PH
Pha là chế lẫn, trộn lẫn, đổ lộn. Như: Pha trà, pha thuốc, pha chì vào đồng, pha giống.
Thánh giáo Thầy có câu: Ðặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi chớ vội buồn, vì sự mừng vui và buồn tủi thường pha lẫn kế cận nhau.
Mái tóc sương pha thiều nhặt thúc,
Sanh linh độ dẫn hưởng Thiên ân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nâu sồng nhuộm áo pha màu khổ,
Tránh mối oan khiên chớ buộc mình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Pha lê, như chữ “Pha ly 玻 璃”, là chất thuỷ tinh, tức là một chất do nhân công chế ra, trong suốt, ánh sáng có thể thấu qua được, dùng làm chai, bình gương kính...
Như: Cốc pha lê, trong suốt như pha lê.
Tựa pha lê trông chư linh ánh,
Cơ vận hành pháp chánh Chí Tôn.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
Phá 破 là làm cho tan nát, hư hỏng, không còn nữa.
Như: Phá nhà, phá thành, phá bức tường, phá thai, sâu phá hại lúa, phá vỡ kế hoạch.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Thời kỳ mạt pháp nầy, khiến mới có Tam Kỳ Phổ Ðộ, các sự hữu hình phải huỷ phá tiêu diệt.
Rước voi phá mả đào lăng miếu,
Thả rắn xua ong nhiễu điện tà.
(Đạo Sử).
Cũng đừng ham kết bạn kết bè,
Theo cờ bạc bài me phá của.
(Phương Tu Đại Đạo).
破 罟
Phá: Bỏ đi, làm cho tan nát, hư hỏng. Cổ: Tấm lưới pháp luật, ý nói hình pháp nghiệt ngã.
Phá cổ là phá bỏ hình pháp nghiệt ngã xưa cũ vì không còn thích hợp.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Luật lệ tuy cũ chớ đạo vẫn như nhiên. Do công đức mà đắc đạo cùng chăng. Nhưng có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít.
Chính Thầy đã giáng cơ nói: Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ.
(Pháp Chánh Truyền CG).
破 道
Phá: Làm cho hư, quấy rối. Đạo: Tôn giáo.
Phá Đạo là quấy rối hay làm hư hoại nền tôn giáo.
Thánh giáo Đức Thượng Phẩm có câu: Em đã dâng sớ xin Đức Lý Giáo Tông ban luật lịnh cho anh đủ quyền tuyển chọn Chức sắc. Vậy anh cũng nên để ý dè dặt cho lắm mới trừ diệt đặng những kẻ phá Đạo.
Các con phải gắng sức, Thầy hằng ở bên các con, chẳng hề bỏ các con buổi nào, thì tưởng chưa ai phá Đạo đặng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
破 壞
Phá: Làm cho hư, quấy rối. Hoại: Phá, nát.
Phá hoại là làm cho hư hỏng, tan nát để bỏ đi không dùng nữa.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Mấy đứa mong chác sự phá hoại ấy lại là mấy ngọn đèn của Toà Tam Giáo khêu lên để dìu đường cho cả chúng sanh, thì con phải nghĩ đến hành trình của Ðạo phải đến thế nào?
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,
Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn.
(Ngụ Đời).
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.
(Đạo Sử).
Phá: Làm cho nát, cho hư. Khuấy: Quậy.
Phá khuấy là hành động quậy phá để cho mọi việc hư hỏng, tan nát.
Thánh giáo Thầy dạy: Ngày Thầy khai Ðạo, Thầy cũng có lời để lại cho các con hiểu rằng, lũ ma hồn quỷ xác nó cứ theo phá khuấy các con là nó muốn phá Ðạo đó, lại cũng vì các con không thoát tục đó chớ.
Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Ðộ, Quỷ Vương đã khởi phá khuấy chơn đạo...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
破 迷
Phá: Bỏ đi. Mê: Không tỉnh, lầm lạc, do chúng sanh không thấu rõ chân lý, không hiểu sự thật.
Chúng sanh bị đau khổ là vì cứ mê lầm, nhận những cái lăng xăng trần cảnh là tâm, chứ không biết nó chỉ là vọng tưởng, không phải là chân tâm.
Phật dạy: Mê thì Phật làm chúng sanh, ngộ là chúng sanh làm Phật.
Do vậy Đức Phật ra đời với mục đích “Phá mê”, tức là chỉ cho chúng sanh con đường hết mê để được giác ngộ.
Xem: Vô minh.
Làm cho chánh lý lưu thông,
Lập tâm sửa tánh kềm lòng phá mê.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
破 卵
Phá: Làm cho nát, cho hư. Noãn: Trứng các loài động vật cái đẻ ra, sau có thể nở thành con.
Phá noãn là thọc phá tổ chim để lấy trứng, ý muốn chỉ sát hại sinh vật từ trong trứng nước.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng biết chừng nào an.
(Kinh Sám Hối).
Phá: Làm cho nát, cho hư. Rối: Lộn xộn, loạn.
Phá rối là làm cho hoạt động mất ổn định, rối loạn. Như: Phá rối trật tự an ninh, phá rối nền Đạo.
Thánh giáo Đức quyền Giáo Tông có câu: Bần Đạo vui thấy cơ Đạo vừa được tạm yên, nhưng lo nỗi cơ thử thách vẫn hành động đặng phá rối nội tình và cản trở đường tiến triển của Đạo.
Biết bao thế lực đã thành lập trong buổi này, chung công hiệp sức nhau mà phá rối Đạo Thầy.
(Pháp Chánh Truyền CG).
Phá: Làm cho nát, cho hư. Tan (tán): Rã rời ra, tan nhỏ ra, vụn.
Phá tan, như chữ “Phá tán 破 散”, là làm cho vỡ, nghĩa là phá hại cho hư hỏng, tan nát.
Như: Thời có giặc loạn thì nhà cửa bị phá tan.
Phước Thiện nay chuyển đại đồng,
Phá tan giặc giã giao thông hoàn cầu.
(Thất Nương Giáng Bút).
Phá tan cái lũ con ong,
Loạn ly đem thế nhập trong Thánh Toà.
(Bát Nương Giáng Bút).
破 胎
Phá: Làm cho nát, cho hư. Thai: Đứa con đang hình thành và lớn lên trong bụng mẹ, chưa sinh ra.
Phá thai là phá bỏ cái thai nhi còn nằm trong bụng bà mẹ, chưa được sinh ra.
Như: Phá thai cũng là một tội đối với tôn giáo.
Phạt răn quến gái, dụ trai,
Bày ra thuốc độc, phá thai tuyệt loài.
(Kinh Sám Hối).
1.- Phách là kiêu, khoác lác lên mặt ta đây. Như: Nói phách, làm phách, phách lối.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Có nhiều hạng người được vinh vang thì lên mặt phách xấc, không nhớ đến căn bổn hèn hạ của mình khi trước, phải biết rằng chúng ta đứng đợt với thiên hạ được là nhờ Chí Tôn tô mày vẽ mặt cho đó, hạng nầy rất nhiều, phụ nữ nên để ý sửa dạy cho họ bớt tâm tự kiêu đôi chút.
Thà theo nẻo chánh xách đèn giùm,
Thà lạy quỷ vương nói phách um.
(Đạo Sử).
2.- Phách 魄 là vía, là chơn thần, là đệ nhị xác thân. Như: Thể phách, hồn phi phách tán, xiêu hồn lạc phách.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Chơn thần là Hậu thiên khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có, ta ăn hột cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh vật nầy. Ta biết có mà không thấy được. Chơn thần chúng ta, thiên hạ kêu là phách, vía cả thảy đều có.
Trong giấc mộng nghỉ yên hồn phách,
Đấng Thiêng Liêng năng mách bảo dùm.
(Kinh Thế Đạo).
Bên màn đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Phách 魄 vía, là thể tạo nên sức mạnh tinh thần của con người. Như: Khí phách, nữ phách.
Bia Kỷ niệm Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Song nghĩ lại, tuy thể phách tách rời trần thế mà tinh thần còn lai láng như xưa, muôn năm theo độ rỗi chúng sanh, ngàn thuở vẫn mặc phò Ðại Ðạo.
Anh tuấn đất gìn nung khí phách,
Uy linh Trời giữ tạc đài liên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Dụng văn hoá trau tria nữ phách,
Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
魄 英 靈
Phách: Vía, tức Chơn thần đệ nhị xác thân của con người. Anh linh: Thiêng liêng sáng suốt.
Phách anh linh là nói cái chơn thần (đệ nhị xác thân) thiêng liêng sáng suốt.
Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh,
Phách anh linh ắt phải anh linh.
(Kinh Tận Độ).
Phách: Lên mặt, kiêu căng, có những biểu hiện coi thường người khác vì cho rằng mình hơn. Lối: Cách thức.
Phách lối là kiêu căng, tức có những hành động, cử chỉ một cách vô lối, không theo nguyên tắc, thể hiện sự hống hách, coi thường người khác.
Như: Nó quen thói phách lối với bạn bè.
Thay đời chẳng phải một tên ngươi,
Thấy phách lối kia bắt nực cười.
(Đạo Sử).
魄 桂
Phách: Ánh sáng của trăng non, hoặc phần tối trong mặt trăng. Quế: Cây quế, một loại cây có hương thơm. Tương truyền trong mặt trăng có cây quế, nên quế còn dùng để chỉ mặt trăng.
Phách quế là ánh sáng mặt trăng giọi xuống, hoặc chỉ mặt trăng.
Hồn quê níu nắm tình non nước,
Phách quế náu nương dạ sắt son.
(Thất Nương Giáng Bút).
Đừng học đồ phách quế hồn ma,
Dầu bỏ xác không xa phường tục.
(Phương Tu Đại Đạo).
Lầu hồng chạnh ngóng vầng trăng cũ,
Phách quế dường theo cửa ải xa.
(Thơ Tiếp Đạo).
1.- Phai là nhạt, lợt bớt màu, tức không còn giữ nguyên độ đậm của màu sắc, hương vị ban đầu.
Như: Quần áo đã phai màu, Trà đã phai hương.
Rừng thung nắng giọi cành phai thắm,
Bờ liễu quyên đưa tiếng gọi sầu.
(Thơ Thượng Sanh).
2.- Phai còn dùng để chỉ không còn giữ nguyên độ sâu sắc như lúc ban đầu. Như: Kỷ niệm chưa phai.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nào nhân xưa, nào đức trước, nào sách Thánh, nào lời Hiền, trải qua chưa trăm năm mà cuộc cờ đời đã rửa phai hạnh đạo.
Năm tháng chưa phai lời ước hẹn,
Tẻ vui còn nhớ buổi sum vầy.
(Thơ Thuần Đức).
Phai: Mờ nhạt dần, không còn rõ nét, sậm màu nữa. Nghĩa bóng: Không còn đậm đà gắn bó. Dạ: Bụng, biểu tượng cho tâm lý, tình cảm.
Phai dạ, như chữ “Phai lòng”, là lòng dạ con người không đậm đà tình nghĩa gắn bó nữa.
Nước nguồn cây cội đừng phai dạ,
Tiếng rạng muôn năm rõ ngọn ngành.
(Lý Đại Tiên Trưởng).
Phai: Mờ nhạt dần, không còn rõ nét, sậm màu nữa. Nghĩa bóng: Không còn đậm đà gắn bó. Lãng: Lợt, lạt.
Phai lãng, như chữ “Phai lợt”, là mờ nhạt dần, không còn rõ nét, không còn đậm đà nữa.
Các con phải tự đặt nhiệm vụ của mình cho phải phép, đừng phai lãng lập trường đã sẵn có.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Phai: Mờ nhạt dần, không còn rõ nét, sậm màu nữa. Nghĩa bóng: Không còn đậm đà gắn bó. Lợt: Màu nhạt hơn mức bình thường, không mặn mà, thắm thiết nữa.
Phai lợt, như chữ “Phai lạt”, là phai và lợt, từ biểu thị tình trạng giảm hẳn về mức độ trạng thái, tính chất, so với lúc ban đầu.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đối với Quốc dân Việt Nam, là đồng bào của Bần Đạo, là máu thịt của Bần Đạo, là chủng tộc của Bần Đạo như thế nào, thì các dân tộc khác cũng vậy, thì cái tình cảm của Bần Đạo là cả toàn thể nhơn loại, nó có một đặc sắc của nó đời đời kiếp kiếp chẳng hề phai lợt.
Tiêu diêu phai lợt mùi trần,
Tỉnh say với giọt nước ngần tẩy mê.
(Tam Nương Giáng Bút).
Phai: Không còn giữ nguyên màu sắc, hương vị ban đầu nữa. Mòn: Hao mất dần.
Phai mòn là không còn giữ nguyên tình cảm hay ấn tượng đằm thắm, sâu sắc như lúc ban đầu nữa, nó bị mờ nhạt dần trong tâm khảm.
Thánh đức còn mong ngày biến hoá,
Chơn thành hồn thượng há phai mòn.
(Đạo Sử).
Kìa gương Bá Đào còn bia nào dối giả,
Bạn Giác Ai lời hẹn đã chẳng phai mòn.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Phái: Nhánh, chi phái. Chiếu Minh: Tên một chi phái đạo Cao Đài ở Cần Thơ.
Phái Chiếu Minh hay “Chiếu Minh Vô Vi”, là một chi phái đạo Cao Đài do Ngài Ngô Văn Chiêu lập ra vào đầu năm 1927, sau khi Ngài rút lui không nhận ngôi Giáo Tông do Đức Chí Tôn phong thưởng. Đầu tiên phái nầy được gọi là “Cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh vô vi” ở tại Châu Thành Cần Thơ.
Sau khi Ngài Ngô Văn Chiêu đăng Tiên thì phái Chiếu Minh giao lại cho ông Tư Huỳnh lãnh đạo.
Phái Chiếu Minh chuyên về luyện đạo Tâm pháp Bí truyền, Nội giáo Vô Vi, nên lựa chọn và thâu nhận rất ít tín đồ, hoạt động nhỏ hẹp ở ba nơi: Cần Thơ là Tổ Đình của phái Chiếu Minh, Phú Quốc và Sài Gòn.
Hiện nay phái Chiếu Minh lại chia ra hai phái: Chiếu Minh Long Châu và Chiếu Minh Đàn.
Danh hiệu Cao Ðài phái Chiếu Minh,
Luyện huờn đơn sẽ đắc trường sinh.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Phái 派: Lệnh, sai khiến, như phái viên 派 員. Vàng: Chỉ sự tôn quý (Có lẽ do chữ “kim phái 金 派” hay “Ngọc phái 玉 派”).
Phái vàng có thể hiểu như là một sắc chỉ của Đức Chí Tôn.
Đức Phật Mẫu có giáng cơ dạy Đạo tại Thảo Xá Hiền Cung, ngày 15 tháng 11 năm Tân Mùi bằng một bài thi, trong bài ấy có mấy câu như sau:
Ngọc Hư định đã nhiều phép cứu,
Thiếp từ đặng Phái vàng chí bửu.
Lịnh Chí Tôn khai mối Tam Kỳ,
Hằng ngày lo cho đám nữ nhi...
Hai câu giữa của đoạn thi trên cho ta hiểu nghĩa như sau: Phật Mẫu kể từ khi đặng sắc chỉ rất tôn quý của Đức Chí Tôn, trong ấy, lịnh truyền khai mở mối Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Như vậy, câu kinh: “Phái vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ”, có nghĩa là Đức Mẹ nhận lãnh sắc chỉ của Chí Tôn để dìu dắt đám trẻ thơ nơi cõi trần.
Ngọc Hư định phép cũng nhiều,
Phái Vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ.
(Tán Tụng Công Đức).
Trong hình Phật Mẫu kỵ kim loan,
Cảm Đức Từ Huyên lãnh phái vàng.
(Thơ Huệ Phong).
派 員
Phái: Lệnh, sai khiến. Viên: Người.
Phái viên là người trong chánh phủ hay trong đoàn thể được khiến đi để làm việc.
Trong Đạo Cao Đài, Phái viên là người được các Đạo hữu trong Tộc Đạo địa phương cử về Toà Thánh để dự Đại Hội Nhơn Sanh.
Theo Đạo Luật, cứ năm trăm Đạo hữu trường chay thì được cử một vị Phái viên. Nam cử cho nam, nữ cử cho nữ.
Bên Phước Thiện cũng đề cử Phái viên đi dự Đại Hội Phước Thiện, cứ năm trăm người công quả trong cơ sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi của Phước Thiện được cử một vị Phái viên.
Nghị Viên và Phái Viên hiệp lại gọi là Ban Ủy Viên...
(Đạo Luật Mậu Dần).
1.- Phải là đúng, nhằm, phù hợp với. Như: Khen không phải lối, bán phải giá, vừa đôi phải lứa, phải duyên.
Thánh giáo Thầy có câu: Chúng sanh là toàn cả nhơn loại chớ không phải lựa chọn một phần người, như ý phàm tục các con tính rỗi.
Ðã chẳng phải duyên không phải nợ,
Can chi con buộc tấm tình riêng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phải là đúng, phù hợp với lẽ phải, với những điều kiện nên làm.
Như: Lẽ phải, nói chí phải, đối xử không phải với bạn, phải đấy chúng ta học đi.
Hằng nhớ đến vợ nhà nhỏ dại,
Đừng chấp nê quấy phải để lòng hờn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Đừng cãi lẽ những điều phải chẳng,
Tấm thân già hiểu đặng cuộc đời hơn.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Phải là bắt buộc làm vì nhiệm vụ, đạo lý hoặc vì uy quyền, thế lực. Như: bổn phận phải làm, thấy đói phải cứu, thấy dữ phải lánh.
Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng đảo.
Công quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,
Nợ trần bước tục phải đua chen.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,
Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.
(Bát Nương Giáng Bút).
3.- Phải là bị, mắc. Như: Phải đòn, phải bệnh, phải đền, phải tội, phải vạ, phải oan.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy lấy làm đau đớn hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhơn loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.
Biển đổi, non dời, đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hồng cấu đã chui thân phải vấy,
Hơn thua cười kẻ biết nơi tiền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Của nhiều ít đức sương trên cỏ,
Giành giựt mà chi phải lụy mình.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phải: Vừa phải, không quá lắm. Chẳng: Như chữ “Chăng”, từ biểu thị ý phủ định.
Phải chẳng, như chữ “Phải chăng”, có nghĩa là vừa phải, không có gì quá đáng, có thể chấp nhận được.
Như: Đề ra giá phải chẳng, đừng nói thách.
Trả thấp cao phải chẳng đừng buồn,
Với ai cũng ra tuồng dịu ngọt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phải: Đúng, không sai Quấy: Lỗi, lầm.
Phải quấy là điều đúng và điều sai. Phải quấy nghĩa bóng là biết tính phải và tính quấy, tức biết lo lót.
Thánh giáo Đức Lý Thái Bạch trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Chư đạo hữu mựa luận bàn, để phải quấy Lão cũng ra tay sửa trị được vậy, miễn là làm xong phận sự là đủ, còn nét vạy tà của ai để mặc ai.
Khi dương thế không phân phải quấy,
Nay Hư linh đã thấy hành tàng.
(Kinh Thế Đạo).
Mới thấy con chưa từng phải quấy,
Khá chờ xem thử biết Thầy hay.
(Đạo Sử).
Biết đời phải quấy biết nên hư,
Biết tội lỗi kia phải biết trừ.
(Đạo Sử).
Phải: Đúng, không sai. Trái: Sai, ngược lại.
Phải trái, bởi nghĩa chữ “Thị phi 是 非”, là đúng sai, thiện ác. Như: Ngồi phân phải trái với bạn.
Nói về Lễ nhạc, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ngoài ra Lễ còn có hiệu lực định lẽ phải trái, tình thân sơ và trật tự trên dưới cho phân minh.
Thương dìu dắt lấy đoàn em dại,
Đạo đức ngoan phải trái con thấy rồi.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Gặp việc nói lòng đừng ái ngại,
Giữa công môn phải trái cứ phân lời.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Phàm 凡 là tục. Như: Cõi phàm, người phàm, ăn phàm nói tục, người phàm mắt tục.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà làm ra Phàm giáo.
Tích đức để lòng trau khổ hạnh,
Diệt phàm gắng chí thoát mê tân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Gần nơi Tiên cảnh phải xa phàm,
Cái kiếp trần nầy trẻ chớ ham.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phàm 凡 là gồm tất cả. Như: Phàm lệ, phàm làm việc gì cũng phải có trật tự.
Thánh giáo Thầy có câu: Các con đủ hiểu rằng, phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối. Nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt.
Phàm phận gái đứng hàng khuê các,
Phải trau tria tướng hạc hình mai.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phàm trí gái thì là hẹp độ,
Ghen điên cuồng ra khổ thân hình.
(Phương Tu Đại Đạo).
凡 質
Phàm: Trần tục, tầm thường. Chất: Phẩm chất, tức là cái phẩm cách của con người biểu hiện ở tư cách.
Phàm chất là phẩm chất của phàm phu, nghĩa là phẩm cách của con người phàm tục, tầm thường.
Phàm chất tầm thường thấp kém do ảnh hưởng của vật chất phàm trần. Con người vì có Thất tình, trước sự hấp dẫn của Lục trần, con người sanh ra Lục dục, tạo nên cái tư cách tầm thường, đó là Phàm chất.
Người tu hành trau dồi tâm tánh có thể đổi phàm chất ra Thánh chất.
Thánh giáo Thầy dạy: Thầy lập nhơn loại là các con, chỉ tưởng rằng ban đặng phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi cõi thế giới càn khôn, đặng làm cho rõ Thánh chất mạnh mẽ hơn phàm chất, nào dè còn lại đặng chẳng đủ một phần triệu Ðấng, thì thế nào Thầy không đau lòng cho đặng.
Chẳng dè phàm chất các con nó mạnh mẽ thế nào đè khuất trọn vẹn chút mảy mún Thánh chất Thầy để vào lòng các con.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
凡 緣
Phàm: Trần tục, tầm thường. Duyên: Duyên nợ, lương duyên.
Phàm duyên là duyên phàm tục, tức là duyên nợ do oan trái giữa nam nữ mà kết thành nơi cõi phàm gian.
Tuy biết phàm duyên là tục trái,
Nay nhìn tạn mặt nghĩ càng đau.
(Thiên Thai Kiến Diện).
凡 間
Phàm: Trần tục, tầm thường. Gian: Giữa.
Phàm gian là giữa cảnh phàm tục, dùng để chỉ cõi thế gian, cõi của con người đang sống. Như: Những chơn linh cao trọng xuống phàm gian để độ rỗi người đời.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ðức Từ Bi đã lấy lòng quảng đại mà gieo giọt nhành dương để rửa lỗi phàm gian, hầu đem mình trong giá trắng gương vào nơi Cực Lạc.
Thà cam vui chốn động Đào,
Đừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian.
(Kinh Thế Đạo).
Cõi trần trung giái thinh thinh,
Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.
(Xưng Tụng Công Đức).
Cao Đài tá thế đến phàm gian,
Bạch Ngọc Huỳnh kim cũng chẳng màng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
凡 教
Phàm: Trần tục, tầm thường. Giáo: Đạo, tôn giáo.
Phàm giáo là tôn giáo bị người phàm tục làm cho sai lệch, làm mất hết triết lý cao siêu nhiệm mầu như thuở mới sáng lập.
Phật giáo từ ngày khai sáng đến nay đã trải qua ba thời kỳ:
1. Thời kỳ Chánh pháp, là thời kỳ Thánh giáo, tức giáo pháp của đức Phật chưa bị cải sửa.
2. Thời kỳ Tượng pháp, là thời kỳ Thánh giáo bị sửa cải do giáo pháp của Đức Phật bị sai lạc một phần.
3. Thời kỳ Mạt pháp, là thời kỳ giáo pháp của Đức Phật bị sửa đổi hoàn toàn, nên trở thành Phàm giáo.
Lại nữa, trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà làm ra Phàm giáo.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
凡 語
Phàm: Tầm thường thấp kém, ý chỉ cõi thế gian. Ngữ: Lời nói.
Phàm ngữ là lời nói của người phàm tục, tức là những thứ tiếng nói của con người ở cõi thế, dùng để trao đổi với nhau.
Thầy cùng các Đấng Thiêng liêng không nhơn thân phàm ngữ, thế nào mà thông công cùng chúng sanh.
(Pháp Chánh Truyền CG).
凡 眼
Phàm: Phàm tục, tầm thường. Nhãn: Mắt.
Phàm nhãn là con mắt của người phàm tục, tức là mắt của thân thể xác thịt, gọi là mắt phàm, hay mắt thịt.
Trong Đạo Sử, Thầy có dạy: Trong không khí tuy phàm nhãn không thấy đặng, mà không khí ấy chứa đầy vật chất tiếp dưỡng “Matières Nutritives” của xác trần, vì nhờ nó biến hoá chúng sanh đặng.
Xem: Mắt thịt.
Gót chơn đưa rủi như sát mạng,
Vật hữu linh phàm nhãn khôn soi.
(Kinh Thế Đạo).
凡 人
Hay “Phàm nhơn”.
Phàm: Phàm tục, tầm thường, chỉ cõi trần. Nhân (nhơn): Người.
Phàm nhân là người tầm thường tức người phàm tục. Trái với Phàm nhân là Thánh nhân.
Trong Đạo Luật Mậu Dần có câu: Còn một hạng nữa thì lại đang mê mẩn trong vòng vật chất, lầm tưởng nền Đạo là một cơ quan xảo kế của phàm nhơn sáng tạo để mê hoặc tâm lý của người đời.
Chinh chuyên thay! phận phàm nhân,
Ðỡ nương chẳng biết dựa gần người binh.
(Ngụ Đời).
Ðầy tai đã lắm thị cùng phi,
Não trí phàm nhân há biết gì.
(Đạo Sử).
Sương bay sáu tháng bởi người oan,
Bổn tánh phàm nhân ít hiểu nhàn.
(Đạo Sử).
凡 品
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần. Phẩm: Thứ bực chức tước cao thấp.
Phàm phẩm là phẩm bực thấp kém của người phàm tục, tức là những người tầm thường còn nằm trong vòng tham dục của thế gian.
Nếu người lo tu tâm dưỡng tánh, lập công bồi đức thì cơ thể từ phàm phẩm tiến lên Thần phẩm, Thánh phẩm hay Tiên Phật vị.
Nâng đỡ, dạy dỗ cho phàm phẩm tấn hoá lên cho tới Thánh vị.
(Pháp Chánh Truyền CG).
凡 夫
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần. Phu: Người, kẻ.
Phàm phu là người nông cạn, tầm thường. Đối với Tôn giáo, phàm phu là người tầm thường, còn ở trong vòng vật dục, còn tranh đua danh, lợi, quyền.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy: Lão cũng hết lòng chiều theo tánh từ bi của Ðức Thượng Ðế, bằng chẳng thì Lão xuống tay bôi xoá hết trường công quả Ðại Ðạo, thì chúng sanh hết trông mong, mà kẻ chác tội lỗi cũng khó bề lấy sức phàm phu để gây nên rối rắm nữa.
Ðôi mắt phàm phu đâu biết đặng,
Huyền vi tối trọng Ðấng cao xa.
(Đạo Sử).
Phàm phu chưa rõ tài Tiên, Phật,
Tục tử không thông phép Thánh, Thần.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Phàm phu: Người tầm thường. Tục tánh: Tánh nết của kẻ phàm tục, tức tánh thấp kém.
Phàm phu tục tánh, như chữ “Phàm phu tục tính 凡 夫 俗 性”, là người tầm thường, có tánh của kẻ phàm tục còn ham mê danh lợi, còn ham nhục dục.
Đức Chí Tôn có dạy: Trong các con, nhiều đứa muốn chư Thần, Thánh hành phạt những tánh bất lương của bọn vô đạo kia đặng làm cho đường đạo vững bền, nền Ðạo mau thành tựu. Nhưng Thiên cơ há vị phàm phu tục tánh mà để các con toại kỳ sở nguyện sao?
Song Ngài (Chỉ Đức Quan Thánh) vẫn vô tội mà cũng không phạm luật Thiên Ðình, thiệt là khó hiểu cho phàm phu tục tánh.
(Đạo Sử).
凡 心
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần. Tâm: Cái tâm.
Phàm tâm là cái tâm phàm tục của con người, tâm ấy thường mang nhiều tham vọng, ích kỷ, có đủ tham sân si, thích hưởng thụ về vật chất.
Trái với phàm tâm là Thánh tâm hay Phật tâm.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu vì chút phàm tâm mà chia đường phân nẻo, ghét nghịch lẫn nhau, các con sẽ treo gương bất chánh cho kẻ sau, lại nền Ðạo cũng vì đó mà khó mau thành đặng.
Dọn mình cho sạch bớt phàm tâm,
Lẽ chánh tà kia phải xét thầm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
凡 俗
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần. Tục: Tầm thường, chỉ cõi tục.
1.- Phàm tục là tầm thường, chỉ hạng người còn ham mê danh lợi, không có gì cao siêu.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Những sự phàm tục đều là mưu kế của Tà mị Yêu quái, cốt để ngăn trở bước đường Thánh đạo của các con. Những mưu quỷ quyệt ấy do lịnh Thầy dùng để thử các con.
Biển mê cầu ngọc liên phàm tục,
Cõi thọ sông Ngân tiếp đảnh Tần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vắng dạng nhưng trong đầu chẳng có,
Mảnh thân phàm tục vốn bù nhìn.
(Đạo Sử).
2.- Ngoài ra, phàm tục còn dùng để chỉ cõi thế gian, cõi con người đang sống.
Như: Những kẻ tham dục nơi phàm tục thì không bao giờ sáng suốt để thoát khổ.
Nắng mưa kia vốn chưa vừa kẻ,
Phàm tục nhiều tay quá lỗi lời.
(Đạo Sử).
凡 世
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi phàm. Thế: Đời. chỉ cõi đời, cõi thế gian.
Phàm thế là cõi đời, chỉ cõi thế gian, tức cõi của con người đang sống.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Thường thấy Thiên mạng hằng quá sức Phàm thế, còn Phàm thế thì hằng nghịch hẳn Thiên mạng.
An dân ắt cũng đặng lòng Trời,
Phàm thế chưa người đó hỡi ngươi.
(Đạo Sử).
凡 體
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi phàm. Thể: Thân thể.
Phàm thể là thân thể phàm tục, tức thể xác bằng xương bằng thịt của con người.
Phàm thể đồng nghĩa với phàm thân.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Biết mình có tội mà lại sợ nhục cái thanh danh phàm thể thì hỏng cái phẩm vị thiêng liêng thì rất nên đáng tiếc.
Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,
Tùng theo Chơn pháp độ lần chúng sanh.
(Kinh Thế Đạo).
Trái oan buộc chặt vì dây,
Cũng vì phàm thể nhục thây giục người.
(Lục Nương Giáng Bút).
凡 身
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi phàm. Thân: Thân thể, xác thể, thân hình bằng xương bằng thịt.
Phàm thân là thân thể nơi cõi phàm, tức là thân thể bằng xương bằng thịt. Như chữ nhục thể.
Thánh giáo Đức Hộ Pháp dạy: Thời nào theo nấy, khi Bần Đạo còn mang phàm thể thì cũng oán ghét như ai nên mới có ngày Đạo Hận, nhưng khi về thiêng liêng vị thì cởi mở tất cả, chớ để hận thù làm gì trong cửa Đạo.
Hỏi kẻ còn ai hơn thế nữa,
Thì toan đến khẩn độ phàm thân.
(Đạo Sử).
Phàm thân chưa vỗ tay nên sấm,
Thiên lực hoà nhơn khá giữ phòng.
(Đạo Sử).
凡 塵
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi phàm. Trần: Bụi bặm.
Phàm trần, như chữ “Phàm tục 凡 俗”, dùng để chỉ cõi thế gian có nhiều bụi bặm, ô trược, mà con người đang sanh sống.
Phàm trần do chữ phàm gian và trần gian ghép lại. Người ta thường dùng nhiều từ ngữ để chỉ cõi nầy như hồng trần, trần gian, phàm gian, nhơn gian...
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy đã nói sở dụng thiêng liêng, Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa.
Xin Thần, Thánh ruổi dong cỡi hạc,
Xuống phàm trần vội gác xe tiên.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Thiên cơ đã lộ lúc khai Trời,
Kêu khách phàm trần đã hụt hơi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Diêu phong mấy khúc khách phàm trần,
Những mến phụng lầu ngự các lân.
(Đạo Sử).
凡 治
Phàm: Tầm thường, chỉ cõi trần. Trị: Trừng trị, phạt.
Phàm trị là do cõi phàm trừng phạt, tức là vi phạm luật pháp của đời hay Đạo nơi thế gian nên bị trừng trị.
Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Nếu có kẻ không nghe lời giáo hoá, cố tâm phạm luật thì người cầm quyền cai trị lấy Thánh đức mà định hình phạt là cốt yếu cạo gọt cho nên hình người, chớ không phải kẻ cầm quyền mà để phạm vào tội ác sát nhơn, bởi Đạo quyền gọi là Thánh trị chớ không phải phàm trị.
Hễ có Phàm trị mới khỏi Thiên trị, phải chiếu luật cho toàn cả tín đồ khỏi bị Thiên điều...
(Pháp Chánh Truyền CG).
1.- Phạm 犯 là mắc phải điều cần nên tránh. Như: Phạm lỗi, phạm tội tham ô, phạm sai lầm.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Các con ngã thì tại nơi Thầy. Nếu Thầy biết các con nhẹ tính thì thế nào cũng chẳng chịu. Lại để lời tiên tri mà dặn trước, nào dè Thánh Ngôn, các con không đọc, lời Thầy nói cũng như không, mới ra tội lỗi các con phạm thượng thế ấy.
Tánh hiền đức một lời chẳng phạm,
Thủ hiếu thân cai quản gia tề.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Phạm 犯 là người can án, người bị tội.
Như: Kẻ tội phạm, bọn can phạm, nữ tù phạm, giải tội phạm đi đày.
Phải thường viếng tù lao nơi khám,
Mà khuyên lơn kẻ phạm răn mình.
(Phương Tu Đại Đạo).
3.- Phạm 範 là khuôn, khuôn mẫu, không đứng một mình. Như: Phạm vi, phạm trù, mô phạm.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nếu biết là sự học hỏi không có phạm vi giới hạn, trí huệ càng mở mang thì sự học càng tiến thêm mãi và nếu được lãnh hội mau chóng là nhờ có suy nghĩ nhiều.
Một điều là ông cha phàm làm với phạm vi nhỏ phương pháp nhỏ theo phàm.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
4.- Phạm 梵 là Phật. Như: Cửa Phạm, Phạm Môn.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hội Thánh Phước Thiện là thay thế cho Hiệp Thiên Đài lo cứu khổ để giải khổ cho toàn cả nhơn loại, mà Hiệp Thiên Đài chỉ có lãnh lịnh bốn, năm vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được cái Bí Pháp, chi Pháp Chí Tôn đưa ra biểu phải làm mà trong Pháp Chánh Truyền không có định, Bần Đạo chỉ lấy bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy mà lập thành dầu cho cả chơn hồn đã siêu lạc nơi nào sau nầy cũng phải nơi cửa Phạm về cùng Ngài.
Trước muốn đưa chơn vào cửa Phạm,
Hỏi mình có trọn tấm lòng thành?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
犯 惡
Phạm: Mắc phải điều không nên làm. Ác: Hung dữ, gây đau khổ, tai hoạ cho kẻ khác.
Phạm ác, như chữ “Ác phạm 惡 犯”, là chỉ người phạm tội gian ác.
Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.
(Kinh Sám Hối).
范 公 稷
Phạm Công Tắc là tên của Đức Hộ Pháp, một vị chức sắc Đại Thiên phong Hiệp Thiên Đài trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ngài Phạm Công Tắc sinh ngày mùng 5 tháng 5 năm Canh Dần (Dl. 21/6/1890) tại làng Bình Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tân An (nay thuộc Thành Phố Tân An, tỉnh Long An).
Thân phụ của Ngài là cụ Phạm Công Thiện, người làng An Hoà quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, thân mẫu là bà La Thị Đường, cũng là người cùng làng.
Cụ ông làm công chức dưới thời Pháp thuộc, được đổi đến Tân An làm việc nên đem gia đình đi theo, và ở đó sinh ra Ngài Phạm Công Tắc. Ngài là người con thứ bảy trong gia đình có tám người con, dưới Ngài còn một người em gái út. Gia đình của Ngài theo Công Giáo.
Thuở nhỏ Ngài Phạm Công Tắc được cha mẹ cho học chữ Nho tại trường làng, sau đó đổi qua Tây học, học hết bậc Trung học tại trường Chasseloup Laubat Sài Gòn, vào năm 1907, Ngài thi đậu bằng Thành chung.
Trong thời gian học trung học, với lòng yêu nước sẵn có, Ngài tham gia tích cực vào phong trào Đông Du tại Sài Gòn. Năm 1908, Ngài được chọn ghi tên vào danh sách chuẩn bị đưa đi nước ngoài; nhưng sau đó, bị bại lộ không đi được. Do chính quyền lưu ý theo dõi, nên Ngài phải bỏ học.
Nhờ có trình độ Trung Học, Ngài xin vào một hãng buôn làm công. Thời gian này, lúc rảnh rỗi, Ngài viết cho các báo như Công luận, La Cloche Fêlée của Nguyễn An Ninh, La Voix Libre, Lục Tỉnh Tân Văn... với bút danh Ái Dân.
Sau khi tờ Lục Tỉnh Tân Văn bị đình bản, ông Gilbert Chiếu làm chủ bút bị bắt, Ngài mới trở về quê sống.
Đến năm 1910, gia đình lâm vào cảnh túng thiếu nên Ngài phải xin vào làm ở Sở Thương Chánh Sài Gòn. Sau khi có việc làm, Ngài dâng lịnh mẫu thân (phụ thân Ngài mất năm 1902, lúc đó Ngài mới có 13 tuổi) lập gia đình với bà Nguyễn Thị Nhiều, sinh đặng ba người con, nhưng người con trai mất sớm khi mới 4 tuổi, còn lại hai người con gái thứ ba là Phạm Hồ Cầm và thứ tư là Phạm Tần Tranh.
Năm 1912, Ngài được 22 tuổi, mẫu thân Ngài qua đời. Một nỗi đau lớn đối với Ngài, khiến Ngài chán nãn sự đời, bắt đầu quan tâm đến cuộc sống tâm linh nhiều hơn nên để tâm nghiên cứu về Thần Linh học.
Vào đầu thập niên 1920, phong trào Thông linh học (Spiritisme) bắt đầu phổ biến tại Nam Kỳ. Chính vì vậy, vào hạ tuần tháng 7 năm 1925, Ngài Phạm Công Tắc cùng với quý vị Cao Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư và một vài người trong gia đình, muốn thử nghiệm Thần linh học, nên cùng họp tại nhà Ngài Cao Hoài Sang để xây bàn. Trong những lần xây bàn đó các Ngài tiếp xúc được các chơn linh cao trọng nhập bàn về độ rỗi và dẫn dắt quý Ngài vào đường đạo đức.
Đồng thời, khoảng tháng 7 có một chơn linh hết sức cao trọng, giáng cơ xưng là A, Ă, Â. Sau nầy các Ngài mới biết đó là Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng đàn cho thi văn dạy Ðạo và dìu dẫn các Ngài Vọng Thiên Cầu Đạo, tức là buổi lễ cầu nguyện Đức Thượng Đế ban cho nhơn loại một mối Đạo để cứu vớt nhơn sanh trong thời Hạ nguơn mạt pháp.
Qua đầu năm Dương lịch, ngày 5 tháng 12 năm Ất Sửu (Dl. 18/1/1926), Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Ngài Phạm Công Tắc cùng với hai ông Cư và Sang đến nhà Cựu Hội Đồng Thượng Nghị Viện Đông Dương là ông Lê Văn Trung để Đức Ngài thu làm môn đệ. Từ đó, Ngài Trung vâng theo Thánh ý, thu xếp việc nhà một lòng xả thân hành Đạo.
Sau đó, Đức Chí Tôn dạy Ngài Phạm Công Tắc cùng với các ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Đức phải hiệp với Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở Đạo.
Đêm 30 tháng 12 năm Ất Sửu, Đức Chí Tôn dạy các ông đem theo cây cơ, đến thăm từng nhà của mười ba môn đệ mà Ngài đã cho lưu tên trong bài thi tứ tuyệt. Khi mọi người đến nhà Ngài Phạm Công Tắc, Đức Chí Tôn giáng cơ cho bài thi mà sau nầy Đức Hộ Pháp mới thuyết đạo, giải thích như sau: Ngài (Chí Tôn) đến nhà Bần Đạo năm Sửu dạy cả mấy Anh Lớn ngày nay là Chức Sắc của Đạo, đi đến mọi nhà, thật ra Đức Chí Tôn đến thăm, đến viếng mọi con cái của Ngài, Bần Đạo không đức tin gì hết nghe nói Tiên giáng đi theo nghe Thi chơi, làm cho Đại Từ Phụ phải tức cười. Ngài cho Bài Thi ai nấy cũng tốt, duy có Bài Thi của Bần Đạo rất dị hợm như vầy:
Ngao ngáo không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.
I. Thiên phong là Hộ Pháp.
Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, ngày 15 tháng 3 năm Bính Dần (Dl. 25/04/1926) thì thiết lễ Thiên phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, Thầy dạy: “Cư nghe dặn: con biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ, xông hương cho nó, biểu nó lựa một bộ quần áo tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón... Cười... Đáng lẽ nó phải sắm khôi, giáp như hát bội, mà mắc nó nghèo, Thầy không biểu.
Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt ngay vô ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải điều đắp mặt nó lại.
Lịch, con viết một lá phù Giáng Ma Xử đưa cho nó cầm.
..........
Cả thảy Môn đệ phân làm ba ban, đều quỳ xuống, biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó đến, rồi mới tới trước mặt Tắc, đặng Thầy trục xuất chơn thần nó ra, nhớ biểu Đức, Hậu xông hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.
Đây là cuộc hành pháp của Đức Chí Tôn trục chơn thần Phạm Công Tắc ra khỏi xác phàm để chơn linh Vi Đà Hộ Pháp giáng ngự nơi thân thể Ngài.
Đến đêm 15 tháng 3 năm Bính Dần (Dl. 26/4/1926), Đức Chí Tôn giáng cơ phong cho Ngài Cao Quỳnh Cư là Tá Cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ.
Và Ngài Phạm Công Tắc là Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ.
Trong Đàn cơ ngày 18 tháng 5 năm Bính Dần (Dl. 27/6/1926), Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Mấy đứa con là: Nghĩa, Hậu, Ðức, Tràng, Cư, Tắc, Sang, đều mặc đồ trắng, hầu theo thứ lớp như vầy:
Nghĩa, Ðức, đứng xướng ngoài, là tại bàn thờ Hộ Pháp; rồi Hậu, Tràng, đứng cặp kế đó; kế ba con sau rốt hết: Tắc giữa, Cư mặt, Sang trái.
Theo đàn cơ trên sự sắp xếp của Đức Chí Tôn cho ta thấy: Nghĩa (Trần Duy Nghĩa), Hậu (Nguyễn Trung Hậu), Đức (Trương Hữu Đức), Tràng (Trương Văn Tràng), Cư (Cao Quỳnh Cư), Tắc (Phạm Công Tắc), Sang (Cao Hoài Sang) đều mặc đồ trắng đứng cận bàn Hộ Pháp, tức là xác nhận rằng những vị đó đều là chức sắc Hiệp Thiên Đài.
Còn Cư, Tắc, Sang đứng sau rốt hết: Tắc giữa, Cư mặt, Sang trái.
Không thấy Thánh giáo nào mà Đức Chí Tôn phong chánh thức Ngài Phạm Công Tắc là Hộ Pháp, nhưng sự sắp đặt hành lễ nầy của Đức Ngài mặc nhiên như cuộc Thiên phong cho Ngài Phạm Công Tắc là Hộ Pháp đứng ở giữa, Cao Quỳnh Cư là Thượng Phẩm, đứng bên mặt, Cao Hoài Sang là Thượng Sanh, đứng bên trái, là ba vị chưởng quản ba chi Pháp, Đạo và Thế của Hiệp Thiên Đài.
II.- Đồng tử thuộc cơ Lập Đạo.
Buổi mới lập Ðạo, Thánh ý Đức Chí Tôn đã định giao trách nhiệm Phò loan cho bốn cặp Cơ và mỗi cặp đều có phận sự đặc biệt là: Cơ Lập Ðạo (Enseignement Réligiaux), Cơ Lập Pháp (Législation Sacordoce), Cơ Phổ Ðộ (Prepagande de la Foi), Cơ Bí Pháp Của Ðạo (Enseignements Esotériques).
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư được chỉ định là cặp Cơ Lập Đạo và Cơ Phong Thánh, để Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền tạo thành Hiến pháp của Đạo, làm căn bản tổ chức Giáo Hội đạo Cao Đài.
Sau đó, Đức Chí Tôn dùng cặp Cơ Phong Thánh nầy mà phong các phẩm chức sắc Cửu Trùng Đài, như Chưởng Pháp, Đầu Sư cho đến các phẩm Giáo Hữu, Lễ Sanh cả Nam lẫn Nữ, và chức sắc Hiệp Thiên Đài như Thập Nhị Thời Quân và các vị Bảo Quân.
Khi Đức Thượng Phẩm đăng Tiên vào ngày 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ, nếu có Phong Thánh hay Lập Đạo Nghị Định thì Tiếp Đạo Cao Đức Trọng thay thế Thượng Phẩm, nhưng phải nhờ sự trợ điển của Đức Thượng Phẩm.
III.- Lập Hội Thánh Ngoại Giáo.
Năm 1927, do nghỉ 6 tháng phép ở Sở Thương Chánh để lo việc Khai Đạo tại chùa Gò Kén, chính quyền thực dân Pháp chuyển công tác Ngài lên Nam Vang.
Tại đây, với tư cách là một Hộ Giá Tiên Ðồng Tá Cơ Ðạo Sĩ, Ngài đã cầu cơ thâu nạp một số tín đồ và Đức Chí Tôn đã ân phong một số chức sắc tại Kim Biên trong đàn cơ ngày 27 tháng 7 năm 1927 như sau:
Lê Văn Bảy Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh.
Nguyễn Văn Lắm Giáo Hữu Thượng Lắm Thanh.
Võ Văn Sự Giáo Hữu Ngọc Sự Thanh.
Đặng Trung Chữ Lễ Sanh Thượng Chữ Thanh.
Trần Quang Vinh Lễ Sanh Thượng Vinh Thanh.
Phạm Kim Của Lễ Sanh Thái Của Thanh.
Bà Trần Kim Phụng Nữ Giáo Hữu Hương Phụng.
Bà vợ Lê Văn Bảy Nữ Giáo Hữu Hương Huê.
Cao Đức Trọng Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài.
Nhờ có một số chức sắc đầu tiên nầy, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc lập thành Cơ Quan Truyền Giáo Hải Ngoại để truyền đạo ra nước ngoài. Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh được đề cử làm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo.
Hội Thánh Ngoại Giáo do Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn làm Chưởng Đạo cầm quyền thiêng liêng và dưới sự bảo trợ hữu hình của Đức Hộ Pháp.
IV.- Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài.
Sau khi Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung đăng Tiên ngày 13 tháng 10 năm Giáp Tuất (1934), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ giao quyền Giáo Tông hữu hình tại thế cho Đức Hộ Pháp. nắm giữ. Như vậy, Đức Hộ Pháp lúc ấy nắm hai quyền trong tay: Hiệp Thiên và Cửu Trùng, cho nên gọi là Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài.
Trong thời gian đó, nhiều vị chức sắc cao cấp của Tòa Thánh ly khai và lập thành chi phái. Nhằm ngăn chặn sự tan rã của Hội Thánh, nhân gần ngày lễ Đại tường (xả tang) Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt là ngày 8 tháng 11 năm 1935, Hội Thánh bèn triệu tập Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh để tìm phương giải quyết nền Đạo.
Ngày 6 tháng 11 năm Giáp Tuất, tất cả nghị viên và phái viên của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh nhóm tại Tòa Thánh Tây Ninh vào ba ngày 8, 9, 10 tháng 11 năm 1935, có hàng vạn tín đồ các nơi về tham dự. Toàn Đại hội đã đồng thanh tín nhiệm Hộ Pháp Phạm Công Tắc cầm quyền thống nhất Chánh Trị Đạo cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị để điều hành nền Đạo.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có nói về lý do tại sao Ngài lại giao quyền Giáo Tông hữu hình cho Đức Hộ Pháp nắm giữ như sau:
Hiền Hữu có nghĩ tại sao Lão phải dâng quyền Giáo Tông cho Hiền Hữu đặng trọn quyền Chí Tôn Hữu Hình tại thế chăng?
Hộ Pháp bạch: - Xin Ngài dạy rõ.
- Thì cũng do lòng từ bi vô tận của Đại Từ Phụ. Người sợ oai của Lão khi cầm quyền thiêng liêng mối Đạo quá chấp nê phàm tánh, không dung thứ tội tình cho con cái của Người, nên giao cho Hiền Hữu là bạn đồng sanh, biết đau đớn, biết khổ cực với mảnh thi phàm, mà rộng dung cho họ. Cười...
V.- Xây dựng Tòa Thánh.
Việc xây dựng Tòa Thánh Cao Đài là do Thánh ý của Đức Chí Tôn và Đức Lý giáo Tông, vì vậy các chức sắc Hội Thánh đứng ra lãnh đạo công thợ lần lượt ba lần xây dựng, nhưng công trình phải bị ngưng vì gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Khi Đức Hộ Pháp nắm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài, Ngài mới trù tính kế hoạch đứng ra khởi công xây dựng lần thứ tư vào ngày 01 tháng 11 năm Bính Tý (Dl. 14/ 12/1936).
Về nhân công, Đức Ngài huy động 500 công quả Phạm Môn, buộc phải hiến thân và thủ trinh trong suốt thời gian xây cất Tòa Thánh. Về tài chánh, Ngài chỉ thị cho các Châu, Tộc bên Hành Chánh và Phước Thiện lo quyên góp tiền bạc, vật liệu, lương thực gửi về liên tục giúp cho công trình xây cất.
Sau hơn bốn năm nỗ lực xây dựng liên tục, cho đến ngày 4 tháng 6 năm Tân Tỵ (Dl. 28/6/1941), công trình xây dựng cơ bản đã hoàn tất, chỉ còn trang trí, sơn phết nữa là xong, nhưng chẳng may Đức Ngài và một số chức sắc bị chánh quyền Pháp bắt đày sang đảo Madagascar, Châu Phi. Công trình phải ngưng lại.
Năm năm sau, ngày 4 tháng 8 năm Bính Tuất (Dl. 30/8/1946), Đức Hộ Pháp được hồi loan về Tòa Thánh, Đức Ngài kêu gọi công quả trở lại sửa chữa những chỗ hư hỏng do bọn lính Pháp vào chiếm đóng và đồng thời tiếp tục lo trang trí và sơn phết. Cho đến ngày 30 tháng 12 năm Bính Tuất (Dl. 21/01/1946), công trình xây dựng Tòa Thánh được hoàn tất. Rồi ba ngày sau, Tổng Giám Lê Văn Bàng, đại diện các công thợ nam nữ tổ chức lễ bàn giao Đền Thánh cho Hội Thánh.
Ngày 6 tháng 01 năm Đinh Hợi (Dl. 27/01/1947) Đức Hộ Pháp trấn thần Tòa Thánh và ngày 8 tháng 01 năm Đinh Hợi làm lễ rước Quả Càn Khôn từ Báo Ân Từ về An vị nơi Bát Quái Đài Tòa Thánh.
Cuối cùng, nhân ngày Đại Lễ Đức Chí Tôn, mùng 9 tháng giêng năm Ất Mùi (Dl. 01/02/1955), Đức Hộ Pháp tổ chức Lễ Khánh Thành Tòa Thánh, Báo Ân Từ và các dinh thự trong Nội Ô Thánh.
VI.- Lập chức sắc Hiệp Thiên Đài tiểu cấp.
Những năm đầu của Hiệp Thiên Đài chỉ có ba vị chức sắc Đại Thiên phong cầm quyền chi Pháp, Đạo, Thế, và mười hai vị Thời Quân, vài ba vị Bảo Quân mà thôi, không có chức sắc tiểu cấp để phụ giúp công việc Đạo.
Để mở rộng trường thi công quả bên Hiệp Thiên Đài, Đức Hộ Pháp cầu hỏi Ngài Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn. Đức Ngài giáng cơ góp ý cùng Đức Hộ Pháp, lập ra bảy phẩm chức sắc Hiệp Thiên Đài dưới Thập nhị Thời Quân để phụ giúp cho những vị nầy hành quyền tư pháp. Bảy phẩm chức sắc đó từ thấp đến cao có tên gọi như sau:
- Sĩ Tải.
- Truyền Trạng.
- Thừa Sử.
- Giám Đạo.
- Cải Trạng.
- Chưởng Ấn.
- Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.
Dưới Sĩ Tãi, Đức Hộ Pháp còn lập thêm một phẩm là Luật Sự theo Sắc Lịnh số 34/SL ngày 23 tháng 5 năm Bính Tý (Dl. 11/7/1936). Phẩm này do khoa mục tuyển chọn.
VII.- Quy định về Lễ Sĩ, Giáo Nhi và Bộ Nhạc.
Thời kỳ đầu mới Khai Đạo, trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn gọi những người hiến lễ trong Đàn cúng là Lễ Sanh (từ nầy bên Nho giáo thường gọi), nhưng từ khi Lễ Sanh là tên một phẩm chức sắc bên Cửu Trùng Đài thì Lý Giáo Tông giáng cơ sửa lại Lễ Sĩ để chỉ người hiến lễ. Ngài cho biết:
“Nhiều khi chư Hiền hữu lạm dụng danh từ Lễ Sanh mà cho kẻ hiến lễ, làm mất thể diện của vị Thiên phong. Vậy Lão đặt tên cho kẻ hiến lễ là Lễ Sĩ.”
Ngày 9 tháng 11 năm Bính Tý (Dl. 22/12/1936), Đức Hộ Pháp có ban Sắc Lịnh 51/SL để quy định Lễ Sĩ, Giáo Nhi và Thánh Lịnh 25 để chỉnh đốn Bộ Nhạc.
Nội dung Sắc Lịnh 51/SL quy định như sau:
Nghĩ vì Tân Kinh là Kinh Tận độ đã ra, nên cần nhứt phải có Lễ sĩ và Giáo nhi dạy mấy em Đồng nhi cho thành thuộc, phòng độ rỗi phần hồn của toàn con cái Chí Tôn khắp cả các nơi mà phướn đạo đã đủ huyền linh che chở,
Nghĩ vì Hội Thánh mong mỏi mở rộng con đường Thánh đức cho đoàn hậu tấn bước vào Thánh Thể của Chí Tôn đặng lập vị,
Nghĩ vì trẻ em Đồng nhi từ 11 năm mở Đạo đến nay đã trưởng thành nên buộc Hội Thánh định phần phong thưởng công nghiệp, nên:
SẮC LỊNH:
Từ đây mở khoa mục mỗi năm cho Lễ sĩ và Giáo nhi thi cử.
Lễ Sĩ thì thi theo mặt kinh luật của Đạo về Quan, Hôn, Tang, Tế, nhứt là về Lễ Nhạc. Buộc Lễ sĩ phải cần cho hay một món đờn trong mấy thứ âm nhạc: Tam, Tiêu, Tranh, Đản, Kìm, Tỳ, Cò, Độc.
Giáo Nhi thì phải thuộc lòng Tân Kinh và cũng phải thuộc một môn âm nhạc như Lễ sĩ.
Những Đồng nhi Nam Nữ có đủ giấy chứng Tòa Thánh, lớn trên 20 tuổi mới đặng thi Lễ sĩ và Giáo nhi, và phải biết viết với đọc chữ quốc ngữ.
Mỗi năm mở khoa mục ngày rằm tháng 10 tại Tòa Thánh. Hội Thánh chia ra hai thứ Lễ Sĩ và Giáo Nhi:
- Thứ nhứt thì những hạng Lễ Sĩ và Giáo Nhi trọn hiến thân cho Hội Thánh, nhứt là Giáo Nhi đã tuyên thệ thủ trinh hành đạo thì sẽ đặng thuyên bổ hành đạo trong các Thánh Thất bất cứ nơi nào. Hễ đủ 5 năm công nghiệp thì thăng Lễ Sanh, khỏi phải cầu phong lại nữa. Hạng Lễ Sĩ và Giáo Nhi nầy trên quyền Chánh Trị Sự và dưới quyền Lễ Sanh, nhưng về mặt Lễ Nhạc, Quan Hôn Tang Tế mà thôi, chớ không đặng dự vào chánh trị hay là luật pháp Tòa Đạo.
Thứ nhì là hạng Lễ Sĩ và Giáo Nhi ở lại gia đình, nhứt là Giáo Nhi có chồng con theo thế thì không đặng vào nơi Thánh Thất nào mà hành đạo hết, duy hành đạo nơi xóm làng của mình mà thôi, lại buộc mỗi năm phải dạy ít nữa là trên 36 đứa Đồng Nhi; Lễ Sĩ thì dạy Nam, Giáo Nhi thì dạy Nữ, chớ không đặng dạy lộn xộn Nam Nữ chung nhau. Cấm nhặt Lễ Sĩ không đặng dạy Đồng Nhi Nữ. Nếu mỗi năm có một phái Chức sắc, Chức Việc sở tại nói rằng dạy thiếu và không đi hành đạo thì bị ngưng chức liền. Hội Thánh không cần minh tra lại nữa.
Hạng nầy tùng quyền Chánh Trị Sự và ngang quyền Phó Trị Sự và Thông Sự nhưng về mặt Lễ Nhạc, Quan Hôn Tang Tế mà thôi, chớ không đặng dự vào chánh trị hay là luật pháp Tòa Đạo. Đủ 8 năm công nghiệp đổ lên mới đặng cầu phong vào hàng Lễ Sanh, nhưng do nơi tờ yêu cầu của Chức sắc và Chức Việc sở tại mới đặng.
Lễ Sĩ mặc như Lễ Sanh Nam phái, nhưng trên mão ngay trán có Tam Sắc Đạo và Cổ pháp của Giáo Tông là Thư Hùng Kiếm, Long Tu Phiến và cây Phất Chủ thêu trên.
Giáo Nhi mặc Đại phục như Lễ Sanh Nữ phái nhưng không đặng giắt Bông sen trên đầu tóc, còn Tiểu phục cũng vậy nhưng trước ngực có choàng một tấm choàng đen.
Kiểu y phục nầy phải do nơi tiệm Linh Đức.
Kỳ dư mấy vị Lễ Sĩ và Giáo Nhi đương thời hành đạo trong Hội Thánh và có tờ Hội Thánh công nhận chánh thể rồi; Hội Thánh nhứt định cấm nhặt không ai đặng xưng danh hiệu Lễ Sĩ hay Giáo Nhi mà không có khoa mục và cấp bằng của Tòa Thánh ban cho đủ lẽ.
Khai Pháp, Tiếp Thế, Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài, Quyền Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư, Nữ Chánh Phối Sư và Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo, mỗi vị tùy phận sự thi hành Sắc Lịnh nầy.
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
HIỆP THIÊN và CỬU TRÙNG
(Ấn ký)
Phạm Công Tắc.
Ngoài ra Đức Hộ Pháp còn ban Thánh Lịnh số 25/TL để quy định về Bộ Nhạc như sau:
THÁNH LỊNH
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền;
Chiếu y Ðạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (Dl. 15/2/1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh Trị Ðạo cho Hộ Pháp nắm giữ đến ngày có Ðầu Sư chánh vị;
Chiếu y Sắc Lịnh số 51 ngày mồng 9 tháng 11 Bính Tý (22-12-1936) định phần phong thưởng cho Lễ Sĩ và Giáo Nhi đầy đủ 5 năm công nghiệp;
Nghĩ vì Ban Lễ đã định phận thì Bộ Nhạc cũng được hưởng đặc ân của Hội Thánh đặng tiến bước lập vị.
THÁNH LỊNH:
Ðiều thứ 1: Trong Bộ Nhạc của Tòa Thánh có 9 phẩm ân phong như sau nầy:
|
1. Nhạc Sĩ |
|
2. Bếp Nhạc |
|
3. Cai Nhạc |
|
4. Đội Nhạc |
|
5. Quản Nhạc |
|
6. Lãnh Nhạc |
|
7. Đề Nhạc |
|
8. Đốc Nhạc |
|
9. Nhạc Sư |
|
|
Ðiều thứ 2: Bộ Nhạc chuyên chú về tài năng nghệ thuật thì từ hạ phẩm đến thượng phẩm, mỗi cấp đều có khoa mục đặng tuyển chọn danh nhơn để điều khiển nội Ban.
Trong mỗi kỳ khoa mục, vị nào đủ tài ứng thí thì được phép xin thi và mỗi khi thi đậu là mỗi lần được thăng phẩm, nhưng không được xin ứng thí vượt bậc.
Ðiều thứ 3: Nếu thi rớt vì không đủ tài thì ở lại phẩm cũ, chờ đủ 5 năm công nghiệp mới được cầu ân phong.
Phẩm Nhạc Sư đủ 5 năm công nghiệp thì thăng lên Phối Sư hay là Tiếp Lễ Nhạc Quân nếu có khuyết.
Ðiều thứ 4: Chín phẩm trong Bộ Nhạc đối với 9 phẩm của HTÐ hay các phẩm khác của Cửu Trùng Ðài và Phước Thiện như sau nầy:
BỘ NHẠC |
|
PHÁP CHÁNH |
|
CỬU TRÙNG |
|
PHƯỚC THIỆN |
Nhạc Sĩ |
|
Luật Sự |
|
Chánh Trị Sự |
|
Hành Thiện |
Bếp Nhạc |
|
|
|
|
|
|
Cai Nhạc |
|
Sĩ Tải |
|
Lễ Sanh |
|
Giáo Thiện |
Đội Nhạc |
|
|
|
|
|
|
Quản Nhạc |
|
Truyền Trạng |
|
|
|
|
Lãnh Nhạc |
|
Thừa Sử |
|
Giáo Hữu |
|
Chí Thiện |
Đề Nhạc |
|
|
|
|
|
|
Đốc Nhạc |
|
Giám Đạo |
|
|
|
Đạo nhơn |
Nhạc Sư |
|
Cải Trạng |
|
Giáo Sư |
|
Chơn Nhơn |
|
|
Chưởng Ấn |
|
Phối Sư |
|
Hiền Nhơn |
|
|
Tiêp Dẫn Đạo Nhơn |
|
Chánh Phối Sư |
|
Thánh Nhơn |
|
|
Thập Nhị Thời Quân |
|
Đầu Sư |
|
Tiên Tử |
Ðiều thứ 5: Chư vị: Bảo Thế Tổng Thơ Ký Chánh Trị Ðạo, Khai Pháp Chưởng quản Bộ Pháp Chánh, Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Thượng Thống Lại Viện, Ðạo Nhơn Chưởng quản Phước Thiện, Phụ Thống Lễ Viện Hành Chánh, Phụ Thống Lễ Viện Phước Thiện, Nhạc Sư Bộ Nhạc, các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.
Tòa Thánh, ngày 29 tháng 3 năm Tân Mão.
(Dl. 4/5/1951)
HỘ PHÁP
(ấn ký)
VIII.- Lập Phạm Môn và cơ quan Phước Thiện
Phạm Môn là một cơ quan đặc biệt trong đạo Cao Đài, do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc lập ra dành cho những tín đồ muốn tu chơn, không thọ phẩm tước, áo mão như những chức sắc bên Cửu Trùng Đài hay Hiệp Thiên Đài, chỉ chuyên lo lập công bồi đức mà thôi.
Tại làng Phú Mỹ, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ dạy hai ông Đinh Công Trứ và Lê Văn Trung lập Minh Thiện Đàn, là một tổ chức tu chơn. Rồi sau đó, Đức Ngài lại giao Minh Thiện Đàn cho Đức Hộ Pháp chưởng quản, và nhập vào cửa tu chơn Phạm Môn.
Trong lúc kiến tạo ngôi Phạm Nghiệp, là cơ nghiệp của nhà Phật, có một số người đạo tâm đến xin làm giúp cho Đức Hộ Pháp và cứ thế số người đến xin làm càng ngày càng đông thêm. Đến năm Canh Ngọ, Đức Hộ Pháp buộc ai muốn hiến thân trọn đời vào Phạm Môn phải làm tờ và được cha mẹ vợ con bằng lòng ký tên mới đặng. Khi nhập vào Phạm Môn rồi phải thuộc và hành theo “Thập Điều Giới Răn”. Từ đó các cơ sở Lương điền, Công nghệ của Phạm Môn được chánh thức khai mở vào cuối năm 1930.
Nhà cầm quyền Pháp nghi kỵ, tìm cách bắt bớ công quả Phạm Môn và buộc Hội Thánh đóng cửa các cơ sở Phạm Môn.
Do vậy, Đức Hộ Pháp mới chuyển Phạm Môn thành Cơ Quan Phước Thiện theo Đạo Nghị Định số 48/PT ngày 19 tháng 10 năm Mậu Dần (Dl. 10/12/1938) của Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp đồng ký tên.
Cơ Quan Phước Thiện là cơ quan bảo tồn sanh chúng, nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho nhơn sanh, tầm phương bảo bọc kẻ tật nguyền, cô độc dốt nát và giúp tay cho cửu trùng đài tận độ nhơn sanh cho tròn trách nhiệm.
Cơ Quan Phước Thiện trực thuộc chi Đạo Hiệp Thiên Đài, Đạo Nghị Định có quy định 12 phẩm chức sắc Phước Thiện gọi là Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng, được kể từ thấp lên cao như sau:
|
1.- Minh Đức |
|
2.- Tân Dân |
|
3.- Thính Thiện |
|
4.- Hành Thiện |
|
5.- Giáo Thiện |
|
6.- Chí Thiện |
|
7.- Đạo Nhơn |
|
8.- Chơn Nhơn |
|
9.- Hiền Nhơn |
|
10.- Thánh Nhơn |
|
11.- Tiên Tử |
|
12.- Phật Tử |
IX.- Đồ Lưu Hải ngoại.
Đồ lưu hải ngoại là một hình phạt đày kẻ có tội đi xa ra nước ngoài.
Theo lịch sử đạo Cao Đài, nhà cầm quyền Pháp muốn tiêu diệt nền Đạo Cao Đài, nên ra lịnh đóng cửa các Thánh Thất, cơ sở Phước Thiện, và tìm cách bắt bớ, khủng bố chức sắc, tín đồ.
Ngày 4 tháng 6 năm Tân Tỵ (Dl. 28/6/1941) lính mật thám Pháp vào Toà Thánh bắt Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc chở đi Sài Gòn. Rồi sau đó, vào ngày 17 tháng 6 năm Tân Tỵ (Dl. 11/7/1941), lính Pháp lại bắt thêm ba vị chức sắc nữa là Phối Sư Ngọc Trọng Thanh, Giáo Sư Thái Gấm Thanh, Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển tại Tòa Thánh.
Đồng thời Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa bị Pháp bắt tại tư gia ở Sài Gòn và Giáo Sư Ngọc Trọng Thanh cũng bị bát tại Thánh Thất Kim Biên ở Nam Vang.
Đến ngày 4 tháng 6 nhuần năm Tân Tỵ (Dl. 27/7/1941), Pháp đưa Đức Hộ Pháp cùng với năm vị chức sắc xuống chiếc tàu Compiège đày sang hải đảo Madagascar thuộc Phi Châu.
Ở đây, Hộ Pháp cùng năm vị chức sắc bị đày đoạ khắc khổ, lại uống phải nước rừng thiêng nước độc nên có hai vị chức sắc chết vì thiếu sức khoẻ là Giáo Sư Thái Gấm Thanh và Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển.
Đến ngày 30 tháng 8 năm 1946 nhà cầm quyền Pháp mới tổ chức đưa Đức Hộ Pháp cùng với ba vị chức sắc còn lại về Toà Thánh Tây Ninh, sau 5 năm 2 tháng 3 ngày chịu tội đồ lưu hải ngoại.
X.- Xây dựng các Tịnh Thất.
