm quan võ, lấy người vợ trước sanh được chín người con gái, người vợ lẽ sanh được một trai là Mạnh Bì.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LẸ

Lẹ là nhanh, chóng, mau, có tốc độ hơn mức bình thường. Như: Làm lẹ, lẹ chân lên kẻo trễ giờ.

Giải về Long Mã, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong quyển Giáo Lý có viết: Long Mã tượng trưng Âm Dương tương hiệp, tức thời gian trôi qua mau lẹ và mang theo những tinh tuý của Trời Đất để chan rưới sự sống cho muôn loài vạn vật.

Khóc của mụ pha cười của trẻ,

Chậm của già đổi lẹ của tơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LẸ LÀNG

Lẹ: Nhanh, chóng. có tốc độ hơn mức bình thường.

Lẹ làng là nhanh nhẹn, nhanh trong mọi cử chỉ, động tác, tính cách.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Một đàng thì mỗi khi để chơn đi thì sợ đạp nhầm đến con kiến. Còn một đàng thì nếu thân mình không nhanh chóng lẹ làng thì một mũi đạn đủ đưa họ làm người thiên cổ.

Nó mau hư nát lẹ làng,

Chẳng chi bền bỉ vững vàng đặng lâu!

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LEM LUỐC

Lem: Bị vấy bẩn, hoặc có vết dơ ở mặt ngoài.

Lem luốc là người hoặc quần áo, sách vở bị vấy bẩn nhiều chỗ.

Như: Quần áo bị lem luốc dầu mỡ, tập vở không sạch sẽ lem luốc đầy mực.

Muốn chị anh chẳng gọi chú hề,

Đừng lem luốc làm ghê cả xóm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÉN

Lén là làm hoặc nói việc gì sao cho những người khác không thấy, không hay biết.

Như: Lén đi một mình, thằng bé nói lén anh ấy, nó đánh lén sau lưng.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Rất đỗi Thầy là bực Chí Tôn đây mà còn bị chúng nó mưu lén cho qua Thánh ý Thầy thay! Một đàng trì, một đàng kéo, thảm thay các con chịu ở giữa.

Nào khi lén vẻ mày thục nữ,

Nào khi lo gìn giữ hương thề.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Kìa chùa cũ nóc hư muốn sập,

Nơi đôi ta lén gặp gỡ nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Lại ép lòng chú hoạ thơ xưa,

Chú ngơ ngáo thừa ưa lén trốn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LEO

Leo là bám vào một vật gì đó để bò lên. Như: Leo thang, leo tường, khỉ leo cây, leo cao té nặng.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.

Đờn Tư Mã lên dây cao thấp,

Trác Văn Quân đường lấp cũng leo tường.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LEO NHEO

Leo nheo ý nói trẻ con hay quấy, bám theo người lớn không dứt ra được.

Leo nheo, như chữ “Lèo nhèo”, là nói một cách dai dẳng để van nài, khóc lóc đến mức khó chịu.

Như: Đám trẻ con leo nheo bên bà mẹ, mấy đứa nhỏ cứ leo nheo đòi mẹ cho đi chơi.

Khiến Nữ phái leo nheo than tức,

Khắp xa gần bứt rứt hỏi thăm.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

LEO TRÈO

Leo: Bám vào vật gì để bò lên. Trèo: Tay bám cây, thang và chân đẩy hoặc bước lên để di chuyển thân thể.

Leo trèo là di chuyển thân thể lên cao bằng cách bám vào vật khác và bằng cử động của chân tay.

Đời thái quá chuyển xây rồi bất cập,

Ham leo trèo nạn té sấp nó kề bên.

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

LÉO TỚI

Léo: Lại gần một nơi nào. Tới: Từ dùng để chỉ điểm đến là một khoảng không gian nào đó.

Léo tới, như chữ “Léo hánh”, là bén mảng, tới lui một nơi nào đó, hoặc lảng vảng ở gần một nơi nào đó.

Như: Dạy con trẻ đừng léo tới những nơi ăn chơi.

Trường đổ bác cũng đừng léo tới,

Phường trăng hoa hát bội khá từ.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

LÈO

1.- Lèo là dây buộc ở lá buồm để lựa theo chiều gió cho thuyền đi.

Như: Gió tạt mạnh vào thuyền làm đứt dây lèo, giữ dây lèo cho thuyền đi theo hướng gió.

Giục sầu đêm quạnh nghe ngư phủ,

Gợi thảm sương mơi giục trở lèo.

(Bát Nương Giáng Bút).

Phải noi gương cha giữ lái giữ lèo,

Phương tiện tặn làm theo đâu thốn thiếu.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lèo còn dùng để chỉ đoạn dây ngắn buộc ngang ở đầu diều để cho cân cánh diều mà thả bay.

Như: Diều đứt dây lèo.

Cánh sườn cột nẹp cân cho đúng,

Lèo lái so dây gióng đặng đều.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LÈO LÁI

Lèo: Dây buộc ở buồm để thả ra, hoặc rút lại tuỳ theo chiều gió. Lái: Bộ phận ở tàu thuyền để điều khiển.

Lèo lái là dây lèo và tay lái.

Lèo lái là hai bộ phận chính của thuyền, dùng để điều khiển con thuyền.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Xin thưa rằng: Trị nước an dân thì có nhà cầm quyền Quốc gia, lèo lái con thuyền Ðạo thì có nhà lãnh đạo tinh thần của Tôn Giáo. Tôn giáo không có thể xoay chuyển vận nước được, cũng như Chánh quyền không thể điều khiển Tôn giáo.

Ba đào sóng bủa bởi thuyền to,

Lèo lái kiên gan vững phận trò.

(Thơ Thân Dân).

Lèo lái tay gìn tuôn Nhược thuỷ,

Kệ kinh miệng niệm thấu Trùng thiên.

(Thơ Tiếp Pháp).

 

 

LÈO NHÈO

Lèo nhèo là từ dùng để chỉ người có tính hay nói nhây, nói dai dẳng, hoặc người đứng van nài cầu cạnh đến mức khó chịu.

Như: Anh ta say có tật đứng lèo nhèo bên tai, Bé lèo nhèo đòi mẹ đi chơi.

Người lối xóm lèo nhèo bộc tính,

Kẻ thân quen bịn rịn lo toan.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LẺO LỰ

Lẻo: Nhanh miệng, tỏ ra không thật, không sâu sắc.

Lẻo lự là gian dối tráo trở, nói tới nói lui không thể nào lường được.

Như: Thằng đó lẻo lự lắm, hơi sức nào tin nó.

Miệng lẻo lự không chừa giả dối,

Lòng tham sang hại lỗi đến chồng.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LẼO ĐẼO

Lẽo đẽo là từ gợi tả dáng đi chậm chạp, nhưng cứ từng bước theo sau không rời.

Lẽo đẽo còn dùng để chỉ cặm cụi, mải miết, miệt mài với công việc.

Thí dụ: Đứa bé lẽo đẽo theo mẹ đi chơi, Anh ta mấy năm nay cứ lẽo đẽo theo nghề đó mãi.

Vén xiêm nghê, cài mão én, xênh xang một quạt một con đồng,

Nâng bóng ác, vận chăn lừa, lẽo đẽo đôi hầu đôi đứa trẻ.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

LÉP

Lép là không chắc, không có gì trong ruột, tức hạt, quả ở trạng thái phát triển không đầy đủ.

Như: Hạt đậu lép, bắp lép hạt, mùa nầy mưa nhiều nên lúa lép nhiều.

Lúa mình nhiều lúa lép phải dêu,

Đừng để vậy trộn đều đong bán.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

1.- Lê là di chuyển bằng cách kéo bàn chân gần như sát mặt đất.

Như: Lê đôi guốc xuống mặt đường, lê chiếc tủ vào một góc, nó đi lê từng bước một.

Cỏ huyên cắm kền kền đầu tuyết,

Con gậy mòn khuyết nửa cây.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Lê là một thứ cây ăn quả, cùng loại với táo tây, hoa trắng, quả có nhiều nước vị ngọt.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có viết: Cỏ non xanh tận chân trời, Cành trắng điểm một vài bông hoa.

Ai cho sen muống một bồn,

Ai từng chanh khế sánh phồn lựu .

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Lê là đen, không dùng một mình. Như: Lê dân (dân đen), lê minh, lê thứ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thần Hoàng Bổn Cảnh có câu: Từ thuở ta vâng chiếu chỉ đến trấn nhậm nơi đây, ta một tấm lòng lo cho thứ đặng an cư lạc nghiệp, thạnh vượng mùa màng, mỗi mỗi đều hằng lo lắng cho chúng sanh nơi phần trách nhậm.

Vương hầu thứ, ai là chí,

Chí quyết làm cho thế khác thường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÊ DÂN

黎 民

Lê: Đông đúc, còn có nghĩa là đen. Dân: Dân chúng.

Lê dân là dân chúng đông đúc. Lại còn có nghĩa là dân đầu đen, chỉ chung người dân trong nước.

Như: Vua minh chánh thì phải lo cho lê dân.

Dệt thảm lê dân Trời cám cảnh,

Khêu sầu xã tắc Đất kinh hồn.

(Thất Nương Giáng Bút).

Non nước thay màu xem hớn hở,

Lê dân thoát ách hết long đong.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LÊ HOẮC

蔾 藿

Lê hoắc, như chữ “Hoắc Lê 藿 蔾”, là tên hai thứ rau ăn tầm thường, đạm bạc.

Lê hoắc là chỉ thức ăn tầm thường dùng cho người ăn chay kham khổ, đạm bạc, chỉ kẻ tu hành.

Chi bằng lê hoắc say sưa đạo,

Cư chốn trần ai chẳng chịu trần.

(Thơ Thượng Phẩm).

Lê hoắc bén mùi đời nhẹ gánh,

Đỉnh chung quen giọng khổ đồng cân.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

LÊ LỄ RƯỚC GIA ĐÌNH

Lê Lễ là một vị tướng của nhà chí sĩ đất Lam Sơn Lê Lợi, khởi nghĩa chống quân Minh đô hộ. Gia đình của Lê Lễ ở đất Lam Sơn, khi nghĩa quân của Lễ Lợi vì yếu thế phải rút quân về vùng núi hiểm trở Chí Linh. Lê Lễ sợ bọn giặc Minh vào Lam Sơn khủng bố người thân, nên về nhà rước mẹ và vợ con lên vùng Chí Linh trú ẩn.

Mẹ, chị dâu và vợ của Lê Lễ sợ làm bận rộn Lê Lễ và nghĩa binh, lại nữa cho rằng từ đây đến Chí Linh đường quá xa xôi nên đi khó lọt qua các trạm của giặc Minh, không muốn đi. Lê Lễ hối thúc vợ thu xếp hành trang, trong khi giặc Minh sắp tràn đến. Thấy vậy, bà mẹ và chị dâu của Lê Lễ dùng dao tự sát, để Lê Lễ yên tâm đánh giặc. Sau khi lo chôn cất mẹ và chi dâu xong Lê Lễ hối vợ lên ngựa về Chí Linh. Trên đường đi, vợ Lê Lễ sợ bận bịu cho chồng, khó thoát thân được, nên cũng tự sát chết. Lê Lễ quá đau lòng, biết rằng các người thân trong gia đình vì không muốn làm gánh nặng cho chàng, chàng khỏi bận tâm đến mẹ và vợ con, mà yên lòng lo cứu nước.

Bên ngoài hành lang Báo Ân Từ về phía nữ phái có vẽ bức tranh lấy tích “Lê Lễ rước Gia đình” để ca tụng những gương nữ anh thư tiết liệt.

Cờ Lam Sơn bảo tồn đất nước,

Lê Lễ nguy lúc rước gia đình.

Mẹ chị thác giữa quân Minh,

Bên yên vợ cũng quyên sinh cứu chồng.

(Báo Ân Từ).

 

 

LÊ THỨ

黎 庶

Lê: Đông đúc, màu đen. Thứ: Nhiều.

Lê thứ, cũng như chữ lê dân, lê nguyên, có nghĩa dân đen đông đảo, dùng để chỉ chung dân chúng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thần Hoàng Bổn Cảnh có dạy: Từ thuở ta vâng chiếu chỉ đến trấn nhậm nơi đây, ta một tấm lòng lo cho lê thứ đặng an cư lạc nghiệp, thạnh vượng mùa màng, mỗi mỗi đều hằng lo lắng cho chúng sanh nơi phần trách nhậm.

Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đoạ lạc.

(Kinh Tận Độ).

Lòng Trời cảm cứu an lê thứ,

Độ chúng sanh muôn xứ gội ơn.

(Xưng Tụng Công Đức).

 

 

LÊ VĂN LỊCH

黎 文 曆

Ngài Lê Văn Lịch được Đức Chí Tôn phong làm Đầu Sư phái Ngọc, Thánh danh Ngọc Lịch Nguyệt trong Đàn cơ vào năm Bính Dần, 1926.

Ngài Ngọc Lịch Nguyệt, hiệu là Thạch Ẩn Tử, sanh ngày mùng 1 tháng 9 năm Canh Dần (Dl. 14-10-1890) tại làng Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn.

Thân sinh Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng, tu đến bực Thái Lão Sư của Đạo Minh Sư, hiệu Lê Đạo Long, là người đã lập ngôi Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc, và thân mẫu của Ngài là Cụ Bà Trần Thị Đắc.

Hiền nội Ngài Lê Văn Lịch là Bà Trần Thị Khá, con gái của Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ. Ngài Lê Văn Lịch có một người con gái là Cô Lê Ngọc Trang, Đạo hiệu Bạch Tuyết.

Đầu năm Bính Dần 1926, quý Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc được lịnh Đức Chí Tôn dạy phải xuống Vĩnh Nguyên Tự lập đàn cầu cơ, Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn giáng cơ dạy Ngài Lịch, lúc bấy giờ đã tu tới bực Dẫn Ân (Minh Đường), phải hiệp với quý Ngài Cư, Tắc để mở Đạo Cao Đài.

Đêm 12 tháng 3 năm Bính Dần (Dl. 23/4/1926), Ngài Lê Văn Lịch được Đức Chí Tôn giáng cơ ân phong Ngọc Đầu Sư, Thánh danh Ngọc Lịch Nguyệt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, trong cuộc Lễ Thiên phong đầu tiên tổ chức tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn.

Thời gian đầu khi mới khai Đạo, Ngài Ngọc Lịch Nguyệt được lịnh Đức Chí Tôn tìm chọn ba bài kinh Tam giáo để làm kinh tụng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Ngài cùng với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt phụng soạn quyển “Tứ Thời Nhựt Tụng”, trong đó các bài kinh được in bằng chữ Nho, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và được ban hành vào năm Mậu Thìn, 1928.

Vào năm 1934, hai ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tách khỏi Toà Thánh Tây Ninh thì Ngài Ngọc Lịch Nguyệt cũng rời Toà Thánh, để trở về Vĩnh Nguyên Tự tu hành.

Năm 1943, Ngài bị nhà cầm quyền Pháp bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1945, Ngài mới được trả tự do trở về.

Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt bị sát hại trong cuộc chiến chống Pháp xâm lược của phong trào Việt Minh, Ngài quy liễu tại Chợ Lớn ngày 2 tháng 9 năm Đinh Hợi (Dl. 15/10/1947) thọ 58 tuổi.

Mộ của Ngài Lê Văn Lịch hiện đặt tại phần đất phía sau chùa Vĩnh Nguyên Tự, gần mộ của thân phụ Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng.

Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt, và Lê Văn Lịch tự Thiên ân là Ngọc Lịch Nguyệt...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LÊ VĂN TRUNG

黎 文 忠

Ngài Lê Văn Trung được Đức Chí Tôn phong làm Đầu Sư phái Thượng, Thánh danh là Trung Nhựt.

Ngài Lê Văn Trung sinh ngày 10 tháng 10 năm Bính Tý (Dl. 25/11/1876) tại làng Phước Lâm tổng Phước Điền Trung, huyện Phước Lộc, hạt Tân An, nay thuộc xã Phước Lâm, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Cha là cụ Lê Văn Thạnh mất sớm khi ông mới ba tuổi.

Ngài lớn lên nhờ sự nuôi dưỡng và giáo dục của mẹ là bà Văn Thị Xuân, từng theo học tại Lycée Chasseloup Laubat Sài Gòn và tốt nghiệp vào năm 1894, lúc đó Ngài được 18 tuổi.

Sau khi tốt nghiệp Trung học, Ngài được nhận vào làm thơ ký tại Dinh Thống Đốc Nam Kỳ ngày 14 tháng 7 năm 1894. Ngài làm việc tại đây trong 12 năm cho đến ngày 6 tháng 3 năm 1906 thì xin thôi việc để theo đuổi nghiệp chính trường.

Sau đó Ngài ra ứng cử và được bầu vào Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ liên tục trong 8 năm (hai khoá). Trong thời gian làm Nghị viên Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, Ngài nhiều lần có những biểu hiện thỉnh cầu bênh vực cho quyền lợi của dân thuộc địa bản xứ. Điển hình là vụ Lục Hạng điền, chính phủ Pháp phân 6 hạng ruộng để đánh thuế. Ông Outrey, quyền Thống Đốc Nam Kỳ dự thảo luật thuế về Lục Hạng điền, trình ra cho Hội đồng Quản Hạt thừa nhận để đem ra áp dụng thi hành.

Ngài cùng với ông Diệp Văn Cương, Hội đồng Quản Hạt Bến Tre đứng ra làm đầu 6 vị Hội đồng Quản Hạt người Việt, đồng phản kháng dự thảo luật nói trên, nhưng khi biểu quyết, số thăm của Hội đồng người Việt có 6, còn của người Pháp thì 10, nên bị thua thăm, và như thế thì dự luật được thông qua với đa số 10/6.

Dù thua thăm, nhưng 6 ông cương quyết chống lại Luật Thuế Lục Hạng điền, nên tất cả 6 ông Hội đồng người Việt đều gởi đơn từ chức để phản đối.

Năm 1911, Ngài Lê Văn Trung cùng với bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương đứng ra vận động lập College des Jeunes Filles, trường nữ Trung học đầu tiên tại Sài Gòn.

Ngày 18 tháng 5 năm 1912, Ngài Lê Văn Trung được chính phủ Pháp ban thưởng cho Bắc Đẩu Bội Tinh Đệ ngũ đẳng vì những đóng góp cho nhà nước Pháp tại thuộc địa Nam Kỳ.

Năm 1914, Ngài Lê Văn Trung được Pháp cử lên làm Nghị Viên Hội Đồng Soái Phủ Đông Dương (Conseil du Gouvernement de l'Indochine), thường gọi là Hội Đồng Thượng Nghị Viện Đông Dương.

Kể từ năm 1920 trở đi, công việc kinh doanh của Ngài Trung gặp nhiều khó khăn, đến cuối năm 1924 thì bế tắc, hoàn toàn bị lỗ lã. Ngài đau buồn, bắt đầu hút thuốc phiện, thị lực yếu đi rất nhiều, chỉ thấy mọi vật lờ mờ. Được sự giới thiệu của một người họ hàng là ông Nguyễn Hữu Đắc, tu theo Minh Lý, hướng dẫn Ngài Trung đến hầu đàn tại Bến Phú Lâm, Quận 6 Chợ Lớn. Tại đây, Đức Lý Thái Bạch giáng khuyên Ngài lo tu hành. Ngài bắt đầu ăn chay, bỏ hút thuốc phiện, và lần lần đôi mắt của Ngài hết loà, sáng trở lại.

Theo Đạo Sử, ngày 23 tháng 11 năm Ất Sửu (Dl. 7/1/1926), các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đem Đại Ngọc cơ đến nhà ông Trung để Đức Chí Tôn giáng đàn dạy việc. Trong đàn này, Ngài được Đức Thượng Đế dạy phải hiệp cùng hai ông Phạm Công Tắc và Cao Quỳnh Cư lo việc mở đạo.

Từ đó, Ngài Lê Văn Trung là một trong số các môn đồ tích cực đi truyền đạo khắp các tỉnh Nam Kỳ. Chính vì vậy, đêm 12 tháng 3 năm Bính Dần (Dl. 23/4/1926), Ngài được Đức Chí Tôn phong làm Thượng Đầu Sư, với Thánh danh là Thượng Trung Nhựt, cùng lượt với Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.

Ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (Dl. 29/9/1926), Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt vâng theo Thánh ý của Đức Chí Tôn, hiệp cùng chư chức sắc Thiên phong và chư đạo hữu, tổng cộng gồm 247 vị, họp tại nhà ông Nguyễn Văn Tường, ở đường Galiéni (nay là Trần Hưng Đạo), Sài Gòn, để soạn thảo Tờ Khai Đạo, gửi lên chánh phủ Pháp.

Ngày 1 tháng 9 năm Bính Dần (Dl. 7/10/1926) Ngài đích thân đem Tờ Khai Đạo đến gửi cho quan Thống Đốc Nam Kỳ là Le Fol, được ông vui vẻ tiếp nhận.

Ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần (Dl. 19/11/1926), Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt hiệp cùng Đức Hộ Pháp và các chức sắc Thiên phong, vâng lịnh Đức Chí Tôn mượn chùa Từ Lâm Tự (chùa Gò Kén) ở Tây Ninh làm Thánh Thất tạm để tổ chức Đại lễ Khai Đạo Cao Đài.

Ngài 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (Dl. 22/11/1930), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho Ngài Quyền Giáo Tông hữu hình, trong Đạo Nghị Định thứ nhì.

Ngày 13 tháng 10 năm Giáp Tuất (Dl. 19/11/1934), Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung lâm bịnh và nhẹ nhàng Đăng Tiên tại Giáo Tông Đường, lúc 3 giờ chiều, hưởng 59 tuổi.

Quyền Giáo Tông cực kỳ đúng phận,

Lê Văn Trung là Đấng nhân tài.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LỀ

Lề là lệ, thói quen đã thành nếp, thành lệ. Như: Lề thói, lề lối, đất có lề quê có thói.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðức Lý Ðại Tiên đã không vui lòng về sự thi hành nhiệm vụ của Chức sắc Hội Thánh, không lẽ chúng ta điềm nhiên giữ y lề lối cũ mà không cải sửa.

Tập cho hiểu trọng lề cưới gả,

Tập cho ghê nết chạ lòng vơ.

(Phương Tu Đại Đạo).

Tuy cho rằng tục cũ lề quen,

Mình có thể sửa hèn ra trọng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỀ LỐI

Lề: Thói quen đã thành nếp, thành lệ. Lối: Hình thức diễn ra của hoạt động đã trở thành ổn định, mang đặc điểm riêng.

Lề lối là cách thức đã trở thành thói quen. Như: Đã quen theo lề lối làm việc xưa nay.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Lý Ðại Tiên đã không vui lòng về sự thi hành nhiệm vụ của Chức sắc Hội Thánh, không lẽ chúng ta điềm nhiên giữ y lề lối cũ mà không cải sửa.

Lối cũ vẫn còn lề lối cũ,

Canh tân nào thấy bóng canh tân.

(Thơ Hiến Đạo).

 

 

LỄ

1.- Lễ là chắp tay mà vái lạy để tỏ lòng cung kính. Như: Cung kính lễ gia tiên, bái lễ Đức Chí Tôn, lễ Phật.

Thánh giáo Thầy có dạy: Con làm lễ trúng, song mỗi gật con nhớ niệm Câu Chú của Thầy: Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương,

Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.

(Bài Dâng Trà).

2.- Lễ là đem tiền bạc, đồ vật hoặc tinh thần mà dâng hiến cho ai. Như: Đem tiền lễ quan, dâng lễ phẩm.

Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy vui muốn cho các con thuận hoà cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh đạo Thầy.

Khi vận thới lung lăng chẳng kể,

Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.

(Kinh Sám Hối).

Ép tá điền lễ vịt lễ gà,

Đến khi chết làm ma tu hít.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Lễ là những nghi thức tôn giáo phải theo để tỏ lòng cung kính với Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu hay các Đấng Thiêng liêng.

Như: Lễ tế Thần Thánh, lễ Chùa, lễ Nhà thờ, Đại lễ Đức Chí Tôn.

Khi tế tự chớ lờn chớ dể,

Việc quan, hôn thủ lễ nghiêm trang.

(Kinh Sám Hối).

Phật Trời chứng chiếu lòng con thảo,

Lễ cúng Thầy đều đặng hưởng xôi...

(Đạo Sử).

4.- Lễ là những phép tắc phải theo cho đúng khi cư xử với người khác.

Như: Cư xử cho phải lễ, lễ giáo, lễ phép, lễ nghĩa.

Con người có trí khôn ngoan,

Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi.

(Kinh Sám Hối).

Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,

Rán theo cha học lễ học văn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỄ BÁI

禮 拜

Lễ: Chắp tay mà bái lạy. Bái: Cúng lạy.

Lễ bái, nói chung là sự cúng lạy ông bà tổ tiên hoặc Trời Phật.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trái lại nếu Lễ không nghiêm, Nhạc không hoà thì đàn cúng có cái trạng thái hỗn loạn khiến cho người đến Lễ bái có một tâm trạng xao xuyến, tinh thần bất định.

Xem: Lễ bái thường hành.

Biết đặng ơn Trời thân lễ bái,

Rõ thông đức Phật miệng Nam mô.

(Thơ Thông Quang).

Lễ bái lo yên phần hiếu tử,

Tu hành nguyện tiếp bước thân sinh.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

LỄ BÁI THƯỜNG HÀNH

禮 拜 常 行

Lễ bái: Cúng lạy. Thường hành: Thường xuyên làm, luôn luôn làm.

Lễ bái thườnng hành là thường xuyên cúng bái, hoặc siêng năng cúng lạy.

Trong tôn giáo, người tu hành, ngoài việc rèn tâm sửa tánh ra, hằng ngày còn phải lo lễ bái (tức là cúng kính) Trời Phật, vì thường xuyên lễ bái thì đạo tâm mới phát triển, nên có câu: “Lễ bái thường hành tâm đạo khởi 禮 拜 常 行 心 道 起”.

Đức Quan Thế Âm có dạy như sau: Các em phải lo cúng kiếng thường.

1. Một là tập cho Chơn thần được gần gũi các Ðấng thiêng liêng cho đặng sáng lạn.

2. Hai là cầu khẩn với Ðức Ðại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.

3. Ba là có tế lễ thì tâm phải có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng là lẽ tự nhiên.

4. Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng mà nhứt là khiếu lương tri lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ.

Các em nhớ à!

Lễ bái thường hành tâm đạo khởi,

Nhân từ tái thế tử vô ưu.

(Bài Thài Thất Nương).

 

 

LỄ CHÂM CHƯỚC

Lễ: Nghi thức. Châm chước 斟 酌: Nghĩa đen là rót rượu mời qua lại với nhau. Nghĩa thường dùng thêm bớt hai bên cho vừa phải với nhau.

Lễ châm chước (hay nghi châm chước) là một nghi thức tế lễ có đơn giản đi một số tiết mục để cho giảm bớt thời gian.

Trong nghi phụ tế thường dùng lễ châm chước.

Hành lễ châm chước, tụng kinh cầu siêu, khiển điện, di linh cữu ra thuyền Bát nhã...

(Quan Hôn Tang Lễ).

 

 

LỄ ĐẠO TRIỀU

Lễ Đạo triều là lễ kỷ niệm ngày khai Đạo.

Đạo Cao Đài được Đức Chí Tôn dùng huyền diệu cơ bút dạy các vị chức sắc Đại Thiên phong khai mở nền Đại Đạo vào ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần tại chùa Gò Kén tỉnh Tây Ninh.

Vì vậy, vào ngày rằm tháng mười hằng năm đều tổ chức kỷ niệm ngày Khai Đạo, còn gọi là “Lễ Đạo Triều”.

Nay vì Lễ Ðạo Triều, nên đến chúc mừng chư hiền hữu.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LỄ ĐỘ

禮 度

Lễ: Cách bày tỏ ý kính bằng cử chỉ hay bằng cúng tế. Độ: Chừng, mực.

Lễ độ là thái độ được coi là đúng mực, tỏ ra biết coi trọng người khác khi tiếp xúc.

Như: Anh ta giữ lễ độ với mọi người.

Không háo thắng, không khoe mình, lúc nào cũng lễ độ, khiêm tốn, hoà hưởn, nhún nhường...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LỄ ĐƯA CHƯ THÁNH

Lễ đưa: Cuộc lễ tiễn đưa. Chư Thánh: Chỉ chung các Đấng thiêng liêng.

Lễ đưa chư Thánh, như chữ “Chư Thánh triều Thiên 諸 聖 朝 天”, là đàn cúng đưa tiễn các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật về chầu Đức Chí Tôn tại Ngọc Hư Cung.

Theo tục lệ dân gian, chiều hai mươi ba tháng chạp hằng năm mọi nhà điều có lệ cúng đưa ông Táo về Trời để tấu trình Thượng Đế việc mọi việc ở thế gian.

Riêng Đạo Cao Đài, vào ngày 24 tháng 12 hằng năm đều có đàn cúng vía “Chư Thánh triều Thiên” tức là “Lễ đưa Chư Thánh” về chầu Ngọc Hư Cung.

Trong bài “Sớ văn” đưa chư Thánh có câu: Kim vì Chung niên chi lễ Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần quy chầu Thượng Đế tại Ngọc Hư Cung 今 為 終 年 之 禮 諸 佛 諸 仙 諸 聖 諸 神 歸 朝 上 帝 在 玉 虛 宮, nghĩa là hôm nay vì ngày Lễ cuối năm, Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần trở về triều bái Đức Thượng Đế tại Ngọc Hư Cung.

Hăm bốn tháng chạp đến rồi,

Lễ đưa chư Thánh phản hồi triều Thiên.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

LỄ GIÁO

禮 教

Lễ: Phép tắc giao tiếp trong xã hội. Giáo: Dạy.

Lễ giáo là những nghi thức về lễ nghĩa, lề thói ăn ở theo phép tắc trong xã hội.

Như: Anh ấy được sinh ra trong một gia đình lễ giáo.

Nề nếp Nho Phong lễ giáo chặt gìn,

Khuôn viên Đại Đạo, chơn truyền vẹn giữ.

(Ai Điếu Hương Lự).

Du đãng cao bồi đừng học thói,

Thơ hương lễ giáo gắng theo khuôn.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LỄ HÔN PHỐI

Lễ: Phép tắc, nghi thức. Hôn phối: Phối hợp hôn nhân.

Lễ Hôn phối là lễ cưới, tức phối hợp nên duyên vợ chồng của đôi nam nữ.

Theo phong tục xưa, hôn lễ được phân ra làm sáu lễ (lục lễ) như sau:

1.- Lễ Nạp thái: Lễ cha mẹ đi coi dâu và dắt con đi coi vợ.

2.- Lễ Vấn danh: Lễ hỏi cho biết tên họ và tuổi tác cô gái coi có trùng tên cha mẹ, ông bà bên chồng chăng.

3.- Lễ Nạp kiết: Lễ trình bày tuổi tác và vận mạng tốt, được tương sanh.

4.- Lễ Nạp trưng: Lễ đem hàng lụa, tiền bạc, phẩm vật đến nhà gái để làm chứng sự hứa hôn chắc chắn, theo tục của ta là Lễ Hỏi hay Lễ Sính.

5.- Lễ thỉnh kỳ: Lễ nói ngày làm lễ cưới, cho đàng trai hay.

6.- Lễ thân nghinh: Lễ cưới, tức làm lễ rước dâu.

Hôn lễ hiện nay còn giữ hai lễ: Lễ Hỏi và Lễ Cưới mà thôi.

Theo Thế luật của đạo Cao Đài, việc hôn là việc rất trọng đời người. Phải chọn hôn trong người đồng đạo, trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn thì mới được kết làm giai ngẫu.

Tám ngài trước lễ sính, chủ hôn trai phải dán bố cáo nơi Thánh Thất sở tại cho trong bổn đạo hay, sau khỏi điều trắc trở.

Làm lễ sính rồi, hai đàn trai và gái phải đến Thánh Thất mà cầu Lễ Chứng Hôn.

Riêng tại Toà Thánh Tây Ninh nếu chủ hôn trai có yêu cầu thì Hội Thánh phái chức sắc đến hành pháp hôn phối cho đôi tân lang và tân giai nhân.

Trước lễ thành hôn tám ngày, chủ hôn trai phải dán bố cáo tại Thánh Thất sở tại, gọi là Bát Nhựt. Ấy là ngừa sự trắc trở về sau. Lễ hôn phối cần cầu chứng nơi Thánh Thất sở tại.

(Giáo Lý).

 

 

LỄ KINH

禮 經

Lễ: Cách bày tỏ lòng kính, tên sách ngày xưa. Kinh: Sách của các bậc Thánh hiền viết.

Lễ Kinh, như chữ “Kinh Lễ”, là một bộ sách trong Ngũ Kinh, chép những lễ nghi để giữ trật tự lớn nhỏ cho phân minh, hay để hàm dưỡng những tình cảm tốt đẹp, và để tiết chế tình dục.

Xem: Kinh Lễ.

Lễ kinh đã dạy kính nhường người,

Cái thói kiêu căng chẳng khó noi.

(Đạo Sử).

 

 

LỄ MUỐI DƯA

Lễ: Đồ vật để dâng cúng. Muối dưa: Muối và dưa, hai món thức ăn đạm bạc.

Lễ muối dưa là lễ dâng cúng muối và dưa, ý nói cuộc lễ cúng đơn sơ, đạm bạc.

Đầu cúi lạy... (phụ thân)... linh hiển,

Lễ muối dưa làm miếng hiếu tâm.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LỄ NGHI

禮 儀

Lễ: Phép tắc. Nghi: Cách thức.

Lễ nghi là cách thức bên ngoài để bày tỏ việc đạo đức, lễ nghĩa.

Đạo sửa trị con người cho đặng thuần lương chơn chánh, chẳng có phương pháp nào cần thiết và gấp rút cho bằng lễ nghi, pháp độ như lời dạy của Đức Khổng Phu Tử trong sách Lễ Ký: Trị nhân chi Đạo mạc cấp ư lễ 治 人 之 道 莫 急 於 禮.

Thực vậy, lễ nghi pháp độ được người xưa thực hiện để làm nền móng giáo hoá nhơn sanh cho thấm nhuần đạo đức: Biết trọng lễ nghĩa, liêm sỉ, biết giữ khiêm cung, kỉnh nhượng. Thiên Khúc lễ có câu: Nhân hữu lễ tắc an, vô lễ tắc nguy. Lễ giả, bất khả bất học dã 人 有 禮 則 安, 無 禮 則 危. 禮 者 不 可 不 學 也, nghĩa là người có giữ lễ nghi, biết khiêm cung kỉnh nhượng thì đặng an toàn danh phận, còn người không giữ lễ pháp, lại buông lung khinh dể thì phải chịu nguy hại đến thân danh. Vì thế, lễ là cái cần thiết không thể không học.

Con người có trí khôn ngoan,

Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LỄ NGHI PHONG HOÁ

禮 儀 風 化

Lễ nghi: Cách thức bên ngoài để bày tỏ việc đạo đức, lễ nghĩa. Phong hoá: Phong tục tập quán.

Lễ nghi phong hoá là cách thức bày ra trong sự cúng tế cho được trật tự, trang nghiêm và phù hợp với phong tục tập quán của dân tộc.

Lúc Thầy lập Pháp Chánh Truyền thì Thầy dạy hành lễ dường ấy mặc dầu, là bởi lễ nghi phong hoá nhà nam ta buộc phải vậy.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

LỄ NGHĨA

禮 義

Lễ: Cách bày tỏ hành vi cử chỉ kính trọng. Nghĩa: Việc làm theo lẽ phải và đạo lý.

Lễ nghĩa là phép tắc và lẽ phải của xã hội mà mọi người phải làm, phải theo. Như: Phú quý sinh lễ nghĩa.

Trong Chú Giải Pháp Chánh Truyền có câu: Còn hỏi về Lễ Nghĩa giao thiệp về phần Đời, thì Ngài dạy Giáo Hữu Nam Phái cũng chịu dưới quyền Giáo Sư Nữ Phái.

Cách ở ăn trong chốn gia đình,

Điều lễ nghĩa hết tình sắp đặt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỄ PHÉP

Lễ: Phép tắc phải theo để giao tế trong xã hội. Phép: Lề, luật đặt ra để mọi người theo.

Lễ phép là những điều mà xã hội quy định là đúng đắn, tỏ được lòng kính trọng đối với người trên. Như: Thằng Bế rất lễ phép.

Diễn văn Đức Quyền Giáo Tông có câu: Người phải thương nhau như con một cha. Cả hoàn cầu là đại chánh chung cả nhơn loại, không hại lẫn nhau, lấy lễ phép mà giao thiệp cùng nhau, lấy công bình mà đối đãi cùng nhau.

Con Trung, nên về ráng tập các đạo hữu của con cho có lễ phép. Đạo thành là nhờ Lễ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LỄ SANH

禮 生

Lễ Sanh là một phẩm chức sắc thuộc Cửu Trùng Đài thấp nhứt, trên phẩm Chánh Trị Sự, dưới phẩm Giáo Hữu, đối phẩm với Thiên Thần.

Theo Đạo Nghị Định của Đức Lý Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp, Lễ Sanh được Hội Thánh bổ đi gọi là Đầu Tộc Đạo, làm đầu một Tộc Đạo (tức một huyện).

Lễ Sanh nam được chia ra là ba phái: Thái, Thượng, Ngọc nên Đại phục có ba màu vàng, xanh, đỏ tuỳ theo phái, đầu đội Khôi Khoa Mạo đều màu trắng.

Lễ Sanh nữ không phân phái, mặc đạo phục như Giáo Hữu, nhưng choàng ngang trên đầu một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí dài một mí vắn, ngay đầu tóc có giắt một bông sen.

Lãnh chức Lễ Sanh lo phận sự,

Ngày sau chức trọng sẽ dành ban.

(Đạo Sử).

Tuổi đời vui được tròn câu thọ,

Bước Đạo may vào phẩm Lễ Sanh.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

LỄ SĨ

禮 士

Lễ: Nghi lễ. Sĩ: Người, học trò.

Thời kỳ đầu mới Khai Đạo, trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn gọi những người hiến lễ trong Đàn cúng là Lễ Sanh, từ nầy ngày xưa bên Nho giáo cũng thường gọi.

Trong Đàn cơ ngày 18 tháng 5 năm Bính Dần, Đức Chí Tôn phân công các chức sắc dâng hiến lễ nơi Đàn cúng như sau:

“Kỳ, Kim, hầu xướng nội, là bàn thờ trong, biểu chúng nó đứng như vầy: Kỳ bên mặt, Kim bên trái.

Còn Bản, Giỏi, một cặp LỄ SANH đầu, đi giữa với một cặp nữa là Tỷ với Tiếp. Tả thì Nhơn với Tương, hữu thì Giảng với Kinh.

Lập ngoài cho đủ ba bàn vọng, đều để chư lễ sanh hầu.

Chừng nào nội xướng thì để cho lễ sanh điện lễ, cúng vật thì để sẵn ngoài ba bàn, chừng lễ sanh xướng thì đem vô cho mấy vị Chức sắc hiến lễ”.

Nhưng từ khi Lễ Sanh là tên một phẩm chức sắc bên Cửu Trùng Đài thì Đức Lý Giáo Tông mới giáng cơ sửa lại là “Lễ Sĩ” để chỉ người hiến lễ.

Ngài cho biết: “Nhiều khi chư Hiền hữu lạm dụng danh từ Lễ Sanh mà cho kẻ hiến lễ, làm mất thể diện của vị Thiên phong. Vậy Lão đặt tên cho kẻ hiến lễ là Lễ Sĩ.

Như vậy, Lễ Sĩ có nghĩa là người học trò Lễ, hay nói một cách rõ ràng hơn thì Lễ Sĩ là những người có nhiệm vụ dâng hiến các cúng phẩm lên người chủ lễ, để vị nầy cầu nguyện rồi đem dâng lên Bàn thờ. Khi điện lễ, các Lễ Sĩ phải bước nhịp nhàng, ăn rập theo tiếng nhạc, giọng kinh, giọng thài trong buổi lễ.

Đạo phục của Lễ Sĩ tương tự như Đạo phục của Lễ Sanh, chỉ khác một vài điểm là mão Lễ Sanh có Thiên Nhãn với một vòng Minh khí, còn mão Lễ Sĩ chỉ gắn một hoa mai năm cánh. Áo Lễ Sĩ không có ba dải sau lưng, còn quần thì mặc cái củn, tức một loại váy rộng, dài phủ xuống đến mắc cá, chân mang giày bố trắng.

Đặc biệt, trong ngày vía Đại đàn tại Đền Thánh, có tất cả sáu cặp Lễ Sĩ: Ba cặp hiến lễ và ba cặp cầm đèn Tam Giáo. Trong ba cặp hiến lễ thì một cặp tiếp lễ, mặc áo màu vàng, giữ nhiệm vụ phụ tiếp trong khi dâng hiến cúng phẩm, một cặp đăng và một cặp đài đều mặc áo màu xanh. Hai cặp nầy có nhiệm vụ điện lễ, nghĩa là phải đi đứng nhịp nhàng theo tiếng nhạc, giọng Thài, và chân bước từng bước theo chữ “Tâm” (心). Còn ba cặp Lễ Sĩ cầm đèn Tam Giáo mặc áo vàng, xanh, đỏ tay cầm ba cây đèn Thái, Thượng, Ngọc.

Sau đây là Sắc Lịnh Số: 51/SL của Đức Hộ Pháp ngày 22 tháng 12 năm 1936 quy định về bổn phận, quyền lợi và đạo phục của Giáo Nhi và Lễ Sĩ có nguyên văn như sau:

Văn Phòng

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

PHẠM HỘ PHÁP

(Thập Nhị Niên)

SỐ: 51/SL

Tòa Thánh Tây Ninh

SẮC LỊNH

Nghĩ vì Tân Kinh là Kinh Tận độ đã ra, nên cần nhứt phải có Lễ Sĩ và Giáo Nhi dạy mấy em Đồng Nhi cho thành thuộc, phòng độ rỗi phần hồn của toàn con cái Chí Tôn khắp cả các nơi mà phướn đạo đã đủ huyền linh che chở,

Nghĩ vì Hội Thánh mong mỏi mở rộng con đường Thánh đức cho đoàn hậu tấn bước vào Thánh Thể của Chí Tôn đặng lập vị,

Nghĩ vì trẻ em Đồng Nhi từ 11 năm mở Đạo đến nay đã trưởng thành nên buộc Hội Thánh định phần phong thưởng công nghiệp, nên:

SẮC LỊNH:

Từ đây mở khoa mục mỗi năm cho Lễ Sĩ và Giáo Nhi thi cử.

Lễ Sĩ thì thi theo mặt kinh luật của Đạo về Quan, Hôn, Tang, Tế, nhứt là về Lễ Nhạc. Buộc Lễ Sĩ phải cần cho hay một món đờn trong mấy thứ âm nhạc: Tam, Tiêu, Tranh, Đản, Kìm, Tỳ, Cò, Độc.

Giáo Nhi thì phải thuộc lòng Tân Kinh và cũng phải thuộc một môn âm nhạc như Lễ Sĩ.

Những Đồng nhi Nam Nữ có đủ giấy chứng Tòa Thánh, lớn trên 20 tuổi mới đặng thi Lễ Sĩ và Giáo Nhi, và phải biết viết với đọc chữ quốc ngữ.

Mỗi năm mở khoa mục ngày rằm tháng 10 tại Tòa Thánh. Hội Thánh chia ra hai thứ Lễ Sĩ và Giáo Nhi:

- Thứ nhứt thì những hạng Lễ Sĩ và Giáo Nhi trọn hiến thân cho Hội Thánh, nhứt là Giáo Nhi đã tuyên thệ thủ trinh hành đạo thì sẽ đặng thuyên bổ hành đạo trong các Thánh Thất bất cứ nơi nào. Hễ đủ 5 năm công nghiệp thì thăng Lễ Sanh, khỏi phải cầu phong lại nữa. Hạng Lễ Sĩ và Giáo Nhi nầy trên quyền Chánh Trị Sự và dưới quyền Lễ Sanh, nhưng về mặt Lễ Nhạc, Quan Hôn Tang Tế mà thôi, chớ không đặng dự vào chánh trị hay là luật pháp Tòa Đạo.

- Thứ nhì là hạng Lễ Sĩ và Giáo Nhi ở lại gia đình, nhứt là Giáo Nhi có chồng con theo thế thì không đặng vào nơi Thánh Thất nào mà hành đạo hết, duy hành đạo nơi xóm làng của mình mà thôi, lại buộc mỗi năm phải dạy ít nữa là trên 36 đứa Đồng Nhi; Lễ Sĩ thì dạy Nam, Giáo Nhi thì dạy Nữ, chớ không đặng dạy lộn xộn Nam Nữ chung nhau. Cấm nhặt Lễ Sĩ không đặng dạy Đồng Nhi Nữ. Nếu mỗi năm có một phái Chức sắc, Chức Việc sở tại nói rằng dạy thiếu và không đi hành đạo thì bị ngưng chức liền. Hội Thánh không cần minh tra lại nữa.

Hạng nầy tùng quyền Chánh Trị Sự và ngang quyền Phó Trị Sự và Thông Sự nhưng về mặt Lễ Nhạc, Quan Hôn Tang Tế mà thôi, chớ không đặng dự vào chánh trị hay là luật pháp Tòa Đạo. Đủ 8 năm công nghiệp đổ lên mới đặng cầu phong vào hàng Lễ Sanh, nhưng do nơi tờ yêu cầu của Chức sắc và Chức việc sở tại mới đặng.

Lễ Sĩ mặc như Lễ Sanh Nam phái, nhưng trên mão ngay trán có Tam Sắc Đạo và Cổ pháp của Giáo Tông là Thư Hùng Kiếm, Long Tu Phiến và cây Phất Chủ thêu trên.

Giáo Nhi mặc Đại phục như Lễ Sanh Nữ phái nhưng không đặng giắt Bông sen trên đầu tóc, còn Tiểu phục cũng vậy nhưng trước ngực có choàng một tấm choàng đen.

Kiểu y phục nầy phải do nơi tiệm Linh Đức.

Kỳ dư mấy vị Lễ Sĩ và Giáo Nhi đương thời hành đạo trong Hội Thánh và có tờ Hội Thánh công nhận chánh thể rồi; Hội Thánh nhứt định cấm nhặt không ai đặng xưng danh hiệu Lễ Sĩ hay Giáo Nhi mà không có khoa mục và cấp bằng của Tòa Thánh ban cho đủ lẽ.

Khai Pháp, Tiếp Thế, Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài, Quyền Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư, Nữ Chánh Phối Sư và Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo, mỗi vị tùy phận sự thi hành Sắc Lịnh nầy.

Lập tại Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 9 tháng 11 năm Bính Tý (Dl. 22/12/1936).

HỘ PHÁP

Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài

(Ấn ký)

Phạm Công Tắc.

 

Hội Thánh phải bổ đến mỗi Quận Đạo: Lễ Sĩ, Cai Nhạc và Giáo Nhi có cấp bằng của Hội Thánh...

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

LỄ SÍNH

Lễ: Cuộc lễ có nghi thức. Sính: Nhà trai đem lễ vật sang nhà gái để cưới vợ.

Lễ sính là một lễ trong hôn nhân, nhà trai đem phẩm vật đến nhà gái để xin làm lễ cưới và rước dâu.

Tám ngày trước Lễ sính, chủ hôn trai phải dán bố cáo nơi Thánh Thất sở tại cho trong bổn đạo hay, sau khỏi điều trắc trở.

(Tân Luật).

 

 

LỄ THỌ

禮 壽

Lễ: Cuộc lễ có nghi thức. Thọ: Sống lâu.

Lễ thọ là cuộc lễ mừng thọ, tức bày lễ cúng mừng được sống lâu.

Theo nghi lễ ngày xưa, Lễ thọ được tổ chức vào nhiều giai đoạn trong một đời người:

- Hưởng Hạ thọ 享 下 壽 là người được sống trong khoản từ 61 tuổi đến 70 tuổi.

- Hưởng Trung thọ 享 中 壽 là người được sống trong khoản từ từ 71 tuổi đến 80 tuổi.

- Hưởng Thượng thọ 享 上 壽 là người được sống trong khoản từ 81 tuổi đến 90 tuổi.

- Hưởng Mạo 享 耄 là người được sống trong khoản từ 91 tuổi đến 100 tuổi. Chữ “Mạo 耄”, có nghĩa là người già tuổi từ 90 trở lên.

- Hưởng Kỳ hy 享 耆 希 là người được sống trong khoản từ 100 tuổi trở lên. Chữ “Kỳ 耆” là già; chữ “Hy 希” hiếm có. “Kỳ hy 耆 希” có nghĩa là già hiếm có, ít thấy.

Kỷ niệm đề thi chúc tỷ nương,

Vui say lễ thọ rất phi thường.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LỄ TRIỀU CHÍ LINH

禮 朝 至 靈

Lễ triều: Chầu lễ vua hay Đức Chí Tôn. Chí Linh: Rất linh thiêng, chỉ Đức Chí Tôn.

Lễ triều Chí Linh là vào chầu lễ Đức Chí Tôn.

Tiên phong Phật cốt mỹ miều,

Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.

(Kinh Tận Độ).

 

 

LỄ VẬT

禮 物

Lễ: Cuộc lễ có nghi thức. Vật: Tiếng gọi chung các loài, các thức có hình ở trong trời đất.

Lễ vật là vật dùng để hiến tặng hay cúng lễ. Như: Lễ vật của nhà trai mang đến nhà gái, lễ vật cúng đình Thần.

Xưa kia, một ông Quan học thành tài dự chiếm khoa trường và được vinh quy bái tổ, thì bổn phận trước nhất là khăn áo chỉnh tề mang lễ vật đến viếng Ông Thầy dạy cũ để tỏ sự kính mến biết ơn, vì nhờ thầy mở trí lúc ban sơ mà ngày nay mình mới được đai vàng thẻ bạc.

Trong việc cúng tế chẳng phải tại lễ vật ở ngoài, chỉ tại lòng thành kỉnh mà sanh ra vậy.

(Giáo Lý).

 

 

LỄ VIỆN

禮 院

Lễ: Cuộc lễ có nhưng nghi thức. Viện: Nơi làm việc.

Theo đạo Cao Đài, Lễ Viện là một cơ quan trong Cửu Viện Cửu Trùng Đài, có nhiệm vụ hướng dẫn thực hành các nghi thức thờ phượng và cúng tế theo đúng luật thống nhứt từ trung ương xuống địa phương của nền Đại Đạo. Lễ Viện Cửu Trùng Đài phụ trách nghi lễ tại Toà Thánh và các Thánh Thất, tổ chức các kỳ lễ trong Đạo.

Nắm quyền Lễ Viện là một vị Thượng Thống, phẩm Phối Sư phái Ngọc, có các vị Phụ Thống, Quản Văn Phòng và Thư ký giúp việc. Lễ Viện chịu dưới hệ thống của Ngọc Chánh Phối Sư.

Còn Lễ Viện nữ phái do vị Nữ Chánh Phối Sư đứng đầu, chỉ điều hành bên nữ phái mà thôi.

Em được lịnh đến đây, có sự thông cảm của Đức Quyền Giáo Tông để trao bốn câu thài hầu Lễ Viện hành lễ cho Nữ Đầu Sư Hương Lự.

(Thánh Giáo Bát Nương).

 

 

LỄ VU LAN

Lễ: Cuộc lễ có nghi thức. Vu lan: Hán phiên âm từ “Ullambana” thành “Vu Lan bồn”, nói tắt là Vu Lan, dịch nghĩa là Cứu đảo huyền, nghĩa là cứu nạn treo ngược,một tội khổ hình ở địa ngục.

Hàng năm cứ đến ngày rằm tháng bảy Âm lịch, các chùa đều tổ chức lễ Vu lan rất trang nghiêm và long trọng. Vu lan hay Vu lan bồn phiên âm từ Phạn ngữ “Ullamba”, dịch nghĩa là Giải đảo huyền 解 倒 懸, nghĩa là cứu nạn cho các vong hồn bị nạn treo ngược nơi địa ngục. Vì vậy, đến ngày này các Phật tử đều đến chùa cúng dường, dự lễ cầu siêu cho chơn linh cha mẹ, hay Cửu huyền thất tổ.

Theo đạo Cao Đài, rằm tháng bảy là lễ Trung nguơn, cũng là ngày xá tội vong nhân, chư tín đồ tập trung về Toà Thánh hay Thất Thất để thiết lễ cúng cầu siêu cho những người đã chết, nguyện cho họ được hồng ân của Chí Tôn, Phật Mẫu hay Địa Tạng Vương Bồ Tát ban cho thoát khỏi đoạ cảnh, được siêu sanh vào các cảnh giới an lành hơn.

Lễ Vu lan cũng là mùa báo hiếu của chư tín đồ, nên ngoài việc cầu nguyện cho cha mẹ hiện tại được an lành, mà còn cầu siêu cho tổ tiên, cửu huyền thất tổ được siêu sanh thoát hoá.

Nghìn xưa Phật thuyết Lễ Vu lan,

Toà Thánh trung nguơn cúng Đại đàn.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LỆ

1.- Lệ là e, ngại, sợ.

Như: Lệ, e lệ. Trong tác phẩm “Nhị Độ Mai” có câu: Hễ Trời có mắt thì ta lệ gì.

Hạnh nhỏ nhẹ nói năng thủ thể,

Trái mắt người e lệ chớ nên làm.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lệ là lề lối do người ta đặt ra hoặc người ta đã làm để về sau theo. Như: Tục lệ, phép vua thua lệ làng.

Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cuộc hội hiệp vui vẻ này đã biến thành cái lệ bất di bất dịch, in sâu vào trí não của mọi người trong chúng ta, vì đó là một cuộc hội hiệp đầy thiện cảm chân thành, nồng đượm bao nhiêu vẻ thân mật khắng khít và sẽ ghi lại một kỷ niệm êm dịu trong tâm hồn của những người đến dự khi mà mỗi vị đều ý thức trong một vài ngày nữa đây sẽ có cuộc chia tay, kẻ ở lại nơi đại gia đình, người tản mát nơi tứ phương, để làm phận sự của người con thảo đối với Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ.

Đường Tây vức từ khi bị bế,

Tiếng Phật tông đổi lệ thay thoàn,

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

3.- Lệ là đẹp đẽ.

Như: Mỹ lệ, người đẹp diễm lệ, thành phố hoa lệ.

Hoa thơm phưởng phất ngàn trùng,

Cực kỳ mỹ lệ vô cùng thanh quang.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

4.- Lệ , còn đọc là “Luỵ”, nghĩa là nước mắt. Như: Giọt lệ thâm bâu, lệ châu, lệ hồng.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bao nhiêu xương máu con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn tức nhiên bao nhiêu sanh mạng anh hùng Liệt Sĩ Cao Đài. Mỗi một giọt máu là một giọt huyết lệ chan hoà trong ấy.

Mê luyến hồng trần mang ách khổ,

Cơn vui qua khỏi lệ sầu tuôn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Sóng trần bể khổ mây mờ mịt,

Nghĩ nỗi gần xa lệ ứa dầm.

(Thơ Huệ Giác).

5.- Lệ là thuộc về, làm tôi tớ. Như: Lính lệ là lính chuyên hầu quan thời trước, nô lệ, lệ thuộc, lệ dịch.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo hôm nay vẫn tiếp tục cho đến cùng tới giờ chót; nhưng cái lý do giải ách nô lệ cho các sắc dân lệ thuộc là đầu tiên hơn hết.

Lằn xanh ưa hửi mùi đồng,

Ham thân nô lệ mến vòng tôi con.

(Ngụ Đời).

 

 

LỆ CHÂU

淚 珠

Lệ: Nước mắt. Châu: Hạt ngọc.châu.

Lệ châu là giọt nước mắt đầm đìa rơi xuống, long lanh như hạt châu ngọc.

Do tích thời xưa có loài giao long hoá thành người, gọi là giao nhân 蛟 人, sống trên thế gian lấy vợ, lấy chồng và buôn bán với loài người. Nhưng đến cuối năm lại phải về thuỷ phủ để chầu vua. Lúc từ biệt gia đình, họ khóc rất thảm thiết, mà khóc bao nhiêu thì nước mắt hoá thành những hạt châu bấy nhiêu. Nên có câu: “Sái giao nhân chi châu lệ 洒 蛟 人 之 珠 淚”, nghĩa là người giao nhân khóc, nước mắt sa xuống thành hạt châu.

Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?

Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LỆ NÔ

Lệ: Thuộc về, làm tôi tớ. Nô: Đầy tớ, tôi tớ.

Lệ nô, như chữ “Nô lệ 奴 隸”, là kẻ đã bị tước hết mọi quyền tự do, sống dưới ách áp bức.

Vận hội đến đã xây thời thế,

Bởi hung tàn mà chưa dễ thoát lệ nô.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LỆ NGỌC

淚 玉

Lệ: Nước mắt. Ngọc: Châu ngọc.

Lệ ngọc, như chữ “Lệ châu 淚 珠”, do tích người giao nhân khóc, giọt nước mắt chảy xuống long lanh như hạt châu ngọc.

Xem: Lệ châu.

Dỗ con lệ ngọc li bì,

Hạ ơi! Hạ có biết nghì phu thê?

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỆ QUÂN

麗 君

Lệ Quân tức Mạnh Lệ Quân, con gái của đại phu Mạnh Sĩ Nguyên.

Lệ Quân lúc nhỏ cha mẹ có đính ước với Hoàng Phủ Thiếu Hoa, nhưng bị Lương Khuê Bích, là con của một vị Thừa tướng muốn Mạnh Lệ Quân nên tìm cách hại cả gia đình Hoàng Phủ Thiếu Hoa.

Mạnh Lệ Quân phải giả trai, bỏ lên kinh kỳ ứng thí đậu trạng nguyên, rồi làm quan trong triều đình, sau diệt trừ được Lương Khuê Bích mà tái hợp với Hoàng Phủ Thiếu Hoa.

Xem: Mạnh Lệ.

Tưởng sắc đẹp Tây Thi là quý,

Chẳng học đòi mưu trí Lệ Quân.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỆ SA

Lệ: Nước mắt. Sa: Rơi xuống.

Lệ sa là nước mắt tuôn chảy, chỉ sự đớn đau, khổ sở. Như: Nghe nói xong, mắt nàng đôi dòng lệ sa.

Ven Trời gởi chút tình thâm,

Động lòng thương nhớ tuôn dầm lệ sa.

(Kinh Thế Đạo).

Xé mây lướt dặm trần hoàn,

Dòm theo nỗi khổ, đôi hàng lệ sa.

(Nhị Nương Giáng Bút).

 

 

LỆ THUỘC

隸 屬

Lệ: Phụ thuộc, đầy tớ. Thuộc: Phụ về.

Lệ thuộc là phụ thuộc với người khác, tới mức mất quyền chủ động.

Lệ thuộc còn dùng để chỉ quốc gia bị mất tự chủ, phải phụ thuộc với một nước khác.

Thánh giáo Đức Chí Tôn bằng Pháp văn, được Hội Thánh dịch sang Việt ngữ có đoạn: Chỉ có xứ Việt Nam còn duy trì được sự tôn sùng tổ phụ theo tục lệ cổ truyền, mặc dầu xứ ấy chỉ biết chịu ở dưới quyền lệ thuộc từ ngày tạo lập đến giờ. Ý Thầy muốn nó được giữ nguyên thể như vậy mãi.

Bao nhiêu lệ thuộc không nao núng,

Đánh đuổi xâm lăng chí quật cường.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LỆCH

Lệch là nghiêng, không ngay, không cân.

Như: Chênh lệch, đường kẻ lệch, đội mũ lệch, tủ kê lệch một bên, đôi đũa lệch.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nên để ý là trong các đẳng nhơn sanh, người dầu sang hay hèn, Thánh nhân hay thường nhân, cái tâm của Thiêng Liêng ban cho đều có sự sáng suốt ngang nhau không khi nào chênh lệch.

Cán cân chánh lý không nghiêng lệch,

Thưởng phạt công bình chẳng lạc sai.

(Thơ Xích Quang).

Đường Đời khá bước, ngay là đúng,

Nẻo Đạo tua gìn, lệch ắt sai.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LÊN

1.- Lên là từ chỗ dưới tới chỗ trên, từ chỗ thấp tới chỗ cao. Như: Lên xe, lên gác, lên bờ, lên chức.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Các con liệu phương thế mà nâng đỡ đức tin của môn đệ cao lên hằng ngày, ấy là công quả đầu hết.

Lo lường nền hạnh đặng lên cao,

Cao đức nguồn Tiên mới bước vào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chẳng khác chồi non xô đại mộc,

Cũng như lên vực sóng toan trèo.

(Đạo Sử).

2.- Lên chỉ số tuổi vừa đạt được.

Như Mồ côi mẹ từ lúc năm lên sáu tuổi, năm nay cô bé lên mười.

Ly trần tuổi đã quá năm mươi,

Mi mới vừa lên ước đặng mười.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Lên là phát sinh, mọc ra. Như: Cây lên, hạt lên, lên sởi, lên đậu.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Còn bực chơn tu, tỉ như một hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, rồi sanh trái mà biến biến sanh sanh càng tăng số.

Ðiền viên đất nổi lên vàng,

Oằn vai nông chịu muôn ngàn thuế sưu.

(Ngụ Đời).

 

 

LÊN ẢI XUỐNG ĐÈO

Lên ải: Vượt qua đường hẹp và đầy hiểm trở. Xuống đèo: Xuống chỗ thấp của đường giao thông qua dãy núi.

Lên ải xuống đèo ý chỉ vượt qua những đèo ải, đoạn đường đầy gian nan vất vả.

Trải bao phen lên ải xuống đèo,

Đã lắm lúc đăng sơn quá hải.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LÊN VOI XUỐNG CHÓ

Lên voi: Lên ngôi lưng voi, ý chỉ lên cao. Xuống chó: Xuống cỡi lưng chó, ý chỉ xuống thấp.

Lên voi xuống chó ý muốn nói khi thì được lên cao, khi thì bị xuống thấp, dùng để chỉ lúc sang lúc hèn, lúc vinh lúc nhục, lúc sướng lúc khổ.

Lúc tớ lên voi nhiều kẻ dựa,

Khi mình xuống chó chẳng nơi nương.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

LÊN VÕNG XUỐNG DÙ

Lên võng: Lên ngồi kiệu võng, che lọng, ý chỉ ngôi vị quan. Xuống dù: Xuống thấp phải che dù.

Võng lọng là những thứ nghi trượng dành cho vua quan đi ra đường.

Lên võng xuống dù là nói khi thì lên cao như vị quan được kiệu võng, lúc thì bỏ lọng để che dù, ví con đường danh vọng bấp bênh, khi lên lúc xuống, khi vinh hiển, lúc thất thế, nhục nhã.

Mặc người lên võng xuống dù,

Lợi danh xạo xự thiên thu lỡ làng.

(Tứ Nương Giáng Bút).

 

 

LÊNH ĐÊNH

Lênh đênh là trôi nổi nay đây mai đó, không có hướng nhất định.

Như: Con thuyền lênh đênh trên sông nước, cuộc sống lênh đênh chìm nổi, nước lênh đênh chảy qua cầu.

Mây lủng lẳng ven trời bảng lảng,

Nước lênh đênh tản mạn mênh mông.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LỆNH

Lệnh (lịnh) là điều truyền bảo của cấp trên xuống cho cấp dưới phải thi hành. Như: Ra lệnh, vâng lệnh, làm trái lệnh, nhận mệnh lệnh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngày nay toàn thể chức sắc lưỡng phái đã tín nhiệm chức sắc Hiệp Thiên Ðài và triệt để tuân theo mạng lệnh Hiệp Thiên Ðài điều khiển việc Ðạo, hai bên Hiệp Thiên và Cửu Trùng phải đồng tâm chung trí để lo xây dựng lại nền chánh giáo, sửa đương cho có trật tự điều hoà làm cho lộ rõ nét bác ái từ bi, nhơn sanh mới phấn khởi bước tới lo về tu niệm.

Đây có lắm anh hào rắp đến,

Lập cho thành mệnh lệnh Tam Toà.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

LẾT

Lết là di chuyển bằng cách kéo lê chân hoặc phần dưới cơ thể trên mặt nền.

Như: Bò lết, kéo lết, bị thương nặng nhưng anh vẫn cố lết về đơn vị.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðời càng tỏ ra đê hèn, hạ tiện, chúng ta càng tỏ ra chơn chánh, siêu phàm, thiên hạ cúi mình bò lết trong chỗ nhơ bẩn vì chút ít lợi quyền, chúng ta phải vươn mình lên cao để đón hứng mùi hương thanh thoát, làm cho trí óc trở nên phi thường và tâm hồn thơ thới.

Một gánh một bưng chi tưởng dễ,

Ðeo mình cho nặng lết lang thang.

(Đạo Sử).

 

 

LẾU

Lếu là láo, không thật tâm cho công việc, chỉ làm cẩu thả, qua loa cho có.

Như: Nói lếu nói láo, nó hay làm lếu nên công việc thường bị thất bại.

Lỡ bất bình con chẳng giống cha,

Làm lếu giống chà và ma ní.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỀU CỎ

Lều: Túp nhà nhỏ, thường chỉ gồm một hoặc hai mái che sơ sài. Cỏ: Cây thấp nhỏ mọc lan trên đất, cỏ tranh.

Lều cỏ, như chữ “Lều tranh” là mái lều lợp bằng cỏ tranh hay các loại cỏ, rơm, dùng để chỉ nhà của người ẩn dật, hoặc những người nghèo, sống đạm bạc.

Đoạn đường lều cỏ chòi tranh,

Tay nương cây gậy một mình trông vơi.

(Nhứt Nương Giáng Bút).

Đai vàng khôn đổi gian lều cỏ,

Các tía sao bằng chốn cửa không.

(Thơ Bồng Dinh).

 

 

LỀU TRANH

Lều: Túp nhà nhỏ, thường gồm một hoặc hai mái che sơ sài. Tranh: Một loài cỏ mọc hoang, dùng để lợp nhà.

Lều tranh là mái lều lợp bằng tranh, dùng cho người tu hành hoặc ẩn dật.

Noi theo người trước đời trông cậy,

Gắng sửa lều tranh hoá động đào.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LỀU TRANH BA LƯỢT

Lều tranh: Túp nhà nhỏ lợp bằng tranh. Ba lượt: Ba lần, hay ba bận.

Lều tranh ba lượt, bởi điển tích “Tam cố mao lư 三 顧 草 蘆” là ba lần tìm đến lều tranh.

Theo truyện Tam Quốc Chí: Từ Thứ đề nghị với Lưu Bị là phải thân hành đến cầu Khổng Minh về giúp, mới mong được gặp, chứ không bao giờ Gia Cát Lượng lại chịu khuất thân tìm đến.

Lưu Bị nghe theo, bèn cùng với hai em là Quan Vân Trường và Trương Dục Đức lên núi Ngoạ Long cầu Gia Cát Lượng về giúp nhà Hán. Đi hai lần đầu đều không gặp và qua lần thứ ba, Khổng Minh mới chịu tiếp kiến, rồi sau đó chịu về làm quân sư cho Lưu Bị.

Lều tranh ba lượt rước hiền thần,

Gia Cát về phò đấng thánh quân.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LI BÌ

Li bì là ở trạng thái mê man kéo dài không còn biết gì hết. Như: Sốt li bì mấy ngày, ngủ một giấc li bì.

Li bì còn dùng để chỉ sự kéo dài, ở mức độ không bao giờ dứt. Như: Anh ta cả ngày uống rượu li bì.

Li bì cảnh ngộ dạ hằng lo,

Lo chẳng đặng mà cũng rán lo.

(Đạo Sử).

Dỗ con lệ ngọc li bì,

Hạ ơi! Hạ có biết nghì phu thê?

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LÍ LẮC

Lí lắc là nghịch ngợm, tinh nghịch, táy máy, hay chơi đùa những trò không nên, không được phép, hoặc có thể gây nguy hại.

Lí lắc còn có nghĩa luôn cử động, động đậy, tay chân táy máy, đứng ngồi không yên. Như: Ngồi im coi, chỗ có khách khứa, đừng có lí lắc.

Đừng quen tánh theo đồ lí lắc,

Việc nên hư rắn mắt nói không nghe.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

ý chỉ đã từng quen với một tác động, đến mức có khả năng chịu đựng dù tác động đến mấy cũng không hề có biểu hiện phản ứng nào cả.

Như: Bị đánh đập nhiều quá thằng bé đâm ra lì, nó lì đòn không sợ roi vọt nữa.

Ngồi mà đợi Lý Ngưng Vương,

Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt lườn.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

Mão cao dể rớt nên thành nhát,

Cổ ngắn không kêu phải hoá .

(Thanh Sơn Đạo Sĩ).

 

 

LIA LIA

Lia lia, như chữ “Lia lịa”, do bởi vần bằng trong cuối của câu thơ.

Lia lịa là nói hay làm một động tác liên tiếp không nghỉ, và rất nhanh trong khoảng thời gian ngắn.

Như: Mắt chớp lia lia, gật đầu lia lia, cấm đầu viết lia.

Thật quả tri âm cười chúm chím,

Vội nhìn cố hữu hỏi lia lia.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LÌA

Lìa là rời ra khỏi cái mà mình vốn đã gắn chặt vào. Như: Lá lìa cành, chim lìa tổ, lìa nhà lìa cửa ra đi.

Thánh giáo Thầy có câu: Mỗi bậc phẩm đều đặng một vai tuồng của Ðấng cầm quyền thế giới ban cho, dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách nhậm, hầu buổi chung cuộc, hồn lìa cõi trần, đặng đến nơi khởi hành mà phục hồi công cán.

Vú mẹ chưa lìa đám trẻ con,

Ðộ sanh chưa rõ phận vuông tròn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chim lìa đảnh hạc bay ngơ ngáo,

Chiếc nhạn kêu thu đến bến Tương.

(Đạo Sử).

Thân lìa cha lìa mẹ lìa nhà,

Tỷ chẳng khác như hoa lìa cội.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÌA TAN

Lìa: Chia lìa. Tan: Bởi chữ “Tán” là tan vỡ.

Lìa tan, do chữ “Ly tán 離 散” ý nói trước kia sum hợp bây giờ chia lìa, tan rã.

Thánh giáo Đức Quan Âm có câu: Còn gia đình chẳng hoà thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong lân lý chẳng hoà thì dân cư bất mục. Nước chẳng hoà thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất hoà thì nhơn loại đấu tranh.

Bầm gan tím ruột đâu nong nã?

Mẫu tử lìa tan luỵ ướt dầm!

(Thơ Thanh Hương).

 

 

LÌA TRẦN

Lìa: Rời ra khỏi nơi mà mình đã gắn chặt vào. Trần: Bụi, cõi trần, tức cõi thế gian.

Lìa trần, như chữ “Ly trần 離 塵”, là lìa khỏi cõi trần, ý chỉ sự chết.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngày nào chúng ta biết trọn trung cùng Hội Thánh, trọn hiếu cùng Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, trọn tín với các Đấng Thiêng Liêng thì cái hạnh phúc của chúng ta khi lìa trần là cái vinh diệu chúng ta đó vậy.

Thiên phong là để cho bậc Thánh, Tiên, Phật, lìa trần phải lắm dày công cùng sanh chúng mới trông mong hồi cựu phẩm đặng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LỊCH

1.- Lịch là từng trải, việc gì cũng biết, dùng để chỉ bộ tịch, nói năng, hay giao thiệp một cách khôn khéo.

Như: Lịch duyệt, người lịch lãm, giao tiếp một cách lịch thiệp, con người lịch sự.

Dạy đi đứng nghiêm trang bộ tịch,

Dạy nói năng cho lịch cho ngoan.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lịch còn dùng theo nghĩa sắc đẹp, để chỉ diện mạo, hoặc dung nhan của phụ nữ xinh đẹp. Như: Lịch sắc, lịch sự, xinh lịch.

Trong quyểnThiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có câu: Lại thêm nào là kẻ xinh lịch, nào là cao lương mỹ vị, phú quý lợi quyền, toàn là cạm bẫy mà chúng ta phải cẩn thận tránh từng bước trên con đường hành đạo.

Nhà vàng phận quý khi thơ,

Gót sen dầu lịch cũng nhờ vẻ xuân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Gái lịch, trai thanh, nên đạo cốt,

Mụ thơ, lão trẻ, rất tiên phong.

(Thiên Thai Kiến Diện).

3.- Lịch, do chữ “Lệch” đọc trại ra, có nghĩa là không đúng với hướng thẳng mà sai lệch về một bên.

Như: Chinh lịch, sai lịch sang trái.

Trung Hoà không thấp không cao,

Không chinh, không lịch, không sao tiêu mòn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LỊCH DUYỆT

Lịch: Trải qua. Duyệt: Xem, hoặc trải qua.

Đã từng trải việc đời, nên biết được rất nhiều chuyện gọi là “Lịch duyệt”. Đồng nghĩa với “Lịch lãm”.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những người đã trọn kiếp sanh lịch duyệt thế tình, mà sự lịch duyệt ấy còn vốn thiếu; nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do định phận ấy, đã làm bại hoại thân hình, tâm lý con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối cãi được.

Xem: Lịch lãm.

Mong lịch duyệt nay đà lịch duyệt,

Muốn thanh cao đã được thanh cao.

(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).

 

 

LỊCH ĐẠI

歷 代

Lịch: Trải qua. Đại: Đời.

Lịch đại là trải qua nhiều đời, nghĩa là hết đời nầy đến đời khác.

Lịch đại tiên vong 歷 代 先 亡 là tổ tiên đã từng trải qua nhiều đời.

Phụ mẫu, sư trưởng, lục thân quyến thuộc, lịch đại tiên vong đồng đăng giác ngạn.

(Kệ U Minh).

 

 

LỊCH LÃM

歷 覽

Lịch: Từng trải, trải qua. Lãm: Nhìn xem.

Lịch lãm là nói người đã từng đi đây đi đó, trải qua nhiều nơi, xem thấy nhiều việc, tức người đã từng trải việc đời, có vốn kinh nghiệm sống.

Thánh giáo Thầy có dạy Ngài Thái Thơ Thanh như sau: Thầy đã có lời dặn con về việc phổ độ tha phương thì con cứ đó mà làm. Nhưng trước hết phải hiệp nhau mà bàn tính. Theo ý Thầy thì mỗi khi đi phổ thông Chơn đạo xứ khác, cần phải có một đứa cho đủ tư cách, biết Ðạo cùng lịch lãm nhơn tình thế sự đi thì mới mau thành tựu.

...nhờ cái tâm thần lịch lãm của Vua Nghiêu mà cả cái sự hèn hạ của ông Thuấn kia nó mất hết.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LỊCH SẮC

歷 色

Lịch: Tức lịch sự, chỉ sự đẹp đẽ. Sắc: Sắc đẹp.

Lịch sắc là nhan sắc lịch sự, tức nói người phụ nữ có nhan sắc xinh đẹp.

Nói về người Mẹ Đức Jésus Christ, Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Nếu chúng ta nói đến hoa khôi lịch sắc thì bà Maria cũng có thể kể vào hạng đó. Mới tới tuổi cập kê mà sắc đẹp ấy làm biết bao nhiêu kẻ nam nhi ước vọng.

Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,

Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Dạy kỉnh người lòng dạ từ hoà,

Đừng lựa lịch sắc hoa toan gắn bó.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỊCH SƠN

歷 山

Lịch Sơn là tên một hòn núi vào đời Thượng cổ, cũng là vùng ruộng đất rất xấu, lại nhiều thú dữ, hiểm nguy của Cổ Tẩu, cha Thuấn.