Đức Chí Tôn khai mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tùy căn cơ mà dìu dẫn nhơn sanh: Những hạng căn thấp thì đi theo đường phổ độ, còn bậc đại căn thì vào của tu chơn. Vì vậy, Đức Hộ Pháp mới cho xây dựng ba cung ba động để sau nầy làm Tịnh Thất khi được lịnh Chí Tôn cho phép truyền bí pháp luyện đạo cho các vị tín đồ tu chơn.
Năm 1947, ông cho xây cất Trí Huệ Cung - Thiên Hỷ Động làm tịnh thất cho nữ phái và hoàn thành ngày 22 tháng 01 năm 1951.
Trí Huệ Cung nằm về hướng Đông Nam và cách Tòa Thánh khoảng hơn năm cây số, là một Tòa nhà vuông vức có ba từng, mỗi bề 12 thước, từng trệt nằm sâu dưới đất.
Trí Giác Cung – Địa Linh Động nằm trên đường đi từ Tòa Thánh đến Trí Huệ Cung, cách Tòa Thánh độ ba cây số.
Ngày 29 tháng 12 năm 1954, Đức Hộ Pháp ban hành Huấn lịnh số 285/VP-HP, dùng cơ sở Trường Quy Thiện do ông Đinh Công Trứ xây dựng chuyển thành Trí Giác Cung - Địa Linh Động để làm tịnh thất cho cả nam và nữ.
Ngày 23 tháng 11 năm 1954, Đức Hộ Pháp đích thân lên núi Bà Đen lấy sở Sơn Đình để định chỗ xây dựng Tịnh Thất lấy tên là Vạn Pháp Cung - Nhơn Hòa Động dùng làm Tịnh Thất cho nam phái.
XI.- Cất Chợ Long Hoa.
Vào năm 1952, do tình hình chiến tranh, giặc giã khắp mọi nơi, số người không theo Cao Đài ở khắp nơi phải rời bỏ xứ sở, nhà cửa chạy về sinh sống trong vùng Thánh địa dưới sự che chở bảo vệ của Đạo, ngoài ra còn một số đông tín đồ Cao Đài muốn về vùng Thánh Địa sinh sống, nên từ khắp các tỉnh đổ dồn về lập nghiệp càng ngày càng đông.
Vì vậy, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc mới chọn khu rừng 47 mẫu cách Chợ cũ hơn hai trăm thước để thành lập ngôi chợ Long Hoa theo bản họa đồ của Ngài vẽ, rồi giao cho Ban Kiến Trúc ở Tòa Thánh xây cất để tín đồ Cao Đài có nơi buôn bán làm ăn.
Kiểu Chợ Long Hoa theo bản vẽ Đức Hộ Pháp gồm có bốn ngôi nhà lồng hình chữ thập, giữa xây một bùng binh rộng, nằm trên lô mặt bằng vuông vức, chung quanh có tám cửa, hướng Chợ ra tám con đường, mang ý nghĩa là Thái Cực sanh Lưỡng Nghi (Âm Dương), Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng; Tứ Tượng sanh Bát Quái; Bát Quái sanh ra Càn Khôn Vũ Trụ, vạn vật. Nếu từ trên phi cơ nhìn xuống khu chợ Long Hoa thì giống như một Bát Quái Đồ.
Chợ Long Hoa được khởi công vào ngày 12 tháng 11 năm Nhâm Thìn,
Các cửa chánh chợ Long Hoa gồm: Cửa Một phía Bắc chạy về hướng Tòa Thánh, cửa Ba phía Tây chạy về hướng chùa Gò Kén, sông Tây Ninh, cửa Năm phía Nam chạy về vùng Giang Tân hướng về Sài gòn, cửa Bảy phía Đông chạy về Trí Huệ Cung. Tám cửa mang ý nghĩa Bát Quái Đồ Thiên.
Khi Hộ Pháp đặt tên chợ là “Long Hoa”, ý Đức Ngài muốn chỉ thời kỳ khai mở Hội Long Hoa, do Đức Di Lạc Vương làm Chủ khảo, và là kỳ thi phán xét cuối cùng trong thời Hạ Ngươn để tuyển phong Phật vị.
Trong dịp Khánh thành Chợ cũ Long Hoa ngày 5 tháng 6 năm Tân Mão (1951), Đức Hộ Pháp Ban Phép Lành và Trấn Thần ngôi chợ, Ngài có nói rằng: Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như thế, nhưng Bần Đạo dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ CHUYỂN THẾ và huyền diệu Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy.
XII.- Lưu Vong và Đăng Tiên tại Miên Quốc.
Sau khi đất nước Việt Nam bị phân chia làm hai miền, Chánh phủ Ngô Đình Diệm dựa vào thế lực của Mỹ ở miền Nam, quyết tâm chống Cộng Sản miền Bắc. Để cứu vãn tình thế đất nước, Đức Hộ Pháp đưa ra chánh sách Hòa Bình Chung Sống để kêu gọi hai bên Chánh phủ hai miền hòa hợp và thương thuyết nhau hầu thống nhứt đất nước.
Vào đầu năm 1955, Chánh phủ Ngô Đình Diệm mượn tay tướng Nguyễn Thành Phương, Tổng Tư Lịnh Quân đội Cao Đài lập ra Ban Thanh Trừng đàn áp, bắt bớ nhiều Đạo hữu. Còn Đức Hộ Pháp cũng bị giam lỏng nơi Hộ Pháp Đường suốt 4 tháng rưỡi, chung quanh có quân đội võ trang canh phòng không cho ra vào. Vì quá đau lòng trước cảnh chia đôi đất nước, và cảnh đồng đạo tương tàn, tương sát lẫn nhau, Đức Ngài quyết định quyết định lưu vong sang Miên quốc. Vì vậy, vào lúc 3 giờ sáng ngày mùng 5 tháng Giêng năm Bính Thân (Dl. 16/2/1956), Đức Ngài cùng vài vị Chức sắc thân cận, lên xe đi theo ngã Gò Dầu mà thẳng đến Thủ đô Nam Vang.
Vì tuổi già sức yếu, Ngài làm một tờ di chúc gởi Hoàng Thân Sihanouk, thỉnh cầu cho tạm gởi thi hài nơi đất Miên quốc. Ngày nào đất nước độc lập thống nhất hoặc thực hiện đúng theo đường lối Hòa bình Trung lập, sẽ di liên đài về Tòa Thánh Tây Ninh.
Ngài Đăng Tiên vào ngày mùng 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi (Dl. 17/5/1959), hưởng thọ 70 tuổi.
Năm 2006, Liên Đài của Đức Hộ Pháp được di về nhập Bửu tháp tại Tòa Thánh Tây Ninh theo ý nguyện của toàn Đạo và Thánh ý trước khi mất của Ngài.
Xem: Hộ Pháp.
Phạm Công Tắc tìm nơi giáng thế,
Ông tá trần vốn để an dân.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
犯 戒
Phạm: Vi phạm, người có tội. Giới: Điều răn cấm, hoặc giới luật tu hành.
Phạm giới là vi phạm giới luật tu hành.
Trong Đạo Cao Đài, giới răn thì có Ngũ giới cấm, giới chay lạt, luật thì có Tân luật, Đạo Luật Mậu Dần, pháp thì có Pháp Chánh Truyền, Đạo Nghị Định...
Nói rõ hơn, người đạo phạm vào những điều giới răn như ngũ giới cấm. trai giới thì gọi là phạm giới.
Kẻ nào phạm giới, luật, nếu có bạn khuyên can thì phải vui lóng nghe theo mà cải quá.
(Giáo Lý).
范 蠡
Phạm Lãi là người nước Sở thời Xuân Thu, tự là Thiếu Bá, theo giúp vua Việt Vương Câu Tiễn trên hai mươi năm, đem hết sức lực phò tá, sau cùng diệt được nước Ngô, vua phong cho làm Thượng tướng quân.
Phạm Lãi biết được tánh ý của Việt Vương, khó cùng với nhà vua hưởng an lạc, nên ông nhứt quyết ra đi, đổi họ tên, lưu lạc từ nước Tề đến đất Đào, làm nghề kinh doanh mà trở nên giàu có lớn. Phạm Lãi sau này lấy hiệu Đào Chí Công.
Dựa bóng dẫn đường thuyền Phạm Lãi,
Treo gươm chỉ chữ sách Đào Châu.
(Bát Nương Giáng Bút).
Phạm Lãi gặp chầu buôn bán nước,
Bất Vi đặng buổi đổi mưa duyên.
(Thơ Hộ Pháp).
Nhẫn nại học đòi gương Phạm Lãi,
Tranh phuông để ý kế Trương Lương.
(Thơ Tiếp Đạo).
犯 律
Phạm: Vi phạm, người can án, người bị tội. Luật: Pháp luật, luật lệ.
Phạm luật là vi phạm pháp luật, tức là làm trái với luật lệ đã quy định.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có dạy: Bằng chứng là chức sắc vẫn còn phạm luật, phạm pháp, Toà Hiệp Thiên Đài và Hội Công Đồng còn hội xử liên miên, hồ sơ kiện tụng nhau ngày càng chồng chất...
Lo về phần Ðạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất, đều xem sóc chư môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm Luật đến khổ khắc cho đặng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
梵 門
Phạm (phạn): Phật, thanh tịnh. Môn: Cửa.
1.- Phạm môn, đồng nghĩa với “Cửa Phạm”, là cửa Phật, chỉ cửa chùa, nơi tu hành.
2.- Phạm môn còn là một cơ quan đặc biệt trong đạo Cao Đài, do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc lập ra dành cho những tín đồ muốn tu chơn, không thọ phẩm tước, áo mão như những chức sắc bên Cửu Trùng Đài hay Hiệp Thiên Đài, chỉ chuyên lo lập công bồi đức mà thôi. Đây là con đường thứ ba của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Việc lập ra Phạm Môn, theo Đức Hộ Pháp là do Thánh ý của Đức Chí Tôn trong bài thi sau đây:
|
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn, |
|
醒 悟 舍 身 在 梵 門 |
|
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn. |
|
勸 修 後 日 度 生 魂 |
|
Vô lao bất phục hồi Chơn mạng, |
|
無 勞 不 復 回 真 命 |
|
Tỉnh thế kỳ thân đắc Chánh tôn. |
|
醒 世 其 身 得 正 尊 |
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có giải nghĩa bài thi Phạm Môn trên như sau:
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn, nghĩa là gì?
Nghĩa là Đức Chí Tôn kêu phải thức giấc cho mau, hiến thân vào cửa Phật.
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn, là khuyên chúng sanh phái ráng lo tu hành, tùng khuôn viên kỷ luật thì ngày kia linh hồn đặng siêu thăng thoát hoá.
Vô lao bất phục hồi Chơn mạng, nghĩa là không có công lao khổ hạnh trong cửa đạo thì không thể nào trở về ngôi xưa cảnh cũ cho đặng.
Tỉnh thế kỳ thân đắc Chánh tôn. Nhằm thế kỷ 20 nầy, thời kỳ Đức Chí Tôn rộng mở cửa Đạo độ toàn con cái của Ngài, chỉ khuyên chúng ta ráng tu tỉnh ngộ, hủy cả hành vi của thế sự, đem thân vào cửa Phật, chịu nâu sồng khổ hạnh cho đặng thì tự nhiên đắc Đạo tại thế vậy.
Theo nghĩa bài thi trên thì chữ “Phạm Môn 梵 門”, là “cửa Phật”, và căn cứ theo hai câu liễn của Phạm Môn nói lên tôn chỉ của cơ quan nầy thì ta có thể kết luận chữ “Phạm 梵” là Phật.
Đôi liễn Phạm Môn được viết như sau:
梵 教 随 元 救 世 度 人 行 正 法
Phạm giáo tùy nguơn cứu thế độ nhân hành chánh pháp
門 權 定 會 除 邪 滅 魅 護 眞 傳
Môn quyền định hội trừ tà diệt mị hộ chơn truyền.
Giải nghĩa:
Phật dạy tùy theo nguơn mà cứu thế độ người, thực hành chánh pháp.
Quyền hành nơi cửa Phạm, định ra khoảng thời gian để trừ tà diệt mị, bảo hộ chơn truyền.
Về nhân sự, theo Lược sử Phạm Môn Hồi Ký của Đạo Nhơn Nguyễn Đức Hoà thì Phạm Môn được phôi thai từ năm Kỷ Tỵ (1929), khởi thủy do Đức Hộ Pháp sang phần đất tại xóm Trường Đua thuộc xã Hiệp Ninh, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh tạo ngôi Phạm Nghiệp.
Phạm Nghiệp 梵 業 là cơ nghiệp của nhà Phật. Như vậy mục đích của Phạm Nghiệp là một cơ sở của Phạm Môn, dùng để lập ra công kỷ nghệ hầu giúp và dạy cho nhơn sanh.
Trước cổng Phạm Nghiệp có đề hai câu liễn như sau:
梵 業 承 閒 利 祿 功 名 無 所 用
Phạm nghiệp thừa nhàn lợi lộc công danh vô sở dụng.
門 關 積 道 精 神 法 寳 有 箕 裘
Môn quan tích đạo tinh thần pháp bửu hữu cơ cầu.
Giải nghĩa:
Phạm nghiệp lúc nhàn, lợi lộc công danh không có chỗ dùng,
Cơ quan chứa Đạo, tinh thần và pháp bửu có người sau tiếp nối.
Trong lúc kiến tạo ngôi Phạm Nghiệp có một số người đạo tâm đến xin làm giúp cho Đức Hộ Pháp và cứ thế số người đến xin làm càng ngày càng đông thêm. Đến năm Canh Ngọ, Đức Hộ Pháp buộc ai muốn hiến thân trọn đời vào Phạm Môn phải làm tờ và được cha mẹ vợ con bằng lòng ký tên mới đặng. Khi nhập vào Phạm Môn rồi phải thuộc và hành theo “Thập Điều Giới Răn”.
Do số người đến quá đông, thiếu lương thực nên có người xin Đức Hộ Pháp mướn sở ruộng của bà Nư Đầu Sư Hương Thanh để làm ruộng. Từ đó các cơ sở Phạm Môn mới được khai mở dần.
Ngoài ra, tại làng Phú Mỹ, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ dạy hai ông Đinh Công Trứ và Lê Văn Trung lập Minh Thiện Đàn, là một tổ chức tu chơn. Rồi sau đó, Đức Ngài lại giao Minh Thiện Đàn cho Đức Hộ Pháp chưởng quản, và nhập vào cửa tu chơn Phạm Môn.
Chúng ta cũng cần nên biết các bí tích như: Phép Giải oan, phép Tắm Thánh, phép Đoạn căn (Phép xác), phép Hôn phối đều do Đức Hộ Pháp truyền dạy cách hành pháp cho các vị Đầu Họ Phước Thiện (tiền thân là Phạm Môn).
Từ khi Đức Hộ Pháp lập Phạm Môn và cất Phạm Nghiệp, bị nhiều người hiểu lầm cho là cơ nghiệp của nhà họ Phạm, vì họ lầm tưởng chữ “Phạm 梵” là Phật với chữ “Phạm 范” là họ của Đức Hộ Pháp.
Khi nói về lịch sử thành lập Hội Thánh Phước Thiện, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có nhắc đến việc bị chỉ trích như sau: Vì bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo mới lập ra Phạm Môn, có Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng, nếu không thì không thế nào lập thành Hội Thánh Phước Thiện được.
Bởi chữ Phạm Môn là Phật, Phạm Môn là cửa Phật, chớ không phải Phạm là họ Phạm. Buổi đó cũng có nhiều tiếng phân vân nói Bần Đạo lập Phạm Môn tức là lập theo họ Phạm của Bần Đạo, Bần Đạo cũng như tấm bình phong đứng giữa hứng chịu. Sao Bần Đạo không đầu kiếp các nơi họ Nguyễn, họ Trần mà đến ngay nhà họ Phạm mà để khiến cho Bần Đạo phải chịu oan ức. Những tiếng phân vân ấy, Bần Đạo cũng chẳng màng, cứ lo cho kỳ được, bởi vì sự công chánh. Bần Đạo đứng giữa đây Bần Đạo phải nói Bần Đạo nói thiệt cả sự nghiệp của Đạo còn tồn tại đây là do nơi tay của Phạm Môn nếu không có Phạm Môn thì Bần Đạo không đứng vững, Đức Chí Tôn đã định cho Bần Đạo thâu 72 vị Môn Đệ mà chia ra hành sự 36, 37 vị, buổi đó Thầy trò chịu cực khổ tầm phương để tạo nghiệp mà bị chúng sanh đánh đổ đến
đổi vận lương thực lục tỉnh đem về Toà Thánh mà cũng bị ngăn cản quyết bỏ đói cho chết, mà tội nghiệp thay họ không thối chí ngã lòng, cứ cương quyết theo Bần Đạo cho đến ngày lập thành Hội Thánh Phước Thiện.
Nói về công lao của Phạm Môn, Lược Sử Phạm Môn Hồi Ký có kể lại vào ngày 20 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1934) có một nhóm Chi phái kéo về Toà Thánh đăng điện, tức lên ngôi Giáo Tông và sẽ đuổi Đức Quyền Giáo Tông ra khỏi Toà Thánh Tây Ninh.
Được tin Ngài Quyền Giáo Tông cậy Đức Hộ Pháp tìm cách bảo vệ. Chính Đức Thầy nhờ anh em Phạm Môn đứng ra giữ yên cuộc biến động đó. Trong bữa tiệc đãi anh em Phạm Môn, Đức Quyền Giáo Tông có nói: Lúc trước Đức Hộ Pháp mở Phạm Môn có một phần chức sắc lớn trong Hội Thánh đánh đổ, chớ ít ai nhìn nhận là đúng. Hễ ai nói sao Qua nghe vậy, chớ thật ra Qua cũng không biết Đức Hộ Pháp mở Phạm Môn có ích lợi gì. Đến nay Qua mới biết, nhờ có mấy em dám hy sinh để bảo tồn nghiệp Đạo.
Và chính Đức Hộ Pháp xác nhận công lao của Phạm Môn như sau: Trong số 72 Môn Đệ của Bần Đạo, thật sự hành Đạo chỉ có 26 đứa mà nghiệp Đạo hôm nay được thành tướng dường này. Nếu không có Phạm Môn thì Đền Thánh không thành tựu, nếu không có Phạm Môn thì nền Đạo Cao Đài đã chết rồi.
Tỉnh ngộ xả thân tại Phạm Môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phước Thiện là vốn Phạm Môn,
Phước Thiện là của Thiên đường Phật Tiên.
(Thất Nương Giáng bút).
Phối Thánh ngày xưa nhẫn thế nào,
Phạm Môn từng chịu lắm gian lao.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
梵 業
Phạm: Phật. Nghiệp: Sự nghiệp, cơ nghiệp.
Phạm Nghiệp là cơ nghiệp của nhà Phật.
Đức Hộ Pháp lập Phạm Nghiệp tại xã Hiệp Ninh, Quận Châu Thành tỉnh Tây Ninh, trên phần đất Trường Đua, nằm trên Quốc lộ 22, cách thị xã Tây Ninh khoảng 5 cây số.
Khi Đức Hộ Pháp cất Phạm Nghiệp, bị nhiều người hiểu lầm, cho là cơ nghiệp của nhà họ Phạm và cho rằng Ngài đã lấy tiền của Đạo để cất. Nhưng theo Diễn văn của Ngài đọc tại Toà Thánh Tây Ninh về “Chơn Truyền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”, ngày 15 tháng 7 năm Nhâm Thân (Dl. 16-8-1932), thì Ngài nói: “Ấy là Phạm Nghiệp lập ra với tư bổn chút ít của tệ đệ và nợ của tệ đệ tạm cầu nơi bà con mà lập ra công nghệ để dạy nhơn sanh”.
Như vậy mục đích của Phạm Nghiệp là một cơ sở của Phạm Môn, dùng để lập ra công kỹ nghệ hầu giúp và dạy cho nhơn sanh.
Trước cổng Phạm Nghiệp có hai câu liễn như sau:
梵 業 承 閒 利 祿 功 名 無 所 用
Phạm nghiệp thừa nhàn lợi lộc công danh vô sở dụng.
門 關 積 道 精 神 法 寳 有 箕 裘
Môn quan tích đạo tinh thần pháp bửu hữu cơ cầu.
Giải nghĩa:
Phạm nghiệp lúc nhàn, lợi lộc công danh không có chỗ dùng.
Cơ quan chứa Đạo, tinh thần và pháp bửu có người sau tiếp nối.
Phạm nghiệp thừa nhàn lợi lộc công danh vô sở dụng.
Môn quan tích đạo tinh thần pháp bửu hữu cơ cầu.
(Liễn Phạm Nghiệp).
犯 法
Phạm: Vi phạm, người can án, người bị tội. Pháp: Luật pháp.
Phạm pháp là vi phạm về luật pháp của Đời hay của Đạo. Phạm pháp còn dùng để chỉ người phạm tội, cùng nghĩa với tội nhân.
Trong Đạo Cao Đài, người tín đồ ngoài việc giữ gìn Tân Luật, các Đạo luật để khỏi phạm luật, mà còn phải giữ gìn Pháp Chánh Truyền, các Đạo Nghị Định để khỏi bị phạm pháp.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Chính tay Lão đã lập Nghị Định thứ 8, có đâu Lão lại phá luật, còn Đài Hiệp Thiên do Hộ Pháp nắm giữ, có đâu Lão lại quá quyền phạm pháp, phong tước cho Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
Còn những vị nào trong năm năm hành sự mà có phạm Pháp và phạm Luật, thì sẽ bị đình lại lâu hay mau tuỳ theo tội nặng hay nhẹ,...
(Đạo Luật Mậu Dần).
范 府
Phạm: Họ Phạm. Phủ: Ngôi nhà lớn. Từ: Nhà thờ.
Phạm phủ là nhà họ Phạm.
Phạm phủ là tiếng nói tắt của chữ “Phạm Phủ Từ 范 府 祠”, là ngôi nhà dùng làm nơi thờ phụng tổ tiên của dòng họ Phạm.
Những tín đồ đạo Cao Đài cùng chung một họ, cư ngụ tại Châu Thành Thánh Địa thuộc Toà Thánh Tây Ninh, bất kể nam nữ đều hợp nhau cất một ngôi thờ tổ tiên dòng họ chung nhau, gọi là “Phủ Từ 府 祠”.
Nếu họ Phạm thì có Phạm Phủ Từ, nếu họ Lê thì có Lê Phủ Từ.
Trong bàn thờ nơi Phạm Phủ Từ có đôi liễn như sau:
范 府 恩 深 千 古 在
Phạm phủ ân thâm thiên cổ tại,
祠 堂 義 重 百 年 存
Từ đường nghĩa trọng bách niên tồn.
Nghĩa là:
Ơn sâu nhà họ Phạm ngàn xưa còn tại đây,
Nhà thờ tổ tiên nghĩa nặng trăn năm vẫn còn.
Phạm phủ ân thâm thiên cổ tại,
Từ đường nghĩa trọng bách niên tồn.
(Liễn Nội Tông Phạm Phủ).
范 增
Phạm Tăng là người sống vào cuối đời Tần, ở Cư Sào, có nhiều mưu chước lạ. Năm 70 tuổi, theo giúp Hạng Võ khởi binh, lập được nghiệp Bá, được tôn là Á phụ.
Trong cuộc hội tại Hồng Môn giữa hai nước Hán và Sở, Phạm Tăng biết được Lưu Bang và Hàn Tín sau nầy sẽ diệt Hạng Võ, nên xúi Hạng Võ diệt Hàn Tín và giết Bái Công (Hán Cao Tổ) để trừ hậu hoạn, nhưng Sở Bá Vương không nghe lời.
Sau nhà Hán lập kế phản gián khiến Hạng Võ nghi ngờ Phạm Tăng, lấy hết quyền hành. Từ đó Phạm Tăng bỏ ra đi, đến Bành Thành phát ung ở lưng rồi mất.
Còn ngươi Trương Tử Phòng, nếu chẳng Phạm Tăng cải Trời làm lếu thì ân oán đền trả chẳng mấy hồi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
犯 罪
Phạm: Vi phạm, người can án, người bị tội. Tội: Việc làm trái với pháp luật hay đạo đức.
Phạm tội là mắc phải những điều tội lỗi.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Còn cả môn đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe lập đảng, nhược kẻ nào phạm tội thì Thầy trục xuất ra ngoài cho khỏi điều rối loạn.
Dầu kẻ phạm tội dụng khôn lanh ngụy biện để khỏi tội hữu hình, nhưng không tránh được hình phạt Thiêng Liêng.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
犯 上
Phạm: Vi phạm, đụng chạm. Thượng: Trên chỉ cấp trên, người bề trên.
Phạm thượng là xúc phạm với cấp trên, hay người bề trên. Trong tôn giáo, phạm thượng là xúc phạm với các bậc lãnh đạo trong tôn giáo, hay chức sắc.
Thánh giáo Thầy dạy: Thầy đã lắm lúc nhọc nhằn chiều theo thế mà dẫn bước đường, nhưng nhiều đứa dụng thời thế ở trần mà phạm thượng đến Thầy, và dằn thúc chư môn đệ và chư chúng sanh.
Gìn dạ nhớ chồng là chúa vợ,
Ðừng lời phạm thượng thói nghinh ngang.
(Đạo Sử).
范 仲 俺
Phạm Trọng Yêm, tự là Hy Văn, thuỵ là Văn Chính, người xứ Tô Châu, nhà nghèo nhưng rất ham học, thi đỗ Tiến sĩ làm quan dưới triều Tống Nhân Tông đến chức Lại Bộ Viên Ngoại Lang, từng giữ chức Tri Châu ở Hàng Châu. Ông là người thanh liêm, chính trực, lại trọng nghĩa khinh tài, đối xử với dân chúng rất có hậu.
Ông đã để lại một lời nói bất hủ: Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc 先 天 下 之 憂 而 憂, 後 天 下 之 樂 而 樂, nghĩa là lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Câu này đã được truyền tụng rộng rãi từ đời Tống cho đến ngày nay.
Phạm Trọng Yêm mấy lần xa vợ,
Nợ quân vương nhiều thuở truân chuyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
範 圍
Phạm: Khuôn, phép tắc. Vi: Vây, khu đất có tường vách bao bọc chung quanh.
Phạm vi là khoảng có giới hạn, tức trong vòng giới hạn nào đó.
Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong Giáo Lý có dạy: Trong Đạo vợ chồng có điều tốt nhất là hai người ấy được thuận hoà, ăn ở với nhau từ tóc xanh, đến đầu bạc. Mà muốn được vậy thì mỗi người phải biết bổn phận của mình và phải hành động trong phạm vi ấy.
Hội Thánh quyết giữ vững lập trường tôn giáo thuần tuý, không ra khỏi phạm vi đạo đức...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
幡
Phan là cây phướn, một loại cờ của nhà chùa, hình dải hẹp và dài, phần cuối xẻ như đuôi cá.
Như: Phan Tiếp Dẫn, linh phan, Tả Hữu Phan Quân, tràng phan bửu cái.
Ơn Tạo hoá tha tiền khiên trước,
Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
(Kinh Thế Đạo).
Cứ níu theo phan Ðức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
幡 君
Phan: Cây phướn. Quân: Người.
Phan Quân là người cầm phướn.
Trong Đạo Cao Đài, có hai vị cầm phướn Thượng Sanh và phướn Thượng Phẩm, đi theo chức sắc Hiệp Thiên Đài, đó là Tả Phan Quân và Hữu Phan Quân.
Tả Phan Quân, người đứng bên trái của Đức Thượng Sanh cầm cây phướn Thượng Sanh, còn Hữu Phan Quân, đứng bên phải Đức Thượng Phẩm, cầm cây phướn Thượng Phẩm.
Trong Đàn cơ đêm 15 tháng 10 năm Ất Tỵ (Dl. 7/11/1965) tại Cung Đạo Toà Thánh, Đức Lý Giáo Tông phong chức Hữu Phan Quân cho ông Lê Văn Thoại.
Tả Phan Quân là ông Trang Văn Giáo đã quy vị ngày 2 tháng 5 năm Bính Thìn (30/5/1976).
Không được, vì chức Hữu Phan Quân không chi nặng lắm, kiếm người khác rổi rảnh hơn.
(Thánh Ngôn Sưu Tập).
幡 接 引
Phan: Cây phướn, là loại cờ dùng riêng trong tôn giáo, dùng để dẫn dắt đường. Tiếp Dẫn: Vị Phật, còn gọi là Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn đắc đạo đến cõi Cực Lạc Thế Giới.
Phan Tiếp Dẫn tức là cây phướn của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn dùng để dẫn dắt các chơn linh đắc Đạo.
Cảnh Thiên noi bước Hoá Công,
Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như Lai.
(Kinh Thế Đạo).
Biến thân hạc nội mây ngàn,
Nắm phan Tiếp Dẫn mở đàng Lôi Âm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Phiên vương”.
Phan (phiên): Che chắn. Vương: Một cái tước lớn vua phong cho các hoàng thân hay các quan đại thần.
Phan vương, như chữ “Phiên vương 藩 王”, là một tước vương phong cho các chư hầu cai trị để bảo vệ đất đai nhà vua.
Trà mi kém sắc hơn hường,
Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Dân trí chưa phân tam đảnh thạnh,
Quốc quyền phế hũy trí Phan Vương.
(Tôn Sơn Chơn Nhơn).
判
Phán là nói các bậc tôn quý truyền bảo, ra lệnh. Như: Lời vua đã phán hỏi.
Thánh giáo Thầy có dạy: Phải hiểu rằng: Ngũ tạng, lục phủ cũng là khối sanh vật mà thành ra, nhưng phận sự chúng nó làm, thảng hiểu biết hay không hiểu biết, đều do nơi mạng lịnh Thầy đã phán dạy.
Thê cùng thiếp sớm chiều hầu hạ,
Phán một lời kẻ dạ người thưa.
(Thơ Hộ Pháp).
判 定
Phán: Phân xử, quyết định. Định: Định đoạt.
Phán định là phán đoán và định đoạt.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nếu có điều khó khăn không giải quyết được phải thỉnh giáo bề trên, không nên phán định sơ suất.
Thay đổi tuỳ cơ trên phán định,
Ước mong bổn đạo hưởng vinh vang.
(Thơ Hiến Pháp).
判 斷
Phán: Phân xử, quyết định. Đoán: Xem xét.
Phán đoán là xét định, tức là xem xét, quyết định. Như: Phán đoán tình hình.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Những đạo hữu nào không vì hạnh đức mà chung hiệp nhau lo hành Chánh giáo, thì đã có Thần, Thánh lãnh lịnh biên ghi vào Sổ Công Quả, đợi ngày chung quy đặng đem vào cân Thiên điều mà phán đoán.
Trên Điện Ngọc Vua Trời ngự giáng,
Trước đền vàng phán đoán phân minh.
(Xưng Tụng Công Đức).
Ðừng đừng có nết hay chê lẫn,
Phán đoán người duy có một Trời.
(Đạo Sử).
判 決
Phán: Phân xử, quyết định. Quyết: Định chắc.
Phán quyết là quyết định của quan toà hoặc người đứng ra giải quyết một vụ việc. Như: Toà Thượng thẩm là đơn vị phán quyết cuối cùng một vụ án.
Hai bên Chánh phủ đối phương có chịu nhận mình làm trọng tài để phán quyết hay không?
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Phán: Phân xử, quyết định. Xét: Xem xét.
Phán xét là sự xem xét và đánh giá rồi đưa ra việc phán đoán, hay phân xử.
Theo Thiên Chúa Giáo, từ “Phán xét cuối cùng” dùng để chỉ việc xem xét về tội phước của nhơn loại để Thiên Chúa ban thưởng hay trừng phạt lần cuối cùng trước khi xảy ra cuộc Tận diệt.
Đạo Cao Đài thì cho rằng Đức Di Lạc Vương Phật sẽ mở Đại Hội Long Hoa và làm chủ khảo phán xét, tuyển chọn người có công đức để lập một đời mới gọi là đời Thượng Nguơn Thánh Đức.
Công bình phán xét tới ngày,
Chẳng tu thì chịu đoạ đày Phong đô.
(Thơ Thông Quang).
Cơ phán xét nắm quyền định vị,
Hạ, Trung, Thượng chơn lý phơi bày.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
判 處
Phán: Phân xử, quyết định. Xử: Xem xét phải trái.
Phán xử là xem xét để quyết định, tức là gặp việc phải quấy phải xét đoán kỷ rồi quyết định.
Như: Đưa ra Toà Tam giáo phán xử.
Đã đặng tin quả quyết thì chẳng đặng yêm ẩn, ngó lơ, buộc phải giao cho Thông Sự phán xử.
(Pháp Chánh Truyền CG).
Phàn nàn là nói ra những nỗi buồn bực, không vừa ý, để mong có sự đồng tình, đồng cảm. Như: Những điều đáng phàn nàn.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo đã đặng nhiều lời của mấy em nhứt là trong Bàn Trị Sự tức nhiên là hàng Em của Hội Thánh hay Thánh Thể út của Đức Chí Tôn, nghĩa là con cái yêu dấu của Ngài hơn hết đã phàn nàn thấu tới tai Bần Đạo.
Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật còn phàn nàn trách cứ Thầy thay!
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
反
Phản là trái, nghịch lại, tức có hành động chống lại, làm hại với người có quan hệ gắn bó với mình.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Như kẻ làm quan ỷ quyền hiếp bức dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con có biết vì tại sao chăng? Tại vô đạo.
Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
(Kinh Sám Hối).
Dường như con vịt mẹ gà,
Trẻ thơ vội phản, mụ già kinh tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Phản bản hoàn nguyên”.
Phản bổn (bản): Trở lại với cái gốc. Huờn (hoàn) nguyên: Trở về với cái ban đầu.
Phản bổn huờn nguyên, như chữ “Phản bản hoàn nguyên 返 本 還 元” là sự trở về với cái nguồn gốc ban đầu của chơn linh con người. Đó là nơi cõi Thiêng Liêng Hằng sống.
Phản bổn huờn nguyên ý nói người tu hành đắc quả trở về ngôi xưa vị cũ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Thường người ta chỉ lo tìm kiếm những điều ở ngoài mình, chớ không tìm kiếm những cái ở trong con người của mình, thế nên dây oan kết mãi, nghiệp chướng càng mang, biết chừng nào mới tỉnh ngộ đặng phản bổn huờn nguyên.
Nghịch hành phản bổn huờn nguyên,
Thuận hành sa đoạ hạ miền trầm luân.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
反 道
Phản: Nghịch lại, trả lại. Đạo: Tôn giáo.
Phản Đạo là phản lại tôn giáo của mình đã theo. Như: Những tín đồ phản đạo là kẻ bội ước với lời thề của mình.
Nói về Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Nếu trong cửa Đạo này, có kẻ phản Đạo, phản Thầy, phản bạn, đưa mũi súng bắn Trấn, họ không nghĩ rằng: “Họ bắn chết Đạo của họ” họ không nghĩ rằng họ đã bắn chết thân danh của họ, duy tiếc có bao nhiêu đó mà thôi.
Lập đảng phái chen vào chánh giáo,
Xúi môn đồ phản đạo hại thầy.
(Nguyễn Trung Trực Giáng).
反 間
Phản: Nghịch lại, trả lại. Gián: Gián điệp, do thám.
Phản gián là dùng mưu gây chia rẽ nội bộ đối phương. Như: Dùng kế phản gián.
Thượng Sanh thuyết về Đức Khổng Tử có câu: Nước Tề là lân bang của nước Lỗ, sợ nước Lỗ được cường thịnh nên dùng 80 mỹ nữ dâng cho vua nước Lỗ để làm kế phản gián. Vì vậy Lỗ hầu say mê tửu sắc, bỏ việc triều chánh. Ðức Khổng Tử can gián không được nên buồn lòng bỏ nước Lỗ mà đi.
Dùng mưu phản gián Nam Bang,
Ðoạt thâu cho sạch vàng ngàn bạc muôn.
(Ngụ Đời).
返 回
Phản: Trở về, trở lại. Hồi: Về.
Phản hồi là trở về. Như: Phản hồi cố hương.
Trong sách Giáo Lý, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn viết: Trước thuyền Bát Nhã chở quan tài đi an táng có hai câu liễn như vầy: “Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh huờn tại thổ, Thiên niên tự hữu, Linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên”. Muôn việc gọi không, Nhục thân do đất sanh thì trả về cho đất. Muôn năm tự có, Linh Hồn Trời ban cho thì trở về với Trời.
Phát phối tha bang quyền quỷ khiến,
Phản hồi cố quốc phép trời xuôi.
(Thơ Thượng Trí Thanh).
Cung thiềm lầu ngọc mau tìm đến,
Nương ánh Hồng Quân nhẹ phản hồi.
(Thơ Hoàn Nguyên).
反 抗
Phản: Nghịch lại, trả lại. Kháng: Chống lại.
Phản kháng là chống cự lại một cách quyết liệt. Như: Sức phản kháng mãnh liệt.
Trong Đạo Sử, bài diễn văn của Đức Quyền Giáo Tông đọc tại Toà Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (1934) có câu: Cuộc kết quả sự phản kháng ấy hoặc thành, hoặc bại, có ảnh hưởng của tương lai sanh hoạt quyền lực đương nhiên của họ vì cớ mà sự xung đột hằng xem dữ dội.
Ngài đã thấy phép trị thế, dầu cho dân sanh phản kháng thế nào, cũng tuỳ theo một chủ quyền chính thể...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
反 剋
Phản: Nghịch lại, trả lại. Khắc: Chống với nhau, không hợp.
Phản khắc chống lại hay nghịch lại. Như: Hai điều đó mâu thuẫn phản khắc nhau.
Trong Bát Đạo Nghị Định, điều thứ sáu có câu: Nghĩ vì, Pháp Chánh Truyền, Lão đã dạy Hộ Pháp chú giải, chẳng thi hành từ thử, làm cho Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phản khắc Ðạo quyền, gây nên rối loạn Chánh Giáo Chí Tôn.
Có nhiều cơ quan phản khắc nhau ta có quyền năng làm cho họ hiệp lại...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
反 亂
Phản: Nghịch lại, chống đối. Loạn: Gây rối.
Phản loạn là không trung thành với vua, hay chính quyền, trái lại còn làm rối loạn trật tự. Như: Làm phản loạn chơn truyền.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Dân Juif các vì Giáo Chủ buổi nọ, luôn các vua chúa Palestine, thấy Ðức Chúa Jésus Christ thuyết Ðạo Giáo có một chí hướng chơn truyền phản khắc với tôn chỉ của họ, họ oán ghét, tìm phương giết Chúa, đến đầu cáo với César rằng: “Người ấy mưu cuộc phản loạn đem bọn Juif ra khỏi sự thống trị của chế độ Romain”, nhưng họ cáo đủ thứ cũng không được, vì Thánh đức của Chúa không thể phạm vào được.
Ngoài mặt đời ít kẻ vẫy vùng,
Ra tuồng thế những phồn phản loạn.
(Bát Nương Giáng Bút).
Giục tỉnh tà thần mưu phản loạn,
Tuyển phong Thánh thể hạng trung kiên.
(Thơ Huệ Phong).
Hay “Phản loạn chân truyền”.
Phản loạn: Chống lại và làm rối loạn. Chơn (chân) truyền: Giáo pháp chơn thật được truyền lại.
Phản loạn chơn truyền, như chữ “Phản loạn chân truyền 反 亂 真 傳”, là nói người phản Đạo, gây rối loạn trong tôn giáo để chống lại với chơn truyền của Đạo.
Trong Thập Hình của Đức Lý Giao Tông, phản loạn chơn truyền thuộc về Đệ nhứt hình, tội trục xuất.
Đối với các Chi Phái do Đại Đạo lập thành mà phản loạn Chơn Truyền...
(Đạo Luật Mậu Dần).
反 逆
Phản: Nghịch lại, chống đối. Nghịch: Phản lại.
Phản nghịch là làm phản, chống lại với chính phủ, hay lãnh đạo tôn giáo.
Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn có câu: Chớ không phải vào Ðạo rồi cậy lấy phần đông, kết phe lập đảng ỷ chúng hiếp cô, kẻ vào Ðạo mà chỉ mưu việc quấy như vậy, là kẻ lợi dụng danh Ðạo mà làm cho rối loạn chơn truyền, tức là kẻ phản nghịch với chánh lý của Ðạo vậy.
Cũng như Kim Quang Sứ là A Tu La, Thánh giáo gọi là Lucifer phản nghịch náo động Thiên cung.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
反 覆
Phản: Nghịch lại, chống đối. Phúc: Nghiêng đổ.
Phản phúc là nghiêng đổ lật ngược, ý nói tráo trở, phản lại người đã tin cậy hoặc có ơn nghĩa với mình.
Như: Lòng dạ phản phúc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Biết bao nhiêu, khi mới đến cùng Thầy, quỳ dưới chơn Thầy mà hễ ra khỏi chơn Ngài rồi thì lại phản phúc Ngài và con cái của Ngài.
Hèn ganh sang, gây lẽ nghịch thù,
Dở làm giỏi, đồ mưu phản phúc.
(Bát Nương Giáng Bút).
反 前 為 後
Phản tiền: Trở ngược lại cái trước. Vi hậu: Để làm cái sau.
Phản tiền vi hậu là làm trở ngược cái trước để làm lại cái sau.
Ví dụ: Muốn làm phản tiên vi hậu cái nhà thì lấy cửa trước làm lại cửa sau và cửa sau nhà trở thành cửa trước.
Nay là hạ nguơn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
反 側
Phản: Nghịch lại, chống đối. Trắc: Nghiêng.
Phản trắc là làm phản, làm trái với tình nghĩa, ý muốn nói kẻ có bụng dạ khó lường được, làm điều không ngay thẳng. Như: Tâm địa phản trắc.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Đức Chí Tôn có dạy: Hoạch, con hiểu trước Thánh ý Thầy rồi, cây phướn chiêu hồn của nhơn loại chưa đặng trọn linh diệu hầu quy tụ thiên lương nên phản trắc nhơn tâm, phi ân vô đạo là thường tình, chẳng chi lạ mà con ái ngại.
Cửa Đạo buồn xem trò phản trắc,
Đường tu nào ngại cảnh gian lao.
(Thơ Thuần Đức).
反 應
Phản: Trái ngược. Ứng: Đáp lại.
Phản ứng là làm nội ứng cho quân giặc.
Phản ứng còn là hiện tượng biến hoá vì tác dụng hoá học mà sinh ra. Nghĩa bóng: Nảy sinh ra hành động để đáp lại một tác động nào đó.
Thánh giáo Đức Hộ Pháp có dạy: Bần Đạo cũng nên nói rõ về việc thăng thưởng Chức sắc Hiệp Thiên, vì trước khi chấm thưởng, Bần Đạo đã tuyên bố lấy hết công tâm mà định đoạt, nhưng các em cứ một mực phản ứng làm cho xáo trộn một lúc hầu như đức tin đã đổ vỡ.
Vì đó có sự phản ứng, có tiếng đối lập với dục vọng, tức là với tà thần.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Phanh 烹 tức là mở rộng, mở banh ra, làm lộ phần ở bên trong ra.
Như: Phanh áo để lòi ngực ra, mở phanh hai cánh cửa, phanh thây xẻ xác.
Con bất hiếu xay cưa đốt giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
(Kinh Sám Hối).
1.- Pháo là vật cuộn bằng giấy, trong nhồi thuốc nổ, có ngòi để đốt cho nổ thành tiếng kêu.
Như: Đêm giao thừa đốt pháo, vui như lân gặp pháo, tan như xác pháo.
Pháo nổ lân chơi miền Bắc địa,
Sấm rền cù dậy cõi Đông dương.
(Thơ Hộ Pháp).
Tiếng pháo giao thừa khơi nỗi nhớ,
Ngọn đèn trừ tịch gợi niềm thương.
(Thơ Hàn Sinh).
2.- Pháo là tên gọi một quân trong cờ tướng, hoặc bài tam cúc, bài tứ sắc.
Như: Pháo đầu chiếu tướng, thí pháo bắt xe.
Nam Việt lẫy lừng xe pháo ngựa,
Tần bang bồng bột tướng binh voi.
(Quyền Giáo Tông Giáng).
1.- Pháp 法 là pháp luật, khuôn phép đặt ra để mọi người tuân theo cho có trật tự và ổn định. Như: Pháp chế, pháp đình, gia pháp nghiêm minh.
Thánh giáo Thầy có đoạn dạy: Nếu Thầy dùng quyền pháp Chí Tôn thì mất lẽ công bình thiêng liêng Tạo hoá. Con cứ lo lập luật, để công phổ độ cho chư đạo hữu con hưởng chút ít.
Ăn gian xớt bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm vương.
(Kinh Sám Hối).
Định hương hoả, hằng ngày quý tế,
Lập pháp gia, tự kế phụng thờ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Pháp 法 là giáo thuyết, giáo lý của tôn giáo. Như: Giáo pháp, mạt pháp, pháp môn, bí pháp, pháp thí.
Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai có dạy: Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp luật buộc mối đạo Thiền.
Phật Pháp khuyến nhơn quy mỹ tục,
Nho Tông phục thế hưởng thuần phong.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Pháp 法 là phép, bí tích, thuật mầu nhiệm của những bậc Phật, Tiên, Thánh, Thần hoặc các thầy phù thuỷ. Như: Pháp thuật cao cường, pháp sư, thầy pháp.
Thánh giáo Thầy có dạy: Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, từ ngày Ðạo bị bế, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh tản Thần không cho hiệp cùng Tinh, Khí.
Vợ thầy pháp quỷ ma thường lộng,
Đẻ ra hình như giống ếch bà.
(Phương Tu Đại Đạo).
法 寶
Pháp: Phép thuật, các bí tích của đạo Cao Đài. Bửu (bảo): Quý báu.
Pháp bửu hay “Pháp bảo 法 寶”, như chữ “Bửu pháp 寶 法” là những vật có pháp thuật huyền diệu của các Đấng Thiêng liêng.
Như: Đức Quyền Giáo Tông là chơn linh Lý Thiết Quả, có hai pháp bửu, đó là Hồ lô và Gậy sắt.
Đức Hộ Pháp có hai pháp bửu là Giáng Ma Xử và Kim Tiên.
Tình đức cổ truyền trừ giặc loạn,
Nghĩa nhân pháp bửu dẹp can qua.
(Thơ Hộ Pháp).
法 政
Pháp: Pháp luật. Chánh: Sắp đặt cho mọi việc yên.
1.- Pháp chánh là pháp luật quy định về việc hành chánh trong các cơ quan đạo Cao Đài.
Pháp chánh trông người cân đúng lý,
Công bình đợi Đấng thẩm quyền xây.
(Thơ Nguyệt Quang).
2.- Pháp chánh còn là từ nói tắt của “Bộ Pháp chánh”, một cơ quan tư pháp của đạo Cao Đài.
Xem: Bộ Pháp chánh.
Đảm nhiệm xưa cầm quyền pháp chánh,
Độ thăng trước rưới giọt ma ha.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
Pháp: Pháp luật. Chánh (chính) truyền: Ngay thẳng mà truyền trao lại.
Pháp Chánh Truyền, như chữ “Pháp chính truyền 法 正 傳”, là một bản văn pháp luật chơn chính mà Đức Chí Tôn truyền dạy để tổ chức và điều hành nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đêm 15 tháng 10 năm Bính Dần (Dl. 20-11-1926), Đức Chí Tôn giáng cơ tại Thánh Thất tạm Từ Lâm Tự Tây Ninh, ban cho bản Pháp Chánh Truyền do Đức Hộ Pháp và Đức Thượng Phẩm phò loan.
Pháp Chánh Truyền là một bản luật quy định các phẩm chức sắc nam nữ của Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, quyền hành, đạo phục của mỗi phẩm cấp và việc thăng thưởng các chức sắc.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Luật thì có Tân Luật, Pháp thì có Pháp Chánh Truyền, Quyền thì có Toà Tam Giáo.
1. Không tuân Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định.
2. Phản loạn chơn truyền.
3. Chia phe phân phái và lập tả đạo Bàng môn.
(Thập Hình Lý Giáo Tông).
法 緣
Pháp: Giáo pháp, giáo lý, chỉ Đức Phật. Duyên: Mối duyên ràng buộc.
Pháp duyên là có mối duyên cùng giáo pháp hay Đức Phật, hoặc chỉ sự quy y theo Đạo pháp.
Kiếp sanh may gặp Tam Kỳ Độ,
Nguyện kết vuông tròn với Pháp duyên.
(Thơ Thuần Đức).
法 條
Pháp: Luật pháp. Điều: Điều khoản, điều mục.
Pháp điều là nói những điều khoản quy định trong luật pháp.
Di Lạc Chơn Kinh có câu: Nhược hữu chúng sanh văn ngã ưng đương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng thị Pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ, tất đắc giải thoát luân hồi...
Khai khiếu huyền linh diệt tánh phàm,
Pháp điều khử mị dẹp tà tâm.
(Khai Pháp Giáng Bút).
Pháp: Phép tắc. Gia: Nhà.
Pháp gia, như chữ “Gia pháp 法 家”, tức là những phép tắc cư xử trong một gia đình.
Xem: Gia pháp.
Định hương hoả, hằng ngày quý tế,
Lập pháp gia, tự kế phụng thờ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
法 界
Pháp: Chỉ tất cả các sự, các việc, các vật, các hiện tượng, dù nhỏ lớn, dù thấy được hay ẩn kín, dù hữu hình hay vô hình, tốt hay xấu, chơn hay giả... Giới: Cõi, cảnh giới, phạm vi.
Pháp giới có nhiều nghĩa, nhưng tựu trung có những nghĩa sau đây:
1.- Pháp giới là cảnh giới của Pháp, tức là cõi, cảnh.
Như: Cõi trần, cõi Thiêng liêng hằng sống, cõi Địa ngục đều là Pháp giới.
Văn chung khấu hướng huệ trưởng càn khôn,
Pháp giới chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn.
Án Dà Ra Đế Dạ Ta Bà Ha.
(Kệ Chuông).
2.- Pháp giới là phạm vi của Pháp, bao gồm các pháp hữu vi và vô vi.
Pháp hữu vi là thể pháp, pháp vô vi là bí pháp.
Không có điều chi Chí Tôn để trong Pháp giới của Ngài trong của Đạo nầy mà không có nghĩa lý.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
3.- Pháp giới được xem như là một cơ quan tạo hoá ra vạn vật trong Càn khôn Vũ trụ.
Còn Hiệp Thiên Ðài là Pháp giới tạo ra Vạn Linh, nó là Ðạo, rõ rệt như vậy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
4.- Pháp giới là Bí pháp huyền diệu hay pháp thuật mầu nhiệm.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Hộ Pháp đến kỳ Long Hoa nầy cốt để rước Cửu nhị ức Nguyên Nhân là bạn chí thân của Người đã bị đọa lạc nơi hồng trần không phương giải thoát, muốn rước các bạn chí thân của Bần Đạo, Đức Chí Tôn buộc phải lấy Pháp Giới tận độ chúng sanh.
Thiên phong hải chúng, quốc thới dân an, hồi hướng đàn trường, tận thâu pháp giới.
(Kệ Chuông).
5.- Pháp giới còn dùng để chỉ phạm vi pháp luật, hay nói cách khác đó là pháp luật.
Hư Vô Cao Thiên thuộc về Pháp giới cầm cả luật Thiên Ðiều.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
法 刑
Pháp: Pháp luật. Hình: Chỉ hình phạt.
Pháp hình, như chữ “Hình pháp 刑 法”, tức là hình phạt bị xử theo pháp luật.
Ðau dạ ôm thương dụng pháp hình,
Ðừng vì Cha mến tởn oai linh.
(Đạo Sử).
法 化 相 宗
Pháp hoá: Giáo pháp biến hoá ra. Tướng tông: Thể tướng của một Tôn giáo.
Theo kinh Tiên Giáo, “Pháp hoá tướng tông” là có ý nói giáo pháp hoá sinh ra thể tướng của một Tôn giáo, tức là Đạo Giáo.
Thực vậy, Đạo giáo trước tiên chỉ là một nền triết lý (Giáo pháp) vô vi, hay nói cách khác, là một triết lý ưa thích cái tự nhiên của Trời đất do Đức Lão Tử chủ xướng trong Đạo Đức Kinh. Về sau, thuyết vô vi của Ngài ảnh hưởng rất lớn ở Trung Hoa, các triết gia kế thừa có ông Liệt Tử đã dựa theo triết lý cao siêu của Ngài mà viết nên quyển Xung Hư Chơn Kinh. Và nhất là Trang Tử, là một nhà hùng biện, đem giáo thuyết vô vi của Ngài ra xiển dương trong quyển Nam Hoa Kinh.
Trong giai đoạn này Đạo giáo vẫn còn là triết lý, đến đời Hán, nhờ ông Trương Thiên Sư, Đạo giáo mới bắt đầu truyền bá rộng rãi trong nhơn gian. Đến đời Tấn, triết lý của các Đạo gia mới được ông Nguyễn Bá Đương chỉnh đốn lại hẳn hoi thành hệ thống một tôn giáo. Đạo giáo mới thực sự là một tôn giáo kể từ đó.
Lưu sa tây độ,
Pháp hoá tướng tông.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
法 理
Pháp: Pháp luật. Lý: Lẽ phải.
Pháp lý là nguyên lý của pháp luật. Như: Cơ sở pháp lý của bản hợp đồng.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo quả quyết trong năm nầy, nếu như tinh thần Bần Ðạo không lầm, thì nòi giống Việt Nam chúng ta sẽ được đặc ân là độc lập tự do cho tổ quốc, độc lập trên pháp lý quốc tế đó vậy.
Đòn cân pháp lý mà chênh lệch,
Câu chuyện nhơn tình khó lấp nguôi.
(Thơ Thuần Đức).
Do đơn tố tụng mở phiên toà,
Pháp lý đòn cân đạo lập ra.
(Thơ Huệ Phong).
法 輪
Pháp: Giáo pháp, giáo lý. Luân: Bánh xe.
Pháp luân là bánh xe pháp, tượng trưng cho giáo pháp của Phật. Bánh xe là biểu tượng cho chánh pháp được vận hành.
Pháp luân thường được diễn tả bằng một bánh xe có tám nan (căm xe), tượng cho “Bát chánh đạo”, hoặc mười hai nan, tượng trưng cho “Thập nhị nhân duyên”.
Xây máy pháp luân nguơn tái tạo,
Sấn tay vẽ đẹp mối Nam phong.
(Đức Lý Đại Tiên).
法 輪 常 轉
Pháp luân: Bánh xe pháp, tượng trưng cho giáo pháp của Phật. Thường chuyển: Luân chuyển mãi mãi.
Pháp luân thường chuyển là bánh xe pháp quay mãi, ý nói chánh pháp của Đạo được vận hành, luân chuyển mãi mãi.
Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên có câu: Cuộc dinh hư tiêu trưởng của thế gian là vậy đó, hiền hữu đã thấy chưa? Cuộc tấn hoá theo pháp luân thường chuyển của nhơn loại còn dài, không bờ không bến.
Hộ giá Chí Tôn trước đến giờ,
Pháp luân thường chuyển máy thiên cơ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chín tháng giêng Đại Lễ Chí Tôn,
Pháp luân thường chuyển lý sanh tồn.
(Thơ Huệ Phong).
法 律
Pháp: Luật pháp. Luật: Khuôn phép dựa theo xã hội, phong tục mà đặt ra buộc dân chúng phải theo.
Pháp luật là khuôn phép mẫu mực của dân chúng.
Ngày nay, pháp luật có nghĩa là khuôn phép chính phủ đặt ra mà mọi người dân phải tuân theo, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt.
Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai có dạy: Vốn từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành. Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp luật buộc mối đạo Thiền.
Ba lo trị thế thái bình,
Cộng chung Pháp luật Thiên Đình chí công.
(Kinh Thế Đạo).
Trên theo pháp luật Đạo Trời,
Dưới thương sanh chúng một lời đinh ninh.
(Kinh Thế Đạo).
Khai đường chánh lý độ quần linh,
Pháp luật vô tư chẳng vị tình.
(Thái Đến Thanh).
法 力
Pháp: Phật pháp, pháp thuật. Lực: Năng lực, sức.
Pháp lực là năng lực của Phật pháp.
Pháp lực còn có nghĩa là năng lực của pháp thuật, tức là sự thần thông của Phật pháp hay sự huyền diệu của phép thuật. Như: Pháp lực cao cường.
Linh oai chiếu diệu mình pha ngọc,
Pháp lực cao cường gót phún châu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
法 門
Pháp: Giáo pháp, giáo lý. Môn: Cửa.
Pháp môn là “Cửa Pháp”, tức là cánh cửa dẫn vào vào chân lý, hay nơi đắc Đạo giải thoát.
Giáo lý bất cứ của một tôn giáo nào cũng được ví như một cái cửa mở rộng để người tu bước vào cảnh giới của giác ngộ.
Như vậy, Pháp môn là phương pháp tu tập, tức là chỉ dẫn cách tu hành để giải thoát.
Một tôn giáo có thể mở ra nhiều Pháp môn, Phật giáo thường có câu: Tám vạn bốn ngàn (84.000) pháp môn, có nghĩa là có nhiều phương pháp tu hành khác nhau.
Pháp môn cũng tức là phương tiện, vì căn tánh của chúng sanh bất đồng, nên tôn giáo phải có nhiều pháp môn để tuỳ căn cơ đối trị, nhưng tựu trung tất cả mọi pháp môn đều dẫn đến một mục đích duy nhứt là cứu cánh giải thoát.
Huyền linh mẹ chịu phần cam,
Ban cho con trẻ vẹn toàn Pháp môn.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Tánh cùng Thiên lý thông cơ Ðạo,
Mạng lịnh Thầy truyền diệu pháp môn.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
法 嚴
Pháp: Pháp luật, hay gia pháp, tức là phép tắc trong nhà. Nghiêm: Không cho phép có sự vi phạm, gắt gao.
Pháp nghiêm là pháp luật nghiêm minh, hoặc phép tắc gia đình nghiêm ngặt.
Như: Anh ấy từ nhở lớn lên đã sống trong một gia đình pháp nghiêm.
Sự đời thấu rõ dạng hình,
Trá ngôn lánh chước gia đình pháp nghiêm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Pháp: Bí pháp. Nhiệm: Huyền diệu, mầu nhiệm.
Pháp nhiệm là bí pháp mầu nhiệm.
Như: Trong đạo Cao Đài cắt dây oan nghiệt là một pháp nhiệm cho người tín đồ.
Phương chi thoát khỏi luân hồi,
Chỉ nhờ pháp nhiệm phủi rồi nghiệp duyên.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
法 超 群 聖
Pháp siêu: Pháp thuật, hay Đạo pháp vượt lên. Quần Thánh: Các bậc Thánh.
Pháp siêu quần Thánh là pháp thuật (đạo pháp) vượt lên trên các bậc Thánh.
Trong bài Kinh Tiên Giáo, có câu tán tụng Đức Thái Thượng Lão Quân: Đức hoán hư linh Pháp siêu quần Thánh 德 煥 虛 靈, 法 超 群 聖, Nghĩa là Thánh đức của Ngài sáng rực khắp cõi Hư linh. Đạo pháp của Ngài vượt trổi hơn các bậc Thánh.
Đức Thái Thượng Lão Quân mượn cái Hư linh lập Đạo, cho nên Đạo pháp của Ngài nuơng theo vô vi thanh tịnh, thuận lẽ tự nhiên của Trời đất. Vì vậy, Đạo pháp vượt trổi hơn các bậc Thánh.
Đức hoán hư linh,
Pháp siêu quần Thánh.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
法 身
Pháp: Pháp thuật, bí pháp. Thân: Xác thân.
Theo Phật, Pháp thân là một trong ba thân (Tam thân) của Phật: Pháp thân, Báo Thân và Ứng thân.
Pháp thân chân tánh của Phật đồng nhất với thể tánh của vũ trụ. Đồng thời Pháp thân cũng chính là giáo pháp của Phật. Pháp thân thường hằng, vô tướng, nhất nguyên. Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau như Pháp giới, Pháp tánh, Phật tánh, Chân như. Pháp thân biến khắp Pháp giới, là thể tánh của các pháp, thường trụ, không sinh không diệt, lấy Pháp tánh Chân như làm thân. Pháp thân ở khắp mọi nơi, là bản thể của muôn loài chúng sanh, chính là nơi chúng sanh trở về sau khi diệt hết phiền não vô minh, phát huy trí huệ sẵn có. Pháp thân do trí huệ trực chứng được.
Theo Cao Đài, Pháp thân là là xác thân thiêng liêng huyền diệu, đó là đệ nhị xác thân của con người, tức là chơn thân hay chơn thần. Những người đạt Đạo thì xác thân thiêng liêng nầy rất huyền diệu, có thể biến hoá hay đi các cõi giới.
Trong Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp có nói về Pháp thân như sau: Bần Đạo có toả cả Chư Phật, Bần Đạo có nói hình trạng chẳng khác chi hồi trong Kim Bàn xuất hiện buổi trước, hình ảnh nó còn lờ mờ tới chừng về ngự trên Liên Đài Kim Tự Tháp thì hình ảnh trong trẻo hiển hiện hết Pháp Thân huyền bí vô biên vô tận. Tại sao? Chúng ta tìm hiểu cái triết lý nguyên do Pháp Thân ấy, buổi trong Kim Bàn xuất hiện bất quá bóng dáng mà thôi. Nhờ sanh sanh tử tử thâu đoạt Nguơn Khí tạo đặng Pháp Thân của mình với cả muôn muôn triệu triệu kiếp sanh của chúng ta, đặng đoạt cả huyền vi bí mật quyền phép tạo đoan, cho nên cái lúc đoạt được Pháp Thân rồi, tức nhiên đoạt được Phật vị vậy. Lúc đó cả huyền bí Thiêng Liêng kia, cả Tạo Đoan kia mình đã thấu đáo.
Mỗi quả kiếp mổi hành tàng,
Hiệp thiên hành Hoá vô vàn pháp thân.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
Liên Đài đỡ gót chầu cung Ngọc,
Long mã đưa đường hộ Pháp thân.
(Thơ Thái Phong).
法 術
Pháp: Pháp thuật, bí pháp. Thuật: Phương pháp, phép làm một việc gì.
Pháp thuật, như chữ “Phép thuật”, là những thứ phù phép của các Đấng Thiêng Liêng, các nhà phù thuỷ, hay lũ tà ma yêu quái.
Như: Pháp thuận của các nhà phù thuỷ.
Vị giám khảo pháp thuật cao,
Chơn linh giải thoát khó vào hai nơi.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
1.- Phát là dơ bàn tay ra mà đánh, đập. Phát còn có nghĩa là lần đánh hay đập.
Như: Phát đen đét vào lưng, dùng roi mà đánh cho mấy phát.
Bà rút roi giả bộ theo ôm,
Đưa cán quạt cho bà đơm ít phát.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Phát 發 là mở ra, sinh ra, hiện ra. Như: Phát minh, phát hiện, phát giác, phát huy.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh. Thầy nôn nóng nhưng mà Thiên cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở.
Thánh giáo phát khai thiên thế mỹ,
Thâu hồi nhập nhứt Ðạo Kỳ Tam.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Phát 發 là khởi đầu, bắt đầu. Như: Phát động, phát khởi, phát nguyên, phát sinh.
Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Kịp đến tâm hồn bất hoà thì thất tình lục dục đều phát khởi tranh ngôi với thần lương tâm, nếu kém lực thì con người ấy duy có sanh hoạt trong vòng vật dục, chớ chẳng hề biết Thiên lý là gì?
Kính lập công to quy cựu vị,
Tặng tiền phát khởi lập căn nguyên.
(Cửu Nương Giáng Bút).
4.- Phát 發 là nổi lên, dấy lên. Như: Phát hoả, phát phẫn, phát sầu, phát tức, lúa phát giá cao.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc Trời nào dung cho.
(Kinh Sám Hối).
Chồng dầu thiệt là anh ngỗng đực,
Hiếp quá chừng phát tức trổ hành hung.
(Phương Tu Đại Đạo).
5.- Phát 發 là phân ra, cấp cho. Như: Phát chẩn, phát mại, phát hành, phát phối.
Thánh giáo Thầy trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có câu: Từ đây các con sẽ cực nhọc hơn, vì Thầy phân phát phận sự cho mỗi đứa, vì chẳng vậy các con sanh nạnh nhau, giống tựa hồ chia phe phân phái, là điều đại tội trước mặt Thầy vậy, nghe à!
Sự ăn uống phát phân từ bữa,
Đến việc chơi cũng lựa cho chơi.
(Phương Tu Đại Đạo).
6.- Phát 髮 là tóc, không dùng một mình.
Như: Thí phát quy y, từ thanh xuân cho đến bạch phát (từ tuổi trẻ cho đến đầu bạc).
Tu không biểu mặc đồ dà,
Cạo râu thí phát bỏ nhà lìa con.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
發 下 洪 恩
Phát hạ: Trên ban phát xuống. Hồng ân: Ơn to lớn, chỉ ơn của Chí Tôn, Phật Mẫu.
Phát hạ hồng ân là nói Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu ban phát ơn to lớn xuống cho toàn cả chúng sanh.
Ngưỡng vọng Vô Trung Từ Phụ Phát hạ hồng ân Càn Nguơn Đại Đức.
(Sớ Văn).
發 畫
Phát: Mở ra, hiện ra. Hoạ: Vẽ, bản vẽ.
Phát hoạ là vẽ ra, đưa ra một chương trình làm việc hầu thu hoạch nhiều kết quả.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Thưa quý vị, chúng tôi mong rằng sau hồi sóng lặn gió êm, trời quang mây tạnh, chúng ta sẽ hiệp nhau phát hoạ một chương trình gồm cả các điều cần thiết trong lúc này để phục vụ đắc lực nhơn sanh trong cả hai phương diện vật chất và tinh thần đạo đức.
Tiên Thiên Đại Đạo là Đạo có trước Trời, vua Phục Hy theo đó mà phát hoạ Hà Đồ Tiên Thiên Bát Quái.
(Giáo Lý).
發 揮
Phát: Mở ra. Huy: Lay động.
Phát huy là đem cái ý tứ thầm kín trong lòng mà phát biểu rộng ra cho mọi người, hay bàn nghĩa lý của một học thuyết cho lan rộng ra.
Nghĩa rộng: Làm cho cái hay, cái tốt toả tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm.
Như: Phát huy tinh thần dân chủ trong cơ quan.
Hằng Sống có lắm tông chi,
Mảng lo tế độ phát huy tinh thần.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
Thoát nạn nhờ ngũ dương bì,
Sau làm Thừa tướng phát huy nước Tần.
(Báo Ân Từ).
發 起
Phát: Khởi đầu, mở ra. Khởi: Dậy.
Phát khởi là dựng lên một việc gì, tức khởi đầu phát ra hay đề nghị ra trước hết.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Chấp hai tay lạy là tại sao? Tả là nhựt, hữu là nguyệt, vị chi âm dương. Âm dương hiệp nhứt phát khởi Càn khôn, sanh sanh hoá hoá, tức là Ðạo.
Kính lập công to quy cựu vị,
Tặng tiền phát khởi lập căn nguyên.
(Cửu Nương Giáng Bút).
發 落
Phát: Nổi lên, phân phối. Lạc: Rơi rụng.
Phát lạc, đồng nghĩa chữ “Phát lưu 發 流”, hay “Phát phối 發 配”, là đày người bị tội đi nơi xa.
Như: Bị tội chung thân phát lạc.
Xem: Phát phối.
Ðiểm Chơn thần của nó còn phải đến hầu trước Toà Tam Giáo mà đợi lịnh phát lạc tuỳ theo công quả, tội tình của nó bấy nay.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
發 願
Phát: Khởi đầu, nổi lên. Nguyện: Mong ước.
Phát nguyện là phát tâm lập nguyện, tức phát ra lời nguyền, hay lời mong ước.
Trong Sớ Văn dâng cúng Đức Phật Mẫu có câu: phát nguyện Quốc thể Việt Nam thịnh mãn vinh quang, hà thanh hải yến, sanh chúng an cư lạc nghiệp, phục hồi Đường Ngu chi phong hoá.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân thính ngã dục tu phát nguyện...
(Di Lạc Chơn Kinh).
發 配
Phát: Gửi đi. Phối: Đày kẻ tội phạm.
Phát phối là đày kẻ phạm tội đi đến một nơi nào đó. Đồng nghĩa với đồ lưu.
Như: Phát phối tha bang là lưu đầy ra nước ngoài.
Xem: Đồ lưu.
Phát phối năm thu khổ đoạ đày,
Ai ngờ lại gặp buổi hôm nay.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
Đồ thân phát phối cầm dân mạng,
Y phục đai cân thị tử thành.
(Pierre Pasquyer Giáng).
Phát phối tha bang quyền quỷ khiến,
Phản hồi cố quốc phép trời xuôi.
(Thơ Thượng Trí Thanh).
發 心
Phát: Khởi lên. Tâm: Lòng.
Phát tâm là khởi lên cái tâm niệm, tức là mở ra cái lòng thiện lương hay lòng muốn tu hành.
Như: Phát tâm đầu Phật.
Thính đắc ngã ngôn, phát tâm thiện niệm,
(Di Lạc Chơn Kinh).
發 展
Phát: Bắn ra. Triển: Mở mang.
Phát triển là mở mang cho rộng lớn thêm.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Sống giữa thế kỷ nầy một nền văn minh phát triển máy móc nếu sống mà không có trường hợp tranh đấu đặng bảo vệ sanh mạng, thì thấy cái sống của con người ta khó khăn không biết thế nào, vì lẽ khó khăn ấy, trong trường hợp tranh đấu không có đủ năng lực, nên dường như con người bị đào thải ra khỏi xã hội nhơn quần.
Đạo đức nơi lòng hằng chạm để,
Tinh thần phát triển chiếu quang minh.
(Lý Đại Tiên Giáng).
Bốn phương phát triển tinh thần,
Gội nhuần võ lộ hồng ân Cao Đài.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
罰
Phạt là trừng trị kẻ có lỗi, phạm tội, hoặc xuất tiền chuộc tội cũng gọi là phạt.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có dạy: Vậy, cái thưởng và cái phạt của Lão dùng điều đình Thánh giáo, nhiều khi chư hiền hữu, chư hiền muội không phương thấy lý đặng. Nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm bàn khùng mà mang tội thiêng liêng rất uổng, nghe!
Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
(Kinh Sám Hối).
Lỡ tay làm ra áo lộn hò,
Mà bị chúng phạt cho bận trái.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phạt: Trừng trị, bắt phải chịu một hình thức xử lý. Quỳ hương: Một hình phạt nhẹ trong tôn giáo.
Trong Đạo Cao Đài, nếu có người lầm lỗi, cấp trên có quyền phạt quỳ hương, tức là thắp hương quỳ trước Chánh Điện Đức Chí Tôn để cầu xin ăn năn sám hối.
Nếu phạt quỳ hương hay sám hối,
Tinh thần cảm nhận rất sâu xa.
(Thơ Huệ Phong).
Phạt: Trừng trị, hoặc bắt kẻ có lỗi phải chịu một hình thức xử lý nào đó. Quở: Nhận xét trực tiếp một cách nghiêm khắc lỗi của người dưới.
Phạt quở, như chữ “Quở phạt”, là mắng và phạt những người có lỗi.
Như: Thầy giáo phạt quở học sinh.
Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
(Kinh Sám Hối).
Phạt 罰: Trừng trị. Vạ: Hoạ, hại.
Phạt vạ là bắt nộp phạt vì đã làm điều trái với tục lệ hay quy ước của làng xã thời xưa.
Phạt vạ nói chung là bắt nộp phạt.
Như: Làng phạt vạ anh ấy, chủ bắt phạt vạ bằng cách cúp lương công nhân anh ấy.
Pháp bắt Phạm Môn đem ra toà xử nào phạt vạ nào tù tội, làm cho Đạo buổi nọ...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Phăng là lần để tìm ra mối. Như: Phăng lần mối chỉ, phăng tìm ra đường mòn, hỏi để phăng ra nguồn gốc.
Phăng có thể viết “Phăn” (cũ).
Thánh giáo Thầy có câu: Mối Ðạo Thầy đưa cho các con phăng đầu hết, thì các con phải biết trách nhậm các con lớn lao, cao thượng là chừng nào!
Mua danh cột buộc lằn mưa đạn,
Chác lợi là phăng mối chỉ sầu.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Phăng tâm dòm mảnh đoạn tràng,
Thì trong mấy khúc của nàng như ta.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phẳng: Bề mặt bằng, đều, không lồi lõm, nhăn nheo.
Phẳng lặng là lặng lẽ, êm ả, không xáo động.
Như: Dòng sông phẳng lặng, cuộc sống phẳng lặng cứ trôi qua.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Giữ lòng được phẳng lặng bình tĩnh để trông rõ những sự huyền diệu thiêng liêng, tức là lấy cái tâm đè nén cái khí để nuôi nấng tinh thần được cao siêu thoát tục, đó là con đường dẫn đến cơ đắc đạo.
Đạo Trời phẳng lặng im lìm,
Thấp cao nặng nhẹ, nổi chìm vốn không.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Phẳng: Bề mặt bằng, đều, không lồi lõm, nhăn nheo.
Phẳng phiu là phẳng đều cả bề mặt, nhìn thích mắt.
Như: Quần áo được ủi phẳng phiu, con đường vừa mới rải nhựa thẳng tắp, phẳng phiu.
Vô tư thõng bước chân thừa,
Phẳng phiu tuyết trắng càng ưa càng nhìn.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
品
1.- Phẩm là giá trị tốt xấu. Như: Hạ phẩm, phẩm tốt, phẩm cách, phẩm giá, người thiếu phẩm hạnh.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Nhơn phẩm nơi thế nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng.
Phẩm cách tư phong trang tuấn kiệt,
Mầng cho đất Việt trổ Thần Tiên.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
2.- Phẩm là thứ bậc trong hàng quan lại, hay trong chức sắc tôn giáo. Như: Phẩm cấp, phẩm vị, giáo phẩm.
Thánh giáo Thầy có câu dạy: Thầy khuyên các con theo sau Thầy mà đến phẩm vị mình thì hay hơn tuông bờ lướt bụi, đi quanh kiếm quất, nghe à.
Vào vòng huynh đệ khá thương nhau,
Một đức trổi hơn một phẩm cao.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đoạn căn đóng chặt Âm cung,
Toà sen chín phẩm để cùng Phật tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Phẩm là bàn định, phán đoán, khen chê, không dùng một mình.
Như: Bình phẩm trong cuộc thi đua, anh ấy bị phẩm bình cái tư cách của mình.
Thấy ai nhảy mình cũng nhảy, ai múa mình cũng múa, quý vị hãy tưởng tượng thiên hạ sẽ bình phẩm mình ra sao?
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
品 格
Phẩm: Cấp bực. Cách: Tư cách, lề lối.
Phẩm cách là phẩm chất con người, biểu hiện ở tư cách, vì tư cách thể hiện rõ giá trị con người. Như: Mất phẩm cách, phẩm cách đê tiện.
Lý Giáo Tông, trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Không nên vậy, mà cũng không làm cho trái với tôn chỉ của Đạo, mở con đường mới đây là đề phòng, tập thành đàng đạo đức vào cai quản dìu dắt mối Đạo, người có phẩm cách trong bọn cũ và cải sửa bước đường của chúng nó lại, lánh xa lốt kiêu căng, lấy thế cậy quyền mà mua lòng kẻ yếu tánh.
Ðạo đức là nền làm phẩm cách,
Mượn nhành dương tịnh lửa sôi lòng.
(Đạo Sử).
Phẩm cách tư phong trang tuấn kiệt,
Mầng cho đất Việt trổ Thần Tiên.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
Phẩm: Thứ bậc của quan hoặc chức sắc. Cũ: Do chữ “Cựu” là xưa, trước.
Phẩm cũ, như chữ “Cựu phẩm 舊 品”, tức là phẩm vị xưa nơi cõi thiêng liêng.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy lại thương con nên đã lắm phen lấy khảo trừ công cho con trở lại phẩm cũ, bởi một lời đã hứa với Quan Âm, Thầy mới nhứt định dành phần công quả ấy cho con.
Kế thế xây thêm nền đạo đức,
Xen vào phẩm cũ khá cần cù.
(Đạo Sử).
Hồn về phẩm cũ yên ngôi vị,
Danh để người sau mến nghĩa nhân.
(Thơ Hoài Tân).
Phẩm cũ: Phẩm tước trước khi đầu kiếp xuống trần. Ngôi xưa: Ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
Phẩm cũ ngôi xưa nghĩa là phẩm tước và ngôi vị nơi cõi thiêng liêng của chơn linh trước khi đầu kiếp xuống thế gian.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Căn xưa quả cũ đã trả vẹn thì con đường đạo đức tất là nấc thang dìu đến phẩm cũ ngôi xưa.
Vinh hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,
Khổ cực các con chớ bỏ trường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phẩm cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.
(Thượng Phẩm Giáng).
品 舊
Phẩm: Thứ bậc của quan, chức sắc. Cựu: Xưa cũ.
Phẩm cựu, như chữ “Cựu phẩm 舊 品”, là phẩm bực cũ nơi cõi thiêng liêng, đồng nghĩa với phẩm cũ.
Xem: Phẩm cũ.
Huống lựa là mấy anh độ rỗi toàn cả Cửu nhị Nguyên nhân, thì phẩm cựu sẽ đặng trổi thêm...
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
品 價
Phẩm: Cấp bậc. Giá: Chỉ giá trị.
Phẩm giá là giá trị trên dưới của một con người hay một sự vật.
Thánh giáo Lý Giáo Tông dạy: Hiền hữu đã lãnh trách nhiệm nặng nề giáo hoá thì khá dạy sanh chúng biết lẽ Chánh Tà mà toan độ rỗi, còn mưu chước của Quỷ quái tinh ma là mưu của Lão để phân biệt chơn giả, vàng thau, cho phẩm giá trọng khinh.
Phẩm giá người cao sa xuống thấp,
Phải coi thời thế lánh tai ương.
(Đạo Sử).
Nghìn thu phẩm giá đời bia tạc,
Vạn đại thinh danh đạo sử truyền.
(Thơ Thái Đến Thanh).
品 銜
Phẩm: Thứ bậc của quan hoặc chức sắc. Hàm: Phẩm trật trong quan chế.
Phẩm hàm là cấp bậc cùng với quan hàm của một triều thần, hay một viên chức.
Trong tôn giáo Cao Đài, phẩm hàm là thứ bậc của các phẩm chức sắc. Như: Được ban cho phẩm hàm trong chức sắc đạo Cao Đài.
Nọ binh lính Tổng làng chộn rộn,
cũng lũ ngu ăn hỗn.
Mua phẩm hàm tước hộ cầu tôn,
tiền ngàn không sợ tốn.
(Ngụ Đời).
品 行
Phẩm: Phẩm chất, tư cách. Hạnh: tính nết.
Phẩm hạnh là tư cách và tính nết, tức nói người có tính nết tốt, biểu hiện phẩm giá con người.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Phần nhiều hữu công mà chưa tận chí, không vì sanh chúng giữ phẩm hạnh hoàn toàn, cho đáng nét yêu đương của Thầy đã vì các con mà bố hoá.
Có đức của rơi còn lượm lại,
Không duyên phẩm hạnh khó nâng cao.
(Đạo Sử).
品 佛
Phẩm: Thứ bậc phẩm tước. Phật: Người xuất gia tu hành đã giác ngộ, có đức từ bi, quên mình để cứu độ chúng sinh.
Phẩm Phật là hàng phẩm bên Phật, dùng để chỉ quả vị Phật.
Thánh giáo Chí Tôn dạy: Chẳng lẽ ngôi Tiên phẩm Phật là địa vị tối trọng của các chơn linh mà Thầy lại đành bất công, tự nhiên đem các con mà để trên đó.
Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo,
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời.
(Thất Nương Giáng Bút).
品 權
Phẩm: Hạng, chỉ phẩm trật của quan lại. Quyền: Những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm.
Phẩm quyền là phẩm tước và quyền hành.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo của Lục Nương có đoạn: Em tỷ như ở cõi thiêng liêng, đời hằng biết danh hơn hết là Từ Hàng Bồ Tát, trước vẫn là Nam, sau hoá ra Nữ. Vậy Nữ với Nam vốn một phẩm quyền. Nam dường nào thì Nữ cũng đối quyền.
Nỗi trông hương hoả giữ bền,
Giúp cho chồng có phẩm quyền cao sang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
品 爵
Phẩm: Thứ bậc của quan hoặc chức sắc. Tước: Chức tước, danh vị vua phong cho người có công.
Phẩm tước là cấp bậc của chức tước, tức là những thứ bậc trong quan lại hay chức sắc do vua hay Hội Thánh phong cho những người có công lao với đẩt nước hoặc trong tôn giáo.
Phẩm tước là sự tổng hợp các chức tước đã bày ra để quyến rũ người hoặc ít hoặc nhiều.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
品 聖
Phẩm: Thứ bậc của quan hoặc chức sắc. Thánh: Tiếng dùng để tôn xưng, hoặc bậc Thánh.
Phẩm Thánh chỉ phẩm vị thiêng liêng, hoặc chỉ phẩm tước của bậc Thánh.
Cửa Đạo chị dầu chưa phẩm Thánh,
Trường công hồn đã rạng ngôi Thần.
(Thơ Vạn Năng).
Phẩm: Thứ bậc của quan hoặc chức sắc. Thiêng Liêng: Chỉ cõi Thiêng Liêng.
Phẩm Thiêng Liêng còn gọi “Thiên tước 天 爵”, là phẩm tước nơi cõi Thiêng Liêng, đó cũng là ngôi vị của người tu hành.
Cái phẩm Thiêng Liêng so phẩm tục,
Cũng như vàng thiệt với đồ xi.
(Đạo Sử).
品 秩
Phẩm: Thứ bậc của quan hoặc chức sắc. Trật: Trật tự, thứ tự.
Phẩm trật là thứ bậc của phẩm tước, tức là thứ bậc cao thấp của các quan hoặc chức sắc tôn giáo.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị.
Thầy cậy mượn ai không lòng vụ tất,
Mà làm công đoạt phẩm trật mình.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
品 物
Phẩm: Nhiều thứ. Vật: Đồ vật.
Phẩm vật là các thứ đồ vật.
Trong Giảng Đạo Yếu Ngôn, Nguyễn Văn Kinh có viết: Phẩm vật nơi Thiên-Bàn thường có một ngọn đèn chong ở giữa, đó là Thái Cực đăng, nhứt điểm huệ đăng bất diệt, thể trên Trời là mặt Nhựt, thể dưới đất là Lửa, thể nơi người là Tánh, thể nơi Đạo là Huyền Quang nhứt khiếu; chỉ nơi Trời ở giữa gọi sao Thiên Xu (Bắc-Đẩu), chỉ nơi đất ở giữa gọi là Tu Di-Sơn, chỉ nơi người ở giữa gọi Linh Quang nhứt điểm.
Ðời sống đến giai đoạn khó khăn hơn nữa, những phẩm vật nuôi sống loài người càng giảm bớt thì nhân loại còn quyết liệt chiến đấu hơn nữa.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
品 位
Phẩm: Thứ bậc của quan hoặc chức sắc. Vị: Địa vị, ngôi vị.
Phẩm vị là phẩm tước và địa vị.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Phẩm vị Tiên, Phật để thưởng cho kẻ lành mới đáng phẩm vị, chớ chẳng phải của để treo tham cho thế gian phòng toan đạt đặng.
Mau miệng khuyên rằng đừng quá lễ,
Hễ cao phẩm vị giữ cao nghi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Cầu nguyện chơn linh thăng phẩm vị,
Thung dung Cực Lạc hưởng ân Thiên.
(Thơ Thái Đến Thanh).
1.- Phân là chất cặn bã do người hoặc loài vật bài tiết ra, dùng để bón vào đất để dinh dưỡng cây trồng.
Như: Phân bắc, độn rơm mục vào phân bò, ủ phân gà với phân hoá học.
Phân mắc rẻ lòng đừng sợ tốn,
Bỏ cho nhiều ruộng trộn cho đều.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Phân 分 là chia ra, tách ra thành phần riêng biệt, từ một chỉnh thể. Như: Thành phố phân ra nhiều khu, con sông phân ra hai tỉnh.
Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Cả môn đệ Thầy duy có biết một chớ không biết hai. Kẻ nào cưu tâm chia phe phân phái là đứa thù nghịch của Thầy.
Cũng con cũng cái đồng môn đệ,
Bụng muốn phân chia, hỏi bởi ai?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hễ đặng bữa cày, buông bữa giỗ,
Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Phân 分 là bày tỏ, tách bạch, cãi, giải thích việc đúng sai, phải trái.
Như: Phân giải, việc đã qua rồi phân trần làm gì, đừng có phân bua nữa.
Thầy phân chánh lý cho con hiểu,
Kẻ vụ thâu đa chẳng thoát phàm.
(Đạo Sử).
Trước có căn duyên ở ngọc cung,
Cầu con nên phải đến phân cùng.
(Thiên Hậu Giáng Bút).
4.- Phân 分 do nghĩa chữ “Phân biệt” nói tắt. Như: Không phân phải trái, chưa phân thắng bại.
Thánh giáo Thầy có câu: Thơ, con phải khai rộng Thánh Thất cho chúng sanh cầu đạo, đừng phân sang hèn, ai ai đều cũng con Thầy.
Vạn sự nên hư vốn tại mình,
Chẳng phân lẽ trọng với lời khinh.
(Đạo Sử).
Đừng phân tình cha ghét mẹ thương,
Nếu cha mẹ ghét tiêu xương ra cát đất.
(Phương Tu Đại Đạo).
分 袍
Phân: Chia. Bào: Cái áo.
Phân bào nghĩa là chia vạt áo, ý nói khi từ giã nhau mỗi người chia cách mỗi nơi.
Phân bào kẻ ở người đi,
Nhớ nhau kỷ niệm nên ghi vào lòng.
(Thơ Thiên Vân).
Phân: Tỏ bày. Bì: Tính toán hơn thua chi ly với nhau.
Phân bì là so sánh có ý ganh tỵ.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Trí Huệ Cung bên Phạm Môn tạo tác đây là nhà tu của nữ phái, giờ phút này Bần Đạo mới nói thiệt tại sao làm nhà tu cho Phái Nữ trước. Đáng lẽ Bần Đạo phải làm cho Phái Nam trước trên Sơn Đình mới phải chớ. Nhưng, nếu Bần Đạo làm cho Phái Nam trước rồi họ sẽ bỏ Phái Nữ không làm. Bần Đạo làm cho Phái Nữ trước đặng họ phân bì, dầu Bần Đạo có quy thì họ cũng cố tâm làm cho nên việc.
Của cải đầy đồng không biết hết,
Cứ ngồi xó ró kiếm phân bì.
(Đạo Sử).
分 辨
Phân: Bày tỏ tách bạch. Biện: Tranh luận điều phải trái, xem xét cho rõ.
Phân biện là chia riêng ra mà xem xét mà bàn luận cho rõ ràng.
Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có dạy: Chư vị Chức sắc Thiên phong xin nghe Bần Đạo phân biện phận sự trọng yếu khó khăn của Bần Đạo hầu sống với chức trách của mỗi người, may ra cũng hiểu riêng phận mình, hầu làm cho thêm danh giá cao trọng của Hội Thánh, tức là của Đạo vậy.
Phải phân biện sao hư sao phải,
Gương tích xưa để lại kiếm cho coi.
(Phương Tu Đại Đạo).
分 別
Phân: Chia ra, tách ra. Biệt: Rời, lìa.
Phân biệt là chia khác nhau ra.
Phân biệt là nhận biết được sự khác nhau căn cứ vào đặc điểm tính chất. Phân biệt coi là khác nhau để có sự đối xử không như nhau.
Thánh giáo Thầy có dạy: Các con đủ hiểu rằng, phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối. Nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt.
Mê tỉnh chuông khua phân biệt tiếng,
Rừng thiền nô nức loán mùi hương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phải phân biệt hay hay, dở dở,
Đặng toan phương thế đỡ nâng người.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phân: Chia ra. Chia: Làm thành từng phần, từ một chỉnh thể.
1.- Phân chia là từ một chỉnh thể (gốc) mà chia ra thành nhiều phần, nhiều phái, nhiều chi.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Mỗi đứa đã tự mở một con đường, thì Thầy vẫn không vui được trong sự phân chia. Nên hay là hư, phải hay là quấy, Thầy chỉn để cho tâm các con liệu lấy.
Có hiệp đem đường nẻo mới thông,
Phân chia cội Ðạo uổng vun trồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phân chia còn có nghĩa là làm cho hai bên chia tay, xa cách nhau.
Như: Phân chia vợ chồng người là có tội, gây phân chia anh em ruột thịt.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
(Kinh Sám Hối).
分 定
Phân: Chia ra. Định: Xếp đặt.
Phân định là chia ra để xếp đặt, tức là định riêng từng công việc.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, lời thề của hai vị Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt như sau: Thề Hoàng Thiên Hậu Thổ trước bửu pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên đạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là môn đệ của Cao Ðài Ngọc Ðế, nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo, như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt.
Luật Trời phân định hai đàng,
Dữ răn lành thưởng rõ ràng không sai.
(Thơ Thông Quang).
分 同
Phân: Chia ra. Đồng: Đồng đều, bằng nhau.
Phân đồng là phân chia đồng đều, tức chia ra những phần bằng nhau.
Như: Tài sản phân đồng cho hai con.
Công với quả phân đồng tiền kiếp,
Đạo ấy nguồn ráng hiệp tinh anh.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
分 解
Phân: Chia ra. Giải: Phân tách, trình bày cho rõ.
Phân giải là giải thích cho thấy rõ đúng sai, phải trái, lợi hại của vấn đề.
Phân giải còn có nghĩa là trình bày rõ từng phần cho sáng tỏ của vấn đề.
Thánh giáo Đức Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn dạy: Thầy tìm phương sửa cải cũng đáng đó chút. Nhưng cũng bởi chư Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho rõ cơ Ðạo của thế gian nầy, nên Thầy không giáng cơ mà phân giải lại nữa.
Về đường đời bổn đạo có xích mích nhau, cũng phải đến cho người làm đầu trong Họ phân giải.
(Tân Luật).
分 明
Phân: Chia ra. Minh: Rõ rệt.
Phân minh là chia ra từng phần nhỏ một cách rõ ràng, rành mạch.
Tiết Hiếu Từ Tiên Sinh có câu: Tài thượng phân minh thị trượng phu 財 上 分 明 是 丈 夫, nghĩa là trên việc tiền bạc phải rành rẽ phân minh ấy là kẻ trượng phu.
Đức Lý Giáo Tông có dạy: Nếu Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh là có ý muốn giá trị của chư hiền hữu thêm cao trọng nữa.
Trên Điện Ngọc Vua Trời ngự giáng,
Trước Đền vàng phán đoán phân minh.
(Xưng Tụng Công Đức).
Ðâu là phước tội phải phân minh,
Biết tội phước kia phải xét mình.
(Đạo Sử).
Ðưa khách thuyền Tiên ngừa trước ngõ,
Phân minh tội phước khá nên dành.
(Đạo Sử).
分 發
Phân: Chia ra. Phát: Cấp cho.
Phân phát là chia phát cho nhiều người, hoặc chia ra từng phần rồi phát cho nhiều người, nhiều nơi.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Cái sống của cả chúng sanh, Thầy phân phát khắp Càn khôn Thế giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hoá ra thêm.
Nắm chặt quyền phân phát cơm áo thì chưa ai đã chịu thọ sanh nơi thế nầy lánh khỏi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Phân: Chia ra, tỏ bày sự việc. Phiền: Buồn bực.
Phân phiền là bày tỏ sự buồn phiền.
Hộ Pháp có để lời phân phiền cùng Thầy...
(Pháp Chánh Truyền CG).
分 權
Phân: Chia. Quyền: Quyền hành, cái thế lực có thể định đoạt được mọi công việc.
Phân quyền là phân chia quyền hành, chứ không tập trung. Phân quyền còn có thể hiểu chia quyền hành ra cho rõ ràng để khi làm việc không đẫm chân nhau.
Đức Lý Giáo Tông có dạy: Vậy thì Hộ Pháp và cả Hiệp Thiên Đài hiệp công cùng Lão mà Thánh giáo của Thầy, đừng phân quyền sanh rối loạn nữa nghe.
Chánh Phối Sư Nữ Phái, hành chánh về nữ, Nam Nữ phân quyền.
(Bát Đạo Nghị Định).
Phân: Tỏ bày. Rành: Rành rẽ, rõ ràng.
Phân rành là tỏ bày rõ ràng, tức là giải thích một cách cặn kẽ, phân minh.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Lý có dạy: Lão muốn cho hiền hữu phải chịu nhọc mà phân rành về việc ấy cho chư đạo hữu. Lão để ý nghe!
Phép thọ khổ thiệt là rất khó,
Đấng thiêng liêng chỉ rõ phân rành.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
Phân 分: Chia ra. Rẽ: Chia hai ra, tách đôi ra.
Phân rẽ, như chữ “Chia rẽ”, là làm cho phải xa nhau, mỗi người một nơi, cách biệt hẳn.
Phân rẽ còn có nghĩa là làm cho mâu thuẫn với nhau, mất sự thống nhất, đoàn kết nhất trí.
Nhớ thuở sum vầy tâm hiệp một,
Trông chừ phân rẽ trí chia hai.
(Thơ Thông quang).
Hay “Phân tính giáng sinh”.
Phân: Chia ra. Tính (Tánh): Một thực thể sẵn có nơi mọi chúng sinh. Giáng sinh (Sanh): Sanh xuống cõi trần làm người.
Phân tánh giáng sanh, như chữ “Phân tính giáng sinh 分 性 降 生”, là chia hay chiết cái thể tánh của các Đấng Thiêng liêng để giáng xuống cõi trần, hay nói một cách khác là giáng chơn linh xuống đầu thai nơi cõi trần.
Đối với các Đấng Phật Tiên, tánh là một thể Thiêng liêng, nên gọi là Thiên tánh hay Phật tánh. Tánh là thể tự nhiên sẵn có, vốn rộng lớn trong sáng, tràn đầy lòng thương yêu (từ bi), và sự hiểu biết chân thật (Trí huệ). Thể tánh của chúng sanh cũng đồng với Phật Tiên, nhưng vì chúng sanh bị vô minh, mê mờ nên không thấy được tánh.
Kinh Pháp Hoa có câu: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh 一 切 眾 生 皆 有 佛 性”. Vì thế Phật giáo cho rằng: Phật là chúng sanh đã được giác ngộ, còn chúng sanh là Phật chưa giác ngộ, hay nói cách khác, chúng sanh là Phật sẽ thành. Còn Thánh giáo Cao Đài cũng dạy rằng: “Thầy là các con, các con là Thầy”.
Tánh của các bậc Đại giác tức là bản lai tự tánh, cũng là cái bản lai diện mục. Nói khác đi là cái Linh quang hay Chơn linh.
Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm, gọi là Chúng sanh
Nhị ngoạt thập ngũ,
Phân tánh giáng sanh.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
分 心
Phân: Chia ra. Tâm: Cái tâm, lòng dạ.
Phân tâm là cái tâm bị chia cắt, vì lo nghĩ nhiều việc cùng một lúc, nên không thể tạp trung được.
Phân tâm còn có thể hiểu không cùng một tâm ý.
Thánh giáo Đức Hộ Pháp dạy: Qua thương các em bao nhiêu thì nơi Ngọc Hư Cung lại buộc tội các em bấy nhiêu. Qua rất đau khổ vì sự ly tán phân tâm chia rẽ của các em mà ra nông nỗi.
Phân tâm hay Phân tâm học còn là một môn học nghiên cứu phương pháp phân tích tâm lý để tìm nguyên nhân những kỷ niệm, những ước muốn, hình ảnh lắng dồn trong tiềm thức có thể làm cho sinh ra những bấn loạn tâm thần hoặc sinh lý. Chỉ khi nào được đưa trở về ý thức thì những bấn loạn ấy mới tiêu tan.
Chia rẽ phân tâm thành bạc nhược,
Hiệp hoà chung trí thắng can qua.
(Giáo Lý).
分 詳
Phân: Chia ra, tách ra thành các phần riêng biệt. Tường: Hiểu rõ.
Phân tường là phân giải, bày tỏ tỏ cho rõ biết. Như: Phân tường mọi lẽ thiệt hơn.
Trong tám tiếng phân tường giai cấp,
Giọng Cung Thương cao thấp tuỳ nhau.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Bút Bần Đạo ngưng khoan viết nữa,
Đặng phân tường có chửa dạy con.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phân: Chia ra. Thây: Xác thân của người đã chết.
Phân thây là phân chia thi thể thành nhiều phần, nhiều mảnh.
Trong luật hình ngày xưa, có án xử phạm nhơn chịu tội phân thây.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.
(Kinh Sám Hối).
分 身
Phân: Chia, chia ra. Thân: Hình thể.
1.- Phân thân là chia thân hình ra làm hai, ý muốn nói một con người đâu thể làm hai việc cùng một lúc.
Như: Không thể phân thân để làm hai công việc.
Hễ đặng bữa cày, buông bữa giỗ,
Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phân thân có dùng để chỉ pháp thuật biến một người thành hai thân hoặc nhiều thân.
Phép phân thân là một pháp thuật thần thông có thể chia thân thể của mình để hiện diện trong nhiều nơi cùng một lúc. Bởi chư Phật Tiên dìu dắt và cứu giúp chúng sinh trong khắp mười phương thế giới, nên phải dùng phép phân thân để hiện ra khắp mọi nơi.
Buồn vì chưa đạt phép thần thông,
Dụng thế phân thân hiệp đại đồng.
(Thơ Hộ Pháp).
分 陳
Phân: Chia ra. Trần: Bày ra, bày tỏ.
Phân trần là chia ra từng điều, từng khoản, theo từng thứ mà tỏ bày, ý muốn nói bày tỏ cặn kẽ để người khác hiểu và thông cảm với mình.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Nay vì đã gần liễu kết, dầu cho còn xảy ra tai nạn cho nhơn sanh chút ít chẳng hại gì, nên Lão đến phân trần đôi điều hơn thiệt.
Trong trần thế phân chi xấu tốt,
Tốt xấu cùng chú dốt khó phân trần.
(Phương Tu Đại Đạo).
分 憂
Phân: Chia ra. Ưu: Lo lắng.
Phân ưu là tỏ lời chia buồn với tang gia hiếu quyến của người chết.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy về lễ tang của hàng Thánh Tử Đạo có đoạn: Hàng phẩm Thánh Tử Đạo không phân Chức sắc, vì có phần trọng hơn, nghĩa là phẩm nào cũng được cả. Lão ban ơn cho toàn thể chư vị Chức sắc và toàn đạo và cũng tỏ lời phân ưu cùng Hội Thánh và tang gia.
Văn đàn ghi nhớ ơn dìu dắt,
Toàn Đạo phân ưu dạ cảm hoài.
(Thơ Mai Ngọc Nhiễu).
紛 紜
Phân: Bối rối. Vân: Rối loạn.
Phân vân là chần chờ, bối rối, tức là nghi ngờ sự việc mà không thể quyết định.
Thánh giáo Thầy dạy: Xưa đã lắm phen nhơn sanh phải khổ tâm hy sinh vì nền Ðạo, nhưng mà tàn lối ngưỡng trông rồi thì phân vân dời đổi, tang biến thương dồn, rốt cuộc lại mối thân ái của sanh linh chưa vầy hiệp đặng.
Ðòi lúc phân vân đời vẫn thế,
Màng chi miệng độc để chê khen.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cuộc sống với đời còn bận bịu,
Tấm lòng vì Đạo chẳng phân vân.
(Thơ Hoài Tân).
分 處
Phân: Chia ra, tỏ bày tách bạch. Xử: Quyết đoán.
Phân xử là phân rõ phải trái để quyết định một vụ xích mích hay tranh chấp.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Chức sắc đặng ngồi ngai riêng của mỗi đứa là lúc nào có hội Toà Tam Giáo phân xử các Đạo hữu của chúng nó mà thôi.
Kỳ dư xảy ra với các cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo, thì buộc phải giải ra Toà Đạo phân xử.
(Đạo Luật Mậu Dần).
1.- Phấn 粉 là thứ bột rất nhỏ và mịn, dùng làm trang sức cho phụ nữ.
Như: Phấn thơm, phấn hồng giồi mặt, môi son má phấn, da trắng nhờ thoa phấn.
Phấn trước đã phai tình nghĩa trước,
Hương sau còn phất đức tài sau.
(Bát Nương Giáng Bút).
Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Phấn 奮 là dậy lên, hăng lên.
Như: Phấn đấu, phấn khởi, làm ăn ngày càng phấn phát, lòng thấy phấn chấn.
Siêng cần dầu phải dãi dầu,
Phấn tâm lập chí mới hầu nên thân.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
奮 震
Phấn: Gắng sức làm việc. Chấn: Rung động.
Phấn chấn là lòng hăng hái, lòng phấn phát.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy vì đó mà cải dẫn bước đường của các con, não phiền thành vui vẻ, đường gai góc hoá ra nẻo êm đềm, lo lắng phải ra tươi cười, mỏi mòn thành phấn chấn.
Buổi đến chung năm lòng phấn chấn,
Khi về riêng một dạ bồi hồi.
(Thơ Thuần Đức).
奮 志
Phấn: Gắng sức. Chí: Ý chí, chí khí.
Phấn chí là phấn phát ý chí hay chí khí để tiến lên, tức là nổi dậy lòng hăng hái, phấn khởi.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Thầy khuyên các con phải chung lưng đâu cật mà bước đến cảnh nhàn. Cảnh ấy, tuy các con không thể thấy đặng, nhưng mà các con có thể đến đặng, là ngày nào các con rõ đặng lẽ Ðạo mà Thầy đã đem chỉ cho tận nơi, nếu các con phấn chí về Ðạo thì ngày đạt mục đích ấy cũng chẳng xa chi.
Rèn lòng giữ chặt tròn năm nối,
Phấn chí vẫy vùng khắp bốn phang.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Vui lòng kẻ ở miền Nam bộ,
Phấn chí người đi xứ Bắc tông.
(Thơ Thông Quang).
粉 黛
Phấn: Một loại bột dùng thoa mặt. Đại: Chất đen làm bằng vỏ ốc, đàn bà dùng để kẻ lông mày.
Phấn đại, cùng nghĩa với chữ “Son phấn”, chỉ vật trang điểm của phụ nữ.
Thành ngữ Hán Việt có câu: “Phấn bạch đại lục”, nghĩa là phấn trắng mực xanh, là thứ trang sức của đàn bà con gái dùng để đánh mặt, vẽ lông mày.
Phấn đại, nghĩa bóng: Chỉ người đàn bà con gái.
Ấm lạnh dốc tròn gương phấn đại,
Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn huyên.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
奮 鬥
Phấn: Gắng sức. Đấu: Tranh đua.
Phấn đấu là hết sức tranh nhau hơn thua.
Phấn đấu còn có nghĩa là cố gắng và bền lòng, để quyết tâm đạt cho được mục đích.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Ðối với một sắc dân nào còn lạc hậu thì không khi nào định quyền năng được, để tự trong tâm lý họ biến ra mà thôi, họ phấn đấu tương tàn tiêu diệt với nhau mà chớ.
Trên đường đời gió bụi, con người phải phấn đấu gay go để làm xong nghĩa vụ đối với gia đình và xã hội.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
粉 香
Phấn: Phấn thoa mặt. Hương: Mùi thơm.
1.- Phấn hương là phấn và hương thơm, dùng để chỉ vật trang sức của phụ nữ.
Phấn hương còn dùng để chỉ thân phận của người đàn bà con gái.
Nghĩ con chút phận phấn hương,
Dám đâu ra chốn công đường to gan.
(Thơ NĐS Hương Thanh).
2.- Phấn hương, như chữ “Hương phấn 香 粉”, là son phấn, những thứ đồ vật trang điểm của phụ nữ.
Phấn hương còn dùng với nghĩa “Buôn phấn bán hương”, tức là chỉ gái làng chơi.
Lánh buồn lại lạc lối bi,
Rẻ duyên kim cải, đem bì phấn hương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
奮 起
Phấn: Ra sức mạnh mẽ. Khởi: Dậy.
Phấn khởi là nổi dậy một cách mạnh mẽ. Phấn khởi còn nghĩa lòng phấn chấn.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Năm Đinh Dậu hầu mãn, Xuân Mậu Tuất sắp đến, ngày tháng như thoi đưa, không mấy hôm nữa chúng ta sẽ bước qua mùa xuân vui tươi đẹp đẽ, để cho đời và Đạo phấn khởi trên đường tiến triển về hình thức lẫn tinh thần.
Đã ghe phen phấn khởi can qua,
Thuộc địa trách ai nhượng nghiệp nhà.
(Lê Văn Duyệt Giáng).
Trông cảnh sắc thi nhân phấn khởi,
Móc ruột gan ca ngợi thiên nhiên.
(Thơ Hàn Sinh).
Phấn hương: Vật trang sức, dùng để chỉ sắc đẹp của người phụ nữ. Lợt tàn: Cũng như lợt phai hay tàn phai, chỉ sự xuống cấp của nhan sắc.
Phấn lợt hương tàn là nói nhan sắc tàn phai.
Chừng cơn phấn lợt hương tàn,
Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phấn: Một loại bột mịn dùng để thoa da mặt cho đẹp. Sáp: Một chất mềm, dẽo dùng để trang điểm mặt.
Phấn sáp là hai thứ chất dùng để trang điểm cho phụ nữ. Nghĩa bóng làm đẹp, tô điểm.
Bỏ quách tám nghề duyên phấn sáp,
Giữ tròn năm giới thú rau tương.
(Thơ Thuần Đức).
Phấn: Bột trắng mịn, dùng để thoa mặt. Son: Sáp dùng để thoa môi.
Phấn son là vật trang điểm của phụ nữ: Phấn dùng để dặm mặt, son dùng để thoa môi, chỉ vật trang điểm.
Nghĩa bóng: Phấn son chỉ người đàn bà con gái.
Xưa từng làm tướng cầm quân,
Nay quen với khách hồng quần phấn son.
(Lục Nương Giáng Bút).
Thương gìn lúc ốm khi đau,
Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hễ thấy họ phấn son thơ thới,
Mình lại dâng cho tới dầu thơm.
(Phương Tu Đại Đạo).
奮 心
Phấn: Gắng sức. Tâm: Lòng.
Phấn tâm là lòng phấn khởi, hăng hái.
Đạo Luật Năm Mậu Dần có câu: làm thế nào cho Chúng sanh đặng kết chặt dải đồng tâm, tương thân hoà ái cùng nhau, hầu nâng đỡ cho nhau đặng phấn tâm lo Đạo, chẳng để sót một ai phải bất bình vì một việc chi mà phải khổ tâm thối bước...
Phấn tâm bách thế tu Nhơn đạo,
Tửu hạnh tuỳ phương đắc Hớn thi.
(Đạo Sử).
Siêng cần dầu phải dãi dầu,
Phấn tâm lập chí mới hầu nên thân.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
1.- Phần 分 là số trong toàn thể chia ra. Như: Bài văn chia làm ba phần, bệnh mười phần bớt bảy, một phần người, phần nhiều.
Thánh giáo Đức Thích Ca Mâu Ni có câu dạy: Chúng sanh là toàn cả nhơn loại chớ không phải lựa chọn một phần người, như ý phàm tục các con tính rỗi.
Chánh tà đôi nẻo tua tầm chước,
Hư thiệt muôn phần gắng định phương.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phần 分 là nói cái gì thuộc về một người nào. Như: Lỗi ấy về phần anh phải chịu, phần thưởng của nó.
Dạy về cơ bút, Thánh giáo Thầy có câu: Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho thần con bất định một lát, cho thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết. Ấy là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt, mới thấu đáo Càn khôn, tinh thông vạn vật đặng.
Mạnh yếu rồi đây yếu được phần,
Ðược phần máy Tạo khéo cầm cân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mưu được phần mình thì tổn đức,
Của tiền dầu chất há an vui?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Phần, do chữ “Phận 分”, chỉ số phận, thân phận, hay số mạng.
Như: Số phần anh ta đã hết, tuỳ phước phần của cô ấy, thiếu duyên phần khó gặp đạo.
Tranh đua đã quá nửa đời người,
Thử hỏi phước phần được mấy mươi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phần: Số trong toàn thể chia ra. Đông: Nhiều người, số đông, đa số.
Phần đông là số lượng không xác định, nhưng rõ ràng là đa số trong một tập hợp người.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Thời nay, quý vị thử nhìn quanh sân khấu đời coi những nhân vật hoạt động chính trị có bao nhiêu người vì nước, vì dân, biết lo quốc kế dân sinh, mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào. Hay là phần đông chỉ là những kẻ tay sai cho thế lực kim tiền?
Con đã thấy và hiểu những điều mà phần đông đồng bào của con đang tìm hiểu.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
焚 香
Phần: Đốt cháy. Hương: Nhang.
Phần hương là đốt nhang để cúng Trời Phật.
Phần hương cũng là một câu xướng trong nghi tiết cúng lễ. Khi lễ sĩ xướng “Phần hương” thì người quỳ ở ngoại nghi đốt nhang, trầm rồi trao lại cho cắp Lễ Sĩ điện lên nội nghi.
Phần hương.
(Nghi Tiết Cúng Lễ).
Phần: Số trong toàn thể chia ra. Lớn: To, nhiều.
Phần lớn là số lượng không xác định, nhưng rõ ràng là một số lớn trong tổng số.
Trong quyển Giáo Lý Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Vậy chúng sanh sở dĩ siêu hay đoạ là tại Chơn thần một phần lớn.
Vì cớ nên Công Giáo làm chủ tinh thần một phần lớn nhơn loại là đáng lắm vậy.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Phần: Số trong toàn thể chia ra. Nhiều: Đông, lắm, trái với ít.
Phần nhiều, như chữ “Phần lớn”, ý chỉ số nhiều, số đông, hay đại đa số.
Thánh giáo Thầy có câu dạy: Hại thay! Lũ quỷ là phần nhiều. Nó bày bố ra mỗi nơi một giả cuộc mà dỗ dành các con.
Rủi để bước cửa công là khó,
Phần nhiều xem dễ khó tại nơi bà.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phần: Số phận, số mạng. Phước (phúc): Điều may mắn tốt lành.
Phần phước, như chữ “Phước phần 福 分”, số phận và phước đức, tức là phần số của mỗi người do phước đức định đoạt.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hễ mình học, dầu giỏi hay dở mà tới ngày thi, tức nhiên là ngày điểm bài vở của chúng ta, dầu cho biết chắc mình đủ tài khoa mục, có đủ phần phước đậu đặng, nhưng bây giờ cũng lo ngại hồi hộp mà thôi.
Cân công quả sẽ vì phần phước mà định buổi chung quy cho mỗi đứa.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Hay “Phần thư khanh Nho”.
Phần thi (thư): Đốt sách. Khanh Nho: Chôn sống các học trò học chữ Nho.
Phần thi khanh Nho, như chữ “Phần thư khanh Nho 焚 書 坑 儒”, là đốt sách chôn Nho sĩ.
Thời nhà Tần, các Nho sĩ thường kích bác chính sách nhà Tần, và muốn thống nhứt tư tưởng, nên vua Tần Thuỷ Hoàng ra lịnh chôn sống và đốt sách các Nho sĩ, vì vậy lịch sử thường gọi là “phần thư khanh nho 焚 書 坑 儒”.
Ðến đổi nhà Tần tàn bạo không xiết kể, phần thi khanh Nho mà Ðạo Nho cũng loan truyền khắp hoàn cầu.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
焚 書
Phần: Đốt. Thư: Sách.
Phần thư là đốt sách.
Do tích: Muốn thống nhứt tư tưởng nhà Tần theo lời đề nghị của Thừa Tướng Lý Tư, nhân các Nho sĩ thường kích bác chính sách nhà Tần, nên vua Tần Thuỷ Hoàng ra lịnh thu thập hết sách vở của bách gia chư tử truyền cho đốt sạch tất cả, người đương thời gọi là “Phần thư”.
Nếu một mai thời cuộc lại biến thiên, có thể các cuộc “Phần Thư” lại diễn...
(Lời Trần Thuyết).
Phần: Cái gì thuộc về một người nào. Thưởng: Cho tiền của, chức tước đối với người có công.
Phần thưởng là vật tặng để thưởng người có công lao, hay thành tích. Như: Phát phần thưởng cho học sinh.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Sự thác cũng có khi vui mà cũng có lúc buồn. Người thế nếu biết sống, nghĩa là biết dụng mình cho có ích vào xã hội, biết dưỡng tánh tu thân, thì sự thác chẳng qua là sự mong mỏi của kẻ hành trình đã xong trách nhậm, trở về phục sự đặng lãnh phần thưởng xứng đáng mà thôi.
Cuộc danh lợi là phần thưởng quý,
Đấng Hoá Công xét kỹ ban ơn.
(Kinh Sám Hối).
Từ bi bác ái trăm phần thưởng,
Chánh trực công bình vạn sự an.
(Thơ Thái Đến Thanh).
糞
Phẩn là phân của người hoặc các loài động vật.
Như: Phẩn người, phẩn lỏng của gia súc, thị tiền tài như phẩn thổ.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,
Xô người vào, lội lặn nhờm thay!
(Kinh Sám Hối).
Rước thầy chữa bịnh thung đường,
Nếm phẩn thấy ngọt thế thường bịnh nguy.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
憤 鬱
Phẫn: Bực tức. Uất: Bí, tức.
Phẫn uất là căm giận và uất ức đến cao độ.
Như: Phẫn uất trước hành động phản bội, hắn gào thét lên vì phẫn uất.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Sống trong cảnh bất đồng biểu sao họ không phẫn uất, không thù hận kiếp sanh, trong kiếp sanh ấy họ thù hận mà không biết ai đặng trả cái thù hận ấy.
Điều đụng chạm xem thường pháp luật,
Việc đau thương phẫn uất trong lòng.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
憤 怒
Phẫn: Bực tức. Nộ: Giận.
Phẫn nộ là căm giận đến mức có những biểu hiện mạnh mẽ, không kềm giữ được.
Như: Phẫn nộ trước những hành động thiếu đạo đức.
Qua yêu cầu đừng để cho Đức Chí Tôn buồn lòng và Lý Đại Tiên phẫn nộ.
(Thánh Giáo Quyền Giáo Tông).
1.- Phận 分 là phần riêng thuộc về chỗ nào, hoặc người nào. Như: Địa phận, bổn phận, chức phận.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy. Phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe! Các con giữ phận làm tuỳ ý Thầy muốn, ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.
Mày râu đã đủ phận cùng người,
Biết Ðạo thì con chớ dể ngươi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chữ hiếu phải lo vẹn phận người,
Sanh thành đạo trọng há đâu chơi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phận 分 do chữ “Thân phận” nói tắt, chỉ về số hệ, số mạng. Như: Phận bạc, phận nghèo, phận hèn, tủi phận.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Bị hàng phẩm Nhơn tước phải phù hạp với hàng phẩm Thiên tước, đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con chịu số phận bần hàn mà không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy.
Mình dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.
(Đạo Sử).
Ðong đầy đức cả hoá kho vàng,
Ðừng thấy phận nghèo chiếp miệng than.
(Đạo Sử).
Phận: Số phần. Bạc: Mỏng.
Phận bạc, bởi chữ “Bạc phận 薄 分”, là số phận mỏng manh, tức số phần gặp những điều khổ sở, vất vả, không được may mắn.
Bạc là mỏng, nhưng trong văn chương người ta lại thường ví chữ bạc là màu trắng nên nói: Bạc như vôi.
Âm Dương cách bóng sớm trưa,
Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.
(Kinh Thế Đạo).
Quý sang mặc kẻ võng dù riêng,
Phận bạc lo cho hết kiếp khiên.
(Đạo Sử).
Phận sao phận bạc như vôi,
Nước lưng đáy gáo, hương trôi dòng là.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phận: Địa phận, một vùng đất. Đạo: Tôn giáo.
Phận Đạo là một phạm vi hành chánh của đạo Cao Đài ở Châu Thành Thánh Địa, thuộc Toà Thánh Tây Ninh. Tất cả các Phận Đạo về hành chánh đều trực thuộc Khâm Thành Thánh Địa.
Phận Đạo do một vị Lễ Sanh cầm quyền hành chánh, gọi là Đầu Phận Đạo.
Trong đạo Cao Đài nền tảng hành chánh Đạo ở nơi Ấp và Hương đạo, rồi kế đến Tộc đạo hay Phận đạo.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
分 柳
Phận: Số phần. Liễu: Loại cây yếu đuối mỏng mành, thường ví với người phụ nữ.
Phận liễu là số phận yếu đuối, mỏng mành của người đàn bà con gái.
Đố ai chen lấn đặng phần,
Liễu theo phận liễu lỡ làng vì ai.
(Ngũ Nương Giáng Bút).
Phận liễu trao về trang mặc khách,
Nhà lan cười đón nét thanh tân.
(Thơ Hàn Sinh).
Phận: Số phần. Liễu bồ: Cây liễu và cỏ bồ, hai loại cây yếu đuối và mỏng mành, thường ví với người phụ nữ mềm yếu.
Phận liễu bồ, như chữ “Phận liễu 分 柳”, dùng để chỉ số phận người con gái yếu đuối.
Xem: Phận liễu.
Hễ người mạnh thì hay cậy sức,
Phận liễu bồ lấy lực mưu mô.
(Phương Tu Đại Đạo).
Giềng mối giữ an phận liễu bồ,
Dặm ngàn xa phải chịu thân cô.
(Thơ Huệ Giác).
Phận: Số phần. Liễu mai: Cây liễu và cây mai, hai loài cây mỏng mành, dùng để chỉ đàn bà con gái.
Phận liễu mai, như chữ “Phận liễu 分 柳”, là thân phận của người phụ nữ yếu đuối.
Xem: Phận liễu.
Phận liễu mai phải mang kiếp hồng trần,
Thầy lắm lúc bâng khuâng thương trẻ dại.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Phận: Phần chịu nhận lấy. Nga my 蛾 眉: Lông mài phụ nữ đẹp giống như con ngài tằm, chỉ người phụ nữ.
Phận nga my là nói phận sự của người đàn bà, con gái đẹp.
Trau dồi cho xứng phận nga my,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
分 事
Phận: Phần phải nhận lấy. Sự: Việc.
Phận sự là công việc nằm trong phần của mình, tức thuộc trách nhiệm của mình.
Thánh Ngôn Thầy có dạy: Phải thường hỏi lấy mình, khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa, mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng?
Đặng xong phận sự mọi bề,
Tâm tu lại vững chẳng hề lãng xao.
(Kinh Thế Đạo).
Lãnh chức Lễ Sanh lo phận sự,
Ngày sau chức trọng sẽ dành ban.
(Đạo Sử).
分 賤 婢
Phận: Thân phận, số phận. Tiện tỳ 賤 婢: Người đầy tớ gái hèn kém.
Phận tiện tỳ là thân phận như là một con đầy tớ gái hèn hạ, xấu xa.
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng bì đồng nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phập phồng, như chữ “Phấp phỏng”, là ở trạng thái không yên lòng vì đang có điều phải lo sợ, mong đợi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Vì làm giàu với những hành động bất chánh nên họ vẫn cứ phập phồng lo sợ không biết cơ mưu sẽ bại lộ ngày nào.
Muốn cách mặt xứ xa định bạn,
Đừng để già những mảng phập phồng lo.
(Phương Tu Đại Đạo).
1.- Phất là dán phủ lên để tạo thành hình vật gì đó.
Như: Phất diều, cây quạt nầy phất lên một tờ giấy màu, lo phất đèn lồng cho kịp ngày trung thu.
Mua vải dùm em để phất diều,
Treo văn trước mõ mới là kêu.
(Bát Nương Giáng Bút).
2.- Phất 拂 là phe phẩy, đưa lên cao và làm cho chuyển động qua lại.
Như: Cờ bay phất phới, tà áo dài phất trước gió, phất tay tạm biệt bạn, gió phất cành lá dao động.
Đạo hư vô, Sư hư vô,
Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.
(Kinh Thế Đạo).
Gió phất thoảng đưa hồn tử sĩ,
Súng gào nhặt bước gót chinh phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Phất, nghĩa bóng chỉ bộ đi vật vờ, lang thang, không nhất định là đi đâu.
Như: Đi phất phơ ngoài đường xá, ngồi để tâm hồn phưởng phất nơi đâu.
Có hình thể xương thịt mà chơn hồn phưởng phất nơi xa, thì cái thân vô dụng ấy trơ trơ như khối đá dựa đường, như khúc cây bên trũng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
拂 麈
Phất: Quét. Chủ: Một giống thú thuộc loài nai, như con hươu mà to, lúc đi đàn hươu theo sau, đuôi nó phẩy sạch bụi, ngày xưa thường dùng làm cái phất trần; vì thế nên có khi gọi cái phất trần là chủ vĩ 麈 尾.
Phất chủ, còn gọi phất trần, là một thứ vật dụng gồm có cây cán ở đầu có chùm đuôi lông, dùng để phủi bụi hoặc đuổi ruồi muỗi.
Phất chủ hay “Phất trần”, còn là một bửu bối rất huyền diệu của Đức Thái Thượng Lão Quân, nên các Tiên gia thường có cầm cây phất chủ.
Chính vì vậy, Đạo Cao Đài mượn cây Phất chủ làm cổ pháp để chỉ Tiên giáo.
Xuân Thu định vững ngôi lương tể,
Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Một kẻ Tiểu đồng phò Phất chủ,
Ðôi nàng Tiên nữ quạt hương trầm.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Phất: Phe phẩy, đưa lên cao và làm cho chuyển động qua lại.
Phất phơ bay đi bay lại, tức chỉ vật mỏng và nhẹ chuyển động qua lại nhẹ nhàng theo làn gió.
Phất phơ còn có nghĩa là lang thang không mục đích hay đi vật vờ không nhất định là đi đâu.
Phất phơ đưa phướn diệu huyền,
Trông vơi thấy khách cửu tuyền rậm chơn.
(Lục Nương Giáng Bút).
Rạng nẻo phất phơ tà áo trắng,
Mịt cành chúm chím đoá mai vàng.
(Thơ Chơn Tâm).
Phất phơi, như chữ “Phấp phới”, là nói vật có hình mỏng (cờ) bay lật qua lật lại trước gió một cách nhẹ nhàng.
Như: Cờ bay phất phới trước gió, cánh diều bay phất phới trên bầu trời cao.
Đạo kỳ phất phới giăng Sân lễ,
Hương khói thơm tho ngát Điện tiền.
(Thơ Thiên Vân).
拂 塵
Phất: Quét. Trần: Bụi bặm.
Phất trần, như chữ “Phất chủ”, là một vật dùng để quét bụi của các vị Tiên, được làm từ lông đuôi con chủ.
Phất trần cũng như phất chủ là một bửu bối rất huyền diệu của các Tiên gia.
Chính Đức Thái Thượng Lão Quân thường cầm cây Phất trần, nên trong Đạo Cao Đài chọn cây Phất trần làm cổ pháp, tượng trưng cho Tiên giáo.
Xem: Phất chủ.
Tiên phong phủi ngọn phất trần,
Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.
(Kinh Thế Đạo).
Ngước trông níu ngọn phất trần,
Chổi Tiên quét sạch nợ nần oan gia.
(Kinh Thế Đạo).
Phất trần đưa sẵn bền tay níu,
Cửa tịnh đã đành phận náu nương.
(Đạo Sử).
佛
Phật do chữ Phạn là “Buddha”, Hán phiên âm là Phật, Việt phiên âm là Bụt.
Theo Phạn ngữ, chữ Budh là một động từ có nghĩa là thức dậy, thức tỉnh, giác ngộ, hiểu biết.
Như vậy, Phật là người giác ngộ, người tỉnh thức, người sáng suốt hoàn toàn, thấy được chân tướng vũ trụ và cuộc đời, vượt thoát hết mọi khổ đau.
Tóm lại, Phật là danh từ chung để tôn xưng những bậc giác ngộ có đầy đủ ba đức: Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn.
Ngán thay cái kiếp con người,
Thôi đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phật cốt 佛 骨: Cốt cách như Phật. Tiên duyên: Dáng vẻ như Tiên.
Phật cốt Tiên duyên cũng như câu “Tiên phong Phật cốt 仙 風 佛 骨”, là chỉ phẩm cách cao thượng, ví như có phong thái như Tiên, cốt cách như Phật.
Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên,
Nước Cam Lồ rửa sạch thuyền độ nhân.
(Kinh Tận Độ).
佛 緣
Phật: Đức Phật. Duyên: Mối dây ràng buộc từ trước.
Phật duyên là có mối nhân duyên với Phật. Trong kinh sách Cao Đài thì phải hiểu là có mối duyên với nền Đại Đạo.
Thật vậy, trong hằng hà sa số kiếp luân hồi sanh tử, chúng ta có duyên may mới gặp được thời kỳ Đại Ân xá của Đức Chí Tôn, nhứt là gặp được thời kỳ mà Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, vị sáng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật, dùng huyền diệu cơ bút dẫn dắt các vị Thiên sứ mở ra nền Đại Đạo để tận độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi, đưa các chơn linh trở về ngôi xưa vị cũ. Đây có thể nói là rất may duyên mới gặp được.
Đức Lý Đại Tiên có cho biết như sau: “Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sinh nhằm đời đặng gặp mối Đạo cũng chẳng dễ”.
Tam Kỳ khai hiệp Thiên thi,
Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Vô hư quy phục nhơn sanh khí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phật: Đức Phật. Dượt (duyệt): Tức là khảo duyệt 考 閲, nghĩa là thử thách để đánh giá trị cao hay thấp. Kiếp khiên 劫 愆: Những tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống trước nơi cõi thế gian.
Phật dượt kiếp khiên là Đức Phật duyệt xét những tội tình của chúng sanh ở kiếp sống, hầu chọn lựa người đậu rớt trong trường thi công quả.
Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn lập ra một trường thi công quả để tuyển phong ngôi vị Tiên, Phật và Đức Di Lạc Vương Bồ Tát làm chánh chủ khảo để khảo dượt mà chọn người tài đức vào Hội Long Hoa.
Thâu các Đạo hữu hình làm một,
Trường thi Tiên, Phật dượt kiếp khiên.
(Kinh Tận Độ).
佛 臺
Phật: Chỉ Đức Phật. Đài: Nơi xây cất cao.
Thường muốn thờ đức Phật, người ta phải xây một cái đài cao để dựng tượng Phật trên đó.
Nếu đài xây trong chùa thì gọi là điện Phật, nếu đài xây ngoài chùa thì gọi là “Phật đài”.
Phật đài cũng là bàn thờ Phật.
Trêu trăng hằng thói dấu mày,
Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.
(Bài Thài Bát Nương).
佛 者 無 言
Phật: Chỉ Đức Phật. Giả: Ấy là. Vô ngôn: Không nói, không có lời nói.
Phật giả vô ngôn tức là Phật không có nói.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Chí Tôn dạy: Từ trước, Ta giáng sanh lập Phật giáo gần sáu ngàn năm thì Phật đạo chánh truyền gần thay đổi. Ta hằng nghe chúng sanh nói “Phật giả vô ngôn”! Nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo đạo, chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn.
Dường nầy, từ đây chư chúng sanh chẳng tu bị đoạ A Tỳ thì hết lời nói rằng: “Phật tông vô giáo 佛 宗 無 教” mà chối tội nữa.
Thấy nơi chùa dâng hương bái tạ,
Lại nói rằng Phật giả vô ngôn.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Lập đạo khuyến tu sao chối bỏ,
Đổ thừa rằng Phật giả vô ngôn.
(Thơ Huệ Phong).
佛 教
Phật: Người giác ngộ, người tỉnh thức, người sáng suốt hoàn toàn, thấy được chân tướng vũ trụ và cuộc đời, vượt thoát hết mọi khổ đau. Giáo: Tôn giáo, dạy.
1.- Phật giáo là đạo Phật, một nền tôn giáo do Đức Thích Ca Mâu Ni sáng lập vào thế kỷ thứ sáu, thứ năm trước công nguyên và chính Ngài làm giáo chủ.
Thích Ca Mâu Ni truyền bá đạo Phật vào thời Nhị Kỳ Phổ Độ, trước đây, vào Nhứt Kỳ Phổ Độ thì đã có Đức Nhiên Đăng Cổ Phật mở đạo rồi.
Phật giáo được truyền bá rộng rãi ở các nước Á Đông, phái Tiểu thừa đi qua vùng Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện và Capuchia; phái Đại thừa được truyền bá tại Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam
Vốn từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2. Phật giáo là giáo lý của Đức Phật, tức là những lời dạy của Đức Phật, gom lại thành một giáo pháp có hệ thống để dạy đỗ nhơn sanh tự ngộ, tự giác để tự cứu mình ra khỏi vòng phiền não khổ đau.
Cốt lõi giáo lý của Đức Phật dựa trên sự chứng ngộ lúc Ngài thành đạo là Tứ Diệu Đế. Đó là bốn chân lý để cắt đứt những sự trói buộc con người vào vòng luân hồi, hầu vượt thoát khỏi con đường sinh tử.
Lập chùa chiền Phật giáo kệ kinh,
Thay tăng chúng khai minh đường đạo hạnh.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Gầy nền Phật giáo noi chơn tánh,
Dìu khách phàm gian thoát ái hà.
(Thơ Huệ Phong).
佛 教 心 經
Phật Giáo Tâm Kinh là một bài kinh xưng tụng công đức Nhiên Đăng Cổ Phật của Đạo Cao Đài, nên còn được gọi là “Nhiên Đăng Cổ Phật chí tâm quy mạng lễ 燃 燈 古 佛 志 心 皈 命 禮”, nghĩa là hết lòng kính lạy quy y Đức Nhiên Đăng Cổ Phật.
Nhiên Đăng Cổ Phật là một vị Phật của đời quá khứ, nên được gọi là Cổ Phật. Đức Nhiên Đăng Cổ Phật còn được gọi là Định Quang Phật 定 光 佛, vị Phật đã sống vô lượng kiếp trước thời đại chúng ta. Đó là vị Phật đầu tiên và quan trọng nhất trong các vị Phật có trước Đức Thích Ca Mâu Ni. (Xem: Nhiên Đăng Cổ Phật).
Sau đây là nội dung bài “Phật Giáo Tâm Kinh, tức là bài kinh xưng tụng công đức của Nhiên Đăng Cổ Phật.
- Hỗn Độn Tôn Sư. Càn Khôn Chủ Tể.
Trong thời kỳ hỗn độn, trời đất còn mờ mờ mịt mịt, chưa phân định Âm dương, chưa xuất hiện ngôi Thái cực thì khắp không gian, vũ trụ chỉ có một khí Hư vô mà thôi. Chính trong thời kỳ nầy, Đức Nhiên Đăng đã ra đời, Ngài là một bậc Thầy tôn kính (Tôn sư), và làm chúa tể Càn khôn Vũ trụ.
- Quy Thế giái ư nhứt khí chi trung. Ốc trần huờn ư song thủ chi nội:
Ngài đã gom thế giới vào trong một chữ khí (khí Hư vô) và nắm chặt cõi trần hườn trong hai bàn tay.
- Huệ đăng bất diệt, chiếu Tam thập lục Thiên chi quang minh.
Đèn huệ của Ngài cháy mãi, không bao giờ tắt, soi ba mươi sáu (36) tầng Trời sáng rực rỡ.
- Đạo Pháp trường lưu, khai cửu thập nhị Tào chi mê muội.
Đạo pháp của Ngài như dòng nước chảy hoài, không bao giờ cạn, không bao giờ ngưng, mở mang thông suốt chín mươi hai ức nguyên nhân còn đang mê muội nơi cõi trần.
- Đạo cao vô cực. Giáo xiển hư linh.
Đạo pháp của Ngài cao không cùng tận. Ngài đã lập giáo dạy lẽ hư vô mầu nhiệm của Đạo pháp.
- Thổ khí thành hồng, nhi nhứt trụ xang thiên.
Ngài đã hà hơi thành cái móng ví như cây trụ chống giữ bầu trời.
- Hoá kiếm thành xích, nhi tam phân thác địa.
Ngài lại biến cây gươm thành cây thước và lấy ba phân để giữ yên đất đai cho vững vàng, không bị rúng động.
- Công tham Thái Cực, phá nhứt khiếu chi huyền quan.
Ôi! Phật pháp thật vô biên, công lao thật vĩ đại! Công lao đó có thể sánh cùng Thái cực (Trời đất), mở thông một lỗ khiếu Huyền quan trong thân thể người ta để hiệp với Trời.
- Tánh hiệp vô vi, thống Tam Tài chi bí chỉ.
Đức tánh của Ngài hợp với vô vi, tóm hết cả ý nhiệm mầu của Tam tài Thiên, Địa, Nhân về một mối.
- Đa thi huệ trạch. Vô lượng độ nhân.
Ngài đã ban ơn không biết bao lần, nhiều như trời mưa gội nhuần trăm họ. Cò n công đức cứu độ nhân gian của Ngài thì không thể lượng được.
- Đại bi, đại nguyện,Đại Thánh, đại từ.
Lòng thương của Ngài, lời nguyện của Ngài, Thánh đức của Ngài và lòng từ bi của Ngài thật là lớn lao.
- Tiên thiên chánh đạo, Nhiên Đăng Cổ Phật, vô vi xiển giáo Thiên tôn.
Chánh đạo của Ngài có từ thuở Tiên thiên, đã được mở ra để dạy đạo vô vi, một nền đạo cao cả, bao la rộng lớn, Ngài chính là vị Phật Nhiên Đăng, thời thượng cổ, một bậc Đại Thiên tôn.
Thành kỉnh tụng Phật Giáo Tâm Kinh.
(Nghi Tiết Cúng Lễ).
佛 鄉
Phật: Đức Phật. Hương: Làng, quê hương.
Phật hương là quê hương của Đức Phật, chỉ cõi thiêng liêng của Đức Phật.
Phật hương đồng nghĩa với chữ “Phật quốc 佛 國”.
Pháp tu Đại Đạo có ba đường:
Cửu phẩm Thần Tiên tới Phật hương.
(Thơ Thượng Sanh).
佛 律
Phật: Người giác ngộ, người tỉnh thức, người sáng suốt hoàn toàn, thấy được chân tướng vũ trụ và cuộc đời, vượt thoát hết mọi khổ đau. Luật: Khuôn phép được định ra để người ta theo.
Phật luật là pháp luật của Phật giáo, tức phép tắc của Phật đặt ra để mọi người tu theo Phật phải giữ gìn.
Thần minh đâu nỡ trừng người chánh,
Phật luật bao đành phạt kẻ tu.
(Thơ Thái Bộ Thanh).
佛 母
Phật Mẫu là một Đấng Thiên Hậu, Mẹ thiêng liêng của toàn cả vạn linh, có công tạo hoá và dạy dỗ tất cả con cái của Ngài để trở về ngôi vị cũ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái cực. Thầy phân Thái cực ra Lưỡng nghi, Lưỡng nghi phân ra Tứ tượng, Tứ tượng biến Bát quái, Bát quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn khôn Thế giới”.
Theo ý Thánh giáo trên, thì khi Thầy ngự ngôi Thái cực, Thái cực mới sinh ra Lưỡng nghi là Dương quang và Âm quang. Đức Chí Tôn chưởng quản khí Dương quang, còn khí Âm quang thì Đức Ngài hoá thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản Âm quang.
Như vậy, Đức Phật Mẫu là một hoá thân đầu tiên của Đức Chí Tôn để làm chủ Âm quang. Sau đó Đức Phật Mẫu mới dùng khí sanh quang của ngôi Thái cực, rồi đem khí Âm quang phối hợp với khí Dương quang để tạo hoá Càn khôn Vũ trụ và Vạn vật.
Do đó triết lý đạo Cao Đài cho rằng toàn cả chúng sanh trong Càn khôn Vũ trụ hay toàn cả Vạn linh đều là con cái Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, nên phải thờ phụng hai Đấng ấy. Tôn thờ Đức Chí Tôn là tôn thờ Ngôi Dương, Ngôi thứ nhứt, là vị Thiên Đế ngự tại Ngọc Hư Cung, Linh Tiêu Điện, còn Ngôi Âm là Đức Phật Mẫu, Ngôi thứ nhì, là vị Thiên Hậu ngự tại Diêu Trì Cung, ở từng Trời Tạo Hoá Thiên, là từng Trời thứ chín trong Cửu Trùng Thiên.