Vì nghe lời vợ kế, Cổ Tấu muốn hại Thuấn, sai ông một mình đến Lịch Sơn cày ruộng, nhưng nhờ sự hiếu thảo của ông cảm động lòng trời nên có voi đến phụ cày, chim đến phụ nhặt cỏ.

Xem: Voi cày chim cấy.

Đày ông nơi dãy Lịch Sơn,

Lòng thương cha mẹ, nhớ ơn nguyện cầu.

(Báo Ân Từ).

Ngu Thuấn khổ vì cha Cổ Tẩu,

Nơi Lịch Sơn ruộng xấu đem đày.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Vua Nghiêu đại đức chí chơn,

Du hành nơi dãy Lịch Sơn bấy chừ.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

LỊCH SỬ

歷 史

Lịch: Trải qua. Sử: Ghi chép việc đã qua.

Lịch sử là sách ghi chép những sự kiện đã xảy ra vào một thời đại, hoặc từ thời đại này đến thời đại khác.

Thuyết về Khổng Thánh Tiên Sư, Đức Thượng Sanh có câu: Hôm nay là ngày vía của Ðức Khổng Thánh, tôi xin nhắc sơ lược lịch sử của Ngài mà các dân tộc Á Ðông đều nhìn nhận là Thuỷ tổ của Nho Giáo.

Lịch sử chép biên bao vẻ đẹp,

Ai từng đem nhục đổi làm vinh.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Xem lịch sử vĩ nhân mấy mặt,

Đại trượng phu trước giặc vong thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Bao nhiêu thanh thế bốn ngàn năm,

Lịch sử từng ghi tiếng chẳng lầm!

(Thơ Chánh Đức).

 

 

LỊCH SỰ

歷 事

Lịch: Trải qua, từng trải. Sự: Việc.

Lịch sự là người từng trải việc đời. Nghĩa thông thường chỉ người có cung cách ứng xử tốt đẹp, làm vừa lòng hết mọi người.

Lịch sự còn có nghĩa là tốt đẹp, sang trọng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Cư, giỏi con, phải vậy, như con muốn cho ra bộ lịch sự thì khi chấm gót, con nhún bộ xuống một chút.

Tay lịch sự tự nhiên chê sự,

Lòng đa tình vẫn cứ vị tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Lựa nên hư trong sự ăn chơi,

Tập vợ đặng nên người lịch sự.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỊCH XINH

Lịch: Từng trải. Xinh: Có hình dáng và những đường nét rất dễ coi, ưa nhìn.

Lịch xinh, như chữ “Xinh lịch”, là đẹp đẽ một cách sang trọng và quý phái.

Như: Cô ấy là cô gái lịch xinh nhứt vùng nầy.

Xuân sắc thiên nhiên vẻ lịch xinh,

Xuân phong đưa đón khách toàn linh.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Quê người đơn chiếc lại riêng tình,

Non nước bây chừ đã lịch xinh.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LIẾC

Liếc là đưa mắt nhìn rất nhanh sang một bên.

Như: Liếc mắt nhìn trộm, liếc mắt đưa tình, liếc qua những trang sách.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Chúng ta đã ngó thấy xung quanh của chúng ta, cả toàn thể nhơn loại có tới 2.700 triệu, chúng ta liếc mắt ngó lại nhiều kẻ còn mang thân cô quạnh ngồi giữa chợ đau khổ không ai hay, không cơm ăn, tật nguyền không ai ngó đến, không ai giúp sức cho, hiu quạnh đường đời, nhiều quả mạng căn kiếp số của hạng chúng ta, chúng ta không vi chủ nó đặng.

Ưu phiền than thở có ai thương,

Vinh nhục liếc xem sự tỏ tường.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LIÊM

Liêm là trong sạch, không gian tham.

Như: Thanh liêm, ông quan liêm khiết, làm người quân tử phải có liêm sỉ.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Trong nước hiện giờ thì có các Ðạo giáo thanh liêm chánh trực đang làm cha mẹ cho dân, cái tinh thần tạo hạnh phúc cho dân, một trang anh dũng biết bảo trọng nền quốc tuý, nâng đỡ nước nhà, biết tôn sùng nhơn nghĩa, chúng ta đã ngó thấy các Ðạo giáo của chúng ta đem cái nhơn nghĩa làm huờn thuốc liệng vào tâm lý của loài người là có thể trị đặng cái tinh thần bạo ngược của họ.

Liêm là một đức tính ít người được có và những ai đã thực hành được chữ Liêm cũng cho là bậc phi thường trong thiên hạ.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LIÊM CHÍNH

廉 正

Liêm: Trong sạch. Chính (Chánh): Ngay thẳng.

Liêm chính, như chữ “Thanh liêm chính trực”, tức chỉ người trong sạch, ngay thẳng.

Như: Làm quan phải liêm chính.

Còn những quan cai trị là những bậc liêm chánh, giữ mình thật trong sạch để làm gương cho đoàn hậu tấn.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LIÊM KHIẾT

廉 潔

Liêm: Ngay thẳng. Khiết: Trong sạch.

Liêm khiết là nói người giữ ngay thẳng trong sạch, không nhận sự hối lộ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có kể lại một câu truyện như sau: Đời Chiến Quốc có người lượm được hòn ngọc quý, bèn đem dâng hiến cho quan Thái thú là Tử Hản để cầu thân, vị quan này không nhận. Người dâng ngọc thưa rằng: Ngọc này tôi đem cho thợ mài ngọc xem, quả đúng là một bảo vật mới dám đem dâng cho quan lớn, xin quan lớn nhận giùm. Tử Hản nói: Ngươi có ngọc là báu của ngươi, còn ta giữ tánh liêm khiết là báu của ta. Ngươi cho ta ngọc, nếu ta thâu nhận thì cả hai đều mất của báu. Vậy ngươi cứ đem về, ngươi giữ của báu của ngươi, ta giữ của báu của ta. Như thế, hai người đều còn của báu, há chẳng hay hơn sao?

Đức chánh chơn, thuật xử thế thuần lương,

Hạnh liêm khiết, ôn hoà điều khắc kỷ.

(Ai Điếu Hương Lự).

Độ chúng từ bi tâm đã sẵn,

Dìu người liêm khiết dạ cần trau.

(Thơ Hương Ánh).

Liêm khiết trau mình cho đáng giá,

Nghĩa nhân dạy chúng mới tròn câu.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LIÊM SỈ

廉 恥

Liêm: Trong sạch. Sỉ: Xấu hổ.

Liêm sỉ là người biết xấu hổ khi làm việc quấy. Nghĩa rộng: Biết điều xấu để tránh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðời có Ðạo, tức là có kỷ cương trật tự, người quân tử đều ra ứng dụng, đem cái hay cái biết của mình mà thật hành cho đời nhờ. Vì đó mà được chúa Thánh tôi Hiền, muôn dân cảm mến, nên cần mẫn chơn chánh, biết lo nghĩa vụ giữ liêm sỉ.

Nam thì hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ.

(Tân Luật).

 

 

LIÊM TRỰC

廉 直

Liêm: Trong sạch. Trực: Ngay thẳng.

Liêm trực là nói người có tính ngay thẳng, và thanh liêm, trong sạch.

Vui câu liêm trực thanh bần,

Hôm nay rồi rảnh nợ trần thảnh thơi.

(Thơ Thượng Cảnh Thanh).

 

 

LIẾM LÁP

Liếm: Lấy đầu lưỡi rà qua rà lại trên một vật.

Liếm láp là liếm một cách qua loa.

Liếm láp còn có nghĩa là kiếm chác chút ít tiền của một cách hèn hạ, đáng khinh bỉ.

Ví biết trai nhơn nghĩa giữ tròn,

Để liếm láp sợ mòn chi chút gái.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LIÊN CAN

連 干

Liên: Liền với nhau. Can: Phạm vào một tội gì.

Liên can là bị can án với người khác, hoặc dính líu vào một việc gì.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ông Nguyễn Phát Trước, tục gọi là Tư Mắt, có câu: Ngươi làm tội chớ Cha ngươi là trung hiếu lưỡng toàn, hay thương yêu đồng chủng, mà bị tội giáo tử bất nghiêm, để đến đỗi hại sanh linh đã lắm lúc nên bị tội liên can đó mà thôi, phải ở tại ngục Nguơn Tiêu mà đợi ngươi đến.

Dưới bóng trăng thanh dầu lánh tội,

Trước gương Minh cảnh có liên can.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LIÊN CHI

連 枝

Liên: Liền, nối liền. Chi: Cành, nhánh.

Liên chi là liền cành hay giao cành.

Do tích: Vợ Hàn Bằng tên là Hà Thị, là người đàn bà đẹp người đẹp nết, đến đỗi Tống Khang Vương thấy rồi mê thích. Nhưng biết Hà Thị là người tiết hạnh, khó mà ép uổng cho được, bèn ra lịnh giết Hàn Bằng. Vậy mà Hà Thị vẫn cương quyết không chịu thất thân với Khang Vương, cắn lưỡi tự tử và để lại một bức thư xin được chôn chung với chồng.

Tống Khang Vương tức giận, chôn hai người cách xa nhau nhưng hai mộ đối nhau. Sau người ta thấy mỗi cái mộ mọc lên một cây to, trên thì có cành giao nhau, còn dưới thì rễ ăn liền với nhau.

Xem: Liền cành.

Vườn xuân đào lý buổi liên chi,

Tác hợp cho con lúc thiếu thì.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LIÊN ĐÀI

蓮 臺

1.- Liên đài là đài sen. Nơi cõi Thiêng liêng, Liên đài như một chiếc xe đưa các Chơn linh đắc Đạo vào Tây phương Cực Lạc.

Tiên phong phủi ngọn phất trần,

Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.

(Kinh Thế Đạo).

2.- Liên đài còn dùng để chỉ Toà sen, nơi ngự của chư Phật và chư Bồ Tát, hoặc chỉ ngôi vị nơi cõi Phật.

Liên đài may nở thêm hoa.

Lão Đam cũng biết, Thích Già cũng quen.

(Kinh Tận Độ).

Ao Thất Bửu gội mình sạch tục.

Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.

(Kinh Tận Độ).

3.- Ngoài ra, Liên đài còn là một cái quan tài hình bát giác, đặt trên Toà sen, dành cho các chức sắc cao cấp đối phẩm hàng Tiên vị của đạo Cao Đài.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Chung quanh Bát quái đài phải làm như hình có cột, tại chính giữa tháp phải có một lỗ cho nhựt quang rọi tới Liên đài.

Ngậm tiếc ngùi thương đoàn hậu tấn,

Long Hoa chờ buổi rước Liên đài.

(Thơ Hoàng Nguyên).

Nhẫng mong đất nước mau bình trị,

Sớm được Liên đài lại cố bang.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LIÊN HIỆP

Hay “Liên hợp”.

Liên: Liền với nhau, tiếp hợp nhau. Hiệp (hợp): Hiệp nhau, giống nhau.

Liên hiệp, như chữ “Liên hợp 連 合” là cùng nhau, kết hợp với nhau, hoặc sự liên kết giữa nhiều nhóm, nhiều đoàn thể, nhiều nước.

Thánh giáo Thầy dạy ba Ngài Cư, Tắc, Sang có câu: Ba con đã lãnh mạng lịnh lớn lao vẹt đường tăm tối trong buổi ban sơ, Thầy lại khiến cả ba đứa phải liên hiệp nhau mới có thể xây đắp nền Ðạo cho đến cùng.

Thầy vì các con xin lắm mới ép lòng chịu vậy, chớ Chánh trị với Ðạo chẳng buổi nào liên hiệp cùng nhau.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LIÊN HOA

蓮 花

Liên: Sen. Hoa: Bông.

Liên hoa là bông sen.

Phật giáo dùng hoa sen biểu tượng cho chân lý hiện thực trong cuộc đời đầy ưu phiền và tục lụy. Hoa sen biểu trưng cho con đường nhập thế của Phật giáo, như câu thành ngữ: “Cư trần bất nhiễm trần 居 塵 不 染 塵” (Sống ở trên trần gian nhưng không bị nhiễm bởi cõi trần, tựa như hoa sen gần bùn mà không hôi mùi bùn), hay: “Phật pháp bất ly thế gian 佛 法 不 離 世 間” (Pháp của Phật không rời khỏi thế gian). Do vậy, hoa sen thường được Phật giáo biểu tượng là Toà sen, hay ngôi vị Phật.

Đã hay căn nghiệp là tên độc,

Mà cũng liên hoa thoát tục trần.

(Thanh Sơn Đạo Sĩ).

 

 

LIÊN HOÀ

連 和

Liên: Liền với nhau. Hoà: Không sinh sự, thoả thuận.

Liên hoà là liên kết, hoà hiệp với nhau.

Đại Thừa Chơn Giáo có đoạn: Đã là “Tả Chi Hữu Dực” của Đạo Trời thì hai cơ thể “Bí truyền” và “Phổ hoá” phải liên hoà tương tiếp, tương trợ lấy nhau mới có thể chống vững Đạo Trời và làm cho cây Đạo đặng rườm rà sung túc thêm lên.

Ngoan ngùy chơn chánh Phật, Thần thương,

Chơn chánh liên hoà với thiện lương.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

LIÊN HOAN

連 歡

Liên: Tiếp hợp nhau, liền với nhau. Hoan: Vui vẻ.

Liên hoan là cuộc vui chung có đông người cùng tham gia với nhau.

Như: Tổ chức buổi tiệc ăn liên hoan, Liên hoan văn nghệ sĩ cuối năm.

Đợi buổi bèo mây vầy một hội,

Tương phùng vui cạn chén liên hoan.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LIÊN HUÊ

Hay “Liên hoa”.

Liên: Sen. Huê (hoa): Bông.

Liên huê, như chữ “Liên hoa 蓮 花”, là bông sen.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo thường giảng, cái sự yêu thương là một của cải Thiêng Liêng, nếu cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn tạo nó đặng, thì dầu cho Cửu Phẩm Liên Huê ở Cực Lạc Thế Giới vô cũng đặng.

Xem: Liên hoa.

Liên huê mấy thức chẳng phai màu,

Giữa chốn bụi nhơ giữ phẩm cao.

(Đạo Sử).

 

 

LIÊN LẠC

連 絡

Liên: Liền với nhau. Lạc: Buộc lại.

Liên lạc là nối liền, buộc liền nhau, tức hai bên hợp liền với nhau.

Thánh giáo Thầy có câu: Hại nữa là các con lại bị nó tàng ẩn, xô cho dang nhau, bứt nghiến tình đoàn thể, chặt lìa dây liên lạc, giành xé cắn rứt nhau như kẻ khác nhà, gà riêng ổ, cho đừng có thế lực chi mà kình chống với chúng nó, rồi rốt cuộc lại thì các con phải lần lần bị manh mún phân chia, sa vào hang sâu vực thẳm.

Đối với hàng đạo hữu phải nuôi nấng cái tính thù tạc với nhau, cho khắng khít cái dây liên lạc.

(Tân Luật).

 

 

LIÊN NGÂM

聯 吟

Liên: Nối tiếp, liền nhau. Ngâm: Ngâm thơ, tức đọc thơ theo giọng trầm bổng.

Liên ngâm tức là cùng nhau làm thơ, người này làm xong thì ngâm lên, rồi các người kế tiếp nối theo như thế cho đến hết bài.

Đối ẩm liên ngâm sầu chẳng dứt,

Cô miên điệp mộng thảm từng cơn.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LIÊN QUAN

連 關

Liên: Tiếp hợp nhau, liền với nhau. Quan: Dính dáng, liên lạc, quan hệ.

Liên quan là có mối quan hệ nào đó với nhau, hoặc có dính dáng đến. Như: Liên quan mật thiết nhau.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Sự công dụng của các cơ cấu trong Ðạo đều khác nhau, nhưng tất cả các cơ cấu đều có sự liên quan mật thiết với nhau cũng y như những bộ phận trong một động cơ nếu thiếu một món nào, dầu là một cái khoen hay một đinh ốc nhỏ thì động cơ phải bị tê liệt.

Đời Đạo liên quan hoà ái chủng,

Đạo thành Đời rạng cảnh thần Tiên.

(Thơ Thông Quang).

Liên quan các cảnh vô hình,

Đặng mà cầu rỗi vong linh siêu phàm.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

LIÊN TIẾP

連 接

Liên: Liền với nhau. Tiếp: Giáp, liền, nối liền.

Liên tiếp là tiếp liền nhau, hết cái nầy đến cái khác.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hiện thời Ðạo mới ra đời hơn bốn mươi năm, trong nước lại đương hồi bị nạn chiến tranh liên tiếp, chức sắc Phước Thiện vì thời cuộc mà chưa thực thi chính sách kinh doanh, khai thác kỹ nghệ, mở mang nông nghiệp sản điền.

Tinh thần hay liên tiếp nhâm thần,

Trí hoá nhập vào thân đứa chửa.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LIÊN TOÀ

Liên: Hoa sen. Toà (toạ): Toà, chỗ ngồi.

Liên toà, như chữ “Liên toạ 蓮 座”, là toà sen, tức chỗ ngồi của Đức Phật.

Xem: Liên toạ.

Liễu yếu đem đường dìu liễu yếu,

Tranh xưa thêm rỡ cảnh liên toà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LIÊN TOẠ

蓮 座

Hay “Liên toà”.

Liên: Hoa sen. Toạ: Toà, chỗ ngồi.

Liên toạ là toà sen, tức chỗ ngồi của Đức Phật hình hoa sen.

Liên toạ đồng nghĩa với chữ “Liên Đài”.

Cho nên Đức Phật trọng dùng,

Để làm Liên Toạ gợi lòng người tu.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

LIÊN THẦN

蓮 神

Liên: Bông sen. Thần: Thiêng liêng, mầu nhiệm.

Liên thần là bông sen Thần, tức bông sen Thiêng Liêng mầu nhiệm.

Khi người tu được đắc đạo thì bông sen Thần sẽ đưa bước Chơn linh đi lên Cửu Trùng Thiên.

Dưới chín lớp liên thần đưa bước,

Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu.

(Kinh Tận Độ).

Liên thần đưa bước xa miền tục,

Khí phách nương mây ngự đảnh Bồng.

(Thơ Thiện Tâm).

 

 

LIÊN TRÌ

蓮 池

Liên: Bông sen. Trì: Ao.

Liên trì là ao sen.

Hoa sen trong Đạo Phật biểu trưng cho nếp sống giải thoát thanh tịnh, đức hạnh trong sạch, cũng như hoa sen nở trong ao bùn nhưng không hôi tanh mùi bùn.

Chư Phật hay chư vị Bồ Tát thường ngồi hay đứng trên toà sen.

Liên trì mai nở sắc sen sưa,

Cải ác ngày nay nghĩ cũng vừa.

(Đạo Sử).

Chơi ngự uyển khi khoe hồng thắm,

Dạo liên trì lúc ngắm trăng lên.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

LIẾN

Liến cũng như chữ “Lí lắc”, là hay đùa nghịch, chọc phá, giỡn hớt.

Như: Liến khỉ, bộ mặt nó xem liến lắm, thằng bé nầy liến quá ai mà coi chừng nó cho nổi.

Thiệt bịnh liến của tôi cũng quá,

Vẽ thật tình mấy ả chênh lòng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LIỀN

1.- Liền là sát với nhau, dính với nhau, không cách. Như: Hai thủa ruộng liền ranh, hai nhà liền nhau, sướng và khổ đi liền bên nhau.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Thế thì cái vui vẫn đi liền với cái khổ chỉ khi nào bỏ gánh xuống thì mới chấm dứt hẳn được vui sướng và khổ đau.

Liền nhành xưa đã thệ cùng nhau,

Sao nỡ để gương kép hại đào.

(Đạo Sử).

Côn trùng còn đoạt được nhơn duyên,

Ngũ bộ Lôi công định sát liền.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Liền là liên tục nối tiếp nhau, không bị gián đoạn về không gian cũng như thời gian.

Như: Bản liền, mặt đường liền, ba đêm liền, đường về quê liền một mạch.

Bắc cầu đắp sửa đường liền,

Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.

(Kinh Sám Hối).

3.- Liền là tức thì, ngay lập tức. Như: Chỉ kịp dặn vài câu rồi đi liền, vừa đến cửa nhà liền trở về ngay.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Ðức Hộ Pháp lại may mắn hơn. Ðức ngài đã thành công mỹ mãn và dân tộc Việt Nam được hưởng liền sự nghiệp của Ðức Ngài trong khi Ðức Ngài còn tại thế.

Nếu vội trách người trên thì đọa,

Cũng có khi tai hoạ trả liền.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LIỀN CÁNH LIỀN CÀNH

Liền cánh: Bởi chữ “Tỷ dực điểu 比 翼 鳥” là loài chim bay cánh liền nhau. Liền cành: Bởi chữ “Liên lý chi 連 裏 枝” là hai cây có cành liền nhau.

Liền cánh liền cành, do câu “Tỷ dực điểu, liên lý chi”, tức là chim kết cánh, cây liền cành, ý muốn nói vợ chồng gắn bó không rời xa nhau được.

Theo bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị, vua Đường Huyền tông và Đường quý phi nguyện với nhau trong đêm “thất tịch”: Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu, tại địa nguyên vi liên lý chí 在 天 願 作 比 翼 鳥, 在 地 願 為 連 裏 枝, nghĩa là trên trời nguyện làm đôi chim liền cánh, dưới đất nguyện là hai cây liền cành.

Xem: Kết cánh liền cành.

Đôi chim vun vút trời xanh,

Cùng nhau liền cánh, liền cành líu lo.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

LIỀN LIỀN

Liền: Sát với nhau, dính với nhau, không gián đoạn, không cách khoảng nhau.

Liền liền là tiếp theo một cách liên tục, không ngừng, không ngớt.

Như: Thời chiến tranh nghe súng nổ liền liền.

Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,

Tra tội nhơn, gian giảo ngược ngang.

(Kinh Sám Hối).

Trả vay vay trả liền liền,

Nhơn nào quả nấy, nghiệp duyên buộc mình.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LIỀN NHÀNH

Liền: Dính nhau, sát nhau. Nhành (cành): Cành cây.

Liền nhành, cũng như “Liền cành”, bởi chữ “Liên lý chi 連 裏 枝” tức là cành của hai cây liền với nhau, dùng để chỉ tình yêu thuỷ chung, gắn bó.

Do tích hai cây mọc trên mộ của vợ chồng Hàn Bằng có cành ôm liền với nhau.

Xem: Liên chi.

Liền nhành xưa đã thệ cùng nhau,

Sao nỡ để gương kép hại đào.

(Đạo Sử).

 

 

LIỄN

1.- Liễn là dải vải, giấy, hoặc tấm gỗ dài, dùng từng đôi một để viết, khắc câu đối treo song song với nhau.

Như: Liễn đối, liễn tang, liễn tết, đi mừng đôi liễn.

Nói về nhạc, Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Các vật vô năng mà nói đặng có trật tự niêm luật hoà nhau là đạt Ðạo, hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật đồng thinh hiến lễ. Nơi Ngọc Hư Cung có đôi liễn: “Bát hồn tư mặc ca Hoàng Lão, vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn”.

Cặp liễn tang còn câu long ám,

Hạc quy hồi lãnh đạm trần ai.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Liễn là xe vua ngồi, hay cho các Đấng thiêng liêng dùng để đi, hoặc xe do người kéo thuê.

Như: Xe phụng liễn (xe có chạm hình chim phụng), liễn phu (người kéo xe).

Siêu thăng Phụng Liễn quy khai,

Tiên cung Phật xứ Cao Ðài xướng danh.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

LIỆNG

1.- Liệng là nghiêng cánh bay theo đường vòng.

Như: Chim én liệng trên bầu trời, lá vàng chao liệng trong gió, máy bay liệng cánh.

Nhàn Âm Đạo Trưởng trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Còn con hạc nội, tuy bữa đói bữa no, nhưng Trời Ðất rộng thinh, mặc tình cao bay xa liệng.

Sáng đèn cánh bướm liệng xôn xao,

Lánh hoạ tua gìn hạnh đức trau.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Sương nồng nhánh liễu chim bay liệng,

Luyện đặng trường sanh thoát thế thường.

(Đạo Sử).

Kìa lũ én dật dờ cánh liệng,

Dựa chơn mây kêu tiếng nỉ non.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Liệng là bỏ, quẳng đi. Như: Liệng bỏ đồ ăn mốc meo, công tình giữ bấy lâu nó liệng đâu mất.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thảm thay! Hồng ân ấy, Chí Tôn liệng trong tay mà không biết nắm, tức nhiên họ làm mất đạo nghiệp của họ vậy.

Liệng giáo buông khiên binh đổ dữ,

Sa cơ thất trận tướng ra ngây.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LIỆT

1.- Liệt là sắc bày, số nhiều. Như: Liệt tên vào sổ sách, liệt vị, Đông Châu liệt quốc, liệt Thánh.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh khi nói về ngày quy thiên của Đức Hộ Pháp có câu: Quý liệt vị thử nhìn xem toàn Ðạo khi hay tin Ðức Ngài thoát xác, đều tự động về Tổ đình chầu lễ Quy Thiên và xin cùng Hội Thánh thọ tang Ðức Ngài, đủ nói lên tấm lòng mến tiếc xót thương Ðức Ngài như thế nào rồi.

Chư Thần choá mắt màu thường đổi,

Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Liệt là nóng, mạnh, bạo tợn, không dùng một mình. Như: Mãnh liệt, khốc liệt, kịch liệt, quyết liệt.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðiều mà Hội Thánh quá thâm cảm là mỗi khi có tiếng kêu gọi của Hội Thánh để thật hành một công tác nào thì toàn thể Chức sắc, nhơn viên và công quả đều sẵn sàng hưởng ứng mãnh liệt, đem hết thiện chí và khả năng để phục vụ cho đến khi công việc hoàn thành mỹ mãn.

Tinh trung lửa thét thành Bình Ðịnh,

Khí liệt gươm đề tỉnh Quảng Ðông.

(Đạo Sử).

3.- Liệt là cứng cỏi mạnh mẽ. Như: Liệt nữ, liệt phụ, liệt sĩ, liệt truyện.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bao nhiêu xương máu con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn tức nhiên bao nhiêu sanh mạng anh hùng Liệt sĩ Cao Đài. Mỗi một giọt máu là một giọt huyết lệ chan hoà trong ấy.

Nương mây đợi mỏi lòng tình ái,

Mượn ngọc trông ngơ tấm liệt trinh.

(Đạo Sử).

Xem từ trước anh thư nữ liệt,

Dầu đến điều chẳng tiếc phận đào thơ.

(Phương Tu Đại Đạo).

4.- Liệt là kém, xấu, yếu. Như: Liệt bại, liệt nhược, ưu liệt, ưu thắng liệt bại.

Thánh giáo Thầy có câu: Biết Ðạo, biết ta biết người, biết thế biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt, rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối.

Hiện nay là buổi kim tiền, ưu thắng liệt bại, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LIỆT CƯỜNG

列 強

Liệt: Chỉ số nhiều. Cường: Mạnh.

Liệt cường chỉ những thế lực mạnh mẽ, ý nói các nước mạnh về về quân sự trên thế giới.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông có câu: Rồi đây danh thể của Đạo sẽ tiến lên cao hơn các đảng phái và các nước liệt cường nữa mà.

Tiêu tàn Hớn nghiệp bay mùi oán,

Rắc rối đảng Thanh định liệt cường.

(Tôn Sơn Chơn Nhơn).

 

 

LIỆT NỮ

烈 女

Liệt: Ngay thẳng, cứng rắn. Nữ: Người con gái.

Liệt nữ là gái tiết liệt, tức những người phụ nữ kiên trinh, có khí tiết khẳng khái, anh hùng, không chịu khuất phục một ai.

Ông Vương Súc có nói: Trung thần bất sự nhị quân, liệt nữ bất giá nhị phu 忠 臣 不 事 二 君, 烈 女 不 嫁 二 夫, nghĩa là tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết không lấy hai chồng.

Chở che khỏi kiếp phong trần,

Gìn gương liệt nữ hồng quần để soi.

(Kinh Thế Đạo).

Để lời nhủ bạn quần thoa,

Kiên trinh liệt nữ phẩm nhà chớ quên.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LIỆT QUỐC

列 國

Liệt: Từ chỉ số nhiều. Quốc: Nhà nước.

Liệt quốc là nhiều nước.

Ở Trung Hoa dưới thời Đông Châu có rất nhiều nước nhỏ (Chư hầu), nên sử gọi là Đông Châu liệt quốc.

Đức Hộ Pháp có thuyết: Nói vi chủ tức là của mình nếu có Ðạo Nho sẵn trước thì ta có Ðạo Nho, Ðạo Lão, Ðạo Phật ba nền Tôn Giáo mà mặt địa cầu nầy nhìn là trọng yếu, bất kỳ là sắc dân nào, hay liệt quốc nào cũng đều nhìn nhận là do trong xứ Á Ðông nầy.

Liệt quốc sau cơn nguy đại chiến,

Hướng về Việt quốc lãnh niềm thương.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LIỆT SĨ

烈 士

Liệt: Cứng cỏi, ngay thẳng. Sĩ: Kẻ sĩ.

Liệt sĩ là người lấy nghĩa làm trọng, coi cái chết làm nhẹ, tức là người anh hùng chiến sĩ chết vì chính nghĩa, vì quốc gia dân tộc.

Như: Anh hùng liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ.

Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,

Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Hưng thạnh còn chờ tay liệt sĩ,

Vẫy vùng cho đáng mặt phong vân.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

LIỆT THÁNH

列 聖

Liệt: Từ để chỉ số nhiều. Thánh: Hàng Thánh.

Liệt Thánh là các bậc Thánh nhân, chư vị Thánh.

Thuyết Đạo Hộ Pháp vào ngày rằm tháng giêng năm Ất Mùi (Dl. 07-02- 1955) có đoạn: Ngày kia, khi Ðạo Cao Ðài đã mạnh mẽ tràn lan khắp năm châu. Lúc ấy thế giới sẽ đua nhau về đây thỉnh Ngọc Xá Lợi của Liệt Thánh về chiêm ngưỡng cũng sẽ không kém gì cuộc cung nghinh xá lợi Phật của thế giới ngày nay vậy.

Chư Thần choá mắt màu thường đổi,

Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

An dân liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn,

Văn hoá tương lai lập đại đồng.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

 

 

LIỀU

Liều là làm không sợ nguy hại, tức hành động một cách táo bạo, bất chấp nguy hiểm, bất chấp hậu quả có thể gây ra tai nạn. Như: Liều thân, liều mạng.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy chẳng biết bây giờ đây, Thầy phải bỏ Ðạo, liều đoạ với các con, hay là đợi cho Ðạo bỏ Thầy đó các con?

Trăm cay ngàn đắng cũng chiều,

Quý thân quân tử, dám liều với thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Một nhành xuân giá đáng bao nhiêu,

Cũng đành chịu nạp liều tay quân tử.

(Phương Tu Đại Đạo).

Đệ sớ thà liều ra ải nhạn,

Tử sanh quyết trọn với tình nồng.

(Thơ Cao Liên Tử).

 

 

LIỀU MẠNG

Hay “Liều mệnh”.

Liều: Hành động bạo, bất chấp nguy hiểm. Mạng (mệnh): Sinh mạng, tánh mạng.

Liều mạng, như chữ “Liều mệnh”, có nghĩa là liều, dù biết nguy hiểm đến tính mạng, tai hại cho mình, vì cho rằng không còn cách nào khác.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Dũng cảm đối với Ðức Khổng Tử không phải là cậy sức làm liều mạng, mà Dũng là giữ niềm hoà khí, lúc nào cũng sống với đạo lý của mình, ý chí không thể bị lay chuyển dù là lúc bình thường hay trong hồi nguy biến.

Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,

Cho người hiền chịu lỗi vương mang.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LIỀU MÌNH

Liều: Làm không sợ nguy hại. Mình: Thân mình.

Liều mình là đem thân mình làm một việc nguy hiểm, hoặc việc đại nghĩa.

Liều mình còn chỉ việc tự tử.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngoài ra những đấng anh hùng tương lai của đất nước, những nhơn vật đã dám tuẫn tiết vì non sông, dám liều mình vì dân tộc đã đem thắng lợi cho quê hương và giữ danh dự chung cho nòi giống.

Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,

Liều mình tự vận không màng thảo ngay.

(Kinh Sám Hối).

Dựng nước chẳng ai tài tướng lược,

Liều mình thiếu kẻ đáng hùng anh.

(Đạo Sử).

 

 

LIỀU THÂN

Liều: Làm không sợ nguy hại. Thân: Thân mình.

Liều thân, như chữ “Liều mình”, là đem thân mình làm một việc nguy hiểm, hoặc làm một việc đạo nghĩa.

Thánh giáo Thầy có dạy: Ôi! Thảm thay! Thảm thay! Các mối Ðạo Thầy đã liều thân lập thành đều vào tay Chúa Quỷ hết, nó mê hoặc các con.

Cứu chuộc lắm gương Tiên Thánh để,

Liều thân độ chúng dạ khăn thìn.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Hễ của hết thì tình cũng dứt,

Hại gái lành uất ức liều thân.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LIỄU

1.- Liễu là loại cây có cành mềm rũ xuống thướt tha, lá hình ngọn giáo có răng cưa nhỏ, thường trồng để làm cảnh. Như: Cành liễu, mày liễu.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Biển khổ đã lắm nổi chìm, mà nhành dương liễu chẳng mau vói níu, đoạ trầm luân chưa chịu thoát, mà điều tình tội lại chác thêm, buộc thảm đeo phiền, cũng tự mình tác tệ, chờ ăn năn rất muộn về sau. Khá hiểu lấy.

Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,

Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chiều xuân sương toả lồng sân hoạn,

Dặm liễu trăng soi rạng bước đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Liễu là xong, rồi. Như: Liễu kết, quy liễu.

Điếu văn của Đức Thượng Sanh đọc trước Liên đài Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Ngài Tiếp Pháp Chơn Quân quy liễu, một tin đau đớn bất ngờ, khiến cho toàn thể Chức Sắc và Ðạo hữu xa gần đều xúc động tiếc thương.

Nhựt tại thiềm đầu, nguyệt tại song,

Hà thời liễu đạo đắc Tiên phong.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cho hay cái chí tu hành,

Ðến ngày quy liễu phước lành Thầy ban.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LIỄU BỒ

柳 蒲

Liễu bồ, như chữ “Bồ liễu”, là cây thuỷ dương mọc bên bờ nước, cành mềm rủ xuống, là rụng sớm hơn các loại cây, chỉ thể chất yếu ớt phụ nữ.

Liễu là dương liễu, bồ là cỏ bồ. Cây liễu mềm mỏng, cỏ bồ yếu ớt, nên người ta thường ví với người phụ nữ mềm mại, yếu đuối.

Xem: Bồ liễu.

Thương tô điểm anh thư khí tiết,

Thương học đòi cương quyết liễu bồ.

(Bát Nương Giáng bút).

Hễ người mạnh thì hay cậy sức,

Phận liễu bồ lấy lực mưu mô.

(Phương Tu Đại Đạo).

Giềng mối giữ an phận liễu bồ,

Dặm ngàn xa phải chịu thân cô.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

LIỄU CHƯƠNG ĐÀI

柳 章 臺

Liễu Chương Đài tức là cây liễu ở Chương Đài, trong thành Trường An, chỉ người yêu đã xa cách.

Do tích chép trong Toàn Đường Thi Thoại: Hàng Hoành yêu một kỹ nữ là Liễu Thị ở đường Chương Đài, tại Thành đô. Sau Hàng Hoành làm quan xa, Liễu Thị ở nhà bị giặt cướp mất. Hoành bèn viết lá thư gửi cho Liễu trong ấy có câu: Chương Đài liễu! Chương Đài liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thuỳ, dã ưng phan chiết tha nhân thủ! 章 臺 柳! 章 臺 柳! 昔 日 青 青 今 在 否? 縱 使 長 條 似 舊 垂, 也 應 攀 折 他 人 手, nghĩa là Liễu Chương Đài! Liễu Chương Đài! Ngày trước xanh xanh nay có còn không? Cho dù cành dài còn buông rũ như cũ thì hẳn tay người khác bẻ mất rồi. Sau Liễu Thị xem xong bèn trả lời: Dương liễu chi phương phi tiết, khả hận niên niên tặng ly biệt. Nhất diệp tuỳ phong hốt báo thu, túng sử quân lai khải kham chiết 楊 柳 枝 芳 菲 節, 可 恨 年 年 贈 離 別. 一 葉 隨 風 忽 報 秋, 縱 使 君 來 豈 堪 折, nghĩa là cành dương liễu đang lúc tốt tươi, đáng hận năm năm tặng ly biệt. Lá rơi theo gió báo thu sang, nếu anh có đến thì cũng không bẻ được. Về sau nhờ Hứa Tuấn tìm cách đưa Liễu về sum họp với Hàng Hoành.

Chê vành xuân hết bịu mai,

Kiếm đường hỏi Liễu Chương đài bao mươi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LIỄU ĐẠO

了 道

Liễu: Xong, hết. Đạo: Tôn giáo, việc Đạo.

Liễu đạo là xong rồi một kiếp hành đạo, ý chỉ sự chết của một vị Chức sắc hay tín đồ của đạo Cao Đài.

Định về việc truy phong, Đạo Luật Năm Mậu Dần có câu: Những vị Hàm Phong mà còn lập nên công nghiệp vĩ đại, nhưng liễu Đạo trước ngày cầu thăng thưởng, cũng đặng Hội Thánh xét công nghiệp cầu truy phong thăng thưởng.

Nhựt tại thiềm đầu, nguyệt tại song,

Hà thời liễu đạo đắc Tiên phong.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LIỄU HOA

柳 花

Liễu: Dương liễu, loại cây có cành mềm rũ xuống, lá hình ngọn giáo có răng cưa nhỏ. Hoa: Bông hoa.

Liễu hoa là bông cây liễu, hoặc cây liễu và hoa.

Liễu hoa, như chữ “Hoa liễu”, là một loại bệnh làm tổn thương bộ phận sinh dục vì chơi bời mà gây ra.

Chuỗi bồ trừ nghiệt gió trăng,

Linh đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LIỄU YẾU

Liễu: Cây liễu, một loại cây mềm yếu, thường dùng ví với phụ nữ. Yếu: Yếu ớt.

Người đàn bà, con gái có thân hình yếu ớt, mềm mại nên trong văn chương người ta thường ví người phụ nữ như cành liễu yếu.

Liễu yếu đem đường dìu liễu yếu,

Tranh xưa thêm rỡ cảnh liên toà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Phòng the vẹn phận trau gương thắm,

Liễu yếu đừng phen cợt gió đông.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

LIỄU YẾU ĐÀO THƠ

Liễu yếu: Cây liễu mềm mại yếu ớt. Đào thơ: Hay đào tơ, tức cây đào còn tơ non.

Liễu yếu đào thơ tức là yếu ớt như cành liễu, tơ non như cành đào, dùng để chỉ về thể chất người đàn bà con gái yếu ớt, mềm mại.

Thương chẳng gìn liễu yếu đào thơ,

Thương chẳng kể hẫng hờ thân gái.

(Bát Nương Giáng Bút).

Mỉm miệng đào thơ cười cợt gió,

Nghiêng mình liễu yếu đón chào trăng.

(Thơ Tiếp Pháp).

 

 

LIỄU MAI

柳 梅

Liễu: Cây dương, có cành mềm rũ xuống, lá hình ngọn giáo có răng cưa. Mai: Bông mai.

Liễu mai là cây liễu và cây mai, hai loại cây mềm mại, thước tha nên thường ví với người con gái mảnh mai.

Cội thung thấy càng cao tuổi hạc,

Nhớ liễu mai chếch mác mà đau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LIỄU NGÕ HOA TƯỜNG

Liễu ngõ: Cây liễu trồng ven ngõ. Hoa tường: Bông hoa trồng ngoài tường.

Liễu ngõ hoa tường có nghĩa cây liễu ngoài ngõ, cây hoa bên tường, ai muốn bẻ hái gì cũng được, ý chỉ những người con gái không giữ phẩm giá, hoặc chỉ gái lầu xanh, ai bỏ tiền ra cũng chiếm được.

Bông dầu đẹp, khá gìn hương,

Quý chi liễu ngõ hoa tường trao duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LIỄU TRẦN

了 塵

Liễu: Xong rồi, kết liễu. Trần: Bụi bặm, do chữ “Hồng trần”, có nghĩa là bụi hồng để chỉ cõi thế gian.

Liễu trần có nghĩa là xong rồi một kiếp ở cõi trần, dùng để chỉ sự chết.

Liễu trần đồng nghĩa với chữ “Liễu Đạo”.

Nên khi thoát xác phàm, sợi từ khí bứt ra rất dễ, nên liễu trần một cách êm ái.

(Thiên Đạo).

 

 

LIỆU

1.- Liệu là toan tính, suy xét đại khái các điều kiện và khả năng để nghĩ cách sao cho tốt nhất. Như: Liệu lời, liệu sức, liệu việc mà làm, liệu hồn.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Thói vạy tà của nhiều đứa, ấy chẳng qua là những bẫy của Toà Tam Giáo để cho các con hơ hỏng mà phải vướng chơn lúc hành trình đó. Liệu mà bước, lo mà ngừa, thế nào cho vuông tròn đặng.

Nhặt thúc quang âm xuân đã lụn,

Liệu qua cho khỏi cuộc tang dâu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Khỏi vòng mê tín lại đường ngay,

Lạc nẻo mau chơn liệu trở quày.

(Đạo Sử).

2.- Liệu là vật để dùng làm một việc gì. Như: Vật liệu, tài liệu.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Cả thảy Hội Thánh tưởng lại coi tạo dựng một dinh thự Nữ Đầu Sư Đường như vậy chỉ có 250.000$, có tay thợ nào dám làm không? Tôi dám chắc không dám, bởi vì giọt mồ hôi nước mắt của sắp nhỏ nó đổ vô trong này bằng ba lần như vậy, đó chỉ có nhờ thiên hạ cho mớ vật liệu hoà với giọt mồ hôi đám sắp nhỏ mà nên hình tượng đó vậy.

Sắm vật liệu trong nhà đẹp đẽ,

Đừng kịch thô mất vẻ thanh nhàn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LIỆU BIỆN

料 辦

Liệu: Tính toán sắp đặt. Biện: Làm việc.

Liệu biện là liệu tính trước xem cách làm việc phải như thế nào.

Thánh giáo của Chơn Cực Lão Sư có câu: Nhóm lại nghịch lẫn nhau, gièm siểm nhau, lo đứng trên người khác nhưng lại không tài liệu biện cho có ích chi cả.

Các đường nẻo mà các con sẽ đi đến, Thầy đã liệu biện.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LIỆU CHỪNG

Liệu: Toan tính, liệu sức, liệu lời. Chừng: Hạn, độ vừa, lối.

Liệu chừng có nghĩa là tính chừng, tức tính toán trước xem có cách nào để giải quyết.

Liệu chừng, như chữ “Liệu hồn”, dùng để biểu thị ý cảnh cáo, đe doạ.

Thánh giáo Thầy dạy: Ðường đạo vững bền, chớ nên bạo tính mà cũng chẳng nên giải đãi bần dùng, gắng công trì chí, liệu chừng với nhau mà vẹt cho sạch mấy lối chông gai để cho dễ bước đường sau tấn bộ.

Thiều quang nhặt thúc khuất màu xuân,

Trở bước quanh co rán liệu chừng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LIỆU CHƯỚC

Liệu: Toan tính. Chước: Mưu kế, cách khôn khéo trong việc xử lý công việc.

Liệu chước là toan tính mưu kế, nghĩa là tính toán kỹ lưỡng để làm công việc cho vẹn toàn.

Thánh giáo Đức Diêu Trì Nương Nương có dạy: Chư hiền đồ, xin gắng gia tâm nghĩ xét bổn phận mình, học hỏi thêm mà liệu chước nào cứu bịnh cho nền Đạo.

Rẽ chia liệu chước ngăn làn sóng,

Hoà hiệp tầm phương dẫn bước đường.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

LIỆU ĐỊNH

料 定

Liệu: Tính toán, sắp đặt. Định: Quyết định.

Liệu định, do chữ “Định liệu 定 料”, tức là tính toán lo liệu.

Lý Giáo Tông giáng cơ dạy Ngài Thượng Sáng Thanh như sau: Từ đây, hiền hữu trọn quyền điều khiển Hội Thánh Cửu Trùng Đài, sắp đặt nội bộ, giải quyết các việc hành chánh đạo, trừ phi những việc quan trọng mà Cửu Trùng Đài không thể liệu định thì quyền quyết đoán do Thượng Sanh hoặc Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.

Xem: Định liệu.

Lẽ dĩ nhiên Hội Thánh để cho quý vị thư thả liệu định, tuỳ cơ hội, tuỳ dịp may mà thực hành.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LIỆU LƯỜNG

Hay “Liệu lượng”.

Liệu: Tính toán, sắp đặt. Lường: Liệu tính trước.

Liệu lường là xem xét, tính toán, sắp đặt mọi công việc cho ổn thoả.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Thượng Phẩm có giáng dạy: Cơ đời còn lắm gian nan mà trong cơ Đạo thì mấy em là linh dược, vậy khá liệu lường.

Làm lành cho trọn Phật Trời thương,

Hai chữ hơn thua chớ liệu lường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Khuê tinh chiếu diệu tại Tây phương,

Phải biết ăn năn Ðạo liệu lường.

(Đạo Sử).

 

 

LIỆU LƯỢNG

料 量

Liệu: Tính toán, sắp đặt. Lượng: Lường.

Liệu lượng, như chữ “Liệu lường”, là tính toán, xem xét, sắp đặt công việc. Như: Liệu lượng mọi việc.

Xem: Liệu lường.

Ăn làm sao phải ở làm sao,

Để mấy mặt má đào liệu lượng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LIỆU PHƯƠNG

料 方

Hay “Liệu phương thế 料 方 勢”.

Liệu: Tính toán, sắp đặt. Phương: Hướng, phương pháp, phương thế.

Liệu phương là tìm phương pháp để giải quyết công việc. Đồng nghĩa với liệu bề, liệu thế.

Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Dầu cho luật lệ đời mà làm cho thống khổ nhơn sanh thì Chưởng Pháp cũng liệu phương nài xin chế giảm.

Thìn trau đức tánh để nêu gương,

May gặp Ðạo mầu gắng liệu phương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LIỆU PHƯƠNG THẾ

Liệu: Tính toán, sắp đặt. Phương thế: Phương pháp, phương cách.

Liệu phương thế, như chữ “Liệu phương”, “Liệu thế”, là tìm phương pháp, tìm cách để giải quyết.

Xem: Liệu phương.

Các con liệu phương thế mà nâng đỡ đức tin của môn đệ cao lên hằng ngày, ấy là công quả đầu hết.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LIỆU SỨC

Liệu: Tính toán các điều kiện và khả năng để nghĩ cách sao cho tốt nhất. Sức: Sức khoẻ, khả năng.

Liệu sức là tuỳ theo sức mà lo liệu, tức là tiên liệu xem sức lực, hay khả năng của mình có làm nổi không.

Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Trước khác, nay thì khác, đã mang Thiên mạng nơi mình, phải so quyền liệu sức mà hành chánh, cả chúng sanh đương lao nhao lố nhố trông cậy nơi chư hiền hữu, phải làm sao cho xứng phận thì làm.

Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,

Liệu sức mình cho hẳn sẽ làm.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LIỆU TÍNH

Liệu: Lo liệu, sắp đặt. Tính: Toan tính.

Liệu tính là lo liệu tính toán.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Từ đây, mỗi lần nhóm Bàn Chủ Sự đặng liệu tính việc chi thì con phải có mặt và y theo lời Thầy dạy, phải có ba Chức sắc Hiệp Thiên Ðài có trách nhậm xứng đáng, thì những việc bàn tính mới tiện thi hành.

Còn về sự làm cho rỡ ràng trong đạo hữu, các con nên liệu tính cho kíp.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LIỆU TOAN

Liệu: Lo liệu, sắp đặt. Toan: Tính toán.

Liệu toan là toan tính lo liệu, tức là phải hiểu biết để sắp đặt công việc mà làm cho đạt kết quả.

Liệu toan đồng nghĩa với liệu tính.

Như: Liệu toan việc làm ăn lâu dài.

Đạo tâm xin gắng vẹn gìn,

Đoạ thăng hai lẽ nơi mình liệu toan.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

Rày thời kíp phải liệu toan,

Lập Công bồi đức cứu an linh hồn.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

LIỆU THẾ

料 勢

Liệu: Tính toán, sắp đặt. Thế: Cách, cuộc bày ra, hoặc sức mạnh ảnh hưởng, quyền lực.

Liệu thế là liệu bề, tức là tính toán trước xem có cách nào giải quyết.

Thánh giáo Đức Lý Thái Bạch có câu: Lão đây cũng vậy, mà chư hiền hữu cũng vậy, chúng ta đã đến tạo thế sửa đời, vẫn là phận sự của chúng ta đã hẳn, hãy biết phận mình mới an tâm liệu thế chuyển xây, đã có khó ắt có hay, đã có gay thì có thuận, bền chí xem mảy mún cơ đời.

Lấy chơn đem giả tô thiên vị,

Thắng bại, phàm tâm liệu thế à?

(Trích Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LỊM

Lịm là ở vào tình trạng toàn thân bất động vì không còn sức lực, tri giác.

Lịm là không còn nghe hay thấy nữa, sau khí yếu dần, nhỏ dần.

Như: Bệnh nhân lịm dần rồi mê man, tiếng nhạc trong máy thu thanh lịm dần, nắng chiều tắt lịm.

Nằm trên sạp lịm ngôn từ,

Say vầng nguyệt tỏ hồn như phiêu bồng.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LINH

1.- Linh là thiêng, vật thiêng. Như: Linh thiêng, chùa nầy linh lắm, tứ linh, tánh linh, linh dược.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Dầu cho Thần Thánh Tiên Phật khi xuống thế mang xác phàm, thì buổi chung quy được thưởng hay phạt, đoạ hay thăng đều do nơi Tâm cả, và con người được tánh linh hơn muôn vật là nhờ có Lương Tâm vậy.

Con người có trí khôn ngoan,

Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi.

(Kinh Sám Hối).

Rút vỏ gươm linh ta quyết một,

Chẳng bao kẻ nghịch đặng ăn nằm.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

2.- Linh chỉ hồn hay thân người chết. Như: Linh cữu, linh sàng, linh hồn, điểm linh quang, chơn linh.

Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Vậy Thầy khuyên các con, đứa nào có trí lực bao nhiêu, khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi, vậy cũng uổng cái điểm linh quang của Thầy ban cho các con lắm.

Độ cho hết các hồn địa giới,

Độ vong linh từ ngoại càn khôn.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Liên quan các cảnh vô hình,

Đặng mà cầu rỗi vong linh siêu phàm.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

LINH CẢM

靈 感

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Cảm: Xúc động.

Linh cảm là chỉ tác động trên tinh thần vượt ra ngoài tự nhiên, tức là linh tính tự nhiên như biết trước sẽ xảy ra một việc gì.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hôm nay Qua giảng một điều thiết yếu cho mấy em nghe, quyền siêu thoát. Mấy em xét coi nơi mình mấy em từ chân, tay trong xác thân cho tới cả tinh thần đầu óc mấy em nó đều có linh cảm cả.

Gay chèo thoát khổ đầy linh cảm,

Rạch nước trừ oan đủ diệu huyền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển),

Đẩy xe linh cảm giữa phong trần,

Đáo tuế nay đà hưởng Thánh ân.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LINH CĂN

靈 根

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Căn: Gốc, rễ.

Linh căn là gốc gác thiêng liêng, ý chỉ những người hay những vật có căn gốc nơi cõi thiêng liêng.

Như ta biết, bậc nguyên nhân là những linh căn do Đức Phật Mẫu tạo ra và cho xuống thế gian để dạy dỗ chúng sanh.

Đem con trẻ trở về Tiên cảnh,

Chọn linh căn tánh hạnh thuần lương.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Đầy chan huệ ái miền nhân sự,

Trọn hưởng linh căn chốn đảnh Bồng.

(Thơ Thái Phong).

 

 

LINH CỮU

靈 柩

Linh: Chỉ người đã chết. Cữu: Cái hòm dùng để đựng xác người đã chết.

Linh cữu cùng nghĩa với quan tài, là một cái hòm gỗ dành để tẩn liệm xác người chết.

Trong Quan Hôn Tang Lễ, mục An táng có viết: Hành lễ châm chước, tụng kinh cầu siêu, khiển điện, di linh cữu ra thuyền Bát nhã...

Trước linh cữu, các em cùng chị,

Cúi đưa anh an nghỉ giấc ngàn thu.

(Văn Tế Bảo Đạo).

Gậy vông con tựa khơi niềm tục,

Linh cữu thuyền đưa nuốt tiếng than.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

LINH CHINH

Linh chinh, như chữ “Lênh chênh”, hầm hinh, gập ghình, không có chỗ dựa vững chắc, dễ nghiêng đổ.

Như: Cái bàn linh chinh khó dọn mâm, cầu bắc qua sông bằng cây ván tạm bợ, đi còn linh chinh lắm.

Vì vậy mà con đường của các con bị linh chinh vì nơi hành động của một hai kẻ có trách nhậm xứng đáng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LINH DIỆU

靈 妙

Linh: Thiêng liêng. Diệu: Khéo léo, huyền diệu.

Linh diệu là có một tính cách đặc biệt không gì so sánh được. Như: Thang thuốc nầy linh diệu.

Linh diệu còn có nghĩa là thiêng liêng mầu nhiệm, biến hoá không lường được.

Các con nên biết, Thầy sanh ra mỗi chủng tộc đều có đặc biệt một phần linh diệu riêng...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LINH DƯỢC

靈 葯

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Dược: Thuốc.

Linh dược là thứ thuốc rất linh nghiệm, tức thứ thuốc chữa được lành nhiều chứng bịnh một cách nhanh chóng, như thuốc Tiên.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Rồi đây, mấy em còn phải đối đầu với mưu mô xảo quyệt đặng lách mình đến tận cơ cứu khổ mà tế thế an bang, gieo tinh thần vị tha trong đại chúng thì mấy em cần phải bình tĩnh và sáng suốt trong mỗi việc. Cười... Cơ đời còn lắm gian nan mà trong cơ Đạo thì mấy em là linh dược, vậy khá liệu lường.

Linh dược đầy bầu là cội ái,

Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

LINH ĐÀI

靈 臺

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Đài: Nền cao để trông xa.

Linh đài nghĩa đen là một cái đài cao thiêng liêng.

Linh đài còn dùng để chỉ chỗ ngự của Linh hồn, nên Linh đài chỉ cái tâm linh của con người, tức chỉ khối óc, trái tim hay tấm lòng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngoài ra hằng ngày ta đã nghe và thấy các tấn tuồng của đời diễn ra từ lớp, hay dở tốt xấu, lành dữ, hư nên ta mới lấy đó mà kinh nghiệm kỹ càng rồi mới lọc lược cái hay, cái khéo ở trong đó mới lập lại làm với một quyển sách của cha mẹ dạy ta từ thử, rồi ta mới đem lên trên Linh Ðài, ta sẽ do theo đó mà làm mực thước cho sự hành vi của ta và ta đủ đức tin nơi đó, là cơ bảo tồn lấy thân ấy gọi là tự túc nơi đó tự tín nghĩa là tu thân.

Kỳ khai tạo nhứt Linh Đài,

Diệt hình tà pháp cường khai Đại Đồng.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

Luyện sao cửu khiếu phát khai,

Thiên môn rộng mở Linh đài quy nguyên.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LINH ĐỊA

靈 地

Linh: Thiêng liêng, linh hiển. Địa: Vùng đất.

Linh địa là vùng đất thiêng liêng, hay vùng đất linh hiển. Đồng nghĩa với chữ “Thánh địa 聖 地”.

Đạo Cao Đài được ơn Trên chọn vùng đất Tây Ninh làm Thánh địa vì nơi đó có “Lục long phò ấn”, nên là vùng đất ấy rất linh thiêng, nên có thể gọi là Linh địa.

An nhàn đợi thuở triều linh địa,

Chuyển thế gặp hồi phải múa đao.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Nô nức nhơn sanh đồng tín ngưỡng,

Rỡ ràng linh địa hiện Cao Đài.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

LINH ĐINH

伶 仃

Hay “Lênh đênh”.

Linh đinh là cô đơn, một mình cô độc, không có ai nhờ cậy. Linh đinh còn có thể viết: 零 丁.

Linh đinh, như chữ “Lênh đênh”, dùng để chỉ sự bềnh bồng, trôi nổi không có chỗ nương tựa, lưu lạc khắp bốn phương.

Thánh giáo Nhàn Âm Đạo Trưởng có đoạn: Cũng nơi Thiên tai, ách nước, nhưng rất đau lòng dòm thấy muôn ngàn nhơn loại lặn hụp chới với nơi vực thẳm hang sâu kia, mà con thuyền Bát Nhã cũng còn sóng dập gió dồi, linh đinh trên biển khổ sông mê, khó vớt người bị đắm.

Xem: Bèo nước lênh đênh.

Đòi phen lúc biến khi dời,

Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.

(Kinh Thế Đạo).

Ba đào tuổi trẻ nhẫn linh đinh,

Con khá gìn ân kẻ giúp mình.

(Đạo Sử).

Càng nghĩ đến linh đinh phận thiếp,

Càng ngại lo tội nghiệp thân con.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LINH ĐÌNH

Linh đình là to tát rộn rịp, tức có nhiều hình thức phô trương, với đông người tham gia. Thường nói về hội hè, cỗ bàn, tiệc tùng.

Như: Đón tiếp rất linh đình, ăn uống linh đình.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Theo thế thường thì giàu đổi bạn sang đổi vợ, con người khi gặp nơi đắc dụng được kẻ biết trọng đãi kính nể mình, ban cho vàng bạc đủ đầy gái tốt hầu hạ sớm khuya, yến tiệc linh đình, tước cao lộc quý thì cho anh em ruột cũng quên được, vợ mình tấm mẳn cũng dứt tình, chúa cũ cũng không màng huống chi là kết nghĩa giao bằng hữu.

Giờ nhập tiệc linh đình cung thỉnh,

Gọi ba ông an định chung ngồi.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LINH ĐƠN

Linh: Thiêng liêng. Đơn: Hay đan là viên thuốc.

Linh đơn, còn đọc “Linh đan 靈 丹” là một thứ thuốc thiêng liêng, thần diệu do các vị Tiên luyện thành, uống vô rất công hiệu.

Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông có dạy: Anh đã chỉ vẽ mọi điều hư thiệt cả rồi, chỉ còn có thật hành cho châu đáo là xong, vì Thiên cơ xây chuyển đặng lọc lược những phần tử vô lương, ấy là phương thuốc linh đơn khử trừ vi trùng trong nước cho sạch sẽ mới có thể lập đời Thánh đức hiền lương.

Chuỗi bồ trừ nghiệt gió trăng,

Linh đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Biển trần ví bẳng dầu ai hỏi,

Một hột linh đơn tắt lửa lòng.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

LINH ĐỨC

靈 德

Linh Đức là tên một sở may, chuyên may áo mão, của chức sắc và cờ, phướn, lọng của đạo Cao Đài, toạ lạc nơi Nội Ô Toà Thánh.

Đức Quyền Giáo Tông cùng một số chức sắc Nữ phái cầu xin, nên Đức Hộ Pháp cùng với Ngài Tiếp Thế phò loan trong đàn cơ ngày 20 tháng 1 năm Giáp Tuất (Dl. 5-3-1934), Bà Bát Nương giáng dạy: Hương là Tịch Đạo Nữ, lấy giấy vẽ Lư hương cổ đỉnh, bốc khói hương lên quyện thành mặt trời, giữa có hình Thiên Nhãn dưới hai chữ Linh Đức.

Do nơi Linh Đức May thành,

Có tờ công nhận chính danh lâu rồi...

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

Linh Đức ngành nghề nữ cắt may,

Lễ Trời triều phục ví cân đai.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LINH HIỂN

靈 顯

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Hiển: Sáng, rõ rệt, hiển hiện ra rõ ràng.

Linh hiển, như chữ “Hiển linh 顯 靈”, là hiện ra một cách thiêng liêng, huyền diệu.

Ớ .......... thành tâm cầu nguyện,

Nguyện Chí Tôn linh hiển độ sanh.

(Kinh Tận Độ).

Đầu cúi lạy ...(Phụ, mẫu thân)... linh hiển,

Lễ muối dưa làm miếng hiếu tâm.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LINH HỒN

靈 魂

Linh: Chỉ người chết. Hồn: Chỉ phần tinh thần mà các tôn giáo đều cho là độc lập với thể xác.

Linh hồn, còn gọi là Chơn linh, tức là hồn của người chết. Theo Thánh giáo, Linh hồn là một điểm Linh quang do Thượng Đế chiết ra từ khối Đại Linh quang của Ngài ban cho con người để tạo nên sự sống và làm chủ sự sống.

Sự cao quý của con người là linh hồn, Phật gọi là bản lai Phật tánh, Cao Đài gọi là Tiểu linh quang hay Thiên tánh, là một vật Thiêng liêng do khối Đại linh quang của Chí Tôn ban cho, trong ấy, có ba nguơn hồn: Linh hồn, sanh hồn, giác hồn. Tuy nói ba nguơn hồn chớ pha lẫn nhau làm thành một. Con người có sanh hồn mới được sự sống, có linh hồn mới khôn ngoan hiểu biết, có giác hồn mới cảm nhận được đau khổ, nóng lạnh.

Thể xác nhờ vật thực hữu hình nuôi sống, trái lại linh hồn phải nhờ vật không hình chất bồi dưỡng, đó là sự học hỏi, sự lạc quan, sự nhàn tản, sự tịnh luyện...

Linh hồn do Chí Tôn ban cho, là một thể vô hình, nên bất tiêu bất diệt. Vì vậy, khi thân xác chết đi thì linh hồn hoặc thọ quả báo luân hồi, hoặc trở về một cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có nói về Linh hồn như sau: Phải có một Chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền diệu, phải trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tành chí Thánh, Tiên, Phật, mới phò cơ dạy đạo cả chúng sanh.

Giữ cho trong sạch linh hồn,

Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.

(Kinh Sám Hối).

Khổ là phép hưởng từ bi,

Khổ là đề mục trường thi linh hồn.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

LINH HỒN THIÊN TỨ

靈 魂 天 賜

Linh hồn: Một phần vô hình của con người. Thiên tứ: Trời ban cho.

Linh hồn Thiên tứ là linh hồn của con người do Trời ban cho. Đó là một thể vô vi, mà vô vi thì thường hằng, bất hoại. Nên khi con người chết, linh hồn ấy sẽ trở về với cõi vô vi, nếu có tu thì sẽ về Thiên cảnh

Do đôi liễn nơi thuyền Bát Nhã có câu: Vạn sự viết vô: Nhục thể Thổ sinh hoàn tại Thổ, Thiên niên tự hữu: Linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên 萬 事 曰 無: 肉 體 土 生 還 在 土, 千 年 自 有: 靈 魂 天 賜 反 回 天. Nghĩa là: Muôn vật đều không, thân xác Đẩt sanh huờn lại Đất, Ngàn năm tự có, linh hồn Trời ban trở về Trời.

Linh hồn Thiên tứ nhi thường hữu,

Nhục thể thổ sanh sự viết vô.

(Thơ Thông Quang).

 

 

LINH KHÍ

靈 氣

Linh: Thiêng liêng. Khí: Hơi khí.

Linh khí là cái khí thiêng liêng.

Người xưa cho rằng trong hồn thiêng sông núi của mỗi quốc gia đều có cái khí thiêng liêng của đất nước, chính cái linh khí đó đã un đúc nên những bậc anh hùng hào kiệt để cứu nước giúp dân.

Tịnh Tâm Đài lặng im thần bí,

Hiệp Thiên Đài linh khí tâm thông.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

Xuân Tân Mão hé bóng thiều quang,

Linh khí rồng tiên chói địa hoàn.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LINH OAI

Hay “Linh uy”.

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Oai (uy): Vẻ oai nghiêm đáng sợ.

Linh oai, như chữ “Linh uy 靈 威” là cái vẻ uy nghiêm thiêng liêng mầu nhiệm.

Linh oai vẻ ngọc là gươm sắc,

Mềm mỏng hình hoa ấy phép tài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Linh oai chiếu diệu mình pha ngọc,

Pháp lực cao cường gót phún châu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LINH OAI MẠC TRẮC

靈 威 莫 測

Hay “Linh uy mạc trắc”.

Linh oai (uy): Tiếng Hán viết là Uy linh, tức là uy nghiêm và linh thiêng. Mạc trắc: Không đo lường được.

Linh oai mạc trắc, như chữ “Linh uy mạc trắc 靈 威 莫 測”, là nói cái oai quyền thiêng liêng của Đức Chí Tôn không thể đo lường được.

Uy quyền thiêng liêng của Đức Thượng Đế và chư Thần Thánh Tiên Phật rất cần thiết để giáo hoá, và cứu độ chúng sanh. Ngoài ra, các Đấng có thể đem cái oai quyền Thiêng liêng đó hàng phục ma vương, quỷ quái để cứu độ chúng sinh thoát vòng ma chướng.

Cái uy linh của Đức Chí Tôn còn khiến chư Thần, Thánh, Tiên, Phật phải nễ vì, huống lựa là chúng sinh, làm sao không kính ngưỡng?

Linh oai mạc trắc,

Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

LINH PHAN

靈 幡

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Phan: Cây phướn, một cây tựa như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, rìa lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống.

Linh phan là phướn linh, tức cây phướn linh thiêng, theo bí pháp tôn giáo, cây phướn là một bửu pháp dùng để dìu dẫn các Chơn linh về cõi Thiêng Liêng, hay cõi Phật.

Thiên Quân diêu động linh phan,

Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.

(Kinh Tận Độ).

Ơn Tạo hoá tha tiền khiên trước,

Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LINH PHÙ

靈 符

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Phù: Bùa.

Linh phù là bùa thiêng, dùng để trấn yếm trừ tai hoạ hoặc để trừ tà ma.

Như: Đem đạo linh phù trấn ngoài cửa ngõ.

Tái kiếp lao đao Thầy cám cảnh,

Đến cho con một Đạo linh phù.

(Thanh Sơn Giáng Bút).

 

 

LINH PHỤNG GÁY TÂY CHU

Linh Phụng: Chim phụng hoàng, là một giống chim trong bốn vật linh (Tứ linh): Long, Lân, Quy, Phụng. Gáy Tây Chu: Gáy trên núi Kỳ Sơn ở đời nhà Chu.

Linh phụng gáy Tây Chu là chim phụng hoàng đậu trên núi Kỳ Sơn gáy, thuộc địa phận Tây Chu (Châu).

Sách xưa cho rằng loại chim phụng này tượng trưng cho hoà bình, cho điềm lành, nên khi giống chim này xuất hiện thường báo hiệu một minh quân, thánh chúa hoặc là vĩ nhân xuất thế như câu “Phụng gáy non Kỳ”.

Kêu gọi toàn cầu mau thức tỉnh,

Lóng nghe Linh phụng gáy Tây Chu.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

LINH QUANG

靈 光

Linh: Thiêng liêng. Quang: Ánh sáng.

1.- Linh quang là ánh sáng thiêng liêng, huyền diệu.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Bát Nương Diêu Trì Cung có dạy: Song lằn Âm quang ấy có giới hạn, nghĩa là nơi nào ánh linh quang của Chí Tôn chưa chiếu giám đến thì phải còn tối tăm mịt mờ, chẳng sanh chẳng hoá.

Linh quang chiếu diệu Cửu Trùng Thiên,

Tên tuổi đứng trong bảng cửu huyền.

(Thơ Hàn Sinh).

2.- Linh quang còn là một điểm thiêng liêng do Chí Tôn ban cho con người.

Con người có tam thể xác thân: Thể thứ nhứt là Xác thân phàm do tinh cha huyết mẹ sanh ra và được nuôi dưỡng bằng vật chất; Thể thứ nhì gọi là Nhị xác thân, là xác thân thiêng liêng hay Chơn thần, do Ðức Phật Mẫu dùng nguyên khí nơi Diêu Trì Cung tạo nên; Thể thứ ba là Chơn linh hay linh hồn, là điểm “Linh quang” do Ðức Chí Tôn ban cho. Chơn linh điều khiển Chơn thần, Chơn thần điều khiển xác phàm.

Giảm hình phạt bớt đường ly tiết,

linh quang tiêu diệt tiền khiên.

(Kinh Tận Độ).

Ngũ khí thanh diệt trừ quả kiếp,

Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LINH QUANG CHIẾU DIỆU

靈 光 照 耀

Linh quang: Ánh sáng thiêng liêng của Đức Chí Tôn. Đó là ánh sáng từ Thái Cực, nên còn gọi là Sanh quang. Chiếu diệu: Chiếu sáng rực rỡ.

Linh quang chiếu diệu là ánh sáng thiêng liêng của Đức Chí Tôn chiếu sáng rực rỡ.

Trong bài Kệ Trống có câu: Đạo pháp đương kim dương chánh giáo, Linh quang chiếu diệu Ngọc Kinh cung. 道 法 當 今 揚 正 教, 靈 光 照 耀 玉 京 宮, nghĩa là Đạo pháp của Đại Đạo hiện nay nêu lên cho chúng sanh biết là một nền chánh giáo, Ánh sáng thiêng liêng chiếu sáng rực rỡ Toà cung Bạch Ngọc.

Linh quang chiếu diệu giữa trời đông,

Rõ mặt thiên tôn lập đại đồng.

(Lý Đại Tiên Trưởng).

Linh quang chiếu diệu hiệp thiêng liêng,

Bửu pháp thần thông chánh Đạo truyền.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LINH SÀNG

靈 床

Linh: Chỉ người đã chết. Sàng: Giường.

Linh sàng là một cái giường dùng để thờ người mới chết, tục gọi là giường thờ.

Hiện nay, Linh sàng còn gọi là Bàn linh, Bàn vong, là một cái bàn thờ, trên đó có đặt chân dung, bài vị, hoa quả, nhang đèn để thờ người chết.

Cảm thấy Linh sàng, đây thiết nhỉ,

Ngẩn nhìn tang phục, đó tha nha.

(Thơ Thông Quang).

Nhìn trước Linh sàng hương phảng phất,

Buồn nay thê tử lệ tuông trào.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

LINH SƠN

靈 山

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Sơn: Núi.

Linh Sơn là chỉ ngọn núi Bà Đen, do trên núi có thờ bà “Linh Sơn Thánh Mẫu 靈 山 聖 母” được vua Gia Long phong tặng.

Xem: Động Linh Sơn.

Viếng lại Linh Sơn buổi ác vàng,

Bồi hồi đứng ngắm cảnh thương tang.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

LINH TÂM

靈 心

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Tâm: Cái tâm của con người.

Linh tâm là cái tâm thiêng liêng huyền diệu, đó chính là chơn linh, linh hồn hay điểm linh quang.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tu để tìm nguyên do linh tâm chúng ta là thiên lương ta đó, hay khéo hơn hết là ngày giờ nào để trí thức tinh thần theo thiên lương thì mở mang một cách lạ lùng.

Thương gắng giữ mặt đời hữu dụng,

Thương linh tâm phòng hạnh nấu nung.

(Bát Nương Giáng Bút).

Công trình biết lấy chi cho xứng,

Hiến trọn linh tâm đắp luỹ đồn.

(Bảo Văn Pháp Quân).

 

 

LINH TIÊU ĐIỆN

靈 霄 殿

Hay “Linh Tiêu”.

Linh Tiêu Điện, hay “Linh Tiêu 靈 霄”, là một cái Điện ở Ngọc Hư Cung trên cõi Thiêng liêng, nơi ngự triều của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Trong một đàn cơ năm 1927, Đức Chí Tôn có ban cho bài thi để giải thích hai chữ Cao Đài như sau: Linh Tiêu nhứt tháp thị Cao Đài, Đại hội quần Tiên thử ngọc giai. Vạn trượng hào quang tùng thử xuất, Cổ danh bửu cảnh Lạc Thiên Thai 靈 霄 一 塔 是 高 臺, 大 會 群 仙 此 玉 階. 萬 丈 毫 光 從 此 出, 古 名 寶 境 樂 天 台. Nghĩa là: Linh Tiêu Điện có một tháp gọi Cao Đài. Đại hội các Tiên họp tại nơi bệ ngọc nầy. Muôn trượng hào quang từ nơi ấy mà chiếu ra. Tên khi xưa, cảnh báu đó gọi Lạc Thiên Thai.

Linh Tiêu còn dùng để chỉ cõi Thiêng liêng.

1.- Linh Tiêu Điện:

Linh Tiêu Điện, bảng danh nêu,

Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.

(Kinh Tận Độ).

2.- Linh Tiêu:

Kể từ hỗn độn sơ khai,

Chí Tôn hạ chỉ trước đài Linh Tiêu.

(Tán Tụng Công Đức).

Cung Bắc Đẩu xem căn quả số,

Học triều nghi vào ở Linh Tiêu.

(Kinh Tận Độ).

Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,

Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.

(Đạo Sử).

 

 

LINH TÁNH

Hay “Linh tính”.

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Tánh (tính): Bản chất của con người.

Linh tánh, như chữ “Linh tính 靈 性”, là cái bản chất thiêng liêng của mỗi người do Trời ban cho.

Mỗi con người ở thế gian đều được ban cho một linh tánh như nhau, người biết chế ngự dục vọng thấp hèn, biết theo con đường đạo đức thì linh tánh sáng suốt, hiển lộ ra ngoài; kẻ tham tàn, dục vọng thì linh tánh bị che mờ, không phân biệt điều phải quấy, chánh tà.

Linh tánh vui thay thoát kiếp trần,

Bửu đài mừng đặng náu nương thân.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Xác phàm còn ở nơi trần thế,

Linh tánh giao du chốn Phật đường.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

LINH TOẠ

靈 座

Linh: Người chết. Toạ: Chỗ ngồi.

Linh toạ, cũng như bàn linh, là chỗ đặt bài vị người chết để cúng tế.

Linh toạ đồng nghĩa với linh sàng.

Xem: Linh sàng.

Nhìn lên linh toạ lòng như cắt,

Đoái lại gia đường dạ tựa châm.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LINH THIÊNG

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Thiêng: Linh ứng, mầu nhiệm.

Linh thiêng là linh ứng và thiêng liêng.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Nếu ta thấy được thì thân thể hữu hình nầy đồng thể với vật loại tức là thú vật. Pháp thân tương liên với Càn Khôn Thế Giới đồng thể với Khí, cả Khí chất tạo đoan ra nguyên do loài người, lấy nguyên do đó làm hình ảnh của linh thân chúng ta, còn sự sáng suốt linh thiêng là do nơi lòng Ðức Ðại Từ Phụ.

Ái ngại lòng trông mong đến thử,

Coi nền Ðạo mới thiệt linh thiêng.

(Đạo Sử).

Linh thiêng cùng chẳng tại lòng mình,

Thương trẻ có công gắng đến xin.

(Đạo Sử).

 

 

LINH THÔNG

靈 聰

Linh: Thiêng liêng. Thông: Hiểu biết, sáng suốt.

Linh thông là thiêng liêng và sáng suốt.

Đấng Thượng Đế hoá sinh ra muôn loài vạn vật, trong đó con người được Ngài ban bố cho một cái tánh rất linh thông. Bởi vì con người phải qua muôn nghìn kiếp tiến hoá, từ vật chất, thảo mộc, thú cầm rồi mới chuyển hoá đến nhơn loại.