Trong Thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp có nói rằng: ...Khi mở Ðạo Cao Ðài Chí Tôn định cho Phật Mẫu đến làm bạn với chúng ta, bảo trọng nuôi nấng dạy dỗ chúng ta, thì không có ân đức nào bằng, vì không ai biết thương con hơn là Mẹ.
Vì cái ân đức đó mà người tín đồ đạo Cao Đài cũng như những người thuộc tín ngưỡng nhân gian hay các tôn giáo khác đều có lòng sùng tín Đức Phật Mẫu, là có công lao tạo hoá và dạy dỗ Vạn linh, nên tất cả đều phụng thờ Ngài bằng nhiều Thánh danh khác nhau, kể ra như sau:
- Mẹ sanh Mẹ độ.
- Mẹ Thiêng Liêng.
- Địa Mẫu.
A.- CÁC THÁNH HIỆU ĐỨC PHẬT MẪU
Trong tôn giáo Cao Đài, Đức Phật Mẫu được tôn xưng bằng nhiều Thánh danh như sau:
1.- Tây Vương Mẫu.
Theo sách Hán cổ sử, vị Tiên Đông Phương Sóc cho vua Hán Võ Đế biết là Bà Tây Vương Mẫu có một vườn Đào tiên gọi là Bàn Đào, có trái nếu ăn được một quả thì sẽ sống đời đời. Nhưng cây Bàn Đào của Bà Tây Vương Mẫu ba ngàn năm mới nở hoa, ba ngàn năm nữa mới kết quả.
Thánh hiệu nầy của Đức Phật Mẫu trong đạo Cao Đài, bài Kinh Đệ Nhứt Cửu có đoạn viết:
Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,
Chén trường sanh có lịnh ngự ban.
Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng,
Chơn Thần khá đến hội hàng chư linh.
2- Cửu Thiên Huyền Nữ.
Cửu Thiên Huyền Nữ còn gọi Cửu Thiên Nương Nương là một Thánh hiệu của Đức Phật Mẫu được nhơn loại biết đến từ thời Thượng cổ, tức đời vua Hiên Viên Huỳnh Đế bên Trung Hoa. Thánh hiệu nầy trong đạo Cao Đài cũng dùng để tôn xưng Đức Phật Mẫu. Chính trong bài thài Đức Phật Mẫu trong Hội Yến Diêu Trì Cung có khoán thủ bốn chữ “Cửu Thiên Huyền Nữ” như sau:
|
Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên, |
|
九 刼 軒 轅 受 敕 天 |
|
Thiên Thiên cửu phẩm đắc cao huyền. |
|
天 天 九 品 得 高 玄 |
|
Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ, |
|
玄 虚 作 世 神 仙 女 |
|
Nữ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên. |
|
女 好 善 根 奪 九 天 |
Nghĩa là:
Kiếp thứ chín vào thời vua Hiên Viên, Đức Phật Mẫu thọ sắc lịnh của Đức Chí Tôn giáng trần.
Nơi cõi Thiên, các Đấng trong Cửu phẩm Thần Tiên đều cao siêu và huyền diệu.
Ngài là Đấng huyền diệu nơi cõi Hư vô đã tạo ra các cõi thế gian và các Đấng Nữ Thần Tiên.
Người phụ nữ nào có tâm tốt và có căn lành thì đoạt được ngôi vị trên Cửu Trùng Thiên.
Thánh danh nầy do tích như sau:
Sách Sử Ký có chép: Sau đời vua Thần Nông, các bộ lạc đều nổi dậy, hùng cứ khắp mọi nơi. Trong đó có một bộ lạc hùng mạnh nhứt mà vị thủ lãnh là Xuy Vưu, muốn làm bá chủ nên đem binh thôn tính các bộ lạc khác.
Các bộ lạc liền liên kết nhau, tôn vị Hữu Hùng Thị làm thủ lãnh để chống lại với Xuy Vưu. Sau nhiều trận đánh, quân Hữu Hùng Thị bị vây chặt tại Trác Lộc, mà nơi đây thường có sương mù phủ dày đặc, nên khó nhận định được phương hướng để đánh giải vây.
Trong lúc nguy nan, Bà Cửu Thiên Huyền Nữ hiện ra dạy Hữu Hùng Thị chế ra xe chỉ Nam, có bộ phận chỉ rõ hướng Nam. để phân định phương hướng mà tiến binh. Nhờ xe nầy chỉ hướng, mà Hữu Hùng Thị từ trong đánh ra bất ngờ, bắt sống được thủ lãnh Xuy Vưu giết chết.
Dân chúng các bộ lạc đều vui mừng tôn Hữu Hùng Thị lên ngôi lấy hiệu là Huỳnh Đế (Hoàng Đế). Nguyên Hữu Hùng Thị được sanh tại gò Hiên Viên, nên người ta còn gọi là Hiên Viên Huỳnh Đế.
3.- Kim Bàn Phật Mẫu.
Theo sách Ngọc Lộ Kim Bàn, Kim Bàn (Kim Bồn) là một cái mâm vàng Thiêng liêng nơi Diêu Trì Cung mà Đức Phật Mẫu dùng để chứa các nguyên chất.
Khi Trời đất đã được hình thành, Phật Mẫu mới đem Chơn tánh phân ra một hột. Từ một hột đó, Ngài mới thổi hơi chân khí biến thành một trăm ức Linh căn Chân tánh (tức Nguyên nhân), rồi Ngài đem chứa trong Kim Bàn (Kim Bồn), nói một cách khác, Kim Bàn là nơi chứa các bậc Nguyên nhân.
Chính trong bài Kinh Đệ Cửu Cửu, Đức Diêu Trì Kim Mẫu có giải thích như sau:
Nơi Kim Bồn (Bàn) vàn vàn nguơn chất,
Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.
Như vậy, Kim Bàn Phật Mẫu là Thánh hiệu khác của Đức Phật Mẫu mà trong Di Lạc Chơn Kinh có đoạn viết: Tạo Hoá Huyền Thiên hữu: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, dữ Cửu Vị Nữ Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Kim Bàn Phật Mẫu năng tạo, năng hoá Vạn linh, năng du Ta Bà Thế giái dưỡng dục quần sanh quy nguyên Phật vị.
4.- Kim Mẫu.
Kim Mẫu là tiếng nói tắt của danh hiệu “Kim Bàn Phật Mẫu”, nghĩa là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn (Kim Bồn), là nơi chứa các nguyên chất để tạo ra chơn Thần cho vạn linh.
Trong Kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu có câu:
Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,
Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
5.- Diêu Trì Kim Mẫu.
Diêu Trì, còn đọc “Dao Trì 瑤 池”, là một cái ao làm bằng ngọc quý, đẹp. Ao Diêu Trì nằm nơi Cung ngự của Đức Phật Mẫu, nên Cung này được gọi là Diêu Trì Cung.
Đức Phật Mẫu ngự tại Diêu Trì Cung nên người ta gọi Ngài là “Diêu Trì Kim Mẫu” hay “Phật Mẫu Diêu Trì”. Đây là một Thánh hiệu được chúng sanh hoặc các kinh sách trong đạo Cao Đài dùng nhiều nhứt để chỉ về Đức Phật Mẫu.
Thánh danh nầy được viết bằng chữ Nho để thờ Ngài ở các Điện Thờ Phật Mẫu địa phương. Ngoài ra, để cầu nguyện về Ngài, chúng sanh thường xưng tụng: “Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn 南 無 瑤 池 金 母無 極 天 尊”.
Trong bài Kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu có câu:
Lưỡng nghi phân khí hư vô,
Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hoá sanh.
Và Phật Mẫu Chơn Kinh cũng viết:
Tạo Hoá Thiên Huyền vi Thiên Hậu,
Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.
B.- THỜ PHƯỢNG ĐỨC PHẬT MẪU
Hiện nay Đền Thờ Phật Mẫu của đạo Cao Đài ở trung ương chưa được xây dựng, nên còn đặt tạm tại Báo Ân Từ trong Nội ô Toà Thánh Tây Ninh.
Chánh điện thờ Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ được Đức Hộ Pháp cho đắp hình theo tích “Hớn Rước Diêu Trì” trong hai câu “Kinh Khi Về” như sau:
Nhẫng nhớ bước động Đào buổi trước,
Nhẫng nhớ khi “Hớn rước Diêu Trì”.
Hớn rước Diêu Trì có nghĩa là Vua Hớn Võ Đế tiếp rước Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Do Điển tích như sau:
Trong ngày lễ khánh thọ, vua Võ Đế nhà Hớn có cất một toà Hoa Điện và có sở nguyện muốn cầu Đức Diêu Trì Kim Mẫu đến chứng lễ. Thời đó có vị Tiên là Đông Phương Sóc biết được ý nhà vua, nên Ông tình nguyện đến triều bái Phật Mẫu để tỏ mọi điều. Phật Mẫu hẹn đêm Trung thu sẽ giáng lâm xuống Hoa Điện, là ngôi đền do vua Võ Đế lập ra.
Vào nửa đêm Trung thu, bỗng có chim thanh loan bay đậu trước sân, ông Đông Phương Sóc cho biết đó là tin của Đức Phật Mẫu sắp đến, rồi sau đó Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương cũng giáng lâm xuống Hoa Điện và ban cho vua Vũ Đế bốn quả Đào Tiên.
Do sự tích này, ở chánh điện Báo Ân Từ tại Toà Thánh Tây Ninh, có hình ngôi Hoa Điện, trên có Đức Phật Mẫu, bốn vị Ngọc nữ theo hầu và Cửu Vị Tiên Nương cỡi chim thanh loan, đứng bên có Đông Phương Sóc đang tiếp rước Phật Mẫu. Trước sân Hoa Điện là Đức Thượng Phẩm quỳ nghinh giá.
Đặc biệt tại các Điện Thờ Phật Mẫu ở địa phương không được đắp hình mà phải viết Thánh danh Đức Phật Mẫu bằng chữ Nho để thờ Ngài.
Tượng thờ Phật Mẫu tại các địa phương, ngoài Thánh danh “Diêu Trì Kim Mẫu” của Ngài viết ở hàng giữa, bên trái còn viết thêm: “Cửu Vị Tiên Nương”, và bên mặt “Bạch Vân Động Chư Thánh”.
Muốn đi con đường thứ ba phải tập mình đừng ham muốn chi cho mình nữa, hành tàng của Chí Tôn là phận sự của mình, phải yêu ái hiếu hạnh cùng Chí Tôn và Phật Mẫu.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
佛 母 真 經
Phật Mẫu Chơn Kinh là bài Chơn kinh nói về nguồn gốc và quyền hành của Đức Phật Mẫu.
Theo Đức Hộ Pháp, bài “Phật Mẫu Chơn Kinh” nầy được Bát Nương Diêu Trì Cung, thay quyền Đức Phật Mẫu giáng cơ cho tại Báo Ân Đường thuộc Kim Biên Tông Đạo (Nước Cao Miên), do chính Đức Hộ Pháp phò loan.
Bài “Phật Mẫu Chơn Kinh” là một bài kinh gồm đủ mọi quan niệm: Quan niệm về Vũ trụ, quan niệm về nhân sinh, triết lý Tôn giáo, và con đường cứu rỗi của Cao Đài.
Bài Phật Mẫu Chơn Kinh này bằng Hán văn, theo thể song thất lục bát, được Đức Hộ Pháp giải nghĩa trong bài thuyết đạo tại Báo Ân Từ vào ngày Vía Đức Phật Mẫu 15 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947).
Nhũ lịnh khai Diêu Trì Hội Yến,
Kim Bàn thể Phật Mẫu Chơn Kinh.
(Thơ Huệ Phong).
佛 法
Phật: Chỉ Đức Phật. Pháp: Một danh từ bao quát có nhiều ý nghĩa: Đạo, Quy luật, giáo lý của Đức Phật, giới luật, chân lý, và mọi hiện tượng...
Như vậy, Phật pháp bao gồm đạo, giáo lý, giới luật của Đức Phật, tức là nằm trong Tam Tạng Kinh của Phật giáo. Tam Tạng Kinh do 500 vị A La Hán, tức là những Đệ tử của Đức Phật kết tập, sau khi Phật nhập Niết Bàn, dưới sự chủ toạ của Nhứt Tổ Ma Ha Ca Diếp, chia thành ba tạng kinh:
1.- Kinh tạng là những lời Phật thuyết.
2.- Luật tạng là những giới luật do Đức Phật khi còn tại thế chế định ra.
3.- Luận tạng là tất cả những bài luận trình bày, giải thích giáo lý của Đức Phật.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Con biết Ngũ Chi: Minh Đường, Minh Sư, Minh Tân, Minh Lý, Minh Thiện, cũng đều do nơi Phật pháp mà ra, duy giáo lý của các Chi ấy thì có: Tiểu Học, Đại Học, Trung Dung và Tứ Thơ là kinh điển mà thôi.
Trừ yêu có Thánh Tề Thiên,
Quy y Phật pháp ở miền Tây phương.
(Xưng Tụng Công Đức).
Phật pháp khuyến nhơn quy mỹ tục,
Nho Tông phục thế hưởng thuần phong.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
佛 法 僧
Phật: Hay Phật đà là do chữ Phạn Bouddha. Chữ Phật có nghĩa là bậc đại giác, đại ngộ, bậc sáng suốt hoàn toàn về ba phương diện: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Phật là người sáng suốt hoàn toàn, có muôn hạnh tốt, nên Ngài được xưng tụng bằng mười danh hiệu khác nhau. Ngài là bậc chẳng sanh chẳng diệt nên bất cứ nơi nào bất cứ nơi đâu, Ngài cũng có thể hiện ra để đem ân lành hộ cho chúng sanh khắp mười phương thế giới.
Pháp: Do chữ Phạn Dharma mà ra. Chữ pháp vốn có một nghĩa rất rộng. Bất kỳ việc chi dù nhỏ hoặc lớn, dù hữu hình hay vô hình, dù tốt hay xấu, chơn thật hay hư vọng đều có thể gọi chung là Pháp. Ở đây Pháp có nghĩa là Giáo pháp mà đức Phật đã thuyết, phương pháp tu hành mà đức Phật đã phát huy ra để diệt trừ mê muội, khổ đau để đắc đạo thành Phật. Giáo pháp ấy có thể giúp chúng sanh thoát khỏi luân hồi, khổ đau, nên vô cùng quý báu.
Tăng: Hay Tăng già là dịch từ tiếng Phạn Samgha. Tăng là những vị xuất gia, tu theo giáo pháp đức Phật, cùng sống chung một chỗ, cùng giữ giới luật của Phật và cùng chia sớt cho nhau một cách vui vẻ, hoà thuận tất cả những gì mà họ thâu nhận được.
Trong đạo Cao Đài, Phật pháp Tăng có nghĩa là tôn kính ân đức bao la của Đại Từ Phụ (Nam Mô Phật), tôn kính ân đức dưỡng dục của Đại Từ Mẫu (Nam Mô Pháp), và luôn luôn niệm đến toàn thể nhơn sanh cũng như nguyện thương yêu hoà thuận lẫn nhau (Nam Mô Tăng).
Vậy Phật Pháp Tăng chính là ba ngôi: Ngôi Cha, ngôi Mẹ và ngôi các Con.
Đức Chí Tôn là đấng toàn tri toàn năng, đấng sáng tạo ra vũ trụ nên Ngài tượng trưng cho ngôi Cha hay Phật. Đức Phật Mẫu, chưởng quản tầng trời Tạo Hoá Thiên, có công nuôi dưỡng chúng sanh từ linh hồn đến thể xác, có công định kiếp căn của mỗi người ở cõi trần nên Đức Phật Mẫu tượng trưng ngôi Mẹ tức Pháp. Toàn thể sanh chúng trong vũ trụ được tạo thành là do công sanh trưởng của Đức Chí Tôn (Cha), công nuôi dưỡng của Phật Mẫu (Mẹ), nên chúng sanh được xem là ngôi con tức là Tăng.
Thiên Nhơn Địa vượt ba thần phẩm,
Phật Pháp Tăng chung một lá cờ.
(Thơ Huệ Phong).
Phật: Chỉ Đức Phật. Sắc: Tờ giấy ban lịnh của vua hay các Đấng thiêng liêng.
Phật sắc là sắc lịnh của chư Phật.
Như: Những Đấng thiêng liêng giáng trần cứu thế độ đời là tuân theo Phật sắc.
Phụng thừa Phật sắc,
Giáng hạ trần gian.
(Tuồng Hát Chèo Thuyền).
Hay “Phật tính”.
Phật: Đấng giác ngộ viên mãn, chỉ sự giác ngộ, sự lành. Tánh (tính): Bản nhiên của con người khi sinh ra và tuỳ theo hoàn cảnh mà thay đổi.
Phật tánh, như chữ “Phật tính 佛 性”, là cái tánh giác ngộ, cái thiên tánh có sẵn, cái mầm hiền lương ở trong con người hay loài vật.
Kinh Pháp Hoa có câu: Nhứt thiết chúng sinh giai hữu Phật tính 一 切 眾 生 皆 有 佛 性, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Phật tánh còn gọi là Như lai tánh, Chân tánh là cái tánh thường hằng bất biến, mầm mống giác ngộ vốn có sẵn trong tất cả chúng sanh.
Phật giáo cho rằng: Phật là chúng sanh đã được giác ngộ, còn chúng sanh là Phật chưa giác ngộ. Như vậy, tất cả chúng sanh đều là Phật sẽ thành.
Chúng sanh chỉ vì tham dục vô minh, mê mờ tự tâm nên không thấy được Phật tánh, nếu phá chấp, phá trừ vô minh, Phật tánh sẽ hiển hiện.
Nho giáo gọi Phật tánh là Minh đức, tức là cái đức sáng của con người, đó là cái Thiên lương hay Thiên tánh, cũng gọi là cái “Lương tri lương năng” mà ai cũng đều có như nhau.
Phục nguyên nhân huờn tồn Phật tánh,
Giáo hoá hồn hữu hạnh hữu duyên.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Mấy ai biết thấu tránh qua,
Tìm nơi Phật tánh để xa cõi trần.
(Bát Nương Giáng Bút).
佛 心
Phật: Chỉ Đức Phật. Tâm: Cái tâm.
Phật tâm là cái tâm của Phật, cái tâm giống như Phật, tức là cái tâm đại từ đại bi của Đức Phật.
Phật tâm, theo giáo lý Cao Đài còn gọi là “Thánh tâm 聖 心”, trái với phàm tâm.
Thánh giáo của Đức Thích Ca Mâu Ni dạy: Còn cái địa vị cao trọng, nó làm cho nhơn tâm ganh gổ. Con phải lấy Phật tâm con mà dòm ngó đám sanh linh bị phạt, luân hồi chưa dứt, thì tưởng đến Thầy mà cam chịu nhục nhã, lòng từ bi có vậy mới xứng đáng là tôi con Thầy.
Phật tâm ai hiểu cái người nầy,
Biết đặng cùng chăng chỉ một Thầy.
(Đạo Sử).
Đoạn căn đóng chặt Ân cung,
Toà sen chín phẩm để cùng Phật tâm.
(Phương Tu Đại Đạo).
佛 祖
Phật: Đức Phật. Tổ: Người mở đầu một tông phái.
Phật Tổ chỉ đức Thích Ca Mâu Ni, vì Ngài là vị Phật khai sáng một nền tôn giáo, nên Ngài được coi là vị tổ của Phật Giáo.
Sau nầy, khi Đức Thích Ca nhập Niết bàn, các vị đệ tử nối tiếp nhau cầm quyền giáo hội Phật giáo đều được gọi là Tổ sư mà vị Đệ nhứt Tổ sư là Ma Ha Ca Diếp.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Người gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ, Thích Ca vốn sanh ra đời nhà Châu.
Tây phương cõi Phật chói loà,
Từ bi Phật Tổ hải hà độ dân.
(Xưng Tụng Công Đức).
Căn Ta Ca đỡ bước đi,
Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.
(Kinh Thế Đạo).
Tây phương Phật Tổ, Di Đà,
Nam Hải Phổ Đà cứu khổ Quan Âm.
(Giới Tâm Kinh).
佛 宗
Phật: Chỉ Đức Phật, hay Phật giáo. Tông: Giáo phái, tôn chỉ của giáo phái.
Phật tông là tông chỉ của Phật giáo.
Phật tông còn cùng nghĩa với “Phật giáo 佛 教”, nghĩa là Đạo Phật.
Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai, kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát có dạy: Ta vì luật lịnh Thiên mạng đã ra cho nên cam để vậy, làm cho Phật tông thất chánh có trên ba ngàn năm nay. Vì Tam Kỳ Phổ Ðộ, Thiên Ðịa hoằng khai, nơi Tây Phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh.
Đường Tây vức từ khi bị bế,
Tiếng Phật tông đổi lệ thay thoàn.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
佛 宗 原 理
Phật Tông Nguyên Lý, theo Huệ Lương, là quyển Kinh Phật viết vào thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, trong đó có ghi rằng: Sau Ðức Thích Ca, sẽ có một Ðức Phật rất lớn giáng trần mở đạo.
Lời tiên tri đó ứng vào việc Ðức Chí Tôn mở Ðạo Cao Ðài tại miền Nam Việt Nam ngày nay.
Trong Phật Tông Nguyên Lý có nêu sáu chữ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
佛 宗 無 教
Phật tông: Đạo Phật. Vô giáo: Không có dạy.
Phật tông vô giáo là đạo Phật không có dạy.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Chí Tôn dạy: Từ trước, Ta giáng sanh lập Phật giáo gần sáu ngàn năm thì Phật đạo chánh truyền gần thay đổi. Ta hằng nghe chúng sanh nói “Phật giả vô ngôn”! Nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo đạo, chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn.
Dường nầy, từ đây chư chúng sanh chẳng tu bị đoạ A Tỳ thì hết lời nói rằng: “Phật tông vô giáo 佛 宗 無 教” mà chối tội nữa.
Đời hết trách Phật tông vô giáo,
Tự hiểu đời do đạo gầy nên.
(Lược Thuật Toà Thánh).
佛 子
1.- Phật tử là đệ tử của Đức Phật, dùng để chỉ những tín đồ nam nữ theo Phật Giáo.
Danh từ Phật tử dùng để chỉ những người theo đạo Phật nhưng không xuất gia.
Vì vật báu đó từ trước đến giờ chỉ có trong hàng Phật tử của nước Ấn Độ được hưởng mà thôi.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
2.- Trong đạo Cao Đài, Phật Tử là một phẩm vị cao cấp trong Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng thuộc Cơ Quan Phước Thiện, đối phẩm với Phật vị, ngang hàng với Hộ Pháp của Hiệp Thiên Đài.
Phật Tử là phẩm cao nhứt trong Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng, dưới phẩm Phật Tử là Tiên Tử, Thánh Nhơn, Hiền Nhơn...
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Từ bậc Hiền Nhơn tới Phật Tử, thì lo bảo thủ bí pháp tâm truyền và nhập cùng Hiệp Thiên Đài làm một.
Ngôi Phật Tử là hàng cao nhứt,
Còn dưới thì Minh Đức, Tân Dân.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
佛 寺
Phật: Đức Phật. Tự: Ngôi chùa, nơi thờ Phật.
Phật tự là ngôi chùa thờ Phật.
Bên Phật giáo thường dùng chữ “Tự 寺” để chỉ nơi thờ Phật và mỗi ngôi chùa đều đặt một tên riêng, như: Kim Quang Tự, Từ Lâm Tự... Còn trong tôn giáo Cao Đài nơi thờ Đức Chí Tôn tại trung ương, gọi là Toà Thánh hay Đền Thánh, tại các địa phương gọi là Thánh Thất.
Vàng tuy quý giá chẳng bằng lòng,
Phật tự thuở chừ mến chữ không.
(Đạo Sử).
Phật tức là lòng, bởi câu “Phật tức tâm 佛 即 心”.
Phật là chất liệu của từ bi và tuệ giác trong lòng mọi chúng sanh.
Như vậy, tìm Phật ở đâu? Tìm Phật ở trong chính tự tâm chúng ta không đâu khác, ngoài tâm không có Phật.
Chúng sanh điên đảo, vọng động chấp Phật ở bên ngoài mà lìa bỏ cái tâm Phật vốn có sẵn của mình.
Phật tức là lòng, chẳng có xa,
Kiếm tìm không khéo vướng tâm tà.
(Thơ Thiên Vân).
Trong tôn giáo Cao Đài, Phật Trời là tiếng chỉ hai Đấng Thiêng liêng được thờ phụng tại Toà Thánh hay các Thánh Thất địa phương.
Thờ Phật, tức thờ Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, vị giáo chủ Phật giáo, là một trong Tam giáo: Phật, Tiên, Thánh.
Thờ Trời tức là thờ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế, tượng bằng Thiên nhãn.
Phật Trời còn là tiếng dùng để chỉ chung các Đấng Thiêng Liêng.
Luân hồi trở lại trên đời,
Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
(Kinh Sám Hối Ngắn).
Làm lành cho trọn Phật Trời thương,
Hai chữ hơn thua chớ liệu lường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
佛 位
Phật: Đức Phật. Vị: Ngôi vị.
Phật vị là ngôi vị Phật, tức vào hàng chư Phật.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Khi biết mình đã vững nơi Tiên vị rồi thì mình cũng cứ đào luyện Tiên hồn theo gương chư Phật mà gắm ghé vào Phật vị.
Ví biết vạn căn thường quả báo,
Chưa vào Phật vị cũng Thần Tiên.
(Thiên Thai Kiến Diện).
佛 處
Phật: Chỉ Đức Phật. Xứ: Nơi ở, chỗ ở, cõi, miền.
Phật xứ là xứ Phật, cõi Phật, hay đất Phật, là nơi hoàn toàn an vui, còn gọi là Cực Lạc Niết Bàn, tức cõi Cực Lạc Quốc hay Cực Lạc Thế giới.
Siêu thăng phụng liễn quy khai.
Tiên cung Phật xứ Cao Đài xướng danh.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Phe là tập hợp người hoặc tổ chức cùng đứng về một phía với nhau.
Như: Người tu hành mà còn chia phe phân phái, chức sắc không được kết phe lập đảng.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Khoát vào mình cái áo Ðạo chỉ vì mục đích riêng tư, những phần tử đáng thương hại đó toan che mắt bề trên, lừa dối thiên hạ, có khi chạy theo phe nầy nhóm kia, làm tay sai cho thế lực kim tiền, lợi dụng danh Ðạo, họ ví lời minh thệ trước Thiên bàn như một món đồ chơi, muốn ném vào xó nhà lúc nào cũng được.
Còn cả môn đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe lập đảng, nhược kẻ nào phạm tội thì Thầy trục xuất ra ngoài cho khỏi điều rối loạn.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Phe: Tập hợp người hoặc tổ chức cùng đứng về một phía với nhau. Đảng: Nhóm người cùng mục đích kết lại với nhau.
Phe đảng là tập hợp người hoặc tổ chức câu kết với nhau nhằm một nục đích gì.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thánh Thể của Đức Chí Tôn hồi buổi đó không giá trị, không trật tự, họ chia phe phân phái, họ còn phe đảng dữ lắm, mạnh đặng yếu thua, thế lực dữ lắm không có cái gì thiếu, làm cho Thánh Thể Đức Chí Tôn buổi nọ dơ bẩn làm sao đâu, không thể tưởng tượng được.
Nước không Ðạo quân thần rối loạn,
Mới nảy ra phe đảng chiến tranh.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Phen là lần, lúc, phiên, khi. Như: Nhiều phen, đòi phen, lắm phen vất vả.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có đoạn: Con ôi! Thầy thấy con đau thảm bấy nhiêu, một phen lầm lỗi lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm. Con coi đó mà coi, Thầy thương con là bao nhiêu?
Vinh nhục đòi phen vui lẫn khóc,
Ghét thương lắm lúc giận pha cười.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thêu dệt hay lo nói chuyện người,
Nhiều phen hại kẻ tưởng là chơi.
(Đạo Sử).
Phèn là tên một loại khoáng chất kết tinh như muối, có sắc xanh.
Phèn chua là thứ phèn trắng có vị chua, thường dùng để đánh nước cho trong.
Như: Nước đã đánh phèn.
Bổn tâm Thầy ngự người trau hạnh,
Nguyên lý đạo khai nước lắng phèn.
(Thơ Huệ Phong).
1.- Phép là luật lệ của một nước, một tôn giáo hay một nhà đặt ra. Như: Phép nước, phép công, phép nhà.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có câu: Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép công bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy.
Ví biết phép công cơ thưởng phạt,
Ðường tu sớm bước chí thong dong.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,
Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Phép là lời chuẩn y của vua quan hay Chí Tôn thuận cho làm một việc gì. Như: Quan cho phép, được phép làm, cho phép xây dựng nhà.
Thánh giáo Thầy có dạy: Bậc chơn tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái Chơn thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy.
Vè thử Thầy cho con đặng phép,
Làm sao cho khuất bóng Thần ngươi.
(Đạo Sử).
3.- Phép là quy tắc hay phương pháp (cách thức) để làm một việc gì.
Như: Phép tính, phép làm việc, phép hành đạo.
Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lai có dạy: Chư sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo. Phép hành đạo Phật giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến Tả Ðạo Bàng Môn.
Nâu sồng khổ hạnh phép gần Tiên,
Như bước ướt chơn mới đến thuyền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
4.- Phép là phương thuật riêng của những bậc Thần Tiên, hay những bậc tu luyện phù chú.
Như: Phép Tiên, phép Phật, phép linh, ban phép lành.
Đắc văn sách thông Thiên định Địa,
Phép huyền công trụ nghĩa hoá thân.
(Kinh Tận Độ).
Cho hay Trời Phật chí công bình,
Trước mắt ngờ ngờ thấy phép linh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tỷ nhạc thân đòi ngọc Lam Điền,
Mình phải đủ phép Tiên trồng đặng ngọc.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phép: Luật pháp. Công: Công cộng hay công bình.
Luật pháp công cộng, hay nói khác hơn “Phép công”, tức là phép nước áp dụng chung cho tất cả mọi người trong nước.
Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc, Bà Đoàn Thị Điểm có câu: Sứ trời sớm giục đường mây, Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
Trong Tôn giáo, chữ “Phép công” dùng để chỉ luật pháp của Đạo, hay luật pháp công bình.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Than ôi! Thầy đã là Ðấng lập khổ hình, chiếu theo phép công bình của Tạo hoá, nhưng thấy nhơn sanh càng ngày càng bước vào con đường hắc ám, để đem số phận buộc vào đó, thì Thầy cũng bắt đau lòng, nhưng chẳng lẽ bỏ phép công vì sanh chúng.
Ví biết phép công cơ thưởng phạt,
Đường tu sớm bước chí thong dong.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phép: Phép tắc, tức pháp thuật. Chiêu hồn 招 魂: Kêu gọi linh hồn trở về.
Phép chiêu hồn là dùng thần thông, hay pháp thuật để kêu gọi linh hồn người chết trở về.
Hay không thắng đặng đời, anh phải nhịn,
Về cõi Tiên toan tính phép chiêu hồn.
(Văn Tế Bảo Đạo).
Phép: Phép thuật huyền diệu, bí pháp. Giải oan: Cởi bỏ oan khiên nghiệt chướng.
Phép giải oan là một Bí pháp giải oan nghiệt của Đạo Cao Đài.
Con người vì luân hồi sinh tử nên mới tạo ra nhiều oan khiên nghiệt chướng, do đó quả nghiệp chồng chất lên khiến người tu hành phải đền trả mãi, khó giải thoát.
Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn mở ra nền Đại Đạo, đại khai ân xá cho vạn linh, đóng địa ngục mở thiên đường để tận độ chúng sanh, và đặc biệt ban cho bí tích giải oan, tắm thánh, làm phép xác... hầu giúp cho nhơn sanh dứt được oan gia nghiệt chướng để dễ bề tu hành đắc quả.
Phép giải oan độ hồn khỏi tội,
Phướn tiêu diêu nắm mối trường sanh.
(Kinh Tận Độ).
Phép: Phép thuật huyền diệu. Huyền công 玄 功: Một pháp thuật biến hoá rất thần diệu, gọi là thất thập nhị huyền công.
Phép huyền công là pháp thuật do công phu tu luyện được có thể biến hoá một cách thần diệu.
Đắc văn sách thông Thiên định Địa,
Phép huyền công trụ nghĩa hoá thân.
(Kinh Tận Độ).
Phép: Phép thuật huyền diệu. Huyền hư 玄 虛: Huyền diệu, mầu nhiệm.
Phép huyền hư là phương pháp tu luyện làm sao đạt được sự mầu nhiệm.
Trong phương pháp luyện của đạo Tiên, phép huyền hư là một giai đoạn công phu luyện đan sau cùng, luyện đến chỗ huờn hư thì đắc đạo.
Xin xót thương con người ngây dại,
Phép Huyền hư truyền dạy thế gian.
(Giới Tâm Kinh).
Phép: Luật pháp, phép tắc, đạo lý. Khuôn: Giới hạn trong phạm vi nhất định.
Phép khuôn là những phép tắc làm khuôn mẫu trong quan hệ gia đình và xã hội.
Dù chàng đổi dạ én anh,
Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phép: Phép thuật huyền diệu. Lành: Chỉ điều tốt lành.
Phép lành là một điển lành (tức thanh điển) mà Đức Chí Tôn dùng ban cho các môn đệ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Thầy ban ơn hết trọn cả các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy. Thầy dở Cơ lên cho các con đều chun ngang qua cho Thầy ban Phép lành...
Phép lành cũng là một bí tích trong Đạo Cao Đài mà Đức Hộ Pháp thọ nơi Đức Chí Tôn dùng để ban những điển lành cho chúng sanh.
Giác thế muốn trông mấy phép lành,
Khuyên đời chớ mến lợi cùng danh.
(Đạo Sử).
Một bầu phong nguyệt chừ vui thú,
Hứng giọt ma ha rải phép lành.
(Cao Tiếp Đạo).
Phép: Phép thuật huyền diệu. Linh 靈: Thiêng liêng, huyền diệu, mầu nhiệm.
Phép linh là phép thuật mầu nhiệm và linh hiển.
Cho hay Trời Phật chí công bình,
Trước mắt ngờ ngờ thấy phép linh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phép: Phép thuật huyền diệu. Hiển linh 顯 靈: Hiển hiện ra điều linh thiêng.
Phép hiển linh là phép thuật hiển hiện ra sự thiêng liêng huyền diệu.
Đờn bà thường có phép hiển linh,
Người vâng phục vì tình dạy dỗ.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phép: Phép thuật huyền diệu. Mầu: Huyền diệu.
Phép mầu là phép tắc mầu nhiệm.
Phép mầu, như chữ “Huyền diệu pháp 玄 妙 法”, tức pháp thuật huyền diệu.
Thánh giáo Đức chí Tôn trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Các con đừng thấy những sự phàm quyền ấy mà lo cho Thầy không đủ quyền pháp chế trị, các con sẽ thấy phép mầu của Thầy là dường nào.
Ngày đêm đưa rước chực chầu,
Công bình Thiên Đạo phép mầu chí linh.
(Kinh Sám Hối).
Cơ huyền diệu Đạo Cao minh chánh,
Hiển phép mầu ma lánh quỷ kiêng.
(Xưng Tụng Công Đức).
Giải tán quân nhân thật phép mầu,
Kỳ Sơn phụng gáy nghiệp quy châu.
(Lý Giáo Tông).
Phép: Phép tắc, khuôn phép. Nhà: Trong gia đình.
Phép nhà, như chữ “Gia pháp 家 法”, nghĩa là những phép tắc được dùng để cư xử trong nhà.
May quan cả, rủi cho lê thứ,
Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phép: Chỉ giáo pháp, như phép Phật. Nhà Thiền: Nhà Phật, tức chỉ Phật giáo.
Phép nhà Thiền, như chữ “Phép Phật”, là giáo pháp chơn chánh của nhà Phật,
Tu đặng phép nhà Thiền ít kẻ,
Những đam mê theo lẽ dối đời.
(Lục Nương Giáng Bút).
Phép: Phép thuật huyền diệu. Phân thân: Phân chia ra nhiều cái thân.
Phép phân thân là một pháp thuật chia thân thể của mình để hiện diện được nhiều nơi trong một lúc.
Các Đấng Thiêng Liêng vì phải độ chúng sanh ở khắp mười phương thế giới, nên phải dùng phép phân thân để thị hiện khắp mọi nơi.
Xiên lòng ngoài mặt cũng là ngay,
Biết phép phân thân gẫm quá tài.
(Đạo Sử).
Phép: Do chữ Pháp là giáo pháp, hay phép thuật. Phật: Chỉ Đức Phật.
1.- Phép Phật do chữ “Phật pháp”, là lời dạy, hay giáo lý của Đức Phật.
Phép Phật hay Phật pháp nhắm đến mục đích đem trí huệ giải thoát cho con người. Bởi vì chúng sanh ở cõi trần nầy cứ mãi đau khổ trong cuộc đời do trí huệ thường hằng thanh tịnh của mình bị vô minh che lấp.
Trước mặt luật đời xem rõ thấy,
Thưởng răn phép Phật rõ ngay gian.
(Đạo Sử).
Kiếp tu xưa tiếc chưa nên Ðạo,
Oan trái phủi rồi phép Phật thông.
(Đạo Sử).
2.- Phép Phật còn dùng để chỉ pháp thuật huyền diệu của chư Phật.
Như: Phép Phật có thể khuất phục ma vương.
Phép Phật hằng thông lẽ nhiệm mầu,
Đường về Tiên cảnh có xa đâu!
(Thơ Hoài Tân).
Phép: Do chữ pháp, là tất cả những gì có thể dùng giác quan nhận biết được và luôn tất cả những gì có thể ý niệm được như nhận thức cảm giác, hay có thể dùng đến ngôn ngữ luận đàm được. Sầu than: Những sự buồn rầu, đau khổ, sự phiền não, sự lầm lạc...
Phép sầu than là cái pháp tướng của cõi thế giới Ta Bà, đầy ác trược và uế trược. Đó là những thứ khổ hình, trược chất mà con người phải nhận lấy, phải cam chịu ở cõi thế gian.
Lòn thân dưới phép sầu than,
Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn.
(Kinh Thế Đạo).
Phép: Luật pháp, quy tắc, phép thuật. Tắc: Phép, lệ phải theo.
1.- Phép tắc là lệ và quy tắc định về một việc gì, dùng chỉ về lễ phép.
Như: Nó đối xử với người lớn có phép tắc, cô ấy ăn nói lễ độ và có phép tắc.
Gương hiếu hạnh giữ mình dè dặt,
Với mẹ cha phép tắc để nên gương.
(Phương Tu Đại Đạo).
2.- Phép tắc còn dùng để chỉ về pháp thuật.
Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Còn Ðạo Giáo là huyền bí, thậm chí ư huyền bí, chỉ có người bực thượng trí mới thấu đáo chỗ căn nguyên, còn bực thường nhơn hạ trí thì rất khó thông cơ mầu nhiệm, bởi vậy mới hiểu lầm tưởng sái mà bày ra phép tắc, phù chú làm cho mê hoặc thói đời thêm hư phong tục, khiến người nhiễm lấy dị đoan nào là hô phong hoán võ, tróc quỷ, trừ ma, bày binh, bố trận, mới biến ra tả Ðạo bàng môn, thiệt là rất hại.
Giờ lâu mới thấy dạng lầu đài,
Phép tắc “Ông Già” gẫm thiệt hay.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Phép: Phương pháp, cách thức. Tiên Đạo: Đạo Tiên.
Phép Tiên Đạo là phép tu luyện của Đạo Tiên.
Tu theo Đạo Tiên, trước đây thường hay tịnh luyện. Điều nầy, nếu người có minh sư chỉ giáo hoặc người có đầy đủ công đức thì nên tu tịnh, nhưng phải do Hội Thánh cho phép vào Tịnh thất và tuân hành luật nhà Tịnh.
Việc luyện đạo, Đức Chí Tôn có giải thích như sau: “Người tu hành nếu chưa trường trai trì giới nổi đặng thì hãy lo lập đức, bồi công để làm nền móng vững chắc cho việc Luyện Đạo tương lai, chớ dục vọng mong sớm Luyện Đạo để làm Tiên Phật mà thiếu phần công quả, âm chất. Vì Thầy lập Đạo kỳ nầy là mở một trường thi công quả”.
Phép Tiên Đạo: Tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Phép: Phương pháp, cách thức. Tu vi: Sửa đổi những điều lỗi nhỏ nhặt.
Phép tu vi tức là “Tu vi pháp 修 微 法”, là một phương pháp tu sửa từ những điều xấu, ác nhỏ nhặt nhứt, không bỏ bất cứ một lỗi nhỏ nào.
Thói thường, người ta thường khinh dể những điều nhỏ nhít: Việc nhỏ nhặt người ta thường không thèm để ý đến, hay không muốn làm đến, tỷ như việc làm phước, thấy điều nhỏ không đáng làm, nên bỏ qua; còn việc dữ, tưởng lỗi mọn, vẫn cứ làm.
Vua Chiêu Liệt đời nhà Hán có dạy con là vua Hậu Chủ như sau: Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi 勿 以 善 小 而 不 為, 勿 以 惡 小 而 為 之, nghĩa là dù cho những việc thiện nhỏ cũng chớ nên bỏ qua mà không làm, dù cho những việc ác nhỏ cũng chớ nên làm.
Các con vốn trong vòng Thánh thể,
Phép tu vi là kế tu hành.
(Kinh Thế Đạo).
Phép: Hay pháp là khuôn luật, luật pháp.
Phép thương yêu tức là luật thương yêu, sự thương yêu được làm thành điều luật.
Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn giáng cơ mở đạo kỳ ba, có ký với nhơn loại một hoà ước, gọi là Đệ Tam Thiên Nhơn Hoà Ước, giao cho Tam Thánh Bạch Vân Động công bố cho toàn nhơn loại rõ.
Nội dung bản Thiên Nhơn Hoà Ước gồm Thiên thượng Thiên hạ, Bác ái công bình. Bốn chữ Bác ái công bình làm tiêu chuẩn cho luật và quyền: Đó là Luật thương yêu và Quyền công chánh.
Công nuôi dưỡng nâng niu khổ nhọc,
Phép thương yêu cũng học nơi Thầy.
(Kinh Tận Độ).
Phép: Chỉ bí pháp. Xác: Thân xác người đã chết.
Phép xác là một bí tích của Đạo Cao Đài dành cho những vị chức sắc hành pháp luyện thành Ma Ha thuỷ, rồi dùng nước ấy tẩy rửa chơn thần người chết cho được trong sạch nhẹ nhàng.
Theo Giáo lý nhà Phật, con người sống ở thế gian, xác thân phải mang nhiều phàm trược, bởi vì thế gian này là cõi trược. Khi thân xác bị ô trược thì Chơn thần cũng bị ô trược, mà Chơn thần là một xác thân Thiêng liêng do Phật Mẫu dùng nguơn khí tạo thành, nên rất nhẹ nhàng, trong sạch. Vì ngũ trược, vì oan nghiệt buộc ràng, và vì vật chất lôi cuốn con người chìm đắm vào vòng tục lụy là nơi có nhiều cấu trược, rồi từ đó, con người mới mải chịu xây chuyển trong luân hồi sinh tử, khiến Chơn thần càng ngày càng thêm ô trược, nặng nề, làm cho đường về của nó khó khăn.
Thánh giáo Chí Tôn dạy: “Cái Chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch, mới nhẹ nhàng hơn không khí, ra khỏi càn khôn đặng”.
Chính vì vậy, Chí Tôn mới ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ này được hưởng bí pháp độ hồn, trong ấy là hành phép xác, tức là người hành pháp dùng bí pháp chơn truyền luyện Ma Ha thuỷ, rồi sau đó lấy nhành dương nhúng vào nước Ma Ha rải vào thân xác người mất để tẩy rửa Chơn thần tinh khiết hầu dễ dàng siêu thoát.
Xin Sư phụ dặn lại giùm mấy vị Hành Phép Xác, biểu khi trục chơn thần vào 9 cây nhang.
(Phối Thánh Màng).
批
Phê là ghi ý kiến nhận xét, đánh giá, hoặc tỏ ý khen hay chê, thuận hay không thuận.
Như: Cuối năm thầy phê vào học bạ, chánh quyền phê vào đơn xin phép tạm trú.
Nhớ những lúc Thầy phê tại thế,
Lập đàn tràng phổ tế chúng-sanh.
(????).
批 評
Phê: Xét định mà cho chữ để tỏ ý thuận hay không thuận. Bình: Bàn để biết người hay dở, điều phải trái.
Phê bình là xem xét, phân tích, đánh giá ưu điểm và khuyết điểm.
Phê bình còn có nghĩa là nêu lên khuyết điểm để đóng góp ý kiến, để chê trách.
Như: Phê bình sự thiếu trách nhiệm lãnh đạo.
Với hạng người mộ Đạo, biết xét nét từng câu văn, phê bình từng lời nói, phán đoán từng hành động trong việc đạo để rõ thấu thiệt hư,...
(Thiên Đạo).
批 準
Phê: Ký tên hoặc viết chữ để tỏ ý thuận hay không. Chuẩn: Chấp thuận.
Phê chuẩn là chấp thuận cho thi hành theo đơn xin của quan hạ thuộc hay của nhân dân.
Trong hành chánh đạo của Đạo Cao Đài, quyền phê chuẩn bên Cửu Trùng Đài là Giáo Tông, bên Hiệp Thiên Đài là Hộ Pháp.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.
Nó (Đầu Sư) đặng quyền lập luật, song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Phê: Ký tên hoặc viết chữ để tỏ ý thuận hay không. Nhận: Đồng ý, lãnh.
Phê nhận là ưng thuận và đồng ý cho thi hành.
Phê nhận đồng nghĩa với “Phê chuẩn”.
Thánh Ngôn và Văn Thi đều phải trích lục cho kỹ càng, phải có Hội Thánh phê nhận rồi sẽ in thì khỏi điều sơ sót quan hệ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
批 判
Phê: Bày tỏ cho biết. Phán: Quyết định.
Phê phán là phán định, bình phẩm, tức vạch ra cái sai trái để tỏ thái độ không đồng tình hoặc lên án. Như: Phê phán thái độ quan liêu.
Thánh giáo Đức Quyền Giáo Tông có dạy: Qua không phải nói để trích điểm, song sự thật vẫn là sự thật. Các em tự hỏi lấy và để lương tri lẫn lương năng của mình phê phán.
Khổng Tử tác Xuân Thu phê phán,
Trọng nhân luân kết án loạn thần.
(Báo Ân Từ).
Hiểu cuộc sống ta hầu phê phán,
Lối chưng thờ kết án bàng môn.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
廢
Phế là truất xuống, bỏ, không dùng nữa. Như: Phế vua, công việc bị bỏ phế.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Vì vậy mà Thầy phải phế hết Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh Kim Khuyết, giáng trần độ rỗi các con, chớ chi Thầy đến mà làm cho giảm sự khổ não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào còn lập Tân Luật ràng buộc các con thêm nữa...
Kìa từ trước phế vua phản bạn,
Gẫm bởi đâu tên choán sử xanh.
(Bát Nương Giáng Bút).
Hạc mây nhẹ túi gánh phong ba,
Biết hết Thần Tiên phải phế nhà.
(Đạo Sử).
Phế: Ngưng bỏ. Đời: Chỉ những việc ở thế gian.
Phế đời là từ bỏ hết những việc ở thế gian, kể cả sự vinh hoa phú quý.
Điếu Văn của Đức Thượng Sanh đọc trước Liên đài của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu có câu: Qua năm Kỷ Tỵ (1929) lối tháng mười, mặc dầu hưởng lương bổng trọng hậu, Ngài phế đời về Toà Thánh hiến thân lo Ðạo, giúp Hội Thánh sắp đặt nội bộ và nhất là góp công trong việc nâng loan cho Ðức Chí Tôn và các Ðấng dạy truyền giáo lý.
Con ví biết mình cao bực phẩm,
Thì phải toan cho dám phế đời.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Vừa hồi Khai Đạo, ưa lối nâu sồng,
Gặp lúc phế đời, giải đường hoạn lộ.
(Văn Tế Thượng Phẩm).
Phế đời: Từ bỏ hết những việc ở thế gian, kể cả sự vinh hoa phú quý. Hành đạo 行 道: Đi làm việc đạo, chỉ người tu.
Phế đời hành đạo là từ bỏ hết những việc ngoài đời, đi theo con đường đạo để tu hành.
Trong Bát Đạo Nghị Định, Đạo Nghị Thứ Năm, điều thứ nhứt có quy định: Buộc cả Chức Sắc đã thọ phong phải phế Ðời hành Ðạo.
Và theo Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nhưng chức sắc Thiên phong không trọn phế đời hành Đạo, bị khép vào tội Đệ nhị hình thì giáng cấp tới tín đồ hay buộc hành Đạo ngoại quốc, trừ Ai Lao và Tần Quốc.
Phế đời hành đạo ba mươi mấy,
Thoát tục tầm Tiên sáu chục dư.
(Thơ Thái Phong).
廢 毀
Phế: Bỏ, không dùng nữa. Huỷ: Hư hoại, hư nát.
Phế huỷ là bỏ cho hư hoại, không còn dùng nữa.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Các con đều có Chức sắc chẳng lớn thì nhỏ, đều thọ Thiên phong nơi Thầy. Cứ giữ phẩm vị các con, nhưng Thầy có một điều yếu thiết là cầu các con lập nhiều công quả nơi trường Thầy sáng tạo cho khỏi phế huỷ nửa chừng.
Dân trí chưa phân tam đảnh thạnh,
Quốc quyền phế hũy trí Phan Vương.
(Tôn Sơn Chơn Nhơn).
肺 腑
Phế: Phổi. Phủ: Nơi chứa đựng sáu bộ phận bên trong cơ thể, gọi là “Lục phủ”, như bao tử, mật, tam tiêu, bàng quang, ruột non, ruột già.
Phế phủ dùng để chỉ những bộ phận trong cơ thể.
Phế phủ, nghĩa bóng dùng để chỉ những gì riêng tư, bí mật trong lòng.
Văn Tế tiểu sử Đức Cao Thượng Phẩm của chức sắc Hiệp Thiên Đài có đoạn: Trước từng trải Sài Gòn, Biên Hoà, Gia Định, mới lần qua Cửa Tiểu, đã mấy bữa nắng mưa cam chịu. Đấng Tạo Đoan soi tỏ rõ tấm kiên trinh,
Rồi lại từ Mỹ Tho, Sa Đéc, Long Hồ, mà thẳng tới Bạc Liêu, biết bao phen sương tuyết dãi dầu, ơn Thượng Phẩm đáng ghi vào nơi phế phủ.
Kể ra hại chất bằng non,
Đốt tiêu phế phủ, xoi mòn tâm can.
(Thơ Bảo Pháp).
廢 位
Phế: Bỏ, không dùng nữa. Vị: Chỗ ngồi, ngôi vị.
Phế vị là bỏ ngôi vị, ý muốn nói không được trở về ngôi vị cũ nữa.
Như: Vì ham tiền mà anh ấy đã phế vị.
Đợi (Võ văn Đợi) bị phế vị là vì nó từ chối Thập nhị Đẳng cấp Thiêng liêng...
(Lời Phê Hộ Pháp).
廢 亡
Phế: Bỏ đi. Vong: Mất.
Phế vong là bỏ mất.
Trong Đạo Luật Năm Mậu Dần có câu: Phổ Tế là cơ quan cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự.
Cũng như Đức Khổng Phu Tử, Ngài thấy nhơn loại đã phế vong Đạo Nhơn Luân của mình, nên mới tương tàn, tương sát với nhau,...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
1.- Phi 非 là trái, chẳng phải. Như: Phi lý, phi nghĩa, phi phàm, tránh điều thị phi.
Thánh giáo Thầy có dạy: Cơ Trời, Thầy không lẽ tỏ ra đây, song các con nên biết xét mình là đứng vào địa vị tối cao hơn muôn vật, nên các con phải có trí độ phi phàm, thì mới có đủ tư cách làm người.
Gẫm sự đời thị thị phi phi,
Hễ nhiều cậy e khi ra nhiều nhục.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hắc bạch phú cho vầng nhựt nguyệt,
Thị phi chờ thoát bóng quang âm.
(Thơ Huệ Giác).
2.- Phi 飛 là bay lên, vượt lên.
Như: Phi cơ, phi công, phi thăng, phi sa tẩu thạch.
Long Mã ban vương tiêu trận kỵ,
Cù phi hải sụp lý thay Trời.
(Thơ Hộ Pháp).
非 恩
Phi: Chẳng phải, sái quấy. Ân: Ơn, làm lợi ích cho người, khiến người phải lo đền đáp.
Phi ân là quên đi những ơn nghĩa của người khác đã giúp cho. Như: Phi ân bạc nghĩa.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Tại mặt thế nầy, thảng ta có gặp người như thế tức ta quyết đoán chắc hẳn là chơn linh cao trọng, chớ không phải người hèn hạ phàm phu, trái lại, kẻ nào phi ân, bạc nghĩa, bất hiếu, bất trung, là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú hình và thú tính mà chớ.
Quy tụ thiên lương nên phản trắc nhơn tâm, phi ân vô đạo là thường tình...
(Thánh Giáo Chí Tôn).
飛 禽 走 獸
Phi: Bay lên. Cầm: Loài có cánh, chim, gà, vịt. Tẩu: Chạy. Thú: Loài thú.
Phi cầm tẩu thú là loài chim bay trên trời và loài thú chạy dưới đất.
Trong Đạo Cao Đài, bài Kệ Chuông U Minh, lời nguyện 12 có câu: Phi cầm tẩu thú, la võng bất phùng 飛 禽 走 獸 羅 網 不 逢, nghĩa là chim bay thú chạy, không gặp lưới rập đánh bắt.
Phi cầm tẩu thú, la võng bất phùng.
(Kệ U Minh Chung).
飛 熊
Phi: Bay. Hùng: Con gấu.
Phi hùng là con gấu bay, chỉ người tài giỏi.
Do tích: Ngày xưa vua Cao Tông nhà Thương nằm chiêm bao thấy gấu bay, là điềm ứng sẽ gặp Hiền thần. Quả thật, sau mới thâu được Phú Duyệt, một vị tôi thần tài trí của nhà Thương.
Vỗ cánh phi hùng nâng thổ võ,
Vọi nền tổ quốc đỡ Cao Đài.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
非 理
Phi: Chẳng phải. Lý: Lẽ phải.
Phi lý là chẳng hợp lý, tức là trái với lẽ phải. Như: Nói những điều phi lý.
Trong Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Người đó họ chối cái phận sự làm người, tức nhiên từ chối phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, điều đó không có phi lý.
Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
(Kinh Sám Hối).
非 義
Phi: Chẳng phải. Nghĩa: Việc theo đường lối phải.
Phi nghĩa là trái với đạo nghĩa. Như: Của phi nghĩa không nên nhận lấy.
Sách Cảnh Hành có câu: Nhân phi hiền bất giao, vật phi nghĩa bất thủ 人 非 賢 不 交, 物 非 義 不 取, nghĩa là người không hiền thì đừng làm bạn, của không phải nghĩa thì chớ lấy.
Hồn nào làm bất nhơn phi nghĩa,
Chịu đoạ đày nhiều phía gớm ghê.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Những điều phi nghĩa chớ làm,
Rèn lòng đạo đức tánh tham diệt trừ.
(Thơ Thái Đến Thanh).
非 仁
Phi: Chẳng phải. Nhân: Đức tính hay thương người.
Phi nhân là trái với đạo nhân.
Phi nhân còn dùng để chỉ không phải lòng nhân. Như: Anh ta hay làm những điều phi nhân bất nghĩa.
Không làm việc phi nhân, bất nghĩa để cầu giàu sang danh lợi, không ham muốn việc phù phiếm xa hoa.
(Giáo Lý).
非 凡
Phi: Chẳng phải. Phàm: Tầm thường.
Phi phàm là vượt hẳng sự tầm thường.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Chí Tôn có dạy: Cơ Trời, Thầy không lẽ tỏ ra đây, song các con nên biết xét mình là đứng vào địa vị tối cao hơn muôn vật, nên các con phải có trí độ phi phàm, thì mới có đủ tư cách làm người.
Dùng phương chế thuốc luyện đơn,
Cho thành Đại Giác Chơn Nhơn phi phàm.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Đây Hứa Do là trang minh triết,
Tánh phi phàm vốn thiệt ít ai.
(Lược Thuật Toà Thánh).
非 法
Phi: Chẳng phải. Pháp: Phép, điều được quy định mà mọi người phải theo, pháp luật.
Phi pháp là trái với phép tắc thường, hoặc trái với pháp luật.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Đức Chí Tôn đã phú thác cho Bần Đạo đảm nhiệm rất khó khăn và rất trọng yếu, Ngài căn dặn nhiều phen làm thế nào trừ cho được cái án tử hình, do xã hội giết người một cách phi pháp.
Còn những của hoạnh tài, những món lợi phi pháp do nơi tội ác mà được vào tay...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
非 相 禮
Phi: Không, chẳng có. Tướng: Có hình dạng thấy được. Lễ: Nghi thức dâng cúng.
Phi tướng lễ là sự dâng cúng các Đấng Thiêng liêng những phẩm vật không có hình tướng.
Khi Nhạc tấu huân Thiên, cả thảy phải im lặng, hiến cả âm thanh. Sự bí mật ấy gọi là phi tướng lễ.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
非 想 臺
Phi Tưởng Đài 非 想 臺, còn gọi là “Thông Thiên Đài 通 天 臺”, là một cái đài ở lầu thứ hai, nằm giữa Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài.
Nơi mặt tiền Toà Thánh Tây Ninh nằm giữa hai lầu chuông và lầu trống từ dưới lên trên có xây dựng một công trình gồm ba tầng:
1.- Tầng trệt là Tịnh Tâm Điện, một khoảng trống từ cửa chánh Toà Thánh bước vào, giữa có đặt bức hoạ Tam Thánh ký Hoà ước.
Tịnh Tâm Điện là nơi để chư chức sắc và tín đồ dừng bước để cho tâm lắng đọng, hư tĩnh, trước khi bước vào chánh điện bái lễ Đức Chí Tôn.
2.- Tầng một là Hiệp Thiên Đài, bên ngoài ở giữa nóc có đắp một hình Cổ pháp, dưới có hàng chữ: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ viết bằng chữ Hán lẫn chữ Việt nằm giữa hai chữ Nhân Nghĩa cùng hai câu đối viết bằng chữ Hán:
協 入 高 臺 百 姓 十 方 歸 正 果
Hiệp nhập Cao Đài bá tánh thập phương quy chánh quả.
天 開 黃 道 五 支 三 教 會 龍 花
Thiên khai Huỳnh đạo ngũ chi Tam giáo hội Long Hoa.
Giải nghĩa:
- Họp nhau vào đạo Cao Đài, trăm họ ở mười phương sẽ trở về ngôi chánh quả.
- Trời mở Đạo Huỳnh với Ngũ chi Đại Đạo và Tam giáo tham dự Hội Long hoa.
Dưới cùng của Hiệp Thiên Đài là một bao lơn đưa ra phía trước (tức Bao Lơn Đài) hình bán nguyệt có chạm tám khuôn hình diễn tả tám sự tích sau đây:
|
- Hữu Sào Toại Nhân |
|
- Vua Nghiêu tìm hiền |
|
- Sào Phủ Hứa Do |
|
- Vua Hạ Võ trị thủy |
|
- Khương Tử Nha Võ Kiết |
|
- Phạm Lãi Tây Thi |
|
- Bá Nha Tử Kỳ |
|
- Châu Mãi Thần. |
Bên trong Hiệp Thiên Đài có lập bàn thờ Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh và Thập nhị Thời Quân.
3.- Tầng hai là Phi Tưởng Đài, bên trên nóc Phi Tưởng Đài có đắp hình Phật Di Lạc ngồi trên lưng bạch hổ. Phía trước Phi Tưởng Đài cũng có đắp hình Thiên Nhãn hướng ra mặt tiền Đền Thánh và bên trong có lập một khuôn hình Thiên Nhãn để thờ Chí Tôn, là nơi Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp đến đó thông công cùng Ngài, cho nên Đài nầy còn gọi là Thông Thiên Đài.
Theo lời kể lại của một chức sắc Hiệp Thiên Đài, trong buổi lễ trấn thần Đền Thánh, Đức Hộ Pháp trấn thần khuôn Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài đầu tiên hết, Ngài đứng ngay trước Đền Thánh, ngó ngay Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài, rải Cam Lộ thủy và cầm nhang hành pháp trấn thần.
Kế tiếp Đức Hộ Pháp trấn thần tượng Đức Phật Di Lạc trên nóc Phi Tưởng Đài, Ngài nói: Đức Di lạc đã ngự vào tượng, ngồi thị chứng cho nhơn loại thập phương thế giới day hướng về Đền Thánh mà cầu nguyện Ngài ban ân huệ cho toàn chúng sanh.
Phi Tưởng Đài ngó nhanh Thiên Nhãn,
Rải Cam lồ nhang phán Trấn Thần.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
非 想 天
Hay “Phi Tưởng Diệu Thiên”.
Phi Tưởng Thiên 非 想 天 là tầng Trời thứ tám trong Cửu Trùng Thiên. Tầng Trời này rất huyền diệu, thuộc Đức Từ Hàng Bồ Tát chưởng quản, vì vậy trong Di Lạc Chơn Kinh gọi tầng Trời nầy là tầng Phi Tưởng Diệu Thiên.
Nơi Chánh Điện thờ tại Báo Ân Từ, Bát Nương mặc áo màu vàng, ngồi bên mặt Đức Phật Mẫu, tay cầm Giỏ Hoa Lam.
Bát Nương có nhiệm vụ tiếp rước các Chơn hồn lên tầng Phi Tưởng Thiên, đưa Chơn hồn vào Cung Tận Thức, qua núi Phổ Đà nhờ Từ Hàng Bồ Tát cho cỡi Kim hẩu bay lên núi Tịch San để vào Cung Diệt Bửu. Chơn hồn còn được rưới nước Cam Lồ để tẩy sạch nỗi ai bi kiếp người.
1.- Phi Tưởng Thiên:
Hơi Tiên tửu nực nồng thơm ngọt,
Phi Tưởng Thiên để gót tới nơi.
(Kinh Tận Độ).
Phi Tưởng Thiên, tiếp chơn thần,
Đẩu vân đỡ gót về gần Cung Diêu.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
2.- Phi Tưởng Diệu Thiên:
Phi Tưởng Diệu Thiên hữu: Đa Pháp Phật, Tịnh Thiện Giáo Phật,...
(Di Lạc Chơn Kinh).
Phi: Bay lên. Thăng: Lên, vượt lên cao.
Phi thăng, như chữ “Siêu thăng”, là bay vượt lên Trời, ý nói chơn linh vượt lên cõi thiêng liêng hằng sống.
Trái oan chưa dứt thuở nào thôi,
Muốn đặng phi thăng ráng trả rồi.
(Lý Giáo Tông Giáng).
非 是
Phi: Quấy, trái. Thị: Phải.
Phi thị, cũng như chữ “Thị phi 是 非”, là chỉ sự đúng sai, phải quấy. Như: Mặc cho đời phi thị ta cứ lập công bồi đức, làm cho rõ chuyện phi thị.
Xem: Thị phi.
Phi thị mặc đời nơi quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách Thiên Thai.
(Đạo Sử).
Nên hư trối mặc đời phi thị,
Lam lụ buồn cười bấy lũ trâu.
(Lục Nương Giáng Bút).
Tẻ đường phi thị, noi đường tịnh,
Tìm cửa từ bi lánh cửa hầu.
(Thơ Thuần Đức).
非 常
Phi: Chẳng phải, trái. Thường: Bình thường.
Phi thường là chẳng phải là bình thường.
Hán Thư có câu: Cái hữu phi thường chi công, tất đãi phi thường chi nhân 蓋 有 非 常 之 功, 必 待 非 常 之 人, tức là bởi có công phi thường, nên phải đợi kẻ phi thường.
Đồng nghĩa với chữ “Phi phàm 非 凡”, tức là vượt hẳn sự tầm thường.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có đoạn: Liêm là một đức tính ít người được có và những ai đã thực hành được chữ Liêm cũng cho là bậc phi thường trong thiên hạ.
Ngồi trông con đặng phi thường,
Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh.
(Tán Tụng Công Đức).
Cương trực lòng như người Thánh trước,
Trước làm quân tử tánh phi thường.
(Đạo Sử).
Tuy chẳng phải Tiên mà dị tục,
Dầu chưa đắc Thánh cũng phi thường.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Phỉ là thích, tức thoả mãn nhu cầu thuộc về tinh thần.
Như: Phỉ tình, phỉ nguyền, phỉ chí tang bồng, tung hoành cho phỉ sức.
Nài nỉ xin đình ngày tận diệt,
Hầu lo độ rỗi phỉ tình tôi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
誹 謗
Phỉ: Nói xấu. Báng: Nói điều xấu của người khác.
Phỉ báng là chê bai, nói xấu người khác. Như Phỉ báng tôn giáo là chê bai, nói xấu tôn giáo.
Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có viết: Giận! Thay vì giận kẻ chê bai phỉ báng cùng cố tâm ngăn trở bước đường tu, chúng ta chỉ nên giận mình không đủ tài đức đặng cảm hoá được người. Có vậy chúng ta mới rán lo học hỏi và trau dồi đạo hạnh thêm lên.
Nói năng lỗ mãng thô tục, chửi rủa người, phỉ báng tôn giáo, không giữ lời hứa.
(Tân Luật).
Phỉ: Thoả, thích. Chí: Ý chí, quyết định làm một công việc gì.
Phỉ chí, như chữ phỉ lòng, phỉ dạ, tức là thoả thích trong lòng, dạ.
Phỉ chí hộc hồng non nước trải,
Bền gan tòng bá tuyết sương dày.
(Thơ Thuần Đức).
Có chi vui bẳng ngày tương hội,
Chúa Thánh tôi hiền phỉ chí thay!
(Phan Sào Nam Giáng).
Phỉ: Thoả, thích. Dạ: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm.
Phỉ dạ là thoả thích trong lòng, trong dạ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Đại Hội Nhơn Sanh kỳ này đã làm cho toàn Đạo thoả mãn, Hội Thánh hài lòng, nhơn sanh phỉ dạ, trên hoà dưới thuận, trong ấm ngoài êm.
Công nghiệp để đời chưa phỉ dạ,
Hồn linh phút lại trở về Thiên.
(Thơ Thiên Vân).
Phỉ: Thoả, thích. Nguyền (nguyện 願): Ước muốn.
Phỉ nguyền là thoả mãn điều sở nguyện, nghĩa là thoả lòng ước muốn.
Trong Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Phàm ở đời, bất câu vào cảnh ngộ nào, hễ tri túc là toại, tuỳ phận là yên; lập công với đời là phỉ nguyền chớ không cần khen thưởng; thấy lợi sợ điều phi nghĩa; gặp may không đắc chí, gập rủi chẳng nao lòng, lành dữ đều phú cơ báo ứng, cứ ung dung thơ thới, chẳng cho lưới trần lao lung câu thúc. Đó là tự tại.
Ngâm câu trạch đức, già ưng bụng,
Đẹp phận thừa long, trẻ phỉ nguyền.
(Thơ Thuần Đức).
Phỉ: Thoả, thích. Lòng nguyền: Lòng ước muốn.
Phỉ lòng nguyền, như chữ “Phỉ nguyền”, là thoả theo lòng đã nguyện, nghĩa là thoả lòng ước muốn.
Như: Kết quả đưa đến khiến anh ấy phỉ lòng nguyền.
Xem: Phỉ nguyền.
Nương Đạo, Đời thêm vui phúc trách,
Cứu Đời, Đạo mới phỉ lòng nguyền.
(Thơ Huệ Giác).
菲 葑
Phỉ phong là tên hai thứ rau: Rau phỉ rau phong, dùng để chỉ quê mùa, chất phác hay tính cần kiệm.
Kinh Thi có câu: Thái phong thái phỉ 采 葑 采 菲, nghĩa là hái rau phong hái rau phỉ. Hai thứ rau này nhà nghèo thường hái để ăn, nên người nghèo cũng gọi là phong phỉ.
Tiên Điền Nguyễn Du Tiên sinh trong Truyện Kiều có câu: “Ngần ngừ nàng mới thưa rằng: Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong”.
Cài trâm vẹn giữ nền dung hạnh,
Sửa áo nay tròn nếp phỉ phong.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Phỉ: Thoả thích Tình: Tính tự nhiên của mỗi người do sự cảm xúc mà phát lộ.
Phỉ tình là thoả được tấm tình. Như: Hôm nay hai người gặp nhau tâm sự cho phỉ tình nhớ nhung.
Nài nỉ xin đình ngày tận diệt,
Hầu lo độ rỗi phỉ tình tôi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Giải tộ mầng ông lánh cửa hầu,
Phỉ tình ao ước bấy nhiêu lâu.
(Thơ Thuần Đức).
Phỉ tình gác nguyệt xây cao thấp,
Mặc sức lầu hoa cất dọc ngang.
(Thơ Chơn Tâm).
番 國
Phiên 番: Ngày xưa người Tàu gọi người ngoại quốc, hoặc các rợ dã man ở bốn phương là Phiên.
Phiên Quốc là nước Phiên, một nước ở phương bắc Trung Quốc, còn gọi là Hung Nô hay rợ Hồ.
Nơi Phiên quốc xôn xao lượng thảm,
Hạnh Nguơn xưa đã dám hy sinh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phiên: Phen, lần, lượt. Toà: Nơi xử kiện.
Phiên toà là lần Toà họp để xử án.
Trong đạo Cao Đài, quyền tư pháp của Chi Pháp có phận sự tổ chức các phiên Toà xét xử, định án để xử trị các Chức sắc hay tín đồ vi phạm luật pháp của Đạo.
Theo Đạo luật năm Mậu Dần (1938), cơ quan xét xử được gọi là Toà Đạo, nhưng sau nầy được Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa đổi tên là Bộ Pháp Chánh. Bộ Pháp Chánh trực thuộc Chi Pháp và do một vị Thời Quân Chi Pháp Hiệp Thiên Đài làm Chưởng Quản.
Thiên lương vi chủ phiên toà,
Tội mình mình sử đâu là trạng sư.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
1.- Phiến 片 là tấm, mảnh, tức chỉ từng đơn vị những vật hình khối có bề mặt bằng phẳng, vuông vắn.
Như: Phiến gỗ, phiến đá, phiến tâm, phiến nguyệt, nhứt phiến băng tâm tại ngọc hồ.
Hương tâm nhứt phiến cận Càn khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ánh nguyệt lờ mờ nửa phiến lu,
Ra vào trằn trọc suốt đêm thâu.
(Thơ Huệ Giác).
Đâu màng lặn suối với trèo non,
Nguyệt rạng trời thu nửa phiến tròn.
(Thơ Cao Liên Tử).
2.- Phiến 扇 là cây quạt. Như: Long Tu phiến.
Trong Đạo Cao Đài, Đức Thượng Phẩm cầm bửu pháp là cây Long Tu phiến, tức cây quạt được dùng ba mươi sáu cọng lông cò trắng kết thành.
Thánh giáo Đức Thượng Phẩm có dạy về cây Long Tu Phiến như sau: Chơn thần nào trong sạch thì nương theo đó mà siêu nhập Cực Lạc Thế Giới. Trái lại, chơn thần nào luyến ái tà mị thì lánh xa mà đi lần đến U Minh cảnh giới. Cả cơ “thu” và “đẩy” của Long Tu Phiến với chơn thần đều do luật “đồng khí tương cầu” mà thành tựu. Nghĩa là chơn thần đạo đức thì Long Tu Phiến hấp dẫn đến gần và đưa vào Cực Lạc Thế Giới; còn chơn thần trọng trược thì Long Tu Phiến đẩy ra xa và lần hồi đi đến cảnh U Minh đen tối.”
Long Tu Phiến là cây quạt do điển khí của Tam Thập Lục Thiên kết thành, quạt ấy tiết ra một điển lực có ảnh hưởng đến cuộc tấn hoá của quần linh.
(Đạo Sử).
煩
1.- Phiền là có tâm trạng buồn bực, khó chịu vì phải lo nghĩ nhiều. Như: Lòng phiền muộn, buồn phiền vì thi rớt, giải phiền.
Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có dạy Ngài Cao Quỳnh Cư: Con cũng vậy nữa, con phải nhớ hằng ngày lời Thầy và hạnh khiêm cung của Thầy mà giải lòng phiền nghe, chẳng cần thương ghét, chỉ biết phận mình, làm thế nào cho hồn Ðạo thêm cao, ngày kia chúng sanh sẽ đổ lụy rơi châu mà xét nét sự lầm lạc của thế tình.
Nguyền cho trăm họ bình yên,
Nhà nhà no ấm khỏi phiền khỏi than.
(Giới Tâm Kinh).
Phần nội trợ trăm phiền đeo đẳng,
Đạo phụ cơ đã nặng cho mình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Phiền là bực, không bằng lòng về việc gì.
Như: Anh ta phiền về việc ấy, phiền trách, lỡ tàu thì phiền lắm, nhờ vả nhiều thì cũng phiền.
Đừng phiền rằng: lỗi, phải, oan, ưng;
Nhớ buổi nhỏ cha cưng không đánh đập.
(Phương Tu Đại Đạo).
煩 苛
Phiền: Có tâm trạng buồn bực, khó chịu vì phải lo nghĩ nhiều. Hà: Khắc bạc.
Phiền hà buồn rầu bực bội. Phiền hà còn dùng với nghĩa làm phiền, làm rầy, như phiền hà hàng xóm.
Thánh giáo Lý Giáo Tông dạy: Từ đây, Lão hằng gìn giữ chư hiền hữu hơn nữa. Nếu Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh là có ý muốn giá trị của chư hiền hữu thêm cao trọng nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà nghe!
Các con chớ phiền hà chuyện Thánh Thất xảy ra, ấy cũng một bước trắc trở trong đường Ðạo của Thầy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Phiền: Có tâm trạng buồn, khó chịu vì phải lo nghĩ nhiều. Lòng: Chỉ bụng dạ, biểu tượng cho tâm lý, tình cảm của con người.
Phiền lòng là buồn và cảm thấy không yên lòng.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có dạy: Bần Đạo buộc mới đây phải lập Thánh Lịnh định khuôn luật của cơ bút có nhiều lẽ Bần Đạo khoan dung. Khoan dung ấy làm cho phiền lòng Đức Lý, cho nên Đức Lý trách Bần Đạo cầm quyền Hộ Pháp trong tay điều trị, điều ấy mà không định luật của nó để rối loạn cơ bút, nên Bần Đạo lập Thánh Lịnh đó.
Đừng phiền lòng cơn giận lúc hờn,
Hễ để dạ giận hờn già dạy trẻ.
(Phương Tu Đại Đạo).
煩 累
Phiền: Rầy rà, rắc rối, sinh nhiều chuyện phải bận lòng. Luỵ: Ràng buộc.
Phiền luỵ là ràng buộc những việc phiền phức, hay rắc rối. Nhờ vả mãi phiền lụy anh quá.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lấy tánh đức thường tình của một Bà Mẹ không có gì lạ, ta thấy vì trong một gia đình kia dầu rân rát, một người dầu quyền cao tước trọng, dầu làm quan Toà, quan Tham Biện hay Tể Tướng đi nữa mà bước vào nhà còn làm Tể Tướng thì Bà Mẹ không ưa lại thêm phiền lụy, làm quan với ai kia, chớ về nhà làm quan với gia đình à!
Thua được, được thua phiền luỵ mãi,
Trả vay, vay trả nghiệp nhân còn.
(Thơ Thuần Đức).
Bạn cùng trăng gió vơi phiền luỵ,
Tình với non sông nặng ái ân.
(Thơ Thuần Đức).
煩 悶
Phiền: Có tâm trạng buồn bực, khó chịu vì phải lo nghĩ nhiều. Muộn: Rầu.
Phiền muộn là buồn rầu, tức là buồn và cảm thấy đau khổ, phải suy nghĩa nhiều.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Trung, con chớ phiền muộn lo buồn chi, địa vị mỗi con Thầy đã lập thành, cái tai nạn kia vừa qua thì có lẽ một ngày Thầy sẽ thấy các con thung dung mà hiến cho Thầy một sự trông cậy chắc chắn. Quyền thiêng liêng của Thầy nơi tay, nếu chẳng phải để dắt các con, chớ cho ai được?
Càng sợ hở thung huyên phiền muộn,
Thảm bao nhiêu gắng gượng làm vui.
(Nữ Trung Tùng Phận).
煩 惱
Phiền: Có tâm trạng buồn bực, khó chịu vì phải lo nghĩ nhiều. Não: Âu sầu.
Phiền não là buồn bực.
Theo Phật, phiền não là những tâm hành có tính cách tiêu cực, có tác dụng làm náo loạn, làm cho mất đi sự an vui. Có ba loại phiền não chính: Tham, sân, si và sáu thứ phiền não căn bản là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, Đó là sáu phiền não gốc, có khả năng làm phát sinh ra nhiều thứ phiền não khác.
Thánh giáo Thầy dạy: Con đã để dạ ưu tư về mối Ðạo, đã lắm lần trưu cay ngậm đắng mà nhuộm nét nâu sồng, mong trau rạng mảnh gương để soi chung bước đàng sau mà lần đến cảnh tự tại thung dung, tránh bớt muôn điều phiền não.
Nương phướn Tây Thiên về cảnh tịnh,
Bỏ nơi phiền não chịu ai bi.
(Đạo Sử).
Nghìn thu tự toại vô phiền não,
Muôn thuở an nhàn bất tái lai.
(Thơ Thông Quang).
煩 複
Phiền: Có tâm trạng buồn bực, khó chịu vì phải lo nghĩ nhiều. Phức: Nhiều lớp.
Phiền phức là rắc rối, lộn xộn, lôi thôi. Cách làm đó quá phiền phức.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Không, các con ôi! Vì còn xác phàm nơi các con, nên các con mới để lòng phiền phức dường ấy.
Lẽ loi mãi chịu phiền phức mãi,
Trước sau lo kết dãi đồng tâm.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
煩 碎
Phiền: Có tâm trạng buồn bực, khó chịu vì phải lo nghĩ nhiều. Toái: Vụn vặt.
Phiền toái là nhiều và vụn vặt, ý chỉ việc phiền phức lôi thôi, rắc rối.
Như: Nhiều thứ nghi lễ phiền toái.
Chẳng nói chẳng nghe hơn nói thiệt,
Xa vòng phiền toái lặng nghiêm minh.
(Thơ Thanh Hương).
煩 責
Phiền: Có tâm trạng buồn, khó chịu vì phải lo nghĩa nhiều. Trách: Quở, bắt lỗi.
Phiền trách là buồn lòng và trách cứ.
Trong Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo Thầy có dạy: Con cái muốn chi thì đặng nấy, Thầy đã nhiều phen bị mấy anh Thiêng liêng của các con phiền trách rằng: Thầy thương yêu thân cận các con quá lẽ mà làm cho sanh tật dể duôi và xúm nhau khuyên Thầy đừng thường giáng đặng để cho chúng nó dạy dỗ các con.
Vì thương mới nặng lời phiền trách,
Xử sao cho trong sạch nợ đời.
(Tứ Nương Giáng Bút).
閥 閱
Ngày xưa, triều đình viết công trạng cho các vị công thần vào một cái bảng đem treo bên tả, gọi là “Phiệt”, treo bên hữu gọi là “Duyệt”.
Sách Sử Ký nói: Nêu rõ thứ bực gọi là Phiệt, tích số ngày lại gọi là duyệt.
Về sau, người ta gọi những gia đình quyền quý là “Phiệt duyệt” hay “Thế phiệt”.
Nhà phiệt duyệt lưu truyền nơi thế thượng, tỉnh Tây Ninh lớn nhỏ thảy đều thương,
Trí thông minh còn roi dấu thơ hương, miền Bến Nghé trẻ già nào chẳng rõ.
(Văn Tế Thượng Phẩm).
飄 泊
Phiêu: Cuốn theo gió. Bạc: Đậu lại.
Phiêu bạc là khi thì cuốn đi, khi thì đậu lại, ý nói nay đây mai đó, trôi nổi không có chỗ ở nhứt định.
Đồng nghĩa với từ Nôm “Phiêu bạt” là trôi nổi, không có chỗ định.
Như: Phiêu bạc giang hồ hơn mười năm nay.
Từ đấy quên đi đời sóng gió,
Con thuyền phiêu bạc hết long đong.
(Thơ Hàn Sinh).
Tảo tần khuya sớm thân phiêu bạc,
An phận tháng năm kiếp sống bèo.
(Thơ Thuần Khiết).
飄 蓬
Phiêu: Cuốn theo gió. Bồng: Cỏ bồng.
Phiêu bồng là cỏ bồng bay theo gió, ý chỉ người đi trôi nổi, không có sở định.
Nằm trên sạp lịm ngôn từ,
Say vầng nguyệt tỏ hồn như phiêu bồng.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Qua mấy lộ trình hơn nửa kiếp,
Mà sao chưa thoả chí phiêu bồng.
(Thơ Linh Hữu).
飄 零
Phiêu: Cuốn theo gió. Linh: Tàn tạ.
Phiêu linh là lá cây bị gió cuốn lay rụng. Nghĩa bóng: Thân thế không may gặp nhiều nỗi vất vả.
Thánh giáo Thầy có câu: Thầy nắm máy huyền vi, hằng lấy cân thiêng liêng mà day trở máy Càn khôn, vì vậy thế cuộc phải tuần hoàn, bầu nhơn sự phải luân chuyển vần xây phiêu linh cho đến buổi nhơn loại được vẹn toàn, thế giới cũng vì đó mà phải đổi thay, gạn đục lóng trong mà tạo thành miền Cực Lạc.
Đất chở trời che đời thiết thực,
Non Bồng nước Nhược cảnh phiêu linh.
(Thơ Vạn Năng).
飄 流
Phiêu: Cuốn theo chiều gió. Lưu: Trôi theo nước.
Phiêu lưu là bị gió dập sóng dồi, hoặc chỉ việc đi nơi nầy đến nơi khác không có định hướng.
Phiêu lưu còn có nghĩa là không định hướng.
Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp, Ngài có nói: Bần Ðạo đã nhiều lo ngại cho căn số con cái của Chí Tôn trong buổi phiêu lưu nơi hải ngoại, e ra vì nhẹ dạ của đôi phần tử Thánh Thể của Thầy, nên vừa để gót về đất Tổ Ðình thì đã quên hẳn mảnh thân tiều tuỵ hao mòn, vội cầm quyền của Ðạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chơn truyền...
Hồn quê dầu hưởng ân đền Thánh,
Mà kiếp phiêu lưu có bóng người.
(Thơ Hộ Pháp).
Con tưởng phiêu lưu nơi xứ lạ,
Về quê hương nhìn cội cả nhớ thung đường.
(Văn Tế Đốc Học).
飄 飛
Phiêu: Cuốn theo chiều gió. Phi: Bay.
Phiêu phi là bay phất phới theo chiều gió cuốn.
Như: Diều bay phiêu phi ở giữa lừng trời.
Hễ cầm cây đàn thì phiêu phi ở giữa lừng trời, nhiều khi tiếng đàn hợp với tinh thần...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
漂 母
Phiếu: Giặt rửa. Mẫu: Mụ, bà.
Phiếu mẫu là bà mụ giặt lụa.
Điển tích chép trong Sử Ký: Lúc còn hàn vi, Hàn Tín ngồi câu dưới thành. Gần đó, có nhiều bà làm nghề giặt hàng lụa, trong đó có bà thấy Hàn Tín đói, mới cho cơm ăn, giúp hơn mười ngày như vậy. Bà ấy được gọi là “Phiếu mẫu”.
Tín nói rằng: Tôi nguyện sẽ đền đáp ơn nặng của bà. Nghe vậy, bà giận nói: Làm người trượng phu, không kiếm đủ miếng ăn, tôi thấy thương tình cấp dưỡng, chứ đâu phải mong đền đáp?
Sau này, Hàn Tín được phong vương, mời bà phiếu mẫu đến tặng nghìn vàng.
Chén nước Mậu Sanh hơn rượu quý,
Bát cơm Phiếu Mẫu đượm tình thương.
(Thơ Chơn Tâm).
Bát cơm Phiếu Mẫu tình thâm thuý,
Chén nước Mậu Sanh, nghĩa đậm đà.
(Thơ Chơn Tâm).
Phím là miếng bằng gỗ, nhựa hay kim loại gắn vào cần để đỡ dây đàn và định cung bậc. Như: Phím đàn, tơ chùng phím loan.
Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: Lời xưa đã lỗi muôn vàn, Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây.
Hễ muốn cho hoà tiếng tranh kìm,
Kìm sửa phím tranh lên cho đúng bực.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ghì phím ngọc thơ chan rỉ rả,
Nhấn đường tơ nhạc toả trùng trùng.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Phím: Miếng gỗ, nhựa hay kim loại, dùng để chắn dây đàn trên một số loại đàn. Loan: Chim loan.
Trên cây đàn có Loan phụng trụ là cái trục dây đàn đóng kề nhau. Chim loan là chim mái, chim phụng là chim trống. Loan phụng ví như vợ chồng.
Phím loan là cái phím đàn, cũng có đôi được gắn chặt keo, chế bằng máu chim loan để ví vợ chồng.
Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng,
Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Kính cẩn so dây, chọn phím loan,
Đón chào Kim Mẫu, tiết thu vàng.
(Thơ Hàn Sinh).
Phỉnh là nói khéo để làm cho người ta tưởng thật, thích và nghe theo, làm theo.
Như: Lừa phỉnh, phỉnh nịnh, phỉnh phờ, nói phỉnh mấy câu là nghe ngay.
Du hành là kẻ bỏ đường tu,
Con sáng đừng nghe phỉnh lù mù.
(Đạo Sử).
Phỉnh: Lừa, gạt.
Phỉnh phờ, như chữ “Phỉnh, nói khéo cho người ta thích để xui làm việc gì.
Như: Nó dùng thủ đoạn phỉnh phờ mưa chuộc.
Vương mang đoạn thảm rối lòng tơ,
Trộm trách cao xanh khéo phỉnh phờ.
(Thơ Thuần Đức).
Pho là từ dùng để chỉ từng đơn vị bộ sách hay bức tượng lớn và quý giá.
Như: Tủ sách còn mấy pho tiểu thuyết quý giá, mấy pho tượng Phật ở chùa bằng đồng đen.
Trước Ðiện lai rai ba chú Ðạo,
Sau hiên meo mốc mấy pho kinh.
(Thơ Huệ Giác).
Học đạo thiếu văn thuyền chích lái,
Cũng nên tìm kiếm một đôi pho.
(Nhan Hồi-Tử Tư Giáng).
Ban vạn loại pho Kinh Tận Độ,
Cứu Nguyên nhân mãn số siêu thăng.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
1.- Phó là giao cho, cấp cho, trao cho, để cho chịu trách nhiệm hoàn toàn. Như: Phó thác, phó mặc, giao phó.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Con đến đây với tấm lòng thành thật để làm việc phải cho giống dân biết phục thiện hiện đang giao phó cho con.
Ðạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sau ra vạn dặm trường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phó 副 là bậc phụ, bậc thứ, đối với chánh.
Như: Phó Hội Trưởng, phó Chưởng Quản, phó giám đốc một công ty giầy da.
Tiếp Tân mừng chị kính đôi hàng,
Trách nhiệm vừa kiêm Phó Trưởng ban.
(Thơ Chơn Tâm).
3.- Phó 赴 là tới, đến. Như; Phó nhậm, phó lỵ, phó hội, phó yến.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ngày kia nhơn mời ngài đi phó yến, Tào Tháo thấy ngựa cũa Ðức Ngài (Quan Thánh) quá ốm, bèn khiến kẻ tuỳ tùng dắt đến một con ngựa sắc đỏ như than lửa, vóc cao sức lực mạnh mẽ, rồi sai thắng đủ yên lạc mà ban cho Ðức Ngài, Ðức Ngài nhìn ngựa rồi lật đật quỳ xuống lạy tạ.
Cung Diêu về phó Hội Bàn Đào,
Bà Nữ Đầu Sư phẩm tối cao!
(Thơ Chơn Tâm).
赴 會
Phó: Đi đến. Hội: Hội nghị, Họp nhau.
Phó hội đi tham dự cuộc hội. Ví dụ như: Phó Hội Bàn Đào là đi dự Hội Yến Diêu Trì Cung do Đức Phật Mẫu tổ chức nơi cõi Thiêng Liêng.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì có đoạn: Cuộc Hội Yến đến đây rất long trọng. Các chị nơi Diêu Trì Cung đều sửa soạn trang hoàng, hô hào nô nức đặng đến phó hội.
Âu du phó hội chủ hoà,
Giảng cho dân tộc nước nhà thương yêu.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Phó 付: Giao cho, cấp cho, trao cho, để cho chịu trách nhiệm hoàn toàn. Mặc: Không thèm nói đến, không để ý đến.
Phó mặc có nghĩa là giao cho và để mặc làm gì thì làm, ra sao thì ra.
Như: Mọi việc nó phó mặc cho may rủi.
Nắm chặt khuôn linh sửa nét trần,
Nên hư đã phó mặc Hồng Quân.
(Thanh Sơn Đạo Sĩ).
Vầy nhau phó mặc hồi xuôi ngược,
Kỉnh Phật dầu ai nói gỗ tròn.
(Thơ Thái Phong).
Tùng bách há sờn cơn bão tuyết,
Sặt lau phó mặc trận cuồng phòng.
(Thơ Huệ Phong).
赴 任
Phó: Đi đến. Nhậm (nhiệm): Gánh vác.
Phó nhậm là đi đến chỗ làm việc quan, hay nói khác hơn, quan chức đến nhận nhiệm sở.
Như: Ông ấy về phó nhậm chức Cai Tổng Hàm Ninh Thượng.
Đó là lấy tích ông Triệu Biện đời Tống làm quan thanh liêm đến nỗi khi đi phó nhậm chỗ nầy sang chỗ khác, chỉ đem theo một con hạc và cây đàn cầm...
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
副 總 監
Phó: Bậc thứ, phụ. Tổng: Đứng đầu để chỉ huy. Giám: Coi sóc.
Phó Tổng Giám là một chức vụ trong đạo Cao Đài, làm đầu nhiều Sở, thuộc cơ quan Công thợ của Hội Thánh, dưới quyền Tổng Giám.
Cơ quan Công thợ của Hội Thánh có nhiều Sở chuyên môn, như Sở Mộc, Sở Hồ, Sở Đắp Vẽ...
Ban Kiến Trúc cũng là một cơ quan Công thợ của Hội Thánh, đứng đầu là một vị Tổng Giám, dưới quyền có nhiều vị Phó Tổng Giám và Tá Lý.
Phó Tổng Giám đối phẩm với Lễ Sanh hay Giáo Thiện bên Cửu Trùng Đài và Cơ Quan PhướcThiện.
Phó Tổng Giám đối hàm Lễ Sanh hay Giáo Thiện.
(Chánh Trị Đạo).
副 治 事
Phó: Bậc thứ, phụ. Trị: Sắp đặt cho yên. Sự: Việc.
Phó Trị Sự là một phẩm Chức Việc do Đức Lý Giáo Tông lập ra để giúp việc cho Chánh Trị Sự và làm đầu hành chánh một Ấp đạo.
Trong Pháp Chánh Truyền cho rằng: Phó Trị Sự là Giáo Tông em, vì chỉ nắm quyền hành chánh trong một Ấp đạo, giống như Giáo Tông cầm quyền hành chánh Cửu Trùng Đài.
Trong mỗi Hương đạo, có nhiều Phó Trị Sự tuỳ theo ấp đạo. Mỗi Ấp đạo là một vị Phó Trị Sự nắm về hành chánh.
Các Phó Trị Sự hiệp với Chánh Trị Sự và các vị Thông Sự trong một hương đạo, được gọi chung là Bàn Trị sự Hương đạo.
Phó Trị Sự cũng là Chức Sắc của Lý Giáo Tông lập thành.
(Pháp Chánh Truyền CG).
Phò, như chữ “Phù 扶”, là theo bên cạnh để giúp, hay nâng đỡ.
Như: Phò trợ, phò vua giúp nước, một lòng phò chính diệt tà, phò hộ, cứu trợ phò nguy.
Thần Hoàng Bổn Cảnh trong Thánh Ngôn HIệp Tuyển có câu: Ấy là từ đây Ngọc Ðế truyền lịnh cho ta phải theo phò chư Cao đạo hữu, nên ta lo lắng bội phần hơn khi trước.
Một kẻ Tiểu đồng phò Phất chủ,
Ðôi nàng Tiên nữ quạt hương trầm.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Phò Lưu Huyền Đức lắm công lao,
Chánh khí gương nêu vạn cổ làu.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
Hay “Phò cơ”.
Phò (phù): Nâng đỡ. Cơ: Một vật dùng để cầu Thần Tiên. Loan: Chim loan, vì trên đầu cây ngọc cơ để cầu các Đấng Tiên Phật, có chạm hình đầu con chim loan.
Phò cơ, như chữ “Phù cơ 扶 乩”, là hai vị đồng tử ngồi hai bên ngọc cơ, mỗi người dùng hai tay cầm giỏ cơ nâng lên, để cho các đấng Thiêng liêng giáng điển vào ngọc cơ, làm cho cơ chuyển động viết thành chữ.
Phò cơ còn được gọi là phò loan, vì nơi đầu ngọc cơ có chạm hình đầu chim loan. Trong đạo Cao Đài các vị đồng tử được Đức Chí Tôn chọn trong các vị chức sắc Đại Thiên Phong của Hiệp Thiên Đài.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy: Phải có một Chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền diệu, phải trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tành chí Thánh, Tiên, Phật, mới phò cơ dạy đạo cả chúng sanh.
Còn ai giúp sức Phò cơ Thánh,
Thiếu kẻ chung vai gánh Đạo Trời.
(Thơ Hiến Pháp).
Trường đời giáo hoá gầy anh tuấn,
Cửa Đạo Phò cơ độ chúng dân.
(Thơ Thượng Trí Thanh).
Phò Dư là một vị vua tàn ác và hay ố Đạo. Khi Đức Khổng Phu Tử giáng thế vào thời Nhị Kỳ Phổ Độ để chấn hưng Nho giáo ở Trung Hoa, có đến truyền Đạo ở nước của vua Phò Dư thì bị vua bắt giam hai năm và cấm không cho Đức Phu Tử đến lần thứ hai.
Những sự ác độc và tàn bạo của vua Phò Dư đối với dân làm động lòng trời, nên Trời phạt nước Phò Dư phải chịu hạn hán và thọ bịnh chướng ba năm để đền tội ác. Vua Phò Dư thấy vậy mới ăn năn, ra lịnh quần thần và dân chúng phải ăn chay để cầu nguyện giải ách cho nhân dân.
Đức Văn Xương Đế Quân được lịnh Thượng Đế xuống khuyên vua hồi tâm hướng thiện, Ngài hoá thành một con rồng xanh, miệng phun sáu tia hào quang, rồi cỡi lên sáu tia ấy bay đi khắp nước của vua Phò Dư để cảnh tỉnh đời và độ nhà vua. Đức Văn Xương đạp lên sáu tia trong miệng rồng là ngụ ý chế ngự lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý.
Bấy giờ vua Phò Dư mới hối ngộ, sai người mời Đức Khổng Tử đến để thọ giáo và truyền bá đạo lý trong khắp nước. Chẳng bao lâu những tai ương, bịnh tật trong dân chúng hết dần, trở lại đời an lạc.
Do vậy, ngày nay Đạo Cao Đài xây giảng đài theo điển tích Đức Văn Xương Đế Quân đạp lên sáu chia nơi miệng rồng phun ra, bay đi khắp nước để cảnh tỉnh nhà vua và dân chúng.
Xem: Đài Thuyết đạo.
Sáu tia lục dục đó mà,
Tích vua vô Đạo ấy là Phò Dư.
(Lược Thuật Toà Thánh).
Hay “Phù hộ”.
Phò (phù): Giúp đỡ. Hộ: Che chở.
Phò hộ, như chữ “Phù hộ 扶 護”, có nghĩa là giúp đỡ và che chở. Như: Phật phò hộ cho tai qua nạn khỏi.
Thánh giáo Đức Cao Thượng Phẩm có câu: Bần Ðạo giáng thế giao tình, ngày nay mới đặng hiểu nhau, thân mật cùng nhau, cái tình cảnh ấy là giềng Thiêng Liêng cột chặt nghĩa nhau, Bần Ðạo tuy sanh Thiêng Liêng chi vị, nếu kẻ thường khó mà gần đặng, mà nay Bần Ðạo vì thọ ân nhau mới tận tâm phò hộ ấy vậy Bần Ðạo kiếm phương trả nghĩa thì cả thảy cũng nên liệu bề thủ nghĩa.
Anh linh hiển hách xin phò hộ,
Chuyển máy huyền linh độ lưỡng đài.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Hay “Phù loan”.
Phò (phù): Nâng đỡ. Loan: Trên đầu cần cơ có chạm đầu chim loan, nên còn gọi là “Loan”.
Trong đạo Cao Đài, khi muốn thông công cùng các Đấng Thiêng Liêng, Hội Thánh phải sử dụng ngọc cơ để cầu, gọi là Phò cơ, nhưng trên đầu cần cơ có chạm hình đầu con chim loan, nên Phò cơ còn được gọi là “Phò loan” hay “Phù loan 扶 鸞”.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy dạy: Vậy con lập cho đủ Ba Trấn chứng đàn, con phải lập bàn Ngũ Lôi như Thầy dạy lúc trước, phải có bùa Kim Quang Tiên, còn con viết bùa Giáng Ma Xử để bàn vọng Hộ Pháp, rồi Cư chấp bút nhang cho Thầy triệu Ngũ Lôi đến, rồi nó xuống đứng gần bàn Hộ Pháp với Tắc và Sang, còn mấy đứa phò loan đứng vòng theo đó
Mừng anh giũ sạch áo phồn hoa,
Lẻ cập Phò loan giúp Đạo nhà.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Bao năm hoá chúng đầy thâm cảm,
Những lúc Phò loan đủ diệu huyền.
(Thơ Võ Thành Lượng).
Xây bàn chấp bút khai Thiên Đạo,
Phong Thánh phò loan độ thế trần.
(Thơ Huệ Phong).
Phò Lưu: Như chữ “Phù Lưu 扶 劉”, là theo phò tá Lưu Bị. Dựng Thục: Xây dựng nên nghiệp nhà Thục.
Phò Lưu dựng Thục, như chữ “Phù Lưu dựng Thục”, là nói đến Quan Võ có công theo phò tá Lưu Bị, giúp đánh đông dẹp bắc để dựng nên nhà Thục.
Xem: Quan Võ.
Tiết nghĩa trung can Hớn đảnh xây,
Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.
(Đạo Sử).
Phò Lưu: Như chữ “Phù Lưu 扶 劉”, là theo phò tá Lưu Bị. Vực Hớn: Giúp đỡ nhà Hớn để khắc phục tình trạng yếu kém vươn lên.
Phò Lưu vực Hớn, như chữ “Phù Lưu vực Hán”, là nói đến tích Quan Vân Trường, có công theo phò tá Lưu Bị để phục hưng nhà Thục Hớn.
Xưa vốn phò Lưu sau vực Hớn,
Phật phong Chơn Tể thưởng Kim Bài.
(Quan Thánh Giáng Bút).
Hay “Phù nguy”.
Phò (phù): Giúp đỡ. Nguy: Tai nguy.
Phò nguy, như chữ “Phù nguy 扶 危”, tức là cứu giúp trong lúc nguy cấp.
Trong Sớ Văn có câu: Cứu khổn phò nguy, tế độ nhơn sanh thoát ư tai nạn, hiệp hoà huynh đệ bằng hữu tương giao, sanh tử bất ly, thuỷ chung như nhứt.
Phò nguy trợ yếu anh hùng chí,
Giúp khó làm nên ít thấy thường.
(Đạo Sử).
Nghĩa nhơn cứu khổ nhà an lạc,
Du ngoạn phò nguy nước thái bình.
(Thái Đến Thanh).
Bác ái công bình phương giải khổ,
Bảo sanh nhân nghĩa thuyết phò nguy.
(Thơ Huệ Phong).
Hay “Phù tá”.
Phò (phù): Giúp đỡ. Tá: Theo ở một bên mà giúp.
Phò tá, như chữ “Phù tá 扶 佐”, là theo ở bên cạnh mà giúp đỡ.
Như: Quan Võ kết nghĩa với Lưu Bị và theo phò tá.
Công đầy quả đủ trở về Tiên,
Phò tá Chí Tôn sửa mối giềng.
(Thơ Thông Quang).
Hay “Phù trì”.
Phò (phù): Giúp đỡ. Trì: Giữ gìn.
Phò trì, như chữ “Phù trì 扶 持”, là giữ gìn, giúp đỡ, hay nói cách khác là che chở, bảo hộ cho. Như: Nhờ sức phò trì của chư Phật.
Thánh giáo Đức Hộ Pháp có câu: Từ đây khá chen vai gánh vác nền Đạo vì quá trễ rồi, cứ lấy hết thiện chí giúp nên cho Đạo, Bần Đạo sẽ phò trì các em.
Xưa chẳng đặng phước may gặp Đạo,
Nay phò trì con cháu tu tâm.
(Kinh Thế Đạo).
1.- Phong 封 là nói vua hay các Đấng Thiêng Liêng ban phẩm tước, hoặc cắt đất chia cho chư hầu. Như: Phong vương, phong chức sắc, phong hầu.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Thầy vì lẽ công mà phong chức sắc cho mỗi đứa cũng là do Toà Tam Giáo xin, chớ xem lại trong hàng môn đệ đã thọ tước cũng chưa đặng thấy mấy đứa cho xứng đáng.
Mình Thánh mình Hiền mình biết lấy,
Tặng phong quá tiếng chớ nhờ ai.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Chức Giáo Hữu phong cho đáng mặt,
Bỏ đời theo Phật gẫm nên đành.
(Đạo Sử).
2.- Phong 封 là gói, bọc. Như: Phong thư, phong thuốc, rêu phong, niêm phong.
Thánh giáo Thầy có câu: Thảm thay! mà cũng tiếc thay! Gió khuất thuyền đưa, nhạn về rừng cũ. Con đường đạo hạnh đợi buổi khuất dấu, mờ mệt nét rêu phong, mới sửa soạn lần chơn, âu dễ biết vô phần hay hữu phúc.
Tấc son phong chặt niềm giao hảo,
Góp nhặt lời quê tạ mấy vần.
(Thơ Thuần Đức).
3.- Phong 風 là gió. Như: Phong ba, phong thuỷ, phong thổ, phong trào.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Ðã từng chịu phong ba bão tố, bị chìm đắm mà chúng ta còn sống rốn nơi đây (rescapé) tức là Chí Tôn dành để lại hột giống lành để làm căn bản cho cội hạnh phúc hoà bình đại đồng thế giới thì sự ưu ái nhau rất nồng nàn hơn tình cốt nhục.
Hạnh phùng bình thuỷ thân an tại,
Nhược ngộ phong ba phận đảo huyền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Ðầy túi thơ văn đổ chứa chan.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
4.- Phong 風 là thái độ, phẩm cách.
Như: Phong độ đạo đức, phong lưu rất mực, phong cách hào hoa, Tiên phong đạo cốt.
Tiên phong Phật cốt mỹ miều,
Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.
(Kinh Tận Độ).
Gái lịch, trai thanh, nên đạo cốt,
Mụ thơ, lão trẻ, rất tiên phong.
(Thiên Thai Kiến Diện).
5.- Phong 風 là thói, nếp. Như: Phong tục, phong hoá.
Thánh giáo Thầy có câu: Cang thường điên đảo, phong hoá suy vi, những mảng ghét lẫn nhau, giành xé nhau, mối tôn giáo phân chia, đạo nước nhà chẳng đoái, chánh tà tà chánh nan phân, còn chút hơi thở ở cõi trần mà tính tình dọc ngang chưa chịu dứt, một mai hồn xuống Diêm Ðài, khổ A Tỳ bảo sao không buộc trói.
Quốc Ðạo kim triêu thành Ðại Ðạo,
Nam phong thử nhựt biến nhơn phong.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Điệu chồng vợ phân phân phải phải,
Nét gia phong để lại cháu con bền.
(Phương Tu Đại Đạo).
6.- Phong 蜂 là con ong, loài trùng có nọc độc, thường bay hút nhị hoa để gây mật.
Nhu: Phong mật (mật ong), phong lạp (sáp ong), phong nhưỡng mật.
Ngoài ra toàn vạn vật đều có tình hữu ái đối với ta “Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tàm thổ tư, phong nhưỡng mật”.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
風 波
Phong: Gió. Ba: Sóng.
Phong ba là sóng gió, dùng để chỉ những sự vất vả, nguy hiểm như chiếc thuyền đi giữa biển gặp sóng gió.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập, Thánh giáo Đức Thượng Phẩm có câu: Chẳng lẽ cứ trầm lặng như mặt nước mùa thu sao? Có gió thổi thì mặt nước mới xao động. Từ gió đến cuồng phong thổi mạnh, nước dậy lên, khi mặt hồ nổi phong ba, thuyền Đạo tròng trành, chẳng những người chèo lẫn người giữ lái phải một phen cực nhọc nữa mới qua được bờ bỉ ngạn.
Lòng trần dầu muốn phong ba dứt,
Ðộ chúng tu nhơn chí nả nong.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phong ba dầu được dìu qua khỏi,
Nhớ bởi chung nhau kết dải đồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
(Đạo Sử).
風 格
Phong: Tập tục. Cách: Lề lối.
Phong cách là tập tục và lề lối tạo thành cái riêng biệt của mỗi người.
Như: Phong cách của một quân nhân, phong cách của người lãnh đạo.
Tinh thần tu niệm gìn phong cách,
Luật pháp nghiêm minh giữ đạo hằng.
(Thơ Huệ Phong).
Gìn sắc ngọc, giá trong, tiết sạch,
Gói vẹn tròn phong cách trung trinh.
(Phù Kiều Hận Sử).
風 景
Phong: Gió. Cảnh: Hình, sắc bày trước mắt.
Phong cảnh là cảnh vật, tức là cảnh tượng tự nhiên bày ra trước mắt.
Như: Phong cảnh quê hương rất hữu tình.
Người xưa quen thuộc đến vầy vầy,
Phong cảnh như mình có ở đây.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Phong cảnh hỏi qua xin khá tỏ,
Căn do hiểu thấu nói cho tàng.
(Thiên Thai Kiến Diện).
封 疆
Phong: Bờ cõi, như chức quan giữ việc coi ngoài bờ cõi nước gọi là phong nhân. Cương: Biên giới.
Phong cương là bờ cõi, tức là giới hạn biên giới giữa hai Quốc gia.
Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng,
Ai giữ phong cương đặng vững bền.
(Đạo Sử).
Đèn rọi năm canh xây thế giới,
Súng đồng mấy khẩu giữ phong cương.
(Thơ Thuần Đức).
Tòng bá giữ bền gan sắt đá,
Có ngày thoả nguyện định phong cương.
(Thơ Tiếp Đạo).
風 移 俗 滅
Phong di: Phong tục bị dời đổi. Tục diệt: Thói tục cũ bị tiêu mất.
Phong di tục diệt 風 移 俗 滅, đồng nghĩa với câu “Di phong dịch tục 移 風 易 俗”, là phong dời tục đổi, ý nói phong tục trong xã hội bị thay đổi.
Sanh gặp lúc ruộng dâu hoá bể, phong di tục diệt, nhìn nước non tha thiết tấm trung thành,
Ở phải hồi dĩ Lữ diệt Dinh, hiền vong ác thạnh,
Tìm công môn xa lánh cửa công khanh.
(Văn Tế Tiểu Tường).
Phong dời: Phong tục trong xã hội đổi dời. Tục đổi: Thói tục con người thay đổi.
Phong dời tục đổi, đồng nghĩa với thành ngữ “Di phong dịch tục 移 風 易 俗”, tức là nói phong tục trong xã hội bị thay đổi.
Lời tựa Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Bậu bạn lỗi câu tín nghĩa, vợ chồng quên đạo tào khương; mãng vụ chữ kim thời mà phong dời tục đổi.
Nhơn vật khác vời,
Vị chữ kim thời,
Phong dời tục đổi,
Ðiền viên đất nổi lên vàng,
Oằn vai nông chịu muôn ngàn thuế sưu.
(Ngụ Đời).
Hay “Phong điều vũ thuận”.
Phong điều: Gió điều hoà. Võ (vũ) thuận: Mưa thuận.
Phong điều võ thuận, như chữ “Phong điều vũ thuận 風 調 雨 順” là gió hoà mưa thuận, ý nói thời tiết điều hoà, mùa màng tốt tươi hay chỉ đời thái bình thịnh trị.
Trong Sớ Văn có câu: Ngưỡng vọng Đức Đại Từ Phụ vận chuyển thế cuộc tảo đắc hoà bình, trật tự an ninh, quốc thới dân an, phong điều võ thuận.
Đàn tràng viên mãn chức sắc quy nguyên,
Vĩnh mộc từ ân phong điều võ thuận.
(Kệ Chuông).
酆 都
Phong đô là Địa ngục, A tỳ, tức cõi giam cầm và trừng trị các tội hồn gây nhiều ác nghiệp lúc còn sống nơi thế gian.
Theo Phật Giáo, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát làm giáo chủ cõi Phong Đô, nên Ngài được gọi là Phong Đô Đại Đế.
Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Vậy thì chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong Ðô Ðịa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các Chơn hồn giải thân định trí.
Phong trần quen thú cung âm,
Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô.
(Kinh Tận Độ).
Nam Mô Địa Tạng thi ân,
Đưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.
(Kinh Tận Độ).
Cảm quang diêu động tâm tu,
Khai cơ giải thoát mở tù Phong đô.
(Kinh Thế Đạo).
風 化
Phong: Phong tục. Hoá: Biến đổi, chỉ sự dạy dỗ.
Phong hoá là phong tục và văn hoá, tức là nói chung những phong tục tập quán có sẵn của dân tộc từ lâu làm cho đời sống con người được yên ổn, tốt đẹp.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Tuỳ theo phong hoá của nhơn loại mà gầy Chánh giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.
Hạp theo phong hoá giữ đường tu,
Nước cạn non mòn đạo đức như.
(Đạo Sử).
Mấy mươi năm phơi trải tấc son,
Trọn một kiếp bảo tồn phong hoá.
(Thơ Hộ Pháp).
Trau gương phong hoá nâng tài trí,
Đỡ gánh xa thơ sửa mối giềng.
(Thơ Huệ Giác).
Hay “Phong hoà vũ thuận”.
Phong hoà: Gió điều hoà. Võ (vũ) thuận: Mưa thuận.
Phong hoà võ thuận, như chữ “Phong điều vũ thuân 風 調 雨 順”, là gió hoà mưa thuận, ý chỉ thời tiết điều hoà, đời thái bình thịnh trị.
Phong hoà võ thuận đồng nghĩa với chữ phong điều võ thuận.
Xem: Phong điều võ thuận.
Phong hoà võ thuận tốt tươi,
Thuận hoà thời tiết hiện đời Phật, Tiên.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
封 建
Phong: Vua ban phẩm tước cho bề tôi. Kiến: Kiến địa là xây dựng đất đai.
Phong kiến là chế độ phong tước và kiến địa, tức là nhà vua phong tước và cắt đất cho chư hầu quản lý. Vua phong theo năm bực phẩm là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
Ở Âu Châu về đời Trung cổ, ở Trung Hoa về đời Tần, chế độ phong kiến thịnh hành lắm.
Ngày xưa thời phong kiến danh từ tín ngưỡng có nghĩa là: “Tin cậy với sự thành kính một Đế Vương hào kiệt nào?”
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
風 氣 溫 和
Phong khí: Hơi gió, chỉ về khí hậu. Ôn hoà: Không nóng, không lạnh, chỉ sự ấm áp.
Phong khí ôn hoà là thời tiết ấm áp, khí hậu mát mẻ điều hoà.
Phong khí ôn hoà thì làm cho con người, vạn vật được khoẻ mạnh và tươi tốt.
Kim vì Tân Xuân Nguyên Đán phong khí ôn hoà, Thiên địa giao thừa...
(Sớ Văn).
風 流
Phong: Gió. Lưu: Nước chảy.
Phong lưu là gió thoảng nước trôi.
Từ ngữ này dùng để chỉ những người học thức, có phong độ thanh nhã, cử chỉ đài các cuộc sống lãng mạn, trái với sự quê mùa ty tiện.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nhạc là món ăn tinh thần đứng đầu trong bốn thú phong lưu của Thánh hiền thời xưa là Cầm, Kỳ, Thi, Hoạ và các bậc Thánh hiền đã dùng Nhạc để đạt đến lý tưởng cao siêu, giúp ích cho sự kinh bang tế thế, xây dựng nước nhà
Nặng mang nỗi nợ phong lưu cũ,
E nỗi đường tu phải chịu sầu.
(Bát Nương Giáng Bút).
Dầu trẻ đã phong lưu quen tánh,
Mình đừng ngăn trẻ lánh điều vui.
(Phương Tu Đại Đạo).
Này trăng này gió, này non nước,
Cái thú phong lưu cái thú nhàn.
(Thơ Thuần Đức).
風 月
Phong: Gió. Nguyệt: Trăng.
1.- Phong nguyệt là trăng và gió, chỉ cảnh trăng trong gió mát.
Phong nguyệt ý nói những người yêu thích cảnh trăng thanh gió mát, vui với quang cảnh thiên nhiên không thiết đến cảnh phồn hoa náo nhiệt của cuộc đời vật chất.
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Ðầy túi thơ văn đổ chứa chan.
(Đạo Sử).
Một bầu phong nguyệt chừ vui thú,
Hứng giọt ma ha rải phép lành.
(Thơ Cao Tiếp Đạo).
2.- Phong nguyệt là trăng gió, dùng để chỉ việc trai gái hẹn hò, tình tự với nhau.
Phong nguyệt đồng nghĩa với nguyệt hoa, trăng hoa.
Giấc phong nguyệt xem bằng tuý mộng,
Vợ cùng hầu so sống đồng thương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Liếc mắt ngó vào trường phong nguyệt,
Mua trận cười nào tiếc ngàn vàng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
風 雅
Phong: Tức là Quốc phong, tên một thiên trong Kinh Thi, nói về thói tục trong nhân gian. Nhã: Tức Đại Nhã và Tiểu Nhã, tên hai thiên trong Kinh Thi, thường nói về triều đình.
Phong nhã dùng để chỉ những gì có cái vẻ văn chương, thanh nhã.
Như: Anh là con người hào hoa phong nhã.
Nòi phong nhã nếp thư hương,
Trông đẹp làm sao hiếu nghĩa đường.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Văn chương mến tiếc người phong nhã,
Đức độ ai hoài bậc triết nhân.
(Thơ Chơn Tâm).
封 蕊
Phong: Đóng kín. Nhuỵ (nhị): Nhuỵ hoa, có công dụng truyền giống cho cây.
Phong nhuỵ tức là nhuỵ hay nhị hoa còn nguyên, nói người con gái còn ngây thơ trinh trắng, ý muốn ví người thiếu nữ mới lớn, còn ngây thơ, trinh trắng.
Cẩm phong nhuỵ đào thơ nở bóng,
Vẻ trân cam lồng lộng mùi thơm.
(Nhị Nương Giáng Bút).
豐 富
Phong: Đầy, thịnh. Phú: Giàu có.
Phong phú là giàu có, đủ đầy. Phong phú còn dùng để chỉ dồi dào, nhiều và lắm màu vẻ.
Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp có dạy: Sau khi sưu tầm và chọn lựa những Thánh giáo được Ơn Trên dạy rải rác trong các Đàn Cơ, chúng ta nhận thấy Giáo Lý Cao Đài rất là dồi dào phong phú dạy chúng ta đủ các khía cạnh của môn huyền bí học nào là vũ trụ, nhơn sanh, luân hồi, quả báo, tiến hoá, hy sinh, nào là lập công bồi đức, huynh đệ đại đồng, cùng phương pháp tu tánh luyện mạng; phản bổn phục huờn nguyên, siêu phàm nhập Thánh, vân vân.
Lời thơ nhắc lại hơi phong phú,
Nghiệp cả xem qua chí kiệm cần.
(Thơ Vạn Năng).
風 光
Phong: Gió. Quang: Ánh sáng.
Phong quang là gió và ánh sáng.
Cổ thi có câu: Nhật hoa xuyên thượng động, phong quang thao tế phù 日 華 川 上 動, 風 光 草 際 浮, nghĩa là ánh sáng mặt trời rực rỡ, lay động trên mặt nước, ánh sáng của gió nổi trên cỏ.
Lời chú thích của Ngũ Thần: Gió không có ánh sáng, ánh sáng nằm trên cỏ. Mỗi khi gió thổi đến lay động ánh sáng ấy, khiến ta cảm tưởng gió có ánh sáng.
1.- Phong quang được dùng để chỉ phong cảnh.
Phong quang rỡ rỡ màu hoa gấm,
Tô điểm non sông ngọn bút thần.
(Thơ Thuần Đức).
Mây lành xuất hiện đẹp phong quang,
Trường thế hơn thua rõ đá vàng.
(Thơ Tiếp Đạo).
2.- Phong quang còn dùng để chỉ phẩm cách đẹp đẽ.
Triều thiên nhứt lộ định phong quang,
Bất nhạ trần ai khả quý nhàn.
(Đạo Sử).
Một thổ võ xưa kia nên tuấn tú,
Bị tay phàm làm xấu nét phong quang.
(Đạo Sử).
封 敕
Phong: Vua hay Đức Chí Tôn ban phẩm tước cho bề tôi hay người có công với Đạo. Sắc: Sắc lệnh, một văn bản viết lệnh của vua hay Đức Chí Tôn, Hội Thánh.
Phong sắc, như chữ “Sắc phong 敕 封”, là vua hoặc Đức Chí Tôn ban lịnh phong chức cho những người có công nghiệp.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Tờ phong sắc cho Chánh Trị Sự thì phải có Giáo Tông và Hộ Pháp ký tên mới đặng.
Còn cả chư ái nữ, Thầy sẽ lập đại hội cho đủ mấy vị rồi sẽ phong sắc một lần.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
風 霜
Phong: Gió. Sương: Hơi nước ban đêm ở trên không rơi xuống.
Phong sương dùng để chỉ quang cảnh thiên nhiên gồm có sương và gió.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Phong sương được vẻ thiên nhiên, Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi.
Phong sương còn dùng để chỉ sự gian nan cực khổ, đi vào nơi gió sương.
Bước đường hồ thỉ chưa nên mặt,
Mái tóc phong sương ướm đổi màu.
(Thơ Thanh Thuỷ).
Chợ đời từng trải gót phong sương,
Rõ mặt trần ai biết chán chường.
(Thơ Hoàng Nguyên).
封 贈
Phong: Ban chức tước cho người có công. Tặng: Cho, hay phong chức cho người chết.
Phong tặng là phong và ban cho chức tước.
Phong tặng còn có nghĩa phong tước cho cha hoặc ông, vì con cháu làm quan và có công lao lớn.
Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Thái Bạch khen lắm, nhưng mà nó nói sẽ sửa lại chút ít và phong tặng hàm cho mỗi đứa đủ quyền hành chánh. Trung, Tắc! Từ đây, như Thầy dạy điều chi, ráng để chí lo cho toàn phận sự, đừng làm việc bạo động nữa nghe.
Ðóng cửa dạy nhà nên đạo nghĩa,
Chẳng vui phong tặng cũng vui tài.
(Đạo Sử).
封 籍
Phong: Vua hay Đức Chí Tôn ban phẩm tước cho bề tôi hay người có công với Đạo. Tịch: Sổ bộ.
Phong tịch tức là phong phẩm tước và ghi công lao vào sổ bộ.
Trong Đạo Cao Đài, những người có công được Hội Thánh phong phẩm chức sắc, rồi ghi vào sổ bộ để Hội Thánh lưu giữ.
Thánh giáo Thầy có dạy: Các con nên nhớ, Thầy lấy từ bi phong tịch, nhưng Chức sắc nếu vì áo mão hơn đạo đức thì tội chất bằng hai.
Các con, phần nhiều chư môn đệ ham muốn phong tịch, nhưng chưa hiểu Thiên phong là gì?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
風 情
Phong: Gió. Tình: Chỉ sự yêu thương giữa trai gái.
Phong tình chỉ mối tình không bền chặt, tình như cơn gió thoảng qua. Ý muốn nói tình lẳng lơ, lãng mạn.
Phong tình là tình trăng gió, tình ân ái giữa đôi trai gái không đứng đắn.
Cao niên biết tuyển hiền đáng mặt,
Khỏi lầm mưu kẻ giặc phong tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Coi chừng lựa sách, thơ, tuồng, truyện,
Những phong tình đừng khiến cho coi.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Phong tình hoa nguyệt”.
Phong tình: Tình cảm lãng mạn, lẳng lơ giữa trai gái. Huê (hoa) nguyệt: Hay nguyệt hoa là trăng hoa, chỉ trai gái tình tự, hẹn hò nhau bất chánh.
Phong tình huê nguyệt, như chữ “Phong tình hoa nguyệt 風 情 花 月”, là tình cảm lãng mạn, lẳng lơ giữa trai gái ngoài vòng lễ giáo.
Truyện phong tình hoa nguyệt là những câu truyện tình nhảm nhí, dâm đãng, làm hại luân thường đạo lý.
Chẳng được soạn hay ấn hành những truyện phong tình huê nguyệt...
(Tân Luật).
封 爵
Phong: Vua hay Đức Chí Tôn ban phẩm tước cho bề tôi hay người có công với Đạo. Tước: Chức tước, hay phẩm tước.
Phong tước là vua phong chức tước cho bề tôi hay trong tôn giáo Cao Đài, Đức Chí Tôn ban phẩm tước cho người có công với Đạo.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Chính tay Lão đã lập Nghị Định thứ 8, có đâu Lão lại phá luật, còn Đài Hiệp Thiên do Hộ Pháp nắm giữ, có đâu Lão lại quá quyền phạm pháp, phong tước cho Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
Phong tước Thiên Tiên bảng ngọc đề,
Giác rồi trở lại độ người Mê.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
封 聖
Phong: Vua ban tước hiệu, hoặc Đấng thiêng liêng ban phẩm tước. Thánh: Bậc Thánh.
Trong Đạo Cao Đài, Phong Thánh tức là Đức Chí Tôn hay Đức Lý Giáo Tông phong phẩm chức sắc vào hàng Thánh trở lên.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy dạy: Thái Bạch đã hứa cùng Thầy rằng, qua ngày Toà Tam Giáo Nữ phái rồi thì nó sẽ phong Thánh thêm nữa. Các con ráng mà chiều theo lòng nó nghe.
Xem: Cơ Phong Thánh.
Xây bàn chấp bút khai Thiên Đạo,
Phong Thánh phò loan độ thế trần.
(Thơ Huệ Phong).
封 神
Phong: Vua ban tước hiệu. Thần: Hàng Thần, bậc linh thiêng, có thể gây hoạ phúc.
Ngày xưa, vua là vị thiên tử (con Trời), nên có quyền phong thần, tức là ban chức phẩm và tước hiệu cho các vị thần linh.
Trong truyện Hoa Tiên có câu: Dù chưa cắt hết tơ trần, Đành cho lập miếu phong thần về sau.
Theo Cao Đài, ở Trung Hoa trong đời nhà Châu, thuộc Nhị Kỳ Phổ Độ có Khương Thượng Tử Nha, thay mặt cho Nguơn Thỉ Thiên Tôn, chiếu theo danh sách trong bảng Phong Thần mà sắc phong cho chư tướng tử trận, cùng các Đạo sĩ tu hành thiếu công đức vào hàng Thánh, Tiên và Phật vị, phải chịu vào phẩm Thiên Thần, đó gọi là “phong Thần”.
Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Đài vân Quan Võ để phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thanh thế con người toan cải ác,
Tùng theo nhơn cách đặng phong Thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
封 賞
Phong: Vua ban tước hiệu, theo Cao Đài, Đức Chí Tôn ban phẩm tước. Thưởng: Khen người có công.
Phong thưởng là đem phẩm tước ban cho người có công nghiệp với Đạo.
Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Vậy các con đứa nào đã được thưởng phong cũng chẳng nên vội mừng mà quên phận sự, còn mấy đứa chưa đặng phong thưởng cũng không nên vội buồn mà thất đạo tâm.
Kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới đi khỏi ngã ấy mà thôi, nghe à.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Phong: Gió. Trào (triều): Thuỷ triều, tức con nước ở bể dâng lên cao.
Phong trào, như chữ “Phong triều 風 潮” là gió và nước thuỷ triều. Nghĩa bóng: Chỉ khuynh hướng rất mạnh một thời.
Thánh giáo Thầy có câu: Ai là khách hữu phần, ai là người vô quả, tánh thiêng liêng đã vì công lý mà ra tay tế độ, vớt kẻ giữa bến trần, khá biết thời thế lần vào nương dựa bóng thái dương, để bước vào con đường minh huệ, tìm suối lặng non Thần, rửa chút bợn nhơ đã vì phong trào mê muội mà cam chịu lấp kín gót trần.
Đến đây, chúng tôi mới hiểu rằng phong trào phò cơ, chấp bút, xây bàn trước kia là tiên triệu cho một nền Tân Tôn Giáo xuất hiện tại xứ Việt Nam.
(Giáo Lý).
風 塵
Phong: Gió. Trần: Bụi bặm.
Phong trần là gió và cát bụi. Có nhiều nghĩa:
1- Phong trần dùng để chỉ nạn chiến tranh:
Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn có câu: Thiên địa phong trần, Hồng nhan đa truân 天 地 風 塵, 紅 顏 多 迍. Nghĩa là trời đất nổi gió bụi, má hồng nhiều truân chuyên.
Quốc Sử Diễn Ca có câu: Ngàn tây nổi áng phong trần, Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
2- Phong trần còn dùng chỉ nỗi khó khăn, gian khổ:
Thơ Đỗ Phủ đời nhà Đường có câu: Bạc hoạn tẩu phong trần 簿 宦 走 風 塵. Có nghĩa: Chức mỏng chạy trong gió bụi, tức là quan nhỏ chịu nhiều nỗi khổ sở trên bước đường công danh, quan lại.
Còn thân sống chịu phong trần,
Dứt hơi dầu muốn trọn gần cũng xa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Biển Nam Hải thuyền Tiên đưa khách,
Động Bồng Lai phủi sạch phong trần.
(Xuân Hương Giáng Bút).
Núi rừng thủ phận thanh bần,
Tịnh thanh một cõi phong trần mặc ai.
(Thơ Hộ Pháp).
3- Phong trần dùng để chỉ sự truỵ lạc:
Những cô gái kỹ nữ được gọi là truỵ lạc phong trần 墜 落 風 塵.
Đời nhà Đường, Phan Tứ Tiện đề vào bức ảnh của một kỹ nữ: Gia hựu phong trần trung nhân diệc như thử, thịnh tai! 嘉 又 風 塵 中 人 亦 如 此. 盛 哉!, nghĩa là trong chốn yên hoa cũng có người đẹp như thế này, thịnh vậy tai!
Tầng nghe giá tuyết trong ngần,
Cớ sao bị nhiễm phong trần bởi đâu?
(Nữ Trung Tùng Phận).
Khách phòng tiêu phải đoạ phong trần,
Còn chi nữa phòng cần kiếp sống.
(Phương Tu Đại Đạo).
風 雲
Phong: Gió. Vân: Mây.
Phong vân là gió và mây, thường dùng để ví gặp dịp tốt để lập công danh, sự nghiệp, giống như rồng gặp mây, cọp gặp gió.
Trong Kinh Dịch có câu: Vân tùng long, phong tùng hổ, Thánh nhân tác nhi vạn vật đổ 雲 從 龍, 風 從 虎, 聖 人 作 而 萬 物 睹, nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp, công việc của Thánh nhân làm vạn vật đều thấy rõ.
Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở đường quốc thể định phong vân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phong vân phải thế buổi bay rồng,
Nanh vuốt bây chừ đủ cánh lông.
(Bát Nương Giáng Bút).
Dạy gắng học sáu thao ba lược,
Hầu có ngày rộng bước phong vân.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hay “Phong vũ”.
Phong: Gió. Võ (vũ): Mưa.
Phong võ, như chữ “Phong vũ 風 雨”, là mưa gió.
Phong võ còn dùng để chỉ những mối nguy hiểm trong cuộc sống, hay những tai vạ xảy đến bất kỳ.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão sư có câu: Chư đạo hữu phải lọc lừa lại, tìm người có tâm chí kết liên thân ái, chung hiệp nhau, bỏ sự lãng phí, dụng đồng tài nơi giọt mồ hôi, được tích thiểu thành đa, gầy dựng một cái nhà chung, để ngày phong võ nương dựa được thung dung, ngồi ngắm thế sự và chấn hưng mối Ðạo quý hoá.
Thuyền từ đã trải cơn phong võ,
Đuốc tuệ từng soi bạn hải lâm.
(Thơ Tiếp Đạo).
放
1.- Phóng là ném mạnh ra, bắn ra, thả ra, hướng mạnh về.
Như: Phóng pháo, phóng lao phải theo lao, âm thanh phóng ra theo hướng Phong đô.
Thần chung thinh hướng phóng phong đô,
Địa Tạng khai môn phóng xá cô.
(Kệ Chuông).
2.- Phóng là buông ra, thả ra. Như: Phóng sinh, phóng thích, giải phóng.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tự ta làm cho đời ta phải khổ, ta tự trói buộc vào vòng luân hồi thì ta phải tự tháo mở, tự giải phóng cho ta vậy.
Luồng gió ồ ào vừa thổi dậy,
Mấy anh tỉnh mỉnh phóng lên kêu.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Hay chữ “Phóng sinh”.
Phóng: Thả ra. Sanh: Sống.
Phóng sanh, như chữ “Phóng sinh 放 生”, là vì sự sống mà thả các loại thú cầm.
Khi bắt được chim cá hay thú vật thả ra cho nó sống, chứ không giết chết, gọi là phóng sanh.
Tu kiều, bồi lộ, phóng sanh,
Thi ân bố đức, để dành kiếp sau.
(Thơ Thiên Vân).
放 心
Phóng: Buông lỏng. Tâm: Cái Tâm.
Phóng tâm là buông thả cái tâm, tức là để tâm tự do suy nghĩ điều nầy điều khác, để tâm tự do buông lung, phóng dật, nên Phật giáo thường gọi là Tâm viên ý mã, nghĩa là tâm ý quay cuồng như vượn và ngựa.
Nếu để cho phóng tâm thì tâm của con người thường hay thay đổi chạy nhảy, do đó cần phải điều phục tâm ý được định tĩnh, tập trung không cho tán loạn để được an lạc và có thể quán chiếu sâu sắc mọi sự vật.
Thành thật thì được người tín nhiệm, tin dùng; hiền lành thì ngăn được phóng tâm...
(Giáo Lý).
放 縱
Phóng: Buông thả. Túng: Thả ra.
Phóng túng là nói người không bị ràng buộc.
Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Ấy vậy, nay các con nếu muốn dưỡng trau phần hồn cho thanh khiết thì cốt nhứt là đừng để tâm thần lay động, phóng túng ra ngoài, mà cần giữ sao cho tự-nhiên, yên tịnh luôn luôn mới được.
Tập em dại biết ham làm lụng,
Đừng nêu gương phóng túng chơi bời.
(Phương Tu Đại Đạo).
放 釋
Phóng: Buông, thả. Thích: Bỏ đi, trừ bỏ đi.
Phóng thích là buông tha, tức thả tội nhân ra, hoặc nói thả người hay vật đang bị giam giữ.
Thí dụ: Phóng thích tù phạm.
Tào Tháo thì áo giáp mất hết, xuống ngựa quỳ lạy cầu xin Ðức Ngài (Quan Thánh) nhớ ơn ngày trước mà phóng thích.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
放 赦 辜
Phóng: Thả ra. Xá: Tha cho. Cô: Tội lỗi.
Phóng xá cô là rộng lòng tha thứ và thả cho những kẻ có tội lỗi.
Ở đây, ý nói tha thứ cho những vong hồn có tội lỗi được thoát khỏi Âm quang để chờ ngày thoát hoá.
Thần chung thinh hướng phóng phong đô,
Địa Tạng khai môn phóng xá cô.
(Kệ Chuông).
1.- Phòng 房 là buồng. Như: Phòng ăn, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng ốc, phòng trù.
Dạy về cách dâng bộ Tân Luật, Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Phải làm một phòng thanh tịnh mà giả làm Hiệp Thiên Ðài. Thập nhị Thời Quân phải có mặt, Thượng Sanh, Thượng Phẩm phải có mặt.
Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.
(Bát Nương Giáng Bút).
Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,
Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Phòng 防 là giữ gìn, hoặc liệu để có biện pháp tránh, ngăn ngừa những điều không hay xảy ra.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Phẩm vị Tiên, Phật để thưởng cho kẻ lành mới đáng phẩm vị, chớ chẳng phải của để treo tham cho thế gian phòng toan đạt đặng.
Phòng cơn biển nọ hoá vườn dâu,
Chưa hết quan viên há hết chầu.
(Đạo Sử).
Chừ sao phụ nghĩa sơ giao,
Phòng toan ném gánh tâm đầu sông Ngân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Khi anh được nhà to cửa rộng,
Thì phòng khi kiếp sống bể dâu.
(Thơ Hộ Pháp).
防 備
Phòng: Giữ gìn, ngăn ngừa, liệu trước để tránh những điều không hay xảy ra. Bị: Phòng giữ, dự trước.
Phòng bị là đề phòng sẵn, tức dự bị ngăn ngừa trước những việc không hay có thể xảy ra.
Như: Để dành lương thực phòng bị ngày mưa bão.
Phú cường xa xỉ không phòng bị,
Bần tiện cần cù giữ kỷ cang.
(Thơ Thái Đến Thanh).
房 桃
Phòng: Buồng. Đào: Hoa đào.
Phòng đào, như chữ “Đào phòng 桃 房”, là buồng có treo màn màu hoa đào, dùng để chỉ phòng của người đàn bà, con gái ở.
Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,
Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.
(Kinh Thế Đạo).
Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng,
Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phòng: Buồng. Hạnh: Cây hạnh, là một loại cây giống như cây đào, ta gọi là trái mơ.
Phòng hạnh, do chữ “Hạnh phòng 杏 房”, chỉ nơi ở của đàn bà con gái, hoặc chỉ người đàn bà.
Phòng hạnh đồng nghĩa với “Phòng đào”.
Thương gắng giữ mặt đời hữu dụng,
Thương linh tâm phòng hạnh nấu nung.
(Bát Nương Giáng Bút).
Chừ sao kẻ Hớn người Hồ,
Để cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hay “Văn phòng Hiệp Thiên Đài”.
Phòng: Văn phòng. Hiệp Thiên: Tức là Hiệp Thiên Đài, một cơ quan trong Đạo Cao Đài.
Phòng Hiệp Thiên tức là “Văn phòng Hiệp Thiên Đài 文 房 協 天 臺”, là một cơ quan trung ương của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, hay nói cách khác là cơ quan lập pháp và bảo thủ luật pháp chơn truyền nền Đại Đạo.
Văn phòng Hiệp Thiên Đài toạ lạc trong Nội Ô Toà Thánh, nằm bên hữu Bình Dương Đạo, song song với ngôi Giáo Tông Đường.
Xem: Hiệp Thiên Đài.
Phòng Hiệp Thiên kề ngang một dãy,
Đức Thượng Sanh lèo lái khuôn thuyền.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
Phòng: Buồng. Không: Trống rỗng.
Phòng không, như chữ “Không phòng 空 房”, là phòng trống rỗng không có gì cả.
Phòng không còn dùng với nghĩa phòng chỉ có người đàn bà và thiếu vắng người đàn ông, gọi là “Phòng không chiếc bóng”.
Kính tặng vài câu mừng bạn cũ,
Tặng người hiếu hạnh chịu phòng không.
(Nhị Nương Giáng Bút).
Đông lạnh ngắt mảnh mền úm trẻ,
Ngồi đêm trường quạnh quẽ phòng không.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phòng: Buồng. Khuê: Buồng của đàn bà con gái.
Phòng khuê, như chữ “Khuê phòng 閨 房”, là một cái phòng ở sâu trong nhà, dành riêng cho phụ nữ ở.