Chính nhờ có sự tiến hoá này con người từ thảo mộc duy có một hồn là sanh hồn, tiến lên thú cầm thì có được hai hồn là sanh hồn và giác hồn, rồi thú cầm lại tiến thêm lên con người thì có ba hồn là sanh hồn, giác hồn và linh hồn. Nhờ linh hồn con người mới khôn ngoan biết đạo lý, linh thông hơn các loài vật.

Đấng Tạo Hoá hoá sanh muôn vật,

Phú cho người tánh rất linh thông.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

LINH Ư PHỤNG LÃNH

靈 於 鳳 嶺

Linh ư: Linh thiêng hơn. Phụng lãnh: Chim phụng đậu trên đỉnh núi.

Linh ư phụng lãnh là linh thiêng hơn núi có chim phụng, tức là linh thiêng hơn việc chim phụng gáy ở đầu non báo hiệu Thánh Chúa ra đời.

Như ta biết, chim phụng hoàng là một loại chim linh, ưa thích âm nhạc, có lông ngũ sắc. Trong kinh Thư, thiên Ích Tắc 益 稷 có viết: Tiêu thiều cửu thành, phụng hoàng lai nghi 簫 韶 九 成, 鳳 凰 來 儀 nghĩa là khi nhạc tiêu thiều tấu đến khúc thứ chín, thì chim phượng hoàng đến múa, có vẻ uy nghi.

Sách xưa cho rằng loại chim này tượng trưng cho hoà bình, cho điềm lành nên khi giống chim này xuất hiện thường báo hiệu một minh quân, thánh chúa hoặc là vĩ nhân xuất thế như câu “Phụng gáy non Kỳ” là có ý nói chim phụng gáy ở núi Kỳ Sơn tại xứ Tây Kỳ, là điềm báo cho biết cuối đời Ân Trụ có Thánh chúa là Văn Vương, Võ Vương ra đời diệt Trụ và dựng nghiệp nhà Châu, đem lại thái bình cho thiên hạ.

Như vậy, câu kinh “Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh” có nghĩa là khi văn tự được chế ra thì Trời có điềm sấm sét chớp giăng, chữ viết tự như ánh lửa soi sáng cho tâm linh con người. Nhờ thế, Đức Khổng Phu Tử mới có thể lấy văn tự để ghi những lời dạy của bậc Thánh nhân xưa mà truyền lại cho con người. Kinh sách mới ra đời, đạo lý mới có phương tiện truyền đạt rộng khắp. Như vậy, sự xuất hiện của văn tự thì linh thiêng hơn chim phụng gáy ở núi Kỳ Sơn, nghĩa là chữ viết ra đời thì thiêng liêng hơn có các vị chúa Thánh ra đời để dạy và trị dân.

Điều này dễ hiểu, bởi vì dù có chúa Thánh ra đời để trị nước, an dân, nhưng chưa có chữ viết thì dân cũng chưa khai hoá. Đến khi có Thánh nhơn chế ra văn tự rồi mới có thể truyền bá kinh sách để dạy đời được. Bởi vậy câu kinh cho rằng sự ra đời của văn tự thì linh thiêng hơn đời có chúa Thánh.

Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

LINH ỨNG

靈 應

Linh: Thiêng liêng, huyền diệu. Ứng: Đáp lại.

Linh ứng là ứng nghiệm một cách thiêng liêng, tức cầu cái gì với các Đấng mà thấy ứng nghiệm rõ ràng.

Trong Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Rất may cho nhơn loại, ngày nay Đức Chí Tôn dùng huyền diệu Tiên gia khai mở mối Đạo Trời, mà Đức Ngài cầm quyền Thiêng Liêng Chưởng Giáo, nhờ sự linh ứng của phép phò cơ, chấp bút mà chúng ta suy diễn đến Đấng Tối cao vô thượng với một cách rõ ràng hơn ngày trước.

Tâm thành Phật độ đầy linh ứng,

Tánh thiện Trời ban đủ diệu huyền.

(Thơ Thông Quang).

Linh ứng hộ trì cờ cứu khổ,

Đỡ nâng thuyền Đạo lướt phong ba.

(Thơ Thái Đến Thanh).

 

 

LINH VỊ

靈 位

Nghi thức:

Tang lễ người đời chuộng về hình thể, nên ngày xưa người ta thường thiết hồn bạch, tức là một tấm vải lụa dùng đắp cho người sắp mất, sau đó làm thành hình người để trên Bàn vong cúng tế. Còn chánh pháp của Đạo Cao Đài chuộng về vô vi, nên mượn cái hữu hình là Linh vị để thể hiện cho vong hồn người chết là thể vô vi.

Linh vị hay Bài vị, ngày xưa còn gọi là Thần chủ hay Mộc chủ, người ta thường làm bằng miếng gỗ, trong ấy có khắc chữ Nho tên họ, ngày sanh, ngày mất của người chết, để sau khi mãn tang rồi mới đặt trên Bàn thờ hầu linh hồn người mất nương tựa vào nơi đó để con cháu cúng giỗ.

Riêng Đạo Cao Đài chỉ thờ Linh vị trong tang lễ và các tuần cửu mà thôi, nên Linh vị được làm bằng mảnh giấy nhỏ (có mẫu), trong đó đề tên họ, phẩm vị, tuổi, ngày tháng sanh, nơi sanh, ngày tháng chết, nơi chết, và ngày nhập môn của người quá cố. Tấm Linh vị này được cắm vào một cái lon, rồi đặt vào trong một cái khay vuông, gọi là khay Linh vị.

Mẫu Linh vị được chia làm ba cột: Cột giữa dành để ghi tên họ, tuổi người chết, cột bên phải ghi ngày tháng năm và nơi chết, cột bên trái ghi ngày tháng năm và nơi sinh của người chết. Phía dưới ghi ngày tháng năm và nơi nhập môn.

Hội Thánh không có quy định về cách thiết lập khay Linh vị này, nên tùy theo ý mỗi Ban nghi lễ có cách sắp xếp khác nhau.

Như ta biết, khay Linh vị là tượng cho vong linh, chớ không phải dùng để thờ cúng người chết, nên trong khay không cần để những cúng phẩm như trà rượu, mà chỉ cần Linh vị, một cây đèn dầu, một bình hoa nhỏ, một dĩa quả, một lư hương là đủ rồi, không cần trà rượu, vì đó là cúng phẩm cho vong linh đã có thiết trí trên Bàn vong rồi.

Khi có tụng Kinh Di Lạc trước Thiên Bàn, tang quyến phải thỉnh Linh vị trên Bàn vong đặt vào khay và cắm ba cây nhang để Chơn linh người mất nương vào đó cùng với toàn Đạo cầu xin Chí Tôn, các Đấng Thiêng Liêng, Địa Tạng Vương Bồ Tát cứu hộ cho linh hồn được siêu thăng Tịnh độ. Do lý sống sao thác vậy, nên Khay Linh vị được đặt trước Điện tiền hay Thiên bàn theo nghi nam tả nữ hữu, và trước khay, người ta phải để một cái gối thể hiện như Chơn linh người chết đang quý cúng lạy vậy.

Sau khi an táng Linh vị vẫn được thờ tại Bàn vong để làm tuần cửu, cho đến ngày mãn tang, Linh vị mới được đốt trước Điện tiền hay Thiên bàn.

Ý nghĩa:

Căn cứ quyển Quan Hôn Tang Tế của Hội Thánh (Giáo Hữu Thái Sơn Thanh, nhà in Hoàng Hải, xb 1956), tang lễ ngày xưa có nghi thiết hồn bạch, tức là lấy một miếng vải lụa trắng (đã được đắp trên người lúc gần mất) kết lại thành hình người có đầu và hai tay, hai chơn, đặt trước linh sàng để cúng lạy.

Nho giáo cho rằng con cháu hiếu thảo phải thờ người chết như lúc sống (Sự tử như sự sanh 事 死 如 事 生), nên việc tạo hồn bạch theo cổ lễ là dựa theo ý nghĩa đó. Thậm chí những nhà giàu có còn thiết linh sàng (Giường nằm cho người mất) ở phía đông nhà, có đủ mùng màn chăn gối, để hằng ngày làm lễ triêu tịch điện, tức buổi sáng bưng chậu nước, khăn mặt vào chỗ giường nằm khóc ba tiếng, rồi rước hồn bạch ra linh toạ (Bàn đặt trước linh cữu), mới dâng cúng, buổi tối dâng cúng xong, lại rước hồn bạch trở lại linh sàng, buông màn đắp chăn rồi mới nghỉ. Đây là việc làm hiếu theo tục xưa của người đời, nặng về hình thức, còn đối với Cao Đài Giáo, việc làm hiếu cho người chết là việc vô vi, tức là độ rỗi phần Chơn linh cho người đã chết.

Để mượn làm hình ảnh người quá cố thì Đạo cho lập khuôn hình chân dung treo trước Linh cữu và thiết một tấm Linh vị để trên Bàn vong, tượng Chơn hồn người mất. Khi cúng thời hay tụng Di Lạc Chơn Kinh tại Thiên bàn, thỉnh Chơn linh qua đó cùng với toàn Đạo cầu Chí Tôn độ rỗi cho để được siêu thăng thoát hoá.

Người xưa quan niệm rằng, người chết thì vong hồn thoát khỏi thi thể, cho nên phải làm Hồn bạch 魂 帛 để linh hồn người chết dựa vào đó. Khi làm lễ đề chủ tức là lễ viết vào Thần chủ, hay bài vị xong, vong hồn người chết ở Hồn bạch sẽ qua nương tựa ở Thần chủ, Hồn bạch được đốt đi và từ đó người ta thờ cúng Thần chủ trên Bàn thờ.

Trong tang lễ Cao Đài không dùng Hồn bạch, chỉ viết Linh vị để thờ. Khi hạ huyệt, Linh vị được đem về thờ tại Bàn vong để sau này hành lễ các tuần cửu, Tiểu, Đại tường cho đến lúc mãn tang, Linh vị mới được vị chứng lễ đốt trước Thiên Bàn để cầu nguyện cho Chơn linh người quá cố được vãng sanh Cực Lạc. Sau đó, người nhà sẽ dẹp Bàn thờ tang để thỉnh vong linh người mất đem thờ nơi Bàn thờ trong nhà để cúng giỗ hằng năm. Trên Bàn thờ người chết, ngày xưa người ta thờ bằng Thần chủ hay Mộc chủ, nhưng hiện nay, để tiện lợi người ta thường hoạ chân dung người mất để trên Bàn thờ cúng lạy.

Di linh cữu ra thuyền Bát nhã đưa đi đến Báo Ân Từ, Thỉnh Linh vị vào bái lễ Đức Phật Mẫu.

(Quan Hôn Tang Lễ).

 

 

LINH XA

靈 車

Linh: Thuộc về người chết. Xa: Xe.

Linh xa, còn gọi là xe châu, một cái xe dùng để chuyển linh cữu người chết đến nơi huyệt mộ.

Trong Đạo Cao Đài chiếc thuyền Bát Nhã được dùng để thay thế Linh xa.

Xem: Xe châu.

Theo linh xa một gái chơi vơi,

Phò giá triệu bóng trời không kẻ đậy.

(Văn Tế Bảo Đạo).

 

 

LỊNH

Lịnh, còn đọc “Lệnh ”, là điều truyền bảo của vua, quan hay người trên.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy dặn các con một điều, nhứt nhứt đều đợi lịnh Thầy, chẳng nên lấy tứ riêng mà phán đoán chi hết.

Xem: Lệnh.

Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,

Chén trường sanh có lịnh ngự ban,

(Kinh Tận Độ).

Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng,

Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Gái dầu giữ tam tùng trọn đạo,

Vâng lịnh chồng dạy bảo cũng như cha.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỊNH BÀI

Lịnh (lệnh): Lệnh, mệnh lệnh. Bài: Cái thẻ trong đó có khắc chữ.

1.- Lịnh bài, như chữ “Lệnh bài 令 牌”, là cái thẻ dùng làm hiệu lệnh của vua hay của một vị quan, tướng soái trao cho người thi hành một việc gì.

Nơi cõi thiêng liêng, Lịnh bài cũng là vật làm hiệu lệnh của các Đấng thiêng liêng trao cho.

Cung Đẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc,

Đệ lịnh bài cánh hạc đưa linh.

(Kinh Tận Độ).

2.- Lịnh bài, còn gọi là “Khuê bài”.

Khuê: Hòn ngọc, phía trên tròn, phía dưới vuông hoặc phía trên nhọn, dưới vuông.

Lịnh bài hoặc “Khuê bài 珪 牌” trong đạo Cao Đài là một cái thẻ hình tròn bằng kim loại mà trên mặt có khắc chữ cho biết phẩm chức sắc. Khuê bài được gắn trên dây sắc lịnh trong bộ Đạo phục Chức sắc Phước Thiện.

Thính Thiện, Hành Thiện và Giáo Thiện thì lãnh sắc lịnh phái Ngọc, có Lịnh bài của mỗi phẩm vị ấy gắn giữa dây Sắc lịnh ngay ngực.

(Nghị Định Phước Thiện).

 

 

LIU HIU

Liu hiu, như chữ “Hiu hiu”, ở trạng thái êm nhẹ và lay động yếu ớt.

Như: Nằm võng ngoài hè gặp gió liu hiu như vậy thì thế nào cũng ngủ một giấc đến xế chiều.

Ngào ngạt trầm hương bay phưởng phất,

Lạnh lùng gió tuyết thổi liu hiu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LÍU LO

Líu lo là tiếng nói hoặc giọng hót của chim có nhiều âm thanh cao và trong ríu vào nhau nghe vui tai.

Như: Tiếng trẻ con nói líu lo suốt ngày, chim quyên đậu trên cành hót líu lo.

Đôi chim vun vút trời xanh,

Cùng nhau liền cánh, liền cành líu lo.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

LY

1.- Ly là cốc, hoặc cốc nhỏ bằng thuỷ tinh, dùng để uống nước, uống rượu.

Như: Ly nước đá lạnh, nhắp một ly rượu mạnh, uống một ly bia.

Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,

Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.

(Lý Giáo Tông).

Cúc, Trước, Mai, Lan hầu thiết đãi,

Tiêu thiều nhạc trỗi khách nâng ly.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Ly là lìa. Như: Ly biệt, chia ly, ly hương, tử biệt sanh ly.

Thánh giáo Thầy có dạy: Ðại Ðạo Tam Kỳ hoằng khai tại cõi Nam, đã chiếu theo Thiên thơ, Hội Tam giáo, mà vớt chúng sanh thoát vòng ly khổ, thiệt thiệt, hư hư, một mảy chi, cũng chẳng qua là máy Thiên cơ mà thôi.

Căn Ta Ca đỡ bước đi,

Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.

(Kinh Thế Đạo).

Nầy là buổi hiệp rồi ly,

Nầy là khi khóc khi thì cười mơn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LY BIỆT

離 別

Ly: Rời, lìa khỏi. Biệt: Cách biệt, xa nhau.

Ly biệt, như chữ “Biệt ly 別 離”, là nói hai người xa lìa và cách biệt nhau.

Như: Ly biệt nhau đã hai năm trường, ly biệt mái trường xưa.

Chung ly biệt con đưa tay rót,

Mối thương tâm chưa ngớt đeo sầu.

(Kinh Thế Đạo).

Rót chung ly biệt lưng vơi,

Mảnh lòng tha thiết đưa người bạn xưa.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LY CUNG

離 宮

Ly: Rời, lìa khỏi. Cung: Hoàng cung, nơi vua và hoàng tộc ở.

Ly cung là rời khỏi hoàng cung.

Vua và hoàng tộc có việc phải ra khỏi hoàng thành thì gọi là ly cung.

Căn Ta Ca đỡ bước đi,

Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LY GIA

離 家

Ly: Lìa khỏi, chia lìa. Gia: Nhà, gia đình.

Ly gia là lìa khỏi gia đình, đi khỏi nhà.

Người tu hành theo bực thượng thừa, phải rời khỏi nhà để vào chùa, cắt hết những tình cảm yêu thương với gia đình, gọi là “ly gia cát ái 離 家 割 愛”.

Xem: Ly gia cát ái.

Thương kẻ tuổi xanh còn nặng nợ,

Xót vì nhiệm vụ phải ly gia.

(Thơ Hiến Đạo).

Ly gia thưởng thức mùi đạo sự,

Giải thoát dây oan phủi nợ nần.

(Thơ Khai Đạo).

 

 

LY GIA CÁT ÁI

離 家 割 愛

Hay “Cát ái ly gia”.

Ly gia: Lìa khỏi gia đình. Cát ái: Cắt đứt tình yêu thương với gia đình.

Ly gia cát ái là lìa khỏi nhà và cắt đứt tình thương yêu gia đình, nói về phận sự của một chức sắc Thiên phong, vì lợi ích chúng sanh, phải dẹp bỏ tình yêu hẹp hòi ích kỷ của mình.

Như: Làm chức sắc phải ly gia cát ái để đi hành đạo.

Trách nhiệm Thiên phong phải thật hành,

Ly gia cát ái độ quần sanh.

(Thơ Thượng Tước Thanh).

 

 

LY GIÁN

離 間

Ly: Lìa, chia ra. Gián: Khe hở, xen lẫn vào, không dùng một mình.

Ly gián là gây chia rẽ trong nội bộ của đối phương, tức làm cho xào xáo, chống đối với nhau.

Như: Âm mưu ly gián của quân giặc.

Cuộc ly gián đã xâm nhập vào cửa Ðạo làm cho rối loạn mối chánh truyền, rẽ chia tình thân ái.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LY HẬN

離 恨

Ly: Chia lìa, xa cách. Hận: Oán giận.

Ly hận là thương tiếc quá phải xa cách nhau nên sinh oán giận, ý chỉ xa cách nhau một cách thống hận.

Chung ly hận là chung rượu ly biệt thương yêu một cách thống thiết.

Cõi Thiên xin gởi chút tình,

Rót chung ly hận gật mình đưa thương.

(Kinh Thế Đạo).

Ly hận ngày qua, non ngó khóc,

Trùng hưng buổi hiện, gió reo cười.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

LY HIỆP

離 合

Hay “Ly hợp”.

Ly: Chia lìa, xa cách. Hiệp (hợp): Họp lại.

Ly hiệp là chia lìa mỗi người một ngả hay sum họp lại một nơi. Ý chỉ khi tan lúc hiệp.

Tuy đã hiểu mạng căn hữu số,

Cuộc bi hoan ly hiệp nỗi đau lòng.

(Văn Tế Đốc Học).

 

 

LY HƯƠNG

離 鄉

Ly: Chia lìa. Hương: Làng, quê hương.

Ly hương là bỏ làng xóm, quê hương mà ra đi.

Thánh giáo Thầy có câu: Kẻ phàm dầu ly hương thuở ấu xuân đi nữa, lòng hằng hoài vọng. Chí Thánh dầu bị đoạ trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh. Nếu chẳng vậy, ai còn dám ưng thuận hạ thế cứu đời?

Nghe giọng tỳ khêu mấy đoạn buồn,

Chạnh cơn thất thố với ly hương.

(Đạo Sử).

Oanh ướt cánh, buông hơi gọi tổ,

Quốc dầm mình, nhắc thuở ly hương.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

LY LOẠN

離 亂

Ly: Chia lìa. Loạn: Lộn xộn, chỉ sự binh biến.

Ly loạn là chia lìa do giặc giã, loạn lạc xảy ra, chỉ thời loạn lạc. Như: Gặp thời ly loạn.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Quan Âm Như Lai có dạy: Còn gia đình chẳng hoà thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong lân lý chẳng hoà thì dân cư bất mục. Nước chẳng hoà thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất hoà thì nhơn loại đấu tranh. Vì vậy, Thiếp khuyên các em dĩ hoà vi tiên.

Ly loạn gặp thời đời muốn chán,

Công danh phủi sạch hưởng thanh nhàn.

(Đạo Sử).

Chuyển xây thế sự đang ly loạn,

Xoay trở thời gian với tánh lành.

(Thơ Hộ Pháp).

Mấy màu trời vẽ tranh ly loạn,

Ngàn dặm mây che cảnh mịt mù.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

LY RƯỢU TRĂM THI

Ly rượu trăm thi, bởi chữ “Đấu tửu bách thiên 斗 酒 百 篇” là uống đấu rượu vào làm một trăm bài thơ.

Do tích Lý Bạch, một nhà thơ đời Thịnh Đường, giỏi rượu hay thơ, càng uống rượu vào chừng nào, thơ lại càng hay chừng nấy (Tửu nhập thi xuất).

Đỗ Phủ nói về Lý Bạch có tặng bài thi như sau: Lý Bạch đẩu tửu thi bách thiên, Trường An thị thượng tửu gia miên. Thiên tử hô lai bất thượng thuyền, Tự xưng thần thị tửu trung tiên 李 白 斗 酒 詩 百 篇, 長 安 市 上 酒 家 眠. 長 安 市 上 酒 家 眠, 天 子 呼 來 不 上 船, 自 稱 臣 是 酒 中 仙, nghĩa là Lý Bạch đấu rượu thi trăm bài, chợ Trường An ngủ nơi quán rượu, Thiên Tử kêu lại không lên thuyền, tự xưng thần là vị Tiên rượu.

Xem: Lý Bạch.

Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,

Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LY TÁN

離 散

Ly: Chia lìa, xa cách. Tán: Tan ra.

Ly tán là chia lìa và tan vỡ. Như: Vợ chồng ly tán.

Thánh giáo của Đức Hộ Pháp có câu: Qua thương các em bao nhiêu thì nơi Ngọc Hư Cung lại buộc tội các em bấy nhiêu. Qua rất đau khổ vì sự ly tán phân tâm chia rẽ của các em mà ra nông nỗi.

Còn gia đình chẳng hoà thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LY TÌNH

離 情

Ly: Chia lìa, xa cách. Tình: Tình yêu.

Ly tình là tình cảm bị chia cắt.

Ly tình còn dùng để chỉ sự xa cách tình yêu giữa đôi trai gái hay đôi vợ chồng.

Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu trong Thánh Ngôn Sưu Tập có đoạn: Mụ lấy làm xốn xang áo não khi rước mấy đứa quy hồi với tràn trề giọt lụy, vì chúng đã tạo nghiệt, chớ không đoạt quả chút nào hết. Cái đau thảm ly tình của các con nó làm cho nao nư lòng Mụ.

Dâng mảnh tâm gọi là của lễ,

Chén ly tình là lệ ái ân.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LY TRẦN

離 塵

Ly: Lìa khỏi, rời khỏi. Trần: Cõi trần, chỉ cõi thế gian, nơi ở của người sống.

Ly trần là lìa trần, tức người xa lìa khỏi cõi trần gian, ý nói người đã chết.

Bài Điếu Cao Thượng Phẩm của Đầu Sư Thượng Trung Nhựt có đoạn: Nay người ly trần, cỡi hạc về quê, kẻ nhơn thế còn lo độ chúng, khiến cho tôi nghĩ nhiều bậc công hầu vương bá tài bực biết bao mà Trời không ngó cũng chác sầu tây. Nầy một Ðấng Hiền lương Ðạo đức, chừng Trời kêu đến phải mau hồi cựu vị.

Ly trần tuổi đã quá năm mươi,

Mi mới vừa lên ước đặng mười.

(Đạo Sử).

Bảo Pháp ly trần rất tiếc thay,

Hiệp Thiên mất một Đấng anh tài.

(Thơ Mai Ngọc Nhiểu).

 

 

1.- Lý là đạo tự nhiên. Như: Thiên lý, nguyên lý, lý huyền diệu của Trời đất.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu cả thế gian nầy biết tu thì thế gian có lẽ cải Thiên đình mà làm cho tiêu tai tiêu nạn đặng, huống lựa mỗi cá nhân biết tu thì Thiên đình cầm bộ Nam Tào cũng chẳng ích chi.

Thuận Trời nên hư mới rõ,

Qua rồi trọn kiếp biết anh hùng.

(Đạo Sử).

2.- Lý là điều được coi là hợp với lẽ phải. Như: Nói có lý, lý do, lý luận, giáo lý. triết lý.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạ dạy: Lại thấy kẻ dốt ấy kích bác, trở lại chịu thiệt rằng: Ðạo mình là lầm lạc. Người truyền đạo dường ấy có sai chánh chăng?

Nên đạo hạnh mình, mình cạn xét,

Xét cho tột Ðạo nhà nên.

(Đạo Sử).

Thầy phân chánh cho con hiểu,

Kẻ vụ thâu đa chẳng thoát phàm.

(Đạo Sử).

Luận cùng dầu cho mạng sống,

Nhờ vợ hiền dạng bóng mới còn bền.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Lý là thôn, làng xóm. Như: Hương lý, lân lý, lý trưởng, lý dịch.

Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có đoạn dạy: Còn gia đình chẳng hoà thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong lân chẳng hoà thì dân cư bất mục. Nước chẳng hoà thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất hoà thì nhơn loại đấu tranh.

Cùng lân hay thương người thất thủ,

hằng ra tay tế độ bạc tiền.

(Văn Tế Thượng Phẩm).

4.- Lý là cây mận.

Như: Sân đào lý mưa lồng man mác, qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan.

Nữ hễ khôn đào ngăn rào,

Càng chặt giữ càng cao trọng giá.

(Phương Tu Đại Đạo).

Giá không tráo chác đào thay ,

Đâu có bày ra cảnh nát lòng.

(Thơ Hoài Tân).

5.- Lý là đồ mang theo để đi đường. Như: Hành lý.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Những khách đăng sơn khi phải leo lên một đường núi thì trước khi phải kiểm điểm hành , bỏ bớt cái gì nặng nề vô ích, cái gì trở ngại, nhờ vậy mới lên tột đỉnh theo ý định của mình.

Đến ngày chung cuộc hành của Chư vị đem theo được nghĩ rất hiếm hoi là phước đức hay là tội lỗi.

(Đạo Sử).

 

 

LÝ BẠCH

李 白

Lý Bạch hay “Lý Thái Bạch” là một vị Tiên Trưởng trong đạo Cao Đài thọ lịnh Đức Chí Tôn làm Nhứt Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Tiên giáo trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Lý Bạch có một kiếp giáng linh nơi nước Trung Hoa là Đại thi hào Lý Thái Bạch vào năm 702 đời vua Trần Huyền Tông nhà Đường. Mẹ Ngài nằm mộng thấy sao Kim, tức sao Trường Canh hay sao Thái Bạch Kim Tinh sa xuống mình của Bà, nên đặt tên là Lý Thái Bạch, gọi tắt là Lý Bạch.

Lý Bạch quê ở đất Thục, làng Thanh Liên, huyện Xương Minh, tỉnh Tứ Xuyên, hiệu là Thanh Liên Cư Sĩ, là một thi hào bậc nhứt đời Đường, tính tình hào hiệp, thích uống rượu ngâm thơ.

Hồi được bảy tuổi, Lý Bạch chưa biết nói, nhưng khi bà mẹ bồng lên lầu, bổng nhiên Ngài ngâm được bốn câu thơ mà ý thực quái dị:

 

Nguy lâu cao bách xích,

 

危 樓 高 百 尺

 

Thủ khả trích tinh thần.

 

手 可 摘 星 晨

 

Bất cảm cao thanh ngữ,

 

不 敢 高 聲 語

 

Khủng kinh thiên thượng nhân.

 

恐 驚 天 上 人

Nghĩa là:

Vòi vọi lầu trăm thước,

Vói tay hái được sao.

Chỉ e nói lớn tiếng,

Kinh động Tiên trên cao.

Lớn lên, Lý Bạch tướng mạo khôi ngô, cốt cách thanh kỳ, thông minh dĩnh ngộ. Lúc thiếu thời Ngài có tài văn chương, nổi tiếng là một thi gia đời thịnh Đường, giỏi rượu hay thơ, càng uống rượu vào chừng nào, thơ lại càng hay chừng nấy, được người đương thời tặng danh hiệu là “Ông Tiên bị đày” (Thiên thượng trích Tiên nhân 天 上 謫 仙 人).

Lý Bạch có tên hiệu là Thanh Liên Cư Sĩ 青 蓮 居 士. Bản tính của Ngài không ham danh lợi, thích đi chơi khắp các danh thắng ở bờ sông Trường giang, giao du với những ẩn sĩ mà đời gọi là Trúc Khê lục dật.

Năm 30 tuổi danh tiếng của Lý Bạch chói lọi khắp mọi nơi, không ai mà chẳng biết đến Ngài. Một hôm, Ngài vào một quán rượu ở đất Hồ Châu, ngồi trên lầu uống rượu ngâm thơ.

Lúc đó vị quan Tư Mã đất Hồ Châu là Giả Diệp đi ngang qua, nghe tiếng Lý Bạch ngâm thơ, bèn sai người hỏi xem ai?

Lý Bạch liền đáp bằng bốn câu thơ:

Thanh Liên Cư sĩ, Tiên trần giới,

Quán rượu ba mươi tuổi chẳng cầu.

Tư Mã Hồ Châu sao khéo hỏi,

Như Lai kim túc ấy thân sau.

Giả Diệp nghe qua giật mình hỏi: Ông có phải là Lý Trích Tiên ở đất Thục đó chăng?

Rồi Giả Diệp ân cần mời Lý Bạch về tư dinh đàm đạo, thơ rượu suốt mười ngày và thành thật khuyên Ngài đi Trường An ứng thí.

Trong Thánh Thi Văn Dạy Đạo, và Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Ngài có giáng cơ ban cho hai bài thi như sau:

Ðường trào hạ thế hưởng Tam quan,

Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.

Ly rượu trăm thi lời vẫn nhắc,

Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.

Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,

Ðầy túi thơ văn đổ chứa chan.

Bồng đảo còn mơ khi bút múa,

Tả lòng thế sự vẽ giang san.

 

Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,

Cho đến Ðường Triều mới biến thân.

Thái Bạch Kim Tinh đương trị thế,

Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.

Ðộng Ðình thi rượu đong muôn đấu,

Bồng Ðảo câu Tiên nắm một cần.

Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,

Tam Kỳ độ rỗi các Nguyên Nhân.

Câu “Ly rượu trăm thi lời vẫn nhắc”, và “Ðộng Ðình thi rượu đong muôn đấu”, ý Ngài muốn nói đến nhà thơ Đỗ Phủ, một thi gia cùng thời đã tặng cho Ngài một bài thi về tài rượu và thơ của Ngài như sau:

 

Lý Bạch đẩu tửu thi bách thiên,

 

李 白 斗 酒 詩 百 篇,

 

Trường An thị thượng tửu gia miên.

 

長 安 市 上 酒 家 眠.

 

Thiên tử hô lai bất thượng thuyền,

 

天 子 呼 來 不 上 船,

 

Tự xưng thần thị tửu trung tiên.

 

自 稱 臣 是 酒 中 仙.

Nghĩa là:

Lý Bạch đấu rượu thi trăm bài,

Chợ Trường An ngủ nơi quán rượu,

Thiên Tử kêu lại không lên thuyền,

Tự xưng thần là vị Tiên rượu.

Ngài được phong đến chức Hàn lâm học sĩ, nhưng vì không ham danh lợi, quyền tước, nên Ngài không chăm lo việc nước, mà chỉ uống ruợu ngâm thi mà thôi. Vua Đường Huyền Tôn rất trọng Ngài, nhưng Ngài không như bọn phàm phu khác, chịu đem cái tài hoa của mình nịnh nọt bọn vương hầu, trái lại, Ngài xin trở về hưởng nhàn.

Vào một đêm trăng sáng, Ngài ngồi thuyền đến ven sông Thái Trạch thì thoát xác đăng Tiên, thọ 61 tuổi. Vua Đường Túc Tông ra lịnh lập Đền thờ cho Đức Ngài, đề là “Lý Trích Tiên Từ” tại bờ sông để hằng năm cúng tế.

Phải, như các Giáo Hữu nào bê trễ về phận sự và không quản đến lời Thầy thì con hội chư Thánh dâng sớ lên cho Lý Bạch phán đoán, nghe!

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LÝ ĐẠI TIÊN TRƯỞNG

李 大 仙 長

Lý Đại Tiên Trưởng trong đạo Cao Đài thọ lịnh Đức Chí Tôn làm Nhứt Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Tiên giáo trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Vì vậy Thánh danh của Ngài viết đầy đủ là “Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”.

Lý Đại Tiên Trưởng

Lý Đại Tiên Trưởng tức Lý Thái Bạch, một vì Đại Tiên Trưởng thọ lịnh Đức Chí Tôn làm Nhứt Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Tiên giáo trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, kiêm Giáo Tông của đạo Cao Đài.

Lý Đại Tiên Trưởng có một kiếp giáng linh nơi nước Trung Hoa là Đại thi hào Lý Thái Bạch, thường gọi là Lý Bạch vào năm 702 đời vua Trần Huyền Tông nhà Đường.

Xem: Lý Bạch.

Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

Kiêm: Kiêm nhiệm. Giáo Tông: Một chức sắc cao cấp nhứt của đạo Cao Đài, làm Chưởng quản Cửu Trùng Đài, là anh cả của chư chức sắc và toàn tín đồ. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: Có nghĩa là một nền đạo lớn khai sáng vào thời kỳ thứ ba để cứu giúp toàn chúng sanh nơi cõi Trần thoát khỏi luân hồi mà trở về cõi Thiêng liêng Hằng sống. Do Thánh Đức Chí Tôn là “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”, nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ còn gọi là đạo Cao Đài.

Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là nói Lý Đại Tiên Trưởng, cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm thêm chức Giáo Tông đạo Cao Đài.

Theo quyển Đạo Sử, khi đạo Cao Đài vừa được khai sáng, Đức Chí Tôn định phong cho Ngài Ngô Văn Chiêu đảm nhiệm chức Giáo Tông và dạy Bà Hiếu may mão và bộ Đại phục Giáo Tông.

Đến ngày 11 tháng 3 năm Bính Dần (Dl. 22/4/1926) Đức Chí Tôn giáng cơ nói với Bà Hiếu: Hiểu! Dâng mão Giáo Tông cho Thầy xem. Trúng, mà ai đội mà con phòng lật đật.

Qua lời Thánh giáo nầy, Đức Chí Tôn cho biết ông Ngô Văn Chiêu không lãnh chức Giáo Tông. Vì vậy đến ngày khai Đạo, Đức Chí Tôn mới giao chức Giáo Tông cho Lý Đại Tiên Trưởng, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm.

Như vậy, trong đạo Cao Đài, vị Giáo Tông đầu tiên là Đức Lý Thái Bạch cầm quyền, cho đến ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (22/11/1930), Ngài mới ban quyền Giáo Tông hữu hình tại thế cho Đầu Sư Thượng Trung Nhựt để điều khiển cơ Đạo cho phù hợp với tình hình.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Lý Đại Tiên Trưởng có đoạn dạy: Lão hạ mình bỏ quyền Nhứt Trấn lãnh việc Giáo Tông mà lập vị cho đoàn em bước tới. Lão đã lắm phen thấy điều khó khăn mắc mỏ của phần ấy, nên ra tay giục loạn đặng phân rõ Chánh Tà, hầu giúp phương cho Hội Thánh trừ khử.

Lão để mắt coi cái công bình phàm của chư hiền hữu giữa Toà Tam Giáo là dường nào. Lão lại còn lấy công bình thiêng liêng mà để phương cho mỗi vị tội nhơn cải lỗi lấy mình. Ấy là thể lòng từ bi của Ðức Chí Tôn, bằng chẳng thì Lão đã hạ cơ trục xuất cả thảy.

Chư hiền hữu đừng tưởng lầm rằng vì Ðạo chinh nghiêng mà buộc Lão tùng đời. Ấy là lời tuyên ngôn của Lão đã hứa quyết. Hiền hữu làm thế nào cho vừa trách nhiệm thì làm cho Lão xem thử.

1.- Lý Đại Tiên Trưởng:

Chánh thị Đức Lý Đại Tiên Trưởng Nhứt Trấn Oai Nghiêm Thánh Đán.

(Sớ Văn).

2.- Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ:

Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

(Kệ Chuông U Minh).

 

 

LÝ ĐOÁN

理 斷

Lý: Điều được coi là hợp lẽ phải. Đoán: Phán đoán tức là căn cứ những điều đã biết để suy xét và đánh giá.

Lý đoán là dựa vào những lý lẽ để phán đoán mà đánh giá một án tiết.

Như: Luật sư đọc bài lý đoán để bênh vực phạm nhân trước phiên toà.

Bảo Đạo phải gìn giữ bí mật ấy cho kín nhiệm, làm tờ lý đoán binh vực chiếu y luật Đạo rồi dâng lên cho Thượng Phẩm, đặng người lo phương bào chữa.

(Pháp Chánh Truyền CG).

 

 

LÝ ĐỖ

李 杜

Lý: Họ Lý, chỉ nhà thơ Lý Bạch, một đại thi hào đời Đường. Đỗ: Họ Đỗ, chỉ Đỗ Phủ, một nhà thơ cùng thời với Lý Bạch.

, Đỗ tức Lý Bạch và Đỗ Phủ, là hai đại thi hào đời nhà Đường của Trung Quốc.

Xem: Lý Bạch, Đỗ Phủ.

Nhẹ gót Nhược Bồng vui cảnh trí,

Vầy làng Lý Đỗ hội thi Thần.

(Thơ Chơn Tâm).

Vui thú văn chương giữ tánh hiền,

Học đòi Lý Đỗ tập làm Tiên.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

LÝ LÃO QUÂN

李 老 君

Lý Lão Quân tức là Thái Thượng Lão Quân.

Theo bài kinh Tiên giáo, Lão Tử do chơn linh của Đức Thái Thượng Lão Quân giáng sinh xuống trần vào ngày rằm tháng hai, mà Lão Tử họ Lý, nên được gọi là Lý Lão Quân.

Lý Lão Quân hay Thái Thượng Lão Quân là giáo chủ của đạo Tiên (Đạo giáo).

Xem: Lý Nhĩ.

Dẫy xe trâu Côn Lôn trỗi bánh,

Lý Lão Quân mong lánh phong trần.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LÝ LẼ

Lý: Điều được coi là hợp lẽ phải. Lẽ: Điều được coi là lý do giải thích, là nguyên nhân của sự việc.

Lý lẽ là điều nêu ra làm căn cứ để quyết định đúng sai, phải trái.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Khi con người bị cám dỗ vào đường bất chánh, bị lôi cuốn theo sắc dục hoặc lợi quyền thì Lương Tâm chực sẵn để cản ngăn bằng những lý lẽ cao siêu. Vì đó có sự phản ứng, có tiếng đối lập với dục vọng, tức là với tà thần.

Những lý lẽ ấy làm cho đầu óc con người tầm chơn càng suy nghĩ càng khó quyết định được.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LÝ NGƯ TINH

李 魚 精

Lý Ngư Tinh, theo Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp là bạn của Lý Trường Canh, vì tham lam sau hoá kiếp thành con “Cá ông”.

Do tích Lý Trường Canh và Lý Ngư Tinh là hai anh em bạn với nhau, đồng tu ở núi Hải Đảo. Một ngày kia, Đức Quan Âm Bồ Tát muốn xuống rước hai người về Tây Phương, mới giả làm người đàn bà chèo ghe đi bán hoa quả.

Lý Trường Canh quyết chí tu để thoát kiếp, nên không tha thiết đến chuyện ăn, còn Lý Ngư Tinh, vì ham ăn chịu không nổi, mới kêu lại mua ăn. Đức Quan Âm thấy vậy hiện hình rước Lý Trường Canh đem về Tây Phương, còn Lý Ngư Tinh vì ham ăn mà thành con cá ông ở biển.

Sau Lý Trường Canh mới van xin cho Lý Ngư Tinh, thì Đức Phật Như Lai cho Lý Trường Canh một đồng tiền điếu, bảo xuống làm mồi câu Lý Ngư Tinh.

Lý Trường Canh câu được Lý Ngư Tinh, bèn đem về cho Đức Phật. Miệng của Lý Ngư Tinh vẫn còn ngậm đồng tiền, Đức Phật Như Lai thấy vạy bèn nói: Cái tánh tham của ngươi cho đến nỗi nầy cũng không chừa, bèn cho về biển mà hoá kiếp con cá ông.

Đức Phật quở Lý Ngư Tinh một câu mà phải trở xuống biển làm lại con cá ông...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LÝ NGƯNG DƯƠNG

Lý Ngưng Dương tức là Lý Thiết Quả, một vị Tiên Trưởng trong Bát tiên ở núi Bồng Lai.

Theo Đức Hộ Pháp, Chơn linh của Đức Quyền Giáo Tông chính là Lý Ngưng Dương.

Xem: Thiết Quả.

Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng Vương,

Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt lườn.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LÝ NHĨ

李 耳

Lý Nhĩ tức là Đức Lão Tử, người nước Sở, huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc nhân, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ.

Ngài họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam. Ngài làm quan giữ Tàng thất (Kho sách) ở Kinh đô Lạc Dương của nhà Châu.

Lão Tử có đến cửa ải Hàm Cốc, quan lệnh là Doãn Hỷ biết Ngài là một Thánh nhân nên tôn Ngài làm Thầy để xin theo học Đạo.

Lão Tử ở lại Hàm Cốc dạy Đạo cho Doãn Hỷ và soạn ra bộ sách nói về Đạo Đức, sách phân làm hai thiên, gồm có trên 5000 chữ. Sau này, quyển sách đó được gọi là “Đao Đức Kinh”.

Đức Lão Tử được vua Đường Cao Tông nhìn là thuỷ tổ, nên truy phong cho Ngài “Huyền Nguyên Hoàng Đế”.

Theo Kinh sách, Lão Tử là chơn linh của Đức Thái Thượng Đạo Quân hoá sinh ra, là giáo chủ của Đạo Tiên.

Lão Tử Lý Nhĩ danh Ngài,

Hoá độ Doãn Hỷ đông lai còn truyền.

(Báo Ân Từ).

 

 

LÝ TÀI

理 財

Lý: Sửa sang, sắp đặt, quản trị. Tài: Tài chánh, tức chỉ về tiền bạc.

Lý tài là chăm lo về vấn đề tiền bạc, tức là quản trị và sắp đặt về tiền bạc.

Như: Kinh tế lý tài.

Nền kinh tế của mỗi nước có tương liên với quốc tế, nền kinh tế lý tài vững thì quốc tế mới vững.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LÝ TƯỞNG

理 想

Lý: Sửa trị, lẽ. Tưởng: Tư tưởng, nhớ.

Suy nghĩ theo sự lý mà thành cái tư tưởng hư không, ấy gọi là lý tưởng. Lý tưởng còn có nghĩa trái với sự thật.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo thú thật có một điều làm cho náo nhiệt là cảnh tượng của những tay dẫn đạo tương lai cho nước nhà chủng tộc, lại vô tình tiêu diệt các phần tử ái quốc chơn chánh nồng nàn, vì lý tưởng và vì cạnh tranh của đảng phái.

Hoài bão lớn, lý tưởng cao siêu,

Nhưng ngặt nỗi không cơ thực hiện.

(Điếu Văn Đầu Sư).

Đạo mến Đời không phân lý tưởng,

Đời nương Đạo phải trọng lời nguyền.

(Thơ Thái Phong).

 

 

LÝ THIÊN VƯƠNG

李 天 王

Lý Thiên Vương tức Lý Tịnh, khi còn trẻ đi tu và theo học đạo với Độ Ách Chơn Nhơn ở núi Côn Lôn, nhưng sau vì phạm lỗi nên bị đuổi về, ra phò vua Trụ, làm quan Tổng Binh trấn ải Trần Đường. Vợ Lý Tịnh là Ân Phu nhân, hai vợ chồng có hai người con trai là Kim Tra và Mộc Tra.

Về sau hai vợ chồng lại sinh thêm một người con trai thứ ba nữa, nhưng lúc thọ thai hơn ba năm rưỡi mà chưa khai hoa. Vào một đêm kia, Lý Phu nhân lại nằm chiêm bao thấy một lão râu dài vào phòng ném lên mình Phu nhân một trái châu sáng. Phu nhân giựt mình thức dậy thì chuyển bụng sinh ra một cái bọc lớn. Lý Tịnh dùng gươm rạch bọc thì một đứa bé nhảy ra tay cầm Càn Khôn Quyện, lưng buộc dây Hỗn Thiên Lăng.

Ấy là Linh châu Tử đầu thai xuống, sau được Thái Ất Chơn Nhơn ở núi Càn Nguơn, động Kim Quang đặt tên là Na Tra và thâu làm đệ tử.

Lý Thiên Vương là một vị trong Thất Thánh, được khắc hình nơi bao lam màu đỏ bên tả của Đền Thánh.

Xin tóm tắt danh nhơn cho biết,

Lý Thiên Vương vốn thiệt tài ba.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

LÝ THÚ

理 趣

Lý: Sự lý. Thú: Điều làm cho người ta vui thích.

Lý thú là sự lý có thú vị, tức có tác dụng làm cho người ta thấy thú vị và có ý nghĩa.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Ngũ Nương Diêu Trì cung có câu: Đời vẫn là biển trần để lôi cuốn các bậc vị cao đạo hạnh, song phải có một bản năng để trở đương với lúc mà những lý thú thể chất khó tránh được.

Bắt gió nắn hình xem lý thú,

Mượn hồn làm xác thấy điên ghê.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LÝ UYÊN

李 淵

Lý Uyên tức là vua Cao Tổ đời nhà Đường. Khi còn hàn vi nghe tin Đậu Nghị cho vẽ hình chim sẻ vào bức bình phong để cho các thanh niên thi bắn, nếu ai bắn trúng vào mắt chim, sẽ được gả con gái cho.

Lý Uyên bắn trúng nên được Đậu Nghị nhận làm con rể. Sau Lý Uyên làm vua tức là Đường Cao Tổ và phong cho con gái Đậu Nghị làm Hoàng Hậu.

Xem: Bắn sẻ.

Cũng như thiếp nặng khối tình,

Gãy trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỲ

Lỳ là đã từng quen với một tác động đến mức có khả năng chịu đựng, dù có tác động đến mấy cũng vẫn coi như không phản ứng nào cả.

Như: Bị đánh đập quá thằng bé đâm ra lỳ.

Mặc tình những tiếng thị phi,

Khó khăn khảo đảo chịu lỳ mà tu.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LO

1.- Lo là e ngại, áy náy, không yên trong lòng.

Như: Lo sợ, lo bão tới, lo vỡ đê.

Thánh giáo Thầy có dạy: Phải lo sợ tội tình cho lắm. Phải có sợ mới có giữ mình, biết sợ phải biết giữ mình. Phải hiểu rõ rằng: Thiên Ðịa vô tư, đừng ỷ là có Ðại Từ Phụ mà lờn oai, nghe các con!

Cứ mến vinh huê cùng lợi lộc,

Chẳng lo kiếp thác đến gần nơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lo cửa lo nhà lo sức kém,

Kém vì chưa biết Ðạo nên lo.

(Đạo Sử).

2.- Lo còn dùng để chỉ để ý toan tính về việc gì. Như: Lo ăn, lo mặc, lo mưu, lo kế.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Hễ Ðạo trọng thì tức nhiên chư hiền hữu trọng. Vậy thì chư hiền hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời.

Lo danh vọng hao mòn thân thể,

Ham làm giàu của để bằng non.

(Kinh Sám Hối).

Ðường tơ đã đứt đừng toan nối,

Ðạo đức thìn lo trở lại ngôi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lo cho con để đức hơn vàng,

May rủi cũng trừ đứa ngỗ ngang.

(Đạo Sử).

 

 

LO ÂU

Lo: E ngại, ái náy trong lòng. Âu: Lo lắng, như Âu việc nước.

Lo âu là ở trạng thái áy náy, suy nghĩ thường xuyên, đến mức không lòng yên.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Càng nghĩ nỗi khó khăn gay cấn mà Hội Thánh phải gánh chịu nơi Trung ương trong giai đoạn hiện tại, Hội Thánh càng thông cảm nỗi lo âu ngần ngại của quý vị nơi chốn xa xôi trong khi thi hành phận sự.

Chúng sanh cảm đức cao sâu,

Rèn lòng, sửa nết, lo âu làm lành.

(Xưng Tụng Công Đức).

Bát Nương thật đấng chí linh,

Cùng chung giáo hoá ân cần lo âu.

(Tán Tụng Công Đức).

Người trung trực lo âu nợ nước,

Hưởng lộc vua tìm chước an bang.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LO CÚNG KIẾNG THƯỜNG

Lo: Để ý toan tính về việc gì. Cúng kiếng: Như chữ “cúng kính”, nói chung về cúng lạy các Đấng Thiêng liêng. Thường: Năng, luôn luôn.

Lo cúng kiếng thường có nghĩa là phải siêng năng cúng kính hằng ngày.

Tại sao phải cúng kiếng thường? Cúng kiếng có lợi ích chi?

Như ta biết, Đạo Cao Đài được khai sáng vào thời kỳ thứ ba này không do Đức Chí Tôn chiết chơn linh hạ phàm như Nhứt kỳ và Nhị kỳ phổ độ. Kỳ này, Ngài cùng Đức Phật Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương, và các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật giáng cơ hướng dẫn mở nền tôn giáo mới và ban cho giáo pháp để dìu dắt chúng sanh, trong đó Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế và Đức Diêu Trì Kim Mẫu là hai Đấng cha mẹ linh hồn chung của nhơn loại, được gọi là Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu của vạn linh.

Vì thế, nơi Đền Thánh hay Thánh Thất đều có thờ Thiên Nhãn, biểu tượng cho Đức Chí Tôn. Ngoài ra còn thờ Tam vị Giáo Chủ là Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Thái Thượng Đạo Tổ, Khổng Thánh Tiên Sư, Tam Trấn Oai Nghiêm là đại diện cho Tam giáo trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, đó là Quan Âm Như Lai, Thái Bạch Kim Tinh, Quan Thánh Đế Quân và Ngũ chi Đại Đạo gồm Phật Đạo, Tiên Đạo, Thánh Đạo, Thần Đạo, Nhơn Đạo. Còn nơi Báo Ân Từ hay Điện thờ Phật Mẫu địa phương đều có thờ Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương và Bạch Vân Động Chư Thánh.

Mỗi tín đồ khi đã nhập môn quy tùng chánh pháp Cao Đài rồi, thì phải tìm hiểu, học hỏi về nghi thức và ý nghĩa thờ phụng Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và Các Đấng Thiêng Liêng cho hiểu ngọn ngành.

Điều nầy Đức Chí Tôn có dạy như sau: Phần nhiều trong các con chẳng để lòng thờ kính Thầy, tưởng cho đem thờ Thầy vào nhà là chủ ý cầu một việc lợi riêng chi cho gia quyến vậy thôi, chớ chẳng hiểu là một nguồn trong sạch để rửa các lỗi phàm tục của các con.

Nhiều đứa lại còn mờ hồ, đã thờ Thầy mà chưa chắc ý rằng thờ đặng chi, và mở đạo có ích gì?

Than ôi! Ðã bước chân vào đường đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn, thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền Thánh giáo đâu?

Mỗi tín đồ phải biết, lấy việc hồi hướng phụng thờ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu làm trọng, do đó Hội Thánh buộc mỗi địa phương phải lập ngôi vị thờ Thầy để các tin đồ có nơi quy hướng. Mỗi năm vào những đàn vía hay sóc vọng, người tín đồ phải trọn tâm thành kính quy tụ về chầu lễ Đức Chí Tôn tại Đền Thánh hay Thánh Thất, Đức Mẹ Diêu Trì tại Báo Ân Từ hay Điện Thờ Phật Mẫu địa phương.

Người tín đồ Cao Đài, tại tư gia cũng phải lập nơi trang trọng nhất để thờ Thầy, và phải dâng lễ cúng Thầy theo bốn thời là Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Việc cúng Tứ thời nhằm mục đích xưng tụng công Đức Chí Tôn, Phật Mẫu, Tam Giáo Tổ Sư, Tam Trấn Oai Nghiêm và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, cúng Tứ thời thường làm cho đạo tâm càng ngày càng phát triển.

Việc cúng Tứ thời rất quan trọng, vì nó nhằm nuôi dưỡng phần hồn ngày một tinh tấn, sáng suốt hơn và để Chơn linh do Thượng Đế ban cho chúng sanh, mỗi ngày được giao cảm cùng Thần của Chí Tôn đang ngự tại Thiên nhãn mỗi ngày được gội nhuần ơn Thánh hoá.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Quan Âm Bồ Tát có dạy về việc cúng kiếng thường xuyên nhằm mục đích như sau:

- Một là tập cho Chơn thần được gần gũi các Ðấng thiêng liêng cho đặng sáng lạn.

- Hai là cầu khẩn với Ðức Ðại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.

- Ba là có tế lễ thì tâm phải có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng là lẽ tự nhiên.

- Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng mà nhứt là khiếu lương tri lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ.”

Và Trong Thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp có dạy:

“Ta nuôi linh hồn bằng gì? Vật thực nuôi sống bằng xác thịt, còn linh hồn sống đặng là nhờ đạo đức tinh thần đó vậy. Ta tu tức là ta tìm phương bảo trọng cho tồn tại đạo đức tinh thần đặng nuôi linh hồn hầu đạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật dìu dẫn bảo trọng lấy nó để có đủ lực lượng quyền năng giong ruổi trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.

Đạo đức tìm nơi đâu mà có đặng? Tức nhiên tìm nơi cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mới có, mà tìm nơi cửa Thiêng Liêng tức là cửa Đạo. Buổi ăn của linh hồn là buổi ta Vô Đền Thờ Cúng đấy”.

Chào các em.

Các em phải lo cúng kiếng thường.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LO LẮNG

Lo: E ngại, ái náy trong lòng.

Lo lắng là trong lòng áy náy, suy nghĩ nhiều. Đồng nghĩa với “Lo âu”.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy vì đó mà cải dẫn bước đường của các con, não phiền thành vui vẻ, đường gai góc hoá ra nẻo êm đềm, lo lắng phải ra tươi cười, mỏi mòn thành phấn chấn.

Ân cần lo lắng đắp nền nhơn,

Phước trước thừa sau có chút huờn.

(Đạo Sử).

Nỗi lo lắng cho rồi sự nghiệp,

Giúp chồng con theo kịp cùng người.

(Bát Nương Giáng Bút).

Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,

Huống để công đến ngõ Khổng Trình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LO LIỆU

Lo: Lo lắng. e ngại, hay áy náy trong lòng. Liệu: Toan tính, định liệu.

Lo liệu là lo tính và định liệu.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ðạo phát trễ một ngày thì nhơn sanh tội lỗi cả muôn ngàn. Vì vậy mà Thầy muốn cho mỗi đứa đều để lòng lo liệu chấn hưng nền Thánh giáo.

Khánh Bạch Ngọc nhiều phen kêu biểu,

Tỉnh mê đồ lo liệu lại ngôi xưa.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

Lo liệu chưa qua điều sở vọng,

Nay toan để bước lối nâu sồng.

(Đạo Sử).

 

 

LO LÓT

Lo: Để tâm trí và sức lực vào nhằm làm tốt công việc nào đó. Lót: Đúc lót.

Lo lót là tìm cách hối lộ, tức lấy tiền bạc hay phẩm vật tặng người có quyền thế để họ giúp cho được việc.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo không phải đứng trên toà giảng nầy để công kích, không lẽ mấy em không thấy, mấy em thấy phần nhiều hạng niên thiếu họ vô chùa miễu, đốt giấy vàng bạc đặng họ mua chuộc tài lợi, họ đến lo lót như lo lót một Ông Quan đời kia vậy.

Nhụy đương nở mùi thơm ngào ngạt,

Dâng hình hoa lo lót con ong.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LO LƯỜNG

Lo: Áy náy trong lòng, e ngại. Lường: Do chữ “Lượng” là tính toán cân nhắc.

Lo lường, cũng như “Lo liệu”, là lo lắng tính toán.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Các con phải biết trong Trời Ðất, nhơn sanh là con quý của Thầy, nên Thầy hằng để ý lo lường cho chúng con biết hối ngộ, hầu chung hưởng phước lành.

Ðộ chúng cứu đời công nghiệp để,

Thiên ân hưởng trọn khá lo lường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chưa rồi nửa kiếp lắm lo lường,

Thấy kẻ lòng thành Lão cũng thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lo lường cho rõ thấu Thiên cơ,

Biết đặng thì tua tính kịp giờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LO NGẠI

Lo: Áy náy trong lòng, e ngại. Ngại: Cảm thấy không yên lòng vì cho rằng có thể xảy ra điều gì đó không hay.

Lo ngại là lo lắng và e ngại.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tìm mà vẫn lo ngại sợ lầm, bất kỳ gặp ai, dầu là kẻ thù cũng tưởng là người nghĩa, nếu rủi ở bất nghĩa cùng nhau, về cõi thiêng liêng sẽ hổ thẹn hối hận muôn phần.

Chiều vui dưới trướng ngoài màn,

Nhẫng lo ngại nỗi phụ phàng ái ân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LO SỢ

Lo: E ngại, áy náy trong lòng. Sợ: Ở tình trạng không yên khi cho rằng có điều gây nguy hiểm hoặc gay hại.

Lo sợ là lo lắng và có phần sợ hãi.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Phải lo sợ tội tình cho lắm. Phải có sợ mới có giữ mình, biết sợ phải biết giữ mình. Phải hiểu rõ rằng: Thiên Ðịa vô tư, đừng ỷ là có Ðại Từ Phụ mà lờn oai, nghe các con!

Chàng thì nhẹ thể vì tình,

Thiếp thì lo sợ lụy mình trượng phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LO TÍNH

Lo: Toan tính về việc gì. Tính: Trù nghĩ lo liệu.

Lo tính là lo liệu tính toán. Như: Lo tính cho tương lai của con cái.

Thánh giáo Thầy có câu: Phận chưa xong phận, thân chẳng nên thân, thân phận lo tính chưa rồi, còn mong mỏi chi dụng mình vào đường đạo đức để cho có ích chung nữa đặng!

Tranh cạnh mượn người lo tính trước,

Ðẹp lòng nhân sự đặng lòng đây.

(Đạo Sử).

 

 

LO TOAN

Lo: Suy tính, định liệu biện pháp để có thể làm tốt công việc. Toan: Tính toán, lo liệu việc gì.

Lo toan là lo liệu công việc với tinh thần trách nhiệm cao, tức lo nghĩ, tính toán thiệt hơn một cách cặn kẻ.

Đồng nghĩa với “Lo liệu”, tức là lo tính trù liệu.

Thi hoạ vừa khi bước hứng nhàn,

Vòng trần luân chuyển luống lo toan.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Bời lời lòng những luống lo toan,

Lo đến Tổ tông chốn suối vàng.

(Đạo Sử).

 

 

LO XA

Lo: Trong tình trạng không yên lòng, suy tính, định liệu. Xa: Không gần.

Lo xa là suy tính định liệu để đề phòng trước những việc bất trắc sau nầy có thể xảy ra.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Ðức Chí Tôn đã lấy từ bi mà châm chế, mong ngày Ðạo được hoà bình. Vậy khá chung trí hiệp tâm mà tái dìu mối Ðạo. Ấy là phương chuộc lỗi sửa mình mà trở về ngôi cũ đó. Phải khá lo xa.

Ai ôi! Tự nghĩ biết lo xa,

Xa bốn phương Trời cũng kiếm ra.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đừng ghét già có tánh lo xa,

Ấy là kế để pha đồng đều hoạ phước.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

, như chữ “”, là thò, lộ ra, để một phần nhỏ, thường là cao nhất, ra khỏi vật che khuất.

Như: Mặt trăng vừa ló, ló đầu lên khỏi tường, giấu đầu ló đuôi.

Thà cầm đèn thủ tiết tàn canh,

Hơn thụt như mèo rình ăn vụng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÒ CỪ

Lò: Đồ đắp bằng đất, làm bằng sắt, hay xây bằng gạch để đốt lửa nung, nấu. Cừ: To, lớn.

Lò cừ là chiếc lò to lớn, do chữ trong bài phú của ông Giả Nghị có câu: Thiên địa vi lô hề tạo hoá vi công 天 地 為 爐 兮, 造 化 為 工, nghĩa là trời đất làm cái lò mà Đấng Tạo hoá làm thợ để đúc nặn ra vạn vật.

Lò cừ nghĩa bóng chỉ Trời đất hay Tạo hoá.

Lò cừ lừa lọc chen trường mộng,

Khách tục bôn chôn ngỡ cuộc chơi.

(Thơ Thượng Thời Thanh).

 

 

LÒ HOÁ CÔNG

Lò: Vật đốt lửa để nấu nướng, luyện kim, sưởi ấm. Hoá Công 化 工: Như chữ Tạo Hoá, chỉ Trời.

Lò Hoá công, hay lò Tạo hoá, do chữ trong bài phú của Giả Nghị có câu: “Thiên địa vi lô hề, Tạo hoá vi công 天 地 為 爐 兮, 造 化 為 工” nghĩa là Trời đất làm cái lò, mà Đấng Tạo hoá làm thợ để đúc nặn ra muôn vật.

Lò Hoá công chỉ Đấng Tạo Hoá.

Xem: Hoá Công.

Trên đường Thánh đức lần dò,

Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hoá công.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LỌ

Lọ, như chữ “Nhọ”, là bị dây vết bẩn màu đen, hoặc chỉ phần khói đen đóng dưới các nồi nấu rơm, củi.

Như: Lọ nghẹ, lọ nồi, mặt dính lọ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nếu biết trọng linh hồn thì không ngần ngại gì, đến mấy vị Ðại Thiên Phong cầm quyền Pháp Chánh kia cung khai đi, rồi họ lên án quẹt lọ cho mình, không lẽ đem ra pháp trường xử trảm.

Người quân tử thẹn không dám ngó,

Thấy phấn son sợ lọ nhơ mình.

(Phương Tu Đại Đạo).

Đợi chi gặp tiểu thơ mặt lọ,

Mới dằn lòng chẳng ngó cuộc truy hoan.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LOÀ

Loà là có độ sáng chói, đến mức như làm loà mắt, không nhìn được rõ nét. Như: Chớp loà, bước vào phòng ánh sáng chói loà.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trung thì bền lòng như sắt đá. Cang dũng thì coi sự chết như mảnh lông hồng, trọng nghĩa như Thái sơn, khí tiết thì chói loà Nhựt Nguyệt.

Hình Bào lạc cột đồng vòi vọi,

Đốt lửa hồng ánh giọi chói loà.

(Kinh Sám Hối).

Nhang thơm tốc đốt nực nồng,

Ðèn loà ngọn lửa tựa rồng phun châu.

(Bài Mừng Thay).

 

 

LOÃ LỒ

Loã: Phơi trần thân mình ra. Lồ: Lồ lộ, được hiện ra, phô bày ra rất rõ.

Loã lồ là chỉ thân thể con người để hở ra bộ phận lẽ ra cần phải che kính. Như: Thân thể loã lồ, ăn mặc loã lồ.

Xấu xa rách rưới lõa lồ,

Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LOÀI

1.- Loài là giống, thứ. Như: Loài người, loài vật, loài chim, loài thú, loài cây.

Thánh giáo Thầy trong (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển) có dạy: Hỡi nầy dân tộc có diễm phước, Thầy sẽ làm thoả mãn tánh hiếu kỳ của con. Là loài người, các con có biết tự đâu các con đến chăng?

Thượng cầm hạ thú lao xao,

Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.

(Kinh Sám Hối).

Trọng thân thì ắt biết trọng đời,

Cả hết loài người cũng vốn người.

(Đạo Sử).

2.- Loài dùng để chỉ loại người có cùng bản chất xấu xa như nhau.

Như: Loài độc ác, loài giả dối, loài giá áo túi cơm, loài đầu trộm đuôi cướp.

Chánh trực kinh oai loài giả dối,

Công bình vùa sức kẻ chơn thành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LOÀI ONG TAY ÁO

Loài ong tay áo, do câu thành ngữ: “nuôi ong tay áo”, để chỉ người hay phản phúc.

Loài ong tay áo nghĩa là đem loài ong nuôi trong tay áo thì sẽ bị chính ong chích, ý chỉ kẻ phản chủ, hưởng của chủ mà chống lại chủ.

Phải chừa thói loài ong tay áo,

Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LOẠI

Hay “Loài”.

Loại hay loài là thứ, chỉ những nhóm thuộc cùng một giống, như loài người, loài khỉ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Loại thảo mộc cũng thế: Sanh ra như cây bá cây tùng, những cây danh mộc, hoặc kỳ hoa dị thảo mới thật có ích trên thế gian, dù ở chốn non cao rừng thẳm cũng có kẻ lặn lội đi tìm, chớ giống cỏ chạ lan mọc bên đường, ví có bị bước tục vầy bừa cũng không ai màng ngó tới.

Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,

Thấy trên đường miểng bát, miểng chai,

(Kinh Sám Hối).

Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại,

Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LOAN

1.- Loan là chim phượng mái, trái với phụng là chim phượng trống, thường dùng để chỉ vợ chồng.

Như: Phòng loan, gối loan, loan chung phượng chạ, loan phượng hoà minh.

Phòng tía cất thành hình thổ võ,

Cung loan lập giống dạng Cao Ðài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hỡi người cỡi phụng ngừa loan,

Phải chi vợ dám phụ phàng mới sao?

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Loan, còn gọi là “”, là một công cụ dùng để thông công với các Đấng vô hình trong tôn giáo Cao Đài.

Sở dĩ gọi là “Loan”, vì dụng cụ đó gồm một cái giỏ đan bằng tre hay mây, bên ngoài có phủ một lớp giấy vàng, và một cái cán dài bằng gỗ xuyên qua miệng giỏ. Đầu cán có chạm hình con chim loan, dưới cổ chim loan có gắn một cọng mây dùng làm bút viết.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp dạy: Bần Đạo nhớ lại năm Bính Dần, cũng đêm nay, cũng giờ này Đức Chí Tôn giáng cơ; buổi ấy có Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo phò loan, Ngài kêu cả hai người đứng dậy, Ngài viết nói: Biểu toàn thể con cái nam, nữ của Ngài chun ngang qua cây cơ đặng Ngài ban ơn cho mỗi đứa, cây cơ chống lên cả thảy đều chun qua.

Ðợi Lão biểu Cao Thượng Phẩm nâng loan. Lão đến tư đường của Hộ Pháp nên cho miễn lễ, đứng hết.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LOAN CHẠ

Loan: Chim phượng mái, tượng trưng người vợ. Chạ: Lẫn lộn, hỗn tạp, bừa bãi.

Loan chạ là chỉ người đàn bà xấu nết, đã có chồng mà còn bừa bãi với những người đàn ông khác.

Đời hằng chê nhà gái lộn chồng,

Ông trước mắt còn mong loan chạ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LOAN CHUNG PHỤNG CHẠ

Hay “Loan chung phượng chạ”.

Phụng (phượng) loan: Chim phượng và chim loan, tức chim mái và chim trống được ví với trai gái, hay vợ chồng. Chung chạ: Ý chỉ sum họp, ân ái.

Loan chung phụng chạ có ý nói trai gái, vợ chồng ăn ở, sống sum họp với nhau.

Xem: Phụng chạ loan chung.

Đâu đến đỗi loan chung phụng chạ,

Lại rời ra hai ngả phụ phàng nhau.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LOAN PHÒNG

鸞 房

Loan: Chim loan. Phòng: Buồng.

Loan phòng là phòng có màn gối thêu chim loan chim phượng, dùng để gọi phòng riêng của vợ chồng.

Sương tuyết chàng vùi trường hổ chiến,

Tóc tơ thiếp bận chốn loan phòng.

(Thơ Cao Liên Tử).

Chiêu Quân từ lại loan phòng,

Vẫn y trang ấy mơ mòng giấc xuân.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

LOAN PHỤNG

鸞 鳳

Loan: Chim loan, loài chim mái. Phụng (phượng): Chim phụng, loài chim trống.

Người xưa cho rằng chim loan cùng một loài với chim phụng, lông ngũ sắc, nhiều sắc xanh.

Chim loanchim phụng là loài chim quý hiếm, khó thấy, thường đi với nhau từng cặp, nên người ta thường dùng để ví tình vợ chồng hoà hợp, hoặc cũng có khi người ta dùng để chỉ bậc hiền tài.

Nên ưa mèo mả gà đồng,

Bỏ hình loan phụng dựa lồng chim xanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LOAN PHỤNG CHIA LÌA

Hay “Loan phượng chia lìa”.

Loan phụng (phượng): Chim loan và chim phượng thường sống từng đôi, con trống gọi là phụng, con mái gọi là loan. Loan phụng dùng để chỉ vợ chồng hoà thuận, khắng khít nhau. Chia lìa: Phân chia và lìa nhau.

Loan phụng (phượng) chia lìa dùng để nói vợ chồng xa cách, ly biệt nhau.

Chừ sao loan phụng chia lìa,

Con trông vợ nhớ, mắt kề ngó song.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LOAN PHƯỢNG

Hay “Loan phụng”.

Loan: Chim loan, xưa cho là giống chim mái, một đôi với phượng. Phượng (phụng): Chim phụng, loài chim trống.

Loan phượng, như chữ “Loan phụng”, là loài chim hiếm, khó thấy, thường đi với nhau thành đôi, chỉ tình vợ chồng hoà hợp.

Xem: Loan phụng.

Phòng tía nào khi loan phượng chạ,

Suối vàng này lúc mộ rêu in.

(Thơ Chơn Tâm).

Thì thùng trống điểm chia loan phượng,

Eo óc gà kêu chạnh lửa hương.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

LOÁN

Loán là tràn vào, lan ra, toả ra. Như: Cỏ mọc loán ra sân, quân giặc loán vào bờ cõi.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Trường náo nhiệt Thầy đã định và nói trước, nay đã khởi đầu loán lần ra. Nếu trí các con chẳng lanh lẹ, hạnh các con chẳng hoàn toàn, cách cư xử các con chưa hoà hiệp, đường Ðạo các con chưa liệu chung, nét khiêm cung các con chưa trọn vẹn, cách đối đãi các con chưa ôn hoà, thì nền Ðạo sau nầy e khi phải vì đó mà để một trò cười, dầu đức từ bi của Thầy cũng khó gỡ rối rắm được.

Mê tỉnh chuông khua phân biệt tiếng,

Rừng thiền nô nức loán mùi hương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm trước,

Một mồ cỏ loán ủ nhành mai.

(Thơ Thượng Phẩm).

 

 

LOẠN

Loạn là rối, không trật tự, tức ở tình trạng lộn xộn, không theo một trật tự hoặc nền nếp nào cả.

Loạn còn là không yên trị, do có sự chống đối bằng bạo lực nhằm làm mất trật tự và an ninh xã hội.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Than ôi! Chới với cả muôn triệu giữa dòng, mà thuyền Bát Nhã độ người không mấy kẻ. Ðức thừa ít có, mà tài vô dụng chẳng thiếu chi. Phong hoá khiến suy tồi, cang thường càng loạn phép.

Liên trản hôn tâm ngôn ngữ loạn,

Khuyến quân tu khả giải mê tân.

(Quan Thánh Giáng Bút).

Rằng ngôi địa chủ lo sanh hoạt,

Ấy phẩm Thần Hoàng định loạn an.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LOẠN GIA

亂 家

Loạn: Rối, lộn xộn, không trật tự. Gia: Nhà.

Loạn gia là nhà bị lộn xộn, tức bị rối loạn về phép tắc trong gia đình.

Rủi ro gặp gái bán thuyền,

Loạn gia phải chịu thảm phiền lắm cơn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LOẠN HÀNG THẤT THỨ

亂 行 失 次

Loạn hàng: Lộn xộn về hàng ngủ. Thất thứ: Làm mất hết thứ tự trên dưới.

Loạn hàng thất thứ là làm rối loạn về hàng ngủ và mất trật tự, không còn biết thứ tự trên dưới nữa.

Giữa buổi toàn cầu đương xôn xao chen lấn trong tấn bộ văn minh, loạn hàng thất thứ...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LOẠN LẠC

亂 落

Loạn: Rối, lộn xộn, không trật tự. Lạc: Rơi rụng.

Loạn lạc là nói tình trạng giặc giã lộn xộn, mỗi người chạy một ngã, không đoàn tụ với nhau được.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Chí Tôn sở cậy Bần đạo thố lộ chút ít điều mật yếu để dìu bước chư đạo hữu trong buổi loạn lạc trong nền Ðạo buổi nầy.

Cầm cờ tang cầu vạn quốc dẹp can qua,

Đưa gươm huệ khuyên giống nòi thôi loạn lạc.

(Văn Tế Tiểu Tường).

Gặp phải nước nhà cơn loạn lạc,

Làm trai tua vẹn chí thanh vân.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

LOẠN LY

亂 離

Loạn: Loạn lạc, chỉ cảnh có chiến tranh. Ly: Lìa.

Loạn ly tức là khi có chiến tranh, gia đình gặp cảnh ly tán, cha con, vợ chồng, anh em phải chia lìa nhau.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Cơ hội ngàn năm một thuở, ví như Ðấng Chí Tôn không khai mối Ðạo Trời, cái đà sống của mỗi người chúng ta trong thời loạn là cần cù mưa nắng vì manh áo bát cơm, nay di cư chỗ nầy, mai đổi dời chỗ khác, phải chịu cảnh lầu Tần quán Sở, cay đắng trăm bề, trong lúc loạn ly thì vàng thau chung chạ, ngọc đá bất phân, ngoài ra còn bận bịu gánh thê nhi, não nề tình ấm lạnh, rồi đến khi Thiên số nan đào, thân cát bụi không còn để lại một dấu vết chi cho người đời nhắc nhỡ.

Phá tan cái lũ con ong,

Loạn ly đem thế nhập trong Thánh Toà.

(Bát Nương Giáng Bút).

Theo chuỗi thời gian giữa loạn ly,

Ăn tiêu còn lại chút lương tri.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LOẠN LUÂN

亂 倫

Loạn: Làm rối trật tự. Luân: Luân thường đạo lý, tức là đạo bình thường mà mọi người đều rõ.

Loạn luân là làm điều trái với đạo bình thường, tức là làm bừa bãi, rối loạn trật tự đạo đức giữa mọi người.

Về sau, chữ loạn luân dùng để chỉ quan hệ nam nữ giữa những người có quan hệ họ hàng gần gũi.

Loạn luân mất hết trí khôn,

Như nhà không chủ, như đồn không binh.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LOẠN QUỐC KHUYNH THÀNH

亂 國 傾 城

Loạn quốc: Đất nước loạn lạc. Khuynh thành: Thành trì nghiêng đổ.

Loạn quốc khuynh thành có ý nói nước nhà có giặc giã nổi lên khắp nơi, khiến thành trì phải nghiêng đổ, đất nước phải loạn ly.

Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,

Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LOẠN THẦN

 

1. LOẠN THẦN 亂 臣

Loạn: Làm rối trật tự, làm giặc. Thần: Bầy tôi.

Loạn thần là tôi loàn, tức chỉ kẻ bề tôi không ngay chính, không phân biệt trên dưới.

Loạn thần còn dùng để chỉ kẻ bề tôi có ý tạo phản, như câu thành ngữ “Loạn thần tặc tử 亂 臣 賊 子” là con giặc tôi loàn.

Khổng Tử tác Xuân Thu phê phán,

Trọng nhân luân kết án loạn thần.

(Báo Ân Từ).

 

2. LOẠN THẦN 亂 神

Loạn: Làm rối trật tự. Thần: Phần vô hình ở trong người, hiểu biết được sự vật.

Loạn thần là thần trí hay tâm thần trong con người bị rối loạn, hôn ám.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có câu: Lại nữa, buổi loạn thần ấy, để cửa trống cho Tà mị xung đột vào, giục các con làm việc tội tình mà phải chịu phận luân hồi muôn kiếp.