Người xưa quan niệm con gái không được ra khỏi khuê phòng, nên mới có câu “Khuê môn bất xuất 閨 門 不 出”, tức không ra khỏi cửa phòng khuê.
Tuyết sương bủa giá đâu nài,
Vì đâu sanh chúng ra ngoài phòng khuê.
(Bát Nương Giáng Bút).
Nơi phòng khuê phận gái cam đành,
Dạy cho biết cạnh tranh đường thế sự.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phòng: Buồng. Loan: Chim loan, chỉ người đàn bà, con gái.
Phòng loan, như chữ “Loan phòng 鸞 房”, là phòng có màn trướng thêu chim loan.
Phòng loan dùng để chỉ phòng ở của người đàn bà, con gái.
Trải cật phòng loan che kín đáo,
Căm gan đoàn muỗi hết buông lung.
(Thơ Thuần Đức).
Ải nhạn mình chàng tuông dặm liễu,
Phòng loan một thiếp quạnh đêm thu.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
Phòng: Liệu để có biện pháp tránh, ngăn ngừa những việc không hay xảy ra. Ngừa: Ngăn giữ trước.
Phòng ngừa là phòng trước để ngăn ngừa những cái xấu, cái không hay xảy ra.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Vì họ (chỉ Pháp) phiền nòi giống Việt Nam về tâm lý và tình ái vì xưa kia không có, nên ngày nay biến sanh cuộc thảm khốc là không biết phòng ngừa cái lạc hậu xưa kia, nó không đồng tâm lý, hễ phiền nhau thì sanh ra oán nhau, nếu muốn giải quyết cho họ hết phiền thì chúng ta có phương thuốc cứu rỗi đôi bên lấy tình hoà ái cùng nhau lấy nghĩa thâm giao, cùng nhau chia sớt thảm, giục cái tình thân ái sôi nổi cháy bùng lên, có lẽ đôi đàng sẽ giải quyết sự chiến tranh vô lối, vô giá trị, vô nghĩa lý, vô ích kia được.
Giữ ôn nhu ít nói ít cười,
Phòng ngừa sự dễ ngươi lờn mặt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phòng: Buồng. Tía: Màu tím.
Phòng tía, như chữ “Tử phòng 紫 房”, là phòng sơn màu tím, dành riêng cho người con gái sang giàu ở.
Phòng tía đồng nghĩa với gác tía.
Phòng tía cất thành hình thổ võ,
Cung loan lập giống dạng Cao Ðài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thương Mạnh Lệ khi lìa phòng tía,
Đoạt khôi khoa lo phía công phu.
(Thất Nương Giang Bút).
Phòng: Buồng. Tiêu: Hạt tiêu.
Phòng tiêu (Tiêu phòng) là phòng của các hậu phi, hay cung nữ ở.
Ngày xưa nơi tường phòng của các cung điện có trét hồ tiêu cho thơm và ấm.
Sách Hậu Hán Thư viết: Hậu phi dĩ tiêu hồ bích, thủ kỳ phồn diễn đa tử, cố viết tiêu phòng 后 妃 以 椒 塗 壁, 取 其 繁 衍 多 子, 故 曰 椒 防, nghĩa là các bà hậu phi lấy tiêu trét vào vách, là ý muốn có nhiều con, nên gọi là tiêu phòng.
Xem: Tiêu phòng.
Bởi quen mùi vị phòng tiêu,
Bướm ong kiếm dựa, vườn điều đổi hương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Khách phòng tiêu phải đoạ phong trần,
Còn chi nữa phòng cần kiếp sống.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phòng: Buồng. The: Hàng dệt bằng tơ, mặt thưa.
Phòng the là một cái phòng ở sâu trong nhà, có treo màn the phủ kín, dành riêng cho phụ nữ ở.
Phòng the đồng nghĩa với “Phòng khuê”, là chỉ buồng riêng của đàn bà con gái.
Xem: Khuê phòng.
Phòng the vẹn phận trau gương thắm,
Liễu yếu đừng phen cợt gió đông.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Đừng cho nhiễm lấm thân thục nữ,
Chốn phòng the cứ xủ rèm là.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ấm lạnh phòng the, song nữa cánh,
Vườn xưa toan đợi khách xưa vào.
(Thơ Thuần Đức).
房 秋
Phòng: Buồng. Thu: Mùa thu, mùa cây lá đều vàng úa để bước sang đông lá rụng, vì vậy, người ta thường ví mùa thu cho người lớn tuổi.
Phòng thu là buồng của người đàn bà lớn tuổi, hay chỉ người đàn bà luống tuổi.
Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,
Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Để lạnh phòng thu song nửa cánh,
Mưa chiều gió tối lọt mành tương.
(Thơ Thuần Đức).
Cười duyên sân hạnh xuân chưa mãn,
Khóc hận phòng thu nguyệt điểm đầu.
(Thơ Đào Công).
Phòng: Cái buồng. Trù: Bếp.
Phòng trù, như chữ “Trù phòng 廚 房”, là nhà bếp để nấu cơm và nấu thức ăn.
Thánh giáo Lý Thái Bạch có dạy: Phòng trù, dầu phải chung lộn với nhau buổi nấu nướng, khi dọn ăn, chẳng đặng lộn xộn cùng nhau, nghe à!
Xem: Trù phòng.
Việc phòng trù con cũng nên sắp đặt, nhứt là đừng khi khiếm lễ cùng ai hết.
(Đạo Sử).
Phòng: Trương Tử Phòng. Xưa lánh Hán: Ngày xưa tránh hoạ nhà Hán.
Phòng xưa lánh Hớn, nghĩa đen là Trương Tử Phòng ngày xưa lánh nhà Hớn.
Theo Sử Ký, Trương Tử Phòng tức Trương Lương theo giúp Hớn Bái Công đánh Tần rồi diệt Sở, mà tại sao Đức Lý lại viết “Phòng xưa lánh Hớn”?
Phòng xưa lánh Hớn, ở đây ý Ngài muốn nói Trương Tử Phòng ngày xưa lánh khỏi hoạ giết công thần của vua Hớn Cao Tổ.
Xét lại lịch sử ta thấy Tử Phòng, tức là tên tự của Trương Lương, người nước Hàn. Khi Tần Thủy Hoàng đánh tan nước Hàn, sáp nhập vào nước Tần, Trương Lương bèn tìm cách phục thù, dùng tiền thuê một võ sĩ lén giết vua Tần. Việc thích khách Tần Thủy Hoàng tại Bác Lãng bị thất bại, Trương Lương phải cải trang, đổi tên họ trốn tránh ở Hạ Bì.
Tại cầu Hạ Bì, nhờ ý chí nhẫn nại, Trương Lương dâng dép ba lần cho Hoàng Thạch Công, nên được ông trao cho quyển Thái Công Binh pháp. Nhờ quyển Binh pháp nầy mà Trương Tử Phòng sau giúp cho Hán Bái Công đánh Tần Thủy Hoàng rồi diệt Sở Bá Vương Hạng Võ, dựng nên nghiệp nhà Hán.
Sau khi diệt được Sở, Lưu Bang lên ngôi, xưng hiệu là Hán Cao Tổ, rồi phong cho Trương Lương là Lưu Hầu. Trương Lương là người theo Đạo giáo, hiểu rõ triết lý “Công thành thân thối 功 成 身 退”, nên dù vua Hớn ban cho chức trọng quyền cao, nhưng vẫn xin trả chức để trở về sống ẩn dật. Đó cũng là mưu kế khôn ngoan của Trương Tử Phòng lánh khỏi cái hoạ nhà Hán giết hại công thần.
Việc Trương Tử Phòng từ bỏ danh lợi trong lúc đang được hưởng, tìm chốn an nhàn để ẩn dật, chính là cái chước lánh khỏi hoạ giết công thần của vưa Hớn Cao Tổ được kinh sách, các tác phẩm trong đạo Cao Đài nói đến rất nhiều.
Trong Thi Văn Dạy Đạo có lời khen Trương Lương như sau:
Lộc Hớn từ vinh Trương học chước,
Cầm đường tiếng hạc phủi muôn chung.
Thực vậy, trước những thứ như tước lộc của vua ban cho mà chính ông đã theo phò vua lập nhiều công trận, đáng lý phải ở lại hưởng thụ, nhưng Trương Lương học theo chước của các Đạo gia là “Công thành thân thối” nên từ bỏ tất cả những sự vinh hiển.
Đức Hộ Pháp cũng cho rằng: Lánh Hớn Cao Tổ trong khi nhà vua ban cho chức tước, bổng lộc, Trương Tử Phòng không nhận chưa phải là người dại dột:
Lánh Hớn, Tử Phòng chưa phải dại,
Về Tào, Từ Thứ cũng là khôn.
Nói về những bậc “công thành thân thối”, tức là lo cho quốc dân xong mà không ở lại thụ hưởng, Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn viết: “Nếu gặp chúa xứng đáng, biết dụng nhơn, xem phải đạo minh quân lương tể, thì cái chí hướng của người quân tử đã đạt. Nhưng Công thành thì Thân thối; cái thích của họ là sự gầy dựng của mình đã được hoàn thành lấy sự vui của muôn dân làm phần thưởng cho mình, chớ không cần phú quý vinh hoa của người đền đáp.
Bởi vậy, khi làm cho nên nước Ngô rồi thì Tôn Võ Tử ẩn sĩ từ quan, giúp Việt Vương được nghiệp cả trùng hưng thì Phạm Lãi dạo chơi Ngũ Hồ, gầy dựng xong cho Lưu-Bang thì Trương Tử Phòng ẩn chốn núi non, vui cùng tứ hạo. Những bậc vĩ-nhân ấy là cái tinh hoa của trời đất để làm gương mẫu cho đời. Cái chí lập quốc cứu dân của họ sánh với bực Thần Tiên, mồi danh bả lợi không lay chuyển được. Có khi lại dám liều cả tánh mạng để cho đời biết chí cao thượng của mình như Giới Tử Thôi đời chiến quốc! Chúng ta xem qua cái tiết tháo của người xưa đáng kính phục là dường nào!”.
Xem: Lánh Hán, Tử Phòng chưa phải dại.
Phòng xưa lánh Hớn biết hưng suy,
Người có trí ngoan biết thế thì.
(Đạo Sử).
鋪
Phô là để lộ ra, bày ra.
Phô còn dùng để chỉ chưng ra có ý khoe khoang.
Như: Bông phô nhụy vàng, phô tài trước công chúng.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Sự thương yêu là phương pháp duy nhất để độ đời, người hành Ðạo phải phô lòng nhân ái dìu dắt con cái Ðức Chí Tôn quy chánh cải tà để tiến bước trên đường thiện niệm.
Quyền đời hoá chúng còn phô đức,
Cửa Thánh độ người khá kém phương.
(Quyền Giáo Tông Giáng).
Phô: Bày ra, chưng ra có ý khoe khoang. Bày: Phô trương, hay đưa ra ngoài để trông thấy.
Phô bày, như chữ “Phơi bày”, là có ý để lộ ra cho nhiều người thấy, biết.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Về tổ quốc sau khi đã chịu đủ vị thảm sầu, tưởng đã đủ cớ phô bày cho cả chúng sanh thấy đặng rõ ràng chơn tướng của Ðạo, đã nung chuốt với sự thảm khổ vô hạn của mình đặng vẽ vời giọt huyết lệ, hai chữ nhơn nghĩa cho đời; nào dè trái lại thấy chan chán trước mặt một tấn tuồng bi thảm, nước mất nhà tan, xương chồng máu đổ.
Linh hiển phô bày cửa báo ân,
Nghĩa nhân sưu tập đặng quy tân.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
Đem chơn chánh phô bày trừ mị,
Nâng niu cho dân khí lẫy lừng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đạo sử phô bày tranh cẩm tú,
Tổ Đình diễn tả nét uy linh.
(Thơ Thượng Sanh).
鋪 演
Phô: Bày ra, để lộ ra. Diễn: Việc xảy ra trước mắt.
Phô diễn là bày ra có lớp lang trước mắt của mọi người chung quanh.
Đức Thái Thượng Đạo Tổ có dạy: Muốn an tâm tỉnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, thì mới khỏi bực tức với những trò đã vì mạng lịnh thiêng liêng phô diễn ở nơi thâm hiểm nặng nề nầy.
Vả chăng sự thờ cúng cần phải hiệp lại đông người và phô diễn ra một cách chí thành chí kỉnh và có lễ nghi pháp mục oai nghiêm mới ra vẽ tôn giáo.
(Thiên Đạo).
鋪 張
Phô: Bày ra. Trương: Giăng ra.
Phô trương là bày ra với dụng ý là khoe khoang để mọi người đều biết.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Con người khổ vì ham muốn cuộc đời, ham muốn hưởng thụ, ham muốn chiếm đoạt, ham muốn chế ngự, ham muốn phô trương, ham muốn khoái lạc về vật chất lẫn tinh thần.
Ðưa rước mặt người hay xảo mị,
Lòng con con biết chớ phô trương.
(Đạo Sử).
Đáo tuế mấy ai so sánh kịp,
Lục tuần nào kẻ dám phô trương.
(Bát Nương Giáng Bút).
Chan rưới hồng ân trời đổi sắc,
Phô trương cẩm tú đất thay màn.
(Thơ Huệ Giác).
Phố là nhà ở hay đường xá ở thành phố, thị trấn, dọc hai bên có nhà cửa.
Như: Phố phường, phố xá, phố giăng như mắc cửi, phố hàng Bạc, phố hàng Đào.
Người người đều có phố có lầu,
Còn chị lớn ngậm sầu nuốt thảm.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phố 舖: Nhà ở hay đường xá nơi thành thị. Phường: Khu các nhà làm thành một nghề ở với nhau.
Phố phường là từng phố, từng phường, thường dùng để chỉ nhà cửa đường xá nơi thành thị, như phố phường đông đúc, Hà Nội ba sáu phố phường.
Trời còn đất lỡ tang thương biến,
Ruộng rẫy phố phường lộ mốc meo.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Nhà tranh xiêu sập cùng lân ấp,
Tường gạch vỡ tan khắp phố phường.
(Thơ Thái Đến Thanh).
1.- Phổ 普 là khắp, không dùng một mình. Như: Phổ biến, phổ cập, phổ độ, phổ thông.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có đoạn: Cả Ngọc Hư chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều ngạc nhiên sự lạ. Ðại Từ Phụ phổ giáo rằng: Hay! Hay! Không lẽ để phận hèn, ngày sau sẽ rõ Thánh ý Người quyết liệu.
Nếu toan xu phụ cho an phận,
Chơn lý Đạo mầu hết phổ thông.
(Thơ Hộ Pháp).
2.- Phổ 譜 là biên, ghi cung điệu bài đàn hay bài hát.
Như: Phổ nhạc, phổ bài hát vào cung đàn, bài thơ đem phổ thành bản nhạc.
Phiền não khách trần chan giọt nước,
Thanh tao nhạc gió phổ cung đàn,
(Thơ Chơn Tâm).
普 遍
Phổ: Rộng, khắp. Biến: Khắp cả.
Phổ biến là khắp cả, tức khắp cùng mọi nơi, và có tính được khắp nơi nhìn nhận.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Thật vậy, Giáo Lý đã được Cơ Quan Phát Thanh phổ truyền sâu rộng từ quốc nội đến hải ngoại mà tiếng nói đó là tiếng nói của Hội Thánh. Lẽ dĩ nhiên là Chức Sắc Hội Thánh phải tích cực thi hành theo giáo lý trước khi phổ biến nó đi khắp nơi để giáo hoá tín hữu và truyền bá Ðạo Trời.
Chưa phải là Tiên cũng học Tiên,
Để lo phổ biến mối chơn truyền.
(Thơ Thuần Đức).
Phổ biến Cao Đài tròn trách nhiệm,
Ngọc Hư bái mạng hưởng tiền duyên.
(Thơ Nguyệt Quang).
普 告
Phổ: Rộng, khắp. Cáo: Báo cho biết.
Phổ cáo là báo rộng rãi cho mọi người cùng biết.
Phổ cáo còn có thể hiểu là đem giáo lý đi truyền bá cho mọi người cùng biết, trường hợp nầy Phổ cáo đồng nghĩa với Phổ độ.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Cả thảy Thầy phong chức Giáo Hữu, đến sau Thầy buộc học hết Thánh ngôn rồi mới đi phổ cáo nghe à!
Thầy cần dùng ba chục đứa tình nguyện để phổ cáo xứ xa, ai đâu?
(Đạo Sử).
Hay “Phổ cáo chúng sinh”.
Phổ cáo: Báo rộng rãi cho mọi người cùng biết. Chúng sanh (sinh): Tất cả những gì có sự sống, ở đây chỉ tất cả mọi người.
Phổ cáo chúng sanh, như chữ “Phổ cáo chúng sinh 普 告 眾 生”, là bày tỏ cho tất cả chúng sanh cùng hiểu biết.
“Phổ Cáo Chúng Sanh” là một tài liệu của Đạo Cao Đài được các vị tiền khai Đại Đạo soạn thảo vào năm Bính Dần, 1926, để phổ biến cho mọi người cùng biết về việc Đạo Cao Đài khai mở và bắt đầu truyền bá trong nước Việt Nam.
Tờ “Phổ Cáo Chúng Sanh” soạn xong được các vị Đại Thiên Phong dâng lên cho Đức Chí Tôn trong một đàn cơ vào ngày 7 tháng 9 năm Bính Dần (13-10-1926) để được chỉnh sửa.
Thơ, biểu nó viết chữ tựa lơn lớn một chút, còn Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh và Tờ Khai Đạo, con cứ làm, Thầy cho phép.
(Thánh Giáo Chí Tôn).
普 及
Phổ: Rộng rãi. Cập: Đến một nơi nào.
Phổ cập là đến một cách rộng rãi, đến khắp mọi địa phương.
Trong Bài Kệ Chuông U Minh có câu: Càn khôn đại thống, phổ cập ngũ châu 乾 坤 大 統, 普 及 五 洲, nghĩa là thống quản cả Càn khôn Thế giới để phổ biến khắp cả năm châu.
Còn chút hơi tàn còn nhiệm vụ,
Còn lo phổ cập mối chơn truyền.
(Thơ Thuần Đức).
Xiển dương chánh giáo tùng thiên mệnh,
Phổ cập chơn truyền độ thế gian.
(Thơ Huệ Phong).
普 照
Phổ: Khắp cả. Chiếu: Rọi sáng.
Phổ chiếu là rọi sáng khắp mọi nơi, ý nói lấy ân điển rọi khắp toàn chúng sanh.
Ân quang phổ chiếu toàn nhơn loại,
Sớm biết hồi tâm ngộ chánh truyền.
(Thơ Huệ Phong).
普 緣
Phổ: Khắp cả. Duyên: Mối dây ràng buộc vô hình từ kiếp trước.
Phổ duyên là cứu giúp những người có duyên phần ở khắp mọi nơi.
Người có duyên phần là người biết đạo đức, như lời Thánh giáo Thầy đã dạy: Ai biết đạo tức là có duyên phần, ai vô đạo tức là số chịu hình khổ luân hồi. Phải mau chơn, bằng luyến ái sự thế thì sau ăn năn rất muộn.
Hỗn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo chủ,
Di Lạc đương thâu thủ phổ duyên.
(Kinh Tận Độ).
普 陀 山
Hay “Phổ Đà”.
Phổ Đà 普 陀, hay Phổ Đà sơn là núi Phổ Đà, thuộc tỉnh Triết Giang Trung Quốc, nơi ngụ xứ của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Quan Thế Âm là vị Bồ Tát có lòng đại từ đại bi, ý muốn cứu khổ tất cả chúng sinh, nên mỗi khi có người thành tâm cầu nguyện, Ngài đều có mặt ở khắp mọi nơi.
Vì thế, nhiều Kinh đã ký tải về nơi ngụ xứ của Ngài khác nhau:
- Theo Kinh A Di Đà, Ngài ở cõi Tây phương Tịnh độ.
- Theo Kinh Hoa Nghiêm sớ, Ngài ở núi Bồ Đà Lạc, biển Nam Hải.
- Theo Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ, Ngài ở núi Phổ Đà, tỉnh Triết Giang Trung Quốc.
1.- Phổ Đà Sơn:
Cung Tận Thức thần thông biến hoá,
Phổ Đà Sơn giải quả Từ Hàng.
(Kinh Tận Độ).
2.- Phổ Đà:
Phổ Đà có Phật Quan Âm,
Ra công cứu thế, ân thâm đức dày.
(Xưng Tụng Công Đức).
Ngọn đuốc từ bi rạng Phổ Đà,
Quan Âm Thị Kính tiếng đồn xa.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
普 度
Phổ: Khắp cả. Độ: Cứu giúp.
Phổ độ tức là cứu giúp tất cả chúng sanh. Mục đích của người tu hành là cứu giúp chúng sanh vượt thoát khỏi nơi khổ hải, nên có nhiệm vụ là đi phổ độ chúng sanh.
Thánh giáo Thầy có dạy: Nếu Thầy dùng quyền pháp Chí Tôn thì mất lẽ công bình thiêng liêng Tạo hoá. Con cứ lo lập luật, để công phổ độ cho chư đạo hữu con hưởng chút ít.
Nước mắt chưa lau cơn kiếp trái,
Có công phổ độ giải tiền khiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phước gặp Tam Kỳ Trời phổ độ,
Gắng tu kịp buổi lướt đài vân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phổ độ: Cứu giúp rộng khắp. Chúng sanh (sinh): Tất cả các loài vật có sự sống.
Phổ độ chúng sanh, như chữ “Phổ độ chúng sinh 普 度 眾 生”, là cứu giúp rộng khắp các loài có sự sống.
Thánh Giáo Đức Chí Tôn có dạy: Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao.
Nhứt nguyện: Đại Đạo hoằng khai.
Nhì nguyện: Phổ độ chúng sanh.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
普 教
Phổ: Khắp cả, mọi nơi. Giáo: Dạy, lời dạy.
Phổ giáo là dạy khắp chốn, khắp cả mọi nơi.
Ðại Từ Phụ phổ giáo rằng: Hay! Hay! Không lẽ để phận hèn, ngày sau sẽ rõ Thánh ý Người quyết liệu.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
普 賢 菩 薩
Hay “Phổ Hiền”.
Phổ Hiền Bồ Tát, dịch theo tiếng Phạn Tam Man Đa Bạt Đà La Bồ Tát (Samantabhadra Bodhisattva), là một vị Bồ Tát lớn trong Phật Giáo Đại Thừa, tượng trưng cho Đức hạnh. Phổ Hiền có nghĩa là sự hiền đức phổ cập khắp nơi. Danh hiệu Ngài có nghĩa là “Đại Hạnh”, nghĩa là đức hạnh khắp tất cả pháp giới. Phổ Hiền là vị Bồ Tát chủ về Chân lý, về thiền định và hành vi của chư Phật. Trong các chùa, tượng của Ngài thường đặt bên phải tượng Phật Thích Ca, tay cầm ngọc như ý, cỡi trên voi trắng sáu ngà ( tuợng trưng cho lục độ hoặc vượt qua sự dính mắc của sáu giác quan).
Thích Ca Tam Tôn là chỉ ba tượng thờ gồm ở giữa là tượng Đức Phật Thích Ca, bên phải là tượng Đức Phổ Hiền cỡi voi trắng sáu ngà, tượng trưng cho chân lý, bên trái là tượng Đức Văn Thù Bồ Tát cỡi sư tử xanh, tượng trưng cho trí tuệ.
Bồ Tát Phổ Hiền có 10 điều nguyện lớn (Phổ Hiền Thập Nguyện).
1.- Phổ Hiền Bồ Tát:
Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh Chuẩn Đề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát thường du Ta Bà Thế giái độ tận Vạn Linh.
(Di Lạc Chơn Kinh).
2.- Phổ Hiền:
Động Phổ Hiền Thần Tiên hội hiệp,
Dở Kim Cô đưa tiếp linh quang.
(Kinh Tận Độ).
普 化
Phổ: Khắp nơi. Hoá: Giáo hoá cho thay đổi từ xấu trở nên tốt.
Phổ hoá là giáo hoá chúng sanh khắp mọi nơi.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: huống chi Bần Đạo đã lãnh sứ mạng Thiêng Liêng nơi Đức Chí Tôn làm cho toàn thể con cái của Ngài cộng yêu hoà ái đem nền Chơn Giáo để phổ hoá chúng sanh đặng dìu dẫn họ đi đến cảnh Đại Đồng Thế Giới.
Phổ hoá chơn truyền độ chúng sanh,
Khuyên nhau khuya sớm nhớ làm lành.
(Thơ Huệ Phong).
Nhớ thuở đồ lưu trời diệu viễn,
Tưởng công phổ hoá Đạo hoằng khai.
(Thơ Hoàng Nguyên).
普 濟
Phổ: Rộng khắp. Tế: Cứu vớt, tế độ.
1.- Phổ tế là cứu vớt rộng khắp những sanh linh bị chìm đắm trong biển khổ.
Con người sống ở thế gian được Đức Phật ví như những người bị chìm đắm trong biển khổ bao la bát ngát, mà Đạo được coi như con thuyền bát nhã chèo khắp mọi nơi trong biển cả mênh mông đó, để cứu vớt từng sanh linh đưa vào bờ Giác ngộ, tức bờ thoát vòng sanh tử luân hồi vậy.
Trường phổ tế khó khăn lắm nỗi,
Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm.
(Kinh Thế Đạo).
2.- Phổ Tế còn là một cơ quan của Hội Thánh Cửu Trùng, có nhiệm vụ độ rỗi những người thoái tâm lạc bước, hoặc an ủi, khuyên lơn những người đã bị luật pháp buộc ràng mà bỏ quên phận sự, hoặc cứu giúp những kẻ hữu tâm tầm đạo.
Cơ quan Phổ Tế do một vị Chủ Trưởng là phẩm Phối Sư làm đầu, một vị Phó Chủ Trưởng là Giáo Sư, một vị Trưởng Văn Phòng là Giáo Hữu và ba Nhân viên văn phòng là Lễ Sanh điều hành để truyền bá Giáo lý Đạo Cao Đài cho rộng khắp.
Phổ Tế là quyền Hội Thánh ban,
Lãnh cơ tận độ quyết chu toàn.
(Thơ Huệ Phong).
Phối Sư Phổ Tế đã quy Thiên,
Mến đức cố nhân bậc triết hiền.
(Thơ Ngọc Lưỡng Thanh).
普 通
Phổ: Rộng khắp, khắp nơi. Thông: Suốt, khắp nơi.
Phổ thông là phổ biến khắp mọi nơi, ai cũng có thể tiếp nhận hay hiểu biết được hết.
Thánh giáo Thầy dạy: Thầy đã un đúc chí Thánh cho mỗi đứa, Thánh ý đã giao trọn quyền cho các con chung lo hiệp trí nhau mà dìu dắt, phổ thông mối Ðạo cho đến tận cùng bước đường.
Muốn toan xu phụ cho an phận,
Chôn lý đạo mầu hết phổ thông.
(Thơ Hộ Pháp).
Nội chánh phòng văn chức sắc dùng,
Phổ thông chơn lý Đức Huyền Khung.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
普 傳
Phổ: Rộng khắp, khắp nơi. Truyền: Chuyển từ nơi này đến nơi khác.
Phổ truyền là truyền rộng đi khắp mọi nơi.
Đức Hộ Pháp có thuyết: May thay! Ðạo nhơn luân của tổ phụ chúng ta lưu lại, dầu bị ảnh hưởng của văn minh ngoại bang làm cho ô uế đôi chút, nhưng nhờ Ðức Chí Tôn đến phổ truyền nền Chơn giáo của Ngài nơi đất Việt Nam nầy, có thể còn sửa đương đặng và lại sẽ làm khuôn mẫu cho toàn cả các sắc dân nơi địa cầu nầy bắt chước theo nữa.
Ái hoà đạo dụng làm căn bản,
Nhân nghĩa đời toan giúp phổ truyền.
(Thơ Thân Dân).
Kinh tài khoáng sản đời khai thác,
Đại nghiệp tinh thần đạo phổ truyền.
(Thơ Thông Quang).
Phôi pha là phai nhạt, mất dần vẻ đằm thắm, buồn tẻ. Còn dùng để chỉ lâu ngày dần sẽ quên lãng.
Truyện Thuý Kiều của Nguyễn Du có câu: Phũ phàng chi bấy hoá công, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Đêm vắng khiến ai đồng cảnh ngộ,
Động niềm tâm sự khó phôi pha.
(Thơ Thuần Đức).
胚 胎
Phôi: Thai độ một tháng, gọi là phôi. Thai: Con còn nằm trong bụng mẹ.
Phôi thai là mới sinh ra, dùng để chỉ những gì còn ở bước đầu tiên.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Ðạo nhớ khi nền Ðạo mới phôi thai, buổi ban sơ xuống tại Thủ Ðức ở trót 7 tháng trường, nhờ ơn đức của Giáo Tông dìu dắt, giáng bút giáo hoá...
Nấm đất yên vùi xương hạnh đức,
Đạo trời còn nhắc buổi phôi thai.
(Thơ Thuần Đức).
Toà Thánh thường năm kỷ niệm ngày,
Nhắc xưa Gò Kén lúc phôi thai.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
配 偶
Phối: Phối hợp, sánh đôi, hợp với. Ngẫu: Đôi lứa.
Phối ngẫu là hợp đôi lại với nhau, tức phối hợp cho đôi lứa kết duyên vợ chồng với nhau.
Như: Phối ngẫu cho đôi trẻ nên duyên vợ chồng.
Người sang mình bận điều nhằn nhọc,
Phối ngẫu cùng người bạc quá vôi.
(Đạo Sử).
Phối: Sánh đôi, hợp lại. Nhứt (nhất): Một.
Phối nhứt, như chữ “Phối nhất 配 一”, là hợp lại với nhau thành một.
Trong Phật Mẫu Chơn Kinh có câu: “Chơn linh phối nhứt thân vi thánh hình”, tức là chơn linh là một Tiểu Linh Quang được chiết ra từ Đức Chí Tôn, Phật Mẫu mới đem phối hợp với chơn thần do Ngài tạo ra nơi Kim Bàn để làm thành một Thánh hình, hay một hình thể Thiêng Liêng. Đó là bậc nguyên nhân vậy.
Sanh quang dưỡng dục quần nhi,
Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
配 師
Phối Sư là một phẩm Chức sắc cao cấp của Cửu Trùng Đài, dưới phẩm Chánh Phối Sư và trên phẩm Giáo Sư, đối phẩm với hàng Thiên Thánh.
Phối Sư Nam phái có 36 vị chia ra làm ba phái Thái, Thượng, Ngọc, mỗi phái có mười hai vị, trong đó được chọn ra một vị làm đầu gọi là Chánh Phối Sư.
Phối Sư Nữ phái thì vô hạn định, nghĩa là số lượng bao nhiêu cũng được.
Đao phục Phối Sư Nam Nữ được quy định rõ trong Pháp Chánh Truyền.
Trả lời nghiệp quả chốn dương trần,
Thượng Thiện Phối Sư hết nhọc thân.
(Thơ Thượng Sanh).
Nghị định ba: Tại nơi Toà Thánh,
Phẩm Phối Sư nhận lãnh trụ trì.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
配 聖
Phối: Sánh ngang bằng. Thánh: Bậc Thánh.
Phối Thánh là người xứng đáng được xưng tụng vào bậc Thánh.
Theo Nho giáo, Phối Thánh là những vị Thánh được thờ chung với Đức Khổng Tử, có Tứ phối gồm:
- Phục Thánh Nhan Tử là học trò Đức Khổng Tử.
- Tông Thánh Tăng Tử cũng là học trò của Đức Khổng Tử.
- Thuật Thánh Tử Tư là cháu nội Đức Khổng Tử.
- Á Thánh Mạnh Tử là học trò Tử Tư.
Theo Đạo Cao Đài, Phối Thánh là một phẩm thiêng liêng ngang hàng với bậc Thánh. Có hai vị được phong làm Phối Thánh là Phạm Văn Màng và Bùi Ái Thoại.
Phối Thánh ngày xưa nhẫn thế nào,
Phạm Môn từng chịu lắm gian lao.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
Quả mãn công viên hồi cựu vị,
Phối Thánh Thiên phong bậc đức tài.
(Thi Đề Mộ Phối Thánh).
Phối Thánh Phạm Văn Màng sinh năm Mậu Tý, 1988 tại làng Thạnh Phước, Quận Gò Dầu Hạ, tỉnh Tây ninh. Cha là Phạm Văn Nhơn và mẹ là Trần Thị Tơ. Ông bà vốn là người hiền lương, chơn chất.
Thuở nhỏ, theo học Nho khoảng bốn năm, sau đó theo học Quốc ngữ.
Năm 18 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Trịnh Thị Bền, hạ sinh được bảy người con, nhưng chỉ còn lại một người trai, ba người gái.
Khi còn ở ngoài đời, Ngài làm Phó Hương Quản trong Ban Hội Tề xã Thạnh Phước, đến khi nghe Đạo Cao Đài khai mở tại chùa Gò Kén, Ngài nhập môn cầu Đạo ngày 21 tháng 12 năm Bính Dần.
Ngài về quê nhà mộ nhân viên công quả lên tiếp sức với Đức Cao Thượng Phẩm phá rừng tại làng Long Thành để tạo lập Toà Thánh tạm, Hậu điện, Đông lang, Tây lang, Phòng trù...
Năm Canh Ngọ, 1930, Ngài hiến thân vào Phạm Môn và được Đức Hộ Pháp giao cho cai quản Sở Trường Hoà, điều động hơn 50 công quả để khuếch trương công nghệ lương điền tạo nguồn sống cho Đạo. Trong ba năm cai quản ổn định Sở Trường Hoà, sau đó Đức Hộ Pháp mới bổ Ngài qua làm cai sở Bàu Sen để khuếch trương thêm công nghệ lương điền. Ngài tiếp tục làm được gần một năm thì lâm bịnh nặng, đến 12 giờ khuya ngày 1 tháng 10 năm Quý Dậu (Dl. 18-11-1933) thì Ngài thoát xác một cách nhẹ nhàng tại Sở Quảng Nghệ, hưởng thọ được 46 tuổi.
Sau đó trong một đàn cơ tại Phạm Nghiệp, Thần Trần Văn Thoàn về cơ cho biết Ngài Phạm Văn Màng đắc Thánh vị, và xin tái kiếp hành Đạo.
Lễ Phối Thánh Phạm Văn Màng,
Được cúng ngày sóc rỡ ràng biết bao.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
Phổi là cơ quan hô hấp hình túi của người và một số động vật bậc cao ở trên cạn.
Thánh giáo Thầy có câu: Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào ngũ tạng lục phủ hết, thì trái tim con người chẳng khác nào như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng, mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng.
Mổ bụng độn vàng, quăng phổi ruột,
Xẻ đầu nhét sách, ốm hình thù.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Cầu danh chác lợi mờ tai mắt,
Mua chức bán quyền nám phổi gan.
(Thơ Hoàn Nguyên).
1.- Phồn là phường, bọn, lũ, tiếng dùng để chỉ một tập thể đông người, nhưng có ý coi thường.
Như: Đồng phồn với kẻ cướp, một phồn du côn, tụi bây là phồn ăn bám như nhau.
Ðồng phồn đưa rước viếng Diêm Cung,
Ai đã trước đi hỏi nhắn cùng.
(Đạo Sử).
Ai cho sen muống một bồn,
Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Không lẽ đem đào lỗ mà chôn,
Đành nhìn nhận đồng phồn cùng kẻ lạ.
(Phương Tu Đại Đạo).
2,- Phồn 繁, còn đọc là phiền, là nhiều, tốt, không dùng một mình. Như: Phồn hoa, phồn tạp, phồn thịnh.
Thánh giáo Thầy có câu: Dầu cho sang vinh trăm mối, tiền của muôn chung, mấy kẻ đặng tìm đến địa vị an nhàn, xủ áo phồn hoa, để gương soi hậu thế.
Xem: Phồn ba.
Phồn hoa xa mã rộn ràng,
Vinh vinh nhục nhục dẫy tràn kiếp căn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
繁 葩
Phồn (phiền): Thịnh vượng, nhiều. Ba 葩: Hay (hoa) là hoa, tinh hoa.
Phồn ba, như chữ phồn hoa 繁 華, chỉ nơi đô hội, xa hoa, náo nhiệt.
Xem: Phồn hoa.
Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn,
Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.
(Kinh Tận Độ).
Lợi lấn danh chen nhàm thế sự,
Vinh đưa nhục đón rộn phiền ba.
(Thơ Hoàng Nguyên).
繁 華
Phồn (phiền): Thịnh vượng, nhiều. Hoa: Tinh hoa, rực rỡ.
Phồn hoa, còn đọc “Phồn ba”, chỉ nơi xa hoa, náo nhiệt. Chốn phồn hoa là nơi đô hội, dân cư đông đúc, tấp nập ngựa xe, đời sống xa hoa phù phiếm.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Ðời chuộng sang vinh, Ðạo chuộng khổ hạnh, Ðời ham trược phú, Ðạo giữ thanh bần, lên xe xuống ngựa chốn phồn hoa là cảnh áo bả hài gai nơi tịnh xá, tương dưa thanh đạm chốn thiền môn, để mặc miếng mỹ vị cao lương ngoài quán tục.
Hay gần đạo đức mới nên thân,
Lánh chốn phồn hoa giữ tánh thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Một tiếng U minh gióng cửa không,
Phồn hoa giục tỉnh giấc đương nồng.
(Đạo Sử).
Khua chuông cảnh tỉnh vang khuya sớm,
Giục khách phồn hoa lánh bụi hồng.
(Thơ Đức Thượng Sanh).
繁 俗
Phồn (phiền): Thịnh vượng. Tục: Cõi phàm tục.
Phồn tục là chỉ cảnh phồn hoa đô hội trong cõi trần tục (thế gian).
Phồn tục theo hoài quên trở gót,
Gót son biết đặng mất hay còn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phơ phới, như chữ “Phơi phới”, là ở trạng thái nhẹ và tung bay trước gió.
Phơ phới còn là một từ gợi tả vẻ vui tươi đầy sức sống của cái gì đang dâng lên mạnh mẽ.
Như: Cành mai phơ phới trước gió xuân.
Nhẹ phơ phới dồi dào không khí,
Hạo Nhiên Thiên đã chí môn quan.
(Kinh Tận Độ).
1.- Phơi là trải hoặc giăng ra chỗ nắng, chỗ mưa, chỗ sương hoặc chỗ thoáng.
Như: Phơi áo quần, đổ thóc ra sân phơi, phơi sương, phơi nắng suốt ngày ở ngoài đồng.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Mùi chung đỉnh, bả vinh hoa có khác chi ngọn cỏ phơi sương, vừng mây giữa gió.
Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quan.
(Kinh Sám Hối).
Tranh khoe nguyệt rọi làu sông Vị,
Mây toả sương phơi bạc đảnh Tần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phơi là phô ra, bày ra, tức để lộ ra ngoài ai cũng thấy. Như: Phơi thây, phơi bộ mặt giả dối ra, phơi gan.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phải có một bàn tay từ thiện giúp đỡ cứu nguy cho họ bằng không họ chẳng khác chi những khách lữ hành vì thiếu nước mà phải phơi thây giữa bãi sa mạc.
Nửa cánh gươm phơi gan tuấn kiệt,
Chậm chơn đợi gió thổi vân đài.
(Đạo Sử).
Thây phơi chật đất chật đàng,
Cao Đài xuất hiện cứu an dân trời.
(Thất Nương Giáng Bút).
Cỗi tấm chơn thành loà nhựt nguyệt,
Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
Phơi: Trải hoặc giăng ra chỗ nắng, chỗ thoáng cho khô. Bày: Phô trương, đưa ra ngoài.
Phơi bày, đồng nghĩa với chữ “Phô trương”, là chưng ra, bày ra cho tất cả mọi người xem thấy để được tiếng, được khen.
Xem: Phô trương.
Cơ phán xét nắm quyền định vị,
Hạ, Trung, Thượng chơn lý phơi bày.
(Thiêng Liêng Hằng Sống).
1.- Phu 夫 là chồng. Như: Phu quân, phu nhân, phu xướng phụ tuỳ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Bởi vậy các đấng đế vương đời trước sở dĩ trị được thiên hạ là vì hiểu rõ thị dục của người ta, nên mới đặt ra lễ và nghĩa để phân biệt cái lợi, cái hại, để trị thất tình, là hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục và sửa thập nghĩa là phụ từ, tử hiếu, huynh lương, đệ để, phu nghĩa, phụ thính, trưởng huệ, ấu thuận, quân nhân, thần trung, đem sự hoà thuận, chuộng sự nhân nhượng, bỏ sự tranh cướp.
Đến lúc đã chung phòng hoà hiệp,
Phải tùng phu là phép xưa nay.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hương thề để trước vị bài,
Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Phu 夫 là người đàn ông. Như: Phàm phu, thất phu, thường phu.
Thánh giáo Thầy có câu: Thế thì kẻ hung bạo luống mượn thế lực phàm phu để khuấy rối, làm cho bước đường êm thấm phải hoá ra gay trở.
Rủi duyên gặp phải thường phu,
Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Phu 敷 là phô bày ra, ban bố khắp cả, đầy đủ, không đứng một mình.
Như: Phu diễn, bất phu, phu phỉ.
Ai ai bền chí mà tu,
Phước đem đổi tội cho phu dễ gì?
(Giới Tâm Kinh).
夫 人
Phu: Người đàn ông đã thành nhân. Nhân: Người.
Phu nhân là vợ của các quan ngày xưa, theo quan chế có bảy bực mệnh phụ là: Phu nhân, Thục nhân, Cung nhân, Nghi nhân, An nhân và Nhụ nhân.
Phu nhân là bực cao nhất, vợ các quan nhứt phẩm, và nhị phẩm.
Ngày nay, phu nhân dùng chung để gọi những người đàn bà có chồng.
Ham Chiêu Quân trọn nghĩa phụ thần,
Hơn giúp Hớn Tôn Phu Nhân gươm cật ngựa.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phu 敷: Đầy đủ, không thiếu. Phỉ: Thoả thích.
Phu phỉ là không thiếu một món gì, tức là đầy đủ thoả thích.
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông có câu: Vì vậy, Lão phong thêm Chức sắc Hội Thánh cho phu phỉ việc làm. Lão sở cậy mỗi người chung lo với Lão, hết lòng hành sự.
Phu phỉ lòng kia phàm chưa dứt,
Dứt lòng trần tục sẽ xin tu.
(Đạo Sử).
Lơ lửng thuyền thơ mơ bến cũ,
Bao giờ phu phỉ nguyện ba sinh.
(Thơ Thuần Đức).
夫 婦
Phu: Người đàn ông, chồng. Phụ: Người đàn bà, vợ.
Phu phụ là chồng và vợ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong gia đình mà được phu phụ hoà ái, huynh đệ tương thân, trên biết thương dưới, dưới biết kỉnh trên, cực khổ đồng chia, lạc hoan đồng hưởng, đó là một gia đình đầy hạnh phúc.
Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,
Đạo nhơn luân gầy sống của đời.
(Nữ Trung Tùng Phận).
夫 子
Phu: Người đàn ông đáng kính. Tử: Thầy.
1.- Phu tử là tiếng dùng để tôn xưng gọi là bậc thầy, như: Khổng Phu Tử là ông Thầy họ Khổng.
Phu tử còn là tiếng dùng để vợ gọi ông chồng. Mạnh Tử có câu: Vô vi phu tử 無 違 夫 子, nghĩa là không làm trái ý chồng.
Lịch sử của Ðức Khổng Phu Tử từ nhà Châu đến giờ nay mới sống lại, nó sống với bữa tiệc nầy thôi.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
2.- Phu Tử còn là một phẩm chức sắc cao cấp nhất của Ban Thế Đạo.
Phu Tử đối phẩm với chức sắc Cửu Trùng Đài là dưới Đầu Sư, trên Chánh Phối Sư.
Sỉ Tải Cao thêm vào ba phẩm Thế đạo nầy: Quốc Sĩ, Đại Phu, Phu Tử.
(Thánh Giáo Lý Giáo Tông).
夫 妻
Phu: Người chồng. Thê: Người vợ.
Phu thê là chồng vợ.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Cái phong hoá tốt đẹp đó đã bị bôi dơ, bị chà đạp: nào tình phụ tử, nào nghĩa phu thê, tình huynh đệ, mỗi mỗi đều mất hẳn tính cách thiêng liêng của nó. Trên xử dưới, dưới dối trên, người ta đều đóng vai tuồng như trên sân khấu, toàn là màu mè và giả dối.
Là phần đã định trái oan xưa,
Một nghĩa phu thê khá lọc lừa.
(Đạo Sử).
E khi vách có âm thinh,
Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đi luông tuồng chẳng định hồi về,
Niềm tình nghĩa phu thê chẳng đoái.
(Phương Tu Đại Đạo).
夫 荣 妻 廕
Phu vinh: Chồng vinh hiển. Thê ấm: Vợ no ấm.
Phu vinh thê ấm là nói chồng được vinh hiển thì vợ cũng được no ấm.
Phu vinh thê âm, đồng nghĩa với câu “Phu quý phụ vinh 夫 貴 婦 荣”.
Xem: Phu quý phụ vinh.
Sách có câu: Phu vinh thê ấm,
Lại có câu: Tu thắng ngô gia.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
夫 唱 婦 隨
Phu xướng: Chồng dẫn dắt. Phụ tuỳ: Vợ đi theo.
Phu xướng phụ tuỳ là chồng dẫn dắt (đề xướng) điều gì, vợ nghe theo điều ấy, ý muốn nói vợ chồng hoà hợp.
Bạn đành chôn chặt lời phu xướng,
Ai cũng buồn lây chữ phụ tuỳ.
(Thơ Hoàn Nguyên).
1.- Phú, còn đọc “Phó 付”, là giao cho, uỷ cho. Như: Phú thác, việc nhà phú cho bạn, phú cho trời đất.
Thánh giáo Thầy có câu: Con đã để hết tấc thành vào Ðạo, thế mà cũng khó gỡ sự rối rắm ấy được, buộc Thầy phú rủi may của chúng nó cho Toà Tam Giáo định liệu.
Phú cho Tạo hoá ấy là Thầy,
Muôn thảm ngàn cay đến bỏ đây.
(Đạo Sử).
Dạy con trẻ mọi điều chọn lựa,
Đừng phú con cho đứa ở ăn.
(Phương Tu Đại Đạo).
Hắc bạch phú cho vầng nhựt nguyệt,
Thị phi chờ thoát bóng quang âm.
(Thơ Huệ Giác).
2.- Phú 富 là giàu có. Như: Phú cường, phú gia, phú hào, phú hữu, phú quý.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nhưng, người đã quyết chí tu hành, quyết lánh giả tầm chơn, đã xả thân cầu Ðạo, xả phú cầu bần thì sự quyến rũ nào lôi cuốn được?
Ðừng quá so đo việc phú bần,
Bần hàn trong sạch mới nên thân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
3.- Phú 賦 là một thể văn có vần, không hạn định số câu, số chữ. Như: Thi phú, bài phú Giác Mê Khải Ngộ.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Hội Yến Diêu Trì là cơ quan đắc Ðạo tại thế. Ðức Kim Mẫu cùng Cửu Vị Nữ Phật đã giáng trần Hội Yến với chư Chức Sắc, xướng hoạ thi phú và dạy Ðạo. Ấy là Hội Chư Tiên tại thế.
Đại Tiên ở chốn Thiên cung,
Lòng lành thi phú thung dung độ người.
(Xưng Tụng Công Đức).
富 貧
Phú: Giàu có. Bần: Nghèo hèn.
Phú bần là giàu có và nghèo hèn, là hai hoàn cảnh sống trái ngược nhau: Một đàng thì dư dả, không thiếu một món gì, một đàng thì thiếu thốn, chẳng đủ no hằng bữa. Sở dĩ có sự giàu nghèo là do nghiệp quả của mỗi người gây ra từ kiếp trước. Vì vậy, Nho giáo thường dạy: Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu 貧 而 無 諂, 富 而 無 驕, nghĩa là nghèo khó đừng nịnh bợ, giàu có đừng kiêu hãnh.
Ðừng quá so đo việc phú bần,
Bần hàn trong sạch mới nên thân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Buông câu danh lợi xa mùi tục,
Khoác áo cà sa mặc phú bần.
(Thơ Hiến Pháp).
Chi bận trần gian nẻo phú bần,
Dốc tìm đường cả đẩy đưa chân.
(Thơ Ca Bảo Đạo).
富 強
Phú: Giàu. Cường: Mạnh.
Phú cường là giàu mạnh.
Trong Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Sánh ra kiếp con người ở trần gian chẳng khác nào như sương sa ở ngọn cỏ, như tuyết đóng ở đầu non, chỉ rã tan trong giây lát, mà kẻ thế chẳng mấy ai nghĩ đến chỗ đó mà giựt mình hồi tâm tự tỉnh hầu có tầm phương tu luyện để giải thoát kiếp phù sanh sớm nở tối tàn, cứ mảng lo chen lấn phú cường, mua vinh bán nhục, đoạt lợi tranh danh mà đành chôn lấp tinh thần vào nơi tử lộ.
Đảnh vân mở lối định biên cương,
Nước Việt ngày sau sẽ phú cường.
(Bát Nương Giáng Bút).
Phú cường xa xỉ không phòng bị,
Bần tiện cần cù giữ kỷ cang.
(Thơ Thái Đến Thanh).
富 家
Phú: Giàu có. Gia: Nhà.
Phú gia là nhà giàu có.
Bạch Lạc Thiên đời nhà Đường có câu thi: Hồng lâu phú gia nữ, kim lũ tú la nhu 紅 樓 富 家 女, 金 縷 秀 羅 繻, nghĩa là lầu hồng nhà phú nữ, áo lụa thêu kim sa.
Duyên may gặp gió Đằng Vương các,
Cũng ngại danh đồn thơ phú gia.
(Thơ Chơn Tâm).
富 厚
Phú: Giàu. Hậu: Nhiều, dày, trái với bạc.
Phú hậu là người giàu có rộng rãi, nhiều đất đai, nhiều của cải, nhiều bạc tiền...
Của phí nhà dư khoe phú hậu,
Gạo lưng kẻ khó nát tâm can.
(Thơ Thượng Sanh).
富 有
Phú: Giàu. Hữu: Có.
Phú hữu là giàu có lớn.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Còn bên Dân Chủ Xã Hội là thực dân ăn cả của cải đồng bào, thâu lấy cả của cải phú hữu của thiên hạ làm năng lực mạnh mẽ của mình.
Phú hữu thiên gia bất thoát trần,
Vinh thê ấm tử độ cô thân.
(Đạo Sử).
富 有 四 海
Phú hữu: Giàu có. Tứ hải: Bốn biển, chỉ thế giới.
Phú hữu tứ hải là giàu hơn hết trong bốn biển, ý chỉ giàu có tột bực, trong thế giới không có ai bằng.
Trong bài “Làm người đứng giữa xã hội phải tìm phương lập vị mình”, Đức Hộ Pháp có nói: Bần Đạo nói dầu cho bực Công Khanh Vương Hầu Khanh Tể giá như phú hữu tứ hải thế nào đi nữa nội trong một kiếp sanh là hết, chúng ta ngó thấy trường đời nào là Đài Tần Đảnh Hớn, ngày nay danh thể có còn tồn tại chăng?
Luận lại “Phú hữu tứ hải” của các ngôi Vua Chúa dùng xương máu thiên hạ lập Đế vị, cả của cải trong nước đều là của mình.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
富 貴
Phú: Giàu có. Quý: Sang.
Phú quý là giàu có, sang trọng.
Thánh giáo Thầy dạy: Môn đệ của Thầy nhiều đứa muốn bỏ đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi bước Ðạo gập ghình khó tới nên mới ra cớ đỗi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi phú quý, mê chữ vinh sang mà ngán đạo.
Phú quý lớn là giành với giựt,
Lợi danh cao bởi mượn và xin.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cần lo học Đạo chí đừng lơi,
Phú quý sương tan lố bóng Trời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Thương hải tang điền xem lắm lúc,
Công danh phú quý nhắm trò chơi.
(Đạo Sử).
富 貴 天 定
Phú quý: Giàu có sang trọng. Thiên định: Trời định.
Phú quý Thiên định là giàu sang do Trời định.
Người xưa thường quan niệm rằng “Đại phú do Thiên 大 富 由 天” nghĩa là giàu sang lớn là bởi Trời.
Phú quý ấy là nơi Thiên định,
Bão bùng hết lúc đến hồi an.
(Đạo Sử).
富 貴 榮 華
Phú quý: Giàu có sang trọng. Vinh hoa: Vẻ vang và được hưởng sung sướng về vật chất.
Phú quý vinh hoa là giàu có sang trọng và vẻ vang, thịnh vượng.
Nay anh phú quý vinh hoa,
Lợi danh trói buộc khó mà thoát thân.
(Thơ Hộ Pháp).
富 足
Phú: Người có tiền của, giàu có. Túc: Đầy đủ, không thiếu thứ gì.
Phú túc là giàu có, đầy đủ, chỉ sự no cơm ấm áo.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chúng ta phải tìm sự vinh hoa phú túc về mặt tinh thần, do nơi Ðức Chí Tôn ban cho thì mới giữ được trường tồn, không bao giờ mất được.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
(Kinh Sám Hối).
Hay “Phó thác”.
Phú (phó): Giao cho. Thác: Gởi gắm.
Phú thác, như chữ “Phó thác 付 託”, là giao phó và gởi gắm một việc gì cho ai, tức là giao công việc cho người tin cậy để họ trọn quyền làm giúp.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy đã nhiều phen để lời khuyên nhủ các môn đệ về việc dùng công tâm, hoà thuận mà hành đạo cho vuông tròn phận sự, mà Thầy những buồn trông thấy các con chưa gì mà vội phân tay chia nẻo! Mỗi đứa đều lấy sự háo danh cầu tiến mà quên cả nghĩa vụ xứng đáng của Thầy đã lắm phen phú thác.
Đừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
Mà quên lời phú thác dặn dò.
(Kinh Sám Hối).
Cứu chuộc đã gần hai ngàn tuổi,
Cao Đài phú thác dắt dìu bây.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mang thiên mạng Chí Tôn phú thác,
Độ quần linh giải thoát trầm luân.
(Văn Tế Tiểu Tường).
1.- Phù 符 là bùa, cái dấu hiệu đóng vào giấy hoặc vải có phép thiêng trừ được ma quỷ, tránh được tai nạn.
Thánh giáo Thầy dạy Ngài Cao Quỳnh Cư có câu: Khi đem ba bộ Thiên phục đến vọng trên ba cái ngai thì con phải chấp bút bằng nhang như mọi lần, đặng Thầy trấn Thần trong ba bộ Thiên phục và ba ngai ấy, rồi mới kêu hai vị Ðầu Sư đến quỳ trước bửu ngai của nó, đặng Thầy vẽ phù vào mình.
Nay con nắm ấn rồng Thượng Phụ,
Ngậm phù linh đặng giữ lòng con.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
2.- Phù 浮 là nổi, không dùng một mình.
Như: Phù ba, phù vân, phù kiều, phù sa, phù sinh.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bởi cớ Chí Tôn ban cho ta cái Bí Pháp (phép xác) cắt đứt dây oan nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với linh hồn tức là hằng sống vậy.
Hoà âm dương thượng phù ngưng giáng,
Kết lại thành hình dạng chúng sanh,
(Đại Thừa Chơn Giáo).
浮 波
Phù: Nổi. Ba: Sóng.
Phù ba là làn sóng nổi.
Sóng biển có lúc nhô lên rồi bị chìm xuống, nên người ta thường ví với cảnh đời chìm nổi, đổi thay.
Chốn hồng trần quen lằn gió bụi,
Cảnh phù ba may rủi cũng duyên.
(Kinh Tận Độ).
Cơ Đạo lâu dài dường tuế nguyệt,
Tuồng đời chớp nhoáng tợ phù ba.
(Thơ Thông Quang).
符 咒
Phù: Bùa. Chú: Thần chú.
Phù chú là bùa phép và thần chú. Đây là phép thuật của các pháp sư, hay các nhà phù thuỷ.
Đối với triết lý đạo Cao Đài, bịnh tật, tai nạn là do nghiệp quả của kiếp trước gây tạo, vì vậy, việc sử dụng phù chú để trị bịnh hay trấn áp tai ương chỉ là điều mê tín dị đoan, người tín đồ của Đạo không đặng phép sử dụng.
Bởi vậy mới hiểu lầm tưởng sái mà bày ra phép tắc, phù chú làm cho mê hoặc thói đời thêm hư phong tục...
(Đại Thừa Chơn Giáo).
蜉 蝣
Phù du là tên một loại côn trùng rất bé, thường bay trên mặt nước, chỉ sống trong một thời gian rất ngắn, nên người ta thường ví kiếp con người ngắn ngủi như phù du, thấy đó liền mất đó.
Phù du dùng để chỉ sự ngắn ngủi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðức Chí Tôn có dạy rằng sự vinh hoa phú quý ở cõi đời vẫn có tính cách phù du và trái với đạo đức, phải đủ chước quỷ mưu thần dụng nhiều xão trá mới đoạt được nó, nhưng không khi nào giữ được nó vĩnh viễn.
Ðiều đình để bước nguyệt canh thâu,
Nét bóng phù du đã đủ màu.
(Đạo Sử).
Nào tranh đấu thắng rồi lại thất,
Của phù du chứa chất gọi giàu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
芙 蓉
1.- Phù dung là loại cây cao chừng thước rưỡi, lá to hoa đỏ, hoặc trắng vàng.
Bạch Cư Dị dùng hoa phù dung ví với mặt người đàn bà đẹp: Phù dung như diện, liễu như my 芙 蓉 如 面, 柳 如 眉, nghĩa là gương mặt như hoa phù dung, đôi mày như nhành liễu.
Phù dung dùng để chỉ người con gái đẹp.
Tìm nơi hứng giọt mưa rào,
Để cơn khao khát khoe màu phù dung.
(Lục Nương Giáng Bút).
2.- Bông phù dung buổi sáng màu trắng, buổi trưa màu hồng, buổi chiều sắp tàn màu đỏ, dùng để chỉ thời gian ngắn ngủi.
Trong Đạo Sử, Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung có câu: Cái bông Phù Dung sớm còn tối mất, còn hơn một kiếp con người, vì nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà buổi sống còn có cái sắc, chớ đời người sanh ra chỉ để thọ khổ mà thôi.
Hễ xấu dạng thì nhơ mặt thiếp,
Còn đẹp hình, nhát kiếp phù dung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phù dung một kiếp qua mau,
Tối tàn sớm nở được màu xinh tươi...
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
扶 董
Phù Đổng tên một ngôi làng, cũng là thánh hiệu “Phù Đổng Thiên Vương 扶 董 天 王”.
Phù Đổng Thiên Vương là vị anh hùng cứu nước về đời vua Hùng Vương thứ sáu, không rõ tên họ, dân chúng gọi tôn là Đức Thánh Gióng.
Phù Đổng Thiên Vương, quán làng Phù Đổng (tục gọi làng Gióng), bộ Võ Ninh, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Tương truyền khi giặc Ân xâm nhập nước ta, không ai chống nổi, vua Hùng Vương mới cho người đi rao truyền trong dân gian để tìm người đủ tài cứu nạn nước. Bấy giờ ông mới lên ba tuổi, tự nhiên nói được, bảo mẹ mời sứ giả vào nhà rồi nói với sứ giả rằng: Sứ về tâu vua cho tôi một thanh gươm vàng và một con ngựa sắt thì vua không lo gì nữa. Sứ giả về tâu lại, vua liền ban cho gươm và ngựa. Tức thì ông hoá thành người có dáng vóc to lớn, nhảy lên mình ngựa, cầm gươm xông đi trước, quan quân theo sau, đến đánh nhau với giặc. Quân giặc thua, biết ông là thiên tướng, thảy đều xin hàng.
Thắng giặc xong, ông đến núi Vệ Linh, huyện Kim Hoa, cổi xiêm giáp để lại bên cây đa, rồi cỡi ngựa bay lên trời.
Sách “Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập” có bài thơ vịnh Đức Phù Đổng Thiên Vương như sau: Tinh anh cấu được khí càn khôn, Thiên tướng vang lừng tám cõi đồn. Nghe tiếng, Hùng Vương bèn nấy việc, Mảng danh, nghịch tặc đã kinh hồn. Vớt vàng, ngựa sắt hằng di để, Làng Gióng, non Châu, miếu hãy còn. Tự điển trời Nam ngôi đệ nhất, Âm phò quốc thế vững bằng non.
Lạc Hồng vươn dậy vai Phù Đổng,
Mở cõi gìn dân giữ nghiệp hoàng.
(Thơ Sỹ Bình).
Hay “Phù hợp”.
Phù: Hợp nhau. Hạp (hợp): Hiệp lại.
Phù hạp, như chữ “Phù hợp 符 合”, là hợp với nhau hay ăn khớp nhau.
Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Biết đâu Tân Luật ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành, trong thời gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với nhơn trí đạo đời tương đắc.
Xem: Phù hợp.
Cái hạnh và cái đức của các con, nó phải phù hạp với cái trách nhậm mới đặng.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
浮 華
Phù: Nổi lên. Hoa: Rực rỡ.
Phù hoa chỉ cái vẻ đẹp bề ngoài, tức là chỉ những thứ rực rỡ, hào nhoáng bên ngoài, sự thật bên trong chẳng có gì cả.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Về phần siêu hình, Bần Đạo đã nhiều lần giải rõ bởi Linh hồn của người vô đạo luôn luôn bị điều khiển chế ngự bởi cái xác, sa ngã vào cái vòng dục vọng cạnh tranh phù hoa hảnh diện; kẻ đó còn đâu cái bản năng cao cả, cái lý trí sáng suốt để nghĩ đến chủng tộc giống nòi.
Đồng tâm dìu dẫn cả sanh linh,
Lánh bước phù hoa phủi thế tình.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
符 合
Phù: Hợp nhau. Hợp: Hiệp lại.
Phù hợp là hợp với nhau hay ăn khớp nhau.
Ngày xưa chữ “Phù 符” là cái thẻ tre nguyên, chia ra làm hai, mỗi người giữ một thẻ để làm tin. Nếu ráp hai thẻ lại đúng gọi là phù hợp.
Vì lẽ các Tôn-Giáo ấy, ngày nay không phù hợp với lương tri lương năng của loài người nữa.
(Con Đường Thiêng Liêng).
符 靈
Phù: Bùa. Linh: Thiêng liêng, linh hiển.
Phù linh, như chữ “Linh phù 靈 符”, là lá bùa thiêng liêng, linh hiển.
Nay con nắm ấn rồng Thượng Phụ,
Ngậm phù linh đặng giữ lòng con.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
浮 泛
Phù: Nổi trên mặt nước, hư không. Phiếm: Không thiết thực.
Phù phiếm là viển vông, không có nội dung thiết thực, không có giá trị thực tế.
Như: Câu chuyện phù phiếm.
Không làm việc phi nhân, bất nghĩa để cầu giàu sang danh lợi, không ham muốn việc phù phiếm xa hoa.
(Giáo Lý).
浮 沙
Phù: Nổi lên. Sa: Cát.
Phù sa là bãi cát nổi lên ở cửa sông hay lòng sông.
Phù sa là những hạt đất, cát thật nhỏ, mịn cuốn trôi theo dòng sông hoặc lắng đọng lại ở bờ sông, bãi bồi.
Đất phù sa rất tốt cho cây trồng trong nông nghiệp.
Tiền chở phù sa bồi đất Lạc,
Hậu mang thuỷ tộc đãi con Hồng.
(Thơ Hoàng Nguyên).
Hay “Phù sinh”.
Phù: Trôi nổi. Sanh (sinh): Cuộc sống.
Phù sanh, như chữ “Phù sinh 浮 生”, là cuộc sống trôi nổi như cánh bèo bọt nước giữa dòng sông, linh đinh không nhất định và dễ tan biến.
Thánh giáo Thầy cũng có dạy: Nên cân nặng nhẹ trọng khinh mà chiều theo thời thế và tin tưởng trông cậy nơi Thầy, thì kiếp phù sanh của mỗi con và duyên tiền định của mỗi đứa đều nắm trong tay Thầy hết.
Xem: Phù sinh.
Hai vai quằn quại nợ phù sanh,
Buộc phải mang thêm dạ chẳng đành.
(Thánh Giáo Minh Thiện).
Than rằng: Cõi phù sanh nháy mắt,
Trăm năm đâu biết chắc rủi may.
(Thanh Tâm Tài Nữ).
Một kiếp phù sanh đều giả dối,
Con người trọng nhứt điểm Thiên lương.
(Thơ Thái Đến Thanh).
浮 生
Phù: Trôi nổi. Sinh: Cuộc sống.
Phù sinh là cuộc sống trôi nổi bấp bênh không định như cánh bèo bọt nước giữa dòng sông, chỉ kiếp sống ngắn ngủi, không ý nghĩa gì.
Cổ ngữ có câu: Kỳ sinh nhược phù hề, tử nhược hưu 其 生 若 浮 兮, 死 若 休, nghĩa là sống tức là chịu cảnh trôi nổi, chết cũng như là sự nghỉ ngơi.
Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,
Kiếp phù sinh đặng thất nơi thân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Cuộc đời giống huỳnh lương một giấc,
Mà kiếp phù sinh là phướn chiêu Tiên.
(Văn Tế Bảo Đạo).
浮 世
Phù: Trôi nổi. Thế: Đời.
Phù thế là cõi đời trôi nổi, ý muốn nói người sống gửi ở cõi đời này chẳng căn cứ vào đâu, cũng như những vật trôi nổi trên mặt nước, lênh đênh không có định chỗ. Đồng nghĩa với chữ “Phù sinh 浮 生”.
Thơ Đỗ Phủ đời Đường có câu: Phù thế hữu định phận, cơ ngạ khởi khả đào 浮 世 有 定 分, 饑 餓 豈 可 逃, nghĩa là cuộc đời đã định trước, đói lạnh há tránh được?
Phù thế kiếp đời dường mộng ảo,
Thanh nhàn cửa đạo mới Thiêng liêng.
(Thơ Thượng Sanh).
浮 沈
Phù: Nổi lên. Trầm: Chìm xuống.
Phù trầm là nổi chìm, lên xuống, thịnh suy.
Tiếng phù trầm là tiếng đàn giọng cao giọng thấp; mạch phù trầm là mạch nổi mạch chìm.
Đại Thừa Chơn Giáo có câu: Tai nghe giọng phù trầm, lảnh lót thanh tao mà lòng không vọng động. Mắt thấy việc lạ lùng, xinh đẹp, tốt tươi mà ý chẳng say mê.
Giọng cứu khổ nhặt khoan xem rất lạ,
Tiếng phù trầm Ðại ân Xá Kỳ Ba.
(Giác Mê Khải Ngộ).
Ngón đàn sáo thiên tư uốn nắn,
Lượng phù trầm để lắng cung tơ.
(Phù Kiều Hận Sử).
浮 雲
Phù: Nổi lên. Vân: Mây.
Phù vân là đám mây trôi nổi, thường ví như cuộc đời không lâu dài bền vững, dễ tan biến.
Luận ngữ có câu: Bất nghĩa nhi phú thả quý ư ngã như phù vân 不 義 而 富 且 貴 於 我 如 浮 雲, nghĩa là bất nghĩa mà giàu và sang, đối với ta như đám mây nổi.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Đức Lão Tử thì coi thường mọi việc thế tình, cho công danh phú quý là phù vân, nên chủ trương cái thái độ hờ hững lãnh đạm với ngoại giới.
Ưa dằn đồng dưới trên năm bảy,
Ðể của phù vân đến cũ mèm.
(Đạo Sử).
Mực tủi nghiên hờn thơ nghẹn ý,
Thương đưa tiếc gởi cánh phù vân.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Lòng đạo chuyên cần câu thiện niệm,
Bước đời trôi nổi bóng phù vân.
(Thơ Hàn Sinh).
1.- Phủ là che đậy lại, làm cho kín hoàn toàn bề mặt bằng cách trải một vật lên trên.
Như: Lấy khăn phủ mặt, phủ khăn lên bàn, mùa đông núi bị tuyết phủ.
Nhiễu điều ví đặng phủ gương trong,
Thì mới làm cho cái nghĩa đồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Mây lành phủ động ra khuôn cửa,
Tòng rậm bao cung giống mặt rào.