Hễ thân mình thiểu khí loạn thần,

Thọ khí bẩm nhâm thần con dại dột.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LOANG

Loang là lan rộng ra dần dần.

Như: Dầu thấm loang ra tờ giấy, máu đổ loang mặt đất, tin loang đi khắp vùng.

Năm tháng cỏ loang vùng cổ mộ,

Mai chiều bụi bám bức chân dung.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

LỌC

1.- Lọc là dùng vật gì để cho nước, hoặc chất hơi qua mà ngăn cặn bã hay bụi bặm lại.

Như: Lọc nước giếng để dành uống, điếu thuốc có đầu lọc, lọc cát lấy vàng.

Lọc nước rửa đời Trời để dấu,

Riêng che Nam đảnh một cân đai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lọc nghĩa rộng là tách riêng ra để lấy cái phù hợp với yêu cầu. Như: Lọc lấy tinh tuý.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chơn thần là Hậu thiên khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có, ta ăn hột cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh vật nầy.

Khuyên em cực chớ than khổ nhọc,

Chuyển pháp mầu đặng lọc lòng người.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LỌC LỪA

Lọc: Gạn, lọc. Lừa: Chọn.

Lọc lừa là lựa chọn lấy cái tốt, cái tinh tuý, để loại bỏ những cái xấu. dở.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Cả môn đệ Thầy đã lựa chọn lọc lừa, còn lối nửa phần, vì Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám dỗ.

Mai tàn tuyết xủ đời thay đổi,

Dử tận hiền thăng khách lọc lừa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tách bến sông mê sóng tạt thuyền,

Lọc lừa nghiệp quả kẻ may duyên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bầy trâu đốt đít để gương xưa,

Nhơn lý khuyên con gắng lọc lừa.

(Đạo Sử).

 

 

LỌC TRƯỢC LƯU THANH

Lọc trược: Gạn để loại trừ hết những chất dơ bẩn. Lưu thanh 留 清: Để lại sự trong sạch.

Lọc trược lưu thanh, đồng nghĩa với câu “Gạn đục khơi trong”, nghĩa là loại trừ các thứ dơ bẩn, cũng như hung ác để còn lại thứ trong sạch, thiện lành.

Xem: Khử trược lưu thanh.

Luật pháp khuôn viên phải thật hành,

Người tu lọc trược đặng lưu thanh.

(Thơ Thạnh Đức).

 

 

LOÈ LOẸT

Loè loẹt là rực rỡ bề ngoài, không có vẻ nhã nhặn.

Loè loẹt còn có nghĩa là lạm dùng quần áo, trang sức nhiều màu sắc làm mất vẻ đẹp giản dị, tự nhiên.

Trong Tân Luật, Điều thứ mười sáu định rằng: Trong việc tống chung, không nên dùng đồ âm công có màu sắc loè loẹt, chỉ dùng toàn đồ trắng, không nên đãi đằng rần rộ mà mất sự nghiêm tịnh và mất dấu ai bi.

Khách trần loè loẹt khoe màu sắc,

Người Đạo lo lường nhọc não cân.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

LÒI

Lòi là thò ra ngoài, tức lộ hẳn ra ngoài lớp bao bọc.

Như: Bị thương lòi ruột, ốm lòi xương, giày rách lòi cả ngón chân.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hại thay! Tinh thần của nhơn tình thế thái, không ai tìm tòi, không ai bươi móc đem chơn lý cho chúng ta ngó thấy, chẳng hề khi nào phương pháp tiểu nhân dầu giấu thiên hạ một ngày không thấy, hai ngày không thấy, dầu giấu thế gian thế nào cũng lòi ra, không phương giấu đặng, che đặng.

Muôn xóm trông ra lòi nóc lũy,

Ngàn dâu đứng dựa rõ hình cây.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LOM LOM

Lom lom có nghĩa là ở tư thế sẵn sàng chờ hành động. Như: Nó rình mà cứ lom lom khẩu súng.

Lom lom còn dùng để chỉ nhìn chằm chằm, nhìn đăm đăm, tập trung không đảo mắt.

Hễ vợ ghen cặp mắt lom lom,

Công đi đứng chăm nom từ bước.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÒN

1.- Lòn là không đi cửa trước mà vào cửa sau một cách âm thầm, lén lút.

Ca dao có câu: Em thương anh cuốn gói cho tròn, Chờ ba má ngủ, em bước lòn cửa sau.

Lòn, nghĩa bóng là không đưa công khai trước mặt mà lén lút gởi sau lưng. Như: Đút lòn, đổi lòn.

Một mai nhắm mắt đâu còn,

Đem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.

(Kinh Sám Hối).

2.- Lòn, như chữ “Luồn”, là cúi xuống mà đi vào. Nghĩa bóng là khúm núm, xu phụ người trên hoặc người có quyền thế. Như: Cúi lòn, chiều lòn.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Muốn đoạt Thiên Tài không theo ai, không xin ai được hơn là đi theo Ðại Từ Phụ, dầu ta ngu ngốc thế nào, xin một ngày không đặng thì hai ngày đến một tháng, một năm, nếu theo hoài dầu cho có nhiều xin mà ông Cha không thể cho đặng, chúng ta cứ cương quyết chiều lòn phục lụy, kiên nhẫn theo hoài, dầu khó cũng phải cho, bởi không nỡ nào không cho, mà hễ Ðấng ấy cho rồi không có cái gì ở thế gian nầy đối với của ấy được.

Dầu mình vinh kẻ cúi người lòn,

Cũng nhớ thuở cha ẵm con ngồi đợi mẹ.

(Phương Tu Đại Đạo).

Lòn thân dưới phép quen mùi,

Thương đời thọ khổ, đắp bồi Thánh tâm.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

LÒN CÚI

Lòn: Luồn, chui qua một chỗ nhỏ hẹp. Cúi: Hạ thấp đầu hoặc thân mình xuống về phía trước.

Lòn cúi, như chữ “Luồn cúi”, là hạ mình để cầu cạnh người khác một cách đê hèn, mất nhân cách.

Trong Pháp Chánh Truyền chú giải có câu: Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai Thầy mà ngồi lại nắm quyền hành Chí Tôn ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt hơn nữa.

Xem: Luồn cúi.

Tan tành nhớ đến gánh giang san,

Lòn cúi thương dân lắm buộc ràng.

(Đạo Sử).

Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,

Đạo phu thê như đũa nên đôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Chừng nên sáu dạy con phải buổi,

Tập lần con lòn cúi biết vâng lời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÒN LỎI

Lòn: Chui qua một chỗ nhỏ.

Lòn lỏi, như chữ “Luồn lỏi”, lòn qua lòn vào một cách khéo léo, vất vả.

Lòn lỏi còn dùng để chỉ khéo xu phụ, len lỏi vào nơi giàu sang, quyền thế.

Môi cầu chí quyết xua Hiền Thánh,

Lòn lỏi vùa sang bụng chẳng đành.

(Đạo Sử).

Kế Mỹ võ trang cho kẻ mạnh,

Mưu Nga lòn lỏi giúp dân cùng.

(Thơ Hộ Pháp).

Đừng ghét tánh già hay lòn lỏi,

Ấy nhớ cơn nghèo đói phải chiều người.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÒN THÂN

Lòn: Luồn, tức lòn cúi. Thân: Thân thể.

Lòn thân là đem tấm thân đặt vào việc gì, hay lấy cái thân để lòn cúi người khác.

Lòn thân dưới phép sầu than,

Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn.

(Kinh Thế Đạo).

Lòn thân dưới phép quen mùi,

Thương đời thọ khổ, đắp bồi Thánh tâm.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

 

 

LÒN TRÔN

Lòn: Cúi đầu xuống mà chun qua. Trôn: Đít. Háng.

Lòn trôn là chun qua háng.

Do tích: Hàn Tín lòn trôn, tức Hàn Tín bị tên côn đồ bán thịt ở chợ Hoài Âm, muốn làm nhục Hàn Tín, bắt phải lòn trôn của nó ở giữa chợ.

Vì mang chí cả, Hàn Tín đành nhẫn nhục mà chung qua háng tên bán thịt.

Xem: Hàn Tín lòn trôn.

Lòn trôn, Hàn Tín nên cơ nghiệp,

Dâng dép, Trương Lương dựng miếu đường.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Chịu lòn trôn tánh Hàn Tín nhẫn,

Dầu có tài cũng vẫn tuỳ thời.

(Báo Ân Từ).

 

 

LONG

1.- Long là lung lay, ở trạng thái không còn gắn chặt với nhau như trước, mà như sắp rời ra.

Như: Long lay, cây long gốc, đầu bạc răng long, chân bàn long mộng.

Khổ hạnh đâu long lòng sắt đá?

Nhục vinh chả hổ phận râu mày.

(Thơ Thuần Đức).

2.- Long là con rồng. Như: Long phụng, long lân quy phụng, lục long phò ấn.

Trong Đạo Sử Đức Lý Giáo Tông có dạy: Sâu hơn ba trăm thước như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa sáu nguồn làm như 6 con Rồng đoanh nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục Long Phò Ấn.

Bất quản hổ tranh thâu Bắc Cực,

Chỉ nguy long đấu đoạt Nam Uyên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LONG ÁM HẠC QUY

龍 暗 鶴 歸

Long ám hạc quy, do câu trong cổ thi, cũng là hai câu của bài thài hiến lễ hàng vong thường trong nghi thức tang lễ: “Vân ám đỉnh (đảnh) hồ, long khứ viễn, nguyệt minh hoa biểu hạc quy trì 雲 暗 鼎 湖 龍 去 遠, 月 明 花 表 鶴 歸 遲”, nghĩa là mây phủ đỉnh hồ rồng bay khuất bóng, trăng soi trụ hoa, hạc trở lại muộn.

Long ám hạc quy dùng để chỉ việc vua chết, ngụ ý vua cỡi rồng lên cõi Tiên.

Sau này dùng chung để chỉ cho mọi người chết.

Xem: Đỉnh hồ.

Cặp liễn tang còn câu long ám,

Hạc quy hồi lãnh đạm trần ai.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LONG BÀO

龍 袍

Long: Rồng. Bào: Áo.

Long bào là áo có thêu rồng, dành cho nhà vua mặc.

Đời nhà Thanh ở Trung Hoa, vua mặc áo long bào vàng, trong đó có thêu chín con rồng vàng và mây ngũ sắc.

Nên lấy Ca Sa mặc đổi dứt long bào,

Dùng Trí Huệ thắng gươm đao lòng vật chất.

(Giác Mê Khải Ngộ).

Tay vua xốc nếp long bào,

Bước khoan thai rẽ lối vào vườn tiên.

(Phù Kiều Hận Sử).

 

 

LONG CU

Hay “Long câu”.

Long: Rồng. Cu (câu): Ngựa hay, khoẻ.

Long cu, như chữ “Long câu 龍 駒”, là một giống ngựa hay và khoẻ mạnh.

Tương truyền long câu là loài ngựa được lai giống bởi cha rồng mẹ ngựa, nên sinh ra long câu là một giống ngựa chiến.

Chén quỳnh tiễn bạn trước long cu,

Giục vó tùng chinh báo quốc thù.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

LONG CUNG

龍 宮

Long: Con rồng. Cung: Cung điện, nơi vua ở.

Long cung là cung điện của Long Vương.

Theo truyền thuyết ở dưới sông hay biển đều có cung điện của Long Vương, tức là vua các loài thuỷ tộc.

Sách xưa thường chép nơi biển thuộc bốn hướng đông, tây, nam, bắc đều có cung điện của vua Tứ Hải Long Vương cai trị bốn biển.

Long cung yến đãi đèn hoa tỏ,

Nguyệt điện gương soi sắc ngọc làu.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

LONG CHU

龍 舟

Long: Rồng. Chu: Thuyền.

Long chu, như chữ “Long thuyền”, là thuyền rồng, ở đây ý chỉ thuyền Bát nhã.

Tam thập lục Thiên nhứt thống giao,

Long chu Bát nhã thoát ba đào.

(Tuồng Hát Chèo Thuyền).

 

 

LONG ĐONG

Long đong là vất vả, khó nhọc vì gặp phải nhiều điều không may, như: Cuộc sống long đong lận đận.

Long đong còn có nghĩa là không được ổn định, chắc chắn, sống lưu lạc vất vả, rày đây mai đó.

Làm người nhơn nghĩa xử xong,

Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.

(Kinh Sám Hối).

Ấy là bài học để lòng,

Gặp khi nghịch cảnh long đong con phòng.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

LONG HOA HỘI

龍 花 會

Hay “Long Hoa”.

Long Hoa là một loại cây hình giống như một con rồng, có nở hoa. Do Đức Phật Di Lạc đắc Đạo tại cội cây Long hoa này, nên Ngài mở và làm chủ một Đại hội, được gọi là Đại hội Long hoa. Đại hội có nhiệm vụ tuyển chọn những bậc hiền lương, đạo đức, không phân biệt chủng tộc, nòi giống, hiệp nhau làm một trong cuối thời kỳ Hạ nguơn tam chuyển để tạo dựng lại đời Thượng nguơn Tứ chuyển, tức là Thượng nguơn Thánh đức.

Từ xưa đến nay, Đức Chí Tôn đã mở được ba thời kỳ phổ độ cho nhơn sanh, mỗi thời kỳ phổ độ đều có mở một hội thi.

- Nhứt Kỳ Phổ Độ có Sơ Hội Long Hoa Thanh Vương Đại Hội, Đức Nhiên Đăng Cổ Phật là chủ khảo.

- Nhị Kỳ Phổ Độ có Nhị Hội Long Hoa Hồng Vương Đại Hội, Đức Phật A Di Đà làm chủ khảo.

- Tam Kỳ Phổ Độ có Tam Hội Long Hoa Bạch Vương Đại Hội, Đức Di Lạc Vương Phật làm chủ khảo.

1.- Long Hoa Hội:

Long Hoa Hội phàm tâm thay đổi,

Đời thái bình nhờ mối Đạo Trời.

(Long Hoa Hội).

2.- Long Hoa:

Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị,

Cõi Tây Phang đuổi quỷ trừ ma.

(Kinh Tận Độ).

Công nghiệp dồi dào âm chất đủ,

Long Hoa đợi hội hưởng Thiên ân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LONG MÃ PHỤ HÀ ĐỒ

龍 馬 負 河 圖

Long mã: Long mã là một con thú linh thời Thượng cổ, có đầu rồng mình ngựa, cổ dài, thân có vảy rồng. Phụ: Mang, đeo. Hà đồ: Bức vẽ có nguồn gốc từ vua Phục Hy nhận được trên sông Hoàng Hà bên Tàu. Ngày xưa nơi sông Hoàng Hà có xuất hiện một con Long mã trên lưng có mang bức Hà Đồ (Long mã phụ Hà đồ 龍 馬 負 河 圖), vua Phục Hy nhờ đó mà lập nên quẻ Tiên Thiên Bát Quái.

Do tích trên, nơi Nghinh Phong Đài của Toà Thánh Tây Ninh có đắp hình “Long Mã phụ Hà Đồ” chạy trên bán cầu, chạy từ hướng Đông sang hướng Tây để tượng trưng cho Đạo Cao Đài xuất hiện ở Đông phương, lãnh lịnh nơi Đức Chí Tôn truyền bá giáo lý trên mặt Địa cầu sang Tây phương.

Nóc Cửu Trùng phô hình Long Mã,

Phụ Hà Đồ đứng quả Địa Cầu.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

LONG MÃ VÀ NGỌC KỲ LÂN

Long Mã và Ngọc Kỳ Lân là hai con vật trong đạo Cao Đài Tây Ninh tạo ra, dùng để tiếp rước Hội Thánh, chức sắc Đại Thiên phong và các quan khách.

I. LONG MÃ

Long mã là một con vật cổ, rất linh thiêng xuất hiện ở sông Hoàng hà, có hình dáng đầu rồng mình ngựa, thân có vảy, cổ dài, mình cao tám thước năm (thước Tàu), trên lưng mang bức Hà đồ, gọi là Long mã phụ hà đồ.

Sự xuất hiện của Long mã được kể lại như sau:

Vào đời Phục Hy (2852-2737 trước Tây lịch), vị vua thứ nhất của thời Tam Hoàng tối cổ của Trung Quốc, trên sông Hoàng hà bỗng xuất hiện con Long mã, khiến cho nước sông dâng cao, nổi sóng lên, gây ra lụt lội.

Vua Phục Hy bèn ra bờ sông quan sát, thấy con thủy quái đầu rồng mình ngựa, mình có vảy, trên lưng có mang một cây bửu kiếm và một bức đồ, trong đó có những đốm đen, trắng xếp theo một đồ hình đặc biệt.

Phục Hy là vì Thánh vương, nên con Long mã thấy Ngài liền quỳ xuống, dường như muốn dâng lên những báu vật trên lưng.

Vua Phục lấy bức đồ trên lưng Long mã xuống quan sát, thấy trong bức đồ hình gồm có 55 đốm đen, trắng. Nhờ đó sau nầy Ngài vẽ thành Tiên Thiên Bát Quái đồ.

Do tích đó, tại các đình chùa, điện thờ, miếu mạo, Long mã thường được khắc họa hay đúc tượng trên các vật thể như bình phong, hoành phi để vừa trang trí chốn tôn nghiêm, vừa có công dụng phong thủy trừ tà, khử trược.

Riêng tại Đền Thánh Cao Đài Tây Ninh, tượng Long mã phụ Hà đồ được đắp trên một bán cầu (tượng cho Địa cầu 68 của nhơn loại) nằm trên Nghinh Phong Đài. Mình Long mã hướng theo chiều Toà Thánh, tức đang tiến từ phía Đông sang phía Tây, đầu quay về phương Đông.

Theo dịch học, Long là rồng, vật bay trên trời, tượng trưng Dương, mã là ngựa, vật chạy dưới đất, tượng trưng cho Âm. Long mã gồm Âm Dương mà hai quẻ Âm Dương phối hiệp là Đạo, như vậy Long mã tượng trưng cho Đạo.

Trên Nghinh Phong Đài, Long mã cất vó chạy về hướng Tây, nhưng đầu lại quay về hướng Đông, ý chỉ Đạo xuất nơi hướng Đông (Đạo xuất ư Đông) và truyền qua hướng Tây, nhưng đầu quay lại Đông có nghĩa là cuối cùng Đạo cũng trở về phương Đông, vì hướng Đông là gốc của Đạo.

Chính Long mã tượng cho Đạo, nên trong tôn giáo Cao Đài, nghi lễ tiếp rước các quan khách như các nhà lãnh đạo quốc gia hay các nhà lãnh đạo tôn giáo hoặc các chức sắc Đại Thiên Phong, Hội Thánh, ngoài các nghi trượng như lọng, tàn, bát bửu, nhạc Tần,... còn có múa Long mã.

Múa Long mã là một nghi thức có một không hai trong đạo Cao Đài, một nét văn hóa độc nhứt, từ trước tới nay chưa nơi nào có. Điệu múa Long mã rất hùng hồn và oai vệ, bước nhảy rập ràng theo nhịp trống và phèn la.

Ngoài ra, Long mã còn được Hội Thánh cho kết bằng những cành cây, hoa kiểng nằm trên một chiếc xe hơi bốn bánh, hình to lớn, lưng có thể chở Liên đài của các chức sắc Đại Thiên Phong từ hàng Tiên vị trở lên khi đăng Tiên, dùng để di chuyển Liên đài đến những nơi tế lễ hoặc đi chuyển nhập bửu tháp, gọi là Liên đài kỵ Long mã.

Như vậy, từ trước trong nền đạo Cao Đài chỉ dùng con Long mã để tiếp rước quan khách mà thôi, cho đến năm Ất Tỵ (1965), Ban Tổng Trạo Toà Thánh mới tạo ra một con thú khác, gọi là Ngọc Kỳ Lân.

II. NGỌC KỲ LÂN

Ngọc Kỳ Lân, hay Kỳ Lân, là tên một giống thú thuộc loài Tứ linh “Long Lân Quy Phụng” thời xưa, con đực gọi là kỳ 麒, con cái gọi là lân 麟.

Tương truyền, Kỳ Lân có hình dáng như con nai, mình vằn, đuôi trâu, vú ngựa, có một sừng trên đầu, là một loài thú rất hiền lành. Bước chân Kỳ lân đi có quy cũ, không đạp côn trùng, không làm nát cỏ cây, nên người ta gọi Kỳ lân là con thú nhân đức, hay “nhân thú”.

Kỳ Lân có tánh linh, khi nào xuất hiện thì báo trước điềm lành có Thánh chúa ra đời để cứu nhân độ thế.

Ngọc kỳ lân trên lưng có mang quyển Xuân thu để biểu tượng cho cuộc đời Đức Khổng Tử, vì từ lúc sinh Ngài ra cho đến lúc Ngài sắp chết đều có Kỳ Lân xuất hiện hai lần: Lần đầu xuất hiện để báo tin vị Thánh chúa ra đời; lần cuối xuất hiện để báo tin vị Thánh chúa quy Thiên.

Kỳ lân xuất hiện lần thứ nhứt, tục truyền Bà Nhan Thị, mẹ Đức Khổng Tử khi có thai Ngài, thấy một con Kỳ Lân đến nằm phục trước mặt Bà, nhả ra tờ ngọc thơ có chữ viết rằng: Con nhà thủy tinh nối đời suy Châu mà làm vua không ngôi, sau đó Bà Nhan Thị sinh ra Đức Khổng Tử.

Kỳ lân xuất hiện lần thứ nhì, mùa xuân năm Lỗ Ai Công thứ 14, có người nước Lỗ đi săn, bắt được con Kỳ Lân què một chân. Đức Khổng Tử đang viết sử nghe được, bèn ngưng lại, không chép nữa, Ngài bưng mặt khóc. Về sau Ngài than với học trò: Đạo ta đến lúc cùng rồi (ngô Đạo cùng hỹ)!

Ba năm sau, Đức Khổng Tử mất.

Trong Thi Văn Dạy Đạo có bài thi như sau:

Xem mai trông gặp trổ hai lần,

Như ĐỨC KHỔNG xưa muốn THẤY LÂN.

Hờn gió giận mưa hoài trí tính,

Thâu niên chẳng đoái chút tinh thần.

Do sự tích Đức Khổng Tử đã “Thấy Lân” mà Ban Tổng Trạo Toà Thánh Tây Ninh đã tạo ra hình con Kỳ Lân trên lưng mang bộ Kinh Xuân Thu, gọi là “NGỌC KỲ LÂN và dâng lên Hội Thánh theo Phúc trình số: 9/PT, ngày 6 tháng 4 năm Ất Tỵ (Dl. 6/5/1965) để giúp các cuộc lễ ở Nội Ô Toà Thánh và các cuộc lễ Khánh thành Thánh Thất cũng như Điện Thờ Phật Mẫu ở địa phương được tăng thêm phần long trọng.

Thay mặt Hội Thánh, Ngài Ngọc Chánh Phối Sư, Ngọc Nhượn Thanh trả lời cho Ban Tổng Trạo theo văn thư (chép lại nguyên văn) nhau sau:

 

Văn Phòng

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

CỬU TRÙNG ĐÀI

(Tứ thập niên)

NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ

Tòa Thánh Tây Ninh

Số: 89/TT

-------------

 

QU. NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ.

Gởi cho Hiền Huynh Ban Tổng Trạo.

Kính Hiền Huynh,

Tham chiếu Phúc trình số: 9/PT, đề ngày 6 tháng 4 năm Ất Tỵ (Dl. 6/5/1965) của Hiền Huynh thay mặt Ban Tổng Trạo, xin dâng con Ngọc Kỳ Lân lên Hội Thánh, để giúp các cuộc lễ ở Nội Ô và các cuộc lễ Khánh thành Thánh Thất cũng như Điện thờ Phật Mẫu ở địa phương được tăng thêm phần long trọng.

Sau khi đệ trình lên Ngài Bảo Thế, Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, có chỉ thị số: 424/QCQ, đề ngày13 tháng 4 năm Ất Tỵ (Dl. 13/5/1965) phán dạy như sau:

“Trong cửa Đạo chỉ có Long mã để rước chức sắc Đại Thiên Phong từ Đầu Sư và Thập Nhị Thời Quân sắp lên mà thôi”.

Ngoài ra, không ai được tự chuyên tạo hình thú nào khác thay thế, hoặc để dùng ở địa phương được.

Con Kỳ Lân của Ban Tổng Trạo đã lỡ tạo rồi thì để dùng giúp vui trong những cuộc lễ ở Nội Ô Tòa Thánh khi có lịnh Hội Thánh cho phép.

Vậy tiếp được chỉ thị nầy, Hiền Huynh nên tuân lịnh và thi hành.

Tòa Thánh, ngày17 tháng 4 năm Ất Tỵ
(Dl. 17/5/1965)

QU. NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ.

(Ấn ký)

Ngọc Nhượn Thanh.

Kính tường:

- Ngài Bảo Thế Quyền Chưởng Quản HTĐ.

- Khai Đạo HTĐ.

- Đầu Sư.

- Hiền Huynh Chưởng Quản Phước Thiện.

 

Tinh thần văn bản của Ngài Ngọc Chánh Phối Sư, thi hành theo chỉ thị của Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước, Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài thì việc rước quan khách hoặc rước các vị chức sắc Đại Thiên Phong của Hội Thánh Cao Đài duy nhứt chỉ dùng con Long Mã, còn con Ngọc Kỳ Lân do Ban Tổng Trạo đã lỡ tạo ra rồi chỉ được giúp vui trong những cuộc lễ với điều kiện được Hội Thánh cho phép.

Nhưng hiện nay, chúng ta thấy những cuộc lễ hoặc tiếp rước quan khách, chức sắc Hội Thánh tại Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh đều dùng con Long Mã, nhưng cũng có Ngọc Kỳ Lân múa biểu diễn; còn những cuộc lễ tiếp rước tại các Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu địa phương đều sử dụng con Ngọc Kỳ Lân.

Chúng tôi chưa tìm được bản văn mà Hội Thánh cho phép dùng con Ngọc Kỳ Lân để tiếp rước Chánh quyền, Đại diện Hội Thánh đến chứng dự những cuộc lễ Đặt viên gạch đầu tiên, An vị Thánh Tượng hay Khánh thành Thánh Thất, hoặc Điện Thờ Phật Mẫu tại các địa phương.

1.- Long mã:

Liên Đài đỡ gót chầu cung Ngọc,

Long mã đưa đường hộ pháp thân.

(Thơ Huệ Phong).

2.- Ngọc Kỳ Lân (Lân Ngọc):

Áo trắng phất phơ chật nẻo đàng,

Dẫn vào Thánh Thất Khổ Hiền Trang.

Nhạc Tần đánh rước, âm dồn dập,

Lân Ngọc múa nghinh, điệu nhịp nhàng.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LONG MẠCH

龍 脈

Long: Rồng. Mạch: Đường nước ngầm.

Long mạch là mạch đất tốt. Ngày xưa, những thầy địa lý cho rằng người ở vùng có Long mạch thì vận mệnh sẽ hanh thông, phát triển.

Như: Thầy địa lý đi tìm Long mạch, không dám đào giếng sợ động Long mạch.

Long Tuyền Kiếm vừa khơi lên được,

Ngòi Long mạch phun nước tứ tung.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LONG NỮ

龍 女

Long: Rồng. Nữ: Người con gái.

Long Nữ là vị đồng tử nữ theo hầu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ở Phổ Đà Sơn, Nam Hải. Theo Đức Hộ Pháp, Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh chính là chơn linh của Long Nữ.

Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh, thế danh là Lâm Ngọc Thanh, sinh năm Giáp Tuất (1874) tại làng Trung Tín, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Thân mẫu là bà Trần Thị Sanh.

Bà Lâm Ngọc Thanh là vợ của ông Huyện Huỳnh Ngọc Xây, nên bà thường được người đời gọi là Bà Huyện Xây, là một nghiệp chủ giàu có lớn tại Vũng Liêm. Ông và bà có một người con gái tên là Huỳnh Thị Hồ.

Sau ông Huyện Xây mất, bà gá nghĩa với ông Huyện Hàm Nguyễn Ngọc Thơ, một nghiệp chủ ở Tân Định, Sài Gòn. Hai Ông bà quy y theo Phật, thọ giáo với Hoà Thượng Như Nhãn, lúc đó trụ trì chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ Lớn.

Bà Lâm Ngọc Thanh được Đức Chí Tôn độ, nhập môn vào đạo Cao Đài ngày 06 tháng 6 năm Bính Dần (Dl. 16/7/1926).

Bà hiến dâng một phần sản nghiệp cho Đạo trong buổi sơ khai có phương tiện hoằng hoá mối đạo Trời. Bà cũng hiến ngôi chùa do bà xây dựng ở bên cạnh nhà tại Vũng Liêm cho Hội Thánh làm ngôi Thánh Thất thờ Đức Chí Tôn để những người trong vùng có nơi chiêm bái.

Chính nhờ công của ông bà mà Hoà Thượng Như Nhãn bằng lòng hiến ngôi chùa Từ Lâm Tự (tức Chùa Gò Kén) ở Tây Ninh cho đạo Cao Đài dùng làm Thánh Thất tạm, tổ chức lễ Khai Đạo. Bà thọ Thiên ân Giáo Sư, Thánh danh là Hương Thanh.

Từ đó bà lo phổ độ nhơn sanh khắp nơi. Trong kỳ phong thánh lần thứ nhứt ngày 14 tháng 01 năm Đinh Mão (Dl. 15- 02-1927), bà được Đức Chí Tôn thăng lên phẩm Nữ Phối Sư, cầm đầu nữ phái.

Khi Hoà Thượng Như Nhãn đòi chùa, Ông Bà xuất 25.000 đồng cho Hội Thánh mượn để mua đất tại làng Long Thành, tỉnh Tây Ninh để khai phá rừng cất Toà Thánh tạm bằng cây ván. Bà cũng có công trong việc giao thiệp với chánh quyền Pháp xin mở cửa những Thánh Thất nào bị chánh quyền áp chế đóng cửa trước đây. Đến ngày mùng 9 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (Dl. 16-4-1929), Bà được thăng lên Nữ Chánh Phối Sư, Chưởng Quản nữ phái.

Đến năm 1936, Đức Hộ Pháp quyết định xây dựng Toà Thánh, nhưng tiền quỹ của Hội Thánh quá ít, Ngài nhờ bà Lâm Hương Thanh cho mượn một số nữ trang như vàng, hột xoàn, cẩm thạch để đi cầm thế, vì lúc đó giá lúa quá thấp, Bà không có sẵn tiền mặt. Nhờ vậy, Hội Thánh mới có một số vốn khoản 100.000 đồng Đông Dương để xây dựng Toà Thánh.

Bà quy vị vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Sửu (Dl. 17-5-1937), đúng vào ngày lễ Phật Đản, tại Vũng Liêm, hưởng thọ 64 tuổi.

Sau khi quy vị được 17 ngày, Bà được Đức Chí Tôn ân tứ lên phẩm Nữ Đầu Sư trong Đàn cơ ngày 25 tháng 4 năm Đinh Sửu (Dl. 03-6-1937).

Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh có công lớn trong việc khai nền Đại Đạo, tạo dựng Toà Thánh và nhất là dìu dẫn con cái của Chí Tôn về phía Nữ phái, nên được Hội Thánh tạc tượng tay xách “giỏ hoa lam” trước Đền Thánh, bên phía Lôi Âm Cổ Đài.

Trong Thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp giảng như sau: Bà Nữ Đầu Sư, Chơn Linh Long Nữ, Long Nữ là ai? Thật ra là người đòi của Phật Quan Âm Bồ Tát đó vậy. Bần Đạo hiểu về cái thuyết bí mật của Đức Quan Âm Bồ Tát lãnh trách nhiệm trọng yếu vâng lịnh của Đức Di Lạc Vương Phật Chưởng Quản điều khiển Bát Nhã Thuyền, vì cớ cho nên Đức Quan Âm Bồ Tát không có thể giáng trần được, chính mình Long Nữ là người hầu của Bà, tình nguyện giáng trần đặng hiệp với các Chơn Linh, các cung các điện và Hộ Pháp đặng mở nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn, hầu tận độ Vạn Linh tạo cơ giải thoát.

Ơn nhờ có con là Long Nữ,

Đến thay thân Thiên sứ Từ Hàng,

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

LONG TU

龍 鬚

Hay “Long Tu Phiến”.

Long tu: Râu con rồng. Phiến: Cây quạt.

Long Tu hay Long Phiến 龍 鬚 翩 là cây quạt làm bằng râu rồng. Đây là một Bửu Pháp của Tam Nương Diêu Trì Cung.

Ngoài ra, Long Tu Phiến còn là một Bửu Pháp của Đức Cao Thượng Phẩm, được làm bằng 36 cọng lông cò trắng kết lại.

Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng thuyết về Long Tu Phiến tại Ðền Thánh đêm 30 rạng mùng 1 tháng 3 năm Nhâm Dần (1962) trong dịp Vía Ðức Cao Thượng Phẩm có đoạn:

“Long Tu Phiến là cây quạt do điển khí của Tam Thập Lục Thiên kết thành, quạt ấy tiết ra một điển lực có ảnh hưởng đến cuộc tấn hóa của quần linh. Chơn thần nào trong sạch thì nương theo đó mà siêu nhập Cực Lạc Thế Giới.

Trái lại, chơn thần nào luyến ái tà mị thì lánh xa mà đi lần đến U Minh cảnh giới. Cả cơ “thu” và “đẩy” của Long Tu Phiến với chơn thần đều do luật “đồng khí tương cầu” mà thành tựu. Nghĩa là chơn thần đạo đức thì Long Tu Phiến hấp dẫn đến gần và đưa vào Cực Lạc Thế Giới; còn chơn thần trọng trược thì Long Tu Phiến đẩy ra xa và lần hồi đi đến cảnh U Minh đen tối.”

Trong bài Thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp nói về Long Tu Phiến của Đức Cao Thượng Phẩm như sau: Long Tu Phiến có thể vận chuyển Càn Khôn Vũ Trụ, do nguơn khí đào độn sanh ra đó vậy. Nó có quyền đào độn nguơn khí, thâu hoạch nguơn khí để trong sanh lực.

Con người nắm được điều ấy là kẻ đắc Pháp, nhờ nó mới có thể luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần được.

1.- Bửu pháp của Đức Cao Thượng Phẩm:

Long Tu Phiến là cây quạt do điển khí của Tam Thập Lục Thiên kết thành, quạt ấy tiết ra một điển lực có ảnh hưởng đến cuộc tấn hoá của quần linh.

(Thượng Phẩm Giáng)

2.- Bửu pháp của Tam Nương Diêu Trì Cung:

Cô Tam Nương thuyền từ nhẹ thả,

Cầm Long Tu độ cả khách trần.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Quạt Long Tu hình thành pháp bửu,

Kết lông chim số cửu Chơn thần.

(Báo Ân Từ).

 

 

LONG TUYỀN

龍 泉

Hay “Long Tuyền Kiếm”.

A.- Long Tuyền là tên một thanh kiếm rất quý báu, cũng gọi là Long Uyên. Tấn Thư chép: Trương Hoa xem thiên văn thấy có khí tím sáng chói ở giữa khoảng sao Đẩu, bèn hỏi Lôi Hoán, Hoán đáp rằng: Đó là khí thiêng của gươm báu chiếu lên.

Về sau, Hoán tìm đến huyện Phong Thành đào ở nơi nhà ngục được cái hòm đá trắng đựng hai thanh kiếm đề là Long Tuyền và Thái A ở dưới đất bốn trượng sâu.

Trong Đại Nam Quốc Sử có câu:

Đến cơn loạn mệnh nên nhầm,

Cán Long tuyền để trao cầm tay ai.

B.- Đức Hộ Pháp lấy Long Tuyền Kiếm ở làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.

Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung có kể lại Đức Hộ Pháp đi lấy Long Tuyền Kiếm như sau: Đức Ngài đến lần này là để đi tìm Long Tuyền Kiếm, do Bát Nương mách bảo với Đức Ngài khi trước.

Đức Ngài chấp bút, được Đức Lỗ Ban giáng nói phải đến Thảo Đường. Thảo Đường này là chỗ Đức Phật Mẫu chỉ dạy khẩn một lô đất hoang 60 mẫu và khai một con kinh, về các năm trước là năm 1928, theo bài thi của Đức Phật Mẫu, nguyên văn như sau:

Thảo Đường phước địa ngộ tùng hoa,

Lục ức dư niên võ trụ hoà.

Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,

Thế đăng Bồng đảo định âu ca.

Khi đến con kinh mà ông Đinh Công Trứ và tôi với bổn đạo khai thác, có tạo một ngôi nhà tạm bằng cây lá để thờ Đức Chí Tôn, Đức Lỗ Ban dạy: Bước về phía Tây Nam 280 bước thì lấy cái ếm. Lấy xong, Đức Ngài giải nghĩa liền rằng: Long Tuyền Kiếm này là do đời Tàu cai trị Việt Nam, ếm để sát hại nhơn tài, dầu có Trạng ra đời cũng bị vớt dứt (là yểu mạng). Đức Lỗ Ban cho Bần đạo biết, có hai vị thần ở đây giữ, chỉ dành riêng cho kẻ mạng Trời đến lấy món ếm này mà thôi.

Ếm nầy vào năm 1849, khi Pháp chiếm Việt Nam. Đến năm 1914, giặc Âu Châu bùng nổ, Tàu có sai một người Triều Châu độ 65 tuổi qua ếm một lần nữa.

Long Tuyền Kiếm vừa khơi lên được,

Ngòi Long mạch phun nước tứ tung.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LONG TRỌNG

Long trọng là uy nghiêm và quan trọng, tức có đủ nghi thức và không khí trang nghiêm.

Như: Hưởng một cái tết cổ truyền rất long trọng, Hội Thánh tiếp đón phái đoàn rất long trọng.

Đó là chư quý vị hiến dâng cho Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu một lễ quý báu và long trọng hơn hết.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LONG VÂN

龍 雲

Long: Rồng. Vân: Mây.

Long vân, bởi chữ “Long vân hội 龍 雲 會”, tức hội rồng mây, dùng để chỉ việc gặp thời cơ tốt, hoặc công danh hiển đạt.

Kinh Dịch có câu: Vân tùng long, phong tùng hổ 雲 從 龍, 風 從 虎, nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp, có ý nói những vật cùng khí loại thường cảm ứng mà tìm nhau.

May duyên gặp hội Long vân,

Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa.

(Kinh Thế Đạo).

Nông nả Long vân chờ gặp hội,

Bảng vàng tên tạc thoả tình thâm.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

LONG VỊ

龍 位

Long: Hình rồng. Vị: Chỗ ngồi, bài vị.

Long vị là bài vị bằng gỗ có chạm hình rồng quấn quanh, hoặc quấn trên đầu bài vị. Hiện nay thường chỉ viết Thánh danh vào Bài vị mà thôi.

Long vị được Hội Thánh Cao Đài ghi Thánh danh các Đấng Tam Giáo, Tam Trấn hay Ngũ Chi Đại Đạo để thờ nơi Chánh Điện tại Đền Thánh.

Để có tính cách tôn kính đối với các vị Chức sắc đã quy liễu, linh vị cũng được gọi bằng “Long vị”.

Khi đặng truy phong rồi, con cháu hoặc anh em phải đem long vị về Toà Thánh với một vài vị Chức Sắc sở tại đưa lên.

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

LONG VƯƠNG

龍 王

Long: Con rồng, chỉ vua. Vương: Vua.

Long vương là vua ở thuỷ cung (Long cung).

Theo truyền thuyết ở dưới sông hay biển đều có các vị vua cai quản Long cung.

Sách xưa thường chép nơi biển thuộc bốn hướng đông, tây, nam, bắc đều có cung điện của bốn vị vua ở thuỷ cung, gọi là Tứ Hải Long Vương cai trị bốn biển.

Xúm kiện Long Vương rằng ác nghiệt,

Ðều thưa Lôi Chấn ở không ngay.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LÓNG

1.- Lóng là lắng, lắng nghe. Như: Lóng tai nghe, lóng tiếng chuông chùa.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Cứ an lòng giữ vững đời sống muối dưa thanh đạm, dưới bóng Từ Bi của Ðức Chí Tôn, lóng nghe hồi chuông cảnh tỉnh để lâng lâng giũ sạch bụi trần, ngày tháng công phu trau giồi tâm trí thế nào cho được thanh cao trong sạch.

Cõi thế chờ qua đường mấy dặm,

Non Thần đợi lóng nhạc năm cung.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lóng chuông cảnh tỉnh tan niềm tục,

Dìu khách phồn hoa lánh bể trần.

(Thơ Thượng Sanh).

2.- Lóng là gạn chất bẩn để lấy nước trong, hoặc lọc lấy khí thanh.

Như: Gạn đục lóng trong, nước đục lóng phèn, lóng lấy nước muối.

Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh,

Lòng thành nhờ lẫn lóng hơi thanh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thanh bạch một lòng vì đạo hạnh,

Có khi lóng đục bởi nhờ phèn.

(Đạo Sử).

 

 

LÓNG KÌNH

Lóng: Lắng nghe, lắng tai nghe. Kình: Cá kình, ở đây chỉ cây chày dọng chuông U minh có chạm hình cá kình.

Lóng kình là lắng nghe tiếng chày kình, tức tiếng Đại Hồng Chung nơi Bạch Ngọc Chung Đài.

Lóng kình Bạch Ngọc qua bờ giác,

Nương đuốc Hồng Quân vượt bóng đêm.

(Thơ Thành Đức).

 

 

LÓNG PHÈN

Lóng: Gạn lấy nước trong. Phèn: Một chất có màu trắng hoặc trong suốt, vị chua và chát, thường dùng để lóng nước đục ra trong.

Lóng phèn tức dùng phèn chua để gạn nước đục thành ra trong, ý chỉ sự hoàn thiện.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta đã thấy luật thiên nhiên tương đối kia muốn cho nước đục được trong, phải đánh cho nó đảo lộn đi rồi nó mới lóng phèn nước mới trong lại được.

An vui miễn biết giữ lòng lành,

Nước có lóng phèn nước mới xanh.

(Đạo Sử).

 

 

LÒNG

1.- Lòng nói chung về bộ phận ruột gan, hoặc chỉ về bụng dạ của con người.

Như: Lòng lợn, lòng gà, no lòng, nằm lòng, người con đầu lòng.

Nhờ Viêm Đế đức cao ơn nặng,

Tìm lúa khoai người đặng no lòng.

(Kinh Sám Hối).

Lỗ tai bịt đừng nghe lời bợ,

Hễ dữ hung sách vở vẫn nằm lòng.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lòng là bụng dạ của con người biểu tượng về mặt tâm lý, tình cảm, ý chí, tinh thần. Như: Đau lòng, bận lòng, đồng lòng, ăn ở hai lòng, lòng tham.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Nhiều đứa đi truyền đạo mà trong lòng kính sợ kẻ thọ giáo. Thầy hỏi: Phải nghịch chơn lý chăng?

Chầy ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,

Mà tấm lòng kia vẫn luống gần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Quy điền có lúc phong trần rảnh,

Ðinh sắt một lòng, chí chớ lay.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

LÒNG CHA MẸ

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng về mặt tâm lý, tình cảm. Cha mẹ: Chỉ hai đấng sinh thành.

Lòng cha mẹ tức là lòng thương yêu con cái vô bờ bến của các bậc làm cha mẹ.

Khi có con và nuôi nấng chúng nó thì người con mới biết tấm lòng cao cả đó của cha mẹ.

Thức đêm mới biết lòng cha mẹ,

Ơn nặng nghĩa sâu khó đáp đền.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LÒNG DẠ

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng về mặt tâm lý, tình cảm. Dạ: Cũng như chữ lòng.

Lòng dạ là bụng dạ của con người, coi là biểu tượng cho tâm, cho những ý nghĩ, tình cảm sâu kín đối với người, với việc.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Muốn tự sửa mình trước phải giữ lòng dạ cho ngay thẳng, muốn giữ lòng dạ ngay thẳng trước phải luyện ý mình được thành thật, muốn cho ý mình thành thật, trước phải có kiến thức chu đáo và muốn có kiến thức chu đáo phải học và tìm biết suốt tới chỗ uyên thâm của sự vật.

Cũng vì lòng dạ vô lương,

Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.

(Kinh Sám Hối).

Phải chiều con lòng dạ ghét ưa,

Dầu quấy phải cũng thừa dạy dỗ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÒNG ĐƠN

Lòng: Lòng, dạ. Đơn (đan): Son.

Lòng đơn (đan), như chữ “Đan tâm 丹 心”, có nghĩa là lòng son, tức tấm lòng ngay thẳng, trung thành.

Lòng đơn, như chữ “Lòng đan”, là chỉ tấm lòng son sắt, lòng trung thành.

Xem: Đan tâm.

Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,

Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.

(Tán Tụng Công Đức).

Ai chưa rõ thấu tấc lòng đơn,

Chớ vội cưu chi những tiếng hờn.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LÒNG HÁO SANH

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm của con người. Háo sanh: Như chữ hiếu sinh, là có lòng nhân ái, không muốn giết hại ai.

Lòng háo sanh là có lòng thương đều muôn vật.

Con người khi bước vào đường tu đều phải chấp hành những giới luật của tôn giáo mình đưa ra. Cũng như Phật giáo, Đạo Cao Đài lấy ngũ giới cấm làm phương châm tu tập. Trong ngũ giới cấm, điều giới sát đứng đầu tiên dành cho người thọ giới phải hành trì một cách nghiêm nhặt, song thường người ta chỉ tránh sát mạng con người hay các loài cầm thú, còn những loại như côn trùng, ong, kiến, người ta ít quan tâm tới, vì coi nó là một sinh vật nhỏ bé. Nhưng theo triết lý Cao Đài, mọi vật dù lớn nhỏ đều có một điểm Chơn linh của Đức Chí Tôn phân tánh, nên đều có tánh linh như nhau. Vì vậy, muôn Chơn linh đều được Thượng Đế thương đều nhau, trong Kinh Sám Hối có viết:

Lòng Trời Đất thương đều muôn vật,

Đức háo sanh Tiên, Phật một màu.

Thượng cầm hạ thú lao xao,

Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.

Nó cũng muốn như mình đặng sống,

Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.

Tạo hoá có công sinh thành, nuôi dưỡng con người và vạn vật. Mỗi Chơn linh mà Ngài sinh hoá ra, dù lớn dù nhỏ đều có điểm Linh quang của Ngài chiết ra, cho nên đối với muôn vật, từ côn trùng thảo mộc, loài cầm thú, đến con người, ngài đều thương yêu đồng đều như nhau, che chở như nhau.

Chư Tiên Phật cũng thế, là các Đấng từ bi cũng lấy lòng Trời làm lòng mình, chính vì vậy, Tiên Phật cũng như Thượng Đế đều có lòng hiếu sinh. Thánh giáo Thầy có dạy: “Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hoá sanh cũng vậy, đến thế này lâu mau đều định trước. Nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả báo không sai, biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên Phật bị đọa luân hồi mà ra đến đỗi ấy. Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ. Các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy”.

Mỗi sinh vật dù lớn nhỏ đều thọ một điểm Chơn linh của Đức Thượng Đế, đều được Ngài thương yêu đồng đều như nhau, đều được quyền sống ở cõi thế gian như nhau. Lại nữa, do bản năng sinh tồn mà mọi loài đều ham sống sợ chết. Vì thế, ai sát hại sinh mạng của một loài vật thì sẽ bị ác báo, người nào cứu mạng một sinh vật sẽ được phước báo.

Câu chuyện sau đây cho thấy phước báo của sự bảo vệ sanh linh, dù là vật bé nhỏ.

Thuở xưa, có một vị La Hán ở trên núi Tuyết đã chứng lục thông, thấy rõ việc trong ba đời như xem việc trước mắt. Ngài có nuôi một vị thiếu niên Sa di làm đệ tử.

Một hôm, vị thiếu niên đứng hầu bên cạnh thầy, vị La Hán xem qua sắc tướng rồi cho biết vị đệ tử đã hết phước báo, sau bảy ngày nữa sẽ chết. Thiếu niên Sa di nghe được sự việc chỉ biết đau đớn đảnh lễ thầy rồi từ tạ trở về nhà.

Trên đường về, gặp phải trận mưa lớn, người thiếu niên rẽ qua con đường hẻm thấy một bầy kiến nhỏ đang chơi vơi trên một dòng nước nhỏ chảy ngang qua đường. Bầy kiến hết sức chống đỡ, nhưng vô hiệu, vì thân nhỏ sức yếu mà dòng nước quá mạnh, nên đành để dòng nước đưa về cõi chết.

Thiếu niên Sa di thấy vậy, động lòng từ bi, liền cởi chiếc áo đang mặc trong mình ngăn ngang dòng nước, để đàn kiến có chỗ leo vào, những con kiệt sức không leo được, thiếu niên nhẹ tay bắt từng con bỏ vào áo, rồi đem vào nơi khô ráo. Sau khi xem xét thấy cứu hết bầy kiến, thiếu niên mới yên lòng trở về nhà.

Trong thời gian bảy ngày, chàng thiếu niên lo sợ chờ ngày mạng chung. Nhưng đến ngày thứ tám, thiếu niên thấy không có gì xảy đến, mình vẫn còn sống. Chàng thiếu niên mừng vui, tìm đến gặp thầy.

Vị La hán hết sức ngạc nhiên, Ngài liền nhập định dùng diệu trí quán xét mới biết đệ tử mình do công đức cứu bầy kiến nên cải được tử mệnh, lại còn được sống lâu nữa. Sau khi xuất định, vị La hán cho đệ tử mình biết và cho rằng có lòng từ bi mà cứu vớt sinh linh thì công đức ấy vô lượng.

Hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự sống. Vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LÒNG LANG

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm của con người. Lang: Chó sói, ví với kẻ hung hiểm.

Lòng lang, dịch từ chữ Hán “Lang tâm 狼 心”, là lòng hung dữ, hiểm độc như loài chó sói.

Thành ngữ có câu: “Lòng lang dạ sói” để chỉ kẻ độc hiểm như loài lang sói.

Lòng lang độc vui cười hớn hở,

Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LÒNG LÀNH

Lòng: Lòng dạ, hay tâm tính. Lành: Không sát hại người, vật, không gây hoạ cho ai, chỉ làm việc thiện.

Lòng lành, như chữ “Thiện tâm 善 心”, tức trong lòng hiền lành, không mắng chửi, giết hại người, chỉ yêu thương người và làm những điều nhân đức, thiện lương.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Lập trường Quy Thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiệp nhứt cùng nhau làm một đặng bảo thủ Chơn Truyền của Đạo.

An vui miễn biết giữ lòng lành,

Nước có lóng phèn nước mới xanh.

(Đạo Sử).

 

 

LÒNG NHƠN

Hay “Lòng nhân”.

Lòng: Lòng dạ, hay tâm tính. Nhơn (nhân 仁): Thương người, mến vật.

Lòng nhơn, như chữ “Lòng nhân”, là lòng nhân từ đạo đức, tức lòng thương người mến vật.

Lòng nhơn phải là một thứ tình thương không có điều kiện, không bắt buộc và không đòi hỏi bất cứ một sự đền trả nào. Ngoài ra, lòng nhơn theo đạo Phật, không chỉ hạn chế trong nhơn loại, mà còn mở rộng đến tất cả các loài động vật và cây cỏ.

Thánh giáo Thầy có dạy: Các con có thấy có nghe chăng? Nếu Thầy không vì Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy thì Thầy đã y tấu lời xin của Giáo Tông mà huỷ trường công quả của các con hết thảy. Vậy nay Thầy cũng lấy lòng nhơn mà để vào trí não các con ít lời thêm cho rõ việc thi hành chánh sách của Ðạo.

Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành,

Từ bi Phật dặn: Lòng thành lòng nhơn.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Thấy người gặp lúc tai nguy,

Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LÒNG QUỲ

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm. Quỳ: Hoa quỳ, một loại hoa như bông hướng dương.

Lòng quỳ là lòng của hoa quỳ, một loài hoa có màu vàng, buổi sáng luôn hướng về phía mặt trời, tức hướng đông, chiều hướng tây, ý chỉ lòng trung thành để về ai như hoa quỳ hướng theo mặt trời.

Cổ Thi có câu: Huỳnh hoa linh lạc vô nhân khán, độc tự khuynh tâm hướng thái dương 黃 花 零 落 無 人 看, 獨 自 傾 心 向 太 陽, nghĩa là Hoa vàng rời rã không ai thấy, chỉ tự một mình nghiêng lòng theo bóng mặt trời. Ý muốn nói mình có lòng trung trinh tự mình biết không ai hay.

Xem: Hướng dương.

Chua xót lòng quỳ, phận hướng dương,

Niềm riêng, riêng chạnh có ai thương!

(Thơ Thuần Đức).

Ngơ ngác lòng quỳ chưa hướng đỗ,

Không gian sầm sập bóng tà huy.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

LÒNG SON

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm. Son: Một loại đá đỏ, sắc đỏ.

Lòng son, như chữ Hán “Đan tâm 丹 心” để chỉ tấm lòng như màu son, không bao giờ phai lợt.

Lòng son dùng để chỉ tấm lòng ngay thẳng trung thành, trước sau như một, không bao giờ thay đổi.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhưng mà đối với Đức Ngài thì Đức Ngài coi vàng như củi mục, thị sắc đẹp như cây khô, tước lộc cũng không màng, một tấm lòng son thuỷ chung như nhứt.

Dặn mình tua chặt trong gang tấc,

Sau trước lòng son giữ đặng thường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trả rồi vay tua vẹn lòng son,

Bia cũ gương trung dấu vẫn còn.

(Đạo Sử).

Dạy đừng dùng tiếng ngọt lời ngon,

Làm nhục kẻ lòng son gìn tiết hạnh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÒNG TÀ

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm. (tà vạy): Cong, vạy, không ngay thẳng, không đúng đắn về mặt đạo đức.

Lòng tà, như chữ “Tà nguỵ 邪 偽”, có nghĩa là gian xảo, dối trá không ngay thẳng.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Mở một mối đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối đạo cũng chẳng phải dễ. Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy.

Lương tâm thường xét cho rành,

Của không phải nghĩa chớ sanh lòng tà.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LÒNG TIN

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm. Tin: Đặt hoàn toàn hy vọng vào người nào hay cái gì đó.

Lòng tin là có lòng tin tưởng, hay có đức tin vào một tôn giáo.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thần Hoàng Bổn Cảnh có dạy: Ta cũng tỏ cho chư chức sắc hiểu rằng: Tế tự là tại sao? Phàm có lòng tin mới cúng chớ. Cúng là lấy có lễ đó, gọi là kỉnh trọng, chớ Thần Thánh, nào ăn của ai.

Hoà với kẻ kỉnh thờ Tam Giáo,

Gieo lòng tin giáo đạo mọi nơi.

(Bát Nương Giáng Bút).

Tạo dựng cơ đồ cho chánh nghĩa,

Rưới chan hạnh phúc bởi lòng tin.

(Thơ Hộ Pháp).

Nên biết chơn tâm mới biết mình,

Biết người biết thế, vững lòng tin.

(Thơ Chánh Đức).

 

 

LÒNG TỤC

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm. Tục: Tầm thường thấp kém, chỉ cõi phàm tục.

Lòng tục là lòng dạ còn mang tính phàm tục, tức lòng còn ham mê mùi trần tục.

Lòng tục đồng nghĩa với chữ Lòng trần.

Nhành dương nước rưới tan lòng tục,

Nguồn Thánh đạo dìu lại cõi Tiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Soi gương hạnh đức trau lòng tục,

Hứng giọt từ bi rửa bợn sầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÒNG TỪ BI

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm. Từ bi: Lòng thương yêu tất cả chúng sanh không vụ lợi, không phân sang hèn, lòng thương chân thật.

Lòng từ bi là thương yêu chúng sanh của Đức Thượng Đế hay chư Phật.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy lập nền Ðạo nầy ra, do nơi Thiên thơ, lại cũng có lòng từ bi, để vớt cả mấy chục triệu nguyên nhân lớn lao trở hồi cựu vị.

Biết chăng cái thảm mất chồng,

Xin cho thiếp dựa nơi lòng từ bi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LÒNG THÀNH

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm. Thành: Thành thật, ngay thẳng.

Lòng thành, như chữ “Thành tâm 誠 心” tức là lòng thành thật, hay thật tâm.

Người tu hành cần phải trau dồi để được có lòng thành thực. Theo Mạnh Tử, Thành giả, thiên chi đạo dã, tư thành giả, nhân chi đạo dã. Chí thành nhi bất động giả, vị chi hữu dã; bất thành vị hữu năng động giả dã 誠 者, 天 之 道 也, 思 誠 者, 人 之 道 也, 至 誠 而 不 動 者, 未 之 有 也, 不 誠 未 有 能 動 者 也, nghĩa là thành thực là cái Đạo của Trời, luyện tập để trở nên thành thực là cái Đạo của người. Hễ chí thành mà không cảm động được thiên hạ thì chưa hề có; không thành thực thì chẳng cảm động được ai cả.

Xem: Thành tâm.

Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành,

Từ bi Phật dặn: Lòng thành lòng nhơn.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Lòng thành thương tưởng ông bà,

Nước nguồn cây cội mới là tu my.

(Kinh Sám Hối).

Chung rượu lạt, lòng thành xin kính,

Dâng đưa anh đặng tỏ chút tinh.

(Văn Tế Bảo Đạo).

 

 

LÒNG THÀNH TÍN

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm. Thành: Thành thật, tức là lời nói, hành vi đúng như ý nghĩ, tình cảm có thật của mình, không có gì giả dối. Tín: tin tưởng, đức tin.

Lòng thành tín là lòng thành và đức tin.

Lòng thành thật rất cần thiết cho Tôn giáo. Theo Mạnh Tử, “Thành thực là cái Đạo của Trời, luyện tập để trở nên thành thực là cái Đạo của người. Hễ chí thành mà không cảm động được thiên hạ thì chưa hề có; không thành thực thì chẳng cảm động được ai cả”.

Cũng vậy, bất cứ một Tôn giáo nào cũng lấy lòng tin tưởng làm gốc. Lòng tin rất cần thiết cho người theo Đạo và giữ Đạo. Có được lòng tin con người mới vững vàng tu học, không có lòng tin sớm muộn gì cũng ngã.

Song lòng tin phải có trí phán xét, chỉ nên hướng về nẻo chánh, điều lành. Chớ không nên bạ đâu tin đó, tin một cách cực đoan, không phân biệt chánh tà thì rất hại cho đức tin ta lắm vậy.

Có lòng tin vào Trời, Phật và các Đấng Thiêng Liêng, tin tưởng có linh hồn bất tiêu bất diệt thì chúng ta mới sùng bái, học theo đức háo sinh của các Đấng, không dám tạo ác nghiệp mà phải gieo nghiệp lành để được thoát ra luân hồi sinh tử.

Như vậy, Lòng thành, tín vững chắc chính là cái nguồn gốc của Đạo.

Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp,

Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

LÒNG THƯƠNG GHÉT

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm. Thương ghét: Thương yêu và ghét bỏ.

Lòng thương ghét là trong lòng khi thì yêu thương, lúc thì ghét bỏ.

Do tích: Ngày xưa, vua nước Vệ rất yêu quan Đại phu là Di Tử Hà. Theo phép nước Vệ, hễ ai lén lấy xe của vua đi thì bị tội chặt chân.

Có một lần mẹ Di Tử Hà đau nặng, người thân đương đêm báo cho Tử Hà hay tin; Tử Hà truyền lệnh giả, rồi lấy xe vua ngồi ra khỏi cung về thăm mẹ. Vua nghe được chuyện, khen rằng: Di Tử Hà thật là đứa con hiếu, vì lo mẹ bịnh mà quên tội chặt chân.

Một lần khác, Di Tử Hà cùng đi dạo trong vườn trái cây với vua, bẻ một quả đào, ăn thấy ngon ngọt, bèn lấy nửa trái ăn dở trao lại cho vua ăn. Vua khen: Di Tử Hà yêu ta thật, đồ ngon biết nhường cho ta ăn.

Về sau, khi dung nhan Di Tử Hà suy kém, tình thương của vua lại phai lạt, khi ông phạm lỗi, vua bèn nói: Tử Hà là người không trọng ta, dám tự ý lấy xe ta đi, và khinh ta cho ta ăn quả đào thừa. Cuối cùng bắt Di Tử Hà trị tội.

Bình luận:

Hàn Phi Tử trong bài “Thuyết nan 說 難” có viết:

Ta thấy hành vi của Di Tử Hà có thay đổi gì đâu, mà trước thì khen, sau lại bắt tội, chỉ tại lòng yêu ghét đã thay đổi vậy.

Nên được vua yêu thì tài trí hoá ra hợp mà tình thêm thân, bị vua ghét thì tài trí hoá ra không hợp, bị tội mà thêm sơ vậy.

Đổi thay thái độ, lòng thương ghét,

Giữ vững lập trường, chí khí kiên.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LÒNG TRẦN

Hay “Lòng trần tục”.

Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm. Trần (trần tục): Chỉ cõi thế gian.

Lòng trần hay “Lòng trần tục” là lòng dạ còn nặng với cõi phàm trần. Đồng nghĩa với lòng tục.

1.- Lòng trần:

Lòng trần gội sạch noi đường chánh,

Nét Ðạo gìn thanh lánh nẻo tà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lòng trần dầu muốn phong ba dứt,

Ðộ chúng tu nhơn chí nả nong.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lòng trần nung nấu trăm mùi khổ,

Biển ái đầy vơi một chiếc thuyền.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

2.- Lòng trần tục:

Phu phỉ lòng kia phàm chưa dứt,

Dứt lòng trần tục sẽ xin tu.

(Đạo Sử).

 

 

LÒNG TRONG SẠCH TỤNG CẦU THÁNH KINH

Lòng trong sạch cầu Thánh Kinh có nghĩa là muốn tụng cầu những bài Thánh kinh thì phải trau dồi tấm lòng cho trong sạch.

Muốn tụng những bài kinh của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, trước nhứt con người nên tu sửa hằng ngày cái tâm cho chơn chánh, và lòng trong sạch, dứt hết mọi dục vọng, có vậy tư tưởng mới nhẹ nhàng hoà đồng với Thiên lý: Nhân dục tận tĩnh, Thiên lý lưu hành 人 欲 盡 淨, 天 理 流 行. Và Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy như sau: “Phải thường hỏi lấy mình, khi đem mình lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy xong chưa, mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng?

Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa đặng yên tĩnh thì phải biết cải quá, ráng sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con lo chi chẳng bì chí Thánh”.

Theo Phật, thế gian là cõi cấu trược nên con người sống trong ấy, lòng phải bị ô nhiễm bởi những phàm trược. Do vậy, người tu phải nhất tâm tu sửa hằng ngày, hằng đêm.

Làm người rõ thấu lý sâu,

Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

LỎNG CHỎNG

Lỏng: Ở trạng thái không được siết chặt với nhau khiến cho dễ rời, trái với chặt.

Lỏng chỏng là ở tình trạng nghiêng ngả, lộn xộn, không ra hàng lối gì cả.

Ôm trái địa cầu xây lỏng chỏng,

Thổi bay máy tạo ngất chơi vơi.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LỎNG LẺO

Lỏng: Ở trạng thái không được siết chặt với nhau khiến cho dễ rời, trái với chặt.

Lỏng lẻo là không được chặt, dễ bị tuột, dễ rời ra.

Lỏng lẻo còn dùng để chỉ thiếu chặt chẽ, thiếu nghiêm ngặt trong sự tổ chức.

Như: Tóc bới lỏng lẻo, quản lý lỏng lẻo.

Cao ngôi lỏng lẻo đâu bằng ghế,

Đài ngự nghinh ngang hết biết nhà.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LỌNG TÀN

Lọng: Vật như cây dù lớn, ngày xưa dùng làm nghi tiết cho quan đi. Tàn: Vật như cây lọng có tua thòng chung quanh, dùng để che cho vua quan đi.

Lọng tàn là vật làm nghi trượng của vua quan.

Trong đạo Cao Đài, lọng tàn cùng với giàn Bát bửu được dùng làm nghi trượng thờ phượng nơi hai bên Chánh điện tại Đền Thánh, hay các Thánh Thất địa phương, hoặc Báo Ân Từ hay Điện Thờ Phật Mẫu địa phương.

Lọng tàn còn được dùng trong nghi thức đưa rước quan khách và chức sắc Hội Thánh, hoặc trong tang lễ các Chức sắc Đại Thiên phong.

Lọng tàn vui rước người ba miệng,

Nghi trượng hoan nghinh Mắt một tròng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LÓT

Lót là đặt một lớp thêm vào ở phía dưới, phía trong vật gì đó, thường để cho được êm, ấm, sạch hoặc lâu hỏng.

Như: Lót chiếu ngồi trước sân để ngắm trăng, lót nệm nằm ngủ.

Gấm lót ngõ chưa vừa gót ngọc,

Vàng treo nhà ít học không ưa.

(Bài Thài Tứ Nương).

 

 

LÓT TÓT

Lót tót, như chữ “Lẽo đẽo”, ý chỉ đi phía sau một cách chậm chạp.

Lót tót còn có nghĩa là lần hồi, kết cục, cuối cùng rồi. Ví dụ: Mầy nói cho đã rồi cũng lót tót vác cuốc đi làm.

Để gây hại, hại vừa đến gót,

Mình ở sau lót tót đến binh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỌT

1.- Lọt là qua chỗ hở, lỗ trống nhỏ để từ bên nầy sang được bên kia. Như: Gió lọt khe cửa, nút lọt miệng chai.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Thầy nhớ xưa, kẻ mộ Ðạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhọc mình, giày gai áo bả, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giậu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy không bợn nhơ, mới có thể lập ngôi cho mình đặng; có đâu lấy của lấn nhân, mượn quyền xua đức, kẻ chân thành lánh mặt, đứa tà mị áp vào, rồi cúm núm mang hơi tà, lại đua nói rằng thờ Chánh giáo. Thầy hỏi: Ai chứng cho?

Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,

Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Huyền diệu mũi kim qua chẳng lọt,

Đừng đừng xảo mị gọi là tình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lọt là từ trên bị rơi xuống hang hố, hay chỗ được bố trí nguy hiểm.

Như: Đi thầm trong đêm không may bị lọt xuống hầm, đoàn xe bị lọt vào ổ phục kích.

Sẩy chơn lọt tuốt hang sâu thẳm,

Níu chéo vượt qua kẻo lạc Thầy.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LỌT LÒNG

Lọt: Qua được từ trong ra ngoài, hoặc từ bên nầy qua bên kia. Lòng: Bụng dạ.

Lọt lòng chỉ đứa bé vừa mới sinh, tức vừa mới ra khỏi bụng mẹ.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Ta nhận thấy mang thi hài, xác thịt, khối chơn linh chịu mờ ám, chỉ biết sống phải hiểu nghĩa vụ mình, không phải sống đặng thừa hưởng, từ khi lọt lòng mẹ thì đã mang một mối nợ trần. Hễ mắc nợ thì phải trả, mà trả cho ai? Khởi trả cho gia đình trước.

Thân nhau từ buổi lọt lòng,

Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LỌT SỔ

Lọt: Làm cho mất đi. Sổ: Quyển vở để biên chép.

Lọt sổ là không có tên trong danh sách, hoặc không có tên họ trong hồ sơ, ý muốn nói thi rớt, vụ án, hay đơn từ không được xét đến.

Như: Trên bảng kết quả thi cử tên họ đã bị lọt sổ, vụ án bị lọt sổ.

Bị yêm ẩn hay là vì một duyên cớ nào khác mà phải bị lọt sổ, thì đặng quyền kêu nài đến Toà Đạo minh xét cho.

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

LỐ

Lố là ló, lú ra, để lộ ra. Như: Mặt trời vừa lố bóng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Gặp đặng mối Ðạo Trời như cầm trong tay một khối ngọc còn đang ẩn đá. Phải cố tâm mài giũa, gắng công tháng lụn năm chầy thì một ngày kia mới thấy lố hình ngọc quý.

Bóng dương tỏ rạng lố chơn mây,

Ðầm ấm hơi xuân nở mặt mày.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rừng chiều ác lặn con trăng lố,

Chậm rãi đường về bước trở thu.

(Đạo Sử).

 

 

LỐ MÒI

Lố: Ló, lú ra, để lộ ra. Mòi: Cơ, triệu, tức những dấu hiệu nhờ đó mà có thể đoán biết được.

Lố mòi, như chữ “Ló mòi”, là lộ ra những cơ, triệu, tức những thứ người ta định ngầm trong bụng mà ta biết được do lộ ra bên ngoài.

Như: Định giữ kín câu chuyện không cho ai biết, nhưng nó nói đã bị lố mòi.

Cuộc thế hôm nay đã lố mòi,

Sửa sang nhướng mắt để mà coi.

(Quyền Giáo Tông Giáng).

 

 

LỐ NHỐ

Lố nhố là đông và mất trật tự. Bầy dê lố nhố ngoài đồng ăn cỏ.

Đức Tiêu Sơn Đạo Sĩ có câu: Lao nhao, lố nhố, cũng thì một con đường, cũng thì về một chỗ, mà kẻ đi xe ép người đi bộ, người thông hiểu nẻo lộ gạt gẫm đứa khạo khờ, kẻ côi thế chịu bơ vơ, người quá ham đi mà sa hố, rốt lại cũng quạnh quẽ con đường.

Thầy cũng buồn lòng mà thấy bầy con lao nhao lố nhố lặn hụp chìm đắm giữa cõi hư sanh nầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LỐ XỐ

Lố xố, như chữ “Lố nhố”, là từ gợi tả cảnh người hay vật hiện ra đông, nhiều và mất trật tự.

Như: Ngoài sân lố xố bóng người qua lại.

Xem: Lố nhố.

Kìa xóm rẫy nấm mồ lố xố,

Nơi đôi ta tảo mộ đạp thanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Rộn rực tới lui xem lố xố,

Da vàng sắc nước giống người Tàu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LỔ ĐỔ

Lổ đổ là không thuần một màu mà rải rác có những đốm, những vệt khác nhau.

Thí dụ như: Ánh nắng chiều xuyên qua ngọn cây giọi lổ đổ trên sân.

Trăng chiếu cội tùng trăng lổ đổ,

Tuyết đeo cành tử tuyết trong ngời.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

LỖ

1.- Lỗ là chỗ lõm sâu vào, hoặc chỗ thủng, tức khoảng trống nhỏ thông từ bên nầy sang bên kia của một vật. Như: Lỗ huyệt, lỗ kim, lỗ tai, lỗ mũi, ăn lông ở lỗ.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Vậy Thầy khuyên các con ráng thành tâm hành đạo, mà Ðạo không phải giữ bằng lỗ miệng không đâu.

Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,

Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đừng gớm già mặc tiện ăn hèn,

Vì nhớ đã nhiều phen gần ở lỗ.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lỗ làn khuyết, hụt đi, tức thu không đủ bù cho chi trong việc kinh doanh. Như: Buôn thua bán lỗ, bù lỗ.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Lời lỗ là con buôn nơi trường đời. Ta thấy giờ nào chúng ta chẳng còn buôn lấy lời cho chúng ta hưởng mà là buôn cho Ông chủ hảng hưởng, ngày ấy chúng ta không sợ lỗ lời.

Lời lỗ không người binh vực đỡ,

Than ôi! cô quạnh phận hồng nhan.

(Đạo Sử).

3.- Lỗ là tên một nước Chư hầu ở đời nhà Châu bên Trung Quốc, quê của Đức Khổng Tử.

Nói về Đức Khổng Tử, Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Ngài cầm quyền được bảy ngày thì giết quan Ðại phu Thiếu Chính Mão là một người xảo trá nham hiểm thời ấy. Ðược ba tháng thì quốc chánh rất hoàn toàn, trật tự được phân minh, cảnh tượng nước Lỗ thật là thạnh trị.

Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,

Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LỖ BAN

魯 班

Lỗ Ban là một người thợ mộc giỏi, có danh tiếng của nước Lỗ đời Xuân Thu. Lỗ Ban là vị tổ sư của nghề thợ mộc và cũng nổi tiếng là người giỏi về bùa chú.

Theo chương Lâu Ly trong sách Mạnh Tử thì Công Thâu tên là Ban, một người thợ mộc khéo của nước Lỗ.

Quan thì phải tận trung vì chúa,

Dân thì hay tập búa Lỗ Ban.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Xách búa Lỗ Ban đương chỉ vẽ,

Xây thành cảnh đẹp rất nên hay.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LỖ BỘ

鹵 簿

Lỗ bộ là những thứ binh khí như siêu đao, xà mâu, trái đấm, hai tấm bảng đề hai chữ “Tĩnh túc 靜 肅”, “Hồi tỵ 回 避”. Tất cả những loại binh khí này được cắm trên một cái giá, trần thiết tại cung điện, đền chùa hay các công thự. Tại Toà Thánh Tây Ninh hay các Thánh Thất địa phương thì thờ Bát Bửu, là tám bửu bối của Bát Tiên, riêng Báo Ân Từ thì trần thiết Lỗ bộ nhưng khác với các nơi đình miếu.

Giàn Lỗ bộ đôi bên Chánh Điện,

Bát Cảnh Cung hiện Kim Bàn.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

LỖ MÃNG

魯 莽

Lỗ: Đần độn. Mãng: Cọc cằn, thô tục.

Lỗ mãng là người đần độn thô tục.

Trong Tân Luật, Điều Ngũ Bất Vọng Ngữ có câu: Cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác; xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách; ăn nói lỗ mãng, thô tục, chửi rủa người; huỷ báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa.

Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,

Rằng thác rồi còn kể ra chi.

(Kinh Sám Hối).

Đối cùng em êm tiếng thuận lời,

Đừng ỷ lớn buông hơi tuồng lỗ mãng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỖ VỐN

Lỗ: Thu không đủ bù cho chi sau một việc buôn bán kinh doanh. Vốn: Những tài sản, tiền bạc bỏ ra lúc đầu để kinh doanh, sản xuất.

Lỗ vốn là đi buôn bị lỗ, tức mất đi một phần vốn.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Nói quả quyết Bần Ðạo đã đánh tan thù hận ra, khi các phe đảng dùng quyền lực chiếm ngôi vị của Chí Tôn để tại mặt thế nầy, Bần Ðạo đã can đảm dùng quyền của Bần Ðạo đánh ngã ra hết, đặng bảo trọng hình tướng thiêng liêng của Ðạo. Bần Ðạo lỗ vốn cũng nhiều. Bần Ðạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo tồn hình thể của Chí Tôn cho trọn thương yêu. Bần Ðạo dùng can đảm gánh lấy cả thù hận của thiên hạ mà bảo tồn khối thương yêu của Chí Tôn vô đối, không cho hoen ố, nhơ bợn.

Tính lời lớn mà ra lỗ vốn,

Nhắm đoàn buôn còn bộn bạn hàng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỘ

1.- Lộ là đường, nẻo đi. Như: Lộ đá, lộ dẫn đến đầu làng, lộ phí, lộ trình, hoạn lộ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu dạy: Bao nhiêu tiếng khóc câu cười, thế lộ bước đã mòn mà giấc mộng trần chưa thức tỉnh.

Thiên cơ mạt lộ chờ đôi lúc,

Nương cậy về sau khỏi não nồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðức tánh tàng thơ vô vị bần,

Lộ hành an bộ Ðạo tuỳ thân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Chồng như người dẫn lộ chỉ đường,

Vợ là kẻ dựa nương theo bước.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lộ là hở, không che kín, phô bày ra. Như: Chậu kiểng để lộ thiên, xuất đầu lộ diện, lộ câu chuyện.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Các con có đặng thành công quả cùng chăng mà đến hội hiệp cùng Thầy nhiều hay ít? Thầy đã có lộ một ít về việc ấy.

Thiên Cơ đã lộ lúc khai Trời,

Kêu khách phàm trần đã hụt hơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Lộ là sương móc. Như: Cam lộ, vũ lộ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong ba ngày xuân, Bần Ðạo ước mong nước Cam lộ của Chí Tôn chan rưới đặng rửa tâm hồn của mấy em, phục sinh trở lại.

Cam lộ kìa ai dành để sẵn,

Cầm dương phủi sạch nét phù vân.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LỘ BẤT THẬP DI

路 不 拾 遺

Lộ: Đường đi. Bất: Không, chẳng. Thập di: Lượm của rơi rớt.

Lộ bất thập di là ngoài đường không có người lượm của rơi, ý chỉ thời thái bình thịnh trị, đời sống nhân dân được ấm no hạnh phúc, nên con người không tham lam, không trộm đạo, đêm ngủ nhà không đóng cửa, ngoài đường không người lượm của rơi (Gia vô bế hộ, lộ bất thập di 家 無 閉 戶, 路 不 拾 遺).

Sử chép rằng: Khổng Tử sau khi giết được Thiếu Chánh Mão là tên đại gian nịnh, bèn giúp vua Lỗ Định Công sửa trị việc nước. Được ba tháng thì biến cải phong tục, ngoài chợ người bán buôn không thách giá, đường đi thì đàn ông bên trái, đàn bà bên phải, phân biệt nhau, không hỗn loạn, thấy của rơi không phải của mình thì không ai thèm lượm.

Xem: Đường chẳng lượm của rơi.

Nhơn dân được vui hưởng hạnh phúc, gia vô bế hộ, lộ bất thập di, trong nước không có nhà tù, vì không có tội nhơn.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LỘ HỘ PHÁP

Lộ: Con đường. Hộ Pháp: Một phẩm chức sắc Đại Thiên Phong của Chi Pháp Hiệp Thiên Đài.

Trong Nội Ô Toà Thánh có rất nhiều Đại lộ như Phạm Hộ Pháp, Cao Thượng Phẩm, Thượng Trung Nhựt, và nhiều con đường nhỏ như Oai Linh Tiên... để xe cộ qua lại một cách dễ dàng.

Đại lộ Hộ Pháp là con đường quan trọng nhứt trong Nội Ô Toà Thánh, trước kia gọi là Bình Dương Đạo, trên đại lộ này hai bên có những đền đài dinh thự của Đạo Cao Đài như Đền Thánh, Báo Ân Từ, Toà Nội Chánh, Nữ Đầu Sư Đường, Hạnh Đường, Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường, Y Viện Hành Chánh,...

Lộ Hộ Pháp trở sang xem rõ,

Dương dắt dìu sáo gió nhẹ lâng.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

LỘ THƯỢNG

路 上

Lộ: Con đường. Thượng: Trên, ở trên.

Lộ thượng là trên đường đi. Như: Lộ thượng ngộ cố nhân, tức trên đường đi gặp bạn cũ.

Tiền tài thâu thập đa tân khổ,

Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ không.

(Quan Âm Giáng Bút).

 

 

LỘ TRÌNH

路 程

Lộ: Đường. Trình: Đường đi.

Lộ trình là đường đi từ nơi nầy đến một nơi khác, tức là quảng đường đi qua.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Hỏi, Chí Tôn than tưởng tượng như ông Cha kia thấy tình cảnh nguy ngập khổ não làm hại con cái của Người mới đứng ra cậy mình đi đến đó đặng cứu giùm kẻ toan tuyệt mạng chúng ta lại chờ viện lý rằng: Lộ trình còn hoãn huợt dầu có trễ một ít ngày cũng chẳng hề bao. Bất ngờ đi tới nơi, thì con cái của Người đã kề bên vực tuyệt mạng.

Cao đê thế sự khá đinh ninh,

Một dặm xa xuôi nhọc lộ trình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Muôn dặm đường xa vượt lộ trình,

Gặp nhau mong toại chí bình sinh.

(Thơ Hoài Tân).

 

 

LỘC

1.- Lộc 祿 là lương bổng của nhà nước cấp cho. Như: Bổng lộc, quan cao lộc hậu.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Hạng tiểu nhơn thì trời nào cũng phải, chúa nào cũng nên, khéo nịnh hót, giỏi cúi lòn miễn lộc cả quyền cao, ngoài ra chẳng kể đến vận nước thạnh suy, lòng dân thương ghét.

Lộc nước gắng đền công chín tháng,

Nợ nhà tua vẹn gánh hai vai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lộc Hớn từ vinh Trương học chước,

Cầm đường tiếng hạc phủi muôn chung.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lộc 祿 nghĩa rộng là của Trời, Phật, hay các Đấng Thiêng Liêng ban cho.

Như: Lộc Trời cho, lộc đất, lộc thiên nhiên, hưởng lộc bốn mùa.

Nước vốn đầy sông tuỳ kẻ xách,

Lộc kia đầy đất tại người dời.

(Đạo Sử).

Muốn đắc lộc Trời lời chẳng thốt,

Toan thâu của Ðất sức không làm.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Gió mát trăng thanh lộc bốn mùa,

Ðổi cơm ra sức khỏi tiền mua.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

LỘC HỚN TỪ VINH

Hay “Lộc Hán từ vinh”.

Lộc 祿: Lương bổng của nhà nước cấp cho. Hớn: Nhà Hán bên Trung Quốc. Từ vinh: Từ khước sự vinh hiển.

Lộc Hơn từ vinh, như chữ “Lộc Hán từ vinh 祿 漢 辭 榮”, ý nói lộc nhà Hán ban cho mà Trương Lương từ bỏ sự vinh hiển.

Theo Sử Ký, Khi diệt Hạng Võ xong, Hán Vương Lưu Bang thâu phục được thiên hạ, lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Hán Cao Tổ, bèn phong cho Trương Lương làm Lưu Hầu ở đất Lưu.

Trương Lương là người theo Đạo Tiên, chủ trương “Công thành thân thối”, nên học theo phép đạo dẫn (nhịn ăn cơm lần lần cho nhẹ mình) và không màng đến công danh phú quý nữa.

Lộc Hớn từ vinh Trương học chước,

Cầm đường tiếng hạc phủi muôn chung.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LỘC QUYỀN

祿 權

Lộc: Những vật nhận được, như bổng lộc. Quyền: Thế lực có thể định đoạt việc này việc khác.

Lộc quyền là lợi lộc và quyền hành, tức là chức tước, bổng lộc và quyền hành.

Làm lành đặng hưởng phước duyên,

Trong lòng nham hiểm, lộc quyền giảm thâu.

(Kinh Sám Hối).

Lộc quyền một thuở vinh rồi hết,

Đạo đức muôn năm tiếng vẫn còn.

(Thơ Thông Quang).

 

 

LỘC THẾ

祿 世

Lộc: Lợi lộc, tức những vật nhận được do Trời. Thế: Thế gian, chỉ cõi đời.

Lộc thế là những thứ lợi lộc ở thế gian, tức những thứ do trời hoặc các Đấng thiêng liêng ban cho.

Lộc thế đã thừa mùi mặn lạt,

Duyên đời vui giữ chớ sai ngoa.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LỘC VỊ

祿 位

Lộc: Lương bổng của quan lại. Vị: Chỗ ngồi, ngôi vị, địa vị, ý chỉ chức tước của con người.

Lộc vị, đồng nghĩa với “Tước lộc 爵 祿”, tức là chức tước và bổng lộc.

Một năm đã qua, khác hơn ngoài mặt đời, Chức sắc trong Hội Thánh không tính sổ chung niên để biết lộc vị tấn hay thối, vốn liếng lỗ hay lời...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LÔI

Lôi là kéo, nắm mà kéo đi, hoặc bắt phải di chuyển cùng với mình hoặc về phía mình.

Như: Lôi kéo, cầm tay con mà lôi đi.

Thi nhau cật lực một hồi,

Gặp hòm bọc kín xúm lôi lên liền...

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LÔI ÂM

雷 音

Lôi Âm tức “Lôi Âm Tự 雷 音 寺” là một ngôi chùa ở tại Cực Lạc Thế Giới nơi cõi Thiêng Liêng.

Trong “Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống”, Đức Hộ Pháp có nói về Lôi Âm Tự như sau: “Đêm nay Bần đạo rủ cả thảy vô Lôi Âm Tự, cũng như Bần đạo đã đến trình diện với Đức Di Đà.

Bởi Đức Di Đà đã giao quyền lại cho Đức Di Lạc, giao quyền chưởng quản Càn Khôn Vũ Trụ, Đức Di Lạc ngồi ngự nơi Kim Tự Tháp, còn Đức Di Đà vào ngự nơi Lôi Âm Tự”.

Tây phương Tiếp Dẫn Đạo Nhơn,

Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.

(Kinh Tận Độ).

Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,

Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.

(Kinh Tận Độ).

Dò đon hỏi bước rừng thiền cũ,

Rằng Phật còn ngụ ở Lôi Âm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LÔI ÂM CỔ

雷 音 鼓

Lôi âm: Âm thanh như tiếng sấm lớn. Cổ: Trống.

Lôi Âm Cổ là Trống Lôi Âm.

Sở dĩ gọi Lôi Âm Cổ là vì cái trống Lôi Âm đó rất to, khi đánh vào phát ra âm thanh lớn như tiếng sấm.

Lôi Âm Cổ lại được đặt trên một cái giá trong Lôi Âm Cổ Đài trước Toà Thánh Tây Ninh. Mỗi khi cúng Đàn đều có đọc kệ trống và đánh Lôi Âm Cổ.

Xem: Bạch Ngọc Chung.

Lôi Âm Cổ vang rền nơi Thánh Ðiện,

Giục người về kịp buổi Triều Thiên.

(Hiền Nhơn Lê Văn Trung).

Lôi Âm Cổ khởi Tam Kỳ Hội,

Bạch Ngọc Chung khai thất ức niên.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LÔI ÂM CỔ ĐÀI

雷 音 鼓 臺

Lôi Âm cổ: Trống Lôi Âm. Đài: Cái đài cao.

Lôi Âm Cổ Đài là cái đài cao, nằm phía trước Đền Thánh, bên nữ phái, trên đó có đặt một cái giá treo trống Lôi Âm.

Bên phía nam phái trước Đền Thánh thì gọi là Bạch Ngọc Chung Đài, có treo Đại Hồng chung.

Hai bên Hiệp Thiên Ðài, bên mặt thì có Lôi Âm Cổ Ðài, bên tả thì Bạch Ngọc Chung Ðài.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LÔI ÂM TỰ PHÁ CỔ

雷 音 寺 破 罟

Lôi Âm Tự: Chùa Lôi Âm, chỉ Cực Lạc Thế Giới. Phá: Làm cho mất. Cổ: Pháp luật.

Lôi Âm Tự phá cổ ý nói chư Phật ở Chùa Lôi Âm phá bỏ pháp luật tu hành khắt khe cũ vì bị sửa cải nên đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa.

Nhưng có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LÔI CÔNG

雷 公

Hay “Bộ Lôi công”.

Lôi: Sấm sét. Công: Ông.

1.- Lôi công, cùng nghĩa với “Lôi thần 雷 神”, là vị thần tạo ra sấm sét, tục gọi là “Thiên lôi 天 雷”.

Lôi Công trở ngoắt ngựa xe bay,

Đem bốn đứa tôi đến chót đài.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Bộ Lôi công hay “Lôi bộ 雷 部”, là cơ quan chưởng quản các vị thần sấm sét.

Lôi bộ gồm năm vị Thần chưởng quản, gọi là Ngũ Lôi Thần, trong đó vị Chưởng quản Lôi Bộ, theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, là “Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hoá Thiên Tôn”.

Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,

Bộ Lôi Công giải tán trược quang.

(Kinh Tận Độ).

 

 

LÔI CUỐN

Lôi: Kéo. Cuốn: Quấn, kéo, mang theo.

Lôi cuốn là lôi và cuốn trôi theo.

Lôi cuốn còn có nghĩa là làm cho ham thích, hay có thiện cảm đến mức bị thu hút theo.

Như: Câu chuyện hấp dẫn lôi cuốn mọi người nghe.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nhưng, người đã quyết chí tu hành, quyết lánh giả tầm chơn, đã xả thân cầu Đạo, xả phú cầu bần thì sự quyến rũ nào lôi cuốn được.

Tức nước bể bờ tuôn thẳng trớn,

Cuồng phong lôi cuốn chảy càng hung.

(Thơ Hộ Pháp).

Hoàn cảnh nguy nan lôi cuốn mãi,

Tai Trời chung chịu đổi dời thay.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LÔI CHẤN TỬ CỨU CHA THOÁT NẠN

Lôi Chấn Tử cứu cha thoát nạn ý nói Tây Bá Hầu Cơ Xương được con nuôi là Lôi Chấn Tử, cứu thoát nạn.

Do truyện: Trên đường về kinh, Tây Bá Hầu Cơ Xương có lượm được một đứa bé làm con nuôi, đặt tên là Lôi Chấn Tử và được một vị Đạo sĩ là Vân Trung Tử ở núi Chung Nam nhận về nuôi dưỡng và dạy dỗ.

Vân Trung Tử biết Tây Bá Hầu Cơ Xương mắc nạn, bị giam nơi Dũ Lý bảy năm. Đến nay là sắp mãn hạn, bèn sai Lôi Chấn Tử đến núi Hổ Nhi tìm binh khí. Lôi Chấn Tử tìm không được binh khí, gặp hai trái hạnh chín trên cây bèn hái ăn, liền mọc ra hai cánh bên nách, mũi nhô cao, mặt xanh tóc đỏ, tướng mạo dị kỳ. Vân Trung Tử dạy Lôi Chấn Tử tinh thông về võ nghệ, rồi lấy son viết chữ “Phong” vào cánh bên tả, chữ “Lôi” vào cánh bên hữu, ban cho một cây gậy vàng và sai xuống ải Lâm Đồng cứu cha là Tây Bá Hầu Cơ Xương.

Lôi Chấn Tử ra khỏi Động, vỗ cánh bay một mạch đến ải Lâm Đồng thấy Tây Bá Hầu bị toán quân phía sau đuổi nà theo. Lôi Chấn Tử đáp xuống ra mắt cha và thuật rõ lai lịch, rồi cõng cha trên lưng bay qua năm ải, về đến đất Tây Kỳ.

Bên ngoài hành lang Báo Ân Từ về phía nam phái có vẽ khuôn hình lấy tích “Lôi Chấn Tử cứu cha thoát nạn”.

Lôi Chấn Tử ngờ đâu quả hạnh,

Dùng vừa rồi mọc cánh bên hong.

Bay qua năm ải như giông,

Cứu cha thoát nạn, khỏi vòng lao lung.

(Báo Ân Từ).

 

 

LÔI ĐIỂN

Lôi: Sám. Điển: Do chữ “Điện” đọc trại ra, ý chỉ ánh sáng lóe ra trong không khí khi có mây.

Lôi điển là chỉ sấm chớp.

Lôi điển còn dùng để chỉ những vị Thần sấm chớp.

Mỏ ngậm lửa hồng, lôi điển nhoáng,

Ðuôi lừa thuỷ quái, võ phong gây.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LÔI ĐÌNH

雷 霆

Lôi: Sấm. Đình: Sét.

Lôi đình là sấm sét. Nghĩa bóng dùng để nói nổi cơn giận dữ, tức bực, la thét ầm ĩ.

Như: Anh ta nổi trận lôi đình la hét tứ tung.

Nhà Trời nổi lôi đình chi nộ,

Đem mỗi người mỗi chỗ trí an.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LÔI KÉO

Lôi: Nắm mà kéo đi. Kéo: Co lại, dùng sức mà lôi đi.

Lôi kéo là bằng mọi cách làm cho nghe theo và đứng về phía mình.

Như: Hắn thường rủ rê lôi kéo những người non dạ làm chuyện tội lỗi.

Không tu được là do quả kiếp lôi kéo không cho chú mầy tu, tại nghiệp chướng của chú mầy...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LÔI THÔI

Lôi thôi chỉ sự ăn mặc luộm thuộm, xốc xếch, không gọn gàng. Như: Quần áo lôi thôi.

Lôi thôi là dài dòng và rối ren trong cách diễn đạt. Văn viết lôi thôi.

Lôi thôi chỉ sự rắc rối, sinh ra nhiều chuyện phiền phức. Như: Sinh chuyện lôi thôi.

Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Bảo Văn Pháp Quân thưa cùng Đức Chí Tôn có câu: Bạch Thầy tại vài ông Thiên Phong làm chuyện lôi thôi nên mới có quỷ yêu xung nhập.

Lôi thôi buổi trước nhiều ân xá,

Lấp lửng đừng làm tội bữa nay.

(Đạo Sử).

Đồ xấu đem đi bán lôi thôi,

Đồ khéo cứ để ngồi nhóng giá.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỐI

1.- Lối là nẻo đi, dùng vào ra một nơi nào đó, để đi lại từ nơi nầy đến nơi khác. Như: Đường ngang lối tắt.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy mầng cho các con đã chịu lao tâm tiêu tứ mà nền Ðạo, làm cho mối tương thân tương ái càng khắng khít vững bền, ráng công thêm nữa mà đi cho cùng bước đường của các con đã chịu lắm nhọc nhằn, vạch lối chông gai, dìu chơn hậu tấn.

Ngó Cực Lạc theo huờn Xá Lợi,

Cửu Trùng Thiên mở lối quy nguyên.

(Kinh Tận Độ).

Ðường mây sẵn lối gặp may duyên,

Nâng gánh xa thơ sửa mối giềng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Sanh tử miệt mài chưa thoát lối,

Lợi danh buộc trói chẳng xa vòng.

(Thơ Tiếp Đạo).

2.- Lối là cách thức diễn ra của hoạt động đã trở thành ổn định, mang đặc điểm riêng. Như: Lề lối, lối ăn mặc, lối sống giản dị.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành đạo và bày biện nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau đây, sẽ trở nên một mối Tả đạo, mà các con đã từng thấy.

Nếu quý vị tuân hành đúng theo lề lối ghi trên đây, tôi tin chắc quý vị sẽ thành công mỹ mãn và sẽ được người Ðạo cũng như người Ðời kính phục.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

3.- Lối còn dùng để chỉ lúc, khoảng, khoảng chừng. Như: Nhà cách đây lối một cây số.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Sanh nhằm lối may mắn đặng gặp một Ðạo Chánh, nếu chẳng lo dưỡng tánh trau mình, để bước vào con đường Cực Lạc, thoát đoạ Tam đồ, một mai cảnh ủ bông tàn, rốt cuộc lại ăn năn vô ích.

Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,

Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.

(Tán Tụng Công Đức).

 

 

LỖI

1.- Lỗi là điều sai lầm, thiếu sót, không nên, không phải trong cách cư xử, trong hành động.

Như: Điều lầm lỗi, phạm lỗi, hối lỗi, đã biết lỗi của mình, đổ lỗi cho người khác.

Thánh giáo Thầy có câu: Xem đó thì các con khá dè dặt, kỉnh Thần, Thánh cho lắm, vì Thầy là bực Chí Tôn, lòng hay quảng đại mà tha thứ, chớ Thần, Thánh, hễ các con có lỗi thì cứ Thiên điều mà quở phạt các con, nghe à!

Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,

Biết lạc lầm sám hối tội căn.

(Kinh Sám Hối).

Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,

Thường dạn làm tội lại hằng hà.

(Kinh Sám Hối).

2.- Lỗi là còn là điều sai sót, do thực hiện không đúng quy tắc, không đúng bổn phận, hoặc đúng lời hứa hẹn. Như: Lỗi chính tả, lỗi đạo làm con, lỗi phận dâu con, lỗi hẹn, gương xưa lỗi ráp.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Thầy không cần nói, sự gian tham có thể giục các con lỗi đạo cùng Thầy mà bị lắm điều tội lỗi.

E khi vách có âm thinh,

Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Thân Tiên dầu lỡ gót phàm,

Gương xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi?

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Lỗi là đá lởm chởm, hòn nhô cao lên, không dùng một mình.

Như: Lỗi lạc là chỉ tài năng hơn người, hoặc tài giỏi khác thường.

Nhân nhượng Bính Sơn tài lỗi lạc,

Mon mem Lương Mạnh nét nghiêm tề.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LỖI BẬC CUNG CẦM

Lỗi bậc: Lỗi cung bậc, tức lỗi nhịp đàn. Cung cầm: Cung đàn.

Lỗi bậc cung cầm là cung đàn bị lỗi nhịp, ý nói vợ chồng không gắn bó, không hoà hợp nhau.

Ta than lỗi bậc cung cầm,

Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỖI ĐẠO

Lỗi: Làm điều sai lầm, tội lỗi. Đạo: Đạo lý, nguyên tắc và đường lối phải theo đẻ sống trong xã hội.

Lỗi đạo là làm điều sai lầm, trái với đạo lý. Như: Lỗi đạo quân thần, lỗi đạo vợ chồng.

Thánh giáo Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy không cần nói, sự gian tham có thể giục các con lỗi đạo cùng Thầy mà bị lắm điều tội lỗi.

Đừng ham mây khoả đảnh Thần,

Nhớ cơn lỗi đạo tảo tần mai xưa.

(Bát Nương Giáng Bút).

E khi vách có âm thinh,

Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Dạy chừa thói dùng mưu kế xảo,

Dụ gái lành lỗi đạo làm con.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỖI LẠC

磊 落

Lỗi lạc là mặt mày đẹp đẽ, oai vệ, hoặc trong lòng trong sạch ngay thẳng.

Lỗi lạc còn dùng để chỉ tài năng hơn người.

Như: Lỗi lạc kỳ tài là người tài giỏi hiếm có, vượt trội hơn mọi người.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trái lại, nếu làm những điều dân ghét bỏ và ghét những điều dân ưa chuộng, hoặc ham muốn xa hoa, lo cho thân mình được sung sướng ngoài ra mặc kệ dân khốn khổ lầm than, ấy là hành động trái với lòng dân, người cầm quyền dầu có tài ba lỗi lạc cũng không khỏi đi đến con đường thất bại.

Cõi thọ là đâu khó độ chừng,

Ẩn tàng lỗi lạc bậc kinh luân.

(Đạo Sử).

 

 

LỖI LẦM

Lỗi: Điều sai lầm. Lầm: Không đúng, lẫn lộn.

Lỗi lầm là làm điều sai lầm, làm quấy.Như: Nguyện khắc phục những lỗi lầm.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nơi trần khổ nầy, dầu cho bậc Chí Thánh cũng khó tránh sự lỗi lầm đặng, nhưng sự ăn năn tự hối là quý báu vô giá. Các Tiên, Phật xưa cũng nhiều bậc đứng đặng địa vị cao thượng thiêng liêng là nhờ có sự cải quá mà nên Chánh quả.

Hoà trên thì dưới mới an tâm,

Mình vốn là anh chấp lỗi lầm.

(Đạo Sử).

Dầu khôn mấy giả ngu cho thuận,

Phải bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỖI MỌN CHỚ NGHI CHẲNG HẠI

Lỗi mọn: Mắc lỗi nhỏ nhít. Chớ nghi: Chẳng nên tưởng. Chẳng hại: Không tai hại.

Lỗi mọn chớ nghi chẳng hại ý nói là đừng thấy lỗi lầm nhỏ mọn mà nghĩ rằng không có tai hại.

Kinh Pháp Cú Phật cũng có dạy rằng: “Chớ khinh điều ác nhỏ, cho rằng: Chẳng đưa lại quả báo cho ta. Phải biết giọt nước nhiểu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ ngu phu sở dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từng khi ít mà nên”.

Điều nầy vua Chiêu Liệt đời nhà Hán cũng có dạy con là vua Hậu Chủ như sau: Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi 勿 以 善 小 而 不 為, 勿 以 惡 小 而 為 之, nghĩa là dù cho những việc thiện nhỏ cũng chớ nên bỏ qua mà không làm, dù cho những việc ác nhỏ cũng chớ nên làm.

Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,

Thường dạn làm tội lại hằng hà.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LỖI THỆ

Lỗi: Không làm đúng, sai lầm. Thệ: Thề, lời thề.

Lỗi thệ là không giữ trọn lời thề, tức là đã thất thệ.

Như: Lỗi thệ cùng các Đấng thiêng liêng.

Đối với các Chi Phái do Đại Đạo lập thành mà phản loạn Chơn Truyền, ngày nay đã lỗi thệ cùng Thầy,...

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

LỖI THỜI

Lỗi: Điều sai sót, do thực hiện không đúng lúc, không đúng quy tắc. Thời: Thuở, lúc, tuổi.

Lỗi thời là thuộc về thời cũ, không thích hợp với thời nay và đã thành lạc hậu.

Như: Ăn mặc lỗi thời, tư tưởng lỗi thời.

Làm kịp thời thì hữu dụng, còn lỗi thời thì vô ích.

(Giáo Lý).

 

 

LỘI

Lội là đi qua chỗ ngập nước, hay sông biển.

Như: Xăn quần lội qua vũng nước, trèo non lội suối, lội qua sông hồ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Sau khi Ðức Khổng Tử ra về, Ngài bảo các đệ tử rằng: “Con chim có tài bay, con cá có tài lội, giống thú chạy giỏi, ta đều có thể biết được.

Dầu bãi biển, năm non cũng lội,

Lựa cực thân gia nội thế quyền.

(Phương Tu Đại Đạo).

Nặng mang xác thịt hiểm nghèo,

Mà còn lội suối, băng đèo khổ tâm.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LỘI LẶN

Lội: Bơi dưới nước. Lặn: Trầm mình sâu dưới nước.

Lội lặn là lội và lặn dưới nước, ý chỉ khi trồi lên lúc hụp xuống dưới nước.

Lội lặn còn cùng nghĩa với chữ “Lặn lội”, ý chỉ làm việc vất vả nơi ruộng đồng, sông nước, hoặc chỉ vượt đường xa khó khăn, trở ngại.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Cả cái khổ não trong đó nó có trách nhiệm của mấy em tự đào tạo, mấy em cố gắng gượng đi, đừng cho ngọn thuỷ triều lôi cuốn mấy em thì chính mình chúng Qua cũng có thể tránh khỏi, vì bởi thấy mấy em chìm đắm trong đó chúng Qua mới lội lặn theo, nếu mấy em không chìm đắm ai biểu mấy Qua lội lặn theo mấy em cho được, quyền nào mà biểu đặng.

Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,

Xô người vào, lội lặn nhờm thay!

(Kinh Sám Hối).

 

 

LỘN

1.- Lộn là đảo ngược, trở lại, hoặc lật mặt trong ra ngoài, mặt ngoài vào trong.

Như: Lộn đầu xuống đất, lộn trái cái áo ra phơi, trở lộn về nhà, lộn túi xách vải ra giặt, lộn cổ áo.

Dạy về cách đi lễ, Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Con đi thế nào thành hai chữ Tâm lộn ngược như vậy.

Cảm tạ ơn trên đầu dìu đỡ,

Từ khi đi khi trở lộn về.

(Kinh Thế Đạo).

Thiệt thiệt hư hư thế lộn hoài,

Từ xưa lầm lạc dễ ai hay.

(Đạo Sử).

2.- Lộn là thay đổi, hoá, đổi hình.

Như: Con tằm lộn ra con ngài, trứng gà lộn, khóc lộn cười, lộn bề trái ra ngoài.

Lỡ tay làm ra áo lộn hò,

Mà bị chúng phạt cho bận trái.

(Phương Tu Đại Đạo).

Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,

Gặp bạn nầy khi khóc lộn cười.

(Thơ Huệ Giác).

3.- Lộn là lầm. Như: Gọi lộn tên người, cầm lộn quyển sách của bạn, lộn con toán.

Thánh giáo Thầy có câu: Lại nữa, các chơn linh ấy, tánh Thánh nơi mình, đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi lộn Lương tâm là đó.

Bầu bí chưa ai bỏ lộn giàn,

Mình quê chưa ắt biết cao sang.

(Đạo Sử).

4.- Lộn là lẫn. Như: Đổ lộn vào nhau, đậu đen pha lộn đậu đỏ, thả vịt gà ở lộn trong một chuồng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con.

Lọc lừa chớ để đen pha trắng,

Lui tới đừng cho bạc lộn chì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lời khen miệng thế quý chi đâu,

Bất quá như son lộn bả trầu.

(Đạo Sử).

 

 

LỘN CHỒNG

Lộn: Lẫn, lầm, lạc. Chồng: Chỉ người đàn ông đã kết hôn, trong quan hệ với vợ.

Lộn chồng là tiếng dùng chê những người đàn bà bỏ chồng một cách không đàng hoàng, không chính đáng, tức bỏ chồng này để đi lấy chồng khác.

Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại,

Gái lộn chồng đã hoại tánh danh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đời hằng chê nhà gái lộn chồng,

Ông trước mắt còn mong loan chạ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỘN MÈO

Lộn: Đảo ngược, trở lại, hoặc lật mặt trong ra ngoài, mặt ngoài vào trong. Mèo: Loài gia súc, ăn thịt, nuôi để bắt chuột.

Lộn mèo là lộn nhào, lộn vòng, tức gập người lăn một vòng tròn như mèo.

Mỏi mong trọn kiếp hiểm nghèo,

Lìa trần hồn khỏi lộn mèo thở than.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

An bần lạc đạo tâm thường toại,

Tránh khỏi từng phen thế lộn mèo.

(Thơ Thiện Trường).

 

 

LỘN NGẦU

Lộn: Lẫn vào nhau.

Lộn ngầu là lộn xộn, lung tung, bừa bãi, không còn thấy có một trật tự nào.

Như: Bỏ sách vở và quần áo lộn ngầu trong tủ.

Đồng bào chi phối phân trăm mảnh,

Xã hội lộn ngầu ngả tứ tung.

(Thơ Hộ Pháp).

Chánh trị thế giới lộn ngầu,

Hoà Bình hạnh phúc càng mâu thuẫn nhiều.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

LỘN NHÀO

Lộn: Đảo ngược, trở lại, hoặc lật mặt trong ra ngoài, mặt ngoài vào trong.

Lộn nhào là ngã lộn đầu xuống.

Như: Tè lộn nhào xuống sông, máy bay biểu diễn lộn nhào trên không.

Kẻ chịu thấp, người ưa cao,

Trèo lên trợt xuống lộn nhào leo lên.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LỘN XỘN

Lộn xộn là không có trật tự, không có thứ lớp.

Thánh giáo Đức Tiêu Sơn Đạo Sĩ có đoạn dạy: Hiệp Thiên Ðài có Ðức Chí Tôn là chủ quản. Quyền thưởng phạt nơi Ngài mà thôi. Tân Luật lập còn thiếu sót nhiều, bởi Chức sắc Hiệp Thiên Ðài chẳng để mắt đến, quyền hành thưởng phạt lộn xộn, nên phải chịu dưới quyền Toà Tam Giáo Cửu Trùng Ðài. Sau sẽ có Thánh Lịnh dạy lại, còn chưa phân minh nhiều chỗ.

Phòng trù, dầu phải chung lộn với nhau buổi nấu nướng, khi dọn ăn, chẳng đặng lộn xộn cùng nhau.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LÔNG

Lông là bộ phận mọc ở ngoài da người ta hay da các loài thú vật.

Như: Lông mày, lông tay, lông chim, lông nhím.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình. Cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Ðất.

Chuyển thân trở lại trần gian,

Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.

(Kinh Sám Hối).

Non sông đượm vẻ màu tươi thắm,

Hồng lạc thay lông đẹp áo chầu.

(Lý Giáo Tông).

 

 

LÔNG HỒNG

Lông: Bộ phận mọc ở ngoài da người ta hay da các loài thú vật. Hồng: Chim hồng.

Lông hồng là lông con chim hồng, ý nói bậc anh hùng hào kiệt xem tính mệnh nhẹ như lông hồng.

Tư Mã Thiên nói: Nhân cố hữu tử, tử hoặc trọng ư Thái Sơn, hoặc khinh ư hồng mao 人 固 有 死, 死 或 重 於 太 山, 或 輕 於 鴻 毛, nghĩa là người ta vẫn có cái chết, song cái chết đáng nặng như núi Thái Sơn, cũng có cái chết đáng nhẹ như lông chim hồng.

Bản thân xem tợ lông hồng,

Ra ngoài mặt trận quyết lòng tử sinh.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LÔNG NGỖNG

Lông: Bộ phận mọc ở ngoài da người ta hay da các loài thú vật. Ngỗng: Loại chim thuộc vịt, mình to, cổ dài.

Lông ngỗng hay còn gọi lông chim nga.

Do điển tích: Nàng công chúa Mỵ Châu ước hẹn với chồng là Trọng Thuỷ, nếu có loạn ở Kinh Thành, sẽ lấy lông ngỗng (hay lông nga) trong chiếc áo đang mặc mà rắc dọc theo đường để Trọng Thuỷ theo dấu đó mà tìm gặp nhau. Nhưng nó lại là dấu hiệu để đưa đường cho quân Trọng Thuỷ lúc đánh An Dương Vương rượt theo, vì thế cha con Mỵ Châu phải đành chịu chết.

Xem: Trọng Thuỷ Mỵ Châu.

Nỏ Thần bị tráo, duyên lìa dứt,

Lông ngỗng theo đường, nợ biệt nhau.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LÔNG SỪNG

Lông: Bộ phận mọc ở ngoài da cầm thú, nhằm bảo vệ cơ thể. Sừng: Phần cứng mọc nhô ra ở đầu một số loài thú.

Lông sừng, nói tắt của câu “mang lông đội sừng”, ý chỉ loài cầm thú.

Như: Chịu kiếp lông sừng trả nghiệp vay.

Tâm mê dẫn dắt làm ma quỷ,

Lộn kiếp lông sừng chịu đảo điên.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LỒNG

1.- Lồng là dụng cụ đan bằng tre, bằng nứa, hoặc khoanh bằng kẽm, dùng để nhốt gà, vịt hay chim.

Như: Lồng gà, lồng chim, chim lồng cá chậu, tháo củi số lồng.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Gà lồng có lúa đầy bụng hằng ngày mà nồi nước sôi hằng cận bên, không biết phải bị giết ngày nào.

Bụng trống thảnh thơi con hạc nội,

Lúa đầy túng tíu phận gà lồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lồng là cho vào bên trong, hoặc ẩn vào bên trong, ẩn xuống dưới.

Như: Lồng ảnh vào khung, lồng vào tay áo, ánh trăng tròn lồng bóng nước.

Chiều xuân sương toả lồng sân hoạn,

Dặm liễu trăng soi rạng bước đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,

Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.

 

 

LỒNG LỘNG

1.- Lồng lộng ý nói gió thổi, hoặc khói, hương bay rất mạnh ở nơi trống trải.

Như: Gió thổi lồng lộng vào nhà, khói bay lồng lộng lên trời, lồng lộng mùi hương.

Cẩm phong nhụy đào thơ nở bóng,

Vẻ trân cam lồng lộng mùi thơm.

(Nhị Nương Giáng Bút).

2.- Lồng lộng ý nói khoảng không gian cao xa và rộng đến mức cảm thấy vô cùng tận.

Như: Bầu trời hiện ra lồng lộng, trời cao lồng lộng, lầu chuông và lầu trống của Toà Thánh cao lồng lộng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Trong Nho Giáo có câu: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”, nghĩa là: Trời cao lồng lộng mà mảy hào nào cũng không qua khỏi tay Ngài và lưới thiêng liêng của Ngài, nên xưng tụng Ngài là Thiên Tôn cầm quyền Vạn Linh mực thước như một ông Toà trị thế.

Chín từng lồng lộng bay cho thấu,

Thì hiểu Hiệp Thiên nghĩa ít nhiều.

(Bát Nương Giáng Bút).

Tuy là trời đất mênh mông,

Lưới thưa lồng lộng, mảy lông lọt nào.

(Thơ Bảo Pháp).

Trời cao lồng lộng không hai mặt,

Đất rộng mênh mông có lắm màn.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

LỘNG

Lộng là chơi giỡn, lờn. Như: Lộng chương, lộng ngữ, lộng hành, lộng quyền, lộng phép.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, dạy về “Bất du đạo”, Thánh giáo Thầy có câu: Tham gian đã lộng toàn thế giới thì thế giới hết Thánh, Thần.

Vợ thầy pháp quỷ ma thường lộng,

Đẻ ra hình như giống ếch bà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỘNG CHƯƠNG

弄 璋

Lộng: Chơi. Chương: Ngọc chương.

Lộng chương là chơi ngọc chương, nghĩa bóng là chỉ sinh con trai.

Kinh Thi có câu: Nãi sinh nam tử, tái tẩm chi sàng, tái ý chi thường, tái lộng chi chương 乃 生 男 子, 載 寢 之 床, 載 衣 之 裳, 載 弄 之 璋, tức là sinh con trai thì cho nằm trên giường, cho mặc áo đẹp, cho chơi ngọc chương.

Sắn ngô mát ruột câu tri túc,

Hoè quế rầy tai tiếng lộng chương.

(Thơ Hi Đạm).

 

 

LỘNG LẪY

Lộng lẫy là đẹp đẽ rực rỡ. Như: Nhà cửa lộng lẫy.

Trong Đạo Sử, Bà Đầu Sư Hương Hiếu có viết: Hội Thánh mua lại, trước kia là một khu rừng rậm, cây cối um tùm, chưa có nhà ai cho lắm, chỉ có một hai cái nhà ở rải rác ngoài bìa rừng, mà ngày nay thành vùng Thánh Ðịa Toà Thánh nguy nga, dinh thự lộng lẫy, nhà cửa kinh dinh thịnh vượng.

Nhìn càng lộng lẫy nguy nga,

Lúc ẩn lúc hiện đẹp mà làm sao.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

LỘNG LỘNG

Lộng lộng, như “Lồng lộng”, là chỉ khoảng không gian cao và rộng đến mức cảm thấy như vô cùng tận.

Lộng lộng còn dùng để chỉ gió thổi rất mạnh ở nơi trống trải.

Như: Ngày mưa bão gió thổi lộng lộng, bầu trời cao lộng lộng.

Xem: Lồng lộng.

Lộng lộng lưới trời tuy sếu sáo,

Thưa mà chẳng lọt mảy lông mày.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

LỘNG NGÔN

弄 言

Lộng: Chơi đùa. Ngôn: Lời nói.

Lộng ngôn là lời nói đùa cợt, hay càn rỡ, làm xúc phạm đến người trên, người đáng kính. Như: Nó ăn nói lộng ngôn lắm.

Trong Đạo Sử Xây Bàn, Thầy có dạy: Nhiều đứa dám lộng ngôn, gọi sức mình là đủ, không giữ hạnh khiêm cung, phải mắc tội cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Đã hay lộng lộng phép Trời,

Mà chưa ghê sợ, buông lời lộng ngôn.

(Đoàn Thị Điểm Giáng).

 

 

LỘNG QUYỀN

弄 權

Lộng: Lấn hiếp. Quyền: Quyền hành.

Lộng quyền tức là vượt quyền hạn của mình, lấn hiếp người cấp trên. Như: Những kẻ nịnh thần thường lộng quyền với nhà vua.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dạy: Chí Tôn có hứa khi ấy với Thiếp rằng: Thế nào cũng nâng đỡ cho chư Hiền Hữu, chẳng cho ai ỷ lộng quyền mà lấn hiếp.

Ðời không Ðạo, tức là kỷ cương rối loạn, kẻ gian nịnh lộng quyền.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LỘNG SẮC

Lộng: Lộng lẫy, đẹp rực rỡ. Sắc: Màu sắc, dáng vẻ.

Lộng sắc là màu sắc rực rỡ.

Lộng sắc còn có nghĩa sắc đẹp lộng lẫy.

Xanh biếc điểm màu tòng lộn đảnh,

Trắng ngần lộng sắc nước soi gương.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LỐP CỐP

Lốp cốp là từ mô phỏng những tiếng ngắn, gọn của vật cứng va chạm mạnh vào nhau liên tiếp, nhưng nghe thưa, không đều.

Như: Răng va vào nhau nghe lốp cốp, chở bao miểng sành trên xe khua lốp cốp.

Cảnh vật bể khua hơi lốp cốp,

Thành đài hư nổ tiếng đùng đùng.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LỐT

Lốt là vỏ ngoài, hình thức bên ngoài để che giấu con người thật, nhằm doạ nạt, lừa đảo.

Như: Tên trộm đội lốt người ăn xin, Mượn lốt nhà sư đi khuyến giáo, cáo mượn lốt cọp.

Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Lốt Ðạo, lốt Ðạo! Thầy buồn cho trẻ ngây, chẳng còn biết làm sao đem Thánh giáo vào tai chúng nó được.

Lập kế đồ mưu âm hại chúng,

Kiếp sau mang lấy lốt heo trâu.

(Giới Tâm Kinh).

Ngồi hang thương kẻ mang da chó,

Ngự điện ghét quân đội lốt lừa.

(Đạo Sử).

 

 

LỐT CỌP

Lốt: Vật bọc ngoài, cái bề ngoài. Cọp: Một loại thú rừng dữ, hay ăn thịt người.

Lốt cọp, do câu thành ngữ “Hồ giả hổ uy 狐 假 虎 威”, tức là cáo mượn oai cọp, dùng để nói kẻ hay mượn thế lực để áp bức, uy hiếp người khác như cáo đội lốt cọp vậy.

Muốn cho nhà thiệt cao, áo thiệt tốt, mượn lốt cọp doạ cáo bầy, bụng trống lổng, túi thâu đầy toan làm thầy lũ dại.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LỘT

Lột là bóc tuột ra. Như: Lột khăn, lột áo, lột da ếch, lột da sống đời.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Môn đệ của Thầy nhiều đứa muốn bỏ đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế.

Đã cha mẹ đừng chê xấu tốt,

Chẳng lẽ già da lột sống đời.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

là làm lảng, làm ra vẻ không nhìn thấy, làm lơ như không thấy, không hay biết gì.

Như: Làm lơ, bỏ lơ mọi chuyện, hỏi cứ làm lơ không trả lời, ngó lơ chỗ khác.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Như trong trường thầy giáo dạy học trò, bỏ thì làm biếng, nghiêm phạt thì nó oán ghét ấy là lẽ thường.

Thấy đời không lẽ bỏ ,

Nên chi trao quyện Đồ Thơ Đạo mầu.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Ðạo đức giả không biết tới,

Sắc tài bàn đến thật là hay.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LƠ LÀ

Lơ: Làm như vẻ không hay biết gì, không nhìn thấy, không nghe thấy.

Lơ là tức tỏ ra không chú ý, vì coi thường mà không để tâm đến công việc thuộc phận sự của mình.

Như: Con bé thường lơ là việc học tập.

Như nghèo khó toan phương giúp đỡ,

Sự viếng thăm bụng chớ lơ là.

(Phương Tu Đại Đạo).

Gà thấy hạc chẳng cần thủ lễ,

Giả lơ là dường thể khinh khi.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LƠ LÃNG

Lơ: Làm vẻ không nhìn thấy, không nghe thấy, không hay biết gì.

Lơ lãng, như chữ “Lơ đãng”, hay “Lơ đễnh”, là tỏ ra không chú ý, không tập trung tư tưởng vào việc đang làm, mà đang mãi nghĩ về những việc nào khác.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nó sẽ bắt chước như vậy, dầu buổi sơ sanh, đứa con chưa biết nghe, hiểu thấu đáo cho thấu lý, nhiều khi cha mẹ dạy nó không tuân, Bần Ðạo vẫn quả quyết rằng cái phụ giáo và mẫu giáo đó không mất, dầu đứa con có lơ lãng không nghe đi nữa, chớ rồi nó cũng hằng để vào tâm cái huyền diệu vô đoán ấy, chúng ta không thể tưởng tượng được, khi cha mẹ khuất rồi, đứa con sẽ tiềm tàng cái giáo hoá buổi sơ sanh ấy làm căn gốc trong bản tâm của nó.

Rán quá sức cẩn phong thí nhạn,

Dường say mê lơ lãng tinh thần.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Mới vô học ham chơi lơ lãng,

Nong chí con cho rán buổi đầu.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LƠ LÁO

Lơ: Không để ý, không quan tâm tới.

Lơ láo là bỡ ngỡ, có vẻ ngỡ ngàng, cảm thấy chung quanh xa lạ với mình, gây cho mình một sự sợ hãi, mơ hồ.

Như: Mắt lơ láo nhìn quanh, vẻ mặt lơ láo.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Bó thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?

Ôm mối mộng thìn lơ láo kiếp,

Mà quên thân chẳng đặng cho toàn.

(Đạo Sử).

 

 

LƠ LỬNG

Lửng: Nửa chừng, lưng chừng.

Lơ lửng là chơi vơi giữa chừng, tức ở trạng thái di động nhẹ ở khoảng giữa lưng chừng, không bám vào đâu.

Như: Chiếc lá lơ lửng trên không, thuyền câu lơ lửng giữa dòng.

Trong Việt Nam phong sử có câu: Thuyền câu lơ lửng đã xong, Thuyền chài lơ lửng uổng công thuyền chài.

Lơ lửng thuyền thơ mơ bến cũ,

Bao giờ phu phỉ nguyện ba sinh.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LỜ

1.- Lờ là mờ, đục, tức bị vẩn, bị mờ, không còn sáng, không còn trong nữa. Như: Trăng lờ, nước ao đục lờ.

Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết trong Thiên Đạo như sau: Lần lần con người vì nhiễm hồng trần phải lu lờ Thánh đức, bỏ Thiên lý mà sa vào Nhơn dục.

Ác lố rọi tan lằn gió bụi,

Nguyệt lờ soi gượng bước công khanh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trăng thấy đó có buồn lo,

Lòng rối khác chi tợ chỉ vò.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

2.- Lờ còn có nghĩa làm ra vẻ không để ý, không biết hay không nhớ.

Như: Lờ đi chuyện cũ, hắn cố ý lờ mình.

Chòm mây vô ý lờ cung nguyệt,

Giọt nước đa tình đượm sắc hoa.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LỞ

Lở là nói về núi, đê, tường băng ra hoặc đất sụt xuống một phần.

Như: Đê lở, tường lở, miệng ăn núi lở, bờ sông lở, đá lở non mòn.

Thành ngữ ta có câu: Trời long đất lở.

Biển ái kia bờ lở khó bồi,

Non thề nọ đảnh trôi khôn lấp.

(Phương Tu Đại Đạo).

Mong tài tám đấu nưng thành lở,

Quyết chí năm xe lấp hải hà.

(Thơ Nguyễn Hượt Hải).

 

 

LỠ

1.- Lỡ là do sơ suất, mà việc làm xảy ra điều không hay, khiến phải lấy làm tiếc làm ân hận. Như: Lỡ gây ra việc đáng tiếc, việc đã lỡ rồi.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy chẳng dùng sự chi mà thế gian gọi là Tà quái dị đoan, mà nếu xảy ra có một ít dị đoan trong Ðạo đã dùng lỡ thì ấy là tại nơi tâm của vài môn đệ đó.

Đời lầm lỗi nào ai khỏi lỡ,

Nếu không cha ai đỡ nâng lời.

(Đạo Sử).

2.- Lỡ còn có nghĩa là để cho việc gì đã qua mất đi một cách đáng tiếc.

Như: Lỡ thời vụ trồng dưa, hắn bỏ lỡ cơ hội làm giàu, thất cơ lỡ vận.

Ơn cúc dục cù lao mang nặng,

Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa.

(Kinh Thế Đạo).

Nét xuân sắc mấy hồi là trọng,

Xuân lỡ rồi khó mộng xuân nguyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỠ BƯỚC

Lỡ: Sơ suất mà làm, hoặc chỉ điều không hay khiến phải lấy làm tiếc, làm ân hận. Bước: Dời chơn đi.

Lỡ bước là gặp bước không may trong đời. Như: Lỡ bước công danh, sa cơ lỡ bước.

Thánh giáo Thầy có dạy: Nếu con chẳng gắng công mà chăm nom việc hành tàng của chư Đạo hữu thì chẳng khỏi sanh một trường náo nhiệt lớn lao trong Đạo, mà rồi sanh linh cũng vì đó phải chịu lỡ bước trót muôn ngàn.

Lao thân khổ phận là bao nả?

Lỡ bước sa chơn giỏi mặc dầu.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LỠ DỞ

Lỡ: Để cho điều kiện khách quan làm việc gì qua mất đi một cách đáng tiếc. Dở: Ở tình trạng chưa xong, chưa trọn.

Lỡ dở là ở vào tình trạng bị dở dang.

Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Nếu luận Tà Chánh thì chưa một ai dám còn mang mắt phàm xưng tụng mình là Chánh. Cái Tà vì Thiên thơ xử dụng, Tà vì cơ thử thách của Tam Giáo Toà, Tà vì những quỷ xác ma hồn lẫn lộn của Quỷ vương để làm cho công phu lỡ dở.

Thương người đeo thảm chác phiền,

Nỗi duyên lỡ dở hương nguyền lạnh tanh.

(Thất Nương Giáng Bút).

Nhiều trai gái duyên hài lỡ dở,

Tại chim xanh dụng mở mối đường.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỠ DUYÊN

Lỡ: Để cho điều kiện khách quan làm việc gì qua mất đi một cách đáng tiếc. Duyên: Tình duyên.

Lỡ duyên là lỡ làng duyên phận, tức số phận về tình duyên gặp sự trắc trở, lỡ làng.

Ca dao có câu: Bần gie đóm đậu sáng ngời, Lỡ duyên tại bậu, trách Trời sao nên.

Xem cha cư xử mà ngừa,

Phòng sao cho khỏi đổ thừa lỡ duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỠ ĐƯỜNG

Lỡ: Để cho điều kiện khách quan làm việc gì qua mất đi một cách đáng tiếc. Đường: Lối đi.

Lỡ đường là gặp trắc trở phải dừng lại giữa đường khi đi đường xa.

Trong Đạo Sử của Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Vĩnh Sơn Đạo Sĩ có đoạn: Chư vị đã trả lời câu hỏi của Bần Ðạo chưa? Có hiệp ý Chư vị không? Tỷ như Chư vị hành lộ lỡ đường tìm quán đỗ nhờ, thì tự nhiên gia chủ tuỳ phẩm hàng của Chư vị mà tiếp đãi.

Thương người lạc bước lỡ đường,

Tìm nơi Cung Tốt, lạc đường Bích Cung.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

LỠ LÀNG

Lỡ: Lỡ dở, không đúng với thời gian mặc định.

Lỡ làng là ở trong tình trạng dở dang, công việc không thành, không đạt được do bị lỡ dịp.

Như: Gặp việc lỡ làng, lỡ làng tình duyên.

Thành chẳng chừng năm ba phút chót,

Ðợi mau qua chóng lỡ làng duyên.

(Đạo Sử).

Mặc người lên võng xuống dù,

Lợi danh xạo xự thiên thu lỡ làng.

(Tứ Nương Giáng Bút).

Đố ai chen lấn đặng phần,

Liễu theo phận liễu lỡ làng vì ai.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

 

 

LỠ LẦM

Lỡ: Sơ suất mà làm, hoặc chỉ điều không hay khiến phải lấy làm tiếc, làm ân hận. Lầm: Sai, không đúng.

Lỡ lầm, như chữ “Lầm lỡ”, là phạm sai lầm do thiếu thận trọng.

Khoảng một về Tứ Đại Điều Quy có câu: Phải tuân lời của kẻ bề trên. Chẳng hổ chịu cho bậc thấp hơn điều độ. Lấy lễ hoà người. Lỡ lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.

Với những bạn Ðạo lỡ lầm, sái bước lạc đường nên lấy lời lẽ êm dịu của bậc đàn anh mà thức tỉnh đưa trở lại bước đường chơn chánh.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LỠ LỐI

Lỡ: Sơ suất mà làm, hoặc chỉ điều không hay khiến phải lấy làm tiếc, làm ân hận. Lối: Đường, nẻo.

Lỡ lối là lỡ đường, tức gặp trắc trở phải dừng lại giữa đường khi đi đường xa.

Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi,

Thiên cung lỡ lối chơi vơi cõi trần.

(Kinh Tận Độ).

Lỡ lối tang thương thôi phải phận,

Cũng căn cũng kiếp buổi xưa sau.

(Đạo Sử).

Dặm hồng lỡ lối đã quày đầu,

Một bộ Xuân Thu dựng nghiệp Châu.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LỠ LỜI

Lỡ: Sơ suất mà làm, hoặc chỉ điều không hay khiến phải lấy làm tiếc, làm ân hận. Lời: Nội dung điều nói ra.

Lỡ lời là lỡ nói ra những điều đáng lý không nên nói. Ví dụ: Nói xong mới biết mình đã lỡ lời với anh ấy.

Kết nhau sau một như mười,

Dạy nhau cộng tác lỡ lời chớ than.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

LỠ NHỊP

Lỡ: Lỡ dở, ở vào tình trạng bị dở dang. Nhịp: Sự nối tiếp và lặp lại một cách đều đặn một hoạt động hay một quá trình nào đó.

Lỡ nhịp là không hoà đúng theo nhịp, ý chỉ bị lỡ dở, hay bị dang dở.

Thí dụ như: Lỡ nhịp chèo, hoặc cung đàn lỡ nhịp.

Dòng là ánh nguyệt chiếu trong veo,

Lặng lẽ thuyền côi lỡ nhịp chèo.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LỠ PHẬN

Lỡ: Để cho điều kiện khách quan làm việc gì qua mất đi một cách đáng tiếc. Phận: Thân phận, số phận.

Lỡ phận là lỡ dở về thân phận, hoặc dang dở về duyên phận.

Thương cho kẻ ngậm ngùi lỡ phận,

Tìm kiếm đôi lại vấn vương oan.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

LỠ THÌ

1.- Lỡ: Để cho điều kiện khách quan làm việc gì qua mất đi một cách đáng tiếc. Thì (thời): Thuở, lúc.

Lỡ thì, như chữ “Lỡ thời”, là đã hết thời, không hợp thời, không đúng lúc.

Như: Mặc chiếc áo lỡ thời nầy xem quá quê, xe mới mua một năm mà nay đã lỡ thời.

Hồng ân chan rưới mấy khi,

Bến mê há để lỡ thì độ sanh.

(Tam Nương Giáng Bút).

2.- Lỡ: Để cho điều kiện khách quan làm việc gì qua mất đi một cách đáng tiếc. Thì (thời): Quảng đời có những đặc điểm sinh lý, tâm lý nhất định.

Lỡ thì, như chữ “Lỡ thời”, còn có nghĩa quá tuổi lấy chồng mà vẫn chưa có chồng.

Như: Gái lỡ thời.

Hắt hiu cứ tưởng trăng cùng gió,

Mà để cho ai đến lỡ thì.

(Đạo Sử).

 

 

LỠ THỜI

Lỡ: Để cho điều kiện khách quan làm việc gì qua mất đi một cách đáng tiếc. Thời: Thuở, lúc.

Lỡ thời, hay “Lỡ thì”, có nghĩa là đã hết thời, không hợp thời, không đúng lúc.

Như: Sái thế lỡ thời.

Lại e sái thế lỡ thời,

Giúp nam nhân chẳng có người trọn tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LƠI

1.- Lơi là tiếng dùng để nói dây hay chỉ xe, buộc không săn, không chặt.

Như: Dây buộc lơi dễ tuột, chỉ xe lơi chóng đứt.

Tu tâm sửa tánh ăn năn,

Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.

(Kinh Sám Hối).

Phòng đào giữ rủi rơi trâm,

Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Lơi là không tha thiết giữ cho liên tục, có lúc ngưng nghỉ hoặc không chú ý tới.

Như: Đập lúa không lúc nào lơi tay, tình hình trộm cắp liên tục nên không lúc nào lơi việc canh gác.

Cần lo học Ðạo chí đừng lơi,

Phú quý sương tan lố bóng Trời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thôi rán lần đường dò bước trễ,

Trễ lâu cũng tới chí đừng lơi.

(Đạo Sử).

 

 

LƠI BƯỚC

Lơi: Không giữ được sự liên tục một cách nghiêm ngặt, có lúc ngưng nghỉ hoặc không chú ý. Bước: Dời chân, đi.

Lơi bước là không muốn bước tới nữa, có ý muốn thối lui trở lại.

Ðen trắng hai màu, chánh tà đôi nẻo, mạnh sức trì chí thì nhờ, yếu tâm lơi bước thì chịu.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LƠI DẠ

Lơi: Không giữ được sự liên tục một cách nghiêm ngặt, có lúc ngưng nghỉ hoặc không chú ý. Dạ: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm.

Lơi dạ là lòng dạ lơ là muốn ngưng nghỉ, không có ý tiếp tục làm.

Trống đã giục con nào lơi dạ,

Thúc hối mau bươn bả kịp kỳ.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

LỜI

1.- Lời là câu nói. Như: Lời nói, lời lẽ, lời văn, lời ăn tiếng nói.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Lời đạo đức trong miệng con nói ra, ấy là lời Thầy bố hoá tâm trí con đặng đi truyền đạo, tuỳ cơ mà dạy kẻ, một mình con đâu đủ sức phục người.

Ðinh ninh Thầy dặn trẻ đôi lời,

Mình biết Ðạo mình giữ đó thôi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đời lầm lỗi nào ai khỏi lỡ,

Nếu không cha ai đỡ nâng lời.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lời còn có nghĩa là lợi, lãi. Như: Một vốn bốn lời.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Một năm đã qua, khác hơn ngoài mặt đời, Chức sắc trong Hội Thánh không tính sổ chung niên để biết lộc vị tấn hay thối, vốn liếng lỗ hay lời, mùa màng được hay thất mà chỉ cân phân về hạnh đức sánh với năm trước có được tiến triển chăng? Công quả có được xứng đáng hơn chăng? Sau nữa hành Ðạo có được ổn định và hoàn mỹ hơn chăng?

Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,

Lời tăng quá vốn kẻ nghèo xiết than.

(Kinh Sám Hối).

Làm lành sau cũng lành vay trả,

Chác dữ âu hay dữ vốn lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LỜI CHÂU NGỌC

Lời: Nội dung điều nói ra. Châu ngọc: Châu báu và ngọc ngà, chỉ sự đẹp đẽ, quý giá.

Lời châu ngọc là lời nói quý như châu ngọc, mở miệng ra tựa như nhả ngọc phun châu. Ý muốn nói lời nói đẹp đẽ bay bướm.

Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Mấy bài Thánh giáo trích lục chúng ta đã được đọc qua là những lời châu ngọc, chúng ta nên cố gắng nhớ để làm kinh nhựt tụng.

Con đã đặng lời châu ngọc của Thầy gắng lo liệu với em giúp nó đặng hoàn toàn trách nhiệm.

(Đạo Sử).

 

 

LỜI DẠY

Lời: Nội dung điều nói ra. Dạy: Dạy bảo, dạy dỗ.

Lời dạy là những lời dạy bảo của người trên.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hội Thánh ước mong mỗi con cái Ðức Chí Tôn gắng công trau giồi tâm đức theo lời dạy của Ðức Chí Tôn thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được thành quả tốt đẹp trên đường tu niệm.

Lời dạy Thần, Tiên không kể đếm,

Đạo mầu chẳng cứ, cứ khoe khoang.

(Giới Tâm Kinh).

Thường năm Tông tộc lễ gia tiên,

Lời dạy noi gương bậc triết hiền.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

LỜI NGUYỀN

Lời: Lời nói, câu nói. Nguyền: Hay nguyện, là tự nhủ, tự cam kết sẽ làm đúng như lời thề nguyện.

Lời nguyền là lời thề nguyền giữa hai người tình, hay hai người bạn tâm giao, nguyện gắn bó, giữ vẹn sự yêu thương thắm thiết bên nhau.

Hỏi đon thử lời nguyền buổi trước,

Gẫm thân nàng bạc phước như ta.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỜI NÓI

Lời: Câu nói, nội dung điều nói. Nói: Tỏ ý bằng lời tự miệng thốt ra.

Lời nói là những gì con người nói ra trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Cái mạng lịnh tom góp các con Thầy lại một nhà đã xa như lời nói phỏng. Nhơn sanh phàn nàn thì Ðạo nào nên đặng đó con?

Nguyện lời nói biến hình bác ái,

Nguyện chí thành sửa máy tà gian.

(Kinh Thế Đạo).

Non sông chẳng đổi theo lời nói,

Cơ nghiệp dầu thay bởi sức làm.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LỜI RA PHẢI NHÌN

Lời ra: Lời từ miệng nói ra. Phải nhìn: Phải nhìn nhận, phải giữ lấy.

Lời ra phải nhìn là phải nhìn nhận lời nói của mình, tức là không nuốt lời.

Nhiều người trong lúc vui, hay trong tình trạng khởi hứng, họ thường hứa hẹn, nhưng sau một thời gian họ lại quên lời. Do vậy, người bình dân Việt Nam dạy người ta phải cẩn thận về lời nói, khi nói ra thì phải giữ lấy lời như câu ca dao sau đây: Nói lời phải giữ lấy lời, Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.

Chính vì thế, Lão Tử mới nói: Quân tử nhất ngôn, khoái mã nhất tiên; nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy 君 子 一 言, 快 馬 一 鞭, 一 言 既 出, 駟 馬 難 追, nghĩa là khi người quân tử nói ra một lời, như con ngựa hay bị chạm một roi vậy; một lời đã nói ra, thì dù cho bốn ngựa cũng khó theo kịp.

Gìn lòng ngay thẳng thật thà,

Nói năng minh chánh lời ra phải nhìn.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LỜI RĂN

Lời: Lời nói, câu nói. Răn: Dạy bảo để ngăn cản.

Lời răn là lời khuyên răn, tức lời chỉ dạy để ngăn cản những việc làm sái quấy.

Thánh giáo Thầy có câu: Cắt ruột, ai lại không đau, nếu Thầy không cầu khẩn Thái Bạch đình hình phạt lại cho tới ngày lập thành Toà Thánh, các con lấy công mà chuộc tội, thì trong các con chẳng đặng còn lại một phần mười, các con nên lấy lời răn Thầy đây làm vị thuốc khử tội của các con.

Xưa coi nhẹ lời răn đạo đức,

Nay cam tâm ngậm ức nuốt oan.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

Anh khá kiếm lời răn của Phật,

Lấy từ bi dìu dắc Sa Môn.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

LỜI THỆ

Lời: Lời nói, câu nói. Thệ: Thề.

Lời thệ, hay lời minh thệ, là lời thề nguyền trước Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng khi làm lễ nhập môn.

Bất cứ người nào xin nhập môn vào đạo Cao Đài đều phải lập lời minh thệ trước Thiên bàn hay Điện tiền Đức Chí Tôn, có sự chứng kiến của vị Chánh Trị Sự hay Chức sắc sở tại để buộc người nhập môn phải thủ tín, tức là một lòng một dạ giữ gìn và thờ phượng nền chánh đạo, chẳng dám làm điều gì sái lời thệ nguyện hầu kềm thúc tâm phàm tánh tục của mình cho đến phút lâm chung.

Xem: Minh thệ.

Lời thệ nhập môn ghi nhớ kỹ,

Đoạ siêu hai lẽ bởi tâm mình.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LỜI VÀNG TIẾNG NGỌC

Lời tiếng: Lời nói hay tiếng nói, nội dung điều đã nói. Vàng ngọc: Tiếng tôn xưng, đáng quý trọng.

Lời vàng tiếng ngọc ý nói những lời dạy bảo đáng quý trọng như vàng ngọc.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển là lời vàng tiếng ngọc của Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng.

Phương Tu Đại Đạo ẩn tàng,

Lời vàng tiếng ngọc chứa chan thâm tình.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LỢI

Lợi là có ích, trái với hại. Như: Lợi ích, lợi cho chúng sanh, làm lợi cho dân cho nước.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Phần nhiều trong các con chẳng để lòng thờ kính Thầy, tưởng cho đem thờ Thầy vào nhà là chủ ý cầu một việc lợi riêng chi cho gia quyến vậy thôi, chớ chẳng hiểu là một nguồn trong sạch để rửa các lỗi phàm tục của các con.

Bày chước độc, xúi ra việc quấy,

Tổn cho người mà lấy lợi riêng.

(Kinh Sám Hối).

Lợi không ích kỷ lợi Trời ban,

Phải tính trí kia xử vẹn toàn.

(Đạo Sử).

Con đừng mượn nét khuynh thành,

Lợi thân mà hại đến mình hồng nhan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỢI DANH

利 名

Lợi: Những cái có ích thu được. Danh: Tiếng tăm.

Lợi danh là lợi lộc và công danh, tức những cái có ích thu được và tiếng tăm.

Lợi danh còn chỉ sự ham danh ham lợi. Danh lợi là những thứ con người rất ham thích, ai cũng muốn giành giựt cho riêng mình, dù phải làm những điều trái đạo đức. Vì vậy, theo Phật, danh lợi như món mồi nhử con người vào nẻo luân hồi.

Trong Chiến Quốc Sách, Trương Nghi có nói: Tranh danh giả ư triều, tranh lợi giả ư thị 爭 名 者 於 朝, 爭 利 者 於 巿, nghĩa là tranh danh ở triều đình, tranh lợi lộc ở chợ.

Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,

Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.

(Kinh Sám Hối).

Phú quý lớn là giành với giựt,

Lợi danh cao bởi mượn và xin.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dạy cho biết những điều hàm hội,

Đặng cho tường căn cội lợi danh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỢI DỤNG

利 用

Lợi: Ích, trái với hại. Dụng: Dùng.

Lợi dụng là dựa vào điều kiện thuận lợi nào đó để làm việc gì.

Lợi dụng còn có nghĩa là thừa cơ mà mưu lợi riêng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Nếu có tánh ích kỷ và ham lợi dụng thì người hành Ðạo có ý thức quá nông nổi. Thoảng như có ai đem một lợi lộc nào mua chuộc để sai khiến mình trong việc bất chánh thì chắc hẳn là họ sẽ bán đồ nhi phế, bỏ cả chức phận để chạy theo. Ðó có khác chi là buông mồi bắt bóng.

Luật Đạo lại có lời rẻ rúng,

Phép nghiêm làm lợi dụng mưu gian.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LỢI KHÍ

利 器

Lợi: Sắc bén. Khí: Đồ dùng.

Lợi khí là đồ dùng sắc bén, là công cụ có hiệu lực để tiến hành một việc nào đó.

Như: Báo chí là một lợi khí tuyên truyền.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Thầy đã hết lời khuyên dạy buổi đầu, lại để lời tiên tri dặn bảo, mà các con chẳng biết vâng lời, cứ gây đoan những điều hờn giận, dối trá, gạt nhau, đòi phen lại dám mượn danh Thầy mà làm lợi khí.

Đừng thấy chồng tình ái mặn nồng,

Mà cậy chút vẻ hồng làm lợi khí.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỢI LẤN DANH CHEN

Lợi danh: Lợi lộc và tiếng tăm. Lấn chen: Dùng sức chen lấn để chiếm lấy.

Lợi lấn danh chen ý nói chen lấn nhau để tranh giành, chiếm đoạt danh và lợi.

Lợi lấn danh chen nhàm thế sự,

Vinh đưa nhục đón rộn phiền ba.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

LỢI LỘC

利 祿

Lợi: Của cải đem đến. Lộc: Lương bổng cấp cho, hoặc phẩm vật biếu tặng.

Lợi lộc là thu thêm về tiền bạc hay phẩm vật vào.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Than ôi! Xa Thầy chưa bao lâu mà vì lợi lộc ham muốn của thế tình, nhiều đứa phải chịu để xác cho Tà quái xung nhập. Thầy cũng thương hại mà khó thể cứu rỗi được.

Lợi lộc xôn xao rồi một kiếp,

Nghĩa nhân tích trữ để muôn đời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Cứ mến vinh huê cùng lợi lộc,

Chẳng lo kiếp thác đến gần nơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lợi lộc giục người mong bỏ nghĩa,

Sang vinh lỗi đạo để nên trò.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

LỢI MƯỢN DANH MUA

Lợi mượn: Lợi lộc là cái phải vay mượn. Danh mua: Danh tiếng cũng do sự mua chuộc.

Lợi mượn danh mua, ý nói bả danh lợi là cái tồi tệ, xấu xa, phải lòn cúi để vay mượn hay giành giựt để mua chuộc mà có.

Lợi mượn danh mua tua khá lánh,

Biết thân biết phận tính dường bao.

(Đạo Sử).

 

 

LỢI QUYỀN

Lợi: Những thứ như vật chất, tiền bạc, công danh đem lại cho mình. Quyền: Quyền hành.

Lợi quyền, như chữ “Quyền lợi 權 利”, là lợi lộc và quyền hành.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Ðứa thì mê tài, đứa thì ham cận sắc, đứa bị biếm vào lối lợi quyền, đứa bị xô vào nơi thất đức. Mỗi đứa mỗi nẻo, đều quăng sạch chất thiêng liêng, lầm lũi đưa tay theo mấy mươi động.

Lợi quyền giành giựt chi cho nhọc,

Thiện ác chung quy cũng đáo đầu.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Lợi quyền say đắm vinh thành nhục,

Kinh điển trau dồi dở hoá hay.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LỢI SANH

Hay “Lợi sinh”.

Lợi: Có ích. Sanh (Sinh): Chúng sanh, nhơn sanh.

Lợi sanh, như chữ “Lợi sinh 利 生” là làm lợi ích cho sự sống, cho nhơn sanh.

Sách “Giáo Lý” của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Nói tóm lại, Khổng Giáo cho rằng Đạo Trời chỉ có sự sanh hoá. Người muốn theo Đạo Trời thì cũng chỉ làm lợi sanh cho người và vật; mà muốn đạt mục đích ấy, người phải học hành bốn điều Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.

Linh oai mạc trắc,

Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Ngậm cơm ơn ngậm hằng ngày,

Nên người con nguyện ra tài lợi sanh.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LỢI TOẢ DANH CƯƠNG

利 鎖 名 韁

Lợi toả: Lợi lộc như sợi khoá buộc cứng. Danh cương: Công danh như dây dàm ràng chặt.

Lợi toả danh cương, như chữ “Danh cương lợi toả 名 韁 利 鎖”, là công danh như sợi dây cương, lợi lộc như cái khoá, ý nói danh lợi là những thứ ràng buộc con người.

Tu niệm bền tâm giữ lập trường,

Xa vòng lợi toả với danh cương.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LỚN

1.- Lớn là to, cả. Như: Thành phố lớn, lớn người, lớn tiếng, lớn tuổi.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy lại nói, buổi lập Thánh đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu nhọc đến công Thầy. Ấy vậy, các con rán độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết.

Phú quý lớn là giành với giựt,

Lợi danh cao bởi mượn và xin.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Xích Bích thắng Tào cậy gió Ðông,

Nhà cao nghiệp lớn bởi khuôn hồng.

(Đạo Sử).

2.- Lớn là thành niên, chỉ về tuổi tác. Như: Người lớn, lớn khôn.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Chúng ta đã ngó thấy làm người sanh trưởng từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến lớn khôn, chúng ta nhắc lại kể từ ngày sơ sanh dĩ chí tới 30 tuổi khi mới sanh chúng ta vẫn còn khờ khạo ngu dốt.

Lớn một tuổi, mẹ thêm một khổ,

Hiểu một điều mẹ hổ cho thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Gái lớn lên giữ chữ phụ tùng,

Trai chớ khá buông lung theo chúng bạn.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Lớn là mạnh, có quyền uy, thế lực. Như: Quan lớn, làm lớn, quyền uy lớn.

Thánh giáo Thầy có câu: Hễ chác danh cao quyền lớn, bực quý phẩm Tiên thì phải dày chịu gian nguy, nặng đeo sầu thảm.

Cao lương đừng tưởng giống cao quyền,

Quyền lớn là vì trước có duyên.

(Đạo Sử).

 

 

LỚN KHÔN

Lớn: Người hay vật ở vào giai đoạn phát triển đầy đủ, không còn non yếu. Khôn: Có khả năng suy xét trên mức bình thường để xử sự một cách có lợi nhất.

Lớn khôn, như chữ “Khôn lớn”, là lớn và khôn, chỉ giai đoạn đã trưởng thành.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Chúng ta đã ngó thấy làm người sanh trưởng từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến lớn khôn, chúng ta nhắc lại kể từ ngày sơ sanh dĩ chí tới 30 tuổi khi mới sanh chúng ta vẫn còn khờ khạo ngu dốt.

Nhỏ dại Thầy nuôi mùi Ðạo hạnh,

Lớn khôn bây xứng mặt hiền lương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dầu lớn khôn tước cả quyền cao,

Cũng nhớ thuở thai bào công chín tháng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỚN LAO

Lớn: To lớn, mạnh.

Lớn lao là to lớn, chỉ lớn về giá trị tinh thần hay về ý nghĩa, tác dụng.

Thánh giáo Chí Tôn dạy: Than ôi! Các con xa Thầy chưa mấy ngày, thì mối Ðạo lớn lao đã thành một bàn hội vô giá trị ở cõi trần thế nầy.

Lãnh cơ tận độ lớn lao,

Thấy tượng Phật Mẫu bên sau người quỳ.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

LỚN TIẾNG

Lớn: Âm thanh có cường độ mạnh, vang xa, nghe rõ ràng. Tiếng: Âm thanh do tai nghe được.

Lớn tiếng là to tiếng, hoặc để tỏ vẻ giận dữ.

Lớn tiếng còn dùng với nghĩa là phát biểu ý kiến với những lời lẽ mạnh mẽ và kiên quyết.

Sách vở xưa đặt đọc cho kêu,

Mình lớn tiếng lời nhiều ai cũng sợ.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỚN TUỔI

Lớn: Ở vào giai đoạn đã phát triển đầy đủ, không còn non yếu. Tuổi: Thời gian của một người sống, kể theo hàng năm.

Lớn tuổi là tương đối nhiều tuổi, không còn trẻ nữa.

Như: Con người càng lớn tuổi càng có nhiều kinh nghiệm sống.

Buông những câu tục tĩu cộc cằn,

Con bắt chước khó răn khi lớn tuổi.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỜN

Lờn là nhờn, sờn, mòn nhẵn, không còn góc cạnh, ăn khớp nữa. Như: Con bị ốc lờn.

Lờn còn có nghĩa là nhàm, không còn sự tôn trọng, kính nể. Như: Lờn oai, chiều nó quá sinh lờn.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, có câu: Phải hiểu rõ rằng: Thiên Ðịa vô tư, đừng ỷ là có Ðại Từ Phụ mà lờn oai, nghe các con!

Khi tế tự chớ lờn chớ dể,

Việc quan, hôn thủ lễ nghiêm trang.

(Kinh Sám Hối).

Giữ ôn nhu ít nói ít cười,

Phòng ngừa sự dể ngươi lờn mặt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỜN DỂ

Lờn: Nhờn, không còn có sự tôn trọng, kính nể. Dể: Coi thường, không kính nể.

Lờn dể là có thái độ khinh lờn và dể duôi, tức không còn có sự tôn trọng, kính nể nữa.

Đối người trên, dười đừng lờn dể; trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.

(Tân Luật).

 

 

LỜN MẶT

Lờn: Nhờn, không còn có sự tôn trọng, kính nể. Mặt: Gương mặt, biểu tượng cho người.

Lờn mặt là thấy mặt nhau đã nhàm, có ý khinh dể, tức không còn ý tôn trọng, kính nể nữa.

Giữ ôn nhu ít nói ít cười,

Phòng ngừa sự dể ngươi lờn mặt.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỢN

Lợn là heo, một loại gia súc người ta nuôi để lấy thịt, mỡ. Như: Thịt lợn, lợn lòi, lợn nái, lòng lợn.

Ca dao có câu: Lợn bột thì thịt ăn ngon, Lợn nái thì đẻ lợn con cũng lời.

Chỉ cho rõ tiếng muông giọng lợn,

Đờn nỉ non cợt bỡn đờn bà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỚP

Lớp là tầng, tức chỉ phần chồng lên vật gì.

Như: Lớp xi măng, lớp hồ tô, quét một lớp nước sơn, bóc lớp giấy bọc bên ngoài.

Thánh giáo Thầy dạy Bà Đầu Sư Hương Hiếu có câu: Ðổ đường đen vào một cái hũ, thọc lủng đít, rồi định chừng cho vừa hai phần hũ đường, còn một phần hũ thì đổ bùn non cho tới miệng, đem phơi nắng chừng một tuần thì đường trở nên trắng, gạt lớp bùn đi thì con đặng một thứ đường trắng phau phau rất ngon, rất đẹp đó con.

Dưới chín lớp liên thần đưa bước,

Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu.

(Kinh Tận Độ).

 

 

LỚP LANG

Lớp: Tầng, bực, tức phần chồng lên một vật gì. Lớp còn có nghĩa màn của vở kịch.

Lớp lang là thứ tự, tức có thứ lớp trước sau.

Thuyết Đạo về “Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống”, Đức Hộ Pháp có câu: Đến rồi ngó thấy quần sanh nhơn loại muôn trùng, lớp đến lớp đi không biết bao nhiêu mà nói, nhiều như vậy, mà dường như không có tiếng động nào, thứ tự lớp lang có trật tự lắm.

Soạn sành trong trí lớp lang dò,

Coi thử người làm thế ấm no.

(Đạo Sử).

Đạo Cao sắp đặt lớp lang,

Chia ra nhiều hạng thế gian dễ tìm.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LỢP

Lợp là phủ kín bên trên bằng một lớp vật liệu, hay tranh, lá. Như: Nhà lợp ngói, xe lợp mui, mũ lợp vải.

Thánh giáo Thầy dạy Ngài Thái Thơ Thanh có câu: Con phải xây cái tháp của Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải day về hướng đông, giống như ngó vào điện mà hầu Thầy vậy, song ba từng phải lợp ngói như nóc chùa của các Ðường nhơn vậy, nghe!

Tại hay quá đổi mới hư nhà,

Chẳng biết lợp nhà lúc gió qua.

(Đạo Sử).

Con gậy tay cầm, râu tóc bạc,

Cái nhà lá lợp, cửa song thưa.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LỢT

1.- Lợt như chữ “Lạt”, là có màu sắc, hay hương vị nhạt hơn mức bình thường.

Như: Mặt nó tái lợt, khúc vải màu xanh lợt, nhuỵ phai hương lợt.

Chừ sao bỏ cảnh úa xào,

Nhụy phai hương lợt, khuôn rào tả tơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Chừng cơn phấn lợt hương tàn,

Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Lợt còn có nghĩa không còn thắm thiết, mặn mà nữa. Như: Lợt điểm Thánh tâm, lợt tình bè bạn.

Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có đoạn: Các em thử nghĩ lại coi bên nào hư, bên nào thiệt, hư thì chỉ còn tồn tại trong một kiếp sanh, còn thiệt là vĩnh cửu thiên niên chẳng lợt, vì đó mà nói cái hư ở trong cái thiệt, cái thiệt ở trong cái hư. Nếu ham thiệt ở trong hư thì muôn ngàn kiếp vẫn còn, như muốn hư trong thiệt thì sự đời phải ra tro mạt.

Lợt điểm Thánh tâm trần tục khảo,

Vẻ tươi bợn thế nét dò đon.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Rừng trước tuy vui chung rượu thắm,

Ơn xưa đâu lợt tấm lòng ngay.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LÙ MÙ

Lù mù là mờ, không rõ, chỉ có hình dạng nhưng không rõ đường nét, do vật ở xa hoặc bị che phủ bởi sương khói.

Lù mù còn dùng để chỉ sự tối tăm.

Như: Nhìn ra giữa biển thấy chiếc tàu lù mù ngoài khơi, đầu óc nó hiện thời lù mù lắm.

Du hành là kẻ bỏ đường tu,

Con sáng đừng nghe phỉnh lù mù.

(Đạo Sử).

 

 

là bọn, đàn, chỉ tập hợp người hoặc động vật đông, không có tổ chức. Như: Lũ trẻ, lũ chuột.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã nói, bầy hổ lang, quỷ mị đã sẵn bên mình của mỗi đứa, mà con lớn nhỏ gì cũng chẳng để ý đến.

Xuân thu định vững ngôi lương tể,

Phất chủ quét tan nịnh thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nên hư trối mặc đời phi thị,

Lam lụ buồn cười bấy trâu.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

LŨ KIẾN CHÒM ONG

Lũ chòm: Tập họp đông người, vật, không có tổ chức, hàm ý ô hợp. Kiến ong: Loài kiến, loài ong, dùng để chỉ bọn giặc cỏ, chuyên quấy phá, sách nhiễu nhân dân.

Lũ kiến chòm ong là có ý nói một cách mỉa mai, khinh bỉ bọn giặc cỏ, bọn phá hoại.

Xem: Chòm ong lũ kiến.

Lũ kiến chòm ong xa cửa Đạo,

Chỉ lo định vị các tôi ngay.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

LŨ LỤT

Lũ: Nước do mưa nguồn đổ về. Lụt: Nước dâng cao, nước ngập khắp mọi nơi.

Lũ lụt nói chung về tình trạng nước lũ dâng cao, ngập lụt sâu ở các vùng dân cư.

Như: Dân miền Trung bị lũ lụt.

Bão tới, sao đưa về lũ lụt?

Nắng thiêu, nở héo hết cây mầm!

(Thơ Thanh Hương).

 

 

LŨ LƯỢT

Lũ: Đàn, bọn, chỉ số lượng người đông, như thành cả một đoàn. Lượt: Lần làm một việc gì.

Lũ lượt là từng lũ từng lượt, ý nói người đi thành từng đoàn nối tiếp nhau không ngớt.

Tin bay đến lịnh cửu trùng,

Bá quan lũ lượt tập trung vào chầu.

(Phù Kiều Hận Sử).

Xuân về hồng tía đẹp muôn ngàn,

Nguồn Đạo sóng người lũ lượt sang.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LŨ TRUYỀN BỬU KINH

屢 傳 寶 經

Lũ truyền: Nhiều lần truyền đi. Bửu kinh: Kinh báu, kinh sách quý báu.

Lũ truyền bửu kinh 屢 傳 寶 經, nghĩa là biết bao nhiêu lần (hay thời kỳ) đã truyền kinh sách quý báu để giác ngộ người đời.

Câu trên là một câu kinh được trích trong bài “Ngọc Hoàng Kinh”, để nói lên lòng thương yêu vô bờ bến đối với chúng sanh của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mà Ngài phải bao phen giáng chơn linh xuống thế truyền kinh sách giác ngộ người đời.

Thật vậy, Kinh là nền tảng của một triết thuyết hay một Tôn giáo, nên từ ngàn xưa, các vị Giáo chủ của Tam giáo đã đắc lệnh của Đức Chí Tôn, giáng cơ mở Đạo để tùy thời, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà truyền những kinh sách quý báu, hầu khai hoá đạo tâm cho con người, đưa con người đến sự giác ngộ.

Về Nho giáo, Đức Khổng Thánh đã để lại một kho kinh sách quý giá như Tứ Thư, Ngũ Kinh, sau này các hàng Đệ tử và hậu Nho tiếp tục xiển dương hệ thống triết lý đó làm nền tảng về nhân sinh, đạo đức và phong tục cho xã hội con người, mà hơn hai nghìn năm nay con người vẫn còn sùng thượng.

Về Lão giáo, từ hai quyển “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử và “Nam Hoa Kinh” của Trang Tử làm cơ sở cho triết lý “Vô vi”, đến thời nhà Tống các nhà Nho đem lý thuyết Vô vi của Lão Trang phối hợp với Dịch Lý của Nho mà tạo thành một phong trào “Huyền học” hay “Lý học”. Phong trào nầy có công lớn trong việc phát triển học thuyết Lão Trang đến chỗ phồn thịnh nhứt vào đời Ngụy, Tấn, Lục Triều... Lão giáo hướng con người về với Đạo là thuận lẽ thiên nhiên vô vi tự tại. Vì vậy, thuyết Vô vi của phái Đạo Gia đã ảnh hưởng không nhỏ về Vũ trụ quan và Nhân sinh quan qua con người từ ngàn xưa cho đến bây giờ.

Về Phật giáo, sau khi Đức Phật thành Đạo, Ngài đã đem điều chứng đắc để giác ngộ chúng sinh tìm về bản thể chơn như, hầu đưa chúng sanh theo con đường giải thoát. Đến khi Phật nhập diệt, các vị Đệ Tử mới đem những lời dạy của Ngài kết tập lại thành Tam Tạng Kinh. Từ đó, kinh sách của Phật được phổ truyền theo muôn đường vạn nẽo để đem cái Giáo Pháp cao siêu của Đức Phật mà giác ngộ chúng sinh trong tam đồ, lục đạo.

Sang đến thời ký thứ ba nầy, Đức Chí Tôn không chiết chơn linh hạ phàm như hai thời kỳ trước: Nhứt kỳ và Nhị kỳ phổ độ. Kỳ này, Ngài giáng huyền cơ khai mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, cùng với Phật Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương, và các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật giáng cơ ban cho giáo pháp để dìu dắt chúng sanh, hướng dẫn mở nền tôn giáo mới, trong đó Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế và Đức Diêu Trì Kim Mẫu là hai Đấng cha mẹ linh hồn chung của nhơn loại, được gọi là Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu của vạn linh.

Về kinh sách, sau ngày khai Đạo, Hội Thánh được lịnh Ơn Trên dạy thỉnh Kinh nơi Phật giáo hay các chi Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý về tụng niệm. Điều này, chính Hội Thánh đã nói rõ trong lời tựa Kinh Thiên, Thế Đạo như sau:

“Từ khi mở Đạo, Chí Tôn duy giáng cơ truyền cho Phật giáo, Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý dạy dâng Kinh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, song Kinh Tận Độ vong linh chưa hề giáng cơ cho nơi nào tất cả.

Đức Quyền Giáo Tông (khi còn tại thế) và Đức Hộ Pháp, trót mười năm trường nghĩa là từ ngày mở Đạo, đã nhiều phen dâng sớ cho Đại Từ Phụ và các Đấng Thiêng Liêng đặng xin Kinh Tận Độ, nhưng mà Chí Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vẫn chưa định ban ân cho toàn sanh chúng.

Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 Ất Hợi (Dl. 21 đến 31-8-1935) mới giáng cho Tân Kinh. Ấy là một giọt nước Cam Lộ của Đức Từ Bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng linh hồn của toàn Thế giới.

Về luật pháp, Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho “Pháp chánh Truyền” ngay sau khi làm lễ Khai Đạo tại Thánh Thất tạm “Từ Lâm Tự”, tức chùa Gò Kén, Tây Ninh. Pháp Chánh Truyền là một bản pháp luật chơn chánh mà Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế truyền dạy để làm căn bản lập giáo, tổ chức và điều hành nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Bản Pháp Chánh Truyền có thể gọi là bản Hiến Pháp của Đạo, do Chí Tôn quy định nên có tính cách cố định, bất di bất dịch trong thất ức niên.

Ngoài ra, Ngài cùng Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng dùng huyền diệu cơ bút viết ra những bài văn, bài thi để dạy đạo đức cho toàn nhơn sanh. Những bài văn thi ấy được Hội Thánh sưu tập, chọn lọc và cho in thành sách phổ biến cho nhơn sanh, gọi là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

Quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có thể gọi là quyển Thánh Kinh của Đạo Cao Đài, là một quyển sách căn bản và quan trọng cho người tu học, vì đó là những bài giáo lý, những lời vàng tiếng ngọc của Đức Chí Tôn cùng các Đấng Thiêng Liêng ban cho.

Để chứng minh điều nầy chúng ta có thể dẫn lời dạy của Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: “Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy: Dầu cho sắt đá cỏ cây, mà nghe đến Thánh Ngôn nơi Thầy do con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người. Con nhớ và an lòng”.

Hoặc: “Nếu kẻ nào biết hiểu Thánh Ngôn của Thầy nơi miệng các con mà tỉnh ngộ thì số hằng sống nó vốn còn, còn chẳng thì thôi, để cho chúng nó theo tà quái”.

Kinh là nền tảng của một triết thuyết hay một Tôn giáo, nên từ ngàn xưa, các vị Giáo chủ của Tam giáo đã đắc lệnh của Đức Chí Tôn, giáng cơ mở Đạo để tuỳ thời, tuỳ căn cơ, tuỳ hoàn cảnh mà truyền những kinh sách quý báu, hầu khai hoá đạo tâm cho con người, đưa con người đến sự giác ngộ.

Biến hoá vô cùng,

Lũ truyền Bửu kinh dĩ giác thế.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

LÚA

1.- Lúa là chỉ chung về các loại ngũ cốc dùng làm lương thực cho con người.

Như: Lúa mì, lúa mạch, lúa ngô, lúa thóc.

Nhờ Viêm Đế đức cao ơn nặng,

Tìm lúa khoai người đặng no lòng.

(Kinh Sám Hối).

Làm ra lúa gạo dày công,

Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.

(Kinh Sám Hối).

2.- Lúa là chỉ riêng về thứ cây sinh ra thóc gạo, dùng làm lương thực. Như: Bồ lúa, hạt lúa, đồng lúa.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Tà mị cũng như một hột lúa bị hẩm mà thúi thì thế nào mọc đặng mà sanh bông trổ trái.

Bụng trống thảnh thơi con hạc nội,

Lúa đầy túng tíu phận gà lồng.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Nam nhi có nợ của song thân,

Biết chút lúa ăn chịu Ðạo phần.

(Đạo Sử).

Cha mẹ giàu để con bồ lúa,

Cha mẹ nghèo để đũa ăn cơm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÚA ĐẦY PHẬN GÀ LỒNG

Lúa đầy: Lúa nhiều, đầy đủ. Phận gà lồng: Thân phận gà bị nhốt trong lồng.

Lúa đầy phận gà lồng ý nói tuy là lúa đầy no bụng, nhưng thân phận gà bị nhốt trong lồng, không được tự do.

Lúa đầy phận gà lồng, bởi câu thơ của Lý Bạch viết: Lung kê hữu mễ thang oa cận, Dã hạc vô lương Thiên Ðịa khoan 籠 雞 有 米 湯 堝 近, 野 鶴 無 糧 天 地 寬, nghĩa là gà lồng có lúa đầy bụng hằng ngày mà nồi nước sôi hằng cận bên, không biết phải bị giết ngày nào. Còn con hạc nội, tuy bữa đói bữa no, nhưng Trời Ðất rộng thinh, mặc tình cao bay xa liệng.

Ý nói thà cực mà được thong thả, còn hơn sướng mà phải chịu nguy hiểm.

Bụng trống thảnh thơi con hạc nội,

Lúa đầy túng tíu phận gà lồng.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

 

 

LÚA GẠO

Lúa: Giống cây trồng sinh ra thóc gạo. Gạo: Thóc đã xay, giã rồi.

Lúa gạo nói chung về thóc và gạo, dùng làm lương thực chủ yếu cho con người.

Thánh giáo Thầy có câu: Những sanh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối vật chất có tánh linh, vì vật chất nuôi nấng nó cũng đều là sanh vật, tỷ như: rau cỏ, cây trái, lúa gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh.

Làm ra lúa gạo dày công,

Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LÚA LÀM HẠT GIỐNG ĐỨC TIN

Trong Kinh Phật có chép câu chuyện “Phật gieo mạ” để làm hạt giống đức tin như sau:

Ðức Phật ôm bình bát khoan thai đi vào xóm để khất thực, lúc Ngài đi ngang qua nhà của ông Bà La Môn là Ba Ra Va Da (Bharavadja), Ngài bèn dừng chân lại trong lúc lão Bà La Môn cùng một số người chuẩn bị gieo mạ. Lão Bà La Môn thấy Phật ôm bình bát bèn nói: Này Sa Môn kia, tại sao còn khoẻ mạnh không chịu làm lụng như bao nhiêu người khác. Ta phải chịu cực khổ cáy cấy mới có cơm ăn. Ðức Phật bèn từ tốn trả lời rằng: Ta đây cũng cầy cấy gieo mạ, ta cũng có lúa ăn như ngươi vậy. Ba Ra Va Da cất tiếng cười ngạo nghễ hỏi tiếp: Vậy chớ trâu, bò, cầy, bừa và lúa giống của Sa môn ở đâu?

Ðức Phật bình thản giảng giải: Hột giống của ta gieo là Ðức tin, Trí tuệ là cái ách cày và cây cày, những việc lành là mưa thuận gió hoà thấm nhuần cho lúa càng ngày càng tốt tươi, sự tinh tấn là con bò. Ta cầy cấy đặng trừ tuyệt cỏ xấu đang đâm chồi nẩy lộc trong tâm của chúng sanh.

Nghe xong, Ba Ra Va Da vội lấy dĩa bằng vàng, đựng cơm đề hồ (cơm nấu bằng sữa) đến thành kính sớt vào bát của Ðức Phật và nói rằng: Kính bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ nhận lấy lễ vật mọn này để con được gieo duyên lành cho kiếp vị lai.

Bên ngoài về phía sau hành lang Báo Ân Từ có bức tranh vẽ lấy tích “Phật gieo mạ”, lấy ý nghĩa hạt lúa làm giống cho đức tin.

Lời Phật thuyết cảm hoài hành động,

Lúa dùng làm hạt giống đức tin.

Mạ chính ấy phép trường sinh,

Cỏ tư tưởng xấu, tâm linh miếng vườn.

(Báo Ân Từ).

 

 

LÙA

Lùa là dồn vào, luồn vào, đưa vào.

Như: Lùa vịt ra đồng, lùa đàn trâu về chuồng, gió lùa qua cửa sổ, lùa cơm vào miệng.

Nắng gắt như khơi niềm cố lý,

Gió lùa thêm cám nỗi ly hương.

(Thơ Hoàng Nguyên).

 

 

LỤA

Lụa là hàng dệt bằng tơ mỏng, mềm và mịn.

Như: Quần là áo lụa, tranh vẻ trên lụa.

Thánh giáo Thầy có đoạn: Của cải ấy gồm những gì? Vàng bạc chỉ là loại kim khí tầm thường. Hồng là một chất màu. Còn lụa là chất do loài vật cấu thành ra.

Đòi quần hàng áo lụa cho xinh,

Đồ trang sức đeo mình cho đáng giá.

(Phương Tu Đại Đạo).

Người ta giàu cái quần cũng đũi, cái áo cũng đũi,

Ðôi đứa mình nghèo đốn củi, đốt than.

Nghèo hèn xin bậu chớ than,

Rảnh đồng công mối nợ, anh mua lụa hàng may cho.

(Trích Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LUÂN

1.- Luân là lẽ, thứ bậc, không dùng một mình. Như: Luân lý, nhơn luân, luân thường đạo đức.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Nhơn luân giữ trọn, ấy là mối đạo nhân, lo Thánh đức trau lòng là phương thoát tục.

Gương đẹp đẽ Mãi Thần thuở trước,

Trọng nhơn luân sau phước nên quan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Luân là chìm đắm, không dùng một mình. Như: Luân táng, trầm luân khổ hải.

Thánh giáo Thầy có câu: Nếu Thầy chẳng lấy đại từ đại bi mà lập nền Ðạo thì sổ của kẻ đặng vớt khỏi trầm luân và kẻ Chí Thánh đã bị Thầy bôi xoá hết.

Một câu thất đức thiên niên đọa,

Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Trầm luân khổ phận lắm hay không,

Chẳng nghĩ xưa kia mến bụi hồng.

(Đạo Sử).

3.- Luân 輪 là bánh xe, xoay vần, không dùng một mình. Như: Luân chuyển, luân hồi, luân phiên, pháp luân thường chuyển.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Tại sao phải hoán đàn, nam, nữ chen nhau? Ðó là bùa pháp luân thường chuyển. Tại sao Chí Tôn để bùa pháp luân thường chuyển tại thế này, đặng chi vậy? Hiện đã mãn Hạ Nguơn tam chuyển, bắt đầu Thượng Nguơn tứ chuyển ta gọi là khai nguơn nên phải để cho pháp luân chuyển.

Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,

Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

4.- Luân là sợi tơ sắc xanh, việc kéo tơ. Như: Kinh luân, luân âm (sắc mệnh của vua).

Lấy từng mối tơ chia ra gọi là kinh, so những sợi tơ một thứ mà họp lại gọi là luân. Như vậy, kinh luân có nghĩa là sửa sang, sắp đặt về chính trị.

Linh dược đầy bầu là cội ái,

Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Kinh luân đứt nối khó truyền,

Gãy câu Khương Tử, đắm thuyền Ngư Công.

(Ngụ Đời).

 

 

LUÂN CHUYỂN

輪 轉

Luân: Bánh xe. Chuyển: Quay.

Luân chuyển là bánh xe quay tròn.

Nghĩa bóng: Tiếp tục quay không ngừng như bánh xe quay tròn vòng.

Trong Thánh Ngôn, Thầy có dạy: Thầy nắm máy huyền vi, hằng lấy cân thiêng liêng mà day trở máy Càn khôn, vì vậy thế cuộc phải tuần hoàn, bầu nhơn sự phải luân chuyển vần xây phiêu linh cho đến buổi nhơn loại được vẹn toàn.

Thi hoạ vừa khi bước hứng nhàn,

Vòng trần luân chuyển luống lo toan.

(Đạo Sử).

Để chơn vào chốn Niết Bàn,

Thoát vòng luân chuyển may đàng tầm duyên.

(Lục Nương Giáng Bút).

 

 

LUÂN HỒI

輪 迴

Luân: Bánh xe xoay vần. Hồi: Quay tròn vòng này trở lại vòng khác.

Theo Phật giáo, Luân hồi là sự xoay chuyển của chúng sanh trong sáu cõi (Lục đạo), sinh tử, tử sinh tiếp nối không ngừng, cho đến khi đạt được giải thoát.

Sở dĩ chúng sinh bị luân hồi sinh tử là tại nghiệp. Nghiệp là động cơ lôi chúng sanh đi trong vòng lục đạo, tức là quanh đi lộn lại trong sáu cõi giới.

Kinh Pháp Cú của Phật có câu: “Đêm dài cho kẻ thức, Đường dài cho kẻ mệt. Luân hồi dài, kẻ ngu, Không biết chân diệu pháp”.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả báo không sai, biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đoạ luân hồi mà ra đến đỗi ấy.

Luật Nhơn quả để răn Thánh đức,

Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu.

(Kinh Tận Độ).

Xuống Địa ngục, đoạ đày hành mãi,

Đúng số rồi, còn phải luân hồi.

(Kinh Sám Hối).

Vay trả nợ đời sạch mới thôi,

Trái oan gầy vướng đoạ luân hồi.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

LUÂN LÝ

倫 理

Luân: Đạo lý. Lý: Lẽ.

Luân lý là những điều hợp với đạo lý, tức những lề lối làm mức để tránh điều xấu và làm điều tốt.

Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh viết trong quyển Thiên Đạo có câu: Cho nên Thánh nhơn thường dùng hai tiếng Đạo Đức để chỉ cách cư xử ở đời thế nào cho trên hiệp với lẽ Trời, dưới hiệp cùng luân lý.

Thương luân lý xem thường bỏ phế,

Thương kẻ nàn hoà lệ chia ưu.

(Bát Nương Giáng Bút).

Trách thay kẻ phá nền luân lý,

Hận bấy người xô đạo Ngũ thường.

(Vô Danh Cư Sĩ).

 

 

LUÂN THƯỜNG

倫 常

Luân: Đạo lý. Thường: Phép tắc thông thường mà ai cũng phải biết.

Luân thường là những phép tắc thông thường hợp đạo lý ở đời.

Thánh giáo Chí Tôn có câu: Trò đời lăng xăng, cõi thế biết bao người chìm đắm vào biển khổ, mang nặng xác phàm, miếng đỉnh chung, mồi danh lợi, giành giựt phân chia, mà chẳng kể đạo lý, luân thường, khiến cho mối Ðạo quý báu ngàn năm, đã thành nấc thang để dắt người xuống hang sâu vực thẳm.

Các thơ truyện huê tình xé huỷ,

Kẻo để đời làm lụy luân thường.

(Kinh Sám Hối).

Đời mạt kiếp luân thường điên đảo,

Khắp nhơn gian tội báo dẫy đầy.

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

LUẬN

1.- Luận là lời bàn, lời giảng giải. Như: Bàn luận, làm bài luận.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có đoạn dạy: Ðã lâu, Bần đạo không được giáp mặt chư đạo hữu để luận một vài câu chuyện về đạo đức. Hôm nay, Bần đạo cũng để dạ khen một ít hiền hữu đã để hết tâm chí trau giồi Thánh chất, mà cũng buồn nhiều đạo hữu còn chăm nom bước thế hơn đường tu.

Học thiện là nguồn gieo Chánh Ðạo,

Nghe chi miệng quỷ luận tam xàm.

(Đạo Sử).

Luận cùng lý dầu cho mạng sống,

Nhờ vợ hiền dạng bóng mới còn bền.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Luận còn có nghĩa là xét công, định tội. Như: Luận công, luận tội.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Phép công chiếu án luận vào, Có hai đường ấy muốn sao mặc mình.

Tấn Văn Công muốn thưởng những người chịu nhọc với mình trong buổi phiêu lưu nên đại hội quần thần, luận công ban chức.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LUẬN BÀN

Luận: Bàn bạc, biện bác. Bàn: Bày tỏ điều phải trái hay dở để quyết định.

Luận bàn, do chữ “Bàn luận”, là trao đổi qua lại những ý kiến về một vấn đề gì, có sự phân tích lý lẽ.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy: Phàm một việc chi muốn thuận lòng trong Ðạo, cần phải hiệp các Thánh luận bàn, đoạn sẽ thi hành thì bước Ðạo tự nhiên vững vàng. Nếu có điều trắc trở, đó là phần trách nhậm của chư hiền hữu đã chịu lời cùng Ðức Từ Bi mà dẫn bước cho cả môn đệ Thầy.

Ác ai để mặc kẻ lo toan,

Miệng thế đừng nghe tiếng luận bàn.

(Đạo Sử).

Bần Đạo vốn từ xưa quen tánh,

Trong luận bàn chẳng tránh điều vui.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LUẬN BIỆN

論 辨

Luận: Bàn bạc. Biện: Xem xét để phân biệt.

Luận biện tức là phân biệt, bàn bạc cho rõ ràng.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: May thay Bần Đạo hồi ở tại Thủ Đức nhờ Đức Chí Tôn cho Đức Lý Giáo Tông đến giáo hoá thì hai đứa luận biện về lý thuyết ấy rất đáo để.

Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,

Câu văn từ luận biện thật thà.

(Kinh Sám Hối).

Dầu đẹp xấu để đời luận biện,

Vui duyên con, thân miễn an vui.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Lựa chuyện xưa tích cũ cho hay,

Điều mở trí thường hay luận biện.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LUẬN ĐÀM

論 談

Luận: Lời giảng giải, bàn, nói về. Đàm: Bàn, lời bàn.

Luận đàm, như chữ “Đàm luận”, là bàn luận, trao đổi ý kiến qua lại về một vấn đề gì.

Trong cuộc tiếp xúc với vua Miên, Thuyết Đạo Hộ Pháp có viết: Trong sự luận đàm với Bần Đạo, Bần Đạo thấy vị Vương Đế yêu nước, yêu dân một cách lạ lùng làm sao, Bần Đạo nói chuyện với Ngài chọn tiếng nào đáng nói mới nói và Bần Đạo lấy làm hữu hạnh được biết Ngài và có thể làm cho hai nước Việt Nam và Miên quốc hiệp với nhau đem hạnh phúc lại cho hai nòi giống.

Thơ từ chúc tặng tình yêu mến,

Đạo lý luận đàm dạ đắm say.

(Thơ Phước Huệ).

 

 

LUẬN LÝ

論 理

Luận: Bàn bạc. Lý: Điều mà được coi là hợp lẽ phải.

Luận lý là lấy lý lẽ ra để bàn luận.

Luận lý, như chữ “Lý luận” là một khoa học nghiên cứu các quy luật và hình thức của các tư duy, nghiên cứu sự suy luận đúng đắn.

Về nhà chọc cho con luận lý,

Mở trí con xét kỹ hiểu cùng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LUẬN NHẢM BÀN KHÙNG

Luận bàn: Trao đổi ý kiến qua lại. Nhảm: Bậy, sai lầm. Khùng: Hơi điên.

Luận nhảm bàn khùng ý nói bàn luận một điên khùng nhảm nhí, không đạt chân lý, không đúng sự thật.

Thánh giáo Thanh Sơn Đạo Sĩ trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Thiên cơ mầu nhiệm biết sao được, luận nhảm bàn khùng không sợ Thiên điều hành pháp. Cái tệ nhứt là mượn thế lực của đời mong áp đảo Thánh thể.

Nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm bàn khùng mà mang tội thiêng liêng rất uổng, nghe!

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LUẬN THUYẾT

論 說

Luận: Bàn bạc. Thuyết: Lý thuyết.

Luận thuyết, đồng nghĩa với chữ “Luận biện 論 辨”, là lời bàn luận.

Luận thuyết còn để chỉ một lối văn nghị luận.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Đức Quan Âm Bồ Tát đã cầm quyền nhứt thống oai nghiêm chẳng cần luận thuyết, cả thảy cùng đều biết cái quyền oai của Ngài vĩ đại như thế này, nhứt là phái nữ nên để ý bài giảng nầy cho lắm.

Tam giáo sưu tầm rành luận thuyết,

Công phu quý trọng sánh ngàn cân.

(Thơ Thượng Sanh).

Xuân Thu bao biếm rõ ràng,

Trung Dung luận thuyết bảo toàn thánh tâm.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LUẬT

1.- Luật là nói tắt chữ “Quy luật”. Như: Luật tiến hoá, luật cung cầu, luật Thiên điều, luật Trời.

Thánh giáo Thầy có câu: Ai đặng phước thêm cao trọng, ai vô phần thì trí não vẫn mờ hồ, nét hạnh đời càng mê muội, biết biết không không, luật Trời đã định, phần công quả trả cho rồi thì cảnh u nhàn là nơi rước khách tục trong lúc chung quy đó.

Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,

Cũng là vay trả luật xưa nay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dữ đoạ hiền thăng ấy luật Trời,

Lánh đường tà vạy hưởng an vui.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Luật là khuôn phép của nhà nước, hoặc tôn giáo đặt ra bắt mọi người phải theo, ai phạm sẽ có tội.

Như: Luật nhà nước, luật tôn giáo, luật chốn Âm cung, luật xử nặng nề.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã muốn cho hoàn toàn phải cần có luật, mà hễ có luật thì cần phải do theo đó mà hành đạo mới khỏi điều sơ thất đặng.

Tánh độc ác tội dư tích trữ,

Chốn Âm cung luật xử nặng nề.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LUẬT ĐẠO

Luật: Pháp luật, phép nước, hoặc quy điều tôn giáo đặt ra bắt mọi người phải theo. Đạo: Tôn giáo.

Luật Đạo là những luật lệ, hay quy điều của tôn giáo được đặt ra để mọi tín đồ phải theo.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bây giờ nói tới hình của Luật Đạo. Cái quyền của Đạo, quỳ hương, tụng Kinh Sám Hối, đáo để trục xuất Nội Thành nơi Thánh Địa, rồi còn dữ hơn nữa trục xuất ra khỏi Đạo chớ chưa có giết ai, chưa có tù tội ngục hình, cũng chưa có đem ai mà bắn, mà giết bao giờ, ấy là Luật của Đạo.

Luật Đạo lại có lời rẻ rúng,

Phép nghiêm làm lợi dụng mưu gian.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LUẬT ĐIỀU

律 條

Luật: Pháp luật, luật lệ, phép tắc. Điều: Đoạn, khoản, mục của luật pháp.

Luật điều, do chữ “Điều luật 條 律”, là chỉ những điều khoản trong một văn bản pháp luật.

Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có dạy: Hại nỗi mỗi phận sự của chúng ta đều có luật điều định hạn, do thành cả phận sự ấy Đạo mới thành.

Luật điều Cổ Phật không chừa tội,

Hình phạt Chí Tôn chẳng vị tình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đời gìn kinh kệ noi gương trước,

Đời giữ luật điều tránh hoạ sau.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

LUẬT ĐỊNH

律 定

Luật: Sự kiện cần thiết do sự vật chung quanh tạo nên và không thể tránh khỏi, pháp luật, phép nước đặt ra để mọi người theo. Định: Quy định, ấn định.

Luật định là pháp luật của nhà nước hay của các tôn giáo đã quy định.

Thánh giáo Lý Thái Bạch có câu: Hiền hữu cũng nên giữ lời Thánh giáo của Ðức Từ Bi, hễ ai biết phục theo luật định của Hội Thánh Công Ðồng thì đặng phép dâng sớ cho Lão định đoạt.

Luật định, còn gọi là “Định luật 定 律”có nghĩa là luật nhứt định do sự tiến hoá tự nhiên.

Sống gửi thác về tuy luật định,

Gia đình cam chịu vắng người thân.

(Thơ Vạn Năng).

 

 

LUẬT ĐỜI

Luật: Pháp luật, phép nước đặt ra bắt mọi người phải theo. Đời: Cõi đời, thế gian.

Luật đời là luật pháp nhà nước.

Luật đời, do chữ “Thế luật 世 律” là luật về phần đời của người theo Đạo.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, dạy về phẩm Chưởng Pháp, Đức Chí Tôn có câu: Như thảng có kinh luật chi làm hại phong hoá thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản. Buộc cả tín đồ phải vùa sức mà hành sự trước mặt luật đời. Thầy khuyên các con ráng xúm nhau vùa giúp chúng nó.

Trước mặt luật đời xem rõ thấy,

Thưởng răn phép Phật rõ ngay gian.

(Đạo Sử).

 

 

LUẬT HÌNH

Luật: Pháp luật, luật lệ, phép tắc. Hình: Cách phạt người có tội.

Luật hình, như chữ “Hình luật 刑 律”, là những điều luật pháp minh định về việc hình phạt người có tội.

Thánh giáo Thầy dạy: Mấy con biết luật hình thế gian còn chưa tư vị thay, huống là Thiên điều thì tránh sao cho lọt?

Nẻo đoạ trầm luân đo chắc thước,

Luật hình Ngục điện sửa vừa phân.

(Thiên Thai Kiến Diện).

Nghiêm minh Thiên Đạo luật hình chung,

Có tội thì răn chớ lạ lùng.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LUẬT LỆ

律 例

Luật: Pháp luật. Lệ: Lề lối sẵn có từ trước.

Luật lệ là luật pháp và những lề lối có sẵn đã quen với mọi người.

Thánh giáo Thầy có câu: Luật lệ tuy cũ chớ đạo vẫn như nhiên. Do công đức mà đắc đạo cùng chăng. Nhưng có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít.

Chỉnh đốn nội dung theo luật lệ,

Gieo truyền Đại Đạo khắp đông tây.

(Thơ Nguyệt Quang).

 

 

LUẬT LỊNH

Luật: Pháp luật. Lịnh (Lệnh): Mệnh lệnh.

Luật lịnh, như chữ “Luật lệnh 律 令”, là luật pháp và mệnh lệnh của trên ban xuống.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ta vì luật lịnh Thiên mạng đã ra cho nên cam để vậy, làm cho Phật tông thất chánh có trên ba ngàn năm nay.

Không vị kỷ nào sờn luật lịnh,

Tỷ không mua ai tính đòi tiền.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LUẬT NHƠN QUẢ

Luật: Sự kiện cần thiết do sự vật chung quanh tạo nên và không thể tránh khỏi. Nhơn: Là hạt giống, cái mầm, có năng lực tác động. Quả: Là trái, kết quả, là sự hình thành.

Luật nhơn quả, như chữ “Nhơn quả Luật 因 果 律”, tức là luật về nguyên nhân và kết quả. Mỗi hiện tượng đều có nguyên nhân của nó. Hễ có nguyên nhân, tất nhiên sẽ có kết quả tương thích với nguyên nhân ấy, đó là luật nhân nào quả nấy.

Luật nhân quả không bị hạn chế bởi thời gian, có khi nhanh, cũng có khi chậm. Có nhiều loại nhân quả:

Nhân quả hiện tại gọi là Hiện báo 現 報: Nghiệp nhân trong đời này đưa đến quả báo ở hiện kiếp.

Nhân quả trong hai đời gọi là Sanh báo 生 報: Đời trước tạo nhân đời nay mới thọ quả. Đời này gây nhân đời sau nhận quả.

Nhân quả trong nhiều đời gọi là Hậu báo 後 報: Từ rất nhiều đời trước gây nhân, đời nay mới gặt quả, hoặc đời này tạo nhân nhưng mãi nhiều đời sau mới thọ quả.

Luật nhơn quả để răn Thánh đức,

Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu.

(Kinh Tận Độ).

 

 

LUẬT PHÁP

律 法

Luật: Phép nước hay Tôn giáo đặt ra bắt mọi người phải theo. Pháp: Phép, điều được quy định mà mọi người phải theo.

Luật pháp hay “Pháp luật 法 律”, tức là khuôn phép do nhà nước đặt ra mà mọi người phải tuân theo, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt.

Trong Tôn Giáo cũng có pháp luật quy định cho người theo đạo phải tuân thủ.

Thánh giáo bảo tồn thất ức niên,

Nhờ nơi luật pháp hiệp chơn truyền.

(Thơ Thượng Sanh).

Luật pháp Cao Đài với đức tin,

Chí Tôn tiền bối lập phương trình.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LUẬT SỰ

律 事

Luật: Pháp luật, luật lệ. Sự: Việc.

Luật sự là người chuyên lo về luật.

Luật Sự còn là một phẩm chức sắc thấp nhứt của Hiệp Thiên Đài do Đức Hộ Pháp lập ra, từ khoa mục tuyển chọn. Luật Sự đối phẩm với Đầu Phòng Văn hay Chánh Trị Sự, có nhiệm vụ hành sự tại các văn phòng ba chi Pháp, Đạo, Thế của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.

Đại phục của Luật Sự: Áo tràng trắng, hai bên vai có dấu hiệu Tam giáo và cổ pháp Tam giáo, trên cổ pháp có cân công bình, đầu đội Nhựt Nguyệt Mão.

Tiểu phục: Áo trường Y trắng có sáu nút, lưng mang dây nịt trắng, đầu đội Khôi Nguyên Mạo có thêu Thiên Nhãn ở trước và có dấu cổ pháp, trên cổ pháp có cân công bình và thiêu hai chữ Luật Sự bằng chữ Quốc ngữ.

Chức Luật Sự Nhân Tài khoa giáp,

Chánh, Thông sự luật pháp phải tùng.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

Tay vin nhành quế khá khen ai,

Luật Sự khoa thi đã trổ tài.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LUẬT THƯƠNG YÊU

Luật: Pháp luật, luật lệ. Thương yêu: Có tình cảm gắn bó tha thiết và sự quan tâm hết lòng.

Luật thương yêu là lấy sự thương yêu (bác ái) ra làm điều luật.

Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là đạo Cao Đài là mục đích lấy bốn chữ “Bác ái, Công bình” làm tiêu chuẩn cho Luật và Quyền trong việc phổ độ nhơn sanh. Điều nầy được thể hiện trên hình Tam Thánh ký Hoà ước công bố cho toàn nhơn loại.

Luật là Thương yêu (Bác ái).

Quyền là Công chánh (Công bình).

Chính Đức Hộ Pháp trong Thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 8 tháng giêng năm Kỷ Sửu (1949) có đoạn: Đức Chí Tôn Ngài đến do tay Ngài ký một hoà ước với một sắc dân nô lệ, sắc dân hèn mọn, đặng Ngài nài nỉ xin cho đặng hai điều trọng yếu làm cho nhơn loại đặng sống tồn tại là luật thương yêu và quyền công chánh.

Chúng ta thử tìm hiểu xem tại sao chỉ cần giữ “Luật Thương yêu và quyền Công chánh” tức là hành xử trọn vẹn được “Bác ái, Công bình” thì đủ trở về ngôi xưa vị cũ.

Bác ái vốn là thương yêu mà nền Đạo Đạo nêu ra không phải là tình yêu thương thấp hèn, vị kỷ. Loại tình thương đó chỉ mang lợi lộc cho mình, chỉ thâu vào hơn ban ra, chỉ nghĩ đến cá nhân mình, đến gia đình mình hay tập thể mình. Loại tình thương đó dễ đưa đến hận thù, chiến tranh. Thương yêu ở đây trước tiên là tình thương yêu thuận hoà của những người đồng đạo. Những người nhập một đạo tức là thọ giáo cùng một Thầy, nên phải xem nhau như con một cha, một nhà, phải giúp đỡ nhau để tình đồng đạo ngày thêm khắng khít, để tránh cái hại là chia phe lập đảng.

Thi Văn Dạy Đạo có câu:

Chẳng quản đồng tông mới một nhà,

Cùng nhau một Ðạo tức một Cha.

Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,

Dạy lẫn nhau cho đặng chữ hoà.

Tình thương yêu ấy phải thể hiện lòng bác ái, tức phải có lòng thương người vô biên, không điều kiện, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, giai cấp chủng tộc. Tình thương cũng phải thể hiện lòng từ bi, tức luôn luôn đau xót trước sự khổ não của chúng sanh, lúc nào cũng tìm cách cứu giúp họ thoát khỏi khổ não, nhưng không bao giờ để ý đến những sự bạc bẽo vô tình của người đời. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: “Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình. Cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Ðất”.

Luật thương yêu quyền là công chánh,

Gần thiện căn xa lánh phàm tâm.

(Thơ Hộ Pháp Dịch).

 

 

LÚC

Lúc là hồi, chốc buổi, thời, khi, tức chỉ khoảng thời gian ngắn. Như: Lúc tối, lúc thịnh lúc suy, lúc đói lúc no, lúc đời Nguyễn.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nhơn loại đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh đức trong một lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng.

Quy điền có lúc phong trần rảnh,

Ðinh sắt một lòng, chí chớ lay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thiên Cơ đã lộ lúc khai Trời,

Kêu khách phàm trần đã hụt hơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Nay đà gặp lúc Thiên ân rưới,

Gắng bước đường tu hưởng phước đời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LÚC THÚC

Lúc thúc là quanh quẩn bên nhau, ở tình trạng không rời xa nhau. Như: Mẹ con lúc thúc ở bên nhau.

Lúc thúc còn có nghĩa là hì hục, đều đặn, từ diễn tả theo đuổi công việc một cách bền bỉ. Như: Anh ấy lúc thúc nhổ mấy cây cỏ ngoài ruộng hoài.

Phải dạy biết điều trong lẽ đục,

Hầu ngày sau em lúc thúc dạy con nhà.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỤC

1.- Lục là lật và đảo lộn mọi thứ đồ vật để khám xét hay tìm kiếm một cái gì.

Như: Lục tung quần áo tìm cây quạt, lục nát tủ sách kiếm quyển Kinh.

Lục xem các sách Thánh Hiền xưa,

Ðều dặn lành tu dữ ấy chừa.

(Đạo Sử).

2.- Lục là sáu, số đếm, đứng trên số ngũ, dưới số thất. Như: Lục căn, lục dục, lục kinh, lục tổ.

Huấn từ của Đức Thượng Sanh trong buổi lễ Bãi trường và Phát thưởng tại Đạo Đức Học Đường có câu: Thời nay học sanh vừa đến lớp đệ lục hoặc đệ ngũ trung học, khi đi đâu gặp Ông Thầy cũ đã dạy mình ở Tiểu học thì đã vội tẻ ngả khác, hoặc đi qua mặt, hiên ngang coi Thầy cũ như kẻ đi đường.

Dây oan xe chặt buộc mình,

Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

(Kinh Tận Độ).

3.- Lục là màu xanh lá cây, biếc.

Như: Nước sông màu lục, thưa hồng rậm lục (màu hồng đã thưa, màu xanh đã đậm).

Truyện Kiều có câu: Lần lần ngày gió đêm trăng, Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.

Thanh sơn nguyên bất lão, vị tuyết bạch đầu,

Lục thuỷ bổn vô sầu, nhơn phong sô diện.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

4.- Lục là ghi, chép lại. Như: Sao lục, trích lục.

Trong Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Thầy sẽ trả bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết, chớ không khi nào Ðức Chí Tôn trả cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy. Xin cho toàn Ðạo nam nữ sao lục nguyên văn để phổ thông chơn lý.

Ðược, nhưng Thánh Ngôn và Văn Thi đều phải trích lục cho kỹ càng, phải có Hội Thánh phê nhận rồi sẽ in thì khỏi điều sơ sót quan hệ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LỤC CĂN

六 根

Lục: Sáu. Căn: Gốc rễ, sinh ra khổ sở, phiền não.

Lục căn là sáu giác quan của con người: Nhãn 眼, nhĩ 耳, tỵ 鼻, thiệt 舌, thân 身, ý 意, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Khi lục căn (hiện tượng sinh lý) tiếp xúc với lục trần (hiện tượng vật lý) thì phát sinh ra lục thức (hiện tượng tâm lý). Do có lục thức, tức là sáu cái biết phân biệt này mà con người khởi tâm mê đắm cái đẹp, mùi thơm, ngon ngọt, êm ái...

Lao tâm hoả vọng thượng đầu tiêu,

Khả dụng lục căn hiệp mộc điều.

(Đạo Sử).

Vì bởi lục căn lòng chẳng bợn,

Cho nên mới đặng nhập Tiên bang.

(Thơ Ca Bảo Đạo).

 

 

LỤC DỤC

六 欲

Lục: Sáu. Dục: Ham muốn.

Lục dục là sáu điều ham muốn.

Lục trần là Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp khêu gợi lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý mới sinh ra Lục thức, Lục thức sinh ra Lục dục. Lục dục sinh ra nhiễm ái, gây ra sự tội lỗi và đau khổ. Lục dục gồm có:

Sắc dục: Ham muốn nhìn thấy sắc đẹp.

Thinh dục: Ham nghe âm thinh êm tai.

Hương dục: Ham ngữi mùi hương thơm tho.

Vị dục: Ham món ăn ngon miệng.

Xúc dục: Ham muốn tiếp xúc xác thân.

Pháp dục: Ham muốn ý nghĩ được thoả mãn.

Thí dụ: Sắc dục là do mắt thấy sắc đẹp sinh ra mê đắm, thinh dục là tai âm thanh êm dịu rồi dục vọng dấy khởi, sau đó tội lỗi do đây mà hình thành.

Vì vậy, người tu hành phải thường xuyên tu tập, gọi là thọ trì sáu căn.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có dạy: Quý vị không tu thân khắc kỷ thì trên bước đường đời chông gai hiểm trở, quý vị không thể tránh khỏi những cạm bẫy do thất tình lục dục luôn luôn đặt dưới chơn quý vị.

Dây oan xe chặt buộc mình,

Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

(Kinh Tận Độ).

Cam Lồ rưới giọt nhành dương,

Thất tình lục dục như dường tiêu tan.

(Kinh Tận Độ).

Thất tình lục dục là mồi mị,

Bí pháp chơn truyền tảo đảnh vân.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LỤC ĐẠO

六 道

Lục: Sáu. Đạo: Đường.

Lục đạo là sáu con đường, sáu nẻo luân hồi. Nói cách khác là sáu thế giới sống của các loài chúng sanh chưa được giải thoát, còn phải nhận chịu quả báo đau khổ, còn phải tái sinh vào một trong sáu cõi của vòng luân hồi sanh tử. Lục đạo gồm có sáu cõi sau đây:

- Cõi người: Một thế giới có mặt đầy đủ sự đau khổ và hạnh phục.

- Cõi trời: Dùng để chỉ một thế giới sung sướng. Nhưng không phải là một cõi an lạc vĩnh hằng, mà đây là sự vui thích do ảo ảnh mê lầm, vì vậy nó chỉ là một hạnh phúc tạm thời.

- Cõi Thần A tu la: Một thế giới của sự cuồng bạo, hiếu thắng, hận thù. Cõi A tu la ám chỉ tinh thần vị kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình.

- Cõi địa ngục: Thế giới của đau khổ.

- Cõi ngạ quỷ: Thế giới của đói khát, thèm thuồng. Trạng thái tinh thần lúc các dục vọng nảy sanh trong trí óc. Tham dục là ham muốn vật chất tiền bạc, danh vọng.

- Cõi súc sanh: Thế giới của ngu si, hôi hám, tức trạng thái tinh thần thiếu trí tuệ.

Trạng thái tinh thần nầy được gọi là “trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi”. Nếu chúng ta không tu thì chúng ta sẽ vĩnh viễn luân hồi trong sáu thế giới nầy.

Tánh dốt nát ngu hèn người tạo,

Giam hãm vào lục đạo luân hồi.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LỤC ĐỘ

六 渡

Lục: Sáu. Độ: Hán dịch là Ba la mật đa, có nghĩa là cứu cánh, là hoàn thiện. Độ là vượt qua từ bờ vô minh qua bờ giác ngộ, từ cảnh giới đau khổ qua cảnh giới an lạc.

Theo Phật, Lục độ là sáu hạnh vượt bờ của bậc Bồ Tát, nếu thực hành sáu pháp này một cách trọn vẹn, đầy đủ thì có thể đưa mình và chúng sanh vượt qua sanh tử luân hồi đến bờ giải thoát.

Lục độ gồm có: 1.- Bố thí ba la mật. 2.- Trì giới ba la mật. 3.- Nhẫn nhục ba la mật. 4.- Tinh tấn ba la mật. 5.- Thiền định ba la mật. 6.- Trí tuệ ba la mật.

Bát nhã rước đưa đò Lục độ,

Nương mây dạo khắp cõi Ta bà.

(Thơ Huyền Quang Tử).

 

 

LỤC HÌNH

Lục: Sáu. Hình: Hình thức.

Lục hình là sáu hình thức gây ra tội lỗi của con người ở cõi trần. Sáu hình thức gây ra bên ngoài gọi là Lục trần hay Lục ngoại nhập, còn sáu hình thức bên trong con người gọi là Lục căn, còn gọi là Lục nội nhập.

Lục trần hay Lục ngoại nhập là: Sắc, Hương, Vị, Xúc, Pháp.

Lục căn, hay Lục nội nhập là: Nhãn (mắt), Nhĩ (tai), Tỷ (mũi), Thiệt (lưỡi), Thân (người), Ý (ý nghĩ).

Khi Lục căn (hiện tượng sinh lý) tiếp xúc với Lục trần (hiện tượng vật lý) thì phát sinh ra thức (hiện tượng tâm lý) là cái biết khiến có sự đòi hỏi mà sa vào tội lỗi.

Quản bao thập ác lục hình,

Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.

(Kinh Tận Độ).

 

 

LỤC KINH

六 經

Lục: Sáu. Kinh: Sách do Thánh hiền hay chư Tiên Phật viết ra.

Lục Kinh tức là sáu bộ kinh điển của Nho gia, đó là Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu. Kinh Nhạc bị thất truyền, sau chỉ còn lại năm bộ kinh, gọi là Ngũ Kinh.

Về sau Ngài làm ra bộ sách Xuân Thu, nhập với năm bộ sách trước gọi là Lục Kinh.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LỤC LẠC

Lục lạc là cái chuông nhỏ xâu thành chuỗi, khi rung phát ra tiếng nhạc.

Như: Diễn viên đeo lục lạc múa trên sân khấu, lục lạc ngựa khua vang.

Lục lạc khua ran cả Ngũ châu,

Nương chi vật chất phải âu sầu.

(Đạo Sử).

 

 

LỤC LÂM

綠 林

Lục: Màu xanh. Lâm: Rừng.

Lục Lâm là tên một dải núi tại Kinh châu, Trung Quốc. Theo Hán Thư, cuối đời Vương Mãng phương nam loạn lạc, dân chúng đói rét, nên thường tụ tập tại các vùng rừng sâu núi thẳm để cướp bóc, trong đó có bọn Vương Khuôn và Vương Phụng tụ tập tại rừng Lục Lâm hơn bảy, tám nghìn người đi cướp giựt các nơi.

Vì thế, người đời sau thường hay dùng chữ “Lục lâm” để chỉ bọn giặc cướp.

Ngày đêm ăn diện ra đường,

Dở trò cướp giựt theo phường lục lâm.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LỤC LONG

六 龍

Lục: Sáu. Long: Rồng.

Lục long là sáu rồng, được ví với sáu hào dương của quẻ Bát Thuần Càn.

Vua Phục Hy lập ra các quẻ kép (trùng quái), bằng cách chồng lần lượt quẻ đơn của Tiên thiên bát quái lên với nhau tạo thành 64 quẻ. Như vậy quẻ Bát Thuần Càn do chồng hai quẻ Càn lên nhau, nên ta có sáu vạch dương, hay nói cách khác, sáu hào dương.

Trong kinh Dịch, quẻ Càn có câu: Thời thừa lục long dĩ ngự thiên 時 乘 六 龍 以 御 天, nghĩa là luôn luôn cỡi sáu rồng để ngự trị Trời.

Vì vậy nơi trần nhà của Toà Thánh được xây hình bầu Trời liên tiếp chín khuôn đều có chạm sáu rồng màu xanh da trời.

Thời thừa Lục long,

Du hành bất tức.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Ngước lên trên khoảng la phông,

Mười khuôn chính giữa Lục long du hành.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

LỤC LONG PHÒ ẤN

Hay “Lục long phù ấn”.

Lục long: Sáu rồng. Phò (phù) ấn: Giữ cái ấn.

Lục long phò ấn, như chữ “Lục long phù ấn 六 龍 扶 印”, là sáu rồng phò cái ấn, ý nói sáu long mạch (tức mạch nước ngầm) giáp vào một chỗ đất.

Nguyên Toà Thánh Cao Đài Tây Ninh xây dựng trên một cuộc đất được Đức Lý Giáo Tông cho là vùng Thánh địa, Ngài dạy: “Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh Ðịa. Sâu hơn ba trăm thước như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa sáu nguồn làm như sáu con Rồng đoanh nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục Long Phò Ấn.

Ngay miếng đất đó đặng ba đầu; một đầu ra Giếng Mạch Ao Hồ; hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia”.

Vùng đất Thánh Lục Long Phò Ấn,

Sự nhiệm mầu các đấng chỉ rành.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Tam Giáo quy nguyên toà Bạch Ngọc,

Lục Long Phò Ấn pháp Hồng Quân.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LỤC NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

六 娘 瑤 池 宮

Hay “Lục Nương”.

Lục Nương, hay Lục Nương Diêu Trì Cung là vị Tiên Nương đứng hàng thứ sáu trong Cửu Vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung.

Nơi Chánh Điện tại Báo Ân Từ, Lục Nương mặc áo màu đỏ, ngồi bên mặt Đức Phật Mẫu, tay cầm phướn Tiêu Diêu (hay phướn Truy Hồn).

Lục Nương có nhiệm vụ cầm phướn Truy Hồn tiếp dẫn các Chơn hồn lên tầng Kim Thiên là tầng Trời thứ sáu trong Cửu Trùng Thiên, rồi đưa Chơn hồn vào cung Vạn Pháp để xem lại cựu nghiệp của mình, tiếp tục vào cung Lập Khuyết xem lại ngôi xưa vị cũ, và được chim Khổng tước chở lên đài Huệ Hương khử trừ trược khí rồi vào cõi Niết Bàn.

Trong một Đàn cơ ngày 24 tháng 2 năm 1934 tại Toà Thánh, phò loan: Hộ Pháp - Tiếp Thế, Lục Nương giáng cơ cho biết trước đây Bà có một kiếp giáng sinh ở nước Pháp, có tên là Jeanne d’Arc, một nữ Thánh và cũng là một vị nữ anh hùng của dân tộc Pháp.

Bà Jeanne d’Arc sinh năm 1412 tại Domrémy nước Pháp, trong một gia đình nông dân bình thường. Là một cô gái ngoan hiền và sùng tín đạo Thiên Chúa, Bà hằng ngày phụ giúp việc nhà, ngoài ra giờ rổi rảnh Bà thường đi lễ ở nhà thờ.

Năm 13 tuổi, một hôm đang ngồi yên lặng một mình, bỗng nghe một tiếng nói từ thiêng liêng vọng xuống, bảo Bà đi cứu vua Charles VII và giải nguy cho nước Pháp.

Mấy lần Bà xin yết kiến vua Charles để được đi giải cứu, nhưng Bà đều bị từ chối, sau cùng nhờ Đại Úy Baudricourt hướng dẫn gặp vua, nhà vua nghe qua liền chấp thuận và ban cho Bà cầm một đạo quân để đi dẹp giặc.

Khi quân đội Anh tiến vào thành Orléans của Pháp, sắp hạ được thành thì Bà Jeanne d’Arc xuất hiện cùng với một đội quân dũng cảm. Quân đội của Bà tiến đánh thẳng vào quân Anh như vũ bão, làm cho quân Anh bỏ chạy, rút lui ồ ạt. Thành Orléans nhanh chóng được giải cứu hoàn toàn. Dân chúng trong thành hoan hô Bà một cách nhiệt liệt, vua Charles VII và các quan được tin chiến thắng của Bà hết sức vui mừng.

Sau Bà được lịnh đem quân đến phá vòng vây của quân Anh tại thành Patay. Cũng như tại thành Orlesans, khi quân Bà kéo quân đến, với khí thế vừa chiến thắng, quân Anh phải rút lui mà chịu thảm bại.

Nhờ thắng hai trận đánh, Bà được nhân dân Pháp suy tôn là Nữ Anh hùng của dân tộc. Bà được vua Charles VII mời chứng Thánh lễ tôn vương của Ngài tại nhà Thờ Reims.

Sau đó, Bà ra mặt trận, nhưng chẳng may bị thương và được đưa về địa phương để điều trị. Chính do việc bị thương của Bà, phe Bảo Cựu cho rằng Bà dùng Thần quyền mê hoặc nhân dân Pháp, nên tổ chức bắt Bà đem nạp cho quân đội Anh là đồng minh của họ. Quân giải giao cho Toà án của Giáo Hội Thiên Chúa giáo tại Pháp xét xử.

Bà Jeanne d’Arc bị Toà án Giáo Hội Thiên Chúa Giáo tại Pháp kết án tử hình, thiêu sống trên giàn hoả tại Rouen vào ngày 30 tháng 5 năm 1431, lúc đó Bà mới được 19 tuổi.

Đến năm 1920, Bà được phong Thánh, ngày Lễ nầy trở thành ngày Quốc lễ của nước Pháp. được tổ chức vào ngày Chúa nhựt tuần thứ nhì của tháng 5 hằng năm.

Bà Lục Nương Diêu Trì Cung còn có một kiếp giáng trần ở Việt Nam, có tên là “Huệ” (không biết tiểu sử kiếp giáng trần nầy), nên trong bài thài hiến lễ Bà trong Hội Yến Diêu Trì Cung có đề tên Bà ở đầu câu kệ như:

Huệ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,

Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.

Nương mây như thả cánh hồng,

Tiêu Diêu phất phướn, cõi tòng đưa Tiên.

Dưới quyền Đức Phật Mẫu có chín Bà Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung trông nom về cơ giáo hoá cho vạn linh, trong đó Bà Lục Nương có phận sự cầm phướn Tiêu Diêu (hay phướn Truy Hồn) để cứu vớt các chơn hồn quy liễu về với Phật Mẫu vào thời Tam Kỳ Phổ Độ.

Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,

Phép Lục Nương gìn giữ chơn hồn.

(Kinh Tận Độ).

Lục Nương phất phướn truy hồn,

Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.

(Tán Tụng Công Đức).

 

 

LỤC NGA

蓼 莪

Lục nga là tên một bài thơ trong Kinh Thi, nói về công ơn của cha mẹ và bày tỏ lòng thương mến của con cái đối với công ơn trời biển đó.

Trong thơ Lục Nga có câu: Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao 哀 哀 父 母,生 我 劬 勞, nghĩa là thương thay cha mẹ, công sinh ra ta khó nhọc dường nào!

Đọc chữ Lục nga thương bạn ngọc,

Nhìn xe thiên cổ cuộn dòng châu.

(Thơ Chơn Tâm).

Tiễn xe “Thiên cổ” lòng tan nát,

Nhớ chữ “Lục nga” lệ sụt sùi.

(Thơ Thành Toại).

 

 

LỤC PHỦ

六 腑

Lục: Sáu. Phủ: Bộ phận trong vùng bụng.

Lục phủ là sáu bộ phận quan trọng trong vùng bụng của con người. Đó là: Bao tử (vị), mật (đởm), bọng đái (bàng quang), ruột non (tiểu trường), ruột già (đại trường) và tam tiêu.

Theo y học xưa, Tam tiêu gồm: Thượng tiêu là miệng trên dạ dày, trung tiêu là khoảng giữa dạ dầy, hạ tiêu là miệng trên bàng quang.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Tay chơn chưa cử động, hình thể còn tiêu mòn, mắt chưa muốn thấy, tai chưa muốn nghe, ngũ tạng lục phủ chưa thông đồng mà muốn vẫy vùng, lấn lướt thế nào đặng.

Ấy là lúc bịnh xung trong ngũ tạng lục phủ, nhập đến cao hoang, thì người bịnh dầu số Trời cứu cũng không qua đặng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LỤC TẶC

六 賊

Lục: Sáu. Tặc: Giặc.

Lục tặc là sáu tên giặc, hằng theo quấy nhiễu những người tu tập. Sáu tên giặc đó còn gọi là “Lục căn”, tượng trưng cho sáu giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với ngoại cảnh, sinh nhiễm ái, gây ra tội lỗi đau khổ.

Sáu ngoại trần như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thông qua sáu căn thâm nhập vào quấy phá thân tâm. Như mắt thấy sắc sinh ra đắm trước, dục vọng dấy khởi, rồi tội lỗi theo đó mà hình thành...

Thần cảnh thông Ðạo do tâm đắc,

Diệt lục trần, lục tặc ngoài trong.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Con ma lục tặc ở đâu,

Cứ theo đeo đuổi mọt sâu Đạo trường.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

Trừ lục tặc, thập tam ma,

Giục lòng người biết khử tà tầm chơn.

(Lược Thuật Toà Thánh).

 

 

LỤC TÍCH

陸 績

Lục Tích là tên một nhân vật trong nhị thập tứ hiếu, tự Công Kỳ, người nước Ngô thời Tam Quốc, lúc sáu tuổi, đã biết hiếu thảo. Có một hôm theo cha sang quận Cửu Giang gặp Viên Thuật, lén lấy hai quả quít giấu vào tay áo để đem về biếu mẹ, Viên Thuật khen là người con hiếu.

Khi lớn lên học rộng biết nhiều, chú thích Kinh Dịch, giảng luận đạo học. Ông được bổ làm Thái thú ở Uất Lâm, mất năm 32 tuổi.

Tuổi nên sáu hiếu nhi Lục Tích,

Viên Thuật mời đãi quít cho dùng.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

Lục Tích hiếu trong khi nên sáu,

Cắp quít dồn tay áo để dành.

(Báo Ân Từ).

 

 

LỤC TỔ

六 祖

Lục: Thứ sáu. Tổ: Tổ Sư, người đứng đầu một phái của tôn giáo.

Lục Tổ tức là Lục Tổ Huệ Năng, vị Tổ Sư đời thứ sáu của Phật giáo thiền tông Trung Hoa.

Theo lịch sử Phật giáo, Huệ Năng cùng với đại sư Thần Tú là học trò của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, vị Tổ Sư đời thứ năm của Phật giáo Trung Hoa.

Huệ Năng được Ngũ Tổ truyền y bát, tiếp nối làm Lục Tổ của Phật giáo Trung Hoa.

Huệ Năng sinh vào đời nhà Đường, niên hiệu Trinh Quán năm thứ 12 nhằm năm Mậu Tuất, tháng 2 ngày mùng 8, vào giờ tý, cha Ngài họ Lư huý Hạnh Thao, mẹ Ngài là Lý Thị.

Khi cha qua đời, Ngài ở với mẹ, lớn lên đi bán củi kiếm tiền nuôi mẹ. Vì nhà nghèo, không đi học nên Ngài không biết chữ.

Năm 24 tuổi, lần đầu tiên Ngài nghe và hiểu được Kinh Kim Cang, sau đó Ngài tìm đến chùa Đông Thiên, ở huyện Huỳnh Mai để bái yết Đại sư Hoằng Nhẫn xin thọ giáo.

Đại Sư Hoằng Nhẫn là Ngũ Tổ, muốn truyền y bát cho chúng đệ tử, bèn ra lịnh mỗi người làm một bài kệ dâng cho Ngài, Đại sư Thần Tú có bài kệ như sau:

 

Thân như bồ đề thọ,

 

身 如 菩 提 樹

 

Tâm như minh cảnh đài.

 

心 如 明 鏡 臺

 

Thời thời cần phất thức,

 

時 時 勤 拂 拭

 

Vật sử nhạ trần ai.

 

勿 使 惹 塵 埃

Nghĩa là:

Thân như cây bồ đề,

Tâm sáng như đài gương.

Luôn luôn cần lau quét,

Chớ để dính bụi trần.

Bài kệ của Thần Tú có ý nghĩa hay, nhưng chỉ hợp cho người trung hạ mà thôi.

Trong khi đó bài kệ của Huệ Năng tỏ ra cho thấy Ngài đã minh tâm kiến tánh, thân căn thanh tịnh, thể hiện là người siêu phàm thoát tục:

 

Bổ đề bổn vô thọ,

 

菩 提 本 無 樹

 

Minh kính diệt phi đài.

 

明 鏡 亦 非 臺

 

Bổn lai vô nhất vật,

 

本 來 無 一 物

 

Hà xứ diệt trần ai.

 

何 處 惹 塵 埃

Nghĩa là:

Bồ đề vốn không cây,

Gương sáng cũng chẳng đài.

Xưa nay không một vật,

Chỗ nào dính bụi trần.

Ngũ Tổ xem xong bài kệ, đến canh ba bèn truyền y bát cho Huệ Năng kế thừa làm Lục Tổ cho Phật giáo thiền tông Trung Quốc.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai có dạy: Vốn từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành.

Lục Tổ thọ truyền gương vẫn tạc,

Quan Âm đắc đạo tiếng còn roi.

(Thơ Tiếp Đạo).

Nẻo Đạo mon men đường Lục Tổ,

Rừng Nho dò dẫm lối Tam Nguyên.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

LỤC TUẦN

六 旬

Lục: Sáu. Tuần: Mười ngày gọi là một tuần. Hoặc trong chúc thọ thì cứ mười năm gọi là một tuần.

Lục tuần là sáu mươi năm.

Theo Thiên can Địa chi cứ sáu mươi năm thì trở lại ngày sinh của mình, nên người xưa gọi là đáo tuế (đến năm tuổi), lúc đó được sáu mươi mốt tuổi. Ví dụ sinh năm Ất Dậu thì sáu mươi năm sau trở lại năm Ất Dậu.

Đáo tuế mấy ai so sánh kịp,

Lục tuần nào kẻ dám phô trương.

(Bát Nương Giáng Bút).

Cầm máy huyền linh độ khách trần,

Lục tuần hưởng thọ rạng Thiên ân.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

LỤC THÂN QUYẾN THUỘC

六 親 眷 屬

Lục thân: Sáu người yêu thương, thân thiết nhứt là cha, mẹ, vợ, con, anh, em. Quyến thuộc: Người thân thuộc trong gia đình.

Lục thân quyến thuộc là sáu người thương yêu, thân thiết trong thân tộc.

Trong Đạo Cao Đài, bài Kệ Chuông U Minh, lời nguyện thứ 18 có câu: Phụ mẫu, sư trưởng, lục thân quyến thuộc, lịch đại tiên vong đồng đăng giác ngạn 父 母 師 長, 六 親 眷 屬, 歷 代 先 亡 同 登 覺 岸, nghĩa là cha mẹ, thầy và bậc trưởng thượng, sáu người thân yêu trong thân tộc, tổ tiên quá vãng lâu đời đều được vượt lên bờ giác, thoát khỏi luân hồi.

Phụ mẫu, sư trưởng, lục thân quyến thuộc, lịch đại tiên vong đồng đăng giác ngạn.

(Kệ U Minh).

 

 

LỤC THÔNG

六 通

Lục: Sáu. Thông: Thần thông.

Lục thông là sáu phép thần thông của những bậc tu chứng quả A La Hán, Phật gọi là sáu thắng trí, gồm:

1. Thần túc thông là phép biến hoá đi lại khắp mọi nơi trong nháy mắt.

2. Thiên nhĩ thông là tai nghe được mọi âm thanh của loài người hoặc của chư thiên.

3. Tha tâm thông là biết được tâm ý của người khác đang nghĩ gì.

4. Thiên nhãn thông là mắt thấy hết mọi sự vật không bị hạn chế và thấy được vòng sinh tử luân hồi của mọi chúng sanh.

5. Túc mạng thông là nhớ lại được các kiếp sống trước của mình.

6. Lậu tận thông là biết cách đoạn trừ hết mọi phiền não, đoạn diệt ô nhiễm.

Lục thông trần thế chẳng ai hay,

Cái máy Thiên Cơ đã sắp bày.

(Đạo Sử).

Thầy truyền có một chữ Không,

Chữ Không làm đặng Lục thông chứng thành.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LỤC THỨC

六 識

Lục: Sáu. Thức: Nhận thức, hiểu biết.

Lục thức là sáu khả năng nhận thức, hiểu biết, phân biệt được các hiện tượng:

- Nhãn thức: Cái hay biết ở mắt, tức là thấy.

- Nhĩ thức: Tai nghe.

- Tỷ thức: Mũi ngửi.

- Thiệt thức: Lưỡi nếm.

- Thân thức: Thân thể cảm xúc.

- Ý thức: Ý nhận biết.

Lục thức do Lục căn tiếp xúc với Lục trần mà sinh ra. Bởi có sáu thức nầy mà con người khởi tâm phân biệt được đẹp xấu, hay dở.

Cửu Thiên vượt đủ đầy công đức,

Ðến Cung Ðạo lục thức khai thông.

(Thiêng Liêng Hằng Sống).

 

 

LỤC TRẦM

陸 沉

Lục: Đất. Trầm: Chìm.

Lục trầm là chìm trên cạn, nói đời loạn lạc, nhân dân bị vạ như chết đắm trên cạn, chẳng kém cái nạn đại hồng thuỷ khi xưa.

Nghĩa bóng: Người hiền ở ẩn.

Kẻ bạo ác lục trầm đáng số,

Người hiền lương nỡ ngộ thiên tai.

(Thơ Bảo Pháp).

 

 

LỤC TRẦN

六 塵

Lục: Sáu. Trần: Trần cảnh, hay ngoại cảnh, là thế giới hiện tượng, là đối tượng tiếp xúc và nhận thức, tức là cảnh vật chung quanh con người.

Lục trần là sáu loại trần cảnh, còn được gọi là lục ngoại nhập hay lục tặc (tức sáu tên giặc), gồm có: 1- Sắc là hình sắc, hình thể. 2- Thanh là âm thanh. 3- Hương là mùi thơm. 4- Vị là vị nếm. 5- Xúc là đụng chạm. 6- Pháp là mọi sự vật.

Sở dĩ được gọi là Lục tặc, vì nếu chúng ta không biết giữ gìn, bảo hộ thân tâm thì sáu trần có thể làm cho con người đắm say mà tạo ra các ác nghiệp.

Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,

Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Niệm hương tế độ hành tam lập,

Lần chuỗi từ bi tịnh lục trần.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LUI

Lui là không tiến tới mà di chuyển ngược về phía sau. Như: Thối lui, lui quân, bệnh đã lui.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy cũng có phép răn trị kẻ vạy tà, các con duy có trông cậy nơi Thầy, bước đường cứ thủng thẳng đi lần tới, đừng gấp quá, mà cũng chớ thối lui, thì một ngày kia sẽ đặng toại kỳ sở nguyện.

Mau bước lui lần qua cõi tục,

Cười than vui khóc, thấy hay chưa?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tân toan khổ hạnh phải trau giồi,

Bước tới đường dài chớ trở lui.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LUI BƯỚC

Lui: Không tiến tới mà di chuyển ngược về phía sau. Bước: Dời chân đi.

Lui bước là bước trở về phía sau, thối lui.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Lão Giáo trọng thiên về chủ nghĩa Vô Vi, nhưng về mặt xử thế, Ðức Lão Tử cũng có cái chí vị tha, chung thân phụng sự cho Ðời cho đến lúc công thành sự toại rồi mới thối lui. Cái hay của thuyết Lão Tử là chỗ công toại thân thoái: Công toại rồi lui bước.

Một miếng đỉnh chung trăm giọt thảm,

Phải toan lui bước tránh vòng tham.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðường tu, ví biết hồi lui bước,

Kẻo để ngày qua hết một ngày.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LUI GÓT

Lui: Không tiến tới mà di chuyển ngược về phía sau. Gót: Phần sau của bàn chân, chi bước đi.

Lui gót là trở lùi bước chân lại, ý muốn nói trở lui, hay hướng trở về.

Như: Cáo từ để lui gót.

Một miếng đỉnh chung trăm giọt thảm,

Phải toan lui gót tránh vòng tham.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,

Chín bệ ngày nay quỷ nhảy đầm.

(Đạo Sử).

 

 

LUI TỚI

Lui: Lùi lại, không tiến. Tới: Đến, tiến lên trước.

Lui tới là đi lui và tiến tới, ý muốn chỉ thường xuyên. Lui tới còn có nghĩa là đến thăm, đến ở chơi.

Như: Năng lui tới để thăm hỏi nhau, vùng nầy bất an ninh nên ít người lui tới.

Lọc lừa chớ để đen pha trắng,

Lui tới đừng cho bạc lộn chì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lui tới kinh thành lối ngựa xe,

Ðỉnh chung xạo xự ngán như chè.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

LỤI HỤI

Lụi hụi, như chữ “Lụi đụi”, dùng để chỉ thấm thoát, chẳng bao lâu, mới đó mà...

Như: Hai mẹ con đi Cần Thơ lụi hụi cũng được bốn tháng rồi đó chớ.

Bao tháng phép chập chờn ngắn ngủi,

Mấy tuần xoay lụi hụi qua mau.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LUY TIẾT

縲 絏

Trong quyển kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, bài Kinh Cầu Siêu có hai câu:

Giảm hình phạt bớt đường ly tiết,

Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.

Từ “Ly tiết” của hai câu kinh trên không được rõ nghĩa.

Theo chúng tôi, từ “Ly tiết” có thể do tiếng Việt Hán là “Luy tiết”, là trường hợp đọc âm rồi viết ra Quốc ngữ sai.

Trong Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu và Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh có từ “Luy tiết 縲 絏”.

Luy: Dây trói tội phạm. Tiết: Dây buộc người có tội. Như vậy, “Luy tiết” là sợi dây trói buộc tù phạm, hoặc có nghĩa là trăng trói, hay giam cầm.

Với nghĩa nầy, trong Minh Tâm Bửu Giám, Ông Hoàn Phạm 桓 範 có dùng từ “Luy tiết” như câu sau đây: Hiên miện dĩ trọng quân tử, Luy tiết dĩ phạt tiểu nhân 軒 冕 以 重 君 子, 縲 洩 以 罰 小 人, nghĩa là xe hiên, mão miện thì để kính trọng người quân tử, còn như trăng trói thì để hành phạt kẻ tiểu nhân.

Và nhà thơ Thuần Đức tức Ngài Bảo Pháp Chơn Quân Nguyễn Trung Hậu có bài thơ hoạ “Mừng Ông Thoát Nạn”, trong đó có sử dụng chữ “Luy tiết” như sau:

Lều tranh những tưởng dưỡng thân an,

Oan nghiệt xui nên phải mắc nàn.

Luy tiết khôn ngăn lòng chí đạo,

Phong trần chưa giảm nét thanh nhan.

Tình ngay nhuần thấm ơn Trời Phật,

Vàng thiệt chi sờn ngọn lửa than.

Đợi buổi bèo mây vầy một hội,

Tương phùng vui cạn chén liên hoan.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LŨY

1.- Lũy là hàng cây, thường là tre, trồng rất dày để làm hàng rào bao quanh.

Như: Lũy dừa, lũy tre xanh bao quanh làng.

Kẻo kẹt luỹ tre đàn lãng tử,

Dập đồn dặm liễu khách nhàn du.

(Thơ Chơn Tâm).

2.- Lũy là công trình bảo vệ một vị trí, thường đắp bằng đất bao quanh thành.

Như: Đồn lũy, xây thành đắp lũy.

Đã hy sinh cái khối xương máu của Chiến Sĩ Cao Đài, làm thành, làm lũy đặng bảo vệ sống còn của nòi giống dưới ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LUỸ ĐỒN

Luỹ: Thành đắp bằng đất hay bằng gạch. Đồn: Chỗ phòng vệ nơi đóng quân.

Luỹ đồn là vị trí quân sự có thành hào và công sự vững chắc.

Như: Xây thành và đắp lũy đồn để chống giặc.

Nắn nhồi trí huệ thành binh khí,

Rèn chất anh thư đắp luỹ đồn.

(Thất Nương Giáng Bút).

Công trình biết lấy chi cho xứng,

Hiến trọn linh tâm đắp luỹ đồn.

(Bảo Văn Pháp Quân).

 

 

LUỸ HÀO

壘 壕

Luỹ: Thành đắp bằng đất, bằng gạch. Hào: Hố, đường nước bao quanh thành.

Luỹ hào, do chữ hào luỹ như đào hào đắp luỹ, là một công sự chiến đấu để bảo vệ một vị trí quân sự, giống như thành trì.

Càng nhìn càng thảm càng đau dạ,

Hỡi khách đơn tâm lấp luỹ hào.

(Nhị Nương Giáng Bút).

 

 

LUỴ

1.- Luỵ, cách đọc khác của chữ “Lệ 淚”, có nghĩa nước mắt. Như Giọt luỵ, rơi luỵ, luỵ sa.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy thấy hai con chịu nhiều điều sầu thảm, Thầy mừng, mà cái mừng ấy đổ ra chứa chan giọt lụy.

Xem: Lệ.

Chiều lụy đòi phen xem quá tục,

Nghĩ không đổ lụy phải cười khan.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đạo dâu con vui chẳng dám cười,

Đôi phen gạt lụy rơi không dám khóc.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Luỵ là vướng vít, dính dấp tới, tức bị lây vì việc làm của người khác.

Như: Khổ luỵ, mang luỵ vào thân, làm điều xấu để luỵ đến gia đình.

Lần theo bước rạng non Thần đến,

Chớ luyến phồn hoa lụy đến nơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mê tân là chốn đoạ con người,

Vương bá công hầu lụy mấy mươi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

3.- Luỵ là nhẫn nhịn chiều theo ý người khác vì mình cần đến họ. Như: Cầu luỵ, cả đời không chịu luỵ ai, qua sông phải luỵ đò.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tội nghiệp Chí Tôn rủi có lạnh không ai đến cho mà chớ, mà Người chắc không lạnh nên không cầu lụy chi mình, chỉ mình không hưởng ơn riêng, sợ buổi trút hồn là khổ não.

Chiều lụy đòi phen xem quá tục,

Nghĩ không đổ lụy phải cười khan.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Em chị gái nặng tình hơn đôi chút,

Nhớ lớn khôn côi cút lụy nhà người.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LUỴ ĐẾN SÔNG TƯƠNG

Luỵ đến: Bị vướng vít đến khốn đốn, khổ sở. Sông Tương: Do chữ Tương Giang, ý chỉ sự thương nhớ và ly biệt giữa trai gái.

Do điển trong Tình Sử, nàng Lương Ý yêu Lý Sinh một cách tha thiết, sau phải xa nhau, nên làm bài thơ “Tương Giang” có câu: Giang thâm chung hữu để, Tương tư vô biên ngạn 江 深 終 有 底, 相 思 無 邊 岸, nghĩa là sông sâu còn có đáy, tương tư không bến bờ.

Luỵ đến sông Tương tức là bị khốn đốn, khổ sở vì sự thương nhớ, tương tư.

Gái mẹ dạy ân cần cho lắm,

Đừng để mình lụy đến sông Tương.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LUỴ MÌNH

Luỵ: Làm cho rắc rối lôi thôi, dính dấp tới. Mình: Chỉ bản thân mình.

Luỵ mình là bản thân mình bị luỵ, tức làm cho bản thân mình dính dấp tới những điều rắc rối, phiền phức.

Của nhiều ít đức sương trên cỏ,

Giành giựt mà chi phải luỵ mình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Càng mê mệt với cảnh tình,

Thì càng khổ chí luỵ mình bến mê.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LUỴ NGỌC

Hay “Lệ ngọc”.

Luỵ (lệ): Nước mắt. Ngọc: Châu ngọc.

Luỵ ngọc, như chữ “Lệ ngọc 淚 玉”, “Lệ châu 淚 珠”, do tích người giao nhân khóc, giọt nước mắt chảy xuống long lanh như hạt châu ngọc.

Như: Tiễn đưa chàng ra đi mà hai hàng lụy ngọc rơi lã chã.

Xem: Lệ châu.

Lã chã đôi hàng luỵ ngọc,

Chín trùng trở lại Tiên đô.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

 

 

LUỴ PHIỀN

累 煩

Luỵ: Làm cho rắc rối lôi thôi, dính dấp đến. Phiền: Nỗi buồn rầu.

Luỵ phiền, do chữ “Phiền luỵ 煩 累” là làm khổ luỵ, hay liên luỵ buồn phiền đến người khác.

Như: Đừng làm lụy phiền đến người khác.

Tình đời đổi trắng thay đen nhỉ,

Đã vậy thì xin chớ luỵ phiền.

(Thơ Hàn Sinh).

 

 

LUỴ SA

Hay “Lệ sa”.

Luỵ (lệ): Nước mắt. Sa: Rơi xuống, rớt xuống.

Luỵ sa, như chữ “Lệ sa”, là dòng nước mắt tuôn rơi.

Như: Trước chia lìa cốt nhục, kẻ mất người còn là cho đôi hàng luỵ sa.

Xem: Lệ sa.

Thiếp cam bao tóc thờ chàng,

Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LUỴ TÌNH

累 情

Luỵ: Làm cho rắc rối lôi thôi, dính dấp tới. Tình: Sự yêu thương giữa nam và nữ.

Luỵ tình là khốn đốn, khổ sở vì tình yêu, tức mối tình gặp những điều khó khăn, trắc trở.

Lấy thân rửa thảm lau phiền,

Đem công chuộc khách thuyền quyên lụy tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LUYẾN ÁI

戀 愛

Luyến: Thương mến, không rời ra được. Ái: Yêu, mến thương.

Luyến ái là mến yêu.

Luyến ái còn chỉ tình yêu thương giữa trai gái.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ðã vào trọn một thân mình nơi ô trược thì Thầy đây cũng khó mà rửa với một gáo nước cho đặng trong sạch. Nhơn loại đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh đức trong một lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng.

Luyến ái hậu tình khuynh thủ đảo,

Thâu hồi chủng tử thoát hồng trần.

(Đạo Sử).

Ngồi vắng vẻ càng thêm luyến ái,

Muốn toan đem trẻ dại đến đường tu.

(Ngọc Hoàng Thượng Đế).

 

 

LUYẾN THẾ

戀 世

Luyến: Thương mến. Thế: Thế gian, đời.

Luyến thế là mê luyến cảnh thế gian, hay cõi đời.

Ngũ Nương Diêu Trì Cung có dạy: Nếu được về bao nhiêu thì Đức Mẹ mừng bấy nhiêu, nhưng khổ hơn hết là khi khai Đạo kỳ nhứt và kỳ nhì, thuyền Bát Nhã chưa đậu nơi trần để tạo đời Thánh đức, có 100 ức nguyên nhân mà trở hồi địa vị chỉ có 8 ức, còn phải nặng kiếp trần ai tới 92 ức mãi trong vòng luyến thế.

Xem: Luyến trần.

Xưa luyến thế nay gìn Đạo cả,

Quán trần gian chớ khá cơ cầu.

(Nhàn Âm Đạo Trưởng).

Cứu giống Lạc Hồng còn luyến thế,

Sửa đời Nam Việt lại tương lai.

(Bạch Vân Giáng Bút).

 

 

LUYẾN TRẦN

戀 塵

Luyến: Thương mến. Trần: Trần tục, thế gian.

Luyến trần, như chữ “Luyến thế 戀 世”, là lưu luyến cõi trần tục, không muốn trở về ngôi xưa vị cũ.

Thánh giáo Chí Tôn có câu: Nguồn Tiên, đạo Thánh dìu bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẻo vạy, bước đường ngay, mà lần vào nơi Cực Lạc an nhàn, rừng tòng suối lặng, động thẳm non xanh, để mình vào bực thanh cao, thoát khỏi chốn luân hồi ràng buộc. Ai mau bước đặng nhờ thân, ai luyến trần cam chịu khổn.

Luyến trần đợi buổi trời chênh bóng,

Thoát khổ e khi nước ngược dòng.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

LUYỆN

1.- Luyện là tập đi tập lại nhiều lần để nâng cao dần khả năng hoặc kỹ năng, không dùng một mình.

Như: Luyện binh, luyện tập, luyện trí thức, trường học là nơi luyện nhân tài, tu luyện, luyện đạo.

Có công phải biết gắng nên công,

Tu tánh đã xong tới luyện lòng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Luyện trí thức thông minh hoà nhã,

Tứ đổ tường chẳng khá nên gần.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Luyện , như chữ , là nấu, rèn đúc kim loại cho thật tốt, thật kỹ càng.

Như: Luyện kim, luyện thuốc trường sinh, luyện vàng, luyện đá vá trời.

Dùng phương chế thuốc luyện đơn,

Cho thành Đại Giác Chơn Nhơn phi phàm.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LUYỆN ĐẠO

練 道

Luyện: Tập làm nhiều lần cho được thuần thục. Đạo: Tôn giáo.

Luyện đạo là một pháp môn tu thuộc bí pháp tâm truyền, tức là phải có minh sư truyền dạy mới có thể đắc đạo được.

Phép luyện đạo trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là luyện Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt, tức là luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần huờn Hư, tạo được Chơn thần huyền diệu, đắc đạo tại thế.

Về phép luyện đạo, Thánh giáo Chí Tôn dạy như sau: Trong các con có nhiều đứa lầm tưởng, hễ vào Ðạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện đạo.

Đời mà cải hối ăn năn,

Tu đơn luyện Đạo siêu thăng cõi ngoài.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LUYỆN ĐƠN

Hay “Luyện đan”.

Luyện: Rèn, đúc, chỉ sự tinh chế. Đơn (Đan): Thuốc vò thành viên.

Luyện đơn, như chữ “Luyện đan 鍊 丹”, là lấy hoa lá, cây cỏ nấu thành thuốc chữa bịnh hoặc thuốc trường sinh.

Luyện đơn còn là một từ ngữ của Đạo Giáo chỉ về phép luyện Tam bửu là tinh, khí, thần để được hiệp nhứt thành kim đơn, tức kết nên Thánh Thai, tạo một chơn thần huyền diệu đắc đạo tại thế.

Xem: Luyện đạo.

Muốn làm nên Phật, Thánh, Tiên,

Làm chi cũng học pháp huyền luyện đơn.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LUYỆN TẬP

練 習

Luyện: Tập làm nhiều lần cho được thuần thục. Tập: Năng làm cho quen.

Luyện tập là học tập nhiều lần cho giỏi, tức học đi học lại cho nhuần, thông.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhạc dù là môn nào, phải cố gắng học đến chỗ cùng cực uyên thâm, năng luyện tập trau dồi để càng ngày càng thêm tiến triển mới đáng gọi là biết yêu Nghệ thuật.

Chớ thái quá đừng lòng bất cập,

Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.

(Kinh Sám Hối).

Gắng chí dồi mài thành Đạo sĩ,

Bền gan luyện tập đặng Hiền nhân.

(Thơ Khai Đạo).

 

 

LÚM KHÚM

Lúm khúm, như chữ “Lum khum”, là cúi lưng, từ gợi tả tư thế lưng không thẳng, ở trạng thái còng lưng xuống.

Lúm khúm, như chữ “Lúm cúm”, còn dùng để chỉ khúm núm, tức thu người lại như có vẻ sợ sệt, ngại ngùng.

Bốn chục thước vuông lúm khúm ngồi,

Tịnh đường an trí cũng là nơi.

(Thơ Trần Văn Mai).

 

 

LỤM CỤM

1.- Lụm cụm, như chữ “Lụm khụm”, là chỉ sự cặm cụi một cách vất vả.

Ví dụ như: Bà già lụm cụm quét dọn tối ngày, mấy ngày nay anh ấy lụm cụm làm không nghỉ, Mẹ hằng ngày lụm cụm lo miếng ăn cho con.

Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,

Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lụm cụm, như chữ “Lọm khọm”, là một từ gợi tả dáng già yếu, lưng còng xuống, đi lại nặng nhọc.

Như: Tuổi già xem có vẻ lụm cụm, Lụm cụm chống gậy đi từng bước.

Nương con gậy ra vào lụm cụm,

Lưng gối dùn lửng thửng bước đi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Già lụm cụm chúng hành sanh nghịch,

Giận ly đương xích mích rể con.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỤN

Lụn là tàn hết. Như: Lụn bại, lụn hao, tháng thâu năm lụn, đêm tàn canh lụn.

Thánh giáo Thầy có câu: Ôi! Xuân tàn xuân đến, cái xuân của người đã sắp lụn hao, mà rồi cái xuân của Trời Ðất nước non cũng chưa chắc là vô cùng vô tận.

Ðừng cho ngoại vật lấn xen,

Tâm hồn mê muội như đèn lụn tim.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

Những thảng mảng tháng thâu năm lụn,

Sớm công phu, tối tụng Vãng sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỤN CANH GÀ

Lụn: Tàn dần. Canh gà: Đêm có năm canh, đến canh năm gà gáy sáng, chỉ gần sáng.

Lụn canh gà tức là nói đêm hầu tàn, bước sang canh năm, gà sắp gáy sáng.

Xem: Canh lụn.

Nào là trời lặn bóng tà,

Đêm khuya chờ lụn canh gà thăm em.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Phòng lạnh lùng sương tàn giấc điệp,

Rèm phơ phất gió lụn canh gà.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LUNG

1.- Lung là hung dữ. Như: Tên côn đồ nầy lung lắm.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lẽ tất nhiên Ngài phải tầm phương giải kiết, chúng sanh đã thất đạo nhơn nghĩa, nhơn luân, sự tranh sống trước mặt của nhơn loại đã hết tánh chất loài người, cái tham tâm dục lợi càng buông lung thêm mãi, nên nạn tự diệt hầu gần, cũng do tại đó.

Gái lớn lên giữ chữ phụ tùng,

Trai chớ khá buông lung theo chúng bạn.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Lung là cái lồng nhốt chim, gà, hoặc vịt.

Như: Lao lung là chuồng và lồng, ý chỉ giam hãm, lung kê (gà lồng).

Thượng Hoàng sánh đức Chí Công,

Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.

(Kinh Thế Đạo).

 

 

LUNG KÊ

籠 雞

Lung: Cái lồng nhốt chim, gà, vịt. Kê: Gà.

Lung kê là gà nhốt trong lồng.

Người xưa thường có câu: “Gà lồng, hạc nội” để ví thân phận của con gà, tuy có ăn hằng bữa, nhưng thân bị nhốt lồng, với con hạc nội, tuy bụng đói nhưng được thảnh thơi ngoài đồng nội.

Lung kê (gà lồng) dùng để ví với những kẻ chạy theo giàu sang danh lợi mà cam chịu ràng buộc, mất tự do.

Lung kê hữu mễ thang oa cận,

Dã hạc vô lương Thiên Ðịa khoan.

(Lý Bạch Giáng Bút).

 

 

LUNG LẠC

Lung lạc là tác động đến tinh thần làm cho phải chịu hoàn toàn khuất phục.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Các em cứ để tâm cầu nguyên Ðức Chí Tôn và luôn luôn giữ dạ trung thành với Hội Thánh, đừng để ai lung lạc tinh thần, đừng theo phe nầy phái nọ và luôn luôn lấy công bình hành sự.

Ðương nhiên chúng ta thấy đạo nhơn luân của các sắc dân trên mặt địa cầu buổi nầy đã nghiêng đổ và lung lạc tất cả.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LUNG LAY

Lung lay là làm cho nghiêng, ở trạng thái nhúc nhích, không còn giữ được thế vững chắc.

Như: Gió lung lay tàu chuối, răng lung lay sắp rụng, chức vụ anh ấy sắp lung lay.

Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong quyển Giáo Lý có đoạn viết: Nhắc lại, gần đây thời kỳ khoa học thực nghiệm cực thạnh lan tràn từ Tây Phương sang Đông phương. Sự kiện ấy làm lung lay lòng tín ngưỡng của người Việt Nam.

Con thuyền Bác nhã lung lay,

Tín đồ, Đạo hữu mới quày lái ra.

(Thơ NĐS Hương Thanh).

 

 

LUNG LĂNG

Lung: Hung dữ. Lăng: Chữ Hán, xúc phạm đến.

Lung lăng là hung dữ không kể đến người khác.

Thánh giáo Thầy có câu: Thầy vì đức háo sanh nên thâu thập nhiều đứa lương tâm chưa chánh đáng, là Thánh ý để cho chúng nó quy chánh cải tà, nhưng thói phàm tục lung lăng chẳng dứt.

Khi vận thới lung lăng chẳng kể,

Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.

(Kinh Sám Hối).

Thứ dung mấy lượt Phật Trời thương,

Cứ thói lung lăng chẳng kính nhường.

(Đạo Sử).

 

 

LUNG LINH

Lung linh là từ gợi tả vể lay động của cái có thể phản chiếu ánh sáng.

Như: Hình ảnh lung linh trên mặt sông, ánh trăng lung linh trên mặt hồ.

Nhìn mặt nước lung linh bóng mẹ,

Ngó làn mây lấp lóe hình cha.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LÚNG

Lúng là đại, bất kể, không cần quan tâm, không cần chăm sóc, dạy bảo.

Như: Nhà cột kèo bị mối ăn tiêu, không chịu thay vẫn ở lúng, nuôi heo thả lúng không chịu làm chuồng.

Mà lạ một điều là kẻ hung hăng đạo đức thường phá cửa lúng đặng vào, địa vị phần nhiều đoạt bởi kẻ ấy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

Rủi đụng chồng đói khó nghèo nàn,

Đừng lấn lướt làm ngang nhiếc lúng.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LÚNG TÚNG

Lúng túng là ở vào tình trạng không biết nên nói năng, hành động, xử trí như thế nào, do không làm chủ được tình thế.

Như: Trả lời một cách lúng túng, lúng túng như thợ vụng mất kìm.

Nực nội trong lòng lo lúng túng,

Ðài mây để bước khá nơi chân.

(Đạo Sử).

 

 

LỦNG

Lủng là thủng, có chỗ bị rách, bị chọc thành lỗ xuyên qua. Như: Cái áo lủng, chiếc chiếu lủng.

Thánh giáo Thầy dạy Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có câu: Ðổ đường đen vào một cái hũ, thọc lủng đít, rồi định chừng cho vừa hai phần hũ đường, còn một phần hũ thì đổ bùn non cho tới miệng, đem phơi nắng chừng một tuần thì đường trở nên trắng, gạt lớp bùn đi thì con đặng một thứ đường trắng phau phau rất ngon, rất đẹp đó con.

Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,

Không quản lao đao giữ tiếng lành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Sấm nổ động trời xoi đất lủng,

Tiêu tàn cảnh vật ngó không không.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LỦNG LẲNG

Lủng lẳng là lơ lửng, đung đưa trên không.

Như: Treo lủng lẳng giữa nhà, bầu bí lủng lẳng đầy giàn, hành khách đeo lủng lẳng trên xe đò.

Mây lủng lẳng ven trời bảng lảng,

Nước lênh đênh tản mạn mênh mông.

(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

 

 

LUỘC

Luộc là làm cho thực phẩm chín trong nước đun sôi. Như: Luộc rau, thịt gà luộc, trứng vịt luộc.

Thuyết Đạo về tiểu sử Đức Khổng Tử, Ngài Thượng Sanh có câu: Lúc Ngài bị vây giữa khoản nước Tần và Sái, bảy ngày không nấu ăn, chỉ ăn rau luộc suông, các Ðệ tử như Tử Lộ, Nhan Hồi, Tử Cống, v.v... đều băn khoăn lo sợ cho Ngài, nhưng Ngài vẫn ung dung ngồi đàn hát.

Chị gái lại dễ bề dạy bảo.

Dạy đến nghề nấu cháo luộc rau,

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LUỒN CÚI

Luồn: Chui qua một chỗ nhỏ. Cúi: Hạ thấp đầu hoặc thân mình xuống về phía trước.

Luồn cúi, như chữ “Lòn cúi”, ý chỉ kẻ chịu nhịn nhục đầu phục người, kẻ hay khom mình nịnh bợ cấp trên, hoặc người quyền thế để cầu cạnh một việc gì.

Kẻ luồn cúi thì tự hạ phẩm giá của mình.

Gắng chí mấy em sau giúp Đạo,

Còn hơn luồn cúi chốn quan trường.

(Thơ Huệ Giác).

 

 

LUÔNG TUỒNG

Luông tuồng, như chữ “Buông tuồng”, là tự do bừa bãi, sa đà phóng đãng, không có sự chừng mực, giới hạn.

Luông tuồng còn có nghĩa là ăn thông liên hoàn, chằng chịt với nhau.

Con đừng quen tánh luông tuồng,

Các em hư nết, gieo buồn song thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Đi luông tuồng chẳng định hồi về,

Niềm tình nghĩa phu thê chẳng đoái.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LUỐNG

1.- Luống là uổng, phí. Như: Luống công chờ đợi.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn: Ngày giờ thôi thúc mà các con còn dụ dự giữa chừng. Nền Ðạo cao thâm là mấy, chí phàm không thấu lý sâu, nếu các con chẳng ra khỏi vòng trần tục thì các con chẳng là luống công theo Thầy kể đã đầy năm.

Trước kia chẳng biết có Trời,

Lâm cơn hoạn nạn thỉnh mời luống công.

(Thơ Thông Quang).

2.- Luống là từ biểu thị mức độ nhiều, không phải chỉ một lần, mà nhiều lần, luôn luôn diễn ra không dứt.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thế thì kẻ hung bạo luống mượn thế lực phàm phu để khuấy rối, làm cho bước đường êm thấm phải hoá ra gay trở.

Người sang cả là vì duyên trước,

Kẻ không phần luống ước cầu may.

(Kinh Sám Hối).

Tròn năm luống phận cần cù,

Không nuôi thê tử không bù thân sanh.

(Ngụ Đời).

Chầy ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,

Mà tấm lòng kia vẫn luống gần.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

LỤT

1.- Lụt là hiện tượng nước dâng cao do mưa lũ gây ra, làm ngập cả một vùng rộng lớn.

Như: Lụt lội, nước lụt, miền trung chịu nạn lụt, đắp đê phòng chống lũ lụt.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trước cảnh máu xương chồng chất gây nên bởi chiến cuộc, trước cảnh chiếu đất màn trời, của mấy trăm nạn nhân bão lụt miền Trung đang vất vả khóc than, vì đói rách cơ hàn, chúng ta những người đã xả thân cầu đạo, có vui sướng gì mà hỉ hạ chơi Xuân, hoang phí đồng tiền để làm khách phong lưu trong buổi trà dư tửu hậu.

Đốt nhà, tháo cống, phá mương,

Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.

(Kinh Sám Hối).

2.- Lụt là cùn, nhụt, kém sắc, kém nhọn.

Như: Con dao lụt, lưỡi liềm đã lụt, cây kéo cùn, nhưng chưa đến đỗi lụt.

Vợ xem chừng bào, búa, đục, chàng,

Coi có lụt làm ngang mài bén.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LƯ HƯƠNG

爐 香

Lư: Cái lò để đốt, chỉ cái lư để đốt nhang hay đốt trầm trên Bàn thờ. Hương: Nhang.

Lư hương là một vật đặt trên Bàn thờ, dùng để đốt nhang rồi cắm vào đó. Có hai loại lư: Lư hương để đốt nhang, còn Lư trầm để đốt trầm.

Lư Hương còn là Bửu pháp của Bà Nhị Nương Diêu Trì Cung là một cái Lư trên có cắm ba cây nhang.

Cô Nhị Nương từ bi độ rỗi,

Cầm Lư Hương mở hội Trường sinh.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

LƯ NGỌC

Lư: Một dụng cụ để trên bàn thờ, có hai loại: Dùng để cắm nhang thì gọi là lư hương hay lư nhang; dùng để đốt trầm thì gọi là lư trầm. Ngọc: Quý báu.

Lư ngọc là lư hương quý báu trên Điện tiền của Đức Chí Tôn. Nghĩa bóng chỉ cái tâm quý báu được trau giồi trong sạch và thơm tho.

Mùi hương lư ngọc bay xa,

Kính thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

LỪ NHỪ

Hay “Lừ đừ”.

Lừ nhừ, như chữ “Lừ đừ”, có nghĩa là chậm chạp, nặng nề, không linh hoạt.

Đứa ở ăn kẻ sự cô hư,

Có ghét đứa lừ nhừ lừa ngắt xéo.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỮ ĐỒNG TÂN

Lữ Đồng Tân sinh ngày 14 tháng 4, con của viên Thứ sử Hải Châu. Khi sinh ông, trong phòng mùi hương thơm phức, có hạc trắng bay vào rồi biến mất.

Lớn lên, Lữ Đồng Tân thi đỗ tú tài, tiếp theo đỗ luôn cử nhân, nhưng khi thi tiến sĩ thì bị rớt. Ông thường xưng hiệu là Thuần Dương, nên người đương thời gọi là Lữ Thuần Dương.

Một hôm, Lữ Đồng Tân gặp Chung Ly Vân Phòng, tu ở núi triều hạc, đưa gối bảo ông nằm ngủ kế bên nồi huỳnh lương đang nấu. Ông thấy mình thi đỗ trạng nguyên, cưới một nàng con gái thật đẹp, rồi được bổ làm quan Gián nghị, sau thăng chức Thừa tướng, quyền uy và sang giàu tột bực. Chẳng may bị gian thần hãm hại, gia sản bị tịch thâu, thân bị tù đày khổ cực, ông liền giựt mình tỉnh giấc thì nồi kê vàng (huỳnh lương) vẫn chưa chín. Ông tỉnh ngộ, bỏ công danh phú quý, xin theo Chung Ly Vân Phòng để lo việc tu hành. Sau Lữ Đồng Tân đắc quả Tiên là một trong Bát Tiên ở núi Bồng Lai, thường cỡi con chim hạc.

Hớn Chung Ly, Thể Hoà, Tương Tử,

Tào Quốc Cựu, với Lữ Đồng Tân.

(Lược Thuật Toà Thánh).

An phận nhàn thong thả,

ráng học sách Xích Quày,

Chớ ăn cơm Huỳnh Lương,

như Lữ Động Tân chưa hay là giấc ngủ.

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

LỮ HÀNH

旅 行

Lữ: ở nơi đất khách. Hành: Đi.

Lữ hành là đi đường xa.

Trong bài Huấn Dụ Đức Thượng Sanh uỷ lạo chức sắc chức việc Phước Thiện có đoạn: Những kẻ đau khổ chán chường, đó là những vết đen tối của bức tranh xã hội, những vai tuồng bẩn thỉu của sân khấu đời. Phải có một bàn tay từ thiện giúp đỡ cứu nguy cho họ bằng không họ chẳng khác chi những khách lữ hành vì thiếu nước mà phải phơi thây giữa bãi sa mạc.

Người khách lữ hành biết mình đi lạc hướng, nhìn xem chặng đường như lạ cảnh đáng ngờ thì tức khắc trở lại con đường cũ.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LỮ KHÁCH

旅 客

Lữ: Quán. Khách: Người ở nơi khác đến.

Lữ khách là khách qua đường, tức là khách đi xa nhà, ở xứ lạ quê người.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Người lữ khách biết mình đi lạc hướng, nhìn xem chặng đường như lạ cảnh đáng ngờ thì tức khắc trở lại con đường cũ.

Để thảm xuân đường như ác xế,

Gieo thương lữ khách ngóng tin mai.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LỮ MÔNG

呂 蒙

Lữ Mông tự là Tử Minh, tướng của Ngô Tôn Quyền, đời Tam Quốc, đã từng cùng với Châu Du phá binh Tào Tháo ở Ô Lâm.

Lữ Mông hiến kế cho Ngô Tôn Quyền lấy được Kinh Châu, nhứt là đánh thắng và bắt được Quan Vân Trường của quân Thục, được phong làm Thái thú ở Nam quận. Sau ông bị bịnh mà chết.

Ðến sau Ðức Ngài lầm gian kế của Lử Mông thất thủ kinh châu bị binh Ngô bắt được...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LỮ THỨ

旅 次

Lữ: Quán. Thứ: Chỗ.

Lữ thứ là chỗ ở trọ, nơi quán tạm, tức là chỗ tạm nghỉ lại của người đi đường xa, thường dùng để chỉ nơi đất khách, quê người.

Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Người (Thông Sự) phải chăm nom, binh vực những kẻ cô thế, bất câu người có Đạo hay là ngoại Đạo, hoặc là bị tai nạn thình lình, hoặc bị nghèo nàn, đói khó, hoặc bị bịnh hoạn, cô thân, hoặc bị tha hương lữ thứ, hoặc bị yếu tha già thải, người đặng trọn quyền buộc Phó Trị Sự phải liệu phương giúp đỡ.

Đem thân lữ thứ làm binh,

Cầm gươm huệ chặt tan tành cung thương.

(Thất Nương Giáng Bút).

Đất Việt ai vui chung lữ thứ,

Đài Tần kẻ chạnh nỗi âm hao.

(Tiêu Diêu Đạo Sĩ).

Ai biết cảnh tình người lữ thứ,

Nghe chim ray rứt cõi lòng ta.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LỮ VI

呂 韋

Lữ Vi tức là Lữ Bất Vi, tên chữ là Lữ Hồng, người Dương Địch thuộc nước Tần, là một phú thương lại coi tướng giỏi, có vợ tên Châu Cơ, người nhan sắc, đang có thai ba tháng, gả cho Dị Nhân là cháu vua Tần, sinh ra một trai tên là Chính.

Sau Dị Nhân được trở về Tần, rồi nối ngôi vua là Trang Tương Vương, phong Bất Vi làm Thừa tướng.

Xem: Bất Vi.

Ăn đùa rẻ bán Lữ Vi vinh,

Một xảo trước kia sử giữ gìn.

(Đạo Sử).

 

 

LỮ VỌNG

呂 望

Lữ Vọng, tức Thái Công Vọng, tự là Tử Nha, họ Khương tên Thượng. Lúc còn hàn vi, ngồi câu trên sông Vị, sau được Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương) rước về làm Tướng quốc, và trở thành vị khai quốc công thần cho nhà Châu.

Khi Văn Vương mất, Lữ Vọng phò vua Võ vương và hội các chư hầu, đem quân phạt Trụ. Nhờ tài điều binh khiển tướng giỏi của ông, nên diệt được Trụ vương, và lập nên nhà Châu, truyền kế hơn tám trăm năm. Ông được tôn làm Tướng Phụ.

Xem: Khương Thượng.

Cười như Lữ Vọng lúc suy thời,

Chẳng lái chẳng chèo khó nổi bơi.

(Đạo Sử).

Miệng tài nào ví tài hay,

Giục roi Lữ Vọng cổi hài Trương Lương.

(Xuân Hương Giáng Bút).

Thành Thang gắm ghé giăng tay lưới,

Lữ Vọng sẵn sàng móc lưỡi câu.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LỰ

Lự là lo. Như: Tư lự, ưu lự, tục lự, lự tứ ưu tam.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Về bổn phận của mấy cháu học sinh, tôi xin có mấy lời nầy: Mấy cháu còn đương niên thiếu, đó là lúc tốt đẹp nhứt của đời người. Mấy cháu chỉ biết ăn học và chơi giỡn hoàn toàn vô ưu lự của buổi thiếu thời.

Cảnh thăng trỗi gót cho mau,

Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.

(Kinh Tận Độ).

Cao chức vợ nhiều ăn lớn đũa,

Thầm lo lự tứ với ưu tam.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LỨA ĐÔI

Lứa: Chỉ lớp người cùng cỡ tuổi với nhau. Đôi: Hai người, hai vật.

Lứa đôi là chỉ cặp trai gái, hoặc vợ chồng trẻ xứng đôi với nhau. Thành ngữ ta có câu: Xứng đôi vừa lứa.

Lứa đôi từ bé hiệp công lo,

Phải ở sao cho trọn thiếp trò.

(Đạo Sử).

So mình nắm dễ tóc tơ,

Ngoài ra còn lắm hẫng hờ lứa đôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỪA

1.- Lừa là một loại thú cùng họ với ngựa, nhưng nhỏ hơn, tai dài, nuôi để kéo xe.

Như: Giống lừa ưa nặng nên thường được dùng để chuyên chở đồ đạc.

Giúp Châu đợi lúc xem bầy quạ,

Tiếp Triệu chờ khi giả té lừa.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Lừa là dùng mưu, mẹo để gạt người khác bị lầm. Như: Lừa thầy phản bạn, lừa vào tròng.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người có đức chí thành không hề biết dối trá gạt gẫm ai, không biết a dua, bợ đỡ, không vì lợi bỏ nghĩa, không vì mình hại người, cứ thẳng thắn đường ngay tiến bước, thà là chịu thất bại còn hơn là dụng mưu mô bất chánh để dối người, lừa bạn.

Sống thấy chết, miệng cười mắt khóc,

Nịnh lừa trung, lưỡi thọc tay đâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

3.- Lừa là chờ lợi dụng ngay lúc thuận tiện để làm một việc gì.

Như: Lừa dịp may, lừa cơ hội tốt, lừa lúc không ai để ý lẻn ra ngoài.

Lừa dịp đình chơn viếng cố nhân,

Cảm tình trông đợi dạ ân cần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

4.- Lừa, do chữ “Lựa” đọc trại ra, có nghĩa là chọn đi chọn lại.

Như: Lừa lọc, gạn lừa.

Mua bán chọn lừa như buổi chợ,

Về nhà chưa tối đã qua đời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

5,- Lừa là dùng lưỡi đưa qua lại, tách lấy riêng ra khỏi những cái khác đang ngậm trong miệng.

Như: Lưỡi lừa cá xương, ăn cá lừa xương.

Lưỡi lừa miếng nhai cơm lũ trẻ,

Kiêng vật ăn đặng để nuôi con.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LỪA ĐẢO

Lừa: Dùng mưu mẹo để gạt gẫm người. Đảo: lộn ngược, lật lộng.

Lừa đảo là dùng thủ đoạn gian manh, xảo trá lừa gạt người để chiếm đoạt của cải, tài sản.

Vì cái tâm hay lừa đảo, hay làm cho con người sa ngã nên theo phép tu của Lão giáo, ta phải dứt bỏ những điều ham muốn...

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LỪA LỌC

Lừa: Chọn lựa. Lọc: Gạn, lọc.

Lừa lọc là lựa chọn lấy cái tốt, cái tinh tuý, để loại bỏ những cái xấu, dở.

Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp, Tha tín có nghĩa: Là ta biết quang tiền dụ hậu, ta tin nơi ông Thầy dạy ta học các bài vở để lập thân cho nên người cao quý, lại có nhiều người trong xã hội chẳng phải họ cố ý dạy ta học, nhưng cái sở hành của họ, mọi điều phải trái lành dữ tội phước, thì nó thường hiện ra trước mặt ta, đó là một bài học, nên chú ý, rồi ta mới gồm tất cả mọi sự hành vi của người đời, ta sẽ lập lại làm quyển sách thứ nhì nữa, ta mới cân phân, lừa lọc, tuyển chọn điều hay lẽ phải, ta đem để lên Linh Ðài (tức là khối óc của ta) đặng làm phương pháp bảo vệ trường tồn tánh mạng của ta ấy là Tha tín.

Xem: Lọc lừa.

Hai đường hoạ phước tua lừa lọc,

Vay trả cơ Trời chớ dể khinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Công dầu lừa lọc chí thanh lương,

Thức tỉnh trần gian thoát mộng trường.

(Giáo Tông Giáng Bút).

 

 

LỪA PHỈNH

Lừa: Lừa là dùng mưu, mẹo để gạt người khác bị lầm. Phỉnh: Nói khéo cho người ta thích để xui làm gì.

Lừa phỉnh là phỉnh nịnh để đánh lừa người. Như: Nó có nhiều thủ đoạn lừa phỉnh người khác.

Thường ta thấy nơi trường đời người ta mượn cái lốt bề ngoài để lòe quần chúng để che khuất cái tâm khô khan cằn cổi bên trong, đặng chờ dịp lừa phỉnh nhau và sát hại nhau.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LỬA

1.- Lửa là hiện tượng của một vật cháy sinh ra nóng và ánh sáng.

Như: Bén lửa, nẩy lửa, vàng thật không sợ lửa.

Thánh giáo Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có câu: Có đèn dầu đầy mà thiếu hơi lửa nhen lên, thì cũng phải mờ mịt thâm u, trông chi soi sáng.

Suy thời dầu quý cũng ra hèn,

Nghiệp cả khuyên con lửa nhúm nhen.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Thiệt vàng gặp lửa tuổi càng cao,

Dầu gọi mình khờ cũng chẳng nao.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lửa là chỉ trạng thái tinh thần, tính cảm sôi sục, mạnh mẽ, ví như có ngọn lửa bốc lên trong người.

Như: Lửa giận, lửa lòng, lửa nồng, lửa phiền.

Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Muốn an tâm tỉnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, thì mới khỏi bực tức với những trò đã vì mạng lịnh thiêng liêng phô diễn ở nơi thâm hiểm nặng nề nầy.

Lánh đường trần tục đến non Tiên,

Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ngồi thuyền qua tình biển,

Mượn nước nhành dương rưới lửa lòng.

(Đạo Sử).

 

 

LỬA BINH

Lửa: Hiện tượng ở vật gì cháy sinh ra nóng và sáng. Binh: Quân lính để canh giữ các nơi, đánh giặc hay hầu vua quan.

Lửa binh, như chữ “Binh lửa”, là chỉ cảnh giặc giã, chiến tranh.

Trong cảnh loạn lạc, giặc giã thường xảy ra những cảnh đốt phá nhà cửa, ruộng vườn, nên chữ “Lửa binh” dùng để chỉ cảnh giặc giã, chiến tranh.

Tượng bởi Hồ man dấy lửa binh,

Hoà Phiên càng gớm chước gian manh!

(Thơ Thuần Đức).

Khói đạn cùng nơi, sông hút máu,

Lửa binh khắp chốn, đất ăn người.

(Thơ Tiếp Đạo).

 

 

LỬA HƯƠNG

Lửa: Hiện tượng của một vật cháy sinh ra nóng và ánh sáng. Hương: Nhang.

1.- Lửa hương, do chữ “Hương hoả 香 火”, là đèn và nhang trên bàn thờ.

Ngày xưa trong nghi lễ cúng tế, người ta thường lên đèn và đốt nhang trên bàn thờ, đó gọi là “Lửa hương”. Vì thế, sau nầy hai chữ “Lửa hương” dùng để chỉ trai gái thề nguyền với nhau, hoặc trong hôn lễ, vợ chồng làm lễ trước bàn thờ gia tiên.

Lửa hương ví bẳng ngày sao đượm,

Phải nhớ công ơn của Ðất Trời.

(Đạo Sử).

2.- Lửa hương còn dùng để chỉ việc nối dõi dòng họ để thờ cúng tổ tiên.

Như: Truyền kế lửa hương.

Giọt máu mủ lưu truyền tại thế,

Con nhẫng mong truyền kế lửa hương.

(Kinh Thế Đạo).

Hỡi ơi! Vợ già yếu, gái thời ngây dại,

Nối lửa hương, ngó lại vắng người.

(Văn Tế Bảo Đạo).

 

 

LỬA LÒNG

Lửa: Vật đang cháy phát sinh ra nhiệt và ánh sáng. Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý, tình cảm.

Lửa lòng là một trạng thái tinh thần, tình cảm sôi sục, mạnh mẽ, chỉ về dục vọng hay uất hận.

Người ta thường ví dục vọng hay uất hận như một ngọn lửa nung nấu, thiêu đốt trong lòng người, khiến trở nên nóng nảy, hay điên cuồng, gọi đó là “Lửa lòng”.

Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,

Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.

(Đạo Sử).

Lửa lòng vụt tắt từ đây vẫn,

Nương náu am thanh một chữ nhàn.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LỬA LÒNG DẬP TẮT

Lửa lòng: Một trạng thái tinh thần, tình cảm sôi sục, mạnh mẽ, chỉ về dục vọng hay uất hận. Dập tắt: Làm cho ngọn lửa bị đè xuống mà tắt.

Người ta thường ví dục vọng hay uất hận như một ngọn lửa nung nấu, thiêu đốt trong lòng người, khiến trở nên nóng nảy, hay điên cuồng, nên gọi nó là “Lửa lòng”.

Người tu hành trước hết phải dập tắt lửa lòng. Nếu lửa lòng chưa tắt thì khó bước vào đường tu được.

Sau đây, là một câu chuyện của người muốn vào đường tu, nhưng lửa lòng chưa tắt.

Xưa có một vị võ tướng chán ngán con đường sát phạt nơi sa trường, đến gặp Thiền sư Đại Tuệ Tôn Cao xin thế độ xuất gia.

Viên võ tướng nói: Hoà thượng từ bi, con đã chán ngán cảnh hồng trần, xin hoà thượng thế độ cho con, nhận con làm đệ tử.

Thiền sư biết được tính tình hỷ nộ bất thường của vị tướng nầy, bèn trả lời rằng: Tướng quân hãy còn gia đình, lại vướng cảnh đời lâu năm, tướng quân hãy dần dần trừ bỏ tập tính cũ trước đã, sau nầy bần tăng sẽ thế độ cho.

Vị võ tướng nói: Sống chết là chuyện lớn, vợ con là chuyện nhỏ, con có thể bỏ hết gia sản, vợ con để theo thầy học đạo. Xin thầy từ bi thế độ cho con.

Thiền sư đáp: Hãy từ từ đã, đợi cơ duyên sau nầy.

Khoảng một thời gian sau, trời chưa tảng sáng, vị võ tướng đã thức dậy đến chùa làm lễ, sau đến gặp Thiền sư Tôn Cao xin thế độ xuất gia.

Thiền sư hỏi: Tướng quân hôm nay sao dậy sớm thế?

Võ tướng đáp: Trừ đi ngọn lửa lòng rồi, đến đây để lễ thầy.

Thiền sử liền nói: Tướng quân đến chùa sớm, không sợ phu nhân ở nhà ngủ với người khác sao?

Võ tướng nghe lời nói sỗ sàng, vô lễ của Thiền sư, giận điên cả người mà quên hết lễ nghi, lên tiếng chửi rủa Thiền sư Tôn Cao: Lão trọc nầy sao dám vô lễ với ta.

Thiền sư mỉm cười và từ từ nói: Lửa lòng của tướng quân chưa tắt, bần tăng chỉ quạt nhè nhẹ thôi, lửa trong lòng của tướng quân đã cháy rồi. Tính nóng nảy thô lỗ của tướng quân chưa trừ được, chưa có thể xuất gia, phải đợi thêm vài ba năm nữa.

Viên võ tướng về nhà nghĩ lại, hổ thẹn muôn phần.

Lửa lòng dập tắt không hừng,

Thức thần sai khiến thì đừng nghe theo.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LỬA PHIỀN

Lửa: Do vật cháy phát ra nhiệt và ánh sáng. Phiền: Buồn bực.

Phiền não là những động lực tâm lý bất thiện, được ví như ngọn lửa, gọi là “Lửa phiền”.

Lửa phiền có khả năng, nung nấu, thiêu đốt trong lòng, khiến chúng ta sầu não, bất an, hoặc có khả năng thúc đẩy gây ra những hành động sai lầm, tạo thành ác nghiệp, khổ đau.

Lánh đường trần tục đến non Tiên,

Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tiên nguồn Thánh ngọn dò chân đến,

Đến đặng là phương rưới lửa phiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Bước đời chìm nổi bấy nhiêu niên,

Tâm chí ghe phen dập lửa phiền.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

LỬA THÀNH CÁ AO

Lửa thành: Lửa cháy thành. Cá ao: Cá dưới ao.

Lửa thành cá ao có nghĩa là lửa cháy cửa thành vạ lây đến cá dưới ao.

Do câu “Sở quốc vong viên, hoạ diên lâm mộc. Thành môn thất hoả, hoạ cập trì ngư 楚 國 亡 猿, 禍 延 林 木. 城 門 失 火, 禍 及 池 魚” nghĩa là nước Sở mất vượn, hoạ luỵ đến cây rừng. Cửa thành lửa cháy, cá trong ao bị lây.

Muốn tìm con vượn mất, phải phá tan rừng cây, muốn tưới tắt lửa thành, phải múc cạn nước ao.

Vì thế, cây rừng phải nát, cá ao phải khô. Chỉ việc vô cớ bị vạ lây.

Gió trốt làm phiền cây giữa nội,

Lửa thành còn ngại bên ao.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LỬA TINH TRUNG THIÊU MÌNH VÕ TÁNH

Võ Tánh vốn là người làng Phước An, Biên Hoà, sau dời về ở tại Bình Dương, Gia Định. Vì không chịu khuất phục Tây Sơn, ông chiêu tập nghĩa binh cùng với anh là Võ Nhàn phất cờ khởi nghĩa tại thôn Vườn Trầu (Gia Định), rồi kéo binh chiếm cả vùng Gò Công.

Võ Tánh về theo Nguyễn Vương từ năm Mậu Thân (1788), lãnh chức Tiên Phong Dinh Khâm Sai Chưởng Cơ và được Nguyễn Vương gả em gái là Ngọc Du Công chúa cho.

Nguyễn Vương lần lần đánh thắng quân Tây Sơn, thâu phục miền Nam, rồi kéo binh ra miền Trung, hạ thành Bình Định. Khi Nguyễn Vương rút quân về Gia Định, giao thành Bình Định lại cho Hậu quân Võ Tánh và Lễ Bộ Tham Tri Ngô Tùng Châu ở lại lo việc phòng giữ.

Chẳng bao lâu đại binh Tây Sơn dưới quyền Thái Phó Trần Quang Diệu và Đại Tư Đồ Võ Văn Dũng kéo đến vây thành. Võ Tánh một mặt cố thủ, mặt khác sai tướng Lê Chất về Gia Định để cấp báo cho Nguyễn Vương. Nguyễn Vương đưa binh ra cũng không thể giải cứu nổi thành và cuộc bao vây kéo dài đến 14 tháng.

Trong khi cầm cự để giữ chủ lực Tây Sơn ở Bình Định, Võ Tánh đã giúp Nguyễn Vương cơ hội đánh lấy thành Phú Xuân rất dễ dàng.

Về sau, bị vây hãm một cách gắt gao hơn, quân sĩ trong thành thiếu lương thực càng lâm vào một tình thế hết sức nguy ngập, có người khuyên Võ Tánh nên vượt vòng vây trốn ra, nhưng ông không chịu, thà chết với thành trì.

Võ Tánh viết một bức thư cho hai tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng, yêu cầu xin tha mạng cho các quân sĩ và nhân dân vô tội.

Tiếp đó, Võ Tánh mặc triều phục, hướng về Nam lạy Nguyễn Vương rồi giã từ các tướng sĩ, đi lên lầu Bát Giác, phóng hoả tự thiêu. Quan Hiệp Trấn là Ngô Tùng Châu cũng uống thuốc độc tự tử. Hôm ấy là ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu (Dl. 07-07-1801).

Trần Quang Diệu đem quân vào thành, khâm phục trước tấm gương tiết liệt của Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, sai người khâm liệm hai người tử tế và y theo lời cầu xin của Võ Tánh, tha chết cho các binh lính và dân chúng trong thành.

Bên phía trong hành lang Nam phái nơi Báo Ân Từ có vẽ khuôn hình lấy tích “Thành Bình Định Võ Tánh thiêu mình

Lửa tinh trung thiêu mình Võ Tánh,

Khuyên Nguyễn Vương đừng đánh giải vây.

Lấy Phú Xuân, cơ hội này,

Dọn đường phục quốc quân Tây kinh hồn.

(Báo Ân Từ).

 

 

LỰA

1.- Lựa là kén chọn những cái đáp ứng theo yêu cầu sao cho việc làm đạt kết quả tốt nhất. Như: Lựa hạt giống tốt, lựa mặt gởi vàng, lựa lời khuyên giải.

Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Ai hữu phước thì địa vị đặng cao thêm, ai vô phần thì bị đoạ Tam pháp. Phước phần cũng khó lựa người, rủi rủi may may đừng trách nơi Bần đạo.

Ðặng ngọc mà chê ngọc chẳng lành,

Ðường Tiên chẳng lựa, lựa đường danh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lựa những mặt tài tình thọ giáo,

Học cho thông mối đạo quân thần.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Lựa, như chữ “Lọ”, có nghĩa là huống chi, huống nữa, huống là. Như: Lựa là, lựa phải.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy: Dầu cho sắt đá cỏ cây, mà nghe đến Thánh Ngôn nơi Thầy do con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người. Con nhớ và an lòng.

Nên thời vương bá lúc ngồi câu,

Lựa phải cửa công đến chực hầu.

(Đạo Sử).

Biết đạo nhà chẳng để hao mòn,

Lựa đem ném đầu non quăng đáy biển.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỰA CHỌN

Lựa: Chọn lấy những cái đáp ứng yêu cầu trong nhiều cái cùng loại. Chọn: Lọc, kén, lựa.

Lựa chọn là chọn trong nhiều cái cùng loại. Như: Lựa chọn ngành nghề.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Chúng sanh là toàn cả nhơn loại chớ không phải lựa chọn một phần người, như ý phàm tục các con tính rỗi.

Lựa chọn đã nhiều già kém lắm,

Chẳng ưa phàm tục hỏi đâu Tiên.

(Đạo Sử).

Lựa chọn những gì riêng kiếp trái,

Đớn đau chỉ nặng mối thâm tình.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

Sự dở hay cũng bởi nơi mình,

Điều hay dở mặc tình lựa chọn.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỰA DÈO

Lựa: Chọn lấy những cái đáp ứng yêu cầu trong nhiều cái cùng loại. Dèo: Tình thế, những biểu hiện bên ngoài giúp nhận biết sự việc.

Lựa dèo là lựa chọn tình thế, tức là tuỳ theo tình hình mà ứng phó công việc.

Như: Lựa dèo mà đối phó.

Trăm năm chưa hẳn nên hiền đức,

Tấn nẻo chông gai khá lựa dèo.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lựa dèo lựa thế độ nhơn sanh,

Khó dễ Thầy cho hiểu ngọn ngành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LỰA LÀ

Lựa: Như chữ lọ, có nghĩa là huống chi, huống nữa. Là: Tiếng dùng để chỉ nghĩa gì, cái gì, ra sao.

Lựa là, như chữ “Lọ là”, có nghĩa là huống là, nữa là.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy: Dầu cho sắt đá cỏ cây, mà nghe đến Thánh Ngôn nơi Thầy do con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người. Con nhớ và an lòng.

Sắm nghiệp trần gian còn phải khó,

Lựa là nghi trưởng tại Bồng Sơn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lựa là kiếm gia tài có sẵn,

Tính cậy nhờ cho đặng lập thân danh.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LỰC

Lực là sức. Như: Lực sĩ, quyền lực, thế lực, tận lực.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Các con phải đồng tâm hiệp lực, bỏ hết các điều tệ theo thường tình, thì mới dễ thành Ðạo.

Thế đời càng dữ càng kiêng đức,

lực hùng oai cũng chẳng màng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Văn chương bạc tóc biến thêm nhiều,

lực nửa đời võ phải tiêu.

(Đạo Sử).

 

 

LỰC BẤT TÒNG TÂM

力 不 從 心

Lực: Sức lực. Bất tòng tâm: Không theo lòng dạ.

Lực bất tòng tâm sức lực không theo được với lòng mong muốn, tức là lòng muốn làm nhưng sức lực không cho phép.

Ý chỉ tuổi già sức yếu muốn làm việc nặng cũng không đủ sức lực để làm.

Lực bất tòng tâm khi sức yếu,

Thần không tỉnh táo lúc sân si.

(Thơ Thiên Vân).

 

 

LỰC QUYỀN

力 權

Lực: Sức lực, tức sức mạnh của thân thể. Quyền: Cái thế lực có thể định đoạt việc nầy việc khác.

Lực quyền là sức lực và quyền hành.

Trong bài Diễn văn của Đức Quyền Giáo Tông đọc tại Toà Thánh có đoạn: Tệ Huynh hằng hỏi lấy mình, cái ngày của Ðại Từ Phụ sai Hộ Pháp và Thượng Phẩm đem lịnh vào nhà mà dạy một đứa tội tình nầy phải dâng trọn xác hồn cho Ngài làm lợi khí mở chơn truyền, nên gọi là ngày hữu duyên hay là ngày trả nợ? Nếu phải trả nợ thì Thầy lại nào đành giao một cái gia nghiệp vĩ đại của nhơn sanh cho một kẻ tham gian ngược, còn như gọi rằng duyên thì chắc đủ lực quyền cầm vững Ðạo.

Nhơn sanh đồ thán cơn binh lửa,

Thế giới thương đau nỗi lực quyền.

(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).

 

 

LỰC SĨ THÁO HÀI

Lực Sĩ: Cao Lực Sĩ, tên một quan Thái úy đời vua Đường Minh Hoàng. Tháo hài: Cởi giày.

Lực Sĩ tháo hài do tích quan Thái Uý đời vua Đường Minh Hoàng là Cao Lực Sĩ cho Lý Thái Bạch lúc mới vào trường thi là hạng học trò đáng tháo giày cho người.

Sau vua Đường Minh Hoàng triệu Lý Bạch vào thảo chiếu thư bằng chữ Phiên để phúc đáp cho Phiên Quốc. Lý Bạch đồng ý viết nhưng với điều kiện quan Thái Sư Dương Quốc Trung đứng mài mực, quan Thái Uý Cao Lực Sĩ phải khom tháo giầy.

Xem: Quốc Trung mài mực.

Quốc Trung hổ mặt khom mài mực,

Lực Sĩ cam tâm cúi tháo hài.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

LƯNG

1.- Lưng là phần phía sau cơ thể, từ vai theo xương sống đến hông. Như: Lưng người, chung lưng đâu cật.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy khuyên các con phải chung lưng đâu cật mà bước đến cảnh nhàn.

Trước người giả bộ siêng lo,

Sau lưng gian trá so đo tấc lòng.

(Kinh Sám Hối).

Con rìu lưng giắt tài xông lướt,

Lợi thế tai ngơ nỗi được thua.

(Thơ Huệ Giác).

2.- Lưng là non, không đầy, phân nửa. Như: Chén nước lưng, lưng đấu gạo, nước mắt lưng tròng.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Đức Lý đến chỉ công chuyện như vầy rồi thăng, kế Đức Chí Tôn đến biểu đừng nghe lời, làm Bần Đạo lưng chừng, túng thế, Ngài nắm Bần Đạo ngồi trên bàn từ 9 giờ tối đến 4 giờ khuya, Ngài không cho đi đâu hết, buộc phải nghe lời Ngài viết nói đủ lẽ nguy tướng của Đạo, nếu không quyết định thì đi khỏi nền Đạo Cao Đài trước tốt hơn.

Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,

Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LƯNG CONG

Lưng: Phần phía sau cơ thể, từ vai theo xương sống đến hông. Cong: Không thẳng.

Lưng cong, do chữ “Chiết yêu 折 腰”, là lưng không thẳng, tức bẻ gập cái lưng, ý chỉ luồn cúi vì miếng ăn.

Do truyện: Đào Tiềm làm Huyện lệnh Bành Trạch. Khi viên thanh tra là một kẻ tầm thường trong làng đến Huyện lệnh, ông phải sửa sang áo mũ để đón tiếp. Ông bèn than rằng: Ta không vì năm đấu gạo mà phải gập lưng (Chiết yêu) quỳ lạy kẻ tiểu nhân trong làng.

Về sau, Đào Tiềm treo áo từ quan, về vui thú với ruộng vườn.

Cửa công huyện mãn nha còn,

Dạ thưa lưỡi mõi, cúi lòn lưng cong.

(Ngụ Đời).

 

 

LƯNG VƠI

Lưng: Chỉ đựng một nửa vật chứa. Vơi: Không đầy.

Lưng vơi là còn lưng một nửa, chưa đầy, chỉ còn ít so với yêu cầu mong muốn.

Ðầy đủ đức kia mới cận Trời,

Lòng thương đâu lại có lưng vơi.

(Đạo Sử).

Lưng vơi lấy chí anh hùng,

Mượn gươm thần huệ dứt lần trái oan.

(Ngụ Đời).

Cái nghĩa nhơn luân vốn luật Trời,

Chẳng vì cảnh tục phải lưng vơi.

(Thất Nương Giáng Bút).

 

 

LỪNG

1.- Lừng là bốc lên, xông lên, toả ra mạnh và rộng. Như: Mùi hoa thơm lừng, hương quế ngát lừng.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nét nào chưa vẹn, khá biết sửa lần, chớ nên trì huỡn. Ðạo suy đức kém, Tà quái lừng hơi, các con gắng chung tâm xua trục hết lũ vạy tà thì hiến công lớn cho Thầy đó.

Xạo xự tuồng đời lừng bợn tục,

Trau tria nét đạo nực mùi hương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Lừng Trời vẹt ngút mây xây mịt,

Ðài ngọc khoe gương sắc rạng ngần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lừng là vang lên, vang xa ai cũng biết. Như: Pháo nổ vang lừng, tiếng đồn lừng xa.

Thượng Sanh hỏi về việc cầu phong cho các danh nhân vào phẩm Hiền Tài và Quốc Sĩ, Thánh giáo Đức Hộ Pháp tại Giáo Tông Đường có dạy: Việc ấy là việc của các bạn phải đủ sáng suốt tuyển chọn nhơn tài, vì sẽ có tiếng dội vang lừng trong khắp các giới. Vì vậy mà Bần đạo cũng phải cẩn thận.

Cửa sấm vang lừng lời chẳng định,

Trướng hùm phưởng phất nét uy dung.

(Thơ Đào Công).

Trận tuyến danh lừng vang bách tướng,

Biên thuỳ tiếng hý giục tòng quân.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

LỪNG DANH

Lừng: Vang lên, vang xa ai cũng biết. Danh: Tên họ.

Lừng danh là nổi tiếng được nhiều người biết đến.

Trong Bản Tuyên Dương Công Nghiệp Đức Thượng Sanh của Ngài Hiến Pháp có câu: Cả ba Ông (Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh) là nhạc sĩ lừng danh trong giới âm nhạc tại Thủ Ðô Sài Gòn, hai Ông Cư và Sang được coi như bậc Thầy trong giới nầy, sau khi Ông Cư đăng Tiên rồi, thì Ông Sang được coi như bậc Hậu Tổ.

Khổng tước lừng danh non Thứu lãnh,

Chở che bá điểu khỏi lo phong.

(Thơ Trần Thạnh Mậu).

Âu, Á lừng danh bao thế hệ,

Pasteur, Hải Thượng tấm gương ngời.

(Thơ Thành Toại).

 

 

LỪNG LẪY

Lừng: Chỉ mùi toả ra mạnh và rộng, tiếng tăm vang xa, ai cũng biết.

Lừng lẫy là dâng tràn lên, hoặc tiếng tăm vang lừng khắp mọi nơi, đến mức ai ai cũng đều nghe biết.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chúng ta đã ngó thấy, từ cổ chí kim có cái cường lực hình thể nào làm cho họ khủng khiếp, sợ hãi chăng? Họ chỉ lấy cái thân hình mà làm cái mạnh bạo của họ. Hễ thuận mạng lịnh của họ thì sống, trái mạng lịnh thì họ giết chết. Cái năng lực hình thể có bao nhiêu quyền năng nương cái chết của thiên hạ là căn bản mà thôi, nên làm cho tinh thần họ càng lừng lẫy coi cái chết là thường.

Nghiệp cũ nhà xưa còn dấu bỏ,

Trông chi lừng lẫy tính nghề to.

(Đạo Sử).

Lòng tình ái sao cho lừng lẫy,

Cái khí thương động dậy trời già.

(Phương Tu Đại Đạo).

Nền giao nào lúc oai lừng lẫy,

Đảnh Việt nay cam ruột chín chiều.

(Thơ Đào Công).

 

 

LỬNG

1.- Lửng là lưng chừng, nửa chừng, phỏng.

Như: Lấp lửng, bỏ lửng công việc, ăn lửng dạ, tóc buông lửng ngang vai, mới lửng buổi đã trở về.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy cấm từ đây chẳng nên lấp lửng cầu cơ hay chấp bút chi, vì là một sự hại lớn lao cho Ðạo.

Buồm trương dặm Bắc con chèo lửng,

Mặt ngoảnh non Tây bóng ác tà.

(Thơ Hoàng Nguyên).

2.- Lửng là quên.

Như: Quên lửng, lửng lên dây đồng hồ.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bởi có các luật lệ ấy tùng theo luật tương đối nó vẫn mâu thuẩn nhau mà thôi, mặt luật duy nhứt là mặt Luật Thương Yêu mà thiên hạ quên lửng thiên hạ đã bỏ nó.

Nhơn loại dùng thế lực mà cắn xé nhau, giành giựt nhau, quên lửng cõi trần nầy, nhơn sanh lãnh mỗi đứa một vai tuồng đặc biệt mà trả cho xong căn xưa quả cũ.

(Thánh Ngôn HIệp Tuyển).

 

 

LỬNG LƠ

Lửng: Lưng chừng, nửa chừng.

Lửng lơ là ở trạng thái nửa vời, không ra việc gì hết.

Như: Làm việc bỏ lửng lơ như nó là tắc trách, câu chuyện bỏ lửng lơ.

Chớ có lửng lơ mà thối chí,

Rồi sau đừng nói thất Chơn truyền.

(Thánh Giáo Minh Thiện).

 

 

LỮNG CHỮNG

Lững chững là đi từng bước một, khó khăn, hoặc chưa vững.

Lững chững còn dùng để chỉ nước lững lờ, trông có vẻ như đứng im, không chảy.

Như: Đứa bé vừa biết đi lững chững, bệnh vừa mới hết đã lững chững đến nhà, nước sông lững chững trôi.

Chặt chịa cùng đời chưa rõ ích,

Thân còn lững chững nợ chưa rồi.

(Đạo Sử).

Lững chững trôi theo chiều lượn sóng,

Lỡ làng quày quả liệng đường neo.

(Bát Nương Giáng Bút).

 

 

LỮNG ĐỮNG

Lững đững, như chữ “Lững chững”, là đi từng bước một, khó khăn, hoặc chưa vững.

Lững đững còn có nghĩa chỉ nước lững lờ, trông có vẻ như đứng im, không chảy.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Công chỉ dẫn của Thầy phải lững đững theo giọt thuỷ triều, mà rồi rốt cuộc lại, bến khổ cũng chưa xa, ngôi xưa còn lánh mãi.

Xem: Lững chững.

Rủi gặp em cậy thế ỷ thời,

Khá nhớ bé tập chơi đi lững đững.

(Phương Tu Đại Đạo).

Lừng Trời lững đững ngàn muôn kẻ,

Cười nói mừng vui đến miệng chào.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LỮNG THỮNG

Lững thững là một tiếng dùng để gợi tả dáng đi thong thả, chậm rãi từng bước một.

Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có câu: Ðường sá vắng bóng người, hai vệ đường cây che rậm rạp, heo rừng và nai lững thững đi kiếm ăn, thấy xe ngựa chạy ngang chúng tuông vào đám rừng chồi sột sạt làm tôi cũng giựt mình.

Nương con gậy ra vào lụm cụm,

Lưng gối dùn lững thững bước đi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LƯỢC

1.- Lược là qua loa, sơ sài, tức bớt đi những chi tiết để giữ lại cái chính, cái cơ bản. Như: Sơ lược, lược giải.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ngoài ra hằng ngày ta đã nghe và thấy các tấn tuồng của đời diễn ra từ lớp, hay dở tốt xấu, lành dữ, hư nên ta mới lấy đó mà kinh nghiệm kỹ càng rồi mới lọc lược cái hay, cái khéo ở trong đó mới lập lại làm với một quyển sách của cha mẹ dạy ta từ thử, rồi ta mới đem lên trên Linh Ðài, ta sẽ do theo đó mà làm mực thước cho sự hành vi của ta và ta đủ đức tin nơi đó, là cơ bảo tồn lấy thân ấy gọi là tự túc nơi đó tự tín nghĩa là tu thân.

Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng Con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

2.- Lược là mưu kế, không dùng một mình.

Như: Chiến lược, phương lược, sách lược, đánh giặc phải có mưu lược,

Cách xây đổi phương lược tuỳ cơ ứng biến. Ấy là cơ nghiệp riêng của mỗi đạo hữu, Bần đạo không dám dạy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

3.- Lược còn là tên một quyển binh pháp dạy về phép dụng binh do Hoàng Thạch Công soạn, gọi là “Tam lược 三 略”, dùng để chỉ về phép điều binh khiển tướng hay kế hoạch quân sự. Như: Tam lược lục thao, sáu thao ba lược.

Lược sách binh thư dâng bửu bối,

Bao trùm hậu khí giúp nhà Nam.

(Liễu Nhứt Chơn Nhơn).

Dạy gắng học sáu thao ba lược,

Hầu có ngày rộng bước phong vân.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LƯỢC GIẢI

略 解

Lược: Qua loa, sơ sài, bớt đi những chi tiết để giữ lại cái chính, cái cơ bản. Giải: Cắt nghĩa cho rõ.

Lược giải là cắt nghĩa những ý chính, cơ bản, bỏ qua các chi tiết thường.

Trước khi mở hội, Bần Đạo lược giải cái chánh tâm của Đạo đã từ năm năm nay,...

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LƯỢC THAO

略 韜

Lược thao, do chữ “Tam lược lục thao 三 略 六 韜”, là tên hai bộ binh thư thời xưa.

Tam lược là một bộ sách binh thư của Hoàng Thạch Công, trong đó giải về chiến thuật, chiến lược, cách dùng binh trong chiến tranh thời xưa.

Lục thao là một bộ sách tương truyền của Thái Công Vọng làm ra, trong đó chia thành sáu thế binh pháp, gồm có: Văn thao, Võ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao và Khuyển thao.

Lược thao dùng để chỉ chung phép dụng binh, kế hoạch quân sự.

Lựa nên một giống máu anh hào,

Chẳng phải phen người đủ lược thao.

(Đạo Sử).

Điệu vần thơ nối bao vần điệu,

Thao lược cờ khai mấy lược thao.

(Thơ Hoàn Nguyên).

 

 

LƯỚI

1.- Lưới là vật đan thưa bằng chỉ, hoặc sợi để bắt cá hay chim, thú rừng.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Dục vọng vô bờ bến của con người bao hàm sự quyến luyến ràng buộc với điều mình ham muốn. Nhưng một khi đã dính líu, người ta không còn tự do nữa, như cá phải mắc câu, chim sa lưới.

Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá,

Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.

(Kinh Sám Hối).

Thoát lưới, vẫy vùng an phận cá,

Sổ lồng, thong thả rảnh chân chim.

(Thơ Thuần Đức).

2.- Lưới còn dùng với nghĩa bóng là vòng trói buộc đã mắc vào không thể thoát được.

Như: Lưới trời, lưới pháp luật, lưới tù tội.

Lộng lộng lưới trời tuy sếu sáo,

Thưa mà chẳng lọt mảy lông mày.

(Giới Tâm Kinh).

 

 

LƯỚI RẬP

Lưới: Đồ đan bằng chỉ, sợi dùng để dánh bắt cá, chim. Rập: Cái bẫy, vật để dùng bắt chim, chuột.

Lưới rập là lưới và bẫy, ý chỉ những dụng cụ dùng để đánh bắt các loài chim cá.

Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá,

Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LƯỚI THANG

Lưới: Đồ đan bằng chỉ, sợi dùng để dánh bắt cá, chim, muông. Thang: Chỉ vua Thành Thang.

Lưới Thang, bởi chữ “Thang võng 湯 網” là tấm lưới của vua Thang, nói đức nhân từ, độ lượng của vua Thành Thang nhà Thương.

Sử Ký chép: Một hôm Vua Thành Thang đi ngang qua cánh đồng nội gặp một người giăng lưới cả bốn mặt để bẫy chim, miệng lâm dâm vái: Tự nhiên thiên hạ tứ phương giai nhập ngô võng 自 然 天 下 四 方, 皆 入 吾 綱, nghĩa là chim từ bốn phương trong thiên hạ đều sa vào lưới ta.

Nghe thế, vua Thang mới nói: Ôi! Như vậy thì còn gì chim chóc nữa. Rồi vua bắt buộc mở ba mặt lưới chỉ chừa một và cầu rằng: Dục tả tả, dục hữu hữu, dục cao cao, dục hạ hạ. Bất dụng mệnh giả, nãi nhập ngô võng 欲 左 左, 欲 右 右, 欲 高 高, 欲 下 下. 不 用 命 者, 乃 入 吾 網, nghĩa là chim muốn sang trái thì bay sang trái, muốn sang phải thì bay sang phải, muốn bay cao thì bay lên cao, muốn thấp thì bay xuống thấp. Con nào không cần sống nữa, hãy bay vào lưới ta.

Người đời nghe được câu chuyện này, đều ca tụng đức của vua Thành Thang nhân từ xuống khắp đến loài cầm thú.

Đức Lý Đại Tiên trong bài “Ngụ Đời” có viết: Thành Thang buông mặt lưới trương, Biết khôn cầm thú kiếm đường cao sâu.

Ðợi thời toan mượn cần câu Lữ,

Dựng nghiệp tua chờ mặt lưới Thang.

(Đạo Sử).

 

 

LƯỚI THƯỚI

Lưới thưới là rách rưới, tả tơi, không còn chỗ nào lành lặn, kín đáo nữa. Như: Ăn mặc lưới thưới như vậy mà đi ra phố không sợ người ta cười sao.

Lưới thưới còn có nghĩa là lủi thủi, tất tả, rày đây mai đó. Như: Thằng bé đi kiếm ăn lang thang, lưới thưới.

Lang thang lưới thưới bắt đau lòng,

Kêu Ðấng Phước Thần hỡi bớ Ông!

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LƯỚI TRẦN

Lưới: Vòng trói buộc như cái lưới đã mắc vào không thể thoát được. Trần: Bụi, chỉ cõi trần.

Lưới trần do triết lý của tôn giáo thường ví cõi trần như một chiếc lưới ngăn chắn con người vào đó, khó mà thoát ra được.

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo của Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Đạo cao hơn đời là ở chỗ đó, nếu tinh thần bạc nhược thì thoát qua chưa khỏi lưới trần, đáng tiếc một kiếp tu khổ hạnh.

Thuốc trần tục, người lâm phàm thêm mẩn mê dã dượi,

Nay phép Tiên đã rưới, kíp mau định hồn lại, mà thoát ra khỏi lưới trần.

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

LƯỚI TRỜI

Lưới: Vòng trói buộc như cái lưới đã mắc vào không thể thoát được. Trời: Chỉ sự thiên nhiên.

Lưới trời, bởi chữ “Thiên võng 天 網” trong câu của Lão Tử: Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu 天 網 恢 恢, 疏 而 不 漏, nghĩa là lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.

Lưới trời dùng để nói người gây tội lỗi, người làm bậy khó mà thoát được báo ứng của lưới trời.

Lộng lộng lưới trời tuy sếu sáo,

Thưa mà chẳng lọt mảy lông mày.

(Giới Tâm Kinh).

Không dè mắc phải lưới Trời,

Thưa mà không lọt chuyện người mảy lông.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LƯỜI BIẾNG

Lười: Không siêng năng, làm việc lấy có. Biếng: Nhác, không thích hay ngại làm việc.

Lười biếng là ở trạng thái không thích, ngại làm việc, ít chịu cố gắng. Như: Lười biếng học tập.

Trong sách Giảng Đạo Chơn Ngôn, Phối Sư Thái Đến Thanh có đoạn dạy: Chưa từng thấy một người nào bình nhựt ở không chơi bời lười biếng, mà được giàu sang vinh hiển, lập nên danh thể lưu lại trên đời mà cũng chẳng thấy một nhà tu nào, không chịu khổ hạnh vì Ðạo mà đắc thành Thiên vị phẩm tước cao siêu ấy là chơn lý hiển nhiên từ thử.

Ả Chức bơ thờ quên nhiệm vụ,

Chàng Ngưu lười biếng lộ hành tung.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LƯỠI

1.- Lưỡi là bộ phận mềm trong miệng dùng để nếm thức ăn, ở người còn dùng để phát âm.

Thánh giáo Thầy có dạy: Than ôi! Ðiều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi uốn lưỡi, mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.

Nói lời tục tĩu không nhường,

Tội hành cắt lưỡi trăm đường ghê thay!

(Kinh Sám Hối).

So hơn đức hạnh mới nên giành,

Cái lưỡi không xương thiệt quá lanh.

(Đạo Sử).

Sống thấy chết, miệng cười mắt khóc,

Nịnh lừa trung, lưỡi thọc tay đâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Lưỡi, nghĩa rộng dùng để chỉ cái gì hình mỏng và giống cái lưỡi. Như: Lưỡi gươm, lưỡi dao.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nhờ lẽ chơn thật của nó, không có lưỡi gươm bén nào trị tinh thần đặng, thì không có lực lượng nào đè nén đặng. Nó phải thắng đời để cứu đời.

Chê tà trừ bạo lẽ như nhiên,

Song lưỡi gươm chưa sánh dạ hiền.

(Đạo Sử).

 

 

LƯỠI CÂU

Lưỡi: Vật gì hình mỏng và giống cái lưỡi. Câu: Dùng lưỡi câu để bắt cá.

Lưỡi câu là cái móc nhỏ, đầu sắc nhọn, thường có ngạnh, dùng để móc mồi câu cá.

Như: Móc mồi trùng vào lưỡi câu, lưỡi câu thép mà bị sét nên không câu được.

Thành Thang gắm ghé giăng tay lưới,

Lữ Vọng sẵn sàng móc lưỡi câu.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LƯỠI KHÔNG XƯƠNG

Lưỡi: Bộ phận mềm trong miệng dùng để nếm thức ăn, ở người còn dùng để phát âm. Không xương: Không có bộ phận cứng như xương.

Lưỡi không xương, bởi câu “Lưỡi không xương trăm đường lắt léo”, ý muốn nói người nhiều chuyện, nói tới nói lui, nói xuôi nói ngược đều được tựa như lưỡi không xương có thể bẻ qua bẻ lại.