(Thiên Thai Kiến Diện).
2.- Phủ 府 là dinh thự, nơi làm việc của các quan, hoặc cơ quan nơi cõi thiêng liêng. Như: Phủ thừa tướng, phủ thủ tướng, Tiền Quân phủ, phủ thờ, Địa phủ.
Nói về vấn đề Phạm Phủ từ, Thuyết Đạo Hộ Pháp có dạy: Dòng họ Phạm ấy đã có phủ thờ tại kinh đô Triều Nam ta bây giờ, thì trong kiến Phạm của chúng ta từ Nam chí Bắc rải rác rất nhiều.
Xem: Địa phủ.
Bọn dân Ðịa phủ hình đen nám,
Tốp khách Thiên môn xác sáng ngời.
(Thiên Thai Kiến Diện).
3.- Phủ 腑 là các bộ phận trong bụng của con người, như Lục phủ gồm Vị, đởm, bàng quang, đại trường, tiểu trường và tam tiêu tức là bao tử, mật, bọng đái, ruột non, ruột già và tam tiêu.
Như: Tạng phủ, ngũ tạng lục phủ.
Xem: Lục phủ.
Đến đỗi như thân của người có tạng có phủ, tạng phủ ấy nếu chẳng hoà thì con người chẳng hề sống bao giờ.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
4.- Phủ 撫 là vỗ về.
Như: Phủ an, phủ huấn, phái đoàn Hội Thánh đến phủ dụ nhưng tín đồ bị thiên tai.
Có thể nói rằng: Công nghiệp của Quân đội Cao Đài trước sau đều tương liên với nhau một cách mật thiết rõ rệt, điều nầy chẳng cần phải khen hay để lời phủ huấn.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
5.- Phủ 父 là chỉ người đàn ông, ông già.
Như: Ngư phủ đưa thuyền ta khơi đánh bắt cá.
Xem: Phụ.
Thương công ngư phủ dầm khơi,
Đò nhân rước khách lập đời an nguy.
(Thất Nương Giáng Bút).
Giục sầu đêm quạnh nghe ngư phủ,
Gợi thảm sương mơi giục trở lèo.
(Bát Nương Giáng Bút).
Phủ: Làm cho hoàn toàn kín bề mặt bằng cách che một vật gì lên trên. Che: Đậy, làm cho người ta không nhìn thấy được.
Phủ che, như chữ “Che phủ”, là che đậy và phủ trùm lên một vật gì.
Như: Lấy khăn phủ che mặt mày, mây đen phủ che đầu ngọn núi.
Phải phủ che cho ấm tay chơn,
Nơi mỏ ác tốt hơn thường đắp ấm.
(Phương Tu Đại Đạo).
Ân hồng đã rải cùng thôn lý,
Bóng phước phủ che khắp ruộng đồng.
(Thơ Hộ Pháp).
撫 誘
Phủ: Vỗ về, an ủi. Dụ: Dụ người nghe theo mình.
Phủ dụ là vỗ về, an ủi, tức lời của vua quan ban xuống để khuyên bảo muôn dân hoặc lời nói của kẻ trên khuyên bảo kẻ dưới.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu dạy: Bần Đạo để lời cám ơn và xin toàn thể cho phép Bần Đạo để lời phủ dụ các chiến sĩ tại đây.
Ðể nhiều lời phủ dụ ban sơ,
Khảo trừng lắm lúc ngẩn ngơ.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Phủ phê là nhiều, đầy đủ, như ăn xài phủ phê.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Duy có hạng người có ý niệm nông nổi cho rằng ngày Tết thì phải ăn xài phủ phê, mặc dù không dư dả hoặc nghèo túng quanh năm, cũng học đòi theo nhà sẳn của, cũng sắm ăn sắm mặc lòe loẹt bề ngoài.
Trăm năm ghi tạc câu vàng đá,
Chồi quế ven thềm lá phủ phê.
(Thơ Chơn Tâm).
俯 伏
Phủ: Cúi xuống. Phục: Nép.
Phủ phục lạy nép đầu sát xuống đất. Như: Quỳ phủ phục trước bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ.
Trước Đền phủ phục cầu ân điển,
Trên Điện phước ban phát Thánh điều.
(Thơ Thanh Hương).
Phủ: Bao trùm xuống, che đậy. Phước: Điều tốt lành.
Phủ phước là ban phước lành xuống phủ trùm khắp mọi nơi. Ý chỉ ban bố nhiều phước lành.
Dưới chín lớp liên thần đưa bước,
Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu.
(Kinh Tận Độ).
Phủ: Trùm xuống, đậy lại. Quan: Hòm, quan tài.
Phủ quan là một tấm vải gồm năm màu dùng để phủ lên quan tài. Phủ Quan có hình vuông, mỗi cạnh 1m20, bốn bề viền ren, chính giữa may một hình Thiên nhãn có mười hai tia hào quang. Thiên nhãn được thêu theo đường chéo của tấm vải vuông. Đắp Phủ quan phải đặt cái góc có chơn mày Thiên nhãn về phía đầu quan tài (tức là đầu người chết), góc kia hướng về chơn và hai góc còn lại phủ xuống hai bên hông quan tài.
Khi mở nền Đại Đạo, Đức Chí Tôn Đại Ân Xá và mở cơ tận độ cho toàn thể chúng sanh. Do vậy, mọi Tín đồ Cao Đài may duyên sanh nhằm thời kỳ nầy đều được Đức Chí Tôn tận độ khi còn sống hay siêu rỗi lúc đã chết rồi.
Thể pháp hưởng đặc ân thiêng liêng của Đức Thượng Đế ban cho người chết được thể hiện trong Đạo Cao Đài là đắp tấm Phủ quan từ lúc tẩn liệm xong, quan tài đậy nắp, và trong suốt những ngày hành tang lễ, cho đến khi quan tài chuyển đi hạ huyệt.
Như chúng ta biết, Thiên Nhãn tượng cho Đức Chí Tôn. Thờ Thiên Nhãn là thờ Đức Chí tôn, mà hễ thờ Đức Chí Tôn thì phải để Thiên Nhãn nơi trang trọng và tôn nghiêm. Thế mà tại sao Khách Đình là nơi quàn xác, ô trược, nhiều âm khí mà lại thờ Đức Chí Tôn? Và tại sao chỉ thờ Thiên Nhãn của Thầy mà không có thờ ba vị Giáo Chủ và Tam Trấn Oai Nghiêm như các nơi khác? Còn tấm Phủ quan sao lại thêu hình Thiên Nhãn đậy trên quan tài người chết, là nơi uế trược và nơi đầy sự khổ đau?
Đức Hộ Pháp giảng Đạo tại Đền Thánh vào rằm Trung nguơn năm Nhâm Thân (1932), có cho biết như sau: “Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ vì quá thương yêu con cái của Ngài, nên Ngài lén Thiên Đình đi xuống Khách Đình để cứu độ con cái của Ngài trở về, bấy lâu nay con cái của Ngài say đắm thế trần, lao vào các dục vọng của thể xác, không còn nhớ đến ông Cha Thiêng Liêng đang ngày đêm trông đợi. Cũng có khi con cái có nhớ tới Đại Từ Phụ, nhưng vì thân mang nhiều tội lỗi nên không dám đến gần ông Cha Thiêng Liêng, cứ chạy trốn hoài, thế thì giờ đây, xác thân đã đến Khách Đình, thì hết còn nơi tránh né, và Đại Từ Phụ lén xuống đây để cứu độ các con cái của Ngài, thể hiện lòng thương vô bờ bến”.
Lo cho nó nên Phật, nó cứ muốn làm ma,
Lo cho nó thành Trời, nó cứ ham làm quỉ.
Nỗi buồn tình ấy tả sao cho nổi,
Gần hung ác tập rèn quen tánh.
Chỉn lấy thân yếu mạnh so đời,
Không lương tâm, nào biết ngó Trời.
Theo thân thể trọn đời làm quỉ,
Thấy như thế, già tuôn giọt luỵ.
Lại hiểu con chẳng nghĩ đến mình,
Gạt lệ rơi về tạm Khách Đình.
Chẳng cho trẻ biết hình biết dạng...”.
Việc đắp tấm Phủ quan lên quan tài người chết cũng giống như ý nghĩa thờ Thiên Nhãn nơi Khách Đình: Đức Chí Tôn vì quá thương yêu con cái nên một mình rời Thiên Đình xuống trần gian, không nệ chỗ uế trược đến độ rỗi con cái của Ngài lúc quá cố hồn lìa khỏi xác, để trở về cùng Ngài mà Tam vị Giáo Chủ và Tam Trấn Oai Nghiêm không hay biết.
Chính Thánh giáo Đức Chí tôn có nói rằng: “Thà là thầy đến ở chung cùng các con, chia đau sớt thảm, hơn là ngồi xem các con phải chịu đọa lạc trầm luân”. Cho nên đắp tấm Phủ quan trên quan tài nhằm mang ý nghĩa Chí Tôn đến che chỡ và độ rỗi cho chúng sanh từ khi sống đến khi quy vị rồi, Chí Tôn cũng không nỡ xa lìa khi chúng sanh đau đớn khổ sở.
Như vậy, việc đắp Phủ quan về mặt hữu hình, màu sắc phân biệt cho biết sắc phái của Chức sắc, hay phái nam, phái nữ; về mặt vô vi, trong tấm Phủ quan có thêu hình Thiên Nhãn tượng trưng cho Đức Chí Tôn là để thể hiện tấm lòng thương yêu vô bờ bến của Đấng Đại Từ Phụ đối với con cái của Ngài chịu nhiều đớn đau, khổ sở. Tình cảm thiêng liêng đó Ngài không nệ gian lao, uế trược, Ngài đến để ôm ấp thể hài của đứa con vừa mới mất cho ấm áp tình thương yêu, và cũng để dìu dắt linh hồn đứa con ấy trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Việc đắp tấm Phủ quan còn thể hiện được nền chánh pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, đó là sự Đại Ân Xá Kỳ Ba và sự tận độ cho toàn cả vạn linh của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng trong thời Hạ nguơn mạt Pháp này.
1/- Tín đồ, Đạo sở, Chức việc phụ quy vị thì được treo diềm và Phủ quan màu đen.
(Số 04/NCPS/VT/KTTD).
府 祠
Phủ: Nơi làm việc của các quan, hoặc nơi thờ phượng. Từ: Miếu thờ, nhà thờ.
Phủ Từ, hay Phủ Thờ, là ngôi nhà chung dùng làm nơi thờ phụng tổ tiên của một dòng họ.
Những tín đồ đạo Cao Đài cư ngụ tại Châu Thành Thánh Địa thuộc Toà Thánh Tây Ninh cùng một Tông tộc, bất kể nam nữ đều hợp chung nhau để mua mảnh đất cất một ngôi thờ tổ tiên dòng họ của mình, gọi là “Phủ Từ”.
Tại chung quanh Châu Thành Thánh Địa hiện nay đã xây dựng được rất nhiều Phủ Từ, như: Phạm Phủ Từ, Lê Phủ Từ, Bùi Phủ Từ, Huỳnh Phủ Từ, Hồ Phủ Từ, Phan Phủ Từ, Võ Phủ Từ, Trương Phủ Từ, v.v...
Sở dĩ nhiều Họ tạo Phủ Từ là do lời phê ngày 14 tháng 9 năm Mậu Tý (Dl. 16/10/1948) của Đức Hộ Pháp như sau:
“Mấy em trong cửa Phạm Môn là tông tộc của Phật, tức là tông tộc thiêng liêng. Qua tạo làm kiểu mẫu cho mấy em tạo tông tộc phàm trần, nghĩa là gồm chung bá tánh chung hiệp mỗi họ, hầu lo bảo trọng đạo đức và sanh sống cùng nhau, ấy là quyền sở hữu của mấy em về phần đời, không liên can gì đến đạo, phòng định luật pháp.
Phải lo tạo Tổ đường của mỗi họ, rồi tình nguyện bắt thăm, đặng định trật tự lớn nhỏ của các gia đình.
Tổ đình là hương hoả của Chí Tôn, gắng sức làm cho thành tựu đặng nương nhau mà sống và duy trì kiếng họ”.
Về việc tạo dựng Phủ Từ, Đức Hộ Pháp có dạy như sau: Mỗi họ nên lập một Phủ Thờ. Đó là chơn truyền Nho Tông mà Đạo Cao Đài phô bày để làm nền tảng hình ảnh.
Ngài nói: Đức Giáo Tông mỗi năm sẽ nhóm họp với các vị Chưởng Phủ mỗi họ một lần, để nghe báo cáo các sinh hoạt chung của từng Họ, mỗi Họ sẽ tường trình và yêu sách đến Ngài. Sau đó tuỳ theo sở hành của từng Họ mà Ngài ban lời phủ dụ, chỉ dạy thêm hoặc có chính sách phù hạp riêng cho từng Họ, đồng thời tìm cách nhỗ trợ về mặt tinh thần hay vật chất, nếu Họ đó cần thiết đặc biệt hơn các Họ khác.
Nhân tiện bên cạnh đó, Đức Ngài (Giáo Tông) có cơ hội nhận những hồ sơ bị hàm oan mà tất cả các cập trên che dấu, áp bức khiến người của nhà Họ đó không phương bào chữa, được Ngài cứu xét, bênh vực.
Lúc đó với tư cách là một người anh cả thương yêu đàn em nhỏ, chứ không phải là tư cách của một Giáo Tông quyền hành, nên Ngài có quyền tự mình giải quyết vấn đề, trường hợp mà Ngài nhận thấy đúng, Ngài dễ quyết bởi không qua đường hành chánh. Đức Ngài trực tiếp với nhà Họ, để phát hiện những điều bất công mà người tín đồ nào đó chịu đựng, tất cả sẽ phơi bày trước mặt Ngài, không ai qua mắt được Ngài, những đứa em út nhỏ nhoi bị khổ não sẽ được Đức Ngài sắp xếp để Ngài đến tận nơi, tận chỗ mà trả lại sự công bằng.
Đây là một điều hết sức hệ trọng trong cửa đạo Cao Đài, nó hay ho vô cùng. Nó giúp cho kẻ dưới không hề sợ bị đàn anh chức sắc lớn ỷ quyền dấu che, áp bức.
Đâu phải vậy thôi, Đức Ngài có quyền kêu gọi kiến Họ giàu, đông đảo lớn mạnh lớn mạnh giúp cho kiến Họ nghèo ít oi nữa mà chớ. Người sanh ra nơi mặt thế, có hàng ngàn Họ, mà tự thấy mình không bơ vơ, khổ não vì mình có dòng họ bảo trợ, Họ của mình tức là Phủ Thờ, là nơi mình đặt niềm tin, để tìm kiếm mà cùng đoàn kết sống.
Thật là một mối an nguy mà chỉ có anh cả Giáo Tông sẽ làm gạch nối trăm Họ bình yên.
Đức Hộ Pháp còn dạy thêm: Việc tổ chức nhà Họ là một bí pháp của Nho giáo để bảo tồn luân lý cang thường, phong hoá và nhân phẩm trong công cuộc trị thế, vì dân Trung Hoa làm mất đi nên sinh ra loạn lạc. Do đó mới bị Thiên điều hành phạt buổi nọ. đó là Phong Thần bảng đó vậy. Nay Đức Chí Tôn gầy dựng lại đem giao cho dân tộc Việt Nam.
Mấy em nghĩ coi, có một đứa mang Họ mình làm nên việc lớn thì rạng rỡ Tông môn. Còn ngược lại, có đứa mang Họ mình hoặc nghèo khổ hoặc làm tội tình chi đó thì cảm thấy xấu hổ, nên dòng Họ đó không dễ gì bỏ rơi đâu, họ tìm cách đem về bảo bộc, giúp đỡ hoặc dạy dỗ cho nên người đạo đức, xứng đáng với truyền thống ông bà chớ. Không có Họ nào bỏ rơi con chasumifnh đâu, họ sợ Họ khác chê cười rằng mình thiếu phận lắm, hơn nữ họ cũng sợ Đức Giáo Tông khiển trách.
Tạo Phạm Phủ Từ chẳng phải riêng trong cửa Đạo hay nội trong nước Việt Nam mà thôi.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
Phũ: Thô bỉ, hung tợn.
Phũ phàng là chỉ cái tình trạng thể hiện những điều hung dữ, tàn nhẫn, thô bạo, gây đau khổ mà không hề có chút thương cảm.
Truyện Thuý Kiều của Nguyễn Du có câu: Phũ phàng chi bấy hoá công, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Xáo trộn tinh thần qua vạ gió,
Phũ phàng bão tố nghẽn đường mây.
(Thơ Thuần Đức).
1.- Phụ 父 là cha. Như: Phụ mẫu, phụ thân, phụ huynh, Tổ phụ, Từ Phụ.
Thánh giáo Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Chỉ có xứ Việt Nam còn duy trì được sự tôn sùng tổ phụ theo tục lệ cổ truyền, mặc dầu xứ ấy chỉ biết chịu ở dưới quyền lệ thuộc từ ngày tạo lập đến giờ.
Hiếu nghĩa tương lai sau tựu hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phụ 婦 là đàn bà, vợ. Như: Phụ nữ, phụ nhân, phu quý phụ vinh, phu xướng phụ tuỳ.
Thánh giáo Thầy dạy Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh có câu: Nếu Thầy phải đổ tội cho ai thì Thầy phải nói vì con phổ độ trễ, con nêu ra sự ngăn cản ấy, con hiểu tại sao chăng? Tại lời dèm pha của phái phụ nữ mà ra nỗi ấy!
In như Tề phụ chịu hàm oan,
Nết Thánh mà ai cũng gọi phàm.
(Đạo Sử).
Chinh phụ trước treo nên giá quý,
Áng văn làm nhuệ khí cầu vinh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Phụ 負 là cậy vào mình. Như: Tự phụ, là cậy mình làm được mà có ý khinh người, tức tự đánh giá cao về tài năng, thành tích, do đó coi thường mọi người, kể cả người trên mình.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Lại có lắm kẻ đáng thương hại tự phụ rằng, họ hiểu thấu cả lẽ mầu nhiệm của Ðấng Tạo hoá. Nhưng Thầy không bao giờ cho một kẻ nào dưới cõi trần nầy tiết lậu Thiên cơ cả.
Chớ tự phụ, cũng đừng khi ngạo,
Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.
(Giới Tâm Kinh).
4.- Phụ 負 là ở trái, ở bạc, tức là làm trái với điều đã hẹn ước, đã thề nguyền, hoặc phản lại công ơn, sự tin cậy.
Như: Phụ bạc, phụ tình, phụ duyên, phụ lời ước.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Ðó là điều cần yếu trước nhất, chúng ta chỉ vì lo không nhất tâm nhất trí mà phải phụ lòng tin cậy của Ðại Từ Phụ mà thôi.
Không lường kẻ thiện với người hung,
Bợ đỡ giàu sang phụ khốn cùng.
(Giới Tâm Kinh).
Xanh xanh nào có phụ người hiền,
Ðã thấy trọn quyền Ðấng Chí Thiên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
5.- Phụ 附 là thêm vào, dựa vào. Như: Làm phụ, phụ một tay cho chóng xong.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Là vì đối với Ðại nghiệp của Ðạo, dầu cho Chức sắc của Hội Thánh có thiện chí xây dựng thế nào mà bao nhiêu người khác không phụ lực tô điểm, không đi đúng nhịp nhàng thì cũng không dễ đoạt mức thành công được.
Nạp thân mình đã đáng bao lăm,
Còn vàng lượng bạc trăm thêm phụ sức.
(Phương Tu Đại Đạo).
負 緣
Phụ: Làm trái, đối xử tệ bạc. Duyên: Tình duyên giữa vợ chồng, hay giữa trai gái.
Phụ duyên là phụ bạc tình duyên, tức không giữ trọn mối duyên gắn bó với nhau.
Giận đem đổi nhớ vẫn vừa,
Trách mình nào có đổ thừa phụ duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
父 教
Phụ: Cha. Giáo: Dạy.
Phụ giáo là sự dạy dỗ của người cha. Đồng nghĩa với chữ “Phụ huấn 父 訓”.
Trong Minh Tâm Bửu Giám có câu: Tử bất giáo phụ chi quá 子 不 教 父 之 過, nghĩa là sanh con mà không dạy là lỗi ở người cha.
Bần Ðạo vẫn quả quyết rằng cái phụ giáo và mẫu giáo đó không mất...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
父 母
Phụ: Cha. Mẫu: Mẹ.
Phụ mẫu là cha và mẹ đã sinh ra mình.
Trong tôn giáo Cao Đài, Phụ mẫu còn dùng để chỉ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế, và Đức Phật Mẫu, là hai Đấng đã sinh hoá ra con người.
Sấp mình cúi lạy Từ Bi,
Tiền khiên phụ mẫu Tam Kỳ xá ân.
(Kinh Thế Đạo).
婦 女
Phụ: Đàn bà. Nữ: Phái nữ.
Phụ nữ chỉ giới đàn bà.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy Bà Lâm Hương Thanh có câu: Lâm thị Ái Nữ, nếu Thầy phải đổ tội cho ai thì Thầy phải nói vì con phổ độ trễ, con nêu ra sự ngăn cản ấy, con hiểu tại sao chăng? Tại lời dèm pha của phái phụ nữ mà ra nỗi ấy!
Vì kiếp thương chưa đủ công phu,
Nên nay chịu mang câu phụ nữ.
(Bát Nương Giáng Bút).
Cầm đuốc soi lòng vừa phụ nữ,
Ôm hồ nhàn dạ bỏ nghề nghiêu.
(Thượng Phẩm Giáng Bút).
負 義
Phụ: Làm trái với điều hẹn ước, đã thề nguyền, hoặc phản lại công ơn. Nghĩa: Những việc làm theo đạo lý.
Phụ nghĩa là phụ bạc tình nghĩa, hay làm trái ngược lại với đạo lý.
Chừ sao phụ nghĩa sơ giao,
Phòng toan ném gánh tâm đầu sông Ngân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
婦 人
Phụ: Đàn bà, con gái. Nhân: Người.
Phụ nhân là chỉ người đàn bà, con gái.
Như: Người xưa thường hay bảo: Tối độc phụ nhân tâm, nghĩa là độc ác nhứt là lòng của người đàn bà.
Dạy cho biết những điều đau đớn,
Của phụ nhân đặng tởn trăng hoa.
(Phương Tu Đại Đạo).
婦 人 難 化
Phụ nhân: Người đàn bà. Nan hoá: Khó làm cho thay đổi, tức khó dạy.
Phụ nhân nan hoá nghĩa là người đàn bà khó giáo hoá, khó dạy bảo. còn có thể hiểu khó làm thay đổi lòng của người đàn bà.
Con đừng thấy phụ nhân nan hoá,
Cầm hồn hoa vầy vã thân hoa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phụ: Người đàn bà. Nhơn (nhân): Người.
Phụ nhơn, như chữ “Phụ nhân 婦 人”, là chỉ chung người đàn bà con gái.
Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Có phải là lòng dạ của bậc phụ nhơn thương nhiều hơn nam tử có phải?
Xem: Phụ nhân.
Người phụ nhơn trí hoá hẹp hòi,
Mình quân tử bao đành ngồi ngó dại.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phụ: Làm trái với điều đã hẹn ước, đã thề nguyền, hoặc đối xử bạc với người đã yêu thương, gắn bó.
Phụ phàng, như chữ “Phũ phàng”, là ăn ở bạc, gây đau khổ cho người yêu mến, không hề có chút xót thương.
Phụ phàng cũng đồng nghĩa với chữ “Phụ bạc”, là đối xử với người tình tệ bạc, không kể gì đến tình nghĩa thương yêu nhau lúc ban đầu.
Như: Anh đối xử phụ phàng với vợ như vậy được à.
Xem: Phụ bạc.
Phụ phàng chi bấy Hoá công?
Lòng nào mà lại cắt lòng không đau.
(Kinh Thế Đạo).
Thương người lánh tục tìm nhàn,
Trễ chơn mà lại phụ phàng tình duyên.
(Thất Nương Giang Bút).
Đừng sang trọng phụ phàng nghèo khó,
Gặp hầu xinh vội bỏ thê hèn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phụ: Làm trái với điều đã hẹn ước, đã thề nguyền, hoặc đối xử bạc với người đã yêu thương, gắn bó. Rãy (rẫy): Từ bỏ, nói về vợ chồng hay bạn bè.
Phụ rãy, như chữ “Phụ rẫy”, là phụ bạc, ruồng bỏ, không quan tâm, chăm sóc gì tới người thân của mình.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ðã sanh vạn vật thì vốn đồng sanh với chúng ta, chúng ta ngó thấy một kẻ ăn mày kia đui mù, thiên hạ không ai ngó tới, đi xin ăn, ai thấy nghèo nàn đói khổ không chê bỏ, khi rẻ, gớm ghiếc, nhưng còn con chó của người theo dắt đường lại vui vẻ trung tín, biết thương thật tình với người đó là bởi tại sao? Bởi luật Công Chánh Thiêng Liêng nó buộc đừng phụ rãy mà là thương yêu.
Thà cháo rau trọn đạo tào khương,
Hơn sang cả người thương đành phụ rãy.
(Phương Tu Đại Đạo).
輔 佐
Phụ: Giúp đỡ. Tá: Giúp.
Phụ tá là giúp đỡ.
Phụ tá đồng nghĩa với “Trợ lý 助 理”, là người trực tiếp giúp việc trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó.
Như: Phụ tá của tổng thống, phụ tá giám đốc ngân hàng phát triển nông nghiệp.
Thầy thành thật khen ngợi sự sáng suốt của Bộ Tư Lệnh thành lập Đoàn Phụ tá Quân Sự để định phận cho Phụ Nữ Cao Đài.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
附 祭
Phụ: Phụ thuộc, không phải phần chánh. Tế: Dâng cúng phẩm vật cho người mất.
Phụ tế là nghi tiết cúng tế cho người chết trong tang lễ có tính phụ thuộc, đơn giản.
Đối với tang lễ của chức sắc Đại Thiên phong, khi hành lễ tại Biệt điện thì tang quyến chánh tế, khi di Liên đài đến Báo Ân Từ, Cửu Trùng Thiên hành lễ thì Hội Thánh chánh tế, còn tang quyến và thân bằng cố hữu phụ tế.
Đối với tang lễ của chức sắc Thiên phong, chức việc và đạo hữu, chánh tế là phần tế lễ của vợ (hoặc con), còn phụ tế là phần tế lễ dành cho những bà con thân tộc đứng tế, không có lễ sĩ đăng điện.
HÀNH LỄ TẾ ĐIỆN: Hội Thánh chánh tế. Tang quyến và Thân bằng bằng cố hữu phụ tế.
(Quan Hôn Tang Lễ).
負 情
Phụ: Làm trái với điều đã hẹn ước, đã thề nguyền, hoặc đối xử bạc với người đã yêu thương, gắn bó. Tình: Tình cảm giữa hai người.
Phụ tình tức là người ta yêu mến mình, nhưng mình phản bội lại mối tình ấy.
Phụ tình đồng nghĩa với phụ bạc. Như: Cô ấy nỡ phụ tình người chồng yêu thương bấy nay.
Đừng mong cậy chỗ sang giàu,
Khuyên đừng so sánh vàng thau phụ tình.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Chừ sao bỏ nghĩa én anh,
Tham lê bỏ lựu, phụ tình trước mai.
(Nữ Trung Tùng Phận).
婦 從
Phụ: Người đàn bà. Tùng: Theo.
Phụ tùng là chỉ đạo tam tùng của người đàn bà con gái thời xưa.
Đức Khổng Tử có dạy về “Phụ tùng” như sau: Phụ nhân phục ư nhân dã, thị cố vô chuyên chế chi nghĩa. Hữu tam tùng chi đạo: Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử 婦 人 伏 於 人 也, 是 故 無 專 制 之 義. 有 三 從 之 道: 在 家 從 父, 出 嫁 從 夫, 夫 死 從 子, nghĩa là đàn bà thì nương dựa ở người, cho nên không có phép tự chuyên làm lấy một mình, mà có đạo tam tùng là: Còn ở nhà thì theo lịnh cha, có chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con.
Giữ mình dầu vẹn tấm tình chung,
Danh tiết nữ lưu ở phụ tùng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Gái lớn lên giữ chữ phụ tùng,
Trai chớ khá buông lung theo chúng bạn.
(Phương Tu Đại Đạo).
父 慈 子 孝
Phụ từ: Cha hiền lành. Tử hiếu: Con hiếu thảo.
Phụ từ tử hiếu là cha hiền con thảo. Ý nói làm cha phải hiền từ, lo cho con, nuôi dạy con cho nên người đạo đức thì con phải hiếu thảo để đền đáp công ơn dưỡng dục của cha mẹ.
Diễn Văn Đức Quyền Giáo Tông có câu: Tôi phản Chúa, người phá Ðạo, trò nghịch Thầy, cha lìa con, vợ xa chồng, huynh đệ bất hoà, bằng hữu tranh nhau cũng vì mối nhơn luân suy bại, chẳng còn thấy Chúa Thánh tôi hiền, phụ từ tử hiếu, trông chi gặp tháng Thuấn ngày Nghiêu, nhà nhà lạc nghiệp thái bình âu ca.
Chúng ta sẽ ngó thấy và đã ngó thấy một cái gương “Phụ từ tử hiếu” nơi mặt thế này chưa hề có.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
父 子
Phụ: Cha. Tử: Con.
Phụ tử là cha và con. Như: Tình phụ tử.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Cái phong hoá tốt đẹp đó đã bị bôi dơ, bị chà đạp: nào tình phụ tử, nào nghĩa phu thê, tình huynh đệ, mỗi mỗi đều mất hẳn tính cách thiêng liêng của nó.
Con ví biết trọng nghì phụ tử,
Hiển tông môn khá giữ nơi lòng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
父 親
Phụ: Người cha. Thân: Cha mẹ, họ hàng.
Phụ thân là chỉ người cha, dùng để nói cha của mình, chẳng dùng để tự xưng.
Nâng niu lúc ẵm khi bồng,
Phụ thân thế phận cho chồng dạy khuyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
附 屬
Phụ: Nhờ, dựa vào, ghé, thêm vào. Thuộc: Phụ về, nhập vào, theo với.
Phụ thuộc là kèm thêm, thuộc vào với cái khác.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Kế một thời gian qua, Ngài hiệp với mấy bạn Thập Nhị Thời Quân Hiệp Thiên Ðài để gầy dựng cơ quan tái lập tại Thất Từ Vân nơi Phú Nhuận, lo chú giải Tân Luật Pháp Chánh Truyền và lập điều lệ phụ thuộc để sau nầy giúp cho Chức sắc dễ thi hành phận sự.
Con người đã có hiếu thì các tánh đức tốt đẹp khác đều là phụ thuộc...
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
負 忘
Phụ: Làm trái ngược, đối xử tệ bạc. Vong: Quên.
Phụ vong là phụ bạc và vong ơn, ý chỉ người ăn ở tệ bạc, không nhớ giữ ơn đối với người đã giúp mình.
Phụ vong nói tắt của câu thành ngữ “Phụ nghĩa vong ơn 負 義 忘 恩”, tức là trái với tình nghĩa, quên điều ơn huệ.
Lâm nguy nguyện vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
(Kinh Sám Hối).
1.- Phúc 福 còn đọc “Phước” là điều may, điều tốt do việc làm nhân đức mà ra, trái với hoạ.
Như: Con hơn cha là nhà có phúc, làm phúc làm lành, gieo trồng phúc đức.
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,
Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðường tu ví sớm noi gương rạng,
Cội phúc mai sau hưởng quả lành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phúc 覆 là trở lại lần nữa, trả lời.
Như: Phúc đáp, tờ phúc, phúc thư của giáo hội Phật giáo, làm tờ phúc trình.
Từ đây về sau sở phí huê lợi gì của Trường Quy Thiện cũng phải chạy tờ phúc cho Hội Thánh biết rõ.
(Thuyết Đạo Hộ Pháp).
福 蔭
Phúc: May mắn tốt đẹp. Ấm: Bóng cây, chỉ ân trạch của ông cha để lại cho con cháu hưởng.
Phúc ấm là được may mắn hưởng ân trạch của ông bà, tổ tiên lưu lại cho con cháu.
Mừng gánh thê nhi vơi vợi bớt,
Mừng nền phúc ấm bấy lâu còn.
(Thơ Thuần Đức).
福 不 重 來
Phúc (phước): Điều may mắn tốt lành. Bất trùng lai: Không xảy đến hai lần.
Phúc bất trùng lai tức là phước đức chẳng bao giờ đến hai lần.
Người xưa cho rằng rủi nhiều may ít, nên phước đã đến với mình một lần rồi thì không bao giờ đến lần thứ hai nữa. Ngược lại, hoạ vô đơn chí, tai hoạ không đến một lần, tức là hết tai hoạ này đến tai hoạ khác.
Hoạ vô đơn chí nào sai nghĩa,
Phúc bất trùng lai chẳng lệch hào.
(Thơ Hoàn Nguyên).
福 緣
Phúc: Những gì may mắn, tốt lành, trái với hoạ. Duyên: Sức bổ trợ cho nhân thành quả.
Phúc duyên là những điều may mắn tốt đẹp do việc làm lành báo đáp lại.
Thiên điều tại thế nên tôn trọng,
Vẹn phận ngàn thu hưởng phúc duyên.
(Thơ Huệ Giác).
福 幸
Phúc: Điều tốt lành. Hạnh: May mắn.
Phúc hạnh, như chữ “Hạnh phúc 幸 福”, là những điều may mắn và tốt lành.
Phúc hạnh ý nói người toại nguyện về mọi phương diện vật chất và tinh thần.
Xem: Hạnh phúc.
Giáng ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,
Thế tạo lương phương thế cộng giao.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
福 厚
Phúc: Những điều may mắn, tốt đẹp. Hậu: Dày.
Phúc hậu là người làm nhiều điều lành, nhiều điều phúc đức.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Những kẻ đã hưởng hết phúc hậu từ mấy đời trước, nay lại còn phạm Thiên điều, thì tội tình ấy thế chi giải nổi.
Ví bẳng kẻ sau noi đứa trước,
Thì đời phúc hậu nối không cùng.
(Đạo Sử).
Vui kinh kệ tạo đầy phúc hậu,
Vui ngang tàng chớ thấu lẽ minh.
(Bát Nương Giáng Bút).
福 祿
Phúc: Những điều may mắn, tốt đẹp. Lộc: Tài lộc, tức là tiền bạc, của cải...
Phúc lộc là cuộc sống gặp may mắn tốt đẹp và được nhiều của cải.
Trước thềm nguơn đán trầm hương ngát,
Ngưỡng cửa tân niên phúc lộc tràn.
(Thơ Chơn Tâm).
福 如 東 海
Phúc như: Phước đức tựa như. Đông hải: Biển đông.
Phúc như Đông hải là phước đức mênh mông, rộng lớn như là biển Đông.
Thành ngữ có câu: “Phúc như đông hải, thọ tỷ nam sơn 福 如 東 海, 夀 比 南 山”, nghĩa là phước lớn như biển đông, tuổi thọ cao như núi nam.
Phúc như Đông hải do tiền kiếp,
Thọ tỷ Nam trào bởi nghiệp duyên.
(Thơ Vạn Năng).
覆 事
Phúc: Trả lời. Sự: Việc.
Phúc sự là cấp dưới báo cáo công việc cho cấp trên biết tình hình trong địa phận của mình.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Vậy Phước Thiện, Trường Quy Thiện nầy duy để lo giáo hoá chúng sanh làm ra của mà thôi, chẳng đặng thâu của cải một ai hết, làm ra bấy nhiêu dùng bấy nhiêu, kỳ dư có ai thật hảo tâm hỷ cúng mới thâu vào sở của Trường, rồi phải phúc sự cho Hội Thánh Phước Thiện hay biết liền.
Mỗi hạn kỳ 6 tháng, chư Đầu Tỉnh Đạo phải phúc sự về cho Ngọc Chánh Phối Sư biết...
(Đạo Luật Mậu Dần).
福 澤
Phúc: Những cái may mắn tốt đẹp. Trạch: Ân huệ.
Phúc trạch, như chữ “Phúc ấm”, là phúc đức của tổ tiên để lại cho con cháu.
Như: Gia đình nầy nhờ phúc trạch của tổ tiên.
Nương Đạo, Đời thêm vui phúc trạch,
Cứu Đời, Đạo mới phỉ lòng nguyền.
(Thơ Thượng Sanh).
1.- Phục 服 là nói chung về quần áo để mặc. Như: Y phục, lễ phục, trang phục, Thiên phục.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Một ngày kia, sắc phục ấy đời sẽ coi quý trọng lắm. Con ôi! Con có biết những điều ấy bao giờ!
Con coi mặc Thiên phục có xấu gì đâu con?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Phục 服 là chịu, theo, tức làm cho người tôn trọng mà chịu nghe theo. Như: Làm điều phải thì ai cũng phục, giặc đã chịu hàng phục.
Thánh giáo Thầy có đoạn: Thì cũng muốn cho nhiều sanh mạng chịu phục dưới quyền thế lợi lộc đó. Vậy sự yếu trọng của con người là nạn cơm áo. Nắm chặt quyền phân phát cơm áo thì chưa ai đã chịu thọ sanh nơi thế nầy lánh khỏi.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng phục người mới ngoan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Phục 復 là lại, trở lại. Như: Phục chức, phục mệnh, phục hồi, khôi phục.
Thánh giáo Thầy có câu: Nay là hạ nguơn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.
Phục nguyên nhân huờn tồn Phật tánh,
Giáo hoá hồn hữu hạnh hữu duyên.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Khí chất tiêu hao không thế phục,
Rán lo âm chất chứa cho đầy.
(Đạo Sử).
復 職
Phục: Trở lại. Chức: Chức vị.
Phục chức tức là sau khi bị cách chức, lại được trở lại chức vụ cũ.
Trong Đạo Cao Đài, những vị Chức sắc lầm lỗi bị ngưng chức, nhờ tiếp tục hành Đạo, lấy công nghiệp mà chuộc lại lỗi lầm mà được phục chức trở lại.
Từ khi ta tha ngươi cho phục chức ngươi làm gì? Phải công quả đủ ba tháng chẳng cho về chùa, rồi sau Ta sẽ định...
(Đạo Sử).
伏 羲
Theo sách Thượng Thư Đại Truyện thì Phục Hy là một vị vua thứ hai trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân 燧 人, Phục Hy 伏 羲, và Thần Nông 神 農.
Phục Hy là một nhân vật theo truyền thuyết của Trung Quốc, vị vua thời Thượng cổ. Phục Hy là người họ Phong, đóng đô ở đất Trần, dạy dân biết cày bừa, biết chăn nuôi súc vật.
Ông là người sáng lập văn khế, vạch ra bát quái. Phục Hy tại vị 115 năm, truyền được mười lăm đời, gồm 1260 năm.
Tìm hiểu Hà Đồ có Phục Hy,
Thiên lương ta sống phải làm gì.
(Thơ Huệ Phong).
復 還
Phục: Trở lại, lại lần nữa. Hoàn: Về.
Phục hoàn là trở lại, trở về.
Khi đưa tiễn Kinh Kha, Cao Tiệm Ly gảy đàn trúc, Kinh Kha theo nhịp mà hát rằng: Phong tiêu tiêu hề, Dịch Thuỷ hàn. Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn 風 蕭 蕭 兮, 易 水 寒. 壯 士 一 去 兮, 不 復 還, nghĩa là gió hiu hắt chừ, sông Dịch lạnh. Tráng sĩ một đi chừ, không trở về.
Hằng trau tánh thiện chờ siêu thoát,
Táng tận lương tâm khó phục hoàn.
(Thơ Thiên Vân).
復 回
Phục: Trở về, lại lần nữa. Hồi: Về.
Phục hồi là trả lại, hay trở lại với cái xưa cũ.
Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Thánh ý của Ðức Chí Tôn là muốn cho chúng ta phục hồi cái phong hoá cổ truyền của nhà Nam mà Người cho là quý báu nhứt trên mặt địa cầu.
Hồn Trời hoá trở về Thiên cảnh,
Xác Đất sanh đến lịnh phục hồi.
(Kinh Tận Độ).
Phục hồi xã tắc xinh dòng Lạc,
Thống hiệp uy linh đẹp giống Hồng.
(Thơ Cao Tiếp Đạo).
復 回 上 古
Phục hồi: Trở về, lại lần nữa. Thượng cổ: Xưa, cũ.
Phục hồi Thượng cổ nghĩa là trở về với thời đại Thượng cổ, ý chỉ đời Thánh đức.
Trong bài Sớ vía Đức Phật Thích Ca có câu: Đức Thích Ca Mâu Ni từ bi bác ái, quảng đại khoan hồng, bố hoá chư Đệ tử minh tâm kiến tánh, phát triển tinh thần, thật hành Chánh Giáo, tế độ nhơn sanh, diệt trừ tứ khổ, hiệp nhứt thiên lương, quy nguyên bổn thiện, phục hồi thượng cổ Thánh đức, lạc nghiệp âu ca, cộng hưởng thanh bình, an ninh hạnh phước.
Phục hồi Thượng cổ thánh đức thuần lương, cộng hưởng thạnh trị thái bình, thanh nhàn hạnh phước.
(Sớ Văn).
Phục: Trở lại, lại lần nữa. Huờn (hoàn): Về.
Phục huờn, như chữ “Phục hoàn 復 還”, là trở về, trở lại như cũ.
Như: Nhờ siêng năng làm việc mà gia nghiệp của anh ta phục huờn như xưa.
Xem: Phục hoàn.
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn,
Hạnh phùng Thiên mạng đáo khai nguơn.
(Lý Giáo Tông Giáng).
Đua chen tính thiệt so hơn,
Suốt đời thì cũng phục huờn tay không.
(Thơ Thái Đến Thanh).
復 興
Phục: Trở về, lại lần nữa. Hưng: Nổi lên.
Việc gì trải qua một thời kỳ xuống cấp, suy tàn mà được thịnh vượng trở lại gọi là phục hưng.
Đức Lý Đại Tiên có dạy: Tuy trước mắt chư hiền hữu coi như thất bại, hiển nhiên, nhưng mà cơ mầu nhiệm huyền bí thiêng liêng cho là kết cuộc, y như luật định của Thiên điều, Tam Giáo Toà chuyển pháp để trừ diệt cả lũ ma hồn quỷ xác cho tiêu tận rồi đến lúc phục hưng nền độc lập một cách phi thường.
Ngôi Thiên để dựa bóng hồng,
Phục hưng gầy nghiệp con Rồng cháu Tiên.
(Bát Nương Giáng Bút).
Nén hương cầu sớm tan binh lửa,
Đời đạo thanh bình chóng phục hưng.
(Thơ Huệ Giác).
Chí nguyện phục hưng nền Tổ quốc,
Tâm thành tô điểm Việt Nam bang.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Hay “Phục lệnh”.
Phục: Trở lại. Lịnh (lệnh): Mệnh lệnh.
Phục lịnh, như chữ “Phục lệnh 復 令”, là vâng lịnh thượng cấp thi hành nhiệm vụ xong rồi trở về báo cáo lại.
Nói về Đức Quan Thánh, Đức Thượng Sanh có viết: Khi trở về phục lịnh, Ðức Ngài trói mình nạp cho quân sư Gia Cát, nhưng nhờ Lưu Huyền Ðức xin tha thứ cho Ðức Ngài để lập công chuộc tội.
Chúng ta lại được hưởng phần thưởng xứng đáng do Đức Chí Tôn ân tứ ngày trở về phục lịnh.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
Hay “Phục mệnh”.
1.- Phục 服: Phục tùng, chịu theo. Mạng (mệnh): Mệnh lệnh của cấp trên.
Phục mạng, như chữ “Phục mệnh 服 命”, là phục tùng mệnh lệnh của cấp trên.
Cả chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải phục mạng dầu cho Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải vậy.
(Pháp Chánh Truyền CG).
2.- Phục 復:Trở lại. Mạng (mệnh): Lệnh của cấp trên, chỉ nơi ban lệnh.
Phục mạng, như chữ “Phục mệnh 復 命”, trở về nơi ban lệnh để báo cáo.
Phục mạng còn dùng để chỉ nơi ban đầu hay chỉ nguồn cội.
Ôi, mọi vạn vật trùng trùng đều trở về nguồn gốc nó thì đó gọi phục mạng, mà phục mạng là thường.
(Giáo Lý).
復 元
Phục: Trở lại. Nguyên: Ban đầu.
Phục nguyên là khôi phục lại như ban đầu, tức là trạng thái vốn có của một sự, hay vật đã mất đi.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Những triết lý Thánh Hiền, dầu cổ kim cũng thế, cốt để dìu dắt nhơn sanh đi thong thả trên con đường lành cho cùng tận, đặng phục nguyên bổn thiện của mình, các Tôn giáo gọi tên là Đạo.
Nhờ Ngài mới đặng phục nguyên,
Ngài xin chính phủ ban quyền tự do.
(Văn Tế Quyền Giáo Tông).
復 元 人
Phục: Trở lại. Nguyên nhân: Những bậc có linh hồn được sinh ra từ lúc khai thiên.
Phục Nguyên nhân là đem bậc Nguyên nhân trở về ngôi xưa vị cũ.
Nguyên nhân là các Chơn hồn do Chí Tôn, Phật Mẫu sai xuống có nhiệm vụ độ rỗi chúng sanh. Khi đầu kiếp xuống thế, họ mê luyến hồng trần, nên Chí Tôn đem Phật tánh phổ hoá cho họ, nhờ vậy mà họ có thể về được ngôi xưa vị cũ. Đức Phật Mẫu cho xuống trần một trăm ức nguyên nhân, Phật độ đặng sáu ức, Lão độ đặng hai ức, còn chín mươi hai ức vẫn đoạ lạc nơi trần. Đến Tam Kỳ Phổ Độ, Phật Mẫu đến giáo hoá, định đem hết về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Bài Kinh Thích Giáo có câu: Khai cửu thập nhị Tào chi mê muội 開 九 十 二 曹 之 迷 昧, nghĩa là khai hoá 92 ức nguyên nhân còn đang mê muội.
Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh,
Giáo hoá hồn hữu hạnh hữu duyên.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
復 國
Phục: Trở lại. Quốc: Nước nhà.
Quốc gia bị mất chủ quyền, nay tìm cách lấy trở lại gọi là phục quốc.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Vậy Thầy cho các con biết giai đoạn phục quốc đã qua, giai đoạn định quốc đã đến, tức nhiên giai đoạn lập chánh thể nước nhà các con.
Phục quốc nhứt triều, triều nội loạn,
Thùy văn khả cứu thế huờn hương.
(Đạo Sử).
Trinh trung phục quốc đương tranh đấu,
Chánh nghĩa hưng ban khó giảng hoà.
(Thơ Hộ Pháp).
復 生
Phục: Trở lại. Sinh: Sống.
Phục sinh là sống trở lại, hay phục hồi sự sống.
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Qua mơ ước tâm hồn của cả thảy trong một năm già cỗi, trong lúc xuân đến, cây cối nở lá nở bông, tốt tươi trở lại, tức nhiên là được phục sinh lại thì cả tâm hồn của chúng ta cũng phục sinh như thế.
Hội Bàn Đào, Diêu Trì Cung,
Phục sinh đào hạnh rượu hồng thưởng ban.
(Kinh Tận Độ).
Độ thế so đồng cân nhựt nguyệt,
Phục sinh đổ trọn giỏ hoa lam.
(Thơ Hộ Pháp).
Mộng trần khách mến duyên kỳ ngộ,
Cõi thọ người tìm lý phục sinh.
(Thơ Huệ Phong).
1.- Phục 復: Trở lại. Sự 事: Việc.
Phục sự 復 事 là trở về bái mạng và báo cáo công việc.
Như: Sau khi về địa phương thi hành nhiệm vụ, mỗi chức sắc phải trở về phục sự với Hội Thánh.
Sự thác chẳng qua là sự mong mỏi của kẻ hành trình đã xong trách nhậm, trở về phục sự đặng lãnh phần thưởng xứng đáng mà thôi.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
2.- Phục 服: Chịu theo, chịu thuộc quyền. Sự 事: Việc.
Phục sự 服 事 là chịu theo làm việc, hay nói khác đi là chịu phục tùng sai khiến để làm việc.
Khi những vị ấy biết ăn năng, lập nên công nghiệp phi thường, toàn công chúng hoan nghinh và Toà Đạo minh tra đủ lẽ, thì đặng phục sự với một vị chức sắc Thiên phong nào của kẻ phàm lựa chọn...
(Đạo Luật Mậu Dần).
服 從
Phục: Chịu theo, chịu thuộc quyền. Tùng: Theo.
Phục tùng hay phục tòng là chịu sự điều khiển của người khác, tức là tuân theo hay chịu phục.
Nói về Đức Jésus Christ, Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Từ đó khi Chúa về nhà thì cũng như mọi đứa trẻ khác, cũng đi đội nước, cũng đục đẽo làm thợ mộc phục tùng cha mẹ hiếu hạnh đủ điều.
Cùng trên với dưới giữ khiêm cung,
Kẻ nghịch con toan kế phục tùng.
(Đạo Sử).
Phước Thiện gầy dựng giang san,
Cả chư vạn quốc đồng sang phục tùng.
(Thất Nương Giáng Bút).
Bao Chức sắc phục tùng Thánh lịnh,
Bổ địa phương thức tỉnh nhơn sanh.
(Quang Cảnh Toà Thánh).
服 善
Phục: Chịu theo, chịu thuộc quyền. Thiện: Điều lành.
Phục thiện chịu đi theo điều lành, tức là sẵn sàng làm những việc lành.
Bát Nương Diêu Trì Cung có câu: Đời bạo ngược bao nhiêu thì Đạo lấy từ bi bác ái mà phục thiện bấy nhiêu, cho đáng với danh dự của Quốc Đạo, thì cảnh huynh đệ tương tàn mới tránh khỏi.
Con đến đây với tấm lòng thành thật để làm việc phải cho giống dân biết phục thiện hiện đang giao phó cho con.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
復 位
Phục: Trở lại. Vị: Ngôi vị, chỗ ngồi.
Phục vị là trở lại ngồi trên ngôi vị của mình.
Phục vị còn có nghĩa là trở về ngôi xưa vị cũ.
Thánh giáo Thầy có dạy: Khi hai vị Ðầu Sư vái rồi, phải đến trước Bửu điện Thầy mà làm lễ (12 lạy) và trước ngôi Giáo Tông (9 lạy), rồi biểu Giảng xướng lên: “Phục vị”, thì hai người leo lên ngồi.
Trùng huờn phục vị Thiên môn,
Nguơn linh hoá chủng quỷ hồn nhứt thăng.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
伏 望
Phục: Cúi mình. Vọng: Mong nhờ.
Phục vọng là cúi mình mong nhờ. Như: Phục vọng trước bệ rồng chờ phán chỉ.
Trong bài Sớ Hội Yến Diêu Trì Cung có câu: Chư Đệ tử phục vọng Từ Mẫu phát hạ hồng ân cứu độ sanh linh thoát ly nghiệp chướng, thế giới hoà bình, dân an quốc thới, hiệp hoà chủng tộc, đoàn kết tương thân, đồng đẳng an cư hạnh phước.
Phục vọng Vô Trung Từ Phụ phát hạ hồng ân chuyển hoạ vi phước, tập kiết nghinh tường...
(Sớ Văn).
服 務
Phục: Làm, chịu theo. Vụ: Công việc, nghĩa vụ.
Phục vụ là làm công việc, còn có nghĩa làm nghĩa vụ của mình.
Trong Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp có câu: Cầm quyền của Ðạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chơn truyền, rồi lại tìm phương hiểu tận những điều khuyết điểm, hư hại hầu dồi mài thêm nữa, nên tức cấp mở Hội Nhơn Sanh đặng phục vụ quyền Vạn Linh như trước.
Vì Đạo trọn dâng một tấc thành,
Đặng lo phục vụ cả nhơn sanh.
(Thơ Hộ Pháp).
Một kiếp đem thân ra phục vụ,
Hy sinh trách nhiệm mới vuông tròn.
(Thơ Thông Quang).
Phui pha, như chữ “Phôi pha”, là phai nhạt, mất dần vẻ tười thắm, không còn sự gắn bó, kết chặt như ban đầu.
Phui pha còn dùng chỉ mất dần, lâu ngày quên lãng.
Như: Câu chuyện buồn thảm lâu ngày đã phui pha.
Xem: Phôi pha.
Gác nhớ riêng than câu biệt khách,
Phui pha qua lúc thẹn mình hồng.
(Đạo Sử).
Thi, rượu, đờn, cờ, không kết bạn,
Quanh năm khuây lãng thế phui pha.
(Nhàn Âm Đạo Trưởng).
Chớ lần lựa nữa sau than muộn,
Đừng phui pha mà uổng ngôi xưa.
(Thơ Bảo Pháp).
1.- Phủi là gạt nhẹ cho rơi hết bụi bẩn.
Như: Phủi bụi trên áo, phủi đất cát trên mình mẩy, phủi sạch cát bụi bám trên xe.
Tiên phong phủi ngọn phất trần,
Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.
(Kinh Thế Đạo).
Biển Nam Hải thuyền Tiên đưa khách,
Động Bồng Lai phủi sạch phong trần.
(Xuân Hương Giáng Bút).
2.- Phủi, nghĩa bóng dùng để chỉ bỏ hết, không nhận, hay không chịu. Như: Phủi ơn, phủi trách nhiệm.
Thánh giáo Thầy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Các con được tin cậy nhau, dìu dắt nhau, nâng đỡ nhau, mà phủi hết sự hềm nghi nhau theo thế tình, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui vẻ lớn lao hơn hết đó.
Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,
Xin hiển linh giúp kẻ goá thân.
(Kinh Thế Đạo).
Rừng tòng phủi sạch điều hơn thiệt,
Rìu búa chi màng cảnh được thua.
(Thơ Hiến Pháp).
Đồng tâm dìu dẫn cả sanh linh,
Lánh bước phù hoa phủi thế tình.
(Mỹ Ngọc Thi Phổ).
Phủi: Gạt nhẹ cho rơi hết bụi bặm, gạt bỏ, không chịu. Nợ: Cái vay phải trả mà chưa trả.
Phủi nợ là gạt sạch hết nợ đời. Nghĩa bóng chỉ sự qua đời (chết).
Thánh giáo Thầy có câu: Vậy gắng khổ tâm giữ lòng đạo đức mà vẽ bước cho đời sau, lập công quả đặng chờ ngày chung cuộc, phủi nợ trần ai, đem tấm lòng thiện niệm đến Tam Giáo Ðài mà phục hồi cảnh cũ, rừng vắng non nhàn, suối chảy tòng đưa, lánh chốn đoạ đày đã bấy lâu ràng buộc.
Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,
Xin hiển linh giúp kẻ goá thân.
(Kinh Thế Đạo).
Những ngỡ trao duyên vào Ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống Tuyền đài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phủi: Gạt nhè nhẹ. Tay: Bộ phận ở thân thể nối liền với đầu vai ra đến ngón.
Phủi tay là trối bỏ trách nhiệm, không nhận lãnh trách nhiệm gì trước vụ việc do mình gây ra.
Phủi tay còn có nghĩa là trắng tay, không còn được gì. Như: Mấy năm làm ăn tiện tặn gặp cơn bịnh hoạn đành phải phủi tay.
Cõi trần kiếp sống mấy hơi,
Phủi tay phút đã châu rơi ngọc trầm.
(Đại Đạo Truy Nguyên).
Mấy năm rồi cũng phủi tay không,
Ðường thế chiêm bao một giấc nồng.
(Thơ Thuần Đức).
Phủi: Gạt nhẹ cho rơi hết bụi bặm, gạt bỏ, không chịu. Trần (trần thế): Cõi trần, chỉ thế gian.
Phủi trần, như chữ “Phủi trần thế”, là từ bỏ việc hồng trần, tức không tham dự vào việc thế gian.
Phủi trần còn có nghĩa bỏ cõi hồng trần, chỉ sự chết.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Nếu các con phủi trần thế mà lo cho Ðạo thì sao Toà Thánh còn thiếu tay giúp Ðạo, để cho đến đỗi càng ngày càng tiều tuỵ mà ra một cảnh điêu tàn.
Ông Thượng Kiên Thanh đã phủi trần,
Trở về Thánh vức đặng an thân.
(Thơ Thông Quang).
1.- Phun là dùng miệng để phì một chất gì ra ngoài thành nhiều tia nhỏ.
Như: Phun nước bọt, Phun bã trầu, ngậm máu phun người dơ miệng mình.
Đài Thuyết đạo hai bên đối diện,
Dưới rồng xanh hả miệng phun ra.
(Lược Thuật Toà Thánh).
2.- Phun còn cớ nghĩa làm cho chất lỏng hoặc chất hơi bị đẩy mạnh ra ngoài thành những tia nhỏ.
Như: Phun thuốc trừ sâu, mạch nước ngầm phun lên.
Long Tuyền Kiếm vừa khơi lên được,
Ngòi Long mạch phun nước tứ tung.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
噴
Phún là phun, làm cho chất lỏng, hơi bị đẩy mạnh ra ngoài thành tia nhỏ qua lỗ hẹp.
Như: Phún xuất thạch, hàm huyết phún nhân.
Linh oai chiếu diệu mình pha ngọc,
Pháp lực cao cường gót phún châu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Phí 費: Để mất đi một cách vô ích do dùng không có hiệu quả, hay dùng quá mức cần thiết.
Phung phí là sử dụng quá nhiều (tiền của, vật chất tinh thần, hay thời gian) một cách lãng phí, không có ích lợi gì hết.
Như: Xài tiền quá phung phí, phung phí thời gian.
Vì đó là huyết mạch của nhơn sanh, chúng ta không có quyền phung phí vô lối.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
1.- Phụng 鳳, có khi đọc “Phượng”, là loài linh điểu trong tứ linh: Long, lân, quy, phụng.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Con khá hiểu lời Thầy và nên biết rằng, nếu con chẳng dụng quyền lực của Thầy ban cho con mà đương cự, dìu dắt các em thì một ngày kia, nó dẫn đi lần hồi hết, rồi còn một mình như chim lẻ bạn, như phụng lạc bầy, gặp cơn giông tố kia, cũng chẳng sức gì đởm đương cho khỏi sa nơi hắc ám.
May bước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bay đến Hồ Dương phụng gáy chiều,
Thần Tiên giáng thế biết bao nhiêu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phụng 奉, là thờ. Như: Thờ phụng (phượng). phụng dưỡng, phụng sự, phụng tự, phụng thừa.
Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung có dạy: Em cho biết, phàm mỗi năm, những vị nào trong lúc ngày Xuân, biết lo phụng sự Thần, Thánh, Tiên, Phật thì công đức đặng xấp bằng hai lần ngày thường.
Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đơm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nối tông môn hương lửa phụng thờ,
Dạy con cháu há chờ kẻ giúp.
(Phương Tu Đại Đạo).
Phụng loan là đôi chim trống mái, ví với đôi trai gái. Phụng chỉ người con trai, loan nói người con gái.
Phụng đến tìm loan là ý nói người trai tìm đến cầu hôn người gái.
Đừng đề thi lá thơ chim,
Cầu hôn để phụng đến tìm cung loan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phụng gáy: Chim phượng hót. Núi Kỳ: Kỳ Sơn.
Phụng gáy núi Kỳ là chim phụng gáy trên Kỳ Sơn.
Do điển vua Văn Vương nhà Châu ra đời thì có chim phụng đậu trên Kỳ Sơn gáy, báo cho biết là một điềm lành, có Thánh quân ra đời.
Sau vua Văn Vương được Khương Tử Nha đến phò tá, diệt vua Trụ, dựng nghiệp nhà Châu, mở ra một thời thái bình thịnh trị.
Xem: Kỳ Sơn phụng gáy.
Phụng gáy núi Kỳ nên nghiệp cả,
Gà bươi nền hạnh ngã non cao.
(Thơ Cao Liên Tử).
Phụng gáy: Chim phượng hót. Non Nam: Núi Nam, chỉ nước Việt Nam.
Do điển Phụng hoàng gáy ở Kỳ Sơn, báo hiệu điềm lành, có Thánh nhân xuất hiện.
Phụng gáy non Nam ý chỉ chim phụng hoàng đậu trên núi Nam hót, ý nói nước Việt Nam có Thánh nhân ra đời để lập đời Thánh đức, hay nói cách khác là Đạo xuất thế để cứu chúng sanh.
Phụng gáy non Nam, Ðạo trổ mòi,
Trổ mòi nhân vật bốn phương Trời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phụng: Chim phượng, chỉ người vợ. Giao 蛟: Một loài vật đồng loại với rồng, ý chỉ người chồng.
Phụng giao: Rồng phượng, chỉ vợ chồng. Chung gối: Nằm chung chiếc gối.
Phụng giao chung gối có ý nói vợ chồng thương yêu hoà thuận gắn bó nhau.
Đợi chi xinh mày liễu má đào,
Mới bền giữ phụng giao chung gối.
(Phương Tu Đại Đạo).
奉 行
Phụng: Vâng theo. Hành: Thi hành, làm.
Phụng hành là vâng lịnh thi hành.
Trong Kinh Cứu Khổ có câu: Tín thọ phụng hành 信 受 奉 行, tức là tin tưởng và nhận lãnh lời các Đấng Thiêng liêng dạy bảo rồi vâng lệnh thi hành đúng như Chơn pháp.
Tín thọ phụng hành tức thuyết Chơn ngôn viết...
(Kinh Cứu Khổ).
Phụng (phượng): Một loài chim trong tứ linh, người xưa cho rằng đời thái bình mới xuất hiện. Lầu: Lầu các.
Phụng lầu, bởi chữ “Phụng lâu 鳳 樓”, là lầu các, góc có mái cong như hình chim phượng.
Phụng lầu, hay phượng lầu dùng để chỉ lầu của những người con gái nhà giàu sang hoặc nhà quan xem thơ đọc sách.
Diêu phong mấy khúc khách phàm trần,
Những mến phụng lầu ngự các lân.
(Đạo Sử).
Tiếng tiêu dầu lọt phụng lầu,
Hoặc may gỡ đặng dây sầu nữ nhi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Sông Tương đổ ngọc làm Cam lộ,
Ðảnh giáp trao châu cất phụng lầu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Phụng lầu: Lầu phụng, lầu của công chúa Lộng Ngọc. Gác quyển: Gác thổi sáo.
Phụng lầu gác quyển tức là lầu phụng và cái gác thổi ống tiêu.
Do tích Công chúa Lộng Ngọc được vua cha là Tần Mục Công cho ở trên lầu phụng, nàng có tài thổi ống tiêu (ống quyển), sau nàng kết duyên với chàng Tiêu Sử lại giỏi về thổi tiêu, rồi vợ chồng cùng thổi ống tiêu thì chim phụng hoàng bay đến trước sân nhảy múa.
Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,
Phụng lầu gác quyển đợi hoà thinh.
(Đạo Sử).
Phụng lầu gác quyển chờ tiêu,
Gieo cầu cho đáng, nhiễu điều gói gương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
鳳 嶺
Phụng: chim phượng. Lãnh: Đỉnh núi.
Phụng lãnh là chim phượng đậu trên đỉnh núi. Do tích “Phụng gáy non Kỳ”, để chỉ Thánh nhân ra đời.
Trong bài Kinh Nho giáo có câu: Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh 字 雷 貯 炳, 靈 於 鳳 嶺, tức là khi văn tự được chế ra thì Trời có điềm sấm sét, chớp giăng, chữ viết tự như ánh lửa soi sáng cho tâm linh con người, nên là một điềm linh thiêng hơn việc chim phụng gáy ở đầu non báo hiệu Thánh Chúa ra đời.
Tự lôi trữ bính,
linh ư phụng lãnh.
(Kinh Cúng Thứ Thời).
鳳 輦
Phụng: Con chim phượng. Liễn: Một loại xe dành cho người kéo.
Phụng liễn là xa giá, tức là loại xe có chạm hình chim phụng hoàng, dành để cho vua đi.
Phụng liễn còn là loại xe của các Tiên đi. Theo sử sách, bà Tây Vương Mẫu đã từng đi xe phụng liễn đến dự yến tiệc với vua Mục Vương.
Theo Đức Hộ Pháp, Phụng liễn là chiếc xe Tiên, được chim phụng chở, dùng để rước các Chơn linh về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Siêu thăng phụng liễn quy khai,
Tiên cung Phật xứ Cao Đài xướng danh.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Quy nguyên, cõi thọ thăm quày quả,
Phụng liễn, xe tiên rước bất ngờ.
(Thơ Hoàn Nguyên).
鳳 鸞
Phụng: Chim trống. Loan: Chim mái.
Phụng loan hay phượng loan là hai loại chim trống và mái, cũng như đàn sắt đàn cầm, được người ta ví với vợ chồng hoà hiệp.
Trong hôn lễ, người ta thường có câu chúc: Loan phụng hoà minh, sắc cầm hảo hiệp 鸞 鳳 和 鳴, 瑟 琴 好 合, tức là chim loan chim phượng cùng gáy, đàn sắt đàn cầm cùng hoà với nhau.
Gái tròn bốn đức hoà cầm sắt,
Trai vẹn năm hằng hiệp phụng loan.
(Thơ Thông Quang).
Mai trúc bền duyên vui một cửa,
Phụng loan liền cánh phước trăm năm.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
Phụng: Vâng theo. Mạng (mệnh): Mệnh lệnh.
Phụng mạng, như chữ “Phụng mệnh 奉 命”, là vâng theo mệnh lệnh của thượng cấp.
Cũng cùng chung phụng mạng xuống phàm,
Nay gặp hội Cao-Ðài truyền giáo.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
奉 事
Phụng: Tiếng dùng tỏ sự lễ độ. Sự: Thờ phượng.
Phụng sự là làm một cách kính cẩn, hoặc cung kính mà thờ phụng.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Bát Nương Diêu Trì cung có dạy: Em cho biết, phàm mỗi năm, những vị nào trong lúc ngày Xuân, biết lo phụng sự Thần, Thánh, Tiên, Phật thì công đức đặng xấp bằng hai lần ngày thường.
Phụng sự vạn linh nhuần huệ trạch,
Đưa đường nhơn loại thoát lao lung.
(Thơ Huệ Phong).
Yêu thơ phụng sự tươi chiều ngón,
Chuốc rượu lân la dốt dỡ nghề.
(Thơ Hoàng Nguyên).
奉 祀
Phụng: Thờ phụng. Tự: Thờ cúng.
Phụng tự là thờ phụng cúng tế.
Phụng tự còn có nghĩa là thờ cúng Tổ tiên, ông bà.
Thờ cúng Tổ tiên là nhằm thể hiện lòng tưởng cây cội nước nguồn, nhớ đến ân sâu nghĩa nặng, tức là tỏ lòng biết ơn và thương kính đối với những Chơn linh người thân đã đào tạo nên cơ thể hữu vi cho con cháu ngày nay.
Sự thờ kỉnh Tổ tiên cũng là một cách để duy trì nền luân lý đạo đức, nhứt là trong những ngày kỵ lạp, tế lễ để con cháu có dịp quy tụ về hầu nhắc nhở cho nhau sự tưởng nhớ nguồn cội, công đức của Ông bà.
Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Từ đời lập quốc đến giờ, trong phong hoá nhà Nam không thấy lúc nào sơ thất sự phụng tự, nếu đoán chắc là nhờ âm chất của tổ tiên ta biết phụng thờ Ðức Chí Tôn, cái thâm tình ấy còn lưu truyền lại mà ngày hôm nay Ngài mới đến đặng đền bồi ân nghĩa ấy lại có lẽ.
Bản di ngôn trước đệ đến vua Miên,
Gởi hài cốt Kiêm Biên còn phụng tự.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
Hay “Phượng thờ”.
Phụng (phượng): Vâng theo, thờ, chăm sóc. Thờ: Tỏ lòng tôn kính bằng lễ nghi, như thờ Thần, thờ Tổ tiên.
Phụng thờ, như chữ “Thờ phụng”, là chăm sóc một cách tôn kính.
Phụng thờ còn có nghĩa là thờ cúng các Đấng Thần Thánh hay Ông bà Tổ tiên.
Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Những bậc anh hùng dân tộc như: Phạm Ngũ Lão, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Ðạo, những bậc anh thư như: Hai Bà Trưng, Trưng Trắc, Trưng Nhị, mặc dù ngày nay đã khuất bóng, nhưng uy danh vẫn còn ghi tạc sử xanh được muôn đời nhắc nhở ca tụng.