So hơn đức hạnh mới nên giành,

Cái lưỡi không xương thiệt quá lanh.

(Đạo Sử).

 

 

LƯỠI LIỀM

Lưỡi: chỉ cái gì hình mỏng và giống cái lưỡi. Liềm: dụng cụ bằng sắt, lưỡi vòng cung, có khía, dùng để cắt cỏ, cắt lúa.

Lưỡi liềm loại nông cụ gồm một lưỡi hình vòng cung, có khía bén, có cán cầm, dùng để cắt lúa, cỏ.

Lưỡi liềm chi dễ sánh kim câu,

Gây sự bởi ai tạo buổi đầu.

(Quyền Giáo Tông).

 

 

LƯỠI THỌC TAY ĐÂM

Lưỡi thọc: Dùng lưỡi nói lời đâm thọc. Tay đâm: dùng tay để chém đâm.

Lưỡi thọc tay đâm ý muốn nói miệng lưỡi thì buông lời đâm thọc, gây sự căm thù chia rẽ, còn tay thì lại thích chém thích đâm.

Sống thấy chết, miệng cười mắt khóc,

Nịnh lừa trung, lưỡi thọc tay đâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LƯỢM

Lượm là nhặt lấy. Như: Cúi xuống lượm, ăn trộm lượm mất quần áo, lượm lặt.

Nói về Khổng Thánh, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ngài đặt ra luật lệ cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc lớn nhỏ phân biệt, trai gái đều có bổn phận, ngoài đường không lượm của rơi, kẻ gian phi vắng bóng, hình pháp có đặt ra mà không dùng đến.

Hoặc là đinh nhọn, chông gai,

Mau tay lượm lấy đoái hoài kẻ sau.

(Kinh Sám Hối).

Thảo chi sang lượm với danh mua,

Chẳng hiểu chánh tâm cứ nói đùa.

(Đạo Sử).

 

 

LƯỢM LẶT

Lượm: Nhặt, cầm lên. Lặt: Nhặt, lượm.

Nhặt chỗ nầy một ít, chỗ khác một ít gom góp lại, gọi là “Lượm lặt”.

Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Lễ Nhạc chẳng hoàn toàn, nhiều đứa cậy tài học giỏi, lượm lặt sách xả rác hủ nho, mong bài bác đặng vinh mặt.

Kinh sử trẻ lưu tâm lượm lặt,

Tài văn già thấy vốn chưa tầng.

(Thơ Bảo Văn Pháp Quân).

 

 

LƯỜN

Lườn là lòng thuyền, tức là phần chìm dưới nước của tàu, bè, thuyền.

Như: Con thuyền có đáy dài lườn rộng, chiếc bè thường đóng hẹp lườn.

Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng Vương,

Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt lườn.

(Thuyết Đạo Hộ Pháp).

 

 

LƯỢN SÓNG

Lượn: Làn, chỉ một luồng sóng. Sóng: Nước dâng cuồn cuộn lên thành từng lớp.

Lượn sóng là làn sóng, chỉ sóng di chuyển uốn quanh theo đường vòng xô vào bờ.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Chới với biết bao người giữa lượn sóng trầm luân, mà con đường xô đẩy khách trần vào chốn đắm chìm, hằng vẽ cảnh cùng sầu cho nhơn loại.

Thuyền huệ gay chèo lao lượn sóng,

Trời thanh ngảnh mặt ngắm đầu non.

(Thơ Võ Thành Lượng).

 

 

LƯƠNG

1.- Lương là một thứ lúa trong ngũ cốc. Như: Huỳnh lương (hột kê vàng).

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Một giấc huỳnh lương thảm khổ này không vui sướng gì, chúng ta biết cả thảy đồng khổ cả.

Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn,

Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.

(Kinh Tận Độ).

Tiếng chuông thức giấc huỳnh lương,

Toan nương thuyền huệ vào đường vĩnh sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Lương là thức ăn dự bị sẵn, thường là ngũ cốc.

Như: Mang theo lương để đi đường xa, chuẩn bị lương ăn hằng ngày, kho lương.

Lung kê hữu mễ than oa cận,

Dã hạc vô lương Thiên Ðịa khoan.

(Lý Giáo Tông Giáng).

3.- Lương là lương thực, hay tiền gạo cấp cho người làm việc ăn hàng ngày, hàng tháng.

Như: Lương bổng, tháng nầy chưa lãnh lương, trợ cấp hàng tháng cho lương công nhân.

Mỗi ngày một bữa ngọ qua,

Không lương không bổng cũng là an thân.

(Thơ Hộ Pháp).

Vui chi kiếp sống không nhà,

Không lương không bổng thật là nguy vong.

(Thơ Hộ Pháp).

4.- Lương là lành, tốt, hiền lành.

Như: Nước có chiến tranh thì làm thiệt hại cho lương dân, người lương thiện trong xã hội nầy thì ít.

Ra giao thiệp với đời thì phải tập và giữ tánh:Ôn, Lương, Cung, Khiêm, Nhượng.

(Tân Luật).

 

 

LƯƠNG BỔNG

糧 俸

Lương: Lương thực, hay tiền gạo cấp cho người làm việc ăn hàng ngày, hàng tháng. Bổng: Tiền lương của quan lại.

Lương bổng dùng để chỉ tiền lương của quan lại, hoặc viên chức nhà nước.

Như: Chế độ lương bổng không phù hợp thực trạng của nền kinh tế hiện nay.

Lương bổng hẹp hòi thân bộc lại,

Thuế sưu oằn oại phận tôi đòi.

(Mỹ Ngọc Thi Phổ).

 

 

LƯƠNG DÂN

良 民

Lương: Tốt đẹp, hiền lương. Dân: Người dân.

Lương dân là nói người dân lương thiện.

Trong Sớ Văn có câu: Nghiêu Thuấn lương dân, an cư lạc nghiệp, cộng hưởng thạnh trị thái bình, thanh nhàn hạnh phước.

Kỷ niệm đêm nay Chúa giáng trần,

Hoằng khai Thánh Đạo độ lương dân.

(Thơ Thái Đến Thanh).

Đời khổ lương dân lo hoạ phúc,

Thế cùng ác quỷ gạt Thần Tiên.

(Thơ Huệ Phong).

 

 

LƯƠNG ĐIỀN

糧 田

Lương: Lúa gạo, thức ăn. Điền: Ruộng.

Lương điền là làm ruộng để sản xuất lúa gạo. Sở Lương điền là cơ sở sản xuất ra lúa gạo của Cơ Quan Phước Thiện của đạo Cao Đài.

Mỗi Quận đạo nào có lập cơ sở Lương điền, Công nghệ, Thương mại thuộc Phước Thiện...

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

LƯƠNG HẠO

梁 灝

Lương Hạo là người có chí lớn, tuổi đã tám mươi hai mà còn vào sân điện ứng thí, được đỗ đầu khoa.

Tam Tự Kinh có câu: Nhược Lương Hạo, bát thập nhị, đối đại đình, khôi đa sĩ 若 梁 灝, 八 十 二, 對 大 廷, 魁 多 士, nghĩa là như ông Lương Hạo, tám mươi hai tuổi, vào thi ở sân nhà vua, đỗ đầu các học trò.

Noi gương Lương Hạo dồi kinh sử,

Nhà nước mai sau có chổ dùng.

(Thanh Sơn Giáng Bút).

 

 

LƯƠNG Y

良 醫

Lương: Tốt, giỏi. Y: Thầy thuốc.

Lương y là thầy thuốc.

Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Lại như những người trường trai rủi lâm bịnh hoạn mà lương y buộc phải dùng sữa và trứng thì cũng nên tạm dùng trong lúc bịnh, đợi lành mạnh sẽ thôi, chẳng nên quá câu chấp mà hại thân.

Ðạo hiện giờ cũng chẳng khác chi người bịnh mà lương y coi chưa ra chứng.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LƯƠNG Y TỪ MẪU

良 醫 慈 母

Lương y: Thầy thuốc. Từ mẫu: Mẹ hiền.

Lương y từ mẫu có nghĩa là thầy thuốc giỏi như người mẹ hiền.

Châm ngôn trong ngành y dược có câu “Lương y như từ mẫu 良 醫 如 慈 母” là thầy thuốc như mẹ hiền.

Lương y từ mẫu ý nói thiên chức của một ông thầy thuốc rất cao quý, phải có y đức, xem người bịnh như con và tự xem mình như mẹ hiền.

Lương y từ mẫu” ơn như biển,

“Cải tử huờn sanh” nghĩa sánh trời.

(Thơ Thành Toại).

 

 

LƯƠNG MẠNH

粱 孟

Lương Mạnh là Lương Hồng và Mạnh Quang là hai vợ chồng mẫu mực của ngày xưa.

Do điển thời nhà Hán, Mạnh Quang là người con gái nết na, đoan chính, khi về nhà chồng là Lương Hồng liền lột hết vòng vàng đem cất, thay quần áo bô vải, lấy gai trâm cài đầu, theo chồng làm việc hết sức vui vẻ.

Mỗi khi dâng cơm cho chồng, nàng bưng chén ngang mày, người đương thời gọi là “Cử án tề my 舉 案 齊 眉”.

Xem: Cử án ngang mày.

Nhân nhượng Bính Sơn tài lỗi lạc,

Mon mem Lương Mạnh nét nghiêm tề.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LƯƠNG MỘC

樑 木

Lương: Rường nhà, cây xà ngang nhỏ trong phần trên của kèo để đỡ các trụ nhỏ hay các đầu. Mộc: Cây.

Lương mộc là cây rường nhà. Nghĩa bóng: Chỉ bậc hiền triết, hoặc người tài ba, lỗi lạc.

Thái Sơn ngã mất tầm cao đỉnh,

Lương mộc còn đâu bóng rợp hàng.

(Thơ Huệ Ngàn).

 

 

LƯƠNG NĂNG

良 能

Lương: Tốt. Năng: Khả năng.

Theo Mạnh Tử, người không học tập mà làm được việc thì gọi là “Lương năng”, tức là tài năng bẩm sinh hay tài năng thiên phú.

Như vậy, “Lương năng” là cái khả năng vốn có do Trời phú cho mỗi con người.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Quan Âm Bồ tát có nói: ... tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng mà nhứt là khiếu lương tri lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ.

Xem: Lương tri.

Lương tri lại với lương năng,

Mở mang trí hoá Ðạo hằng luyện tu.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LƯƠNG NHÂN

良 人

Lương: Tốt, lành, hay. Nhân: Người.

1.- Lương nhân là người lương thiện.

Ngoài ra, tiếng “Lương nhân” còn dùng để gọi người quân tử trong xã hội xưa.

Mượn vận lương nhân xin nhắn nhủ,

Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Dậm thẳng lương nhân xin khá gắng,

Ðường dài nghĩa nọ dễ đâu xa.

(Đạo Sử).

2.- Lương nhân còn là tiếng dùng để người vợ gọi người chồng trong thời cổ xưa.

Như: Nàng cho biết lương nhân của nàng đã đi vắng.

Nào là hương đượm lửa nồng,

Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LƯƠNG SANH

良 生

Lương: Tốt, lành, giỏi. Sanh: Người, nhơn sanh.

Lương sanh là người tốt, người có căn lành, lãnh lịnh Đức Chí Tôn nơi Ngọc Hư Cung giáng phàm để làm tướng soái cho Đức Chí Tôn khai Đạo, đặng lập Hội Thánh mà làm hình thể của Chí Tôn tại thế gian.

Trong bài Diễn văn của Đức Hộ Pháp đọc tại Toà Thánh ngày 14 tháng 2 năm Mậu Thìn có giải rõ rằng: Thầy đến quy các Đấng của Thầy đã sai đến trước lại làm một đặng lập Hội Thánh mà hình thể của Thầy, hầu tránh khỏi hạ trần trong lúc Tam Kỳ Phổ Độ nầy.

Hội đồng các bậc lương sanh,

Tuyển phong Phật vị lập thành vạn linh.

(Long Hoa Hội).

Làm nơi quy hợp lương sanh,

Khuyên đời bỏ dữ về lành tu thân.

(Quang Cảnh Toà Thánh).

 

 

LƯƠNG TÂM

良 心

Lương: Tốt, lành, giỏi. Tâm: Cái tâm con người.

Lương tâm là cái thiện tâm của con người, cũng là cái Thiên lương, hay Thiên tánh mà Trời ban cho người.

Theo Mạnh Tử 孟 子, con người nhờ có lương tâm mới biết được điều nhân điều nghĩa, lẽ phải lẽ trái. Còn người chỉ đắm đuối vào đường vật chất, do thất tình lục dục sai khiến, thì lương tâm của họ bị mờ tối đi, thành thử không hiểu được điều nhơn nghĩa.

Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức. Làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi nơi Thiên luật”.

Muốn giữ cho được cái lương tâm của mình thì phải tồn tâm, tức là giữ cho còn cái bản tâm hư linh của mình. Mạnh Tử nói: “Quân tử sở dĩ dị ư nhân giả, dĩ kỳ tồn tâm dã 君 子 所 以 異 於 人 者, 以 其 存 心 也, nghĩa là người Quân tử sở dĩ khác người ta là chỉ có sự giữ cho còn cái tâm mà thôi.

Lương tâm thường xét cho rành,

Của không phải nghĩa chớ sanh lòng tà.

(Kinh Sám Hối).

Chịu ô trược Chơn thần nặng trịu,

Mảnh hình hài biếng hiểu lương tâm,

(Kinh Tận Độ).

Già trí đừng lo trí chẳng già,

Lương tâm mình biết hỏi chi xa.

(Đạo Sử).

 

 

LƯƠNG TỂ

良 宰

Lương: Tốt, giỏi. Tể: Tể tướng, chức quan đứng đầu trong triều đình.

Lương tể là vị quan tài giỏi đứng đầu triều đình.

Người xưa có câu: Minh quân lương tể tao phùng dị 明 君 良 宰 遭 逢 易, nghĩa là vua sáng tôi hiền gặp nhau dễ.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nếu gặp chúa xứng đáng, biết dụng nhơn, xem phải đạo minh quân lương tể, thì cái chí hướng của người quân tử đã đạt.

Xuân Thu định vững ngôi lương tể,

Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mảng trông bến cũ đưa đò,

Chơn quân lương tể gây trò vinh phong.

(Cửu Nương Giáng Bút).

 

 

LƯƠNG THÁNG

Lương: Lương thực, hay tiền gạo cấp cho người làm việc ăn hàng ngày, hàng tháng. Tháng: Ba mươi ngày.

Lương tháng là tiền lương được cấp phát cho hằng tháng cho công nhân.

Như: Lương tháng bị trừ cho tiền mua nhà trả góp.

Lớp lương tháng chẳng tròn, nỗi vợ con ương yếu,

Rủi phải cơn thốn thiếu, chịu người níu kẻ đòi.

(Ngụ Đời).

 

 

LƯƠNG THẦN

良 辰

Lương: Tốt, lành, khéo, giỏi. Thần: Ngày. giờ.

Lương thần là giờ tốt hay ngày tốt. Như: Kiết nhựt lương thần (ngày giờ đề tốt).

Kim vì Vọng nhựt lương thần, chánh thị Đức Thái Thượng Lão Quân Thánh Đán.

(Sớ Văn).

 

 

LƯƠNG THIỆN

良 善

Lương: Tốt. Thiện: Lành.

Lương thiện là tốt lành, không làm điều gì trái pháp luật và đạo đức thông thường.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Người trí luôn luôn theo đường đạo đức, tránh kẻ vạy tà, gần người lương thiện để nâng cao giá trị mình trên đường xử kỷ, tiếp vật.

Đoàn năm, lũ bảy dạo chơi,

Hiếp người lương thiện, phá đời hại dân.

(Kinh Sám Hối).

Người lương thiện ra vào thong thả,

Kẻ tội nhiều đày đoạ rất minh.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LƯƠNG TRI

良 知

Lương: Tốt. Tri: Hiểu biết.

Theo Mạnh Tử, không cần suy nghĩ mà hiểu biết gọi là “Lương tri”.

Như vậy. “Lương tri 良 知” là sự hiểu biết sẵn có do trời phú cho, chứ không phải do học tập mới thông hiểu.

Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Không học mà biết là do nơi cái lương tri, lương năng nó phát lộ được trong tâm thần, làm cho cơ đạt thức phải khai minh sáng suốt.

Xem: Lương năng.

Tóc râu pha đậm màu dâu bể,

Mừng cái lương tri giữ đặng còn.

(Thơ Thuần Đức).

Theo chuỗi thời gian giữa loạn ly,

Ăn tiêu còn lại chút lương tri.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LƯƠNG TRI LƯƠNG NĂNG

良 知 良 能

Lương tri: Sự hiểu biết sẵn có do trời phú cho, chớ không phải do học tập. Lương năng: Sự tài giỏi vốn có do trời phú cho để làm điều lành điều tốt.

Lương tri lương năng tức là lương tâm của con người, vì có lương tâm thì con người mới có cái giỏi, cái biết tự nhiên và rất mẫn tiệp.

Sách có câu: Nhân chi sở bất học nhi năng giả, kỳ lương năng dã; sở bất lự nhi tri giả, kỳ lương tri dã 人 之 所 不 學 而 能 者, 其 良 能 也; 所 不 慮 而 知 者, 其 良 知 也, nghĩa là người không học mà giỏi là lương năng, không suy nghĩ mà biết là lương tri vậy.

Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng mà nhứt là khiếu lương tri lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LƯƠNG VẬT

糧 物

Lương: Lương thực, lúa gạo hay thức ăn. Vật: Chỉ các loài, các thứ có hình ở trong trời đất.

Lương vật là những thứ dùng làm lương thực, như: lúa thóc, khoai đậu, cây trái, rau cải...

Tỷ như: rau cỏ, cây trái, lúa gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LƯƠNG VIỆN

糧 院

Lương: Lương thực, lúa gạo thức ăn. Viện: Chỉ một toà nhà lớn để làm cơ quan.

Lương viện là một trong Cửu viện của Đạo Cao Đài, có trách nhiệm phân phối và quản lý lương thực dành để nuôi chức sắc, các nhân viên công quả đang làm việc nơi Toà Thánh trung ương.

Tổ chức của Lương viện gồm một Thượng Thống phẩm Phối Sư, Phụ Thống, Quản Văn Phòng và nhiều thư ký để giúp việc.

Thái Chánh Phối Sư quản lý ba viện bên Cửu Trùng Đài, đó là Hộ viện, Lương viện và Công viện.

Dưới quyền Chánh Phối Sư phái Thái cũng có ba viện: a)- Hộ Viện, b)- Lương Viện, c)- Công Viện.

(Toà Thánh Tây Ninh).

 

 

LƯƠNG VƯƠNG

梁 王

Vua nước Lương, hiệu là Võ Đế, nên thường được gọi là Lương Võ Đế.

Lương Võ Đế tên là Tiêu Diễn, tự Thúc Đạt, làm Thứ sử Ung Châu nước Tề. Vua Tề là Bảo Quyển hung bạo, giết anh của Diễn là Ý, Tiêu Diễn khởi binh công hãm thành Kiến Khang, rồi đón Bảo Dung đưa lên ngôi làm vua là Hoà Đế.

Hoà Đế bèn cho Diễn làm Đại Tư Mã và phong làm Lương Vương. Sau Hoà Đế mất nhường ngôi lại cho Diễn, lập nên nhà Lương, tức Lương Võ Đế.

Võ Đế là Thái Tổ nhà Lương, một vị vua sùng bái đạo Phật, cho vời các bậc cao tăng ở Ấn Đô sang truyền đạo ở Trung Quốc.

Sau Hầu Cảnh nổi loạn vây ông ở Đài Thành đến đói mà chết.

Ðường tu ví bẳng không lo trước,

Ðền điện Lương Vương phải cháy tiêu.

(Đạo Sử).

 

 

LƯỜNG

1.- Lường là lượng, đo, đong. Như: Lường gạo, lường thuốc, đo lường.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ngày mở Ðạo, vì cái tình cảm ấy, các vị Ðại Thiên Phong buổi nọ xin thờ Phật Mẫu ở Ðền Thánh, thì Phật Mẫu cho biết rằng: Quyền Chí Tôn là Chúa còn Phật Mẫu là tôi, mà tôi thì làm sao ngang hàng với Chúa, chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính Chí Tôn đến dường ấy không gì lường được.

Trông người so sánh với ta,

Lường tài cân sắc hiệp hoà mới nên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Cỡi gió tuôn mây đến Pháp triều,

Đo lường vận nước được bao nhiêu.

(Thơ Hộ Pháp).

2.- Lường là suy tính, xét nghĩ. Như: Lo lường, liệu lường, suy lường.

Nói về Tà chánh, Thánh giáo Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu: Tà Chánh, cười, Bần đạo nói thiệt cũng chưa dám định đoạt. Trong cái rủi thường có sự may; trong cái may vẫn khép cầm sự rủi, khó lường được.

Nhớ thiệt thòi nghĩ phận mà thương,

Nếu chồng nghĩa liệu lường thay thế.

(Phương Tu Đại Đạo).

3.- Lường là lừa, gạt. Như: Lường công, ăn lường, lường gạt, lường cân tráo đấu.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Người thanh bần như vậy thì vui sướng hơn kẻ giàu mà sâu mọt, lường công tham của, thâu đa nạp thiểu, hoặc lợi dụng quyền thế để rút rỉa dân nghèo khép chặt cửa công, mở rộng cửa tư để dục vọng được thoả mãn.

Ấy là phạt kẻ lường cân,

Đo gian, đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.

(Kinh Sám Hối).

Để hành kẻ chứa xâu, lường của,

Trù ếm người, chưởi rủa Tổ tông.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LƯỜNG CÂN TRÁO ĐẤU

Lường cân: Lường gạt người bằng cách cân gian. Tráo đấu: Đổi cái đấu non để đong thiếu.

Lường cân tráo đấu là chỉ sự gian lận trong vấn đề cân lường, tức cân non lường thiếu để ăn lận, xớt bớt riêng cho mình.

Trong đời rất hiếm võ phu,

Lường cân, tráo đấu, dối tu cúng chùa.

(Kinh Sám Hối).

 

 

LƯỜNG GẠT

Lường: Lừa, gạt. Gạt: Đánh lừa.

Lường gạt, như chữ “Lừa gạt”, là đánh lừa để mưu lợi. Như: Bị kẻ xấu lường gạt lấy xe đi mất.

Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Họ coi mạng sống của loài người là một vật dụng, để hưởng hạnh phúc sung sướng, lường gạt, buộc tinh thần loài người làm nô lệ cho vật hình, chúng ta thấy tấn tuồng nguy ngập, xô đẩy loài người đi đến diệt vong.

Ví dụ cờ bạc gây ra cái quả thiếu hụt, nợ nần, vì thiếu hụt phải lường gạt hay trộm cắp; trộm cắp gây ra cái quả lao tù.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LƯỜNG TÀI CÂN SẮC

Lường tài: Đo lường cái tài năng. Cân sắc: Cân xứng với cái sắc đẹp.

Lường tài cân sắc tức là người con gái đo lường cái tài năng của người trai coi có cân xứng với cái sắc đẹp của mình không. Ý nói so sánh chọn lựa người chồng cho xứng với sắc đẹp của mình.

Trông người so sánh với ta,

Lường tài cân sắc hiệp hoà mới nên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 

LƯỠNG

Lưỡng là hai. Như: Nhất cử lưỡng tiện, lưỡng đầu thọ địch, lưỡng ban quần thần.

Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Lạy kẻ sống 2 lạy là tại sao? Là nguồn cội của nhơn sanh lưỡng hiệp âm dương mà ra. Ấy là Ðạo.

Nơi Diêu điện, lưỡng ban chầu chực,

Nhớ đến con bứt rứt lòng già.

(Diêu Trì Kim Mẫu).

 

 

LƯỠNG NGHI

兩 儀

Lưỡng: Hai. Nghi: Nghi.

Trong Dịch học, Thái cực sinh Lưỡng nghi, tức Thái cực sinh ra hai nghi là Nghi âm và Nghi dương.

Theo triết lý Đạo Cao Đài, Nghi âm gọi là Âm quang do Đức Phật Mẫu nắm, Nghi dương gọi là Dương quang thuộc quyền Đức Chí Tôn chưởng quản.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Đức Chí Tôn có dạy: Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn khôn Thế giới.

Lưỡng nghi phân khí hư vô,

Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hoá sanh.

(Tán Tụng Công Đức).

 

 

LƯỠNG PHÁI

兩 派

Lưỡng: Hai. Phái: Nhóm, tập hợp người đứng về một phía nào đó.

Lưỡng phái là chỉ hai nhóm (phái) người. Như: Phái nam và phái nữ.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ngày nay toàn thể chức sắc lưỡng phái đã tín nhiệm chức sắc Hiệp Thiên Ðài và triệt để tuân theo mạng lệnh Hiệp Thiên Ðài điều khiển việc Ðạo, hai bên Hiệp Thiên và Cửu Trùng phải đồng tâm chung trí để lo xây dựng lại nền chánh giáo, sửa đương cho có trật tự điều hoà làm cho lộ rõ nét bác ái từ bi, nhơn sanh mới phấn khởi bước tới lo về tu niệm.

Công vĩ đại lưu truyền nhơn loại,

Cả nữ nam lưỡng phái bình quyền.

(Văn Tế Quyền Giáo Tông).

 

 

LƯỠNG TOÀN

兩 全

Lưỡng: Hai. Toàn: Hoàn toàn, trọn vẹn.

Lưỡng toàn là hai bên đều là toàn vẹn cả.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Ông Nguyễn Phát Trước, tục gọi là Tư Mắt, có câu: Ngươi làm tội chớ Cha ngươi là trung hiếu lưỡng toàn, hay thương yêu đồng chủng, mà bị tội giáo tử bất nghiêm, để đến đỗi hại sanh linh đã lắm lúc nên bị tội liên can đó mà thôi, phải ở tại ngục Nguơn Tiêu mà đợi ngươi đến.

Ai là gánh vai tuồng Hiếu Trung nên xét kỹ, Cho lưỡng toàn, chớ học sách ruồi nọ nương đuôi ký, toan múa mỏ gọi đi xa đường...

(Giác Mê Khải Ngộ).

 

 

LƯỠNG THIỆT

兩 舌

Lưỡng: Hai. Thiệt: Lưỡi.

Lưỡng thiệt, nghĩa đen là hai lưỡi, ý chỉ nói xấu, nói đâm thọc, tức là thêu dệt lời nói của người nầy, đem học lại cho người kia, khiến hai bên sinh ra thù hằn, giận ghét.

Cấm lưỡng thiệt, tức là đem chuyện người nầy thuật lại với kẻ nọ làm hai bên xích mích nhau.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LƯỢNG

1.- Lượng là mức độ của vật gì đó nhiều hay ít, hoặc sức dung chứa của một vật.

Như: Lượng mưa hằng năm, lượng vận chuyển hàng hoá, lượng chứa nước của cái lu.

Nào có tưởng vợ nhà đau đớn,

Ôm tình si muôn lượng sầu than.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Lượng chỉ lòng bao dung sẵn sàng tha thứ kẻ có lỗi lầm, tội lỗi. Như: Rộng lượng, lượng khoan hồng.

Thánh giáo Thầy trong quyển Đạo Sử của bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có dạy: Thầy đã độ rỗi các con há để cho hành phạt các con đến điều hay sao? Những đứa nào chẳng biết tự cải thì sau cũng khó mong nơi lượng từ bi của Thầy nữa đặng.

Lượng trên đã mở đức nhiêu dung,

Tu tánh từ đây Ðạo khá tùng.

(Đạo Sử).

Lượng trên đã phú một tâm linh,

Phải biết cân đo nết thế tình.

(Đạo Sử).

Chưa phải hột cơm phần sống thác,

Ấy nhờ Thánh chất lượng cao xanh.

(Thiên Thai Kiến Diện).

3.- Lượng là tính toán, cân nhắc để quyết định cho phù hợp, cho có thể đạt được kết quả mong muốn. Như: Tự lượng sức mình, lượng sức không làm nổi.

Trong Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Người đi trên đường Ðạo cũng thế, cần phải tự lượng sức mình, nên đem theo những gì cần thiết và nhứt định bỏ những gì phải trừ bỏ.

Muốn sửa bịnh các em làm biếng,

Thì toan bề sai khiến lượng phương làm.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

 

LƯỚT

Lướt là di chuyển vượt qua nhanh và nhẹ sát bên cạnh hoặc trên bề mặt.

Lướt còn dùng để chỉ làm việc gì rất nhanh, không dừng lại ở chi tiết, không kỹ.

Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn dạy: Nếu nơi Thiên cơ chẳng xảy ra điều trắc trở, Ðạo Thầy chừng một năm đã khắp toàn trong thế giới. Nhưng thiệt hư, hư thiệt chỉ có đức hạnh của các con lướt qua khỏi mà thôi.

Phước gặp Kỳ Ba Trời dẫn độ,

Mau chơn rán lướt tới rừng thiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ðổ tiếng chuông khua muôn tiếng biểu,

Lên lằn không khí lướt xăm xăm.

(Thiên Thai Kiến Diện).

May rủi khôn lường câu vận mạng,

Chống chèo đã lướt trận phong ba.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LƯỢT

Lượt là hồi, phen, lần. Như: Năm lần bảy lượt, thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.

Điếu văn của Đức thượng Sanh đọc trước Liên đài của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu có câu: Ðầu năm 1926, tức là năm Bính Dần, một lượt với chư vị Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Ðài, Ngài đắc lịnh nâng loan, hiệp cùng Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt lúc còn đương phẩm Ðầu Sư và các vị Ðại Thiên Phong Cửu Trùng Ðài đi phổ độ khắp các tỉnh, nhứt là các tỉnh trung ương và Miền Tây Nam Việt.

Hiu hiu nhẹ gót phong trần,

Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.

(Ngũ Nương Giáng Bút).

Ba lượt Thiên Thai cầu mở lối,

Từ đây thảm sớt với buồn chia.

(Thiên Thai Kiến Diện).

 

 

LƯU

1.- Lưu là ở lại, giữ lại, để lại. Như: Lưu lại ở nước ngoài ít lâu, lưu khách ở chơi vài ngày.

Thánh giáo Thầy có câu dạy: Các con ôi! Thầy lấy đức háo sanh mà dìu dắt các con chẳng khác nào như kẻ làm cha nưng niu dạy dỗ một trẻ bé, trông nom cho nó mau trưởng thành, hầu lưu danh truyền nghiệp, cho có tên tuổi với đời.

Ðời rạng lưu tồn gương nhựt nguyệt,

Ðạo thành vạn đại chiếu sơn hà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Mượn của trần gian lưu chất lại,

Thiên niên còn mặc đứng gầy Trời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

2.- Lưu là chảy, trôi, không dùng một mình.

Như: Lưu ly, lưu dân, lưu lạc, lưu hồng (máu chảy nhuộm đỏ), lưu thông.

Đánh nhau đổ nước nghiêng thành,

Lưu hồng một trận tan tành nhân gian.

(Thất Nương Giáng Bút).

3.- Lưu là một ngánh, một phái, một dòng riêng. Như: Cửu lưu, nữ lưu, thượng lưu.

Thánh giáo Thầy có câu: Nhà nghèo, hạnh tốt, ấy là gương treo dạy đời, các con khá bền lòng son sắt, cái hạnh tốt là thang vạch ngút mây xanh, tâm thành là để giồi trau tánh tục, lòng đạo đức quý hơn là miếng đỉnh chung, tố bần hàn tuỳ mình mà hành đạo thì công quả ấy trổi hơn hạng thượng lưu đó các con.

Khi kinh Thánh, lúc kệ Thần,

Đoạn trường diệt dứt nợ nần nữ lưu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Hễ bỏ qua bên đám nữ lưu,

Giống như hạng đồ lưu ra ngoại bộ.

(Phương Tu Đại Đạo).

4.- Lưu là phạt giam, sung làm tôi tớ. Như: Bị tội lưu chung thân, đồ lưu hải ngoại.

Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Không dè Ðạo Cao Ðài có cái tương lai gánh cả nhơn quả của toàn nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, chẳng riêng một nước Việt Nam mà thôi, cũng không phải riêng cho một nòi giống mình hưởng, chúng ta, con cái của Ðức Chí Tôn mà bị đồ lưu tức là tội của loài người chưa trả đó.

Chia bước gian truân nhớ những hồi,

Đồ lưu hải ngoại phận chơi vơi.

(Thơ Hộ Pháp).

Hễ bỏ qua bên đám nữ lưu,

Giống như hạng đồ lưu ra ngoại bộ.

(Phương Tu Đại Đạo).

4.- Lưu là tên một họ. Như: Lưu Bang, Lưu Khoan, Lưu Huyền Đức (Lưu Bị).

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Ngài vốn người quận Hà Ðông, huyện Giải Lương, là một đấng anh hùng xuất chúng thời ấy cùng với Lưu Huyền Ðức và Trương Phi kết nghĩa tại Ðào viên thề đồng sống thác, quyết tâm khuông phò nhà Hớn.

Tiết nghĩa trung can Hớn đảnh xây,

Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Hớn Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục,

Hạng Trọng Sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LƯU BANG

劉 邦

Lưu Bang, còn gọi là Bái Công tức là Hán Cao Tổ.

Vua Hán Cao Tổ tên là Lưu Bang. Lúc đầu, Lưu Bang tụ họp hơn ba ngàn người, khởi binh dựng nghiệp ở huyện Bái (Đất Bái) để đánh Tần, được dân chúng tôn là Bái Công. Đất Bái là một huyện của Tần đặt. Thời Hán thuộc Bái Quận, nay thuộc tỉnh Giang Tô, ở phía đông Bái Huyện.

Nói về Lưu Bang, Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng có dạy: Lo ngoài quên trong, che bề trong trau bề ngoài, ấy là cách thức của Hớn Lưu Bang đối đãi với tướng sĩ đó, cũng như có xác không hồn, chuộng hữu hình mà quên các huyền bí chơn truyền.

Khó gìn Tề quốc tài Tôn Tẫn,

Khôn thắng Lưu Bang sức Hạng Vương.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LƯU CHIẾU

留 照

Lưu: Để lại. Chiếu: Soi, đối chiếu.

Lưu chiếu là giữ lại để đối chiếu.

Theo thủ tục hành chánh, giấy tờ, công văn gửi đi đâu, thường có nhiều bản.

Ngoài những bản gửi đi người ta còn để lại một bản làm bằng chứng, nếu có điều gì thì lấy nó đối chiếu.

Phải lập cho đủ các hồ sơ đặng để lưu chiếu các giấy tờ của Đạo.

(Đạo Luật Mậu Dần).

 

 

LƯU DANH

留 名

Lưu: Để lại. Danh: Tiếng tăm.

Lưu danh là để lại tiếng tốt đẹp.

Thánh giáo có câu: Thầy lấy đức háo sanh mà dìu dắt các con chẳng khác nào như kẻ làm cha nưng niu dạy dỗ một trẻ bé, trông nom cho nó mau trưởng thành, hầu lưu danh truyền nghiệp, cho có tên tuổi với đời.

Cứ lánh khổ làm sao đoạt vị,

Muốn lưu danh thì phải xét suy.

(Thượng Phẩm Giáng Bút).

Bốn biển chư Nhu nên góp mặt,

Lưu danh hậu thế tả nên câu.

(Thơ Hiến Pháp).

 

 

LƯU ĐÀY

Lưu: Hình phạt đời vua Thuấn, không nỡ giết người có tội, nên tha cho đi đến một nơi xa xôi heo lánh. Đày: Đem giam ở một nơi biệt xứ.

Lưu đày, như chữ “Lưu đồ 流 徒” (hay đồ lưu), là bị đày đi một nơi xa xôi hẻo lánh.

Như: Bị án lưu đày.

Khuất mắt không nhìn nước rẽ hai,

Nên cam thọ khổ chịu lưu đày.

(Thơ Hộ Pháp).

 

 

LƯU HẠI

留 害

Lưu: Để lại. Hại: Thiệt hại, hao tổn.

Lưu hại là để lại cái tai hại cho đời sau.

Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có câu: Kẻ nghịch cùng thế đạo thì tội trục ngoại xã hội hay là diệt tàn cho khỏi lưu hại, còn kẻ nghịch cùng Ðạo pháp thì tội trục ngoại Thánh Thể Chí Tôn hay là có ngày quyền thiêng liêng diệt thác.

Hai con đã thấy sự dể duôi Thánh giáo của Thầy nó lưu hại là dường nào chưa?

(Thánh Giáo Chí Tôn).

 

 

LƯU HỒNG BẠCH CỐT

流 紅 白 骨

Lưu hồng: Máu chảy đỏ hồng. Bạch cốt: Xương khô phơi trắng.

Lưu hồng bạch cốt là xương trắng máu hồng, ý chỉ chết chóc vì giặc giã khắp nơi, khiến thây phơi máu đổ.

Lưu hồng bạch cốt phơi sương,

Hoàn cầu sôi nổi, chiến trường từ đây.

(Đoàn Thị Điểm Giáng).

 

 

LƯU HUYỀN ĐỨC

劉 玄 德

Lưu Huyền Đức tức Lưu Bị 劉 備, là Hậu duệ của Trung Sơn Vương nhà Hán đời Tam Quốc.

Thuở trẻ, ông có kết nghĩa đào viên với Quan Vân Trường và Trương Dục Đức. Nhờ công dẹp giặc khăn vàng mà được lãnh chức mục của hai Châu, sau lãnh mật chiếu của Hiến Đế sai giết Tào Tháo, việc bị bại lộ, ông phải chạy đến Hạ Khẩu, hợp sức với Ngô Quyền đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, rồi chiếm Kinh Châu.

Sau khi Hiến Đế bị hại chết, Lưu Bị lên ngôi ở Thành Đô, cùng với Nguỵ và Ngô chia ba thiên hạ, sử gọi là thời Tam Quốc.

Sau bị Lục Tốn nhà Ngô đánh bại, ông mất ở Bạch Đế Thành, thuỵ là Chiêu Liệt Hoàng Đế, người đời sau gọi là Lưu Tiên Chúa.

Phò Lưu Huyền Đức lắm công lao,

Chánh khí gương nêu vạn cổ làu.

(Cội Đạo Bốn Mùa).

 

 

LƯU Ý

留 意

Lưu: Dừng lại, để lại Ý: Điều hiện ra trong đầu óc mỗi khi suy nghĩ.

Lưu ý là để ý vào để xem xét, theo dõi hoặc giải quyết, không bỏ qua.

Lưu ý còn có nghĩa nhắc gợi, yêu cầu làm cho người khác lưu ý.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Chí Tôn lập nên Thánh thể của Người cốt để giữ gìn cái kỷ luật ấy được trường tồn mãi. Nó là khuôn vàng thước ngọc để cho chúng ta tùng theo cho khỏi sai bước lạc đường, nền Ðại Ðạo mới lưu truyền đến thất ức niên trên võ trụ, xin chư đạo hữu lưu ý.

Thầy mong rằng, mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình ấy thì lấy làm may mắn cho nền Ðạo...

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LƯU KHOAN

劉 寬

Lưu Khoan là tên vị quan Thái Thú huyện Nam Dương đời nhà Hán, có quyền kinh lịch, xem xét việc hành chính ba quận.

Lưu Khoan là người có tính ôn hoà, nhân hậu, nhiều khoan thứ, thường lấy đức để trị dân.

Khi quan lại, dân chúng phạm tội, ông chỉ dùng roi bằng cỏ bồ mà răn phạt để nêu cái nhục mà thôi, chứ không bắt tù đày hay dùng hình phạt nặng.

Hớn Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục,

Hạng Trọng Sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

 

 

LƯU LẠC

流 落

Lưu: Nước chảy. Lạc: Rơi rụng.

Lưu lạc là lênh đênh, trôi nổi từ nơi này đến nơi khác, ví như nước chảy hoa rụng trôi vậy.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chủ nghĩa duy vật đã lan tràn khắp trong đất nước và đầu độc hết chín phần mười dân tộc Việt Nam, nền luân lý cổ truyền đã đổ vỡ, người ta đã vứt bỏ hết mọi căn bản đạo đức và họ đã chơi vơi lưu lạc trong đêm dài mờ mịt...

Ngũ hồ tứ hải không lưu lạc,

Mặt địa cầu ta vốn định chừng.

(Vô Danh Giáng Bút).

 

 

LƯU LY

流 離

Lưu: Trôi chảy. Ly: Chia lìa.

Lưu ly là vì hoàn cảnh gia đình phải trôi nổi nơi đất khách quê người, tức là lưu lạc, xa lìa quê hương.

Như: Hoàn cảnh anh ấy gặp bước lưu ly.

Thấy lối lành đưa qua mặt thế,

Nỗi lưu ly phận chẳng riêng bâu.

(Đạo Sử).

 

 

LƯU LINH

 

1. LƯU LINH 流 零

Lưu: Chảy, trôi. Linh: nói tắt của chữ “Linh lạc”, là rụng rời tan tác.

Lưu linh, như chữ “Lưu ly”, là lìa bỏ quê nhà và phải trôi dạt nay đây mai đó, ý chỉ sự trôi nổi.

Như: Nó bỏ nhà đi lưu linh.

Bính niên canh hạn đã gần qua,

Hết buổi lưu linh tới có nhà.

(Đạo Sử).

 

2. LƯU LINH 劉 伶

Lưu Linh tự Bá Luân, người đời Tấn, là một người trong Trúc Lâm Thất Hiền.

Lưu Linh là người nổi tiếng hay uống rượu, tính tình phóng khoáng, có làm bài “Tửu đức tụng 酒 德 頌” để ca ngợi những đức tánh của rượu.

Thương tâm hoài cổ Lưu Linh chí,

Thiện ác tuỳ công diệt đoạ trần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

 

LƯU LUYẾN

留 戀

Lưu: Giữ lại. Luyến: Nhớ nhung.

Lưu luyến là nói nặng lòng thương mến, nên muốn gần gũi nhau mãi mãi. Như: Buổi chia tay đầy lưu luyến.

Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Bữa tiệc hôm nay đem đến cho toàn thể Chức sắc một niềm hân hoan và một sự mãn nguyện trong cuộc hội diện đầy vẻ thân mật và tình lưu luyến trước khi các Chức sắc Nam, Nữ nơi địa phương lên đường trở về với nhiệm vụ.

Lần gội tâm phàm vui cảnh trí,

Ðường trần lưu luyến nhọc tranh đua.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Ra về ngảnh lại còn lưu luyến,

Hồng tía nghiêng nghiêng gió tiễn người.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LƯU NHIỆM

留 任

Lưu: Ở lại, để lại. Nhiệm (nhậm): Nhiệm vụ.

Lưu nhiệm là được ở lại thi hành nhiệm vụ một thời gian nữa.

Trong Đạo Cao Đài, một vị chức sắc được bổ nhiệm đến một địa phương hành chánh, khi mãn nhiệm kỳ, nếu chưa có người xứng đáng thay thế, Hội Thánh sẽ lưu nhiệm vị chức sắc ấy một thời gian nữa.

Lão cần lưu nhiệm vị Tổng Thanh Tra một thời gian nữa để đem lại chủ quyền cho Đạo và cho Hội Thánh.

(Thánh Giáo Lý Giáo Tông).

 

 

LƯU OAN

留 冤

Lưu: Để lại, giữ lại. Oan: Thù giận, oan nghiệt.

Lưu oan là lưu lại cái mối dây oan nghiệt.

Vô siêu đoạ quả căn hữu pháp,

Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).

 

 

LƯU QUAN TRƯƠNG

劉 關 張

Lưu, Quan, Trương: Họ của ba nhân vật đời Tam Quốc: Họ Lưu, họ Quan và họ Trương.

Lưu Quan Trương tức Lưu Bị, Quan Võ và Trương Phi, là ba anh em kết nghĩa tại vườn đào đời Tam Quốc.

Sau Quan Võ và Trương Phi phò người anh kết nghĩa là Lưu Bị dựng nên nhà Thục.

Xem: Nghĩa Đào viên.

Lưu, Quan, Trương giữ còn nghiệp Hớn,

Gìn trọn thề chết sống có nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Nghĩa Đào viên Lưu, Quan, Trương kết,

Tình anh em sống chết không rời.

(Báo Ân Từ).

 

 

LƯU SA TÂY ĐỘ

流 沙 西 度

Lưu sa: Những dòng cát chảy, Sa mạc.

Phía Tây vực của Trung Quốc có những dãy sa mạc lớn, nơi đó thường xuyên có gió thổi mạnh, cuốn cát chảy thành dòng, nên vùng nầy được gọi là Lưu sa.

Tây độ: Cứu độ những người nơi phía Tây.

Lưu sa tây độ là nói Đức Lão Tử cứu độ những người ở vùng sa mạc phía tây vực của Trung Quốc.

Theo kinh Tiên Giáo, Đức Lão Tử từ biệt ải Hàm Cốc, Ngài cởi trâu qua các vùng sa mạc phía Tây. Đến miền Tây vực, Ngài đem đạo Vô vi tế độ cho chúng sanh nơi ấy để dìu dẫn chúng sanh vào con đường đạo đức.

Theo hai Ngài Đầu Sư, trong giai đoạn phổ độ nơi vùng lưu sa này, Lão Tử đã độ được vị Huyền Nguyên đắc thành Tiên vị.

Lưu sa tây độ,

Pháp hoá tướng tông.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

 

 

LƯU TÂM

留 心

Lưu: Để lại. Tâm: Cái tâm của con người.

Lưu tâm là để lòng vào, tức là chú ý đến một cách đặc biệt, chu đáo. Như: Lưu tâm dạy dỗ các cháu.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy Đức Quyền Giáo Tông như sau: Vậy khá bền lòng son sắt đặng ngày về Thầy, một địa vị xứng đáng sẵn chờ con, khá lưu tâm nghe!

Kinh sử trẻ lưu tâm lượm lặt,

Tài văn già thấy vốn chưa tầng.

(Bảo Văn Pháp Quân).

Văn tài chi mấy khách lưu tâm,

Tiếp mảnh hoa tiên cảm mến thầm.

(Thơ Chơn Tâm).

 

 

LƯU THÔNG

流 通

Lưu: Chảy, trôi. Thông: Suốt.

Lưu thông là trôi, chảy khắp mọi nơi, không bị ứ đọng. Như: Xe cộ lưu thông, máu huyết lưu thông.

Lưu thông còn có nghĩa là truyền khắp mọi nơi, mọi chốn. Như: Hàng hoá lưu thông trong nước.

Làm cho chánh lý lưu thông,

Lập tâm sửa tánh kềm lòng phá mê.

(Đại Thừa Chơn Giáo).

 

 

LƯU THUỶ

流 水

Lưu: Chảy. Thuỷ: Nước.

Lưu thuỷ, như câu “Lưu thủy cao sơn” là non cao nước chảy, ý chỉ tính cách trôi chảy, thanh thoát của tiếng đàn Bá Nha.

Xem: Lưu thủy cao sơn.

Chén rượu đồng tâm lời chạm đá,

Khúc đờn Lưu thuỷ mắt rơi châu.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LƯU THỦY CAO SƠN

流 水 高 山”.

Lưu thuỷ: Nước chảy. Cao sơn: Núi cao.

Lưu thủy cao sơn là non cao nước chảy, đây là lời của Tử Kỳ tán thưởng tiếng đàn của Bá Nha, chỉ tiếng đàn hay của người tri kỷ, tiếng đàn có bạn tri âm thưởng thức.

Do điển Lã Thị Xuân Thu: Quan Đại phu Bá Nha nhân một đêm trăng, lênh đênh trên thuyền về quê, ngồi ôm đàn khảy. Tử Kỳ ngồi trên bờ lắng nghe, nức nở khen.

Bá Nha cho người mời xuống thuyền cùng nhau trò truyện, lấy làm ưng ý, bèn kết làm đôi bạn. Trong khi thử tài nhau, Bá Nha ngồi ôm đàn, nghĩ ngợi, chí ở chốn nước biếc, Tử Kỳ gật đầu, nghe đàn rồi bảo rằng: Vọi vọi chí đại nhân ở nơi lưu thuỷ. Bá Nha lại đàn, để chí ở chốn non cao, Tử Kỳ cười bảo: Vọi vọi chí đại nhân ở chốn cao sơn.

Trong thơ Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu có câu: Than rằng: Lưu thuỷ cao san, Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm.

Còn đâu lưu thuỷ cao san nữa,

Mà khách tri âm chẳng hẫng hờ.

(Thơ Thuần Đức).

 

 

LƯU TRÚ

留 駐

Lưu: Ở lại, để lại, giữ lại. Trú: Dừng lại, quan quân hay xe ngựa dừng lại một chỗ nào.

Lưu trú là ở lại quê người, hay ở lại tạm một thời gian, không phải ở hẳn.

Như: Việt Kiều hồi hương lưu trú tại xã Thanh Điền.

Hội Thánh vẫn để tâm lo lắng trợ giúp, để quý vị đỡ phần nào vất vả trong thời gian lưu trú nơi đây.

(Thuyết Đạo Thượng Sanh).

 

 

LƯU TRUYỀN

流 傳

Lưu: Chảy. Truyền: Lan rộng cho mọi người biết.

Lưu truyền là truyền đi khắp nơi cho mọi người, tựa như dòng nước chảy khắp chốn.

Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chủ Nghĩa thương đời hoá chúng của Ngài (Khổng Tử), tuy kiếp sanh không được toại, nhưng lý thuyết sách vở của Ngài được lưu truyền cho đời sau mấy ngàn năm hưởng nhờ thì công nghiệp ấy đáng được tôn thờ sùng bái.

Giọt máu mủ lưu truyền tại thế,

Con nhẫng mong truyền kế lửa hương.

(Kinh Thế Đạo).

Cao Đài dẫn giải thông nguồn cội,

Hậu thế lưu truyền rạng ngọc châu.

(Thơ Thượng Sanh).

 

 

LỰU

Lựu là một thứ cây nhỏ, lá mọc đối, hoa màu đỏ, quả chứa nhiều hạt có vỏ mọng nước, ăn ngon, rễ dùng làm thuốc được.

Như: Có đâu chanh khế sánh cùng lựu lê, đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.

E ra nhiều thiếp nhiều hầu,

Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).

Ai cho sen muống một bồn,

Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

 


 )
 )(
 __)_(__
 __(_____)__
(((_________)))
 )    ׀    (

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Danh mục vần L

 

LA

La

La đà

La làng

La lết

La lối

La Mã

La võng

 

Lá bối

Lá hồng

Lá lành đùm lá rách

Lá ngọc cành vàng

Lá ngô

Lá ngô đồng

Lá thắm

 

Là đà

 

LẢ

Lả lơi

 

Lã chã

 

LẠ

Lạ

Lạ lùng

Lạ thường

 

LÁC

Lác đác

 

LẠC

Lạc

Lạc bước

Lạc cung

Lạc đạo an bần

Lạc đường

Lạc hậu

Lạc hoan

Lạc Hồng

Lạc hứng

Lạc lầm

Lạc loài

Lạc Long

Lạc nẻo

Lạc nẻo đường

Lạc nghiệp

Lạc nhạn ngư trầm

Lạc quan

Lạc quyên

Lạc thơ

Lạc thú

Lạc xiêu

 

LÁCH

Lách tách

 

LẠCH

Lạch

 

LAI

Lai

Lai láng

Lai rai

Lai vãng

 

LÁI

Lái

Lái buôn

 

LẠI

Lại

Lại nhũng quan gian

Lại Viện

 

LAY

Lay

Lay chuyển

Lay động

 

LÁY

Láy

 

LẠY

Lạy

Lạy là gì

Lạy Vong Phàm

 

LAM

Lam

Lam điền

Lam lũ

Lam lụ

Lam sơn chướng khí

 

LÀM

Làm

Làm ăn

Làm biếng

Làm bộ

Làm chủ

Làm gương

Làm lành

Làm lành lánh dữ

Làm lụng

Làm mướn

Làm nhục

Làm phải làm lành

Làm phước có khi mắc nạn

Làm phước khỏi hao khỏi tốn

Làm quan hai miệng

Làm reo

Làm thinh

 

LÃM

Lãm thuý

 

LẠM

Lạm

Lạm dụng

Lạm dự

Lạm quyền

 

LAN

Lan

Lan can

Lan đình

Lan quế

Lan thất

Lan tràn

 

LÀN

Làn

 

LÃN

Lãn Ông

 

LẠN

Lạn Tương Như

 

LANG

Lang

Lang quân

Lang Sa

Lang thang

 

LÁNG

Láng giềng

 

LÀNG

Làng

Làng văn

Làng xóm

 

LẢNG

Lảng

Lảng trí

Lảng xẹt

 

LÃNG

Lãng

Lãng phí

Lãng quên

Lãng tử

Lãng Uyển

Lãng xao

 

LANH

Lanh

Lanh lẹ

Lanh lợi

 

LÁNH

Lánh

Lánh bợn tục

Lánh chơn

Lánh dữ làm lành

Lánh giả tầm chân

Lánh Hớn Tử Phòng chưa phải dại

Lánh tục

Lánh thân

Lánh thế

Lánh trần

Lánh xa

 

LÀNH

Lành

Lành dữ

Lành dữ nơi minh chiêu phước hoạ

Lành mạnh

Lành phước

Lành siêu dữ đoạ

Lành thăng dữ đoạ

Lành vay trả

 

LẢNH

Lảnh lót

 

LÃNH

Lãnh

Lãnh cung

Lãnh đạm

Lãnh đạo

Lãnh hội

Lãnh lịnh

Lãnh mạng

Lãnh noãn

Lãnh tụ

Lãnh thất

Lãnh thổ

 

LẠNH

Lạnh

Lạnh lẽo

Lạnh lùng

Lạnh nồng

Lạnh ngắt

Lạnh tanh

 

LAO

Lao

Lao công hạn mã

Lao đao

Lao động

Lao khổ

Lao khổ phận

Lao lý

Lao lung

Lao lực

Lao nhao

Lao nhọc

Lao rao

Lao tâm

Lao tâm trí

Lao tâm tiêu tứ

Lao tù

Lao thân

Lao xá

Lao xao

 

LÁO

Láo

Láo táo

Láo xược

 

LÃO

Lão

Lão bạng sinh châu

Lão Đam

Lão giáo

Lão Lai

Lão luyện

Lão Quân

Lão Tô

Lão Tử

Lão thành

Lão Trang

 

LÁT

Lát

 

LẠT

Lạt

Lạt lẽo

 

LAU

Lau

Lau thanh trái chủ

 

LÀU

Làu

Làu làu

 

LẢU

Lảu

Lảu thuộc

Lảu thông

 

LẮC

Lắc lẻo

Lắc lở

 

LĂM

Lăm

 

LẮM

Lắm

Lắm lúc

Lắm phen

 

LĂN

Lăn líu

Lăn lóc

Lăn lộn

 

LẰN

Lằn

Lằn mưa đạn

 

LẶN

Lặn

Lặn hụp

Lặn lội

Lặn suối trèo non

 

LĂNG

Lăng điện

Lăng líu

Lăng loàn

Lăng miếu

Lăng xăng

 

LẮNG

Lắng

 

LẰNG

Lằng xanh

 

LẲNG

Lẳng lặng

 

LẶNG

Lặng

Lặng lẽ

Lặng nước êm thuyền

Lặng trang

 

LẮT

Lắt lẻo

 

LẤC

Lấc khấc

 

LẤY

Lấy

Lấy khảo trừ công

Lấy ngao lường biển

Lấy thúng úp voi

 

LẪY

Lẫy

Lẫy lừng

 

LÂM

Lâm bịnh

Lâm chung

Lâm dâm

Lâm Hương Thanh

Lâm ly

Lâm nàn

Lâm nguy

Lâm phàm

Lâm toàn

Lâm tuyền

 

LẤM

Lấm

 

LẦM

Lầm

Lầm đàng

Lầm đường

Lầm đường lạc nẻo

Lầm lạc

Lầm lỗi

Lầm lỡ

Lầm lũi

Lầm mê

Lầm tưởng

Lầm than

 

LẪM

Lẫm đẫm

Lẫm liệt

 

LẬM

Lậm

 

LÂN

Lân

Lân ái

Lân bang

Lân cận

Lân la

Lân lý

Lân mẫn

Lân Ngọc

Lân ra ắt có Thánh Quân

Lân tuất thương sanh

 

LẤN

Lấn

Lấn chen

Lấn hiếp

Lấn lướt

 

LẦN

Lần

Lần chuỗi

Lần dò

Lần hồi

Lần lựa

Lần mò

 

LẨN

Lẩn

Lẩn bẩn

Lẩn quẩn

Lẩn tránh

 

LẪN

Lẫn

Lẫn lộ

Lẫn lộn

 

LẬN

Lận

Lận đận

 

LÂNG

Lâng

Lâng lâng

 

LẤP

Lấp

Lấp bể

Lấp chôn

Lấp ló

Lấp lóe

Lấp lửng

Lấp ngõ tài hiền

Lấp thảm vùi sầu

 

LẬP

Lập

Lập công

Lập công bồi đức

Lập công tạo đức

Lập công chiết quả

Lập công chiết tội

Lập công chuộc tội

Lập chí

Lập Đạo

Lập đức

Lập đức bồi công

Lập kế

Lập lệ

Lập loà

Lập luận

Lập luật

Lập ngôn

Lập nghiệp

Lập pháp

Lập quốc

Lập Tiên gia xưng Lão Tử

Lập thân

Lập thân danh

Lập thân hành đạo

Lập thân trả hiếu

Lập thệ

Lập trường

Lập vị

 

LẬT

Lật bật

Lật đật

 

LÂU

Lâu

 

LẦU

Lầu

Lầu các

Lầu đài

Lầu hồng

Lầu phụng

Lầu son

Lầu Tần quán Sở

Lầu xanh

 

LẬU

Lậu hạng

 

LE

Le lưỡi

 

Lè tè

 

LẺ

Lẻ

Lẻ loi

Lẻ tẻ

 

LẼ

Lẽ

 

LẸ

Lẹ

Lẹ làng

 

LEM

Lem luốc

 

LÉN

Lén

 

LEO

Leo

Leo nheo

Leo trèo

 

LÉO

Léo tới

 

LÈO

Lèo

Lèo lái

Lèo nhèo

 

LẺO

Lẻo lự

 

LẼO

Lẽo đẽo

 

LÉP

Lép

 

Lê dân

Lê hoắc

Lê Lễ rước Gia đình

Lê thứ

Lê Văn Lịch

Lê Văn Trung

 

LỀ

Lề

Lề lối

 

LỄ

Lễ

Lễ bái

Lễ bái thườnng hành

Lễ châm chước

Lễ Đạo triều

Lễ độ

Lễ đưa chư Thánh

Lễ giáo

Lễ Hôn phối

Lễ Kinh

Lễ muối dưa

Lễ nghi

Lễ nghi phong hoá

Lễ nghĩa

Lễ phép

Lễ Sanh

Lễ Sĩ

Lễ sính

Lễ thọ

Lễ triều Chí Linh

Lễ vật

Lễ Viện

Lễ Vu lan

 

LỆ

Lệ

Lệ châu

Lệ nô

Lệ ngọc

Lệ Quân

Lệ sa

Lệ thuộc

 

LỆCH

Lệch

 

LÊN

Lên

Lên ải xuống đèo

Lên voi xuống chó

Lên võng xuống dù

 

LÊNH

Lênh đênh

 

LỆNH

Lệnh

 

LẾT

Lết

 

LẾU

Lếu

 

LỀU

Lều cỏ

Lều tranh

Lều tranh ba lượt

 

LI

Li bì

 

Lí lắc

 

 

LIA

Lia lia

 

LÌA

Lìa

Lìa tan

Lìa trần

 

LỊCH

Lịch

Lịch duyệt

Lịch đại

Lịch lãm

Lịch sắc

Lịch Sơn

Lịch sử

Lịch sự

Lịch xinh

 

LIẾC

Liếc

 

LIÊM

Liêm

Liêm chính

Liêm khiết

Liêm sỉ

Liêm trực

 

LIẾM

Liếm láp

 

LIÊN

Liên can

Liên chi

Liên đài

Liên hiệp

Liên hoa

Liên hoà

Liên hoan

Liên huê

Liên lạc

Liên ngâm

Liên quan

Liên tiếp

Liên toà

Liên toạ

Liên thần

Liên trì

 

LIẾN

Liến

 

LIỀN

Liền

Liền cánh liền cành

Liền liền

Liền nhành

 

LIỄN

Liễn

 

LIỆNG

Liệng

 

LIỆT

Liệt

Liệt cường

Liệt nữ

Liệt quốc

Liệt sĩ

Liệt Thánh

 

LIỀU

Liều

Liều mạng

Liều mình

Liều thân

 

LIỄU

Liễu

Liễu bồ

Liễu Chương Đài

Liễu đạo

Liễu hoa

Liễu yếu

Liễu yếu đào thơ

Liễu mai

Liễu ngõ hoa tường

Liễu trần

 

LIỆU

Liệu

Liệu biện

Liệu chừng

Liệu chước

Liệu định

Liệu lường

Liệu lượng

Liệu phương

Liệu phương thế

Liệu sức

Liệu tính

Liệu toan

Liệu thế

 

LỊM

Lịm

 

LINH

Linh

Linh cảm

Linh căn

Linh cữu

Linh chinh

Linh diệu

Linh dược

Linh đài

Linh địa

Linh đinh

Linh đình

Linh đơn

Linh Đức

Linh hiển

Linh hồn

Linh hồn Thiên tứ

Linh khí

Linh oai

Linh oai mạc trắc

Linh phan

Linh phù

Linh phụng gáy Tây Chu

Linh quang

Linh quang chiếu diệu

Linh sàng

Linh Sơn

Linh tâm

Linh Tiêu Điện

Linh tánh

Linh toạ

Linh thiêng

Linh thông

Linh ư phụng lãnh

Linh ứng

Linh vị

Linh xa

 

LỊNH

Lịnh

Lịnh bài

 

LIU

Liu hiu

 

LÍU

Líu lo

 

LY

Ly

Ly biệt

Ly cung

Ly gia

Ly gia cát ái

Ly gián

Ly hận

Ly hiệp

Ly hương

Ly loạn

Ly rượu trăm thi

Ly tán

Ly tình

Ly trần

 

Lý Bạch

Lý Đại Tiên Trưởng

Lý đoán

Lý Đỗ

Lý Lão Quân

Lý lẽ

Lý Ngư Tinh

Lý Ngưng Dương

Lý Nhĩ

Lý tài

Lý tưởng

Lý Thiên Vương

Lý thú

Lý Uyên

 

LỲ

Lỳ

 

LO

Lo

Lo âu

Lo cúng kiếng thường

Lo lắng

Lo liệu

Lo lót

Lo lường

Lo ngại

Lo sợ

Lo tính

Lo toan

Lo xa

 

 

Lò cừ

Lò Hoá công

 

LỌ

Lọ

 

LOÀ

Loà

 

LOÃ

Loã lồ

 

LOÀI

Loài

Loài ong tay áo

 

LOẠI

Loại

 

LOAN

Loan

Loan chạ

Loan chung phụng chạ

Loan phòng

Loan phụng

Loan phụng chia lìa

Loan phượng

 

LOÁN

Loán

 

LOẠN

Loạn

Loạn gia

Loạn hàng thất thứ

Loạn lạc

Loạn ly

Loạn luân

Loạn quốc khuynh thành

Loạn thần

 

LOANG

Loang

 

LỌC

Lọc

Lọc lừa

Lọc trược lưu thanh

 

LOÈ

Loè loẹt

 

LÒI

Lòi

 

LOM

Lom lom

 

LÒN

Lòn

Lòn cúi

Lòn lỏi

Lòn thân

Lòn trôn

 

LONG

Long

Long ám hạc quy

Long bào

Long cu

Long cung

Long chu

Long đong

Long Hoa Hội

Long Mã phụ Hà Đồ

Long Mã và Ngọc Kỳ Lân

Long mạch

Long Nữ

Long Tu

Long Tuyền

Long trọng

Long vân

Long vị

Long vương

 

LÓNG

Lóng

Lóng kình

Lóng phèn

 

LÒNG

Lòng

Lòng cha mẹ

Lòng dạ

Lòng đơn

Lòng háo sanh

Lòng lang

Lòng lành

Lòng nhơn

Lòng quỳ

Lòng son

Lòng tà

Lòng tin

Lòng tục

Lòng từ bi

Lòng thành

Lòng thành tín

Lòng thương ghét

Lòng trần

Lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh

 

LỎNG

Lỏng chỏng

Lỏng lẻo

 

LỌNG

Lọng tàn

 

LÓT

Lót

Lót tót

 

LỌT

Lọt

Lọt lòng

Lọt sổ

 

LỐ

Lố

Lố mòi

Lố nhố

Lố xố

 

LỔ

Lổ đổ

 

LỖ

Lỗ

Lỗ Ban

Lỗ bộ

Lỗ mãng

Lỗ vốn

 

LỘ

Lộ

Lộ bất thập di

Lộ Hộ Pháp

Lộ thượng

Lộ trình

 

LỘC

Lộc

Lộc Hơn từ vinh

Lộc quyền

Lộc thế

Lộc vị

 

LÔI

Lôi

Lôi Âm

Lôi Âm Cổ

Lôi Âm Cổ Đài

Lôi Âm Tự phá cổ

Lôi Công

Lôi cuốn

Lôi Chấn Tử cứu cha thoát nạn

Lôi điển

Lôi đình

Lôi kéo

Lôi thôi

 

LỐI

Lối

 

LỖI

Lỗi

Lỗi bậc cung cầm

Lỗi đạo

Lỗi lạc

Lỗi lầm

Lỗi mọn chớ nghi chẳng hại

Lỗi thệ

Lỗi thời

 

LỘI

Lội

Lội lặn

 

LỘN

Lộn

Lộn chồng

Lộn mèo

Lộn ngầu

Lộn nhào

Lộn xộn

 

LÔNG

Lông

Lông hồng

Lông ngỗng

Lông sừng

 

LỒNG

Lồng

Lồng lộng

 

LỘNG

Lộng

Lộng chương

Lộng lẫy

Lộng lộng

Lộng ngôn

Lộng quyền

Lộng sắc

 

LỐP

Lốp cốp

 

LỐT

Lốt

Lốt cọp

 

LỘT

Lột

 

Lơ là

Lơ lãng

Lơ láo

Lơ lửng

 

LỜ

Lờ

 

LỞ

Lở

 

LỠ

Lỡ

Lỡ bước

Lỡ dở

Lỡ duyên

Lỡ đường

Lỡ làng

Lỡ lầm

Lỡ lối

Lỡ lời

Lỡ nhịp

Lỡ phận

Lỡ thì

Lỡ thời

 

LƠI

Lơi

Lơi bước

Lơi dạ

 

LỜI

Lời

Lời châu ngọc

Lời dạy

Lời nguyền

Lời nói

Lời ra phải nhìn

Lời răn

Lời thệ

Lời vàng tiếng ngọc

 

LỢI

Lợi

Lợi danh

Lợi dụng

Lợi khí

Lợi lấn danh chen

Lợi lộc

Lợi mượn danh mua

Lợi quyền

Lợi sanh

Lợi toả danh cương

 

LỚN

Lớn

Lớn khôn

Lớn lao

Lớn tiếng

Lớn tuổi

 

LỜN

Lờn

Lờn dể

Lờn mặt

 

LỢN

Lợn

 

LỚP

Lớp

Lớp lang

 

LỢP

Lợp

 

LỢT

Lợt

 

Lù mù

 

Lũ kiến chòm ong

Lũ lụt

Lũ lượt

Lũ truyền bửu kinh

 

LÚA

Lúa

Lúa đầy phận gà lồng

Lúa gạo

Lúa làm hạt giống đức tin

 

LÙA

Lùa

 

LỤA

Lụa

 

LUÂN

Luân

Luân chuyển

Luân hồi

Luân lý

Luân thường

 

LUẬN

Luận

Luận bàn

Luận biện

Luận đàm

Luận lý

Luận nhảm bàn khùng

Luận thuyết

 

LUẬT

Luật

Luật Đạo

Luật điều

Luật định

Luật đời

Luật hình

Luật lệ

Luật lịnh

Luật nhơn quả

Luật pháp

Luật sự

Luật thương yêu

 

LÚC

Lúc

Lúc thúc

 

LỤC

Lục

Lục căn

Lục dục

Lục đạo

Lục độ

Lục hình

Lục Kinh

Lục lạc

Lục Lâm

Lục long

Lục long phò ấn

Lục Nương Diêu Trì Cung

Lục nga

Lục phủ

Lục tặc

Lục Tích

Lục Tổ

Lục tuần

Lục thân quyến thuộc

Lục thông

Lục thức

Lục trầm

Lục trần

 

LUI

Lui

Lui bước

Lui gót

Lui tới

 

LỤI

Lụi hụi

 

LUY

Luy tiết

 

LŨY

Lũy

Luỹ đồn

Luỹ hào

 

LUỴ

Luỵ

Luỵ đến sông Tương

Luỵ mình

Luỵ ngọc

Luỵ phiền

Luỵ sa

Luỵ tình

 

LUYẾN

Luyến ái

Luyến thế

Luyến trần

 

LUYỆN

Luyện

Luyện đạo

Luyện đơn

Luyện tập

 

LÚM

Lúm khúm

 

LỤM

Lụm cụm

 

LỤN

Lụn

Lụn canh gà

 

LUNG

Lung

Lung kê

Lung lạc

Lung lay

Lung lăng

Lung linh

 

LÚNG

Lúng

Lúng túng

 

LỦNG

Lủng

Lủng lẳng

 

LUỘC

Luộc

 

LUỒN

Luồn cúi

 

LUÔNG

Luông tuồng

 

LUỐNG

Luống

 

LỤT

Lụt

 

Lư hương

Lư ngọc

 

LỪ

Lừ nhừ

 

LỮ

Lữ Đồng Tân

Lữ hành

Lữ khách

Lữ Mông

Lữ thứ

Lữ Vi

Lữ Vọng

 

LỰ

Lự

 

LỨA

Lứa đôi

 

LỪA

Lừa

Lừa đảo

Lừa lọc

Lừa phỉnh

 

LỬA

Lửa

Lửa binh

Lửa hương

Lửa lòng

Lửa lòng dập tắt

Lửa phiền

Lửa thành cá ao

Lửa tinh trung thiêu mình Võ Tánh

 

LỰA

Lựa

Lựa chọn

Lựa dèo

Lựa là

 

LỰC

Lực

Lực bất tòng tâm

Lực quyền

Lực Sĩ tháo hài

 

LƯNG

Lưng

Lưng cong

Lưng vơi

 

LỪNG

Lừng

Lừng danh

Lừng lẫy

 

LỬNG

Lửng

Lửng lơ

 

LỮNG

Lững chững

Lững đững

Lững thững

 

LƯỢC

Lược

Lược giải

Lược thao

 

LƯỚI

Lưới

Lưới rập

Lưới Thang

Lưới thưới

Lưới trần

Lưới trời

 

LƯỜI

Lười biếng

 

LƯỠI

Lưỡi

Lưỡi câu

Lưỡi không xương

Lưỡi liềm

Lưỡi thọc tay đâm

 

LƯỢM

Lượm

Lượm lặt

 

LƯỜN

Lườn

 

LƯỢN

Lượn sóng

 

LƯƠNG

Lương

Lương bổng

Lương dân

Lương điền

Lương Hạo

Lương y

Lương y từ mẫu

Lương Mạnh

Lương mộc

Lương năng

Lương nhân

Lương sanh

Lương tâm

Lương tể

Lương tháng

Lương thần

Lương thiện

Lương tri

Lương tri lương năng

Lương vật

Lương viện

Lương Vương

 

LƯỜNG

Lường

Lường cân tráo đấu

Lường gạt

Lường tài cân sắc

 

LƯỠNG

Lưỡng

Lưỡng nghi

Lưỡng phái

Lưỡng toàn

Lưỡng thiệt

 

LƯỢNG

Lượng

 

LƯỚT

Lướt

 

LƯỢT

Lượt

 

LƯU

Lưu

Lưu Bang

Lưu chiếu

Lưu danh

Lưu đày

Lưu hại

Lưu hồng bạch cốt

Lưu Huyền Đức

Lưu ý

Lưu Khoan

Lưu lạc

Lưu ly

Lưu linh

Lưu luyến

Lưu nhiệm

Lưu oan

Lưu Quan Trương

Lưu sa tây độ

Lưu tâm

Lưu thông

Lưu thuỷ

Lưu thủy cao sơn

Lưu trú

Lưu truyền

 

LỰU

Lựu

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


La | | | Lả | | Lạ | Lác | Lạc | Lách | Lạch |
Lai | Lái | Lại | Lay | Láy | Lạy |
Lam | Làm | Lãm | Lạm | Lan | Làn | Lãn | Lạn |
Lang | Láng | Làng | Lảng | Lãng |
Lanh | Lánh | Lành | Lảnh | Lãnh | Lạnh |
Lao | Láo | Lão | Lát | Lạt | Lau | Làu | Lảu |
Lắc | Lăm | Lắm | Lăn | Lằn | Lặn |
Lăng | Lắng | Lằng | Lẳng | Lặng | Lắt |
Lấc | Lấy | Lẫy | Lâm | Lấm | Lầm | Lẫm | Lậm |
Lân | Lấn | Lần | Lẩn | Lẫn | Lận | Lâng |
Lấp | Lập | Lật | Lâu | Lầu | Lậu |

Le | | Lẻ | Lẽ | Lẹ | Lem | Lén |
Leo | Léo | Lèo | Lẻo | Lẽo | Lép |
| Lề | Lễ | Lệ | Lệch |
Lên | Lênh | Lệnh | Lết | Lếu | Lều |

Li | | | Lia | Lìa | Lịch |
Liếc | Liêm | Liếm | Liên | Liến | Liền | Liễn | Liệng |
Liệt | Liều | Liễu | Liệu |
Lịm | Linh | Lịnh | Liu | Líu |

Ly | | Lỳ |

Lo | | | Lọ | Loà | Loã |
Loài | Loại | Loan | Loán | Loạn | Loang |
Lọc | Loè | Lòi | Lom | Lòn |
Long | Lóng | Lòng | Lỏng | Lọng | Lót | Lọt |
Lố | Lổ | Lỗ | Lộ | Lộc | Lôi | Lối | Lỗi | Lội |
Lộn | Lông | Lồng | Lộng | Lốp | Lốt | Lột |
| Lờ | Lở | Lỡ | Lơi | Lời | Lợi |
Lớn | Lờn | Lợn | Lớp | Lợp | Lợt |

| | Lúa | Lùa | Lụa | Luân | Luận | Luật |
Lúc | Lục | Lui | Lụi | Luy | Lũy | Luỵ | Luyến | Luyện |
Lúm | Lụm | Lụn | Lung | Lúng | Lủng |
Luộc | Luồn | Luông | Luống | Lụt |
| Lừ | Lữ | Lự | Lứa | Lừa | Lửa | Lựa | Lực |
Lưng | Lừng | Lửng | Lững |
Lược | Lưới | Lười | Lưỡi | Lượm |
Lườn | Lượn | Lương | Lường | Lưỡng | Lượng |
Lướt | Lượt | Lưu | Lựu |


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cập nhật ngày: 09-06-2020

LA | | | LE | | LI | LY | LO | | | LU |


A | B | C | CH | D | Đ | E | G | H | I-Y | K-KH | L | M | N | NG | NH | O | P | Q | R | S | T | TH | TR | U | V | X


[ MỤC LỤC ]

Ấn bản (v.2018)

TỪ NGỮ ĐIỂN CỐ CAO ĐÀI
Soạn giả: Hiền Tài Quách Văn Hoà

DOWNLOAD
E-book-PDF