Những đấng ấy há chẳng đáng cho nhơn dân sùng bái phụng thờ mãi mãi sao?
Định hương hoả, hằng ngày quý tế,
Lập pháp gia, tự kế phụng thờ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phụng thờ: Phụng sự việc thờ cúng. Tổ tông: Tổ tiên dòng họ.
Phụng thờ Tổ tông tức là chăm lo việc thờ cúng Tổ tiên của dòng họ.
Con chàng thiếp trả khi thơ,
Dòng chàng thiếp dạy phụng thờ tổ tông.
(Nữ Trung Tùng Phận).
奉 承
Phụng: Vâng lời, chữ dùng để tỏ lòng cung kính. Trong giấy tờ việc quan khi nói với cấp trên thường dùng chữ “Phụng”. Thừa: Vâng theo.
Phụng thừa là kính dâng theo ý kiến của người trên, hay các Đấng thiêng liêng.
Trong Bia Kỷ niệm Đức Cao Thượng Phẩm, Hội Thánh có ghi: Vậy nên Cao Quân hiệp cùng chư Ðạo Hữu phụng thừa Thiên mạng khắp miền Hậu Giang phổ độ chúng sanh, nền Ðại Ðạo mới gây nên từ đó.
Bố hoá Chư Đệ tử Thánh thể tinh anh, tăng long đắc thọ, phụng thừa mạng lịnh...
(Sớ Văn).
Phút đâu Ngọc sắc ban truyền,
Phụng thừa Thánh chỉ đàn tiền giáng lai.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Phuông là phong, tiên phong, ở vị trí dẫn dầu, khởi đầu, trước hết. Như: Cầm quân ra trận đi tiên phuông.
Ca dao có câu: Chào cô trước mũi tiên phuông, Chào cô sau lái mặt vuông chữ điền.
Nhẫn nại học đòi gương Phạm Lãi,
Tranh phuông để ý kế Trương Lương.
(Thơ Tiếp Đạo).
Phứt, như chữ “Phắt”, là một cách nhanh, gọn liền ngay lập tức, với thái độ dứt khoát.
Như: Để kéo dài hoài làm phứt đi xong, đứng nói dằng dai gạt phứt đi cho rồi.
Những điều ưa chuộng mến ham,
Con nên bỏ phứt túi tham cho rồi.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Phưng phức, như chữ “Phức 馥”, là rất thơm, thơm đến mức ngào ngạt cả mũi.
Như: Thơm phưng phức, mùi nhang trầm xông lên mùi thơm phưng phức.
Nơi nội sảnh trầm hương phưng phức,
Dọc hành lang hoa sực nức mùi.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Hay “Phúc”.
Phước, như chữ “Phúc 福”, là điều may, điều tốt do việc làm nhân đức mà ra. Như: Nhà có phước, làm phước, hưởng phước, phước đức.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có dạy: Ai đặng phước thêm cao trọng, ai vô phần thì trí não vẫn mờ hồ, nét hạnh đời càng mê muội, biết biết không không, luật Trời đã định, phần công quả trả cho rồi thì cảnh u nhàn là nơi rước khách tục trong lúc chung quy đó.
Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
(Kinh Sám Hối).
Cứu thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ,
Ðộ đời cố tạo phước nhơn gian.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nay đà gặp lúc Thiên ân rưới,
Gắng bước đường tu hưởng phước đời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Phúc do lành”.
Phước (phúc): Điều may mắn tốt lành. Do lành: Do bởi việc làm lành.
Phước do lành, như chữ “Phúc do lành”, là phước đức do sự làm lành mà có được.
Theo lời Đức Khổng Tử nói: Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc, vi bất thiện giả thiên báo chi dĩ hoạ 為 善 者, 天 報 之 以 福. 為 不 善 者, 天 報 之 以 禍, nghĩa là người làm việc lành, trời ban cho điều phước, người làm việc dữ, trời giáng cho điều hoạ.
Như vậy, người nhận được điều phước đức là do bởi việc làm lành.
Tiếng đời hằng nói phước do lành,
Con chẳng biết tu cứ cạnh tranh.
(Đạo Sử).
Phước: Hay phúc, điều hay, điều tốt do việc làm nhân đức mà ra. Duyên: Sức bổ trợ cho nhân thành quả.
Phước duyên, như chữ “Phúc duyên 福 緣”, là những điều may mắn tốt đẹp do việc làm lành báo đáp lại.
Xem: Phúc duyên.
Đương sanh hạnh hưởng phước duyên,
Trong nhà già trẻ miên miên thái bình.
(Kinh Sám Hối Ngắn).
Phước duyên bởi tạo không nên cảnh,
Tình thế trông ra mới ngược dòng.
(Thơ Tiếp Đạo).
Hay “Phúc địa”.
Phước (phúc): Điều may mắn tốt lành. Địa: Đất.
1- Phước địa, như chữ “Phúc địa 福 地”, là đất phước, tức chỉ vùng đất sống được sung sướng, an lành, hoặc chỉ vùng Thánh địa.
Thể xác táng an nơi phước địa,
Chơn hồn siêu thoát cõi Bồng lai.
(Mai Ngọc Nhiểu).
2.- Phước địa còn dùng để chỉ cõi Thiêng liêng.
Cõi nầy còn có nhiều tên khác nhau: cõi Thiên, cõi thọ, Thiên cung, Thiên cảnh...
Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên,
Nơi phước địa ở yên tu luyện.
(Kinh Tận Độ).
Phước (phúc): Những gì may mắn tốt đẹp. Đức: Tính tốt, thường làm điều lành cho kẻ khác.
Phước đức, như chữ “Phúc đức 福 德”, là chỉ tất cả những việc làm lành.
Phước đức còn chỉ người làm lành được hưởng sự sung sướng. (hưởng phước đức).
Kinh Pháp Cú của Phật giáo có câu: Lấy vật chất làm của, của sẽ rời xa ta; lấy phước đức làm của, của sẽ theo ta vạn đời.
Phước đức trời ban để cứu đời,
Thiện duyên chan rải khắp nơi nơi.
(Thơ Tiếp Đạo).
Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn đến mở Đạo lần nầy là lập một trường thi công quả. Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Người tu hành, nếu chưa trường trai trì giới nổi đặng thì hãy lo lập đức, bồi công để làm nền móng vững chắc cho việc luyện Đạo tương lai, chớ dục vọng mong sớm luyện Đạo để làm Tiên, Phật mà thiếu phần công quả, âm chất. Vì Thầy lập Đạo kỳ này là mở một trường thi công quả. Các con phải đi tại cửa này mới đến đặng Cực Lạc mà thôi”.
Như vậy, chúng ta nhập môn vào nền Đại Đạo, thì phải lo bồi công lập đức, tức phải tu phước, là làm những việc lành, như bố thí, cúng dường, ủng hộ những người tu hành chân chính, in kinh, làm chùa, ngoài ra bản thân cũng phải tu huệ là ăn chay, học hỏi giáo pháp, tụng kinh, trì giới, và thiền định. Hành giả phải vừa tu phước và tu huệ, gọi là phước huệ song tu. Đó là yếu tố quan trọng trong việc tu hành của một tín đồ Cao Đài.
Phước đức có hai thứ:
1.- Phước hữu lậu: Được an vui tương đối vì còn ở trong vòng sinh tử luân hồi.
Rõ phước đức, biết tội tình,
Nắm tâm đắp vững mặt thành Càn Khôn.
(Kinh Thế Đạo).
2.- Phước vô lậu hay công đức: An vui tuyệt đối, thoát ly sinh tử. Tất cả những an vui sinh tử đều là tạm bợ, chỉ có tiêu diệt hết mầm sinh tử thì mới có an trụ vô sanh và an vui viên mãn.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có dạy: “Công đức phải là nơi tự tánh thấy, không phải do bố thí, cúng dường mà cầu có được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau”. Các công đức của Phật hoàn toàn vô lậu, không phải như các công đức tạo tác ở thế gian vô thường thuộc hữu lậu và khổ đau.
Trong đạo Cao Đài, việc làm công quả hiện nay tại các địa phương, hầu như mọi nơi chỉ nghĩ đến xây dựng Thánh Thất cho khang trang, đẹp đẽ, thậm chí có nhiều chỗ đã tạo lập nơi thờ tự kiên cố rồi, thế mà vẫn đập phá để xây dựng lại mẫu mới. Điều nầy Đức Chí Tôn xưa đã từng dạy:
Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Chẳng cần hạ giới vọng cao ngôi.
Bần sang trối mặc, tâm là quý,
Tâm ấy toà sen của Lão ngồi.
Lại nữa, vào thời kỳ Hạ nguơn mạt pháp nầy, chúng sanh đang mang lấy nhiều oan khiên nghiệp chướng, chịu nhiều đau khổ, nên Thầy mới giáng cơ khai Đạo để cứu giúp và đưa chúng sanh đến bờ giác ngộ. Đó là Đạo cứu đời, thực thi bổn nguyên Bảo sanh của Đức Chí Tôn.
Khi Đầu Sư Thái Thơ Thanh còn tại thế, Ngài mua được 100 mẫu đất rừng, Ngài cùng Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh làm một tờ sớ dâng lên cho Hội Thánh và Đức Chí Tôn, xin tạo tác Cực Lạc Cảnh và Thái Cực Đồ.
Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Ngài như sau:
“Thời kỳ mạt pháp nầy, khiến mới có Tam Kỳ Phổ Độ, Các sự hữu hình phải phá tiêu diệt.
Thầy đến chuyển Đạo, lập lại vô vi, các con coi thử bên nào chánh lý: Hữu hình thì bị diệt đặng, chớ vô vi chẳng thể nào diệt đặng.
Thơ, Thầy đã khiến con đi “Đế Thiên Đế Thích” đặng xem cho tạng mặt hữu hình, nội thế gian nầy, ngày nay ai cũng nhìn nhận cho là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng? Lòng Đạo đức con Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến, Thầy không muốn cho con hao tài, tốn của, mà gìn giữ sự giả dối.
Chẳng cần con lo lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi hết. Con hiểu bổn nguyên BẢO SANH là bổn nguyên Thánh Chất của Thầy.
Thầy khuyên con để dạ lo cho nhơn sanh mà thôi...”.
Như vậy, việc huy động tiền của chúng sanh để tạo lập Thánh Thất có phải là công quả phi thường hay không?
Chúng ta thấy Lương Võ Đế là vì vua thâm tín Phật giáo vào bậc nhất trong lịch đại hoàng đế Trung Quốc. Ông tên là Tiêu Diễn, tự Thúc Đạt, làm Thứ sử đất Ung Châu, thời Nam Bắc Triều. Vua Tề là Bảo Quyển hung bạo, giết anh của Tiêu Diễn là Ý, Tiêu Diễn khởi binh công hãm thành Kiến Khang, rồi đón Bảo Dung đưa lên ngôi làm vua là Hoà Đế.
Hoà Đế bèn cho Diễn làm Đại Tư Mã và phong làm Lương Vương. Sau Hoà Đế mất nhường ngôi lại cho Tiêu Diễn, lập nên nhà Lương, tức Lương Võ Đế.
Lương Võ Đế một vị vua sùng bái đạo Phật, cho vời các bậc cao tăng ở Ấn Đô sang truyền đạo ở Trung Quốc. Vua còn ra lịnh dựng chùa Đồng Thái, Đại Ái Kính và nhiều chùa lớn nhỏ ở khắp nơi trong nước
Đến năm 520, vua được tin tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ theo thuyền buôn đến Quảng Châu, liền sai sứ thỉnh Ngài về kinh đô Kim Lăng để vua hội kiến.
Khi hội kiến, Lương Võ Đế hỏi tổ Bồ Đề Đạt Ma rằng: Trẫm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ tăng ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng?
Tổ đáp: Không có công đức gì cả.
Lương Võ Đế hỏi: Tại sao không có công đức?
Tổ Đạt Ma đáp: Xây chùa, chép kinh, độ tăng là tạo nhân hữu lậu, chỉ được hưởng thiện quả nơi cõi Trời, cõi người, quả theo nhân như bóng theo hình, là phước đức, không phải công đức. Công đức là do tu hành, trí rỗng rang, tâm sáng suốt, từ nơi bản tánh, không do bố thí hành thiện mà cầu được.
Lương Võ Đế lại hỏi: Thế nào là công đức chân thật?
Tổ Đạt Ma đáp: Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu.
Tổ sư Đạt Ma biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại thêm ít hôm, đến ngày 19 tháng 10 năm ấy, không chào mà từ giã vua, giữa đêm Tổ sang sông qua Giang Bắc, vào nước Nguỵ, đến Lạc Dương.
Thương nhau tìm kiếm chừng nào gặp,
Công đức vẹn toàn sẽ hiệp ngôi.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Hay “Phúc hạnh”.
Phước (phúc): Những gì may mắn tốt đẹp. Hạnh: May mắn.
Phước hạnh, như chữ “Phúc hạnh 福 幸”, là hạnh phước, tức có những điều may mắn và tốt lành.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Lấy Ðạo làm gốc mà lập nên một Tiểu Thiên Ðịa, há chẳng hơn giàu sang bốn biển sao? Há chẳng phải một điều phước hạnh lớn lao hơn mọi sự sao? Há chẳng phải là một nơi giải thoát chung cho nhơn quần xã hội sao?
Xem: Phúc hạnh.
Cõi thọ nay gìn câu phước hạnh,
Non thề còn nắm chữ ai bi.
(Thiên Thai Kiến Diện).
Hay “Phúc hậu”.
Phước (phúc): Những gì may mắn tốt đẹp. Hậu: Dầy dặn, trái với bạc là mỏng.
Phước hậu, như chữ “Phúc hậu 福 后”, là phước đức dầy dặn. Như: Trông anh ấy nhiều phước hậu.
Xem: Phúc hậu.
Nghèo mà trong sạch danh thơm rạng,
Phước hậu Trời ban để cháu con.
(Đạo Sử).
Hay “Phúc hoạ”.
Phước (phúc): Những điều may mắn, tốt đẹp. Hoạ: Tai nạn hay rủi ro xảy đến.
Phước hoạ, như chữ “Phúc hoạ 福 禍”, là hạnh phúc và tai hoạ.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Vậy trong đời nầy, sự buồn vui, vinh nhục, phước hoạ, cũng chẳng khác nào mấy ngọn sông, mấy hòn núi của Thầy lấy luật thiêng liêng mà tạo.
Lành dữ nơi mình chiêu phước hoạ,
Thành tâm ắt thấy hết thần minh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Hay “Phúc hồng”.
Phước (phúc): Điều may mắn, tốt đẹp. Hồng: To.
Phước hồng, như chữ “Phúc hồng 福 洪”, tức hồng phúc, nghĩa là phúc đức lớn lao.
Phước hồng thường dùng để chỉ cái phúc đức to lớn của Chí Tôn ban cho.
Xem: Hồng phúc.
Tu hành gắng chí lập dày công,
Ðến buổi chung quy hưởng phước hồng.
(Đạo Sử).
Ðem trở lại vị ngôi cao thượng,
Ðặng an nhàn thọ hưởng phước hồng.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Hay “Phúc lành”.
Phước (phúc): Những thứ may mắn tốt đẹp. Lành: Tốt đẹp, thiện.
Phước lành, như chữ “Phúc lành”, là chỉ sự phúc đức và tốt đẹp.
Thánh giáo Thầy dạy: Các con phải biết trong Trời Ðất, nhơn sanh là con quý của Thầy, nên Thầy hằng để ý lo lường cho chúng con biết hối ngộ, hầu chung hưởng phước lành.
Lòng sở vọng gắn ghi đảo cáo,
Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Chơn linh lắm chịu mê tân,
Sanh tiền khó hưởng phước lành Trời ban.
(Thất Nương Giáng Bút).
Hay “Phúc lộc”.
Phước (phúc): Những điều may mắn, tốt đẹp. Lộc: Tài lộc, tức là tiền bạc, của cải...
Phước lộc, như chữ “Phúc lộc 福 祿”, là cuộc sống gặp may mắn tốt đẹp và được nhiều của cải.
Như: Hưởng nhiều phước lộc của tổ tiên để lại.
Phước lộc tuỳ nên công quả để,
Ngày sau con cái đặng nương nhờ.
(Đạo Sử).
Hay “Phúc may gặp đạo”.
Phước (phúc) may: Có phước được may mắn.
Gặp Đạo: Gặp được mối Đạo, tức gặp được Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Đạo Cao Đài.
Người có nhiều duyên phần lắm mới gặp gỡ được thời kỳ mà Đức Chí Tôn giáng cơ mở một mối Đạo, như lời Thánh giáo đã dạy: “Đạo Trời dìu bước nhơn sanh, đường Thánh dẫn người phàm tục. Sanh nhằm lối duyên may mắn đặng gặp một Đạo Chánh, nếu chẳng lo dưỡng tánh trau mình, để bước vào đường Cực Lạc, thoát đoạ Tam đồ, một mai cảnh ủ bông tàn, rốt lại ăn năn vô ích”.
Thật vậy, trong hằng hà sa số kiếp luân hồi sinh tử, chúng ta có duyên may mới gặp được thời Đức Chí Tôn vì thương xót sanh linh, đại ân xá kỳ ba để mở cơ tận độ, giải thoát chúng sanh khỏi luân hồi, đưa các Chơn linh trở về ngôi xưa vị cũ. Đây có thể nói là rất may duyên mới gặp được Đạo, Đức Lý Đại Tiên cũng đã nói: “Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sinh nhằm đời đặng gặp mối Đạo cũng chẳng dễ”.
Xưa chẳng đặng phước may gặp Đạo,
Nay phò trì con cháu tu tâm.
(Kinh Thế Đạo).
Hay “Phúc như đông hải”.
Phước (phúc) như: Phước đức tựa như. Đông hải: Biển đông.
Phước như Đông hải, như chữ “Phúc như Đông hải 福 如 東 海”, là phước đức mênh mộng, rộng lớn như là biển Đông.
Người xưa thường dùng câu thành ngữ “Phước như Đông hải, Thọ tỷ Nam sơn” để chúc tụng người khác.
Đò duyên êm khoả chèo xuôi,
Phước như Đông hải đời đời hoà giao.
(Thơ Hoàn Nguyên).
Hay “Phúc tội”.
Phước (phúc): Phúc đức, việc tốt lành. Tội: Phạm vào pháp luật, lỗi.
Phước tội, như chữ “Phúc tội 福 罪”, là việc phước đức và việc tội tình.
Thánh giáo Thất Nương Diêu Trì Cung có dạy: Ðại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là Tịnh Tâm Xá, nghĩa là nơi của chư hồn đến đó đặng tịnh tâm xét mình, coi trong kiếp sanh bao nhiêu phước tội.
Ðâu là phước tội phải phân minh,
Biết tội phước kia phải xét mình.
(Đạo Sử).
Ðiều hay lẽ phải đã tường nghe,
Phước tội đôi bên khá dặt dè.
(Đạo Sử).
Hay “Phúc thần”.
Phước (phúc): Điều may mắn phước đức. Thần: Đấng Thiêng liêng, hay Đấng làm chủ mọi vật như núi sông, gió lửa, sấm sét... Hoặc người tu đắc quả Thần.
Phước thần, như chữ “Phúc Thần 福 神”, là vị thần ban phúc đức cho mọi người.
Lang thang lưới thưới bắt đau lòng,
Kêu Ðấng Phước Thần hỡi bớ Ông!
(Thiên Thai Kiến Diện).
Hoá giải tỵ hiềm gây hấn dứt,
Phúc Thần tìm đến đúng như lời.
(Thơ Huệ Phong).
Hay “Phúc Thiện”.
Phước (phúc): Phúc đức, việc tốt. Thiện: Lành.
1.- Phước thiện, như chữ “Phúc thiện 福 善”, là làm những điều lành, những điều may mắn tốt đẹp.
Như: Giúp đỡ người nghèo khó là làm phước thiện.
Tài thí là xuất tiền của làm việc phước thiện, như tán trợ người khốn cùng túng ngặt được no cơm ấm áo.
(Thiên Đạo).
2.- Phước Thiện còn là một tổ chức của đạo Cao Đài, gọi là Cơ quan Phước Thiện, trực thuộc Chi Đạo Hiệp Thiên Đài, nhằm mục đích làm những việc phước và việc thiện để giúp ích cho những người thiếu đói, khổ sở trong cuộc sống hiện tại.
Xem: Cơ Quan Phước Thiện.
Phước Thiện là vốn Phạm Môn,
Phước Thiện là của Thiên đường Phật Tiên.
(Thất Nương Giáng bút).
Cửu Trùng cứu thế phò Chơn Đạo,
Phước Thiện tuỳ cơ tế độ Đời.
(Thơ Thượng Sanh).
Hay “Phúc trạch”.
Phước (phúc): Những cái may mắn tốt đẹp. Trạch: Ân huệ.
Phước trạch, như chữ “Phúc trạch 福 澤”, là phúc đức của tổ tiên để lại cho con cháu.
Như: Mình có được như ngày hôm nay là nhờ phước trạch của ông bà tổ tiên.
Xem: Phúc trạch.
Phước trạch nhà ta trên chiếu cố,
Lấy gương đức hạnh để soi mình.
(Thơ Hoài Tân).
縛
Phược, còn đọc là “Phọc”, là lấy dây mà buộc. Như: Thằng phược 繩 縛 là ràng buộc, tức là tự mình trói buộc lấy mình, ý nói bỏ mất tự do.
Thành ngữ Việt Hán có câu: “Thê thằng tử phược 妻 繩 子 縛” có nghĩa là vợ trói con buộc.
Ðường đời là bến sông mê, thoát mê thoát khổ được, ai lại còn mang đeo thằng phược vào mình mà để cho loạn tâm mệt trí về nơi đó, chẳng uổng kiếp sanh lắm ru?
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Phướn là một dải lụa tựa như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, chung quanh có ren lụa thêu rũ xuống. Trong những nghi thức thờ phụng của đạo Cao Đài thường có các loại phướn như sau:
Phướn Toà Thánh, hay phướn các Thánh Thất.
Phướn Phật Mẫu hay phướn các Điện Thờ.
Phướn Thượng Sanh, phướn Thượng Phẩm.
Và theo Kinh Tận độ thường nói đến phướn Tiếp Dẫn, phướn Truy Hồn hay phướn Tiêu Diêu.
Tây phương Tiếp Dẫn Đạo Nhơn,
Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.
(Kinh Tận Độ).
Phướn linh phải buổi dìu nhơn loại,
Phép nhiệm này cơn dựng đại đồng.
(Thơ Tiếp Đạo).
Phướn: Một cây như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, trong lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống. Chiêu hồn: Dùng pháp thuật mà kêu gọi người chết trở về nói chuyện. Theo nhà Phật giáo, Chiêu hồn là kêu gọi hồn người chết trở về để thiết lễ cúng tế cầu siêu.
Phướn Chiêu hồn là cây phướn dẫn độ vong hồn người quá cố.
Theo Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp, Phướn Chiêu hồn là cây phướn do Chức sắc Thiên phong cầm để dìu dắt chúng sanh thoát khổ.
Đức Chí Tôn dạy Hộ Pháp có câu: Con cầm một cây phướn Chiêu hồn đi đầu Thánh thể của Thầy thì con phải nhớ đường trường sơn hải, nguy hiểm khó khăn của bước thiêng liêng là dường nào, rồi chậm chậm dừng chơn đợi đoàn con dại của Thầy với nghe.
Cửa linh cắm phướn Chiêu hồn,
Độ trong cửu nhị nguyên nhân nhập trường.
(Diêu Trì Kim Mẫu).
Phất phướn Chiêu hồn quy lối cũ,
Vén màn mờ ám cứu nhơn sanh.
(Bát Nương Giáng Bút).
Phướn: Một cây như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, trong lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống. Đưa linh: Đưa tiễn hồn người chết.
Phướn Đưa linh là lá phướn trong nghi thức tang lễ đạo Cao Đài thường dùng để đưa linh hồn người chết.
Về mặt hữu hình có hai loại phướn đưa linh: Phướn Thượng Sanh dành đưa chơn linh phẩm Lễ Sanh, Chức việc và Đạo hữu, Phướn Thượng Phẩm dành đưa chơn linh Chức sắc hàng Thánh trở lên.
Ngoài ra về mặt vô vi còn có Phướn Tiêu Diêu, Phướn Tiếp Dẫn tiếp rước chơn linh trong cõi thiêng liêng.
Ngọn phướn đưa linh trau Thánh chất,
Câu kinh dẫn lối giữ Chơn thần.
(Thơ Hàn Sinh).
Phướn: Một cây như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, trong lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống. Phụng: Loài chim linh, một trong tứ linh.
Phướn phụng do đuôi con chim phụng giống như là một lá phướn. Vì vậy, nắm đuôi phụng như nắm lá phướn để dẫn đường.
Do câu thơ Hán: Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn 鳳 含 丹 詔 提 楊 畔, nghĩa là chim phụng ngậm tờ chiếu của vua tiến lên bờ dương (tức bờ giải thoát).
Theo giáo lý Cao Đài, nắm đuôi phụng, cũng như nắm đuôi chim loan (Phụng và loan như nhau) của Đức Phật Mẫu để dẫn dắt chơn linh về nơi cõi Thiêng liêng.
Xem: Dương bờ.
May phước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vọi vọi lầu chuông sen đỏ ánh,
Phất phơ phướn phụng sắc vàng in.
(Thơ Duy Thần).
Phướn: Phướn là một cây như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, trong lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống. Tam thanh: Ba màu tượng trưng cho Phật, Tiên, Thánh là Thái thanh, Thượng thanh, Ngọc thanh.
Lá Đạo kỳ gọi là cờ Tam thanh vì có ba màu vàng, xanh, đỏ.
Phướn Tam thanh là chỉ tất cả các loại phướn treo trước Toà Thánh, hay Điện Thờ Phật Mẫu tại trung ương và các địa phương, vì các loại phướn này đều may ba màu vàng xanh đỏ.
Quà tết thắm tươi hoa Vạn thọ,
Sân Đền rạng rỡ phướn Tam thanh.
(Thơ Huệ Phong).
Núp phướn Tam thanh trước cửa thiền,
Nay đành cách biệt chạnh niềm riêng.
(Thơ Trân Châu).
Phướn: Một cây tựa như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, trong lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống.
Trong Đạo Cao Đài có nhiều loại phướn như: Phướn Thượng Sanh, phướn Thượng Phẩm, phướn Tiêu Diêu...
Phướn Tiêu Diêu, còn gọi là phướn Truy Hồn, một Bửu Pháp của Lục Nương Diêu Trì Cung.
Theo đạo Cao Đài, khi một người chết thì Chơn linh phải có cây phướn để dẫn dắt đường đi. Về thể pháp, nếu người chết từ phẩm Lễ Sanh trở xuống chức việc, đạo hữu, thì Chơn linh người chết được hướng dẫn bằng cây Phướn Thượng Sanh, nếu người chết từ phẩm Giáo Hữu trở lên thì Chơn linh người chết được dìu dẫn bằng cây Phướn Thượng Phẩm. Về bí pháp, thì nơi Thiêng Liêng mỗi Chơn hồn đều được dẫn dắt bằng phướn Tiếp Dẫn hay phướn Tiêu Diêu.
Phép giải oan độ hồn khỏi tội,
Phướn Tiêu Diêu nắm mối trường sanh.
(Kinh Tận Độ).
Chấp phướn Tiêu Diêu rước khách trần,
Phất làn áng khí lộ đài vân.
(Lục Nương Giáng Bút).
Mượn xác phàm riu cây phất chủ,
Nương cơ tạo, xủ phướn Tiêu Diêu.
(Quyền Giáo Tông).
Phướn: Một cây tựa như lá cờ, dùng để đưa tang. Tử tôn 子 孫: Con cháu.
Phướn tử tôn, còn gọi là cờ tang, dùng để đưa quan tài người chết đi an táng nhằm ý nghĩa để các chơn hồn con cháu của người mất, nương theo lá phướn đó đưa tiễn người chết đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Thông thường phướn làm bằng vải đen, phía dưới lá phướn hình đuôi cá, viền chung quanh bằng vải trắng, bề ngang 30 phân, bề dài 60 phân. Phướn có kết những đốm hình giọt lệ để tượng cho sự tiếc thương.
Theo tục lệ “nam thất nữ cửu”, nên ba lá phướn bên Nam phái, mỗi là kết 7 giọt lệ, ba lá phướn bên nữ phái kết 9 giọt lệ.
Phất phướn tử tôn đã tử trần,
Cũng vì hiếu nghĩa với người thân.
Xúm nhau đưa đón về ngôi vị,
Vọng tưởng thiên cung rước khách trần.
(Thi Bài).
Phướn Thượng Phẩm là cây phướn thuộc chi Đạo Hiệp Thiên Đài, trên lá phướn có thêu hai chữ Thượng Phẩm 上 品 bằng chữ Hán, và trên đầu phướn có thêu Cổ pháp Thượng Phẩm (Long Tu Phiến và Phất Chủ).
Trong Toà Thánh hay các Thánh Thất Địa phương, Phướn Thượng Phẩm được treo bên hữu của Ngai Hộ Pháp (Chữ Khí). Khi cúng Đại Đàn nơi Toà Thánh, vị Hữu Phan Quân cầm phướn Thượng Phẩm hướng dẫn các vị Chức Sắc từ phẩm Giáo Hữu hay các phẩm tương đương thuộc hàng Thánh trở lên đi vào nội Điện Toà Thánh để hoán đàn.
Phướn Thượng Phẩm còn là cây phướn dùng để dẫn Chơn linh của các Chức sắc từ phẩm Giáo Hữu hay tương đương hàng Thánh trở lên. Vì vậy, khi có vị Giáo Hữu hay phẩm tương đương trở lên, nơi bàn vong phải dựng cây phướn Thượng Phẩm và khi đưa linh cữu đi hạ huyệt, cây phướn Thượng Phẩm phải đi trước để dẫn đường.
Nhớ biểu hai đứa cầm phướn Thượng Phẩm, Thượng Sanh đi gần bên Cư, Sang.
(Đạo Sử).
Phướn Thượng Sanh là cây phướn thuộc chi Thế Hiệp Thiên Đài, trên lá phướn có thêu hai chữ Thượng Sanh 上 生 bằng chữ Hán, và có thêu Cổ pháp Thượng Sanh (Cây phất chủ và thư hùng kiếm).
Trong Toà Thánh hay các Thánh Thất Địa phương, Phướn Thượng Sanh được treo bên tả của Ngai Hộ Pháp (Chữ Khí). Khi cúng Đại Đàn nơi Toà thánh, vị Tả Phan Quân cầm phướn Thượng Sanh hướng dẫn các vị Lễ Sanh, Chức Việc, Đạo Hữu hay các phẩm tương đương đi vào nội Điện hoán đàn.
Phướn Thượng Sanh còn là cây phướn dùng để dẫn Chơn linh của các Chức sắc từ phẩm Lễ Sanh hay tương đương đến Chức Việc và Đạo Hữu. Vì vậy, khi có vị Lễ Sanh hay phẩm tương đương hoặc Chức Việc Đạo Hữu quy vị, nơi bàn vong phải dựng cây phướn Thượng Sanh và khi đưa linh cữu đi hạ huyệt, cây phướn Thượng Sanh phải đi trước để dẫn đường.
Ngậm ngùi tiễn biệt vị Hiền Tài,
Nương phướn Thượng Sanh gió lộng bay.
(Thơ An Như).
Phướn: Một cây tựa như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, trong lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống. Truy hồn: Đưa, đuổi hồn.
Phướn Truy hồn, còn gọi là “Phướn Tiêu Diêu”, một cây phướn của Lục Nương Diêu Trì Cung, dùng để hướng dẫn các Chơn hồn lên tầng Kim Thiên rồi vào Diêu Trì Cung bái yết Phật Mẫu.
Xem: Phướn Tiêu Diêu.
Lục Nương phất phướn Truy hồn,
Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.
(Tán Tụng Công Đức).
Đã biết Đạo đừng mong an hưởng,
Cứu sanh linh giúp phướn Truy Hồn.
(Nhị Nương Giáng Bút).
方
1.- Phương là mé, phía. Như: Phương hướng, phương Nam, tha phương, bốn phương tám hướng.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có dạy: Bần Đạo khi đắc lịnh làm Chưởng Ðạo lập Hội Thánh giáo đạo tha phương thì tùng lòng bác ái của Chí Tôn, mở rộng thế cho nhơn sanh dâng công đổi vị.
Ai ôi! Tự nghĩ biết lo xa,
Xa bốn phương Trời cũng kiếm ra.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Kẻ ở phương trời người góc biển,
Lòng thành nhắn gởi chữ khương ninh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
2.- Phương là phép, lối, cách thức. Như: phương thuốc, phương pháp, phương thức.
Thánh giáo Thầy có dạy: Thầy tìm phương sửa cải cũng đáng đó chút. Nhưng cũng bởi chư Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho rõ cơ Ðạo của thế gian nầy, nên Thầy không giáng cơ mà phân giải lại nữa.
Quanh co muốn khỏi gắng lòng thành,
Chứa đức là phương phước để dành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Có lỗi không tu nhà biến nạn,
Phương hay là phải dạ ăn năn.
(Đạo Sử).
Già răng rụng cắn cơm không bể,
Dâu kiếm phương nhai thế đút mồi.
(Phương Tu Đại Đạo).
芳 稿
Phương: Hương, mùi thơm. Cảo: Văn chương còn trong bản thảo, chưa sao chép hay in ra.
Phương cảo là cảo thơm, chỉ bản thảo văn chương, tức là những thi văn chưa được in thành sách.
Phương cảo, nghĩa bóng dùng để chỉ pho sách hay.
Xem: Cảo thơm.
Phương cảo lưu truyền nhiều thế hệ,
Danh Nhân Đại Đạo sính thơ Đường.
(Thơ Chơn Tâm).
方 針
Phương: Hướng. Châm: Cây Kim.
Phương châm dùng để chỉ đường lối nhắm theo đó mà hoạt động, giống như cây kim trong La bàn luôn luôn chỉ về hướng Bắc để người ta dễ tìm phương hướng.
Thánh Giáo Thầy có câu: Ngày xuân gần mòn mỏi, khá sớm biết trau xuân, ấy là phương châm dẫn đàng khách phồn hoa vào nơi Cực Lạc.
Âm chất chưa hao nhà chứa trước,
Phương châm gìn rõ chánh cùng tà.
(Đạo Sử).
Đạo biểu tượng tinh thần tồn cổ,
Làm phương châm giác ngộ trần gian.
(Cội Đạo Bốn Mùa).
Phương chi là tiếng trợ từ dùng để chuyển câu trên xuống câu dưới, mà vận ra ý khác.
Phương chi cùng nghĩa với chữ huống chi
Như: Trị nhà không xong phương chi là trị nước, việc dễ còn không làm phương chi là việc khó.
Phương chi thoát khỏi luân hồi,
Chỉ nhờ pháp nhiệm phủi rồi nghiệp duyên.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
Phương: Lối, cách thức. Chước: Mưu kế, cách khôn khéo trong việc xử lý công việc.
Phương chước là định cách thức, nội dung tiến hành cho một công việc.
Diễn văn Đức Quyền Giáo Tông có câu: Ấy vậy, dầu cho sự xung đột của quyền Ðạo với quyền Ðời thoảng đã làm cho lao tâm tiêu tứ của những trang chấp chánh Ðạo quyền đi nữa, là phương chước tô điểm vẽ vời cho lịch xinh mặt Ðạo.
Người hành Đạo có đủ tài liệu, phương chước sửa mình và trau dồi hầu treo gương sáng cho người đời noi bước.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
芳 名
Phương: Thơm. Danh: Tên, tiếng tăm.
Phương danh là danh thơm, tức tiếng tăm tốt đẹp được truyền đi xa.
Như: Làm việc giúp người đó là lưu phương danh lại cho hậu thế.
Người tuy mất, nhưng phương danh không mất,
Xác dù tan, nhưng chí cả không tan.
(Điếu Văn Đầu Sư).
方 面
Phương: Vuông. Diện: Mặt.
Phương diện là một mặt nào đó xét riêng ra của vấn đề, sự việc. Như: Nghiên cứu phương diện lý thuyết.
Trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Mỗi ngày phải chạy tờ nhựt để cho Chánh Trị Sự hiểu điều động tịnh trong địa phận của mình; nhứt là những sự chi làm hại cho phương diện Đạo thì phải tức cấp cho Thông Sự hay, đặng điều đình thế nào cho an ổn.
Như vậy Hội Thánh thật hân hạnh được sự ủng hộ triệt để của bổn Ðạo về mọi phương diện, kẻ đem công, người giúp của, chia sớt nỗi âu lo, đắp bồi chỗ thiếu thốn.
(Thuyết Đạo Thượng Sanh).
方 向
Phương: Hướng. Hướng: Xoay về.
Phương hướng là phía, hay hướng, tức đường lối đi về một chiều nào.
Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Thầy đã chỉ rõ hai nẻo Tà Chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi cho khỏi lầm lạc.
Địa bàn chỉ nẻo rành phương hướng,
Lạc lối kinh luân nhọc trí mò.
(Thơ Thái Đến Thanh).
方 煉 己
Phương luyện kỷ là một phương pháp trau luyện về mình, tức phương pháp tu thân của con người để đi vào con đường thứ ba của Đại Đạo.
Phương luyện kỷ do Đức Hộ Pháp ban ra vào ngày 14 tháng 01 năm Đinh Hợi, (1947), nguyên văn như sau:
PHƯƠNG LUYỆN KỶ ĐẶNG VÀO CON ĐƯỜNG THỨ BA ĐẠI ĐẠO
* Phải biết thân thích cùng cả nhơn vật tức là tìm nguyên do của Vạn Linh cùng Chí Linh.
* Phải ân hậu và khoan hồng.
* Phải thanh nhàn đừng vị kỷ.
* Phải bình tĩnh nghĩa là đừng chịu ảnh hưởng của hoạ phước, buồn, vui (tập tánh không không đừng nhiễm, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc buồn vui thấm vào chơn tánh).
* Phải độ lượng, khoan dung, tha thứ.
* Phải vui vẻ, điều hoà, tự chủ, và quyết đoán.
* Giữ linh tâm làm căn bổn.
* Hiếu hạnh với Chí Tôn và Phật Mẫu.
PHƯƠNG PHÁP TRỊ TÂM VÌ TÂM LÀ HÌNH ẢNH CỦA THIÊN LƯƠNG
* Đức tin và khôn ngoan là kho chí bữu, ngoài ra là của bỏ, là đồ vô gíá.
* Ai đã cố oán kẻ thù của mình, thì khó giữ thanh tâm công chánh cho đặng.
* Ai chẳng oán hận mới thắng đặng kẻ thù nghịch cùng mình.
* Sự cừu hận là mối thảm khổ đệ nhứt của nhơn sanh, nên người hiền thì không biết đến y là từ bỏ cừu hận oán ghét.
* Thắng đặng khí nộ mình, thì không chọc ai giận dữ.
* Lấy thiện mà trừ ác.
* Lấy nhơn-nghĩa trừ bạo tàn.
* Lấy lòng quảng-đại đặng mở tâm-lý hẹp-hòi.
* Lấy chánh trừ tà.
Ấy là đường thương huệ kiếm
LUYỆN THÂN, LUYỆN TRÍ
* Ẩm thực tinh khiết.
* Tư-tưởng tinh-khiết
* Tín-ngưỡng mạnh-mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
* Thương yêu vô tận.
Ấy là chìa khoá mở cửa Bát Quái Đài tại thế nầy.
Phương Luyện Kỷ gần hiền lánh tục,
Phép Cân Thần hồi phục anh linh.
(Thơ Huệ Nhật).
方 略
Phương: Cách thức. Lược: Mưu kế.
Phương lược là phương sách và mưu lược dùng để làm việc, tức là những phép tắc và lề lối để thực hiện một công việc gì đó.
Như: Binh thư là quyển sách nghiên cứu về phương lược phép dùng binh.
Cách xây đổi phương lược tuỳ cơ ứng biến. Ấy là cơ nghiệp riêng của mỗi đạo hữu, Bần Đạo không dám dạy.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
方 法
Phương: Cách thức. Pháp: Phép nhất định.
Phương pháp là phép tắc để theo đó mà làm.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Nay Thầy phải tự tìm lấy một phương pháp huyền diệu hơn để thâu phục các con. Các con sẽ không còn chối cãi được trước Toà Phán Xét Chung rằng Thầy không cứu vớt nhơn loại bằng những phương pháp công hiệu.
Phương pháp chi giải lần oan nghiệt,
Nhờ ơn anh trực tiếp chỉ giùm.
(Thơ Hộ Pháp).
Nam bang gặp đặng Ðạo Trời gieo,
Phương pháp thoát ra chốn hiểm nghèo.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
方 策
Phương: Tấm ván vuông. Sách: Cái thẻ.
Sách Trung Dung có câu: Văn Võ chi chính, bố tại phương sách 文 武 之 政, 布 在 方 策, nghĩa là chính sách trị nước của vua Văn Vương, Võ Vương điều viết cả vào tấm thẻ tre.
Phương sách có nghĩa bóng là phương lược và chính sách, tức là những phép tắc và lề lối để thực hiện một công việc gì đó.
Đồng tâm phương sách xây cơ nghiệp,
Quy phục nhơn sanh trọng đạo nhà.
(Thơ Thượng Cảnh Thanh).
方 朔
Phương Sóc tức “Đông Phương Sóc 東 方 朔”, người đời Hán Vũ Đế, tự Man Thiên, có tài khôi hài. Đời Vũ Đế giữ chức Kim Mã Môn Thị trung, thường lấy tài trào phúng, hoạt kê để chữa lỗi cho vua. Về sau, Ông có đi tu theo Đạo Tiên và đắc quả, được người đời gọi là Đông Phương Lão Tổ.
Về lịch sử của Đông Phương Sóc không rõ ràng, chỉ được Sử ký Tư Mã Thiên nhắc đến trong chương “Hoạt Kê Liệt Truyện” như sau:
Thời Hán Vũ Đế, nước Tề có người họ Đông Phương, tên Sóc, tính ưa Kinh truyện cũ, đọc rộng tất cả các bách gia chư tử. Lúc mới đến Trường An, Sóc đến dinh Công Xa dâng thư, thư dài đến ba ngàn giản độc (thẻ tre có khắc chữ), nha Công Xa phải cho hai người khiêng mới xuể. Vua đọc thư của Sóc ở nội cung, mỗi khi dừng phải vạch đánh dấu. Đọc ròng rã hai tháng mới hết. Vua xuống chiếu bổ Sóc làm quan Lang, thường thường thừa trực ở nội đình. Vua vời Sóc đến hầu chuyện luôn và chưa hề bao giờ không vui thích...
Lối sống của Đông Phương Sóc hơi ngông, nên có người hỏi ông:
- Người ta ai cũng cho là Tiên sinh cuồng.
Ông đáp:
- Những người như Sóc nầy, người ta gọi là kẻ trốn đời, vào ở ẩn nơi Triều đường đấy. Người xưa thì lánh đời ở ẩn nơi hang sâu.
Có khi giữa tiệc, ruợu đến lúc ngà say vui chén, ông vừa bò vừa hát rằng: Không nước mà chìm, ôi thôi tục lụy! Lánh đời lánh quách nơi “Kim Mã Môn” Trong cung điện, ẩn thân toàn vẹn, Lọ là cần hò hẹn hang sâu? Bồng cao chẳng hẹn lác lau?...
Sản Tất Viên, Phương Sóc chi bối,
Đơn tích vi mang.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
方 便
Phương: Phương hướng. Tiện: Tiện lợi.
Phương tiện là tiếng nhà Phật, tuỳ phương nhân tiện, là theo phương hướng và nhân việc tiện lợi mà làm.
Ngày nay, phàm việc gì có ích cho người đều gọi là phương tiện.
Phương tiện còn có nghĩa là cái phương pháp để đạt đến mục đích.
Thánh giáo Thầy có dạy: Con phải đi công quả với Tr. mà độ rỗi nhơn sanh. Con có thể giúp phương tiện cho mấy đứa nhỏ đi truyền đạo, thì chung lo với nhau mà định liệu.
Nam nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,
Phương tiện tu tâm kế diệt lao.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
方 修 大 道
Phương tu: Phương cách tu hành. Đại Đạo: Nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Phương tu Đại Đạo là phương cách tu hành của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức đạo Cao Đài.
Phương Tu Đại Đạo còn là tên một tác phẩm dạy về đạo đức, nhơn nghĩa của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, bút hiệu là Ái Dân. Ngài làm theo lối thơ tự do, lời thơ rất bình dị, người đọc dễ hiểu.
Phương Tu Đại Đạo được chia ra hai quyển gồm các nội dung như sau: Luật đời, Phận anh, Phận chị, Làm em trai, Phận em gái, Phận chồng, Làm rễ, Làm vợ, Làm dâu, Phận làm cha.
Phương Tu Đại Đạo ẩn tàng,
Lời vàng tiếng ngọc chứa chan thâm tình.
(Tìm Hiểu Sự Nghiệp).
Phương tu Đại Đạo trọng nhơn luân,
Nhân nghĩa, trung can hiếu hạnh thuần.
(Thơ Huệ Phong).
方 勢
Phương: Cách thức. Thế: Cuộc bày ra.
Phương thế là cách thức giải quyết một công việc khó khăn nào đó trong đời sống.
Phương thế đồng nghĩa với chữ “Phương kế 方 計”.
Thánh giáo Chí Tôn có câu: Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật, muốn cho đắc đạo phải có công quả.
Cùng Tỷ nương Đường thị con đây,
Lo phương thế đỡ day trong mối Đạo.
(Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Vợ dữ nên gắng chí cho bền,
Tìm phương thế biến quyền dạy dỗ.
(Phương Tu Đại Đạo).
方 天
Phương: Hướng, phía, vuông. Thiên: Trời.
Phương Thiên là một cái mão của Đầu Sư Nữ phái, có hình là một cái choàng bằng hàng trắng mỏng, trên chót thêm cái mũ bằng vàng chụp trọn đầu tóc, chính giữa ngay trước mặt có chạm Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh khí.
Cái choàng mão Phương Thiên có chiều dài độ 3 thước, 3 tấc, 3 phân. Khi ngồi lên ngai thì có hai vị Lễ Sanh nữ giở lên cho khỏi phết đất.
Pháp Chánh Truyền có câu: Ðầu Sư Nữ Phái mặc một bộ Ðạo Phục y như Ðạo Phục Ðầu Sư Nam Phái, phải đội một Ni Kim Cô; như các vãi Chùa, toàn hàng trắng áo chín dải có thêu bông sen. Trên Kim Cô có choàng từ đầu tới gót. Ðội mão Phương Thiên, trên chót Phương Thiên ngay đầu tóc có Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí, đi giày vô ưu màu trắng, trên chót có để chữ “HƯƠNG” nghe à!
Phối Sư cũng mặc y như vậy, song không có mão Phương Thiên, áo ba dải, nhưng trước ngực có thêu Thiên nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Phương: Phương hướng, chỉ một phía nào đó. Trời: Chỉ khoảng không gian vô tận.
Phương trời là hướng về phía chân trời nào đó, chỉ sự xa xôi, diệu vợi.
Phương trời góc biển là hướng về một góc trời biển bao la, chỉ sự xa xôi, mờ mịt. Phương trời góc biển còn dùng để chỉ hai nơi xa cách với nhau.
Từ con cách Mẹ phương trời,
Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.
(Tán Tụng Công Đức).
Ai ôi! Tự nghĩ biết lo xa,
Xa bốn phương trời cũng kiếm ra.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nhạn chiu chít phận một phương trời,
Kêu bạn canh tàn chẳng mỏi hơi.
(Đạo Sử).
Hay “Phương trời góc biển”.
Phương trời: Hướng về phía chân trời nào, chỉ sự xa xôi, diệu vợi. Góc bể (biển): Một góc của vùng biển.
Phương trời góc bể, như chữ “Chân trời góc bể”, là chỉ một nơi xa xăm, hoặc xa cách.
Kẻ ở phương trời người góc biển,
Lòng thành nhắn gởi chữ khương ninh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
坊
1.- Phường là khu vực, trong đó các nhà cùng làm một nghề ở với nhau.
Như: Phố phường tấp nập người và xe cộ, Hà Nội ba mươi sáu phố phường.
Nhà tranh xiêu sập cùng lân ấp,
Tường gạch vỡ tan khắp phố phường.
(Thơ Thái Đến Thanh).
Chiếc lá ngô rơi khắp phố phường,
Tin thu như nhắc cảnh phong sương.
(Thơ Chơn Tâm).
2.- Phường còn là từ dùng để chỉ bọn người đáng khinh cùng có một đặc điểm chung nào đó. Như: Phường trộm cướp, phường vô dụng.
Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn: Tương y, tương ỷ để hoà thuận trong vòng lễ nghi Đạo đức; điều đó là tốt nhứt; chẳng nên bắt chước phường hỗn ẩu chồng một lời đi, vợ năm bảy tiếng lại. Thế rồi sanh việc bất hoà; mà chồng vợ bất hoà thì gia đình tan nát.
Trường đổ bác cũng đừng léo tới,
Phường trăng hoa hát bội khá từ.
(Giới Tâm Kinh).
Nhắn lời nói với phường đen bạc,
Ðến cửa Thiêng liêng ngó mặt Trời.
(Thất Nương Giáng Bút).
Diệt cho sạch xác ma thịt quỷ,
Trừ những phường hồ mị cầu danh.
(Bát Nương Giáng Bút).
Hay “Phảng phất”.
1.- Phưởng phất, như chữ “Phảng phất 彷 彿”, là thoảng qua một cách nhẹ nhàng, hơi rung động.
Như: Mùi hương phưởng phất trên chánh điện.
Cờ vàng phưởng phất chốn hiên Tây,
Đạo đức cao thâm trổ hiệp nầy.
(Đông Phương Sóc Giáng).
2.- Phưởng phất là lang thang đâu đó, có lúc tựa như biến mất, khó nhận biết được.
Thánh giáo có câu: Than ôi! Có hình thể xương thịt mà chơn hồn phưởng phất nơi xa, thì cái thân vô dụng ấy trơ trơ như khối đá dựa đường, như khúc cây bên trũng.
Thế là hồn Ðạo phải chịu ngàn năm phưởng phất.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Tinh trung Bình Định còn nhen lửa,
Khí hiển Đồng Nai phưởng phất hồn.
(Thơ Hộ Pháp).
3.- Phưởng phất hay phảng phất còn có nghĩa là thoang thoảng ở chung quanh.
Thánh Ngôn có câu: Áo dà cũng muốn mặc, giày đạo cũng muốn mang, muốn đứng trước cả nhơn sanh để cho họ biết mình là hướng đạo. Ðường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng toan vào, mà thấy bạc rơi cũng chẳng bỏ, lợi mún chẳng từ, mượn danh Ðạo mà tạo danh mình, vô Thánh điện mà hơi tà còn phưởng phất.
Sớm trông mây tối trông mưa,
Phưởng phất non Vu hồn Thần nữ.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
Ngào ngạt trầm hương bay phưởng phất,
Lạnh lùng gió tuyết thổi liu hiu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
1.- Phượng, như chữ “Phụng 鳳”, là một loài chim nằm trong tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng.
Như: Phượng loan, phượng chạ loan chung, loan phượng hoà minh.
Xem: Phụng.
Phòng tía nào khi loan phượng chạ,
Suối vàng này lúc mộ rêu in.
(Thơ Chơn Tâm).
2.- Phượng, do chữ “Phụng 奉”, đọc trại ra, có nghĩa là thờ. Như: Thờ phượng (phụng).
Thánh giáo Thầy có dạy Ngài Trung: Trung! Con phải lên nhà G. bây giờ mà xem sóc, sắp đặt sự thờ phượng theo bây giờ cho tới ngày tác thành Tân Luật.
Xem: Phụng.
Cầu ai mở đặng khiếu thông minh,
Thờ phượng Thầy khuyên trẻ hết tình.
(Đạo Sử).
Phượng (phụng) đỗ: Chim Phượng đậu. Cành ngô: Cành cây ngô đồng 梧 桐, một loại cây mà chim phượng hoàng thường hay đậu.
Phượng đỗ cành ngô, như chữ “Phụng đỗ cành ngô”, là chim phượng hoàng đậu trên cành cây ngô đồng, ví với vợ chồng xứng hợp.
Ca dao ta có câu: “Cây ngô, cành bích, con chim phượng hoàng nó đậu cao...”
Thơ Đỗ Phủ có câu: Bích ngô thê lão phụng hoàng chi 碧 梧 棲 老 鳳 凰 枝, tức là cành ngô biếc là cành chim phượng hoàng đậu đã già rồi.
Rồi đây nhà cũ thêm người mới,
Phượng đỗ cành ngô đẹp biết bao.
(Thơ Hàn Sinh).
Hay “Phụng hoàng”.
Phượng (phụng): Chim trống, một loài chim trong tứ linh. Hoàng: Chim mái.
Phượng hoàng, như chữ “Phụng hoàng 鳳 凰”, là một trong bốn vật linh (Tứ linh: Long, Lân, Quy, Phụng), con trống là phượng, con mái là hoàng, thường dùng để ví với trai gái hay vợ chồng.
Duyên uyên ương hợp, duyên đằm thắm,
Khúc phượng hoàng nhi, khúc hảo hoà.
(Thơ Thuần Đức).
Đinh ninh chén nguyệt lời sơn hải,
Ấm áp phòng xuân gối phượng hoàng.
(Thơ Chơn Tâm).
Phượng: Do chữ “Phụng 奉” đọc trại, có nghĩa là thờ. Như: Thờ phượng. Thờ: Tỏ lòng tôn kính thần thánh hay cha mẹ ông bà.
1.- Phượng thờ, như chữ “Thờ phượng”, là lập ngôi thờ để tỏ lòng tôn kính thần thánh hay cha mẹ ông bà.
Như: Lập miếu trước nhà để phượng thờ các Đấng Thiêng liêng.
Tầm đường giác, tránh đường mê,
Phượng thờ chi lắm bộn bề tưởng tin.
(Đại Thừa Chơn Giáo).
2.- Phượng thờ còn có nghĩa chăm sóc nuôi dưỡng một cách tôn kính. Như: Phượng thờ cha mẹ lúc tuổi già.
Xem: Phụng thờ.
Phượng thờ cha mẹ vẹn đôi bên,
Rán chuộc gái ngoan bởi nết hiền.
(Đạo Sử).
)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |
Danh mục vần PH
PHA
• Pha
• Pha lê
PHÁ
• Phá
• Phá cổ
• Phá đạo
• Phá hoại
• Phá khuấy
• Phá mê
• Phá noãn
• Phá rối
• Phá tan
• Phá thai
PHÁCH
• Phách
• Phách anh linh
• Phách lối
• Phách quế
PHAI
• Phai
• Phai dạ
• Phai lãng
• Phai lợt
• Phai mòn
PHÁI
• Phái Chiếu Minh
• Phái vàng
• Phái viên
PHẢI
• Phải
• Phải chẳng
• Phải quấy
• Phải trái
PHÀM
• Phàm
• Phàm chất
• Phàm duyên
• Phàm gian
• Phàm giáo
• Phàm ngữ
• Phàm nhãn
• Phàm nhân
• Phàm phẩm
• Phàm phu
• Phàm phu tục tánh
• Phàm tâm
• Phàm tục
• Phàm thế
• Phàm thể
• Phàm thân
• Phàm trần
• Phàm trị
PHẠM
• Phạm
• Phạm ác
• Phạm Công Tắc
• Phạm giới
• Phạm Lãi
• Phạm luật
• Phạm Môn
• Phạm Nghiệp
• Phạm Pháp
• Phạm phủ
• Phạm Tăng
• Phạm tội
• Phạm thượng
• Phạm Trọng Yêm
• Phạm vi
PHAN
• Phan
• Phan quân
• Phan Tiếp Dẫn
• Phan vương
PHÁN
• Phán
• Phán định
• Phán đoán
• Phán quyết
• Phán xét
• Phán xử
PHÀN
• Phàn nàn
PHẢN
• Phản
• Phản bổn huờn nguyên
• Phản đạo
• Phản gián
• Phản hồi
• Phản kháng
• Phản khắc
• Phản loạn
• Phản loạn chơn truyền
• Phản nghịch
• Phản phúc
• Phản tiền vi hậu
• Phản trắc
• Phản ứng
PHANH
• Phanh
PHÁO
• Pháo
PHÁP
• Pháp
• Pháp bửu
• Pháp chánh
• Pháp Chánh Truyền
• Pháp duyên
• Pháp điều
• Pháp gia
• Pháp giới
• Pháp hình
• Pháp hoá tướng tông
• Pháp lý
• Pháp luân
• Pháp luân thường chuyển
• Pháp luật
• Pháp lực
• Pháp môn
• Pháp nghiêm
• Pháp nhiệm
• Pháp siêu quần thánh
• Pháp thân
• Pháp thuật
PHÁT
• Phát
• Phát hạ hồng ân
• Phát hoạ
• Phát huy
• Phát khởi
• Phát lạc
• Phát nguyện
• Phát phối
• Phát tâm
• Phát triển
PHẠT
• Phạt
• Phạt quỳ hương
• Phạt quở
• Phạt vạ
PHĂNG
• Phăng
PHẲNG
• Phẳng lặng
• Phẳng phiu
PHẨM
• Phẩm
• Phẩm cách
• Phẩm cũ
• Phẩm cũ ngôi xưa
• Phẩm cựu
• Phẩm giá
• Phẩm hàm
• Phẩm hạnh
• Phẩm Phật
• Phẩm quyền
• Phẩm tước
• Phẩm Thánh
• Phẩm thiêng liêng
• Phẩm trật
• Phẩm vật
• Phẩm vị
PHÂN
• Phân
• Phân bào
• Phân bì
• Phân biện
• Phân biệt
• Phân chia
• Phân định
• Phân đồng
• Phân giải
• Phân minh
• Phân phát
• Phân phiền
• Phân quyền
• Phân rành
• Phân rẽ
• Phân tánh giáng sanh
• Phân tâm
• Phân tường
• Phân thây
• Phân thân
• Phân trần
• Phân ưu
• Phân vân
• Phân xử
PHẤN
• Phấn
• Phấn chấn
• Phấn chí
• Phấn đại
• Phấn đấu
• Phấn hương
• Phấn khởi
• Phấn lợt hương tàn
• Phấn sáp
• Phấn son
• Phấn tâm
PHẦN
• Phần
• Phần đông
• Phần hương
• Phần lớn
• Phần nhiều
• Phần phước
• Phần thi khanh nho
• Phần thư
• Phần thưởng
PHẨN
• Phẩn
PHẪN
• Phẫn uất
• Phẫn nộ
PHẬN
• Phận
• Phận bạc
• Phận đạo
• Phận liễu
• Phận liễu bồ
• Phận liễu mai
• Phận nga my
• Phận sự
• Phận tiện tỳ
PHẬP
• Phập phồng
PHẤT
• Phất
• Phất chủ
• Phất phơ
• Phất phới
• Phất trần
PHẬT
• Phật
• Phật cốt tiên duyên
• Phật duyên
• Phật dượt kiếp khiên
• Phật đài
• Phật giả vô ngôn
• Phật Giáo
• Phật Giáo Tâm Kinh
• Phật hương
• Phật luật
• Phật Mẫu
• Phật Mẫu Chơn Kinh
• Phật Pháp
• Phật Pháp Tăng
• Phật sắc
• Phật tánh
• Phật tâm
• Phật Tổ
• Phật tông
• Phật tông nguyên lý
• Phật tông vô giáo
• Phật tử
• Phật tự
• Phật tức là lòng
• Phật Trời
• Phật vị
• Phật xứ
PHE
• Phe
• Phe đảng
PHEN
• Phen
PHÈN
• Phèn
PHÉP
• Phép
• Phép công
• Phép chiêu hồn
• Phép giải oan
• Phép huyền công
• Phép huyền hư
• Phép khuôn
• Phép lành
• Phép linh
• Phép hiển linh
• Phép mầu
• Phép nhà
• Phép nhà thiền
• Phép phân thân
• Phép Phật
• Phép sầu than
• Phép tắc
• Phép Tiên Đạo
• Phép tu vi
• Phép thương yêu
• Phép xác
PHÊ
• Phê
• Phê bình
• Phê chuẩn
• Phê nhận
• Phê phán
PHẾ
• Phế
• Phế đời
• Phế đời hành đạo
• Phế huỷ
• Phế phủ
• Phế vị
• Phế vong
PHI
• Phi
• Phi ân
• Phi cầm tẩu thú
• Phi hùng
• Phi lý
• Phi nghĩa
• Phi nhân
• Phi phàm
• Phi pháp
• Phi tướng lễ
• Phi Tưởng Đài
• Phi Tưởng Thiên
• Phi thăng
• Phi thị
• Phi thường
PHỈ
• Phỉ
• Phỉ báng
• Phỉ chí
• Phỉ dạ
• Phỉ nguyền
• Phỉ lòng nguyền
• Phỉ phong
• Phỉ tình
PHIÊN
• Phiên quốc
• Phiên toà
PHIẾN
• Phiến
PHIỀN
• Phiền
• Phiền hà
• Phiền lòng
• Phiền luỵ
• Phiền muộn
• Phiền não
• Phiền phức
• Phiền toái
• Phiền trách
PHIỆT
• Phiệt duyệt
PHIÊU
• Phiêu bạc
• Phiêu bồng
• Phiêu linh
• Phiêu lưu
• Phiêu phi
PHIẾU
• Phiếu mẫu
PHÍM
• Phím
• Phím loan
PHỈNH
• Phỉnh
• Phỉnh phờ
PHO
• Pho
PHÓ
• Phó
• Phó hội
• Phó mặc
• Phó nhậm
• Phó Tổng Giám
• Phó Trị Sự
PHÒ
• Phò
• Phò cơ
• Phò Dư
• Phò hộ
• Phò loan
• Phò Lưu dựng Thục
• Phò Lưu vực Hớn
• Phò nguy
• Phò tá
• Phò trì
PHONG
• Phong
• Phong ba
• Phong cách
• Phong cảnh
• Phong cương
• Phong di tục diệt
• Phong dời tục đổi
• Phong điều võ thuận
• Phong đô
• Phong hoá
• Phong hoà võ thuận
• Phong kiến
• Phong khí ôn hoà
• Phong lưu
• Phong nguyệt
• Phong nhã
• Phong nhuỵ
• Phong phú
• Phong quang
• Phong sắc
• Phong sương
• Phong tặng
• Phong tịch
• Phong tình
• Phong tình huê nguyệt
• Phong tước
• Phong Thánh
• Phong Thần
• Phong thưởng
• Phong trào
• Phong trần
• Phong vân
• Phong võ
PHÓNG
• Phóng
• Phóng sanh
• Phóng tâm
• Phóng túng
• Phóng thích
• Phóng xá cô
PHÒNG
• Phòng
• Phòng bị
• Phòng đào
• Phòng hạnh
• Phòng Hiệp Thiên
• Phòng không
• Phòng khuê
• Phòng loan
• Phòng ngừa
• Phòng tía
• Phòng tiêu
• Phòng the
• Phòng thu
• Phòng trù
• Phòng xưa lánh hớn
PHÔ
• Phô
• Phô bày
• Phô diễn
• Phô trương
PHỐ
• Phố
• Phố phường
PHỔ
• Phổ
• Phổ biến
• Phổ cáo
• Phổ cáo chúng sanh
• Phổ cập
• Phổ chiếu
• Phổ duyên
• Phổ Đà Sơn
• Phổ độ
• Phổ độ chúng sanh
• Phổ giáo
• Phổ Hiền Bồ Tát
• Phổ hoá
• Phổ tế
• Phổ thông
• Phổ truyền
PHÔI
• Phôi pha
• Phôi thai
PHỐI
• Phối ngẫu
• Phối nhứt
• Phối Sư
• Phối Thánh
• Phối Thánh Phạm Văn Màng
PHỔI
• Phổi
PHỒN
• Phồn
• Phồn ba
• Phồn hoa
• Phồn tục
PHƠ
• Phơ phới
PHƠI
• Phơi
• Phơi bày
PHU
• Phu
• Phu nhân
• Phu phỉ
• Phu phụ
• Phu Tử
• Phu thê
• Phu vinh thê ấm
• Phu xướng phụ tuỳ
PHÚ
• Phú
• Phú bần
• Phú cường
• Phú gia
• Phú hậu
• Phú hữu
• Phú hữu tứ hải
• Phú quý
• Phú quý thiên định
• Phú quý vinh hoa
• Phú túc
• Phú thác
PHÙ
• Phù
• Phù ba
• Phù chú
• Phù du
• Phù dung
• Phù Đổng
• Phù hạp
• Phù hoa
• Phù hợp
• Phù linh
• Phù phiếm
• Phù sa
• Phù sanh
• Phù sinh
• Phù thế
• Phù trầm
• Phù vân
PHỦ
• Phủ
• Phủ che
• Phủ dụ
• Phủ phê
• Phủ phục
• Phủ phước
• Phủ quan
• Phủ từ
PHŨ
• Phũ phàng
PHỤ
• Phụ
• Phụ duyên
• Phụ giáo
• Phụ mẫu
• Phụ nữ
• Phụ nghĩa
• Phụ nhân
• Phụ nhân nan hoá
• Phụ nhơn
• Phụ phàng
• Phụ rãy
• Phụ tá
• Phụ tế
• Phụ tình
• Phụ tùng
• Phụ từ tử hiếu
• Phụ tử
• Phụ thân
• Phụ thuộc
• Phụ vong
PHÚC
• Phúc
• Phúc ấm
• Phúc bất trùng lai
• Phúc duyên
• Phúc hạnh
• Phúc hậu
• Phúc lộc
• Phúc như đông hải
• Phúc sự
• Phúc trạch
PHỤC
• Phục
• Phục chức
• Phục Hy
• Phục hoàn
• Phục hồi
• Phục hồi thượng cổ
• Phục huờn
• Phục hưng
• Phục lịnh
• Phục mạng
• Phục nguyên
• Phục nguyên nhân
• Phục quốc
• Phục sinh
• Phục sự
• Phục tùng
• Phục thiện
• Phục vị
• Phục vọng
• Phục vụ
PHUI
• Phui pha
PHỦI
• Phủi
• Phủi nợ
• Phủi tay
• Phủi trần
PHUN
• Phun
PHÚN
• Phún
PHUNG
• Phung phí
PHỤNG
• Phụng
• Phụng đến tìm loan
• Phụng gáy núi kỳ
• Phụng gáy non nam
• Phụng giao chung gối
• Phụng hành
• Phụng lầu
• Phụng lầu gác quyển
• Phụng lãnh
• Phụng liễn
• Phụng loan
• Phụng mạng
• Phụng sự
• Phụng tự
• Phụng thờ
• Phụng thờ Tổ tông
• Phụng thừa
PHUÔNG
• Phuông
PHỨT
• Phứt
PHƯNG
• Phưng phức
PHƯỚC
• Phước
• Phước do lành
• Phước duyên
• Phước địa
• Phước đức
• Phước đức công đức
• Phước hạnh
• Phước hậu
• Phước hoạ
• Phước hồng
• Phước lành
• Phước lộc
• Phước may gặp đạo
• Phước như Đông Hải
• Phước tội
• Phước thần
• Phước Thiện
• Phước trạch
PHƯỢC
• Phược
PHƯỚN
• Phướn
• Phướn chiêu hồn
• Phướn đưa linh
• Phướn phụng
• Phướn tam thanh
• Phướn tiêu diêu
• Phướn tử tôn
• Phướn Thượng Phẩm
• Phướn Thượng Sanh
• Phướn truy hồn
PHƯƠNG
• Phương
• Phương cảo
• Phương châm
• Phương chi
• Phương chước
• Phương danh
• Phương diện
• Phương hướng
• Phương luyện kỷ
• Phương lược
• Phương pháp
• Phương sách
• Phương Sóc
• Phương tiện
• Phương tu Đại Đạo
• Phương thế
• Phương thiên
• Phương trời
• Phương trời góc bể
PHƯỜNG
• Phường
PHƯỞNG
• Phưởng phất
PHƯỢNG
• Phượng
• Phượng đỗ cành ngô
• Phượng hoàng
• Phượng thờ

